SƠN TRUNG
I.NGƯỜI MỸ GỐC PHI CHÂU
Người Phi Châu bị bắt làm nô lệ ở Mỹ thế mà người Phi Châu vẫn lén lút nhập cư Mỹ.
Người Mỹ gốc Phi - African American - (còn gọi là người Mỹ da đen, hoặc đơn giản là "dân da đen") là thành phần chủng tộc sinh sống ở Hoa Kỳ có tổ tiên từng là thổ dân ở châu Phi nam Sahara,[3][4][5] là thành phần sắc tộc thiểu số lớn thứ hai ở Hoa Kỳ.[6]
Nhiều người Mỹ gốc Phi có trong dòng máu của mình một phần châu Âu, người Mỹ Bản địa (da đỏ), châu Á và châu Mỹ Latin.[7][8]
Thuật ngữ "Người Mỹ gốc Phi" đặc biệt đề cập đến những người có tổ tiên
là dân châu Phi để phân biệt với những người là hậu duệ của dân da
trắng hoặc người Ả Rập ở châu Phi như người Maroc gốc Ả Rập hoặc người da trắng ở Nam Phi.
Tuy nhiên, có những di dân đến từ các quốc gia châu Phi, vùng Ca-ri-bê
và Nam Mỹ thường tự nhận và cũng được gọi là người Mỹ gốc Phi.[5]
Như vậy, thuật ngữ "người Mỹ gốc Phi" được dùng để chỉ những công
dân Mỹ có tổ tiên là người Phi châu. Đa số người Mỹ gốc Phi là hậu duệ
của người dân sinh sống ở Tây và Trung Phi bị bắt làm nô lệ và bị đem đến Bắc Mỹ từ năm 1609 đến 1807, suốt trong thời kỳ buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Những người khác đã đến qua những đợt di dân gần đây từ vùng Caribbean, Nam Mỹ và Phi châu. Nhìn chung, một người da đen, sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ, đang sống ở Hoa Kỳ, thường được xem là một người Mỹ gốc Phi.(WIKIPEDIA)
II. Chủ nghĩa cộng sản nhằm bênh vực người vô sản thì những người khởi đầu phong trào là những nhà tư sản hay con cái tư sản, hay điền chủ.Karl Marx, Engels là con nhà tư bản.
Tại Việt Nam, Nguyễn Tất Thành, Hồ Hữu Tường, Trần Đức Thảo...không con quan lại thì cũng điền chủ hoặc tiểu tư sản, chỉ có đám ăn theo như Đỗ Mười thợ hoạn mới là vô sản.Nhưng nghề hoạn lợn là nghề tự do nên không xem ông là công nhân, là vô sản... Hơn nữa công nhân thì phải có tay nghề cao, làm trong công ty, hãng xưởng tư bản, còn bác Mười thì không có các đặc điểm trên. Nguyễn Tất Thành thì làm nghề sửa ảnh, cũng không phải là công nhân!
Cộng sản đề cao đạo đưc Hồ Chí Minh nhưng vụ Nông Thị Xuân thì lòi ra cái đuôi quỷ dữ, rõ ràng ông ấy không là công nhân tay nghề giỏi và có đạo đức!
Karl Marx sinh ra trong một gia đình gốc Do Thái tại Trier (còn gọi là Trèves) thuộc tỉnh Rhénanie của Vương quốc Phổ. Ông ngoại của Marx là một giáo sĩ rabi Hà Lan, trong khi họ nội của ông đã có nhiều người làm rabi ở Trier kể từ năm 1772. Cha của ông, Heinrich Marx,
hồi nhỏ tên là Herschel Mordechai, là người đầu tiên trong dòng họ tiếp
nhận nền giáo dục thế tục, trở thành một luật sư và có cuộc sống trung
lưu khá giàu có khi gia đình ông làm chủ nhiều vườn nho Moselle. Trước
khi con trai mình ra đời, Herschel đã cải đạo sang Lutheran để thoát khỏi các sức ép của chủ nghĩa bài Do Thái. Tuổi thơ của Marx được tiếp xúc với nhiều học giả, họa sĩ thường xuyên lui tới gia đình ông. Năm 1830,
Karl Marx lên 12 tuổi, ông trở thành học sinh của trường trung học
Trier. Là một học sinh giỏi, ông có sở trường ở những môn học cần có
tính chất độc lập sáng tạo. Ông cũng học tốt môn Toán.[8]
Học vấn
Sau khi tốt nghiệp Trung học Trier vào mùa thu năm 1835, Marx vào Đại học Bonn theo học luật
năm 17 tuổi. Tại đây, ông tham gia nhóm uống rượu Quán Trier và từng là
chủ nhiệm câu lạc bộ; vì thế việc học tập của ông cũng bị ảnh hưởng.
Marx quan tâm đến nghiên cứu triết học và văn học, nhưng cha không cho phép điều đó vì không tin rằng Marx sẽ sống sung túc trong tương lai nếu làm một học giả.
Những năm tiếp theo, cha của Marx buộc ông chuyển sang Đại học Friedrich-Wilhelms ở Berlin. Khi đó, Marx viết nhiều thơ và tiểu luận liên quan đến cuộc sống, sử dụng ngôn ngữ triết học
nhận được từ người cha thần luận tự do của mình, chẳng hạn tác phẩm
"Thượng đế". Trong suốt giai đoạn này, ông tiếp thu triết học vô thần của những người Hegel cánh tả (hay Hegel trẻ). Marx đạt học vị Tiến sĩ năm 1841 với luận án mang tiêu đề: "Sự khác biệt giữa triết học tự nhiên của Epicurus với triết học tự nhiên của Democritus".
Marx và những người Hegel trẻ
Ở Berlin, Marx chủ yếu quan tâm đến triết học. Ông tham gia một nhóm sinh viên và giáo sư trẻ gọi là những "người Hegel trẻ". Đối với nhiều người trong số họ, phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, mặc dù chỉ với nội dung lý thuyết, đã cung cấp một vũ khí mạnh mẽ cho việc phê bình nền chính trị và tôn giáo lúc đó. Một số thành viên đã thấy sự tương tự giữa triết học Aristote và triết học Hegel. Một người Hegel trẻ khác, Max Stirner, đã áp dụng sự phê bình Hegel và cho rằng những người theo chủ thuyết vô thần thật sự là những người "ngoan đạo" (trong cuốn Der Einzige und sein Eigenthum).
Quan điểm của ông không được đồng tình bởi hầu hết các đồng sự; nhưng
dù sao, cuốn sách của Stirner là lý do chính để Marx từ bỏ quan điểm của
Ludwig Andreas Feuerbach để phát triển các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Một trong những giáo sư của Marx là Nam tước Westphalen, cha của Jenny von Westphalen, vợ của Marx sau này.
Marx tại Paris và Brussels
Vì những điều kiện kiểm duyệt tại Phổ, Marx rút khỏi ban biên tập của tờ Rheinische Zeitung, và dự định xuất bản, cùng với Arnold Ruge, một nhà cách mạng Đức khác, Deutsch-Französische Jahrbücher,[9] (Biên niên sử Đức-Pháp) với trụ sở tại Paris,
và tới đây vào cuối tháng 10 năm 1843. Paris ở thời điểm đó là nơi ở và
hoạt động của nhiều nhà cách mạng Đức, Anh, Ba Lan và Italia. Ở Paris,
ngày 28 tháng 8 năm 1844, tại Café de la Régence ở Place du Palais ông gặp Friedrich Engels,
người sẽ trở thành người bạn và đồng sự quan trọng nhất trong cả cuộc
đời ông. Engels mới chỉ gặp Marx một lần trước đó (và ngắn ngủi) tại văn
phòng của Rheinische Zeitung năm 1842;[10] ông tới Paris để giới thiệu với Marx cuốn sách mới xuất bản của mình, Điều kiện của giai cấp lao động tại Anh Quốc năm 1844.[11] Cuốn sách này đã thuyết phục Marx rằng giai cấp lao động sẽ là tác nhân và công cụ của cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử.
Sau khi Deutsch-Französische Jahrbücher thất bại, Marx, sống tại rue Vaneau, đã viết cho tờ báo cực đoan nhất trong mọi tờ báo Đức tại Paris, và cả ở châu Âu, Vorwärts, được thành lập và điều hành bởi một hội kín tên là Liên hiệp của sự Công bằng. Khi không viết, Marx nghiên cứu lịch sử Cách mạng Pháp và đọc Proudhon.[12] Ông cũng bỏ nhiều thời gian nghiên cứu một khía cạnh của cuộc sống mà ông chưa từng tìm hiểu trước đó: một tầng lớp vô sản lớn ở thành thị.
“ [Cho tới nay chỉ xuất hiện chủ yếu tại các khu vực đại học...] Sự tán thành bất ngờ của Marx với lý tưởng vô sản có thể được quy trực tiếp (có thể sự tán thành đó của các nhân vật cộng sản Đức thời kỳ đầu như Weitling[13]) cho những cuộc tiếp xúc đầu tiên với những trí thức [và sách vở] xã hội tại Pháp.[14] ”
Marx đã đánh giá lại mối quan hệ của mình với Những người Hegel trẻ, và trong hình thức một bức thư trả lời về chủ nghĩa vô thần của Bauer viết Về vấn đề Do Thái. Tiểu luận này chủ yếu gồm một sự phê bình các ý tưởng hiện thời về các quyền dân sự và nhân quyền và giải phóng con người; nó cũng bao gồm nhiều luận điểm chỉ trích đạo Do Thái và cả Thiên chúa giáo từ quan điểm giải phóng xã hội. Engels, một người cộng sản nhiệt thành, đã khơi dậy sự quan tâm của Marx với tình hình của giai cấp lao động và hướng sự chú ý của Marx vào kinh tế. Marx trở thành một người cộng sản và đã đặt ra các quan điểm của mình trong một loạt các bài viết được gọi là Các bản thảo kinh tế và triết học năm 1844, không được xuất bản cho tới tận thập niên 1930s. Trong Bản thảo, Marx vạch ra một quan niệm nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản, bị ảnh hưởng bởi triết lý của Ludwig Feuerbach
và dựa trên sự đối lập giữa bản chất xa lạ của lao động dưới chủ nghĩa
tư bản và một xã hội cộng sản trong đó con người được tự do phát triển
bản chất của mình trong sản xuất tập thể.
Tháng 1 năm 1845, sau khi Vorwärts thể hiện sự ủng hộ nhiệt thành của mình với nỗ lực ám sát vua nước Phổ là Frederick William IV, chính quyền Pháp ra lệnh cho Marx, cùng nhiều người khác, rời Paris. Ông và Engels chuyển sang Brussels Bỉ.
Marx chú tâm nghiên cứu kỹ lịch sử, và cùng với Engels đưa ra ý tưởng chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt trong một bản thảo (được xuất bản sau khi ông mất với tên gọi Hệ tư tưởng Đức), phát biểu luận cương căn bản của nó rằng "bản chất của các cá nhân phụ thuộc vào các điều kiện vật chất quyết định sức sản xuất của họ".
Marx đã lần theo lịch sử nhiều mô hình sản xuất và phán đoán sự sụp đổ
của mô hình sản xuất khi đó - chủ nghĩa tư bản công nghiệp – và sự thay
thế nó bằng chủ nghĩa cộng sản. Đây là tác phẩm lớn đầu tiên mà các học
giả coi là giai đoạn sau của ông, từ bỏ chủ nghĩa nhân đạo bị ảnh hưởng
bởi Feuerbach trong các tác phẩm thời kỳ đầu.
Sau đó, Marx viết Sự khốn cùng của triết học (1847), nó đáp lại cho Triết học của sự khốn cùng của Pierre-Joseph Proudhon,
một người ủng hộ chủ nghĩa xã hội vô chính phủ Pháp và là một nhà phê
bình tư tưởng xã hội Pháp. Các tác phẩm này đặt ra nền tảng cho tác phẩm
nổi tiếng nhất của Marx và Engels, Tuyên ngôn Cộng sản, được xuất bản lần đầu ngày 21 tháng 2 năm 1848 như bản tuyên ngôn của Liên đoàn Cộng sản,
một nhóm nhỏ những người Cộng sản châu Âu chịu ảnh hưởng của Marx và
Engels. Cuối năm ấy, châu Âu xuất hiện một loạt các cuộc phản kháng, nổi
dậy và bất ổn bạo lực được gọi là Các cuộc cách mạng năm 1848. Chính quyền Bỉ trục xuất Marx khỏi nước này.[15]
Tháng 2 năm 1848 một phong trào cấp tiến chiếm quyền lực của Vua Louis-Philippe tại Pháp và mời Marx quay trở lại Paris, nơi ông chứng kiến cuộc Nổi dậy cách mạng những ngày tháng 6. Khi chính quyền này sụp đổ năm 1849, Marx quay trở lại Cologne và tuyên bố Neue Rheinische Zeitung
("New Rhenish Newspaper"). Trong thời gian tồn tại của nó ông hai lần
bị đưa ra xét xử, ngày 7 tháng 2 năm 1849 bởi một lỗi nhỏ của báo chí,
và vào ngày 8 với tội danh xúi giục nổi dậy vũ trang. Cả hai lần ông đều
được trắng án. Tờ báo nhanh chóng bị đàn áp và Marx quay trở lại Paris,
nhưng lại bị trục xuất. Lần này ông sang tị nạn tại London.
Sống tại London
Marx chuyển tới London
tháng 5 năm 1849 và ở lại đó trong phần còn lại của cuộc đời. Trong vài
năm đầu ông và gia đình sống rất nghèo khổ. Ông làm việc một thời gian
ngắn như một cộng tác viên cho tờ New York Tribune năm 1851.[16]
Ông xin nhập quốc tịch Anh nhưng bị chính quyền sở tại bác bỏ vì coi
ông là "một người Đức chuyên xúi bẩy", và vận động cho tư tưởng cộng sản
nên "khó có thể thành kẻ trung thành với Nhà Vua", và không có thu
nhập. Gia đình ông phải sống dựa vào tiền trợ cấp từ Friedrich Engels. Marx cũng đã từ bỏ quốc tịch Phổ và không được chính phủ Phổ cho tái nhập tịch.[17]
Tại London Marx chú tâm vào hai hoạt động: tổ chức cách mạng, và cố gắng tìm hiểu kinh tế chính trị và chủ nghĩa tư bản.
Ông đã đọc nghiên cứu của Engels về giai cấp lao động. Trong thời gian
này, Marx tạm ngừng nghiên cứu triết học và hoạt động cho Quốc tế cộng sản I.
Ông được bầu vào Tổng Hội đồng của tổ chức này tại kỳ họp đầu tiên của
nó năm 1864. Ông hoạt động đặc biệt tích cực để chuẩn bị cho các Đại hội
hàng năm của Quốc tế cộng sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại phe vô chính phủ của Mikhail Bakunin
(1814–1876). Dù Marx chiến thắng trong cuộc đấu tranh này, việc chuyển
trụ sở của Tổng Hội đồng từ London sang New York năm 1872, được Marx ủng
hộ, khiến Quốc tế cộng sản suy tàn. Sự kiện chính trị quan trọng nhất
trong thời gian tồn tại của Quốc tế cộng sản là Công xã Paris năm 1871
khi các công dân Paris nổi dậy chống chính phủ và chiếm giữ thành phố
trong hai tháng. Về cuộc đàn áp đẫm máu với cuộc nổi dậy này, Marx đã
viết một trong những cuốn sách nhỏ nổi tiếng nhất của ông, Cuộc nội chiến ở Pháp, với lập trường bảo vệ Công xã.
Với những thất bại và tan rã liên tục của các cuộc cách mạng và
phong trào công nhân, Marx cũng tìm cách tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, và
giành rất nhiều thời gian trong Thư viện Anh nghiên cứu và phê bình các tác phẩm của các nhà kinh tế chính trị và dữ liệu kinh tế. Tới năm 1857 ông đã có hơn 800 trang ghi chú và tiểu luận ngắn về tư bản, đất đai,
lương lao động, nhà nước, thương mại nước ngoài và thị trường thế giới,
mãi tới năm 1941 tác phẩm này mới được xuất bản, dưới tựa đề Grundrisse. Năm 1859, Marx xuất bản Đóng góp vào phê bình kinh tế chính trị, tác phẩm kinh tế nghiêm túc đầu tiên của ông. Đầu những năm 1860 ông làm việc để soạn ra ba tập lớn, Các lý thuyết giá trị thặng dư, bàn về các nhà lý thuyết kinh tế chính trị, đặc biệt là Adam Smith và David Ricardo. Tác phẩm này được xuất bản sau khi ông mất với sự biên tập của Karl Kautsky và thường được coi là tập thứ tư của cuốn Tư bản, và tạo nên một trong những chuyên luận đầy đủ đầu tiên về lịch sử tư tưởng kinh tế. Năm 1867, khá lâu sau dự định, tập đầu của Tư bản được ấn hành, một tác phẩm phân tích các quá trình sản xuất tư bản. Trong tác phẩm này, Marx trình bày chi tiết lý thuyết giá trị lao động của mình và ý tưởng về giá trị thặng dư và bóc lột
mà ông cho là sẽ chắc chắn dẫn tới sự sụt giảm trong tỷ lệ lợi nhuận và
sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản công nghiệp. Các Tập II và III vẫn chỉ ở
dạng bản thảo và Marx tiếp tục làm việc với chúng trong suốt cả cuộc
đời và chỉ được Engels xuất bản sau khi ông mất.
Trong thập kỷ cuối cùng của cuộc đời mình, sức khoẻ của Marx suy
sụp và ông không còn khả năng duy trì nỗ lực hoàn thành các tác phẩm
quan trọng của ông. Ông đã cố gắng tìm cách bình luận về căn bản chính
trị đương thời, đặc biệt là chính trị tại Đức và Nga. Cuốn Phê phán cương lĩnh Gotha của ông phản đối khuynh hướng của những người theo ông là Wilhelm Liebknecht (1826–1900) và August Bebel (1840–1913) để thích ứng với chủ nghĩa tư bản nhà nước của Ferdinand Lassalle
về lợi tức trong một đảng xã hội thống nhất. Năm 1880, vợ ông là Jenny
von Westphalen-Marx chết vì ung thư gan. Năm 1883, Marx qua đời vì bệnh
viêm phổi được chôn cất ở khu cho người vô thần trong nghĩa địa
Highgate, London[17].
Con cái
Karl Marx và Jenny Marx đã có bảy người con sau, liệt kê theo thứ tự:
- Jenny Caroline (1 tháng 5 năm 1844 - 11 tháng 1 năm 1883). Kết hôn với Charles Longuet năm 1872. Bà là một nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa. Bà đã viết cho báo chí xã hội chủ nghĩa ở Pháp trong những năm 1860, chủ yếu là việc vạch trần tội ác của chính phủ Anh trong cách mạng Fenian ở Ai-len. Bà chết vì ung thư bàng quang, độ tuổi 38.
- Jenny Laura (26 tháng 9 năm 1845 -26 tháng 11 năm 1911), sinh ra tại Brussels, Bỉ. Kết hôn với Paul Lafargue năm 1868. Bà là một nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa. Laura và chồng bà đã có hàng chục năm hoạt động chính trị với nhau, dịch các tác phẩm của Marx sang tiếng Pháp và truyền bá chủ nghĩa Mác ở Pháp và Tây Ban Nha. Bà tự tử cùng chồng năm 1911, lúc 66 tuổi.
- Louis Charles Henri Edgar (ngày 03 tháng 2 năm 1847 tại Brussels - 6 Mai 1855), "Mush" với gia đình và bạn bè, đặt tên theo chú Edgar, em trai của Jenny von Westphalen. Mất năm 8 tuổi.
- Henry Edward Guy ("Guido", Henry Edward Guy, sinh 5 tháng 9 năm 1849 tại London, mất 19 tháng 11 năm 1850, London, Anh).
- Jenny Eveline Frances ("Franziska", 28 tháng 3 năm 1851 - 14 tháng 4 năm 1852)
- Jenny Julia Eleanor (16 tháng 1 năm 1855 - ngày 31 tháng 3 năm 1898), sinh tại London. Bà là một nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa. Bà tự tử ở tuổi 43 bằng cách uống axit prussic, sau khi phát hiện ra rằng người tình lâu năm của mình, Edward Aveling, đã bí mật kết hôn với một nữ diễn viên trẻ tên là Eva Frye vào tháng 6 năm 1897.
- Một đứa trẻ chưa được đặt tên, sinh ra và qua đời ngày 06 tháng 7 năm 1857 tại London.
Tư tưởng của Marx
Friedrich Engels có ghi nhận trong "Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức":
- "Từ sự tan rã của trường phái Hegel cũng còn nảy ra một khuynh hướng khác, khuynh hướng duy nhất thực sự đem lại kết quả - khuynh hướng này gắn liền với tên tuổi của Marx... Ở đây, xin cho phép tôi trình bày một giải thích có liên quan đến cá nhân tôi... đại bộ phận các tư tưởng chỉ đạo cơ bản, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế và lịch sử, và đặc biệt là trong việc trình bày các tư tưởng ấy thành những công thức chặt chẽ cuối cùng, thì đó là phần của Marx. Phần đóng góp của tôi - nhiều lắm là trừ một vài ngành chuyên môn - Marx vẫn có thể làm được mà không cần có tôi. Nhưng điều mà Marx đã làm thì tôi không thể làm được. Marx hơn tất cả chúng tôi, nhìn xa hơn, rộng hơn và nhanh hơn tất cả chúng tôi. Marx là một thiên tài... Nếu không có Marx, thì lý luận thật khó mà được như ngày nay, vì vậy gọi lý luận đó bằng tên của Marx là điều chính đáng".[18]
Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa Marx đã đương đầu với nhiều đợt công kích từ những tư tưởng khác.[19] Nhà học giả về Marx người Mỹ Hal Draper từng lưu ý, "có
ít nhà tư tưởng trong lịch sử hiện đại có tư tưởng bị hiểu nhầm tai hại
như vậy, bởi những người Marxist và cả những người chống Marxist."
Di sản tư tưởng của Marx đã bị tranh cãi dữ dội giữa nhiều khuynh hướng
và mỗi bên đều coi mình là người giải thích chính xác nhất về Marx, gồm
cả (nhưng không hạn chế bởi) Chủ nghĩa Lenin, Chủ nghĩa Trotsky, Chủ nghĩa Mao, Chủ nghĩa Luxemburg, và Chủ nghĩa Marx tự do.
Những ảnh hưởng trên tư tưởng của Marx
Tư tưởng của Marx thể hiện những ảnh hưởng mạnh từ:
- Phương pháp biện chứng và khuynh hướng lịch sử của Hegel;
- Kinh tế chính trị cổ điển của Adam Smith và David Ricardo;
- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và xã hội Pháp, đặc biệt là tư tưởng của Jean-Jacques Rousseau, Henri de Saint-Simon và Charles Fourier;
- Chủ nghĩa duy vật triết học Đức thời kỳ đầu, đặc biệt là của Ludwig Feuerbach
- Sự đoàn kết với tầng lớp lao động của Friedrich Engels
Quan điểm của Marx về lịch sử, sẽ được gọi là chủ nghĩa duy vật lịch sử (bị sửa đổi theo cách gây tranh cãi như triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng
bởi Engels và Lenin) rõ ràng cho thấy ảnh hưởng của khẳng định của
Hegel rằng một người phải quan sát thực tế (và lịch sử) theo cách biện chứng.
Hegel tin rằng lịch sử loài người có đặc trưng bởi sự di chuyển từ sự
tan rã tới tổng thể và thực tế (cũng là sự di chuyển theo hướng ngày
càng hợp lý hơn). Sự phát triển tiến hoá này của sự Tuyệt đối
(the Absolute) liên quan tới sự tích tụ dần dần mang tính cách mạng lên
tới đỉnh điểm là sự nhảy vọt cách mạng—những sự bất ổn theo tính chu kỳ
chống lại tình trạng nguyên trạng
đang hiện hữu. Ví dụ, Hegel phản đối mạnh mẽ chế độ nô lệ ở Hoa Kỳ
trong thời gian cuộc đời mình, và ông đã dự báo một thời điểm khi các
quốc gia Thiên chúa giáo sẽ loại bỏ nó khỏi nền văn minh của mình.
Sự chỉ trích của Marx với chủ nghĩa duy tâm triết học Đức, kinh tế chính trị Anh, và chủ nghĩa xã hội Pháp dựa chủ yếu vào sự ảnh hưởng của Feuerbach và Engels. Hegel đã suy nghĩ trong các khái niệm duy tâm, và Marx tìm cách viết lại các biện chứng theo các khái niệm duy vật.
Ông viết rằng chủ nghĩa Hegel đặt sự vận động của thực tế trên đầu, và
rằng mọi người cần phải đặt nó dưới chân. Sự chất nhận của Marx với khái
niệm biện chứng duy vật này phản đối lại chủ nghĩa duy tâm của Hegel bị ảnh hưởng nhiều từ Ludwig Feuerbach. Trong Bản chất của Thiên chúa giáo, Feuerbach cho rằng Chúa thực tế là một sản phẩm của con người và rằng các tính chất mà loài người gán cho Chúa thực tế là các tính chất của loài người.
Vì thế, Marx cho rằng chính thế giới vật chất là thực và rằng các tư
tưởng của chúng ta là hậu quả của nó, chứ không phải là nguyên nhân của
thế giới. Vì thế, như Hegel và các nhà triết học khác, Marx phân biệt
giữa vẻ ngoài và thực tế. Nhưng ông không tin rằng thế giới vật chất ẩn
giấu khỏi chúng ta thế giới "thực" của lý tưởng; trái lại, ông nghĩ rằng
về mặt lịch sử và xã hội ý tưởng riêng biệt khiến con người không thấy
được các điều kiện vật chất của cuộc đời họ một cách rõ ràng.
Cống hiến quan trọng khác của Marx cho việc sửa đổi lại chủ nghĩa Hegel có trong cuốn sách của Engel, Điều kiện của Tầng lớp Lao động tại Anh năm 1844, khiến Marx hình thành biện chứng lịch sử theo những khái niệm xung đột giai cấp và xem giai cấp lao động hiện đại là lực lượng tiến bộ nhất của cách mạng. Bài viết của Engel "Đề cương Kinh tế Chính trị" trong Deutsch-Französische Jahrbücher cũng có ảnh hưởng lớn khiến ông nghiên cứu hoạt động của nền kinh tế tư bản.
Marx tin rằng ông có thể nghiên cứu lịch sử và xã hội
một cách khoa học và phân biệt các khuynh hướng của lịch sử và kết quả
của những cuộc xung đột xã hội. Một số người theo Marx, vì thế, đã kết
luận, rằng một cuộc cách mạng cộng sản là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, Marx đã xác nhận một cách nổi tiếng trong phần mười một của cuốn Theses on Feuerbach
của mình rằng "các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới, theo nhiều
cách; tuy nhiên việc thiết yếu là thay đổi nó", và ông rõ ràng đã dành
cả đời mình để tìm cách làm thay đổi thế giới. Vì thế, hầu hết những
người theo Marx không tán thành thuyết định mệnh, mà là chủ nghĩa tích cực: họ tin rằng những cuộc cách mạng phải tổ chức thay đổi xã hội.
Triết học
Một cách nền tảng, Marx cho rằng bản chất loài người liên quan tới việc cải tạo tự nhiên. Với quá trình cải tạo này ông đặt ra thuật ngữ "lao động", và với khả năng cải tạo tự nhiên là thuật ngữ "sức lao động." Marx phát biểu:
“ Một con nhện tiến hành các công việc giống với công việc của một thợ dệt, và một con ong hơn hẳn một kiến trúc sư khi xây dựng những chiếc tổ của nó. Nhưng điều khiến người kiến trúc sư tồi nhất khác biệt với những con ong tài năng nhất là điều này, rằng người kiến trúc sư đã tưởng tượng ra công trình của mình trước khi anh ta xây dựng nó trên thực tế. ”
— (Tư bản, Quyển I, Chương 7, Pt. 1)
Sự phân tích lịch sử của Marx tập trung vào việc tổ chức lao động và phụ thuộc vào sự phân biệt của ông giữa:
- Phương tiện / lực sản xuất, theo nghĩa đen những thứ (như đất đai, các nguồn tài nguyên, và công nghệ) cần thiết cho việc sản xuất hàng hoá vật chất; và
- Quan hệ sản xuất, nói theo cách khác, quan hệ xã hội mà con người tham gia vào khi họ thu thập và sử dụng phương tiện sản xuất.
Cùng với nhau chúng tạo ra phương thức sản xuất,
và Marx phân biệt các thời kỳ lịch sử theo các phương thức sản xuất. Ví
dụ, ông quan sát thấy rằng các xã hội châu Âu đã tiến bộ từ một phương
thức sản xuất phong kiến tới một phương thức sản xuất tư bản.
Marx tin rằng dưới chế độ tư bản, các phương tiện sản xuất thay đổi
nhanh hơn các quan hệ sản xuất (ví dụ, chúng ta phát triển một công nghệ mới, như Internet,
và sau đó chúng ta mới phát triển các điều luật quản lý công nghệ đó).
Marx coi sự không đối xứng này giữa (kinh tế) nền móng và (xã hội) siêu cấu trúc như nguồn lực chính cho sự xung đột và phá vỡ xã hội.
Như một nhà khoa học và người theo chủ nghĩa duy vật, Marx không hiểu các tầng lớp chỉ như chủ quan
(nói cách khác, các nhóm người có ý thức phân biệt mình với người
khác). Ông tìm cách định nghĩa các tầng lớp theo các thuật ngữ của tiêu
chí khách quan, như khả năng tiếp cận của họ với các nguồn tài nguyên—có nghĩa là, liệu một nhóm có sở hữu hay không phương tiện sản xuất. Với Marx:
“ Lịch sử của mọi xã hội tồn tại cho tới nay là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp. ”
— (Tuyên ngôn Cộng sản, Chương 1)
Marx có một lo ngại đặc biệt với việc làm sao con người liên quan tới
nguồn tài nguyên có tính nền tảng nhất, sức lao động của chính họ. Ông
đã viết nhiều về điều này trong các thuật ngữ về vấn đề của sự chuyển nhượng.
Như với biện chứng, Marx bắt đầu với một khái niệm của Hegel về sự
chuyển nhượng nhưng đã phát triển một khái niệm duy vật hơn. Chủ nghĩa
tư bản dàn xếp các quan hệ sản xuất (như giữa những người thợ hay giữa
những người thợ và các nhà tư bản) thông qua hàng hoá, gồm cả lao động,
được đưa ra và bán trên thị trường. Với Marx, khả năng rằng một người có
thể ngừng việc sở hữu sức lao động của chính mình—khả năng của một
người trong việc cải tạo thế giới—là ngang với việc bị chuyển nhượng
khỏi bản tính tự nhiên của chính mình; đó là một sự mất mát về tinh
thần. Marx đã miêu tả sự mất mát này là sự sùng bái thương mại,
trong đó những thứ con người tạo ra, hàng hoá, dường như có đời sống và
sự di chuyển của chính nó và con người và cách hành xử của họ chỉ đơn
giản đáp ứng.
Sự sùng bái thương mại cung cấp một ví dụ cho cái mà Engels gọi là "sai lầm ý thức", liên quan chặt chẽ tới việc hiểu ý thức hệ.
Bằng "ý thức hệ", Marx và Engels cho rằng các ý tưởng phản ánh các
quyền lợi của một tầng lớp xã hội riêng biệt ở một thời điểm trong lịch
sử, nhưng những người cùng thời với các ông coi nó như là vấn đề chung
và vĩnh cửu. Quan điểm của Marx và Engels không chỉ cho rằng những niểm
tin như vậy ở trạng thái tốt nhất cũng chỉ là nửa sự thật; chúng hoạt
động như một chức năng chính trị quan trọng. Theo một cách khác, việc
kiểm soát mà một tầng lớp thực hiện với phương tiện sản xuất gồm không
chỉ việc sản xuất lương thực hay hàng hoá chế tạo; nó gồm cả sản xuất ý
tưởng (điều này cung cấp một khả năng giải thích tại sao các thành viên
của một tầng lớp phụ thuộc có thể giữ các ý tưởng trái ngược với các
quyền lợi của chính họ. Vì thế, tuy các ý tưởng đó là sai lầm, chúng
cũng hé lộ dưới hình thức quy tắc một số sự thật về các quan hệ chính
trị. Ví dụ, dù niềm tin rằng các đồ vật con người tạo ra thực tế có khả
năng sản xuất cao hơn chính người tạo ra nó theo nghĩa đen là điều vô
lý, nó quả thực phản ánh (theo Marx và Engels) rằng con người ở chủ
nghĩa tư bản bị tách khỏi chính khả năng lao động của mình. Một ví dụ
khác về kiểu phân tích này là sự hiểu biết của Marx về tôn giáo, đã được
tổng kết trong một đoạn ở lời nói đầu[20] tác phẩm năm 1843 của ông Đóng góp vào Chỉ trích Triết học cánh Hữu của Hegel:
“ Đau đớn tôn giáo là, ở một và cùng thời điểm, sự thể hiện sự đau đớn thực và một sự phản kháng chống lại đau đớn thực. Tôn giáo là tiếng thở dài của loài người bị đàn áp, trái tim của một thế giới không trái tim, và linh hồn của những điều kiện vô hồn. Nó là thuốc phiện của nhân dân. ”
— (Đóng góp vào Chỉ trích Triết học cánh Hữu của Hegel)
Trong khi luận cương cao học Gymnasium
cho rằng tôn giáo có mục tiêu xã hội hàng đầu là khuyến khích sự đoàn
kết, ở đây Marx xem xét chức năng xã hội của tôn giáo theo các quan điểm
chính trị và kinh tế nổi bật/bảo tồn tương đương. Hơn nữa, ông đưa ra
một phân tích về các chức năng lý tưởng của tôn giáo: để phát lộ "một sự ý thức đảo ngược của thế giới." Ông tiếp: "Nó trực tiếp là nhiệm vụ của triết học, mà trong khi phục vụ cho lịch sử, để bộc lộ sự tự ghẻ lạnh trong các hình thức phi thần thánh của nó, một lần nữa tôn giáo, hình thức thần thánh
của sự tự ghẻ lạnh của con người đã bị bộc lộ". Với Marx, sự tự ghẻ
lạnh phi thần thánh này, "sự mất mát của con người", hoàn thành một khi
giai cấp vô sản nhận ra khả năng tiềm tàng của họ trong việc đoàn kết
trong sự đoàn kết cách mạng. Kết luận cuối cùng của ông là rằng với Đức,
sự giảm phóng con người nói chung chỉ có thể như một sự ngừng sở hữu tư
nhân bởi giai cấp vô sản.
Kinh tế chính trị
Marx cho rằng sự liên kết của công việc của con người (và commodity fetishism) hoạt động chính xác như đặc điểm định nghĩa của chủ nghĩa tư bản. Trước chủ nghĩa tư bản, các thị trưởng tồn tại ở châu Âu nơi những nhà sản xuất và các nhà buôn mua và bán hàng hoá. Theo Marx, một phương thức sản xuất tư bản
đã phát triển ở châu Âu khi chính lao động trở thành một hàng hoá - khi
những người nông dân được tự do bán sức lao động của chính mình - khả
năng, và cần phải làm như vậy bởi họ không còn sở hữu đất đai của mình
nữa. Mọi người bán sức lao động của mình - khả năng khi họ chấp nhận sự
thanh toán trở lại cho bất cứ công việc nào họ làm trong một đơn vị thời
gian cho trước (nói cách khác, họ không bán sản phẩm của lao động của
mình, mà bán khả năng làm việc). Để đổi lại việc bán lao động - khả năng
họ nhận được tiền, cho phép họ tồn tại. Những người phải bán sức lao
động - khả năng của mình là "những người vô sản". Người mua sức lao động khả năng, nói chung là người sở hữu đất đai và công nghệ để sản xuất, là một "nhà tư bản" hay "tư sản". Những người vô sản do vậy sẽ chiếm đa số so với những nhà tư bản.
Marx phân biệt các nhà tư bản công nghiệp khỏi các nhà buôn tư bản. Các nhà buôn mua hàng hoá tại một thị trường và bán chúng tại một thị trường khác. Vì các quy luật cung cầu
hoạt động bên trong các thị trường đó, một sự khác biệt thường tồn tại
giữa giá của một mặt hàng tại một thị trường này và một thị trường khác.
Sau đó, các nhà buôn thực hiện việc buôn bán,
và hy vọng có được sự khác biệt giữa hai thị trường đó. Theo Marx, các
nhà tư bản, ở mặt khác, lợi dụng ưu thế của sự khác biệt giữa thị trường
lao động và thị trường cho bất kỳ mặt hàng nào nhà tư bản có thể sản
xuất. Marx quan sát thấy rằng trên thực tế mọi ngành công nghiệp thành
công đều có các đơn giá đầu vào thấp hơn đơn giá đầu ra. Marx gọi sự
khác biệt đó là "giá trị thặng dư" và cho rằng giá trị này có nguồn gốc từ thặng dư lao động, sự khác biệt giữa cái người công nhân phải có để sống và cái họ có thể tạo ra.
Chủ nghĩa tư bản có thể tạo ra sự tăng trưởng cao bởi nhà tư bản
có thể, và có ý muốn, tái đầu tư lợi nhuận vào các công nghệ và thiết bị tư bản
mới. Marx coi tầng lớp tư bản là tầng lớp cách mạng nhất trong lịch sử,
bởi họ thưởng xuyên cải tiến công cụ sản xuất. Nhưng Marx cho rằng chủ
nghĩa tư bản có khuynh hướng khủng hoảng theo định kỳ.
Ông cho rằng cùng với thời gian, những nhà tư bản sẽ đầu tư ngày càng
nhiều vào các kỹ thuật mới, và ngày càng ít hơn vào lao động. Bởi Marx
tin rằng giá trị thặng dư bị chiếm đoạt từ lao động là nguồn gốc của lợi
nhuận, ông kết luận rằng tỷ suất lợi nhuận phải giảm thậm chí khi nền
kinh tế tăng trưởng. Khi tỷ suất lợi nhuận giảm dưới một mức nào đó, kết
quả sẽ là một sự giảm phát hay khủng hoảng trong đó một số lĩnh vực của
nền kinh tế sẽ sụp đổ. Marx cho rằng trong một cuộc khủng hoảng kinh tế
như vậy giá lao động cũng sẽ sụt giảm, và cuối cùng khiến không thể đầu
tư vào các kỹ thuật mới và sự tăng trưởng của các lĩnh vực của nền kinh
tế.
Marx tin rằng sự gia tăng mức độ nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng sẽ xé rách chu kỳ tăng trưởng, sụp đổ, và tăng trưởng tiếp này. Hơn nữa, ông tin rằng về dài hạn quá trình này sẽ tăng cao và làm tăng cường sức mạnh
cho tầng lớp tư bản và làm khốn khó tầng lớp vô sản. Ông tin rằng nếu
tầng lớp vô sản nắm được phương tiện sản xuất, họ sẽ khuyến khích các
quan hệ xã hội để mọi người đều được có lợi ích một cách công bằng, và
một hệ thống sản xuất ít bị ảnh hưởng hơn bởi các cuộc khủng hoảng định
kỳ. Ông đặt ra lý thuyết rằng giữa chủ nghĩa tư bản và việc thành lập
một hệ thống xã hội chủ nghĩa, có một sự chuyên chính của tầng lớp tư
sản - một giai đoạn khi tầng lớp lao động giữ quyền lực chính trị và bắt
buộc xã hội hoá các phương tiện sản xuất - tồn tại. Và ông đã viết
trong cuốn "Phê phán cương lĩnh Gotha" của mình, "giữa
xã hội tư bản và cộng sản có một giai đoạn chuyển tiếp cách mạng từ xã
hội này tới xã hội kia. Tương ứng với nó cũng là một giai đoạn chuyển
tiếp chính trị trong đó nhà nước có thể không là gì mà chỉ là sự chuyên
chính cách mạng của tầng lớp vô sản."[21]
Tuy ông cho phép khả năng chuyển tiếp hoà bình ở một số quốc gia có các
thể chế dân chủ mạnh (như Anh Quốc, Hoa Kỳ và Hà Lan), ông cho rằng ở
các quốc gia khác với các truyền thống nhà nước tập trung mạnh, như
Pháp, Đức, "đòn bẩy cuộc cách mạng của chúng ta phải là bạo lực."[22]
Trong một bức thư gửi Vera Zasulich
ngày 8 tháng 3 năm 1881, Marx thậm chí dự tính về khả năng nước Nga bỏ
qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản
trên cơ sở sở hữu chung về ruộng đất của làng mir.[23] Tuy chấp nhận rằng ở nông thôn Nga "làng xã là điểm tựa của sự cải tạo xã hội ở Nga ", Marx cũng cảnh báo rằng để mir
hoạt động như một phương tiện để đi thẳng lên giai đoạn xã hội chủ
nghĩa bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, nó "đầu tiên phải loại bỏ các
ảnh hưởng độc hại đang tấn công nó (làng xã nông thôn) từ mọi phía".[24]
Với điều kiện loại bỏ các ảnh hưởng nguy hiểm đó, Marx cho phép, rằng
"các điều kiện bình thường của sự phát triển tự sinh" của làng xã nông
thôn có thể tồn tại.[25]
Tuy nhiên cũng trong lá thư gửi Vera Zaulich, Marx chỉ ra rằng "ở cốt
lõi của chế độ tư bản chủ nghĩa...có sự tách biệt hoàn toàn người sản
xuất khỏi phương tiện sản xuất".[25]
Marx có thể được tha thứ vì đã không thấy điều này ở giai đoạn đầu năm
1881, các điều kiện bên trong làng xã nông thôn sẽ nhanh chóng dẫn tới
"sự khác biệt của giới nông dân" bên trong làng xã nông thôn Nga và sự
dần tách biệt của nhiều nông dân bên trong làng xã khỏi phương tiện sản
xuất.
Với hai mươi năm lợi thế quan sát kỹ hơn các làng xã nông nghiệp ở
Nga, V. I. Lenin đã có thể kết luận rằng làng xã nông nghiệp không thể
là hạt nhân phát triển xã hội chủ nghĩa ở Nga, chính xác bởi sự gia tăng
số lượng nông dân Nga tại các làng xã nông nghiệp đang bị chia tách
khỏi phương tiện sản xuất bên trong làng xã nông nghiệp.[26]
Bên trong làng xã nông thôn Nga, đất đai là "phương tiện sản xuất".
Theo cách lý tưởng, mọi nông dân trong làng xã nông thôn sẽ sở hữu hay
được tiếp cận phần đất đai ngang nhau trong làng. Sự phân tích kỹ của
Lenin về các làng xã kết luận rằng không phải mọi nông dân bên trong
làng xã nông thôn có quyền tiếp cận như nhau với đất đai. Quả thực, ở
thời điểm Lenin viết cuốn sách của mình (1899), đã có sự khác biệt rất
lớn giữa lượng đất đai được trồng cấy bởi một số nông dân kulak giàu có
tương phản với những nông dân nghèo bên trong làng xã nông nghiệp.[27]
Hơn nữa, kết luận này không cố định. Đúng hơn là sự tách biệt của nông
dân bên trong làng xã nông nghiệp là một quá trình đang diễn ra. Ngày
càng nhiều các nông dân nhỏ bên trong làng xã nông thôn trở nên không
thể tự duy trì cho mình với lượng đất đai nhỏ mà họ được tiếp cận bên
trong làng xã nông thôn.
Một cách không thể tránh khỏi, nhiều nông dân nghèo bên trong
làng xã nông thôn trên khắp nước Nga thực tế "không có ruộng đất". Khi
thời gian trôi đi nhiều nông dân nhỏ khác bên trong các làng xã nông
thôn trở nên không có đất đai khi quá trình "tách biệt nông dân" cho
phép các nông dân giàu có trở nên giàu hơn và nông dân nghèo nghèo hơn.
Một số nông dân không có ruộng đất phải tìm kiếm việc làm từ các
nông dân "kulak" giàu có hơn bên trong làng xã nông thôn. Những nông dân
không đất đai này sẽ được coi là một phần của tầng lớp vô sản nông
thôn. Những nông dân không đất đai khác sẽ rời bỏ làng xã và gia nhập
vào tầng lớp vô sản thành thị. Dù trong trường hợp nào đi nữa, Lenin chỉ
ra rằng sự phát triển này hoàn toàn quen thuộc với chúng ta cũng như
quá trình suy sụp và "vô sản hoá" tầng lớp nông dân nhỏ, bằng cách hoàn
thành sự tách biệt những nông dân nhỏ "không ruộng đất" khỏi phương tiện
sản xuất.[28]
Ảnh hưởng của Marx
“ Công lao của Marx là ông đã bất ngờ tạo ra sự thay đổi về lượng trong lịch sử tư tưởng xã hội. Ông giải thích lịch sử, hiểu sự vận động của nó, dự đoán tương lai, nhưng ngoài việc dự đoán nó, ông đã thể hiện một quan niệm cách mạng: thế giới không chỉ cần được giải thích, nó phải được chuyển đổi. ”
— Che Guevara, Nhà cách mạng Marxist[29]
“ Việc Mác phát hiện ra những quy luật của sự phát triển xã hội đã cho ta chìa khóa để quản lý một cách khoa học các quá trình xã hội vì lợi ích của con người. Nhưng cũng cần nhấn mạnh – theo Mác – chỉ có thể quản lý một cách khoa học các quá trình xã hội sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sau khi thủ tiêu chế độ tư hữu, xã hội hóa nền sản xuất trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Chỉ có hoàn thành những cải cách xã hội chủ nghĩa mới xóa bỏ được tính tự phát và bảo đảm được sự phát triển theo kế hoạch nền sản xuất và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. ”
— PGS-TS Nguyễn Văn Nam[5]
Tác phẩm của Marx và Engels đề cập tới rất nhiều chủ đề và có một sự
phân tích phức tạp về lịch sử và xã hội về các quan hệ giai cấp. Những
người theo Marx và Engels đã lấy từ tác phẩm này để đề ra những lý
thuyết tương lai to lớn và liên kết được gọi là "Chủ nghĩa Marx".
Tuy nhiên, những người Marxist thường tranh luận lẫn nhau về cách giải
thích các tác phẩm của Marx và cách để áp dụng những ý tưởng của ông vào
các sự kiện và điều kiện hiện thời của họ. Sinh thời, Marx cho rằng
những người xưng là "Marxist" khi đó thật ra chỉ là những kẻ không thật
sự hiểu tư tưởng Marx, mà miêu tả và chủ nghĩa này một cách "nông cạn, hời hợt, thậm chí lệch lạc, mang tính chất biếm hoạ". Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam cũng ghi nhận "Họ là những kẻ kiếm chác lợi lộc, danh vị ở các luận điểm đó, và họ lại tạo thành những bè phái, tự nhận là Marxist".
Hơn nữa, cũng cần phân biệt giữa "Chủ nghĩa Marx" và "cái Marx tin
tưởng"; ví dụ, ngay trước khi ông mất năm 1883, Marx đã viết một bức thư
cho nhà lãnh đạo công nhân Pháp Jules Guesde, và cho con rể của mình là Paul Lafargue,
buộc tội họ "revolutionary phrase-mongering" và thiếu niềm tin ở giai
cấp lao động. Sau khi đảng Pháp chia rẽ thành một đảng cải cách và cách
mạng, một số người buộc tội Guesde (lãnh đạo đảng cách mạng) đã nhận
mệnh lệnh từ Marx; Marx đã lưu ý Lafargue, "nếu đó là Chủ nghĩa Marx, thì tôi không phải là một người Marxist" (trong một bức thư gửi Engels, Marx sau này buộc tội Guesde là một "Bakuninist").[30][31]
Đặc biệt, mọi người đã sử dụng từ "Marxist" theo một trong hai cách:
- để miêu tả những người dựa vào ngôn ngữ ý tưởng của Marx (ví dụ: "phương thức sản xuất", "giai cấp", "commodity fetishism") để hiểu chủ nghĩa tư bản và các xã hội khác; hay:
- để miêu tả những người coi cuộc cách mạng công nhân là phương tiện duy nhất tới một xã hội cộng sản.
Một số người, đặc biệt trong giới hàn lâm, những người chấp nhận hầu
hết lý thuyết của Marx, nhưng không phải tất cả sự ứng dụng của nó, tự
gọi mình là "Marxian" để thay thế.
Sáu năm sau cái chết của Marx, Engels và những người khác đã thành lập "Quốc tế cộng sản hai" như một cơ sở để tiếp tục hoạt động chính trị. Tổ chức này chứng tỏ thành công hơn nhiều so với Quốc tế cộng sản một: nó bao gồm các đảng công nhân, đặc biệt là Đảng Dân chủ Xã hội Đức
lớn và thành công, chủ yếu thể hiện một viễn cảnh Marxist. Quốc tế cộng
sản hai sụp đổ năm 1914, tuy nhiên, một phần bởi một số thành viên đã
quay sang với "chủ nghĩa xã hội cách mạng" của Eduard Bernstein, và một phần bởi những sự chia rẽ do Thế chiến I gây ra.
Thế chiến I cũng dẫn tới cuộc Cách mạng Nga năm 1917, trong những giai đoạn sau này của nó một nhóm ly khai cánh tả của Quốc tế cộng sản hai, nhóm Bolshevik, dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin, lên nắm quyền lực. Cách mạng Nga đã khuyến khích công nhân trên khắp thế giới lập ra "Quốc tế cộng sản ba"
Bolshevik. Lenin hiện diện như một người thừa kế chính trị và triết học
của Marx, và đã phát triển một chương trình chính trị, được gọi là "Chủ nghĩa Lenin" hay "Chủ nghĩa Bolshevik", kêu gọi cách mạng có tổ chức và được lãnh đạo bởi một tổ chức trung ương tiền phong "Đảng Cộng sản".
Marx tin rằng cách mạng vô sản sẽ diễn ra trước hết ở những xã
hội công nghiệp tiên tiến như Pháp, Đức và Anh, nhưng Lenin cho rằng
trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc,
và bởi "quy luật phát triển không đều", theo đó nước Nga một mặt có một
xã hội nông nghiệp lạc hậu, nhưng mặt khác lại có một trong số những
vấn đề mới nhất của nền công nghiệp, "dây xích" có thể đứt ở điểm yếu
nhất của nó, đó là, trong cái gọi là các quốc gia "lạc hậu", và sau đó
gây ra cách mạng tại các xã hội công nghiệp phát triển tại châu Âu, nơi
xã hội đã sẵn sàng cho chủ nghĩa xã hội, và sau đó nó lại giúp đỡ trở
lại cho nhà nước công nhân tại Nga.[32]
Karl Marx và Friedrich Engels đã có một bình luận đáng chú ý trong lời nói đầu của ấn bản tiếng Nga cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản:
“ Hiện tại vấn đề là: liệu obshchina Nga, dù vẫn còn rất yếu ớt, đã là một hình thức sở hữu ruộng đất tập thể, chuyển trực tiếp tới hình thức cao hơn là sở hữu tập thể Cộng sản? Hay, trái lại, đầu tiên nó phải trải qua cùng quá trình tan rã như các cấu thành của tiến trình lịch sử của phương Tây? Câu trả lời duy nhất cho câu hỏi đó ở thời điểm hiện tại có thể là: Nếu Cách mạng Nga trở thành một tín hiệu của một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây, vì thế cả hai sẽ bổ sung cho nhau, phương thức sở hữu chung ruộng đất hiện nay ở Nga có thể là một điểm khởi đầu cho một sự phát triển cộng sản. ”
— (Marx và Engels, Lời nói đầu ấn bản tiếng Nga của Tuyên ngôn Cộng sản)
“ Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. ”
— V. I. Lenin[33]
Những lời của Marx đã là điểm khởi đầu cho Lenin,[34]
người, cùng với Trotsky,
luôn tin rằng cách mạng Nga phải trở thành một "tín hiệu cho một cuộc
cách mạng vô sản ở phương Tây". Những người ủng hộ Trotsky cho rằng sự
thất bại của cách mạng ở phương Tây (theo những sự kiện đã được Marx dự
đoán) để giúp đỡ cuộc cách mạng Nga sau năm 1917 đã dẫn tới sự xuất hiện
của Chủ nghĩa Stalin[35]
và đã đặt ra khuôn khổ của lịch sử loài người trong bảy mươi năm.
Tại Trung Quốc, Mao Trạch Đông
cũng tự thể hiện mình là một người thừa kế của Marx, nhưng cho rằng
những người nông dân - không chỉ những người công nhân - có thể đóng vai
trò lãnh đạo trong một cuộc cách mạng vô sản, thậm chí tại các quốc gia
thuộc thế giới thứ ba với đặc điểm là chủ nghĩa phong kiến nông dân và sự vắng mặt của những người công nhân công nghiệp. Mao Trạch Đông gọi nó là Cách mạng Dân chủ Mới. Chủ nghĩa Marx-Lenin như được thể hiện bởi Mao Trạch Đông được quốc tế gọi là "chủ nghĩa Mao".
Dưới thời Joseph Stalin, chính quyền Liên Xô đã thực hiện những chính sách sai lầm, đồng thời tệ sùng bái cá nhân trở nên phổ biến (xem thêm bài Đại thanh trừng và Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó). Những người theo chủ nghĩa chống cộng
không cho rằng những sai lầm trong công cuộc phát triển chủ nghĩa cộng
sản là do chủ ý của người thực hiện chúng, mà chứng tỏ bộ mặt thật của
chủ nghĩa Marx. Các quốc gia phương Tây có khuynh hướng theo chủ nghĩa
tư bản khuyến khích cảm giác này, và bối cảnh chính trị thời Chiến tranh Lạnh
cũng vậy. Quả thực, luôn có những giọng điệu bất đồng quan điểm với
Marx—những người theo chủ nghĩa Marx của Quốc tế Cộng sản hai cũ, những
người Cộng sản cánh tả chia rẽ khỏi Quốc tế Cộng sản ba ngay sau sự thành lập của nó, và sau này là Leon Trotsky và những người ủng hộ ông, đã lập ra một "Quốc tế Cộng sản bốn" năm 1938 để cạnh tranh với Quốc tế Cộng sản của Stalin, tuyên bố đại diện cho chủ nghĩa Bolshevik đích thực.
Từ hoàn cảnh của Quốc tế Cộng sản hai trong thập niên 1920 và 1930,
một nhóm những người theo chủ nghĩa Marx bất đồng đã thành lập Viện Nghiên cứu Xã hội tại Đức, trong số đó có Max Horkheimer, Theodor Adorno, Erich Fromm, và Herbert Marcuse. Với tư cách một nhóm, những tác giả này đã được gọi là Trường phái Frankfurt. Trường phái tư tưởng của họ, được gọi là Lý thuyết Phê phán, đại diện cho một kiểu chỉ trích triết học và văn hoá Marxist có ảnh hưởng mạnh bởi Hegel, Freud, Nietzsche, và Max Weber.
Trường phái Frankfurt chia rẽ với những người theo chủ nghĩa Marx thời kỳ đầu, gồm cả Lenin và những người Bolshevik ở nhiều khía cạnh quan trọng. Đầu tiên, thời ấy viết về sự gia tăng uy thế của chủ nghĩa Stalin, họ đã đưa ra những nghi ngờ về ý tưởng truyền thống Marxist về ý thức giai cấp của tầng lớp vô sản. Thứ hai, không giống những người Marxist thời kỳ đầu, đặc biệt là Lenin, họ phản đối thuyết định mệnh kinh tế.
Dù Trường phái Frankfurt trở nên rất có ảnh hưởng, cả những người theo
chủ nghĩa Marx chính thống và một số người khác tham gia vào hoạt động
chính trị đã chỉ trích công việc của họ vì đã chia rẽ lý thuyết Marxist khỏi cuộc đấu tranh thực tế và đưa chủ nghĩa Marx vào một khuôn khổ hoàn toàn hàn lâm.
Những người theo chủ nghĩa Marx nổi bật trong cùng thời kỳ gồm cả Georg Lukács và Antonio Gramsci thuộc Quốc tế Cộng sản ba, thường gộp vào một nhóm cùng Trường phái Frankfurt dưới thuật ngữ "Chủ nghĩa Marx phương Tây". Marx cũng gây một ảnh hưởng quan trọng tới nhà triết học và phê bình văn học Đức Walter Benjamin, một người thỉnh thoảng liên kết với Adorno và Trường phái Frankfurt.
Năm 1949 Paul Sweezy và Leo Huberman đã thành lập Monthly Review, một tờ báo và tạp chí, để đưa ra tư tưởng Marx tại Hoa Kỳ độc lập với Đảng Cộng sản Hoa Kỳ.
Năm 1978, G. A. Cohen
đã tìm cách bảo vệ tư tưởng Marx như một lý thuyết khoa học và có hệ
thống của lịch sử bằng cách khởi động lại các giáo điều trung tâm của nó
bằng ngôn ngữ triết học phân tích. Điều này đã làm phát sinh Chủ nghĩa Mác Phân tích, một phong trào hàn lâm cũng bao gồm Jon Elster, Adam Przeworski và John Roemer. Bertell Ollman trở thành một nhà vô địch khác về Marx trong phạm vi hàn lâm Anh ngữ, tương tự như Shlomo Avineri người Israel.
Trong cuốn Das Kapital của Marx (2006), người viết tiểu sử Francis Wheen đã lặp lại quan sát của David McLellan
rằng bởi chủ nghĩa Marx không giành thắng lợi ở phương Tây, "nó đã
không bị chuyển thành một triết lý chính thức và vì thế trở thành chủ đề
của sự nghiên cứu nghiêm túc mà không bị các phương tiện kiểm soát của
chính phủ ngăn cản".
Các quốc gia sau ở một số thời điểm trong lịch sử từng có các
chính phủ với sự lãnh đạo ít nhất trên danh nghĩa là theo chủ nghĩa Marx
(các quốc gia được in đậm vẫn đang có chính phủ đó ở thời điểm năm
2009):
Albania, Afghanistan, Angola, Bulgaria, Trung Quốc, Cuba, Síp, Tiệp Khắc, Đông Đức, Ethiopia, Hungary, Lào, Moldova, Mông Cổ, Nepal, Mozambique, Nicaragua, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Ba Lan, România, Nga, Nam Tư, Việt Nam. Ngoài ra, các bang Kerala, Tripura và Tây Bengal tại Ấn Độ cũng từng có các chính phủ theo chủ nghĩa Marx.
Các đảng chính trị và các phong trào Marxist đã suy giảm đáng kể
về ảnh hưởng từ sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, với một số ngoại lệ, có
lẽ đáng chú ý nhất là Nepal. Ngoài ra, sau khi Liên Xô đã sụp đổ nhưng tại châu Mỹ,
hàng triệu người vẫn chống đối mô hình tự do mới của chế độ tư bản, mà
đi theo con đường độc lập. Chính quyền Venezuela tuyên bố đất nước này
thực hiện công cuộc phát triển xã hội chủ nghĩa vào thế kỷ XXI. Tại Bolivia, chính quyền đã thực hiện quốc hữu hóa ngành công nghiệp dầu khí.
Đánh giá về Marx
Năm
1999, đại học Cambridge (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một
thiên niên kỷ, kết quả là Marx đứng đầu, còn Einstein, nhà khoa học lớn
đứng thứ hai.
Tháng 7 năm 2005, với câu hỏi tương tự, 27.9% thính giả trong một cuộc thăm dò ý kiến của chương trình In Our Time trên kênh Radio 4 của BBC đã chọn Marx là nhà tư tưởng ưa thích của họ, và vẫn là đứng đầu.[36]. David Hume, nhà triết học Scotland đứng thứ hai chỉ đạt 12,6% số phiếu, đứng xa sau Marx.
Trong cuộc bình chọn 100 nhân vật vĩ đại nhất lịch sử Đức, Marx đứng thứ 3, chỉ sau Konrad Adenauer (thủ tướng Tây Đức giai đoạn 1949-1963) và Martin Luther, người sáng lập ra đạo Tin Lành
Tại tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, sau khi thực hiện một cuộc khảo sát,
người ta nhận thấy rằng số người biết Karl Marx là ai chiếm đến 100%
dân số Trung Quốc, họ cho rằng tư tưởng Marx quả là tư tưởng đã làm cho
lịch sử nhân loại có sự chuyển biến. Người cha đẻ của chủ nghĩa Marx này
được xem là "người thầy của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn
thế giới".[8]
Tại Hoa Kỳ, trong khảo sát tổng hợp những cuốn sách, tài liệu mà sinh viên Mỹ bắt buộc phải đọc trong hơn 1 triệu bài giảng năm 2016, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”
của Karl Marx đã bỏ xa các cuốn sách phía sau để trở thành tài liệu
được giáo viên Mỹ giảng dạy rộng rãi nhất, cả về số bài giảng lẫn tần
suất được giảng dạy. “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” được sử dụng làm tài
liệu giảng dạy về lý thuyết xã hội, trong khi tại các lớp học kinh tế,
các giáo sư thường ưa thích sử dụng cuốn “Capital” (Tư bản - bộ sách đồ sộ của Marx phân tích về sự vận hành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa)[37]
Phê bình
Kinh tế
Nhiều
người đề xướng chủ nghĩa tư bản đã coi chủ nghĩa tư bản là công cụ hiệu
quả hơn trong việc tạo ra và phân phối tài sản so với chủ nghĩa xã hội
hay chủ nghĩa cộng sản, hay đã thể hiện sự chia tách giàu nghèo như sự
lo ngại của Marx và Engels chỉ là một hiện tượng nhất thời. Một số người
cho rằng tính tư lợi và nhu cầu sở hữu tư bản là một tính chất sẵn có
của cách hành xử của con người, chứ không phải bị gây ra bởi việc chấp
nhận chủ nghĩa tư bản hay bất kỳ một hệ thống kinh tế riêng biệt nào khác và rằng những hệ thống kinh tế khác nhau phản ánh những sự đáp ứng khác nhau của xã hội với thực tế này. Trường phái Áo về kinh tế đã chỉ trích việc Marx sử dụng lý thuyết giá trị thặng dư lao động.[38] Ngoài ra, sự đàn áp chính trị và các vấn đề kinh tế của nhiều nhà nước Cộng sản lịch sử đã làm giảm sút khá nhiều danh tiếng của Marx ở phương Tây, đặc biệt sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và của Liên bang Xô viết. John Maynard Keynes coi chủ nghĩa Marx là một học thuyết phi lô gíc[39] và gọi cuốn Das Kapital
là "một cuốn sách lỗi thời mà tôi biết không chỉ có nhiều lỗi về mặt
khoa học mà còn không được quan tâm hay có thể áp dụng vào thế giới hiện
đại."[40]
Tuy sự tàn phá kinh tế của cuộc Đại Giảm phát
trong thập niên 1930 đã làm gia tăng lời kêu gọi tới chủ nghĩa Marx ở
các quốc gia phát triển, sự phục hồi kinh tế sau đó và việc chính phủ áp
dụng các biện pháp cứu vãn đã làm giảm sút tầm ảnh hưởng của nó.[41] Trái lại, chủ nghĩa Marx trở nên đặc biệt có ảnh hưởng tại các xã hội phong kiến và chưa phát triển về công nghiệp như nước Nga thời Sa hoàng trước năm 1917, nơi cuộc Cách mạng Bolshevik đã chứng tỏ là một sự thành công.[42]
Tới đầu thế kỷ XXI, những bài học, chính sách phúc lợi xã hội
và quyền của người lao động mà các nước thuộc hệ thống cộng sản chủ
nghĩa để lại trong việc xây dựng một xã hội mới công bằng, tiến bộ hơn
đã được các nhà nước hiện đại tiếp thu. Một số biện pháp kinh tế - xã
hội mà chủ nghĩa Marx đề ra đã được áp dụng ở khắp mọi nơi, ngay cả ở các nước phương Tây vốn từng là đối thủ. J. Arch Getty nhận xét[43]:
- Công cuộc cải tạo quyền lao động ở phương Tây trong thế kỷ qua được thúc đẩy bởi một phong trào lao động quốc tế, được bảo vệ và hỗ trợ bởi Liên Xô. Chính sách New Deal của Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt có một phần được sao chép từ chính sách của Liên Xô. Các mục tiêu xã hội phổ biến ngày hôm nay, bao gồm các quyền của phụ nữ và bình đẳng chủng tộc, là chính sách của các Đảng Cộng sản từ rất lâu trước khi được chính phủ Mỹ thi hành một cách nghiêm túc. Những người Cộng sản đầu tiên đã đi đến Nam Mỹ và bắt đầu tổ chức những người da trắng, người Mỹ gốc Phi và người nghèo xung quanh vấn đề đòi hỏi công bằng xã hội. Trên trường quốc tế, Liên Xô cung cấp hỗ trợ cho Nelson Mandela chống lại chế độ áp bức chủng tộc và những cải cách khác. Chủ nghĩa Cộng sản tạo ra sự cạnh tranh khó khăn cho các nước phương Tây, và người ta nghi ngờ rằng những cải cách xã hội ở phương Tây đã không xảy ra nếu nước Nga Xô viết không tồn tại. Trớ trêu thay, sự tồn tại của Liên Xô đã giúp phương Tây tư bản tự cải cách và tránh khỏi những cuộc cách mạng đẫm máu của phương Đông. Chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX không phải là ảo tưởng thoáng qua; di sản của nó đang hiện diện ở khắp mọi nơi.
Hệ thống
Những người khác chỉ trích Marx từ khía cạnh triết lý khoa học. Karl Popper chỉ trích các lý thuyết của Marx là không có tính khả thi,
điều mà ông tin là xuất phát từ một số khía cạnh lý luận lịch sử và
chính trị xã hội phi khoa học của Marx; tiêu chuẩn tính khả thi của
Popper, dù rất có ảnh hưởng, cũng đã bị chứng minh có thể gây tranh cãi.
Popper cũng chỉ trích Marx về 'chủ nghĩa lịch sử';
nghĩa là, việc giả định rằng sự phát triển của những xã hội loài người
tuân theo một bộ quy luật cố định và có thể thấy trước.[44]
Murray Rothbard
cho rằng "...Marx không bao giờ tìm cách đưa ra một câu trả lời. Quả
thực ông không thể, bởi nếu ông gắn tình trạng kỹ thuật hay sự thay đổi
công nghệ với những hành động của con người, của con người cá nhân, toàn
bộ hệ thống của ông sẽ sụp đổ. Với ý thức của loài người, và ý thức cá
nhân với điều đó, thì khi ấy mới xác định phương thức sản xuất chứ không phải cách thức khác theo hình tròn."[45] Tuy nhiên, bài viết Lời nói đầu cho một sự đóng góp vào việc phê bình Kinh tế chính trị
nổi tiếng của Marx phát biểu rằng "Trong sự sản xuất xã hội của sự tồn
tại của nó, con người không tránh được phải tham gia vào những quanh hệ
xác định, phụ thuộc vào ý chí của họ, nói rõ ra là những quan hệ sản
xuất thích ứng với một giai đoạn cho trước trong sự phát triển các lực
lượng sản xuất vật chất của họ."[46]
Marx đã gắn một cách rõ ràng các lực lượng sản xuất và sự phát triển
của chúng với những hành động của loài người, nhưng nhấn mạnh bản chất
xã hội của sự phát triển này, dựa trên nhu cầu, nhu cầu phải duy trì sự
tồn tại của con người, vì thế phát triển "độc lập của ý chí của họ", như
các cá nhân, và vì thế ảnh hưởng ngược lại tới cá nhân theo những cách
phản ứng các điều kiện xã hội cho trước.
Từ cánh Tả
Nhà triết học cánh tả Peter Singer, trong cuốn sách Một người Darwin cánh Tả, đã đặt nghi vấn quan điểm Marxist về bản chất con người là rất dễ thay đổi. Nhà khoa học Lionel Tiger
cũng đã trình bày lý lẽ chống lại quan điểm Marxist về bản chất con
người. Lionel Tiger cho rằng những tuyên bố Marxist đã không thể loại bỏ
và trao quyền lực cho giai cấp vô sản
bởi chủ nghĩa xã hội Marxist không nhận ra rằng bởi con người đã được
thừa hưởng khuynh hướng cạnh tranh và chuyên chế từ những tổ tiên thời
nguyên thuỷ của mình trong một hệ thống "kiểm tra và cân bằng"
và những hạn chế với việc cá nhân giành lấy quyền lực và tài sản là cần
thiết để duy trì một xã hội xã hội chủ nghĩa quân bình.[47]
Ngoài ra, những nhà tư tưởng cánh tả theo tư tưởng vô chính phủ như Mikhail Aleksandrovich Bakunin tại Nga, người có chủ trương "xóa bỏ giai cấp, đưa mọi của cải vào làm của chung, thủ tiêu Nhà nước và mọi quyền lực"[48]
- đã chỉ trích Marx về những thành phần chuyên chính trong triết lý của
ông và miêu tả ông như là một kẻ "thân chính phủ Bismarck" bị ám ảnh
với việc nắm quyền lực quốc gia.[49]
Marx và chống Xê mít
Một số nhà bình luận, như Bernard Lewis, Edward H. Flannery và Hyam Maccoby, đã coi Về Vấn đề Do Thái của Marx như một tác phẩm chống xê mít, và xác định những tính chất chống xê mít trong các tác phẩm đã xuất bản và tác phẩm riêng của ông.[50][51]
Theo họ, Marx coi người Do Thái như một hiện thân của chủ nghĩa tư bản và là những người tạo ra các tính chất ma quỷ của nó.[52]
Theo quan điểm của họ, sự đánh đồng chủ nghĩa Do Thái với chủ nghĩa tư
bản của Marx, cùng với những tuyên bố của ông về người Do Thái, đã gây
ảnh hưởng mạnh mẽ tới các phong trào xã hội chủ nghĩa và định hình nên
thái độ và chính sách của họ với người Do Thái. Theo những ý kiến của
các học giả này, tác phẩm Về Vấn đề Do Thái của Marx đã ảnh hưởng tới chủ nghĩa Phát xít, cũng như các tình cảm chống xê mít của Liên bang Xô viết và người Ả Rập.[53][54][55] Albert Lindemann và Hyam Maccoby đã cho rằng Marx cảm thấy bối rối vì lý lịch Do Thái của mình.[56][57]
Những tác gia trên thường trích dẫn đoạn sau trong Về Vấn đề Do Thái để làm cơ sở cho lý luận của mình:
“ Đâu là căn bản thế tục của chủ nghĩa Do Thái? Nhu cầu thực tế, tính ích kỷ. Đâu là sự sùng bái thế tục của người Do Thái? Mặc cả. Cái gì là vị thần thế tục của họ? Tiền. Khi ấy thì, một sự giải phóng khỏi sự mặc cả và tiền bạc, từ thực tế, chủ nghĩa Do Thái đích thực sẽ là tự giải phóng khỏi thời đại của chúng ta... ...Giải phóng xã hội của người Do Thái là giải phóng xã hội khỏi chủ nghĩa Do Thái.[58] ”
Tuy nhiên, Giáo sư khoa học chính trị Iain Hamphsher-Monk cho rằng
các chỉ trích trên là từ những người chưa đọc kỹ tác phẩm của Marx. Ông
đã viết trong tác phẩm của mình: "Tác phẩm này [Về Vấn đề Do Thái] đã
được nêu ra như một bằng chứng về cái được cho là tình cảm chống xê mít
của Marx, nhưng chỉ việc đọc nó một cách hời hợt mới có thể dẫn tới một
sự giải thích như vậy."[59] Tương tự, McLellan và Francis Wheen cho rằng các độc giả phải hiểu Về Vấn đề Do Thái trong bối cảnh các cuộc tranh cãi của Marx với Bruno Bauer, tác giả của Vấn đề Do Thái, về sự giải phóng Do Thái ở Đức. Francis Wheen nói: Những
chỉ trích đó, ai coi nó như một tiền thân của 'Mein Kampf', bỏ sót một
điều, điểm quan trọng: bỏ qua sự vụng về trong cách viết và sự thô thiển
của bản in, tác phẩm trên thực tế được viết như một sự bảo vệ dành cho
người Do Thái. Đó là sự đáp lại với Bruno Bauer, người đã cho rằng người
Do Thái không nên được trao đầy đủ các quyền dân sự và tự do trừ khi họ
được rửa tội để trở thành các tín đồ Thiên chúa.[60]
Theo McLellan, Marx đã sử dụng từ Judentum theo cách thông tục, với nghĩa thương mại,
cho rằng người Đức phải chịu đựng, và phải được giải phóng khỏi, chủ
nghĩa tư bản. McLellan kết luận rằng độc giả phải hiểu nửa sau của cuốn
tiểu luận như một sự chơi chữ mở rộng làm thiệt hại cho Bauer.[61]
Jonathan Sacks, Chief Rabbi ở Anh, coi việc áp dụng thuật ngữ "chủ nghĩa chống xê mít" cho Marx như một sự sai lầm — bởi Marx khi viết Về Vấn đề Do Thái,
rõ ràng mọi nhà triết học lớn đều thể hiện các khuynh hướng chống xê
mít, nhưng từ "chủ nghĩa chống xê mít" vẫn chưa được đặt ra, bỏ mặc phát
triển một thành phần chủng tộc, và ít sự hiểu biết tồn tại về tầm mức
của thiên kiến của người châu Âu chống người Do Thái. Vì thế Marx chỉ
đơn giản thể hiện tư tưởng chung của thời kỳ của mình.[62]
Tác phẩm tiêu biểu
- Lời đầu của góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel
- Bản thảo kinh tế - triết học 1844
- Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh
- Gia đình thần thánh
- Hệ tư tưởng Đức
- Sự khốn cùng của Triết học
- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản 1848
- Tư bản luận
- Phê phán cương lĩnh Gôta
- Chống Đuyrinh
- Nguồn gốc gia đình
- Tại Việt Nam, Hồ Hữu Tường, Trần Đưc Thảo, Nguyễn Tất Thành... không phải là dân vô sản mà là con ông cháu cha, không điền chủ, tư sản thì cũng là tiểu tư sản.
II. DÂN TRUNG QUỐC BỎ SANG MỸ
Trung Quốc là một nước phát triển mạnh.Trong hầu hết thời gian trong hơn 2.000 năm qua, kinh tế Trung Quốc được xem là nền kinh tế lớn và phức tạp nhất trên thế giới, với những lúc thì hưng thịnh, khi thì suy thoái.[22] Kể từ khi tiến hành cuộc cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc trở thành một trong các nền kinh kế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất. Đến năm 2014, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt vị trí số một thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP) và duy trì ở vị trí thứ hai tính theo giá trị thực tế.[23] Trung Quốc được công nhận là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có quân đội
thường trực lớn nhất thế giới, với ngân sách quốc phòng lớn thứ nhì.
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành một thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1971, khi chính thể này thay thế Trung Hoa Dân quốc trong vị thế thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc cũng là thành viên của nhiều tổ chức đa phương chính thức và phi chính thức, trong đó có WTO, APEC, BRICS, SCO, và G-20. Trung Quốc là một cường quốc lớn và được xem là một siêu cường tiềm năng.[24][25] Trung Quốc đang có tham vọng trở thành một siêu cường có thể cạnh tranh với Mỹ trên mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự thậm chí thay thế Mỹ trở thành siêu cường số một thế giới[26][27](WIKIPEDIA).
Ấy thế mà dân Trung Cộng dù có quyền thế và tài sản hàng triệu, hàng tỷ Mỹ Kim vẵn muốn rời bỏ quê hương bằng nhiều cách. Họ cho con cái du học Mỹ. họ đi du lịch Mỹ rồi tìm cách ở lại với hôn nhân người Mỹ!
Người Trung Quốc tràn sang Mỹ làm việc
Các công ty Trung Quốc đang gửi hàng nghìn lãnh đạo sang Mỹ để làm cho các doanh nghiệp bị nước này mua lại.
Số người Trung Quốc làm việc tại Mỹ đã tăng rất nhanh trong một thập kỷ
qua. Việc này được cho là có liên quan đến làn sóng mua công ty Mỹ gần
đây.
"Chúng tôi nhận thấy có sự tăng vọt. Các công ty Trung Quốc đầu tư rất
mạnh vào Mỹ. Và họ đang mang đến đây nhiều lãnh đạo và nhân viên cốt
cán", Bernard Wolfsdorf - nhà sáng lập kiêm giám đốc một hãng luật nhập
cư tại Mỹ cho biết trên CNN.
Năm 2015, Mỹ đã cấp hơn 10.200 visa loại L cho lao động Trung Quốc và
gia đình họ - cao gấp 4 lần so với năm 2005. Visa loại L1 cho phép các
công ty có hoạt động tại Mỹ điều chuyển nhân viên đến đây. Những người
này sau đó lại được công ty hỗ trợ mang cả gia đình sang.
Nhiều người Trung Quốc được điều chuyển sang Mỹ làm việc cho công ty mình. Ảnh: FXtribune
|
Những năm gần đây, các công ty Trung Quốc rất tích cực mua doanh nghiệp
Mỹ. Chỉ riêng năm ngoái, họ đã chi 17 tỷ USD cho 120 thương vụ tại đây,
theo hãng nghiên cứu Dealogic. Con số năm nay được dự báo còn lớn hơn,
khi Trung Quốc đã chi 29,4 tỷ USD và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.
Rất nhiều người Trung Quốc đang tìm cách ra khỏi đất nước. Họ đã nộp
hàng loạt hồ sơ xin visa tại Mỹ và nhiều nước khác. Có thẻ xanh hoặc
visa lao động là một trong những cách giúp họ thoát khỏi môi trường ô
nhiễm trong nước, giúp con cái tiếp cận hệ thống giáo dục tốt hơn, và
tránh được các biến động kinh tế, chính trị.
Bộ Ngoại giao Mỹ gần đây cũng đã thông báo sẽ ngừng nhận hồ sơ xin cấp
một số loại visa từ Trung Quốc trong năm nay, do số lượng đã đạt giới
hạn hằng năm. Một trong số những loại visa bị ngừng lại là EB-5 - chương
trình nhà đầu tư nhập cư. Theo đó, người nước ngoài đổ tiền ít nhất
500.000 USD vào Mỹ sẽ được cấp quyền định cư tại đây.
Số visa cấp cho Trung Quốc mỗi năm theo chương trình nhà đầu tư đã tăng
từ vài chục cách đây 10 năm, lên 8.156 năm ngoái, theo số liệu chính
thức. "Chúng tôi cho rằng con số này sẽ còn tiếp tục tăng", Ron Klasko -
Giám đốc hãng luật nhập cư - Klasko Immigration Law Partners cho biết.
Loại visa EB-5 từ lâu đã bị chỉ trích là cách để nhà giàu Trung Quốc tìm
đường vào Mỹ. Tuy nhiên, những người ủng hộ lại cho rằng đây là cách để
hút tiền đầu tư vào đây.
Hà Thu (theo CNN)
https://vnexpress.net/kinh-doanh/nguoi-trung-quoc-tran-sang-my-lam-viec-3441701.html
13 lý do khiến rất nhiều người Trung Quốc muốn di cư đến Mỹ
- Thanh Bình
- •
- • 12.3k lượt xem
Từ
trước đến nay, Mỹ luôn là quốc gia mà người Trung Quốc ưu tiên lựa chọn
để di cư đến. Những năm gần đây, do tình hình nhân quyền của đại lục
không ngừng xấu đi, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng lên từng ngày nên
ngày càng có nhiều người Trung Quốc đến Mỹ mua nhà, du học, sinh con…
Vậy thì rốt cuộc Mỹ có điều gì thu hút người Trung Quốc đến thế?
Theo tờ Đây mới là Mỹ Quốc, một người Hoa đã tổng kết 13 lý do di cư đến Mỹ dưới đây:
Đời sống
ADVERTISEMENT
“Đến
bây giờ vẫn còn nhớ, ngày đầu tiên tới Mỹ nhìn thấy một bà cụ khoảng 60
hoặc 70 tuổi, tóc đã bạc trắng một mình lái xe trên đường cao tốc rồi
đỗ xe trước cửa một tiệm Starbucks, chậm rãi mở cửa xe, chống nạng thong
thả đi mua một ly cà phê.”
“Tất
cả những nhà vệ sinh công cộng ở Mỹ hầu như đều có giấy, ngay cả nhà vệ
sinh của công viên quốc gia cũng có… đáng ngạc nhiên hơn là ở những
công viên quốc gia hẻo lánh này hầu như không hề nhìn thấy bất cứ nhân
viên nào cả, nhưng mức độ gọn gàng sạch sẽ trong nhà vệ sinh gần như
không hề thua kém các trung tâm thương mại lớn.”
“Khi
đó tôi đang đứng ở cửa sổ của tầng 12 trong công ty và bị kinh ngạc bởi
hình ảnh trước mắt! Bên ngoài mưa bão, bốn phía ngã tư đều có xe xếp
hàng dài, tất cả xe cộ đều tuần tự lái theo bốn phía, tôi nghĩ thầm, đây
là quy tắc giao thông gì vậy? Sau này mới nhận ra là đèn giao thông bị
hỏng do thời tiết, trong nửa giờ đồng hồ không có cảnh sát chỉ huy,
không có chiếc xe nào lấn hàng, không có tiếng còi, sự yên tĩnh trật tự
khiến người ta nghi ngờ không biết có thật là không có đèn giao thông
hay không?”
“Trình
độ phát triển của một quốc gia không phải là thành phố lớn nhất của họ
phồn hoa đến mức nào, mà phải xem từng ngóc ngách hẻo lánh nhất đẹp đẽ
ra sao. Sống ở Mỹ 11 năm, thích du lịch, dấu chân tôi đã từng đi qua hầu
hết các thành phố, thị trấn lớn nhỏ trên khắp nước Mỹ.
Tôi
nhận thấy dù cho sống ở một thị trấn nhỏ nghèo nhất của Mỹ cũng có thể
đáp ứng được những nhu cầu cơ bản trong cuộc sống một cách dễ dàng,
những dịch vụ xã hội như bưu điện, trạm xăng, siêu thị, bệnh viện, thư
viện, mạng lưới ngân hàng… đều rất đầy đủ, đặc biệt là trường học được
trang bị đầy đủ đến mức khiến bạn hoài nghi mức sống thật sự ở đó.
Điều
khiến tôi ngạc nhiên hơn là những chuỗi nhà nghỉ như Holiday Inn, Best
Western… vẫn có đủ, rất tiện lợi ở cả các thành phố lớn và trên đường
cao tốc.”
Chữ tín
“Ở
Mỹ, một hộp táo không ngon đã ăn hết phân nửa, quả dưa hấu đã cắt dở,
một chiếc nồi chiên không xoay được đã dùng một năm rưỡi… đều có thể trả
hàng!”
“Từng
đến một công viên quốc gia, ở gần bãi xe có một ngôi nhà gỗ nhỏ, con
đường tắt nhỏ bên cạnh thông ra khu thắng cảnh, bên trên hộp thư trong
căn nhà gỗ có viết dòng chữ vé 10 đô la, xung quanh hoàn toàn không có
nhân viên thu phí, cũng không có khóa cửa hay thanh chắn, tôi tự nhủ
thầm, nơi bán vé này chỉ để làm cảnh thôi à?”
“Trong
tiệm đồ ăn nhanh, dù gọi một ly coca hay soda (rất nhiều cửa tiệm miễn
phí soda), nhân viên cũng sẽ đưa cho bạn một cái ly rỗng, khu vực thức
uống thường nằm ở góc bên cạnh quầy thu ngân, nhân viên sẽ không kiểm
soát xem bạn có chọn loại nước uống có cùng giá hay không, tất cả các
món uống cũng đều là châm thêm miễn phí. Nhưng kỳ lạ là, sau khi quan
sát rất nhiều lần, những người không gọi nước uống cũng chỉ là nhận lấy
ly nước, chứ không lén lấy nước uống.”
“Thẻ
tín dụng của Mỹ hầu như rất thoải mái, khi tính tiền trong tiệm ăn, cứ
thế đưa thẻ tín dụng cho nhân viên phục vụ, trên thẻ cũng không có cài
mật mã! Điều này có nghĩa là nhân viên có thể tùy ý quét thẻ. Đương
nhiên cũng không loại trừ những sự việc thẻ ngân hàng bị quét trộm,
nhưng cuối cùng ngân hàng đều sẽ bù lại cho bạn.”
Sự tôn trọng
“Có
một lần bị kẹt trong thang máy ở trường, tòa nhà có tổng cộng 3 tầng,
tôi bị kẹt ở tầng 2… sau khi gọi điện thoại cầu cứu bảo vệ trường, tôi
bèn thư thái chụp ảnh. 10 phút sau, khi cửa thang máy mở ra, tôi ngơ
ngẩn ra, trước cửa có rất nhiều lính cứu hỏa, bảo vệ, còn có người kiên
quyết kéo tôi lên xe cứu thương, trước cổng có đến 3 chiếc xe cứu hỏa,
họ còn bắt tôi đến phòng y tế trường để xem có tổn thương về mặt tinh
thần nào không….”
“Trường
chúng tôi có một học sinh câm điếc có 3 người phiên dịch ngôn ngữ ký
hiệu, 3 người luân phiên đi học cùng cậu ta, ngay cả giường trong ký túc
xá cũng đặt giường rung, khi còi cứu hỏa vang lên thì giường sẽ lắc
mạnh để nhắc nhở cậu ta mau chóng rời khỏi.”
“Một
điều khiến tôi cảm thán về nước Mỹ đó là họ dành rất nhiều tiền bạc cho
cơ sở hạ tầng không sinh lợi, ví dụ như nước, điện, sưởi, dịch vụ dành
cho người khuyết tật, an toàn phòng cháy chữa cháy cũng như đường cao
tốc, hầu như đều là miễn phí!”
Sự công bằng
“Ngôi
trường công lập mà tôi học, từ hiệu trưởng có vẻ ‘bí ẩn’ đến thư ký
hành chính hay giáo sư ‘nổi tiếng’, mỗi học sinh, mỗi y tá, mỗi nhân
viên quản lý thư viện, mỗi người làm vệ sinh, tất cả họ đều có thể xem
thu nhập 3 năm gần nhất và chính xác đến hai chữ số thập phân.”
“Tôi
đến Mỹ đã gần 10 năm rồi, tìm việc, đổi việc, làm thẻ xanh, mua nhà mua
xe, cho con đi học… chưa bao giờ phải nhờ vả ai cả, mọi thứ đều theo
trật tự, không có ai đòi thêm tiền hay cố ý làm khó, kéo dài.”
“Mỗi lần vào cửa, nếu trước mặt có người, họ sẽ luôn giúp tôi kéo cửa sau khi đi vào, nam nữ già trẻ, thậm chí cả trẻ em….”
Tổng kết
Nguyên nhân khiến người Hoa lưu luyến nước Mỹ:
1. Giá trị quan tự do, bình đẳng
Trong tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ có đoạn: “Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa đã cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Ở đây, mọi công dân đều được đối xử công bằng như nhau dù là người bản địa hay là người nhập cư.
2. Vật giá thấp
Mỗi
tháng 3.000 đô la cơ bản là có thể tự thuê một căn nhà một phòng ngủ và
bảo dưỡng một chiếc xe mới, cũng như có thể đáp ứng điều kiện sống cơ
bản. Đương nhiên là không bao gồm mức độ sang trọng. Đây chỉ là so sánh
nhu cầu vật giá cơ bản với Trung Quốc mà thôi. Ở Trung Quốc, 3000 tệ mỗi
tháng thật sự chẳng làm được gì mấy.
3. Đời sống giản đơn
Ở Mỹ, người ta không đặt nặng việc ăn uống là gì to tát. Thời gian rảnh rỗi sẽ đi thư giãn để nạp năng lượng.
4. Thực phẩm an toàn
Ở Mỹ, người ta không cần lo lắng có lúc sẽ bị ngã vào ống cống không có nắp, cũng không cần lo lắng thực phẩm có độc.
5. Không thờ ơ
Ở Mỹ, nếu khi tôi ngã mà có người nhìn thấy, nhất định sẽ hỏi: “Bạn có sao không? Có cần giúp gì không?”
6. Không so sánh
Ở
Mỹ, không ai so sánh nhà ai sống tốt hay không tốt, tự mình sống cuộc
sống riêng. Nếu không đeo nhẫn kim cương, không dùng túi hàng hiệu cũng
sẽ không có ai cười nhạo cả.
7. Không lo chuyện bao đồng
Ở Mỹ, không có ai thương hại tôi không đi làm, càng không có ai thương xót tôi không kiếm tiền, việc ai người nấy lo.
8. Tính bao dung mạnh
Tuy nước Mỹ không hoàn hảo, nhưng có thể hào phóng chấp nhận người nước ngoài di cư đến.
9. Công việc có nhân tính
Ở
Mỹ, việc bị bệnh mà vẫn kiên trì làm việc bị xem là không có trách
nhiệm, đầu tiên bạn không có trách nhiệm với bản thân, sau đó nếu là
bệnh truyền nhiệm thì là không có trách nhiệm với đồng nghiệp và mọi
người. Vì vậy, ở Mỹ không đề cao việc kiên trì làm việc dù bị bệnh.
10. Đường xá tốt
Đa
phần đường xá ở Mỹ có chất lượng rất cao, dù là những tiểu bang hẻo
lánh ít người, đường xá vẫn được bảo trì rất tốt, đương nhiên hiện nay
những cơ sở hạ tầng này đều đã cũ. Điều quan trọng là đường xá ở đây rất
ít thu phí.
11. Công việc không phân giàu nghèo
Học
đại học là một cách nâng cao trình độ cá nhân, chứ không phải là để thể
hiện và nâng cao giá trị bản thân. Ở một số nước, học lực thường được
xem là thước đo giá trị bản thân, còn ở Mỹ, bạn sẽ nhận thấy rằng không
hiếm những thành phần trí thức làm những công việc phổ thông.
12. Về giáo viên
Dù
điểm số của học sinh ra sao, giáo viên đều sẽ không làm khó phụ huynh,
khi gặp những em khó bảo, giáo viên cũng sẽ bàn bạc với gia đình để tìm
cách giải quyết.
13. Sự tin tưởng
Ghi
chép tín dụng cá nhân ở Mỹ luôn gắn chặt với số an sinh xã hội, ghi
chép này luôn ảnh hưởng đến khả năng vay mua xe mua nhà của một cá nhân,
thậm chí tác động đến sự nghiệp của người đó. Điều này khiến đời sống
giữa người với người trở nên đơn giản hơn rất nhiều, không còn cần phải
đấu trí nữa. Vì vậy người ta thường nói, sau khi di cư đến Mỹ, người
Trung Quốc càng ngày “khờ”.
Thanh Bình
Xem thêm:
Từ khóa người Mỹ Người Trung Quốc Văn hóa Mỹ
Người Hoa ở Mỹ không thể chịu nổi những điều này sau khi về nước
- Ngọc Trúc
- •
- • 26.4k lượt xem
Những
người Hoa đi di dân và du học sinh sống ở Mỹ vài năm sẽ quen dần với
thói quen sinh hoạt ở Mỹ, khi quay về Trung Quốc, có rất nhiều người
không còn quen được với một vài cách sinh hoạt trong nước nữa, không còn
cho rằng đó là “lẽ dĩ nhiên” nữa, có một số điều còn gây ra không ít
mâu thuẫn, thật sự không thể chịu nổi.
ADVERTISEMENT
Trong
một bài viết trên mạng xã hội, tác giả nói rằng bạn của mình sống ở Mỹ
đã lâu, sau khi về Trung Quốc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn với người
thân vì một số thói quen sinh hoạt. Nhỏ thì là việc quả chuối tiêu bị
đen rồi còn ăn được không, lớn thì là quan niệm về công việc và quan
niệm chọn bạn đời.
Những
người Hoa sống ở ngoại quốc đã lâu, khi về nước thì thường xung đột với
người nhà về rất nhiều vấn đề. Dưới đây tác giả có liệt kê một vài việc
mà người Hoa “không chịu nổi” khi về Trung Quốc:
Tình yêu và công việc
Tác
giả cho biết người Mỹ chọn người yêu thường sẽ xem trọng cảm giác đối
với một người, các con sẽ lựa chọn người mà mình yêu thích để làm bạn
đời. Thế nhưng ở Trung Quốc, cha mẹ lại thích đưa con đi xem mặt, sợ con
mình bị lừa, luôn muốn tìm cho con một người bạn đời “môn đăng hộ đối”.
Trong
công việc, các bậc phụ huynh ở Trung Quốc mong con tìm được một công
việc “cao cấp” một chút, có “thể diện” một chút, vừa kiếm được nhiều
tiền, lại vừa nở mày nở mặt, còn con cái thì lại muốn tìm được công việc
mà mình cảm thấy hứng thú. Quan điểm của rất nhiều bậc phụ huynh Trung
Quốc là “con tôi thì tôi phải quản”, các con thì lại nghĩ “không muốn bố
mẹ can thiệp vào sự lựa chọn của mình”.
Ngoài
những mâu thuẫn xảy ra trong gia đình vì thói quen sống, có rất nhiều
vấn đề trong xã hội cũng khiến người Hoa không chịu nổi khi về nước.
Không xếp hàng, xô đẩy
Người
Trung Quốc ở trong nước thường không xếp hàng, cứ cho là có xếp thì
cũng xô đẩy nhau hoặc chen ngang khi người khác đang xếp hàng.
Khạc nhổ, đi vệ sinh, vứt rác bừa bãi
Mức
độ sạch sẽ trên đường phố ở Trung Quốc khiến người ta phải quan ngại,
có người tùy tiện vứt rác xuống đường, bốc mùi hôi, nhiều khi đang đi
thì nhìn thấy có người khạc nhổ bừa bãi hoặc người lớn cho trẻ nhỏ đi vệ
sinh ngay trên đường, cảm giác rất khó chịu.
Trên
đường phố thường thấy cảnh có người hút thuốc ở nơi công cộng hoặc vừa
đi trên đường vừa nhả khói, còn mình đi phía sau nghẹt thở, hiện tượng
này rất ít khi thấy ở Mỹ.
Nhà vệ sinh công cộng dơ bẩn và không có giấy
Ở
Mỹ, thường nhà vệ sinh công cộng đều được lau dọn sạch sẽ và đều sẽ có
đủ giấy vệ sinh và giấy lau tay. Nhưng về đến Trung Quốc, thường thì chỉ
ở những nơi lớn như trung tâm thương mại thì mới tìm được nhà vệ sinh
công cộng sạch sẽ, nhưng nhất định phải nhớ luôn mang giấy bên mình, bởi
việc nhà vệ sinh không có giấy là chuyện bình thường.
Công việc luôn phải làm lại
Tác
giả cho biết bạn mình từng gặp phải rắc rối khi gọi người đến lót sàn,
sau khi làm xong dùng chưa đến 3 tháng thì sàn đã hai lần bị lệch, lại
phải gọi người đến sửa.
Ở Mỹ hầu như
không gặp phải việc này, khi gọi người đến lót sàn, dùng mấy năm cũng
không bị lệch. Ở Mỹ làm bất cứ việc gì, dù là bác sĩ, hay nhân viên
trang trí đều cần có bằng cấp, nếu gặp sự cố, khách hàng có thể đi kiện.
Ở Trung Quốc thì có thể là không tìm được người đó nữa.
Không hiểu lắm các mối quan hệ tình cảm
Người
Hoa khi về nước khó tránh bị họ hàng bạn bè “tra hỏi” một lượt, làm
công việc gì, kiếm bao nhiêu tiền v.v… Nếu xử sự tốt thì có thể sẽ có
nhiều người muốn kết thân với bạn, còn nếu không có thể mối quan hệ cũng
trở nên lạnh nhạt, ngượng ngập.
Ngọc Trúc
Xem thêm:
III. NGƯỜI TỊ NẠN VIỆT NAM HÀNG NĂM GỬI HÀNG TỶ ĐÔ NUÔI CỘNG SẢN
Việt kiều nuôi Việt cộng
Tác Giả: Vi Anh
Việt kiều dành dụm mang tiền về nước làm từ thiện cho nhà giầu, Hà Nội ăn chơi xa hoa
Phóng sự của Đài BBC của Anh, Alastair Leithead từ Hà nội gởi về nói về dân nhà giàu ăn chơi. Tựa đề phóng sự là “Ăn Phở 35 Đô Ở Nước Việt Nam Cộng Sản”. Chơi xe máy dầu Harley Davidson mà một thành viên người ngoại quốc của câu lạc bộ nhận xét "Ông sẽ không bao giờ nhìn thấy nhiều xe hạng sang như thế này ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới." Chơi xe hơi mắc, mới, lạ không thể tưởng. Xe Porsche hai cầu dù Alastair Leithead là nhà báo đi nhiều nhưng chưa biết có loại xe đó; xe Rolls-Royce Phantom chế tạo theo ý người đặt hàng mua.
Tin RFA, thống kê của Bộ Công thương của CS Hà nội công bố trong năm 2010, Việt Nam CS đã “nhập khẩu“ những mặt hàng xa xỉ lên đến 10 tỷ đô la. Ô tô và xe máy chỉ chiếm khoảng 1 tỷ đô la, trong khi “hàng hiệu” được xem là xa xỉ phẩm như: điện thoại di động loại mới, mỹ phẩm, rượu bia, thuốc lá, đồ trang sức, đá quý và quần áo loại sang chiếm 9 tỷ đô la.
Số triệu, tỷ phú đô la nổi ở trong nước mỗi năm đều tăng lên. Có người chẳng những mua xe sang mà mua luôn máy bay để đi nữa. Số triệu, tỷ phú chìm ắt còn nhiều hơn nữa nhưng họ dấu kín. Đó là những cán bộ đảng viên có quyền khi tham nhũng trở thành quốc nạn. Tài sản họ cướp được của đất nước và nhân dân nhiều vô số kể.
Làm gì trong bối cảnh tham nhũng là quốc nạn, một thiểu số 3 triệu 6 cán bộ đảng viên CS không hối mại quyền thế, tham ô nhũng lạm, dĩ công vi tư khi họ đang cầm quyền, nắm tiền, nắm của của nước Việt Nam. Họ giàu có, thừa mứa, mỗi năm xài hết 10 tỷ Mỹ kim cho hàng “nhập” xa xí. Họ là những người làm giàu nhờ nguời dân trong nước thì khi người dân gặp thiên tai thì họ là người phải gíup trả lại một phần cho cộng đồng chớ.
Hình : Hành khách sắp hàng ở phi trường Tân Sơn Nhất
Người Việt hải ngoại đâu có giàu như họ, phải làm việc một tuần 40 giờ, hàng chục thứ hoá đơn phải trả, đóng thuế cao, đâu có được hưởng quyền lợi gì ở VN như họ, tại sao khi có thiên tai thì lại bị kêu gọi góp tiền đem về cứu trợ.
Hỏi có người Việt Hải ngoại nào ăn tô phở bò 35 Đô mắc như vàng, đi xe máy dầu loại dầu Harley Davidson hạng sang, xe hơi Porsche hai cầu, Rolls-Royce Phantom chế tạo theo ý người chủ mua. Có mấy người mua Iphone 4 mới ra giá tương đương 900 Đô.
Thử tính sơ đi, sẽ thấy cán bộ, đảng viên và những người ăn theo trong nước việt cộng giàu thế nào trong thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cái thời Đảng Nhà Nước và bọn tài phiệt theo cướp của quốc gia, bóc lột công người lao động như thời kinh tế tư bản hoang.
Từ hải ngoại, người Việt hải ngoại cũng đóng góp cho cái giàu của đảng viên, cán bộ và bọn tài phiệt ăn theo trong nước. Mỗi năm “Việt Kiều” gởi về nước 8 tỷ Đô và về chơi mang theo để xài tối thiểu cũng 6 tỷ nữa ( 300,000 người về, mỗi người tốn 2000$ để xài). Liên Hiệp Quốc viện trợ 3 tỷ. Sơ sơ Đảng Nhà Nước thu được 17 tỷ là giá chót. Đó là chưa nói số ngoại tệ Đảng Nhà Nước bòn vét tài nguyên dầu khí, cao su, gạo, v.v đem bán thô cho ngoại quốc. Phải hàng chục tỷ nữa.
Nếu so sánh với chánh quyền Việt Nam Cộng Hoà thời trước 75 ở Miền Nam mới thấy CS họ hoang phí vô độ. Việt Nam Cộng Hoà khi xưa chỉ nhận viện trợ dân sự 700 triệu Mỹ Kim mà phải lo cho 17 triệu dân với giáo dục công lập, y tế công cộng miễn phí. Tài trợ cho đồng bào Miền Trung ăn gạo giá có thể chịu được.
Thế nhưng khi có thiên tai bão lụt, nhân dân và chánh quyền đùm bọc lấy nhau, đâu có ngửa tay xin ngoại quốc. Và công dân VNCH lên máy bay đi ngoại được các nước xem là công dân của một nước có nền kinh tế phát triển, hơn Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan.
Còn bây giờ, Đảng Nhà Nước Cộng Sản Hà nội là cơ quan có nhiệm vụ pháp lý và đạo lý phải lo cứu trợ. Luật CS Hà nội qui định không tổ chức nào trong và ngoài nước được phân phối tiền cứu trợ tại Việt Nam ngoại trừ cơ quan cứu trợ có thẩm quyền từ Trung Ương tới địa phương do Mặt Trận Tổ quốc lãnh đạo (Thông tư số 72/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính & Nghị định số 64/2008/NĐ-CP ngày 14/05/2008 của Chính phủ). Thế mà Đảng Nhà Nước giàu nứt đổ đổ vách lại lơ là không làm. Mà người Việt Hải ngoại đi làm một việc Đảng Nhà Nước CS cấm không cho làm.
Người Việt hải ngoại làm là trái luật của CS Hà nội. Nên đa số thu tiền ở hải ngoại đem về nước làm từ thiện đều tuyên bố khi thu rằng sẽ giúp trực tiếp cho dân. Nhưng kinh nghiệm cho thấy tất cả đều phải qua nhà cầm quyền CS ở địa phương mới đi đứng, gặp gỡ người cần gíúp được. Ở trong xứ CS không thể họp dân mà nhà cầm quyền không hay biết.
Trong việc cứu trợ nhà cầm quyền địa phương có uyển chuyển với những người ngoại quốc vì có lợi cho họ. Họ không đòi hỏi phải giao tiền và quà cứu trợ cho họ vì họ biết đòi hỏi như thế “Việt Kiều” sẽ không đồng ý. Họ cho Việt Kiều đứng ra phát để chụp hình đem về chứng minh và làm thành tích của hội đoàn ở hải ngoại. Nhưng họ nắm quyền lợi của CS bên trong. Họ được “Việt Kiều” phải quấy với họ, làm “thủ tục đầu tiên” khi gặp để xin phát cho dân. Họ chọn người được phát đa số là thân nhân, bè bạn của họ.
Số tỷ, triệu phú Đô la ở VNCS hiện rất nhiều. Đảng Nhà Nước CS Hà nội rất giàu. Họ quá giàu đến đổi phải hoang phí. Không lý do gì người Việt hải ngoại lại đi làm vú sữa cho họ nữa. Mấy mươi năm đã quá thừa rồi. Không lý do gì để CS và những người chuyên sống bằng nghề từ thiện lợi dụng tình đồng bào, khai thác tai nạn của dân chúng để móc túi người Việt hải ngoại nữa. Người Việt có thương ai, giúp ai cứ gởi trực tiếp, đường dây chuyển tiền bây giờ quá dễ./. (Vi Anh)
Việt kiều dành dụm mang tiền về nước làm từ thiện cho nhà giầu, Hà Nội ăn chơi xa hoa
Phóng sự của Đài BBC của Anh, Alastair Leithead từ Hà nội gởi về nói về dân nhà giàu ăn chơi. Tựa đề phóng sự là “Ăn Phở 35 Đô Ở Nước Việt Nam Cộng Sản”. Chơi xe máy dầu Harley Davidson mà một thành viên người ngoại quốc của câu lạc bộ nhận xét "Ông sẽ không bao giờ nhìn thấy nhiều xe hạng sang như thế này ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới." Chơi xe hơi mắc, mới, lạ không thể tưởng. Xe Porsche hai cầu dù Alastair Leithead là nhà báo đi nhiều nhưng chưa biết có loại xe đó; xe Rolls-Royce Phantom chế tạo theo ý người đặt hàng mua.
Tin RFA, thống kê của Bộ Công thương của CS Hà nội công bố trong năm 2010, Việt Nam CS đã “nhập khẩu“ những mặt hàng xa xỉ lên đến 10 tỷ đô la. Ô tô và xe máy chỉ chiếm khoảng 1 tỷ đô la, trong khi “hàng hiệu” được xem là xa xỉ phẩm như: điện thoại di động loại mới, mỹ phẩm, rượu bia, thuốc lá, đồ trang sức, đá quý và quần áo loại sang chiếm 9 tỷ đô la.
Số triệu, tỷ phú đô la nổi ở trong nước mỗi năm đều tăng lên. Có người chẳng những mua xe sang mà mua luôn máy bay để đi nữa. Số triệu, tỷ phú chìm ắt còn nhiều hơn nữa nhưng họ dấu kín. Đó là những cán bộ đảng viên có quyền khi tham nhũng trở thành quốc nạn. Tài sản họ cướp được của đất nước và nhân dân nhiều vô số kể.
Làm gì trong bối cảnh tham nhũng là quốc nạn, một thiểu số 3 triệu 6 cán bộ đảng viên CS không hối mại quyền thế, tham ô nhũng lạm, dĩ công vi tư khi họ đang cầm quyền, nắm tiền, nắm của của nước Việt Nam. Họ giàu có, thừa mứa, mỗi năm xài hết 10 tỷ Mỹ kim cho hàng “nhập” xa xí. Họ là những người làm giàu nhờ nguời dân trong nước thì khi người dân gặp thiên tai thì họ là người phải gíup trả lại một phần cho cộng đồng chớ.
Hình : Hành khách sắp hàng ở phi trường Tân Sơn Nhất
Người Việt hải ngoại đâu có giàu như họ, phải làm việc một tuần 40 giờ, hàng chục thứ hoá đơn phải trả, đóng thuế cao, đâu có được hưởng quyền lợi gì ở VN như họ, tại sao khi có thiên tai thì lại bị kêu gọi góp tiền đem về cứu trợ.
Hỏi có người Việt Hải ngoại nào ăn tô phở bò 35 Đô mắc như vàng, đi xe máy dầu loại dầu Harley Davidson hạng sang, xe hơi Porsche hai cầu, Rolls-Royce Phantom chế tạo theo ý người chủ mua. Có mấy người mua Iphone 4 mới ra giá tương đương 900 Đô.
Thử tính sơ đi, sẽ thấy cán bộ, đảng viên và những người ăn theo trong nước việt cộng giàu thế nào trong thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cái thời Đảng Nhà Nước và bọn tài phiệt theo cướp của quốc gia, bóc lột công người lao động như thời kinh tế tư bản hoang.
Từ hải ngoại, người Việt hải ngoại cũng đóng góp cho cái giàu của đảng viên, cán bộ và bọn tài phiệt ăn theo trong nước. Mỗi năm “Việt Kiều” gởi về nước 8 tỷ Đô và về chơi mang theo để xài tối thiểu cũng 6 tỷ nữa ( 300,000 người về, mỗi người tốn 2000$ để xài). Liên Hiệp Quốc viện trợ 3 tỷ. Sơ sơ Đảng Nhà Nước thu được 17 tỷ là giá chót. Đó là chưa nói số ngoại tệ Đảng Nhà Nước bòn vét tài nguyên dầu khí, cao su, gạo, v.v đem bán thô cho ngoại quốc. Phải hàng chục tỷ nữa.
Nếu so sánh với chánh quyền Việt Nam Cộng Hoà thời trước 75 ở Miền Nam mới thấy CS họ hoang phí vô độ. Việt Nam Cộng Hoà khi xưa chỉ nhận viện trợ dân sự 700 triệu Mỹ Kim mà phải lo cho 17 triệu dân với giáo dục công lập, y tế công cộng miễn phí. Tài trợ cho đồng bào Miền Trung ăn gạo giá có thể chịu được.
Thế nhưng khi có thiên tai bão lụt, nhân dân và chánh quyền đùm bọc lấy nhau, đâu có ngửa tay xin ngoại quốc. Và công dân VNCH lên máy bay đi ngoại được các nước xem là công dân của một nước có nền kinh tế phát triển, hơn Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan.
Còn bây giờ, Đảng Nhà Nước Cộng Sản Hà nội là cơ quan có nhiệm vụ pháp lý và đạo lý phải lo cứu trợ. Luật CS Hà nội qui định không tổ chức nào trong và ngoài nước được phân phối tiền cứu trợ tại Việt Nam ngoại trừ cơ quan cứu trợ có thẩm quyền từ Trung Ương tới địa phương do Mặt Trận Tổ quốc lãnh đạo (Thông tư số 72/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính & Nghị định số 64/2008/NĐ-CP ngày 14/05/2008 của Chính phủ). Thế mà Đảng Nhà Nước giàu nứt đổ đổ vách lại lơ là không làm. Mà người Việt Hải ngoại đi làm một việc Đảng Nhà Nước CS cấm không cho làm.
Người Việt hải ngoại làm là trái luật của CS Hà nội. Nên đa số thu tiền ở hải ngoại đem về nước làm từ thiện đều tuyên bố khi thu rằng sẽ giúp trực tiếp cho dân. Nhưng kinh nghiệm cho thấy tất cả đều phải qua nhà cầm quyền CS ở địa phương mới đi đứng, gặp gỡ người cần gíúp được. Ở trong xứ CS không thể họp dân mà nhà cầm quyền không hay biết.
Trong việc cứu trợ nhà cầm quyền địa phương có uyển chuyển với những người ngoại quốc vì có lợi cho họ. Họ không đòi hỏi phải giao tiền và quà cứu trợ cho họ vì họ biết đòi hỏi như thế “Việt Kiều” sẽ không đồng ý. Họ cho Việt Kiều đứng ra phát để chụp hình đem về chứng minh và làm thành tích của hội đoàn ở hải ngoại. Nhưng họ nắm quyền lợi của CS bên trong. Họ được “Việt Kiều” phải quấy với họ, làm “thủ tục đầu tiên” khi gặp để xin phát cho dân. Họ chọn người được phát đa số là thân nhân, bè bạn của họ.
Số tỷ, triệu phú Đô la ở VNCS hiện rất nhiều. Đảng Nhà Nước CS Hà nội rất giàu. Họ quá giàu đến đổi phải hoang phí. Không lý do gì người Việt hải ngoại lại đi làm vú sữa cho họ nữa. Mấy mươi năm đã quá thừa rồi. Không lý do gì để CS và những người chuyên sống bằng nghề từ thiện lợi dụng tình đồng bào, khai thác tai nạn của dân chúng để móc túi người Việt hải ngoại nữa. Người Việt có thương ai, giúp ai cứ gởi trực tiếp, đường dây chuyển tiền bây giờ quá dễ./. (Vi Anh)
https://ja-jp.facebook.com/nhatkyyeunuoc1/posts/1124866164206796
Nhà giàu Trung Quốc tiếp tục đổ đến Mỹ định cư
Mỹ là điểm đến phổ biến nhất của các triệu phú Trung Quốc di cư năm thứ ba liên tiếp.
Hãng nghiên cứu Hurun Report và Visas Consulting Group vừa thực hiện một
khảo sát về xu hướng di cư của những người Trung Quốc có tổng tài sản
từ 10 đến 200 triệu NDT, tương đương 1,5 - 30 triệu USD.
Theo đó, Mỹ tiếp tục là điểm đến hàng đầu của các triệu phú Trung Quốc
di cư. Hai năm trước, Mỹ cũng là nơi định cư hấp dẫn nhất đối với giới
nhà giàu của quốc gia có gần 1,4 tỷ dân này.
Triệu phú Trung Quốc chuyển tới Mỹ sinh sống ngày càng nhiều.
|
Trong khi đó, Canada lần đầu tiên vượt Anh để trở thành lựa chọn phổ
biến thứ hai của các triệu phú Trung Quốc. Những người trả lời khảo sát
cho rằng chế độ giáo dục và giá nhà đất tại Canada hiện đã được cải
thiện tốt hơn nhiều so với trước đây.
Los Angeles, Seattle, San Francisco và New York là những thành phố hàng
đầu thế giới để các triệu phú Trung Quốc định cư và đầu tư bất động sản.
Tuy nhiên, khảo sát cũng chỉ ra các thành phố tại Mỹ đã kém hấp dẫn hơn
nhiều kể từ khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức.
Giới nhà giàu Trung Quốc đưa ra một số lý do muốn sống ở nước ngoài. Hơn
một nửa số triệu phú trả lời khảo sát cho rằng "môi trường sống" hay
"môi trường sống lý tưởng" là động lực chính để họ di cư.
"Nhiều người Trung Quốc vẫn không hài lòng với môi trường sống tại đây",
David Chen - luật sư tại Visas Consulting Group nhận định.
Ngoài ra, 84% số người được hỏi, tăng 50% so với năm ngoái tỏ ra lo ngại
về sự mất giá của đồng NDT. Đồng tiền này đã hạ xuống mức thấp nhất vào
tháng 11/2016, trước khi phục hồi nhẹ trong nửa đầu năm nay.
Anh Tú (theo CNN)
No comments:
Post a Comment