Bài bình luận số 5
Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc lợi dụng lẫn nhau để đàn áp Pháp Luân Công
Lời mở đầu
Giang Trạch Dân thả chó
cắn một em bé đang tập Pháp Luân Công. Chữ Hán
trong tranh biếm họa nói "La Cán và phòng 610 - những con
chó ác độc giết hại dân lành" (Epoch times
|
Trương Phó Trân, nữ, khoảng 38
tuổi, nguyên là nhân viên tại công viên Hiện Hà, thành
phố Bình Độ, tỉnh Sơn Đông. Tháng 11/2000 cô
lên Bắc Kinh để kêu oan cho Pháp Luân Công, và bị
bắt giữ. Theo những người chứng, công an
đã cưỡng chế lột sạch quần áo của
cô Trương Phó Trân, cạo cô trọc đầu, đánh
đập, làm nhục cô. Công an trói căng cô trên
giường với chân tay giang ra hết. Cô bị ép
buộc đi đại tiểu tiện ngay trên
giường. Sau đó công an Trung Quốc tiêm vào
người cô ta những thứ thuốc độc
hại mà không rõ tên gì. Bị tiêm xong, cô đau đớn quằn
quại trên giường cho đến chết. Trong
suốt thời gian đó, quan chức lớn bé của
“phòng 610” cũng có mặt tại hiện trường và
chứng kiến tất cả. (theo báo cáo của website
Minghui, 23/7/2004). [1]
Cô Dương Lệ
Vinh, 34 tuổi, người dân tại phố Bắc Môn,
thành phố Định Châu, địa khu Bảo
Định, tỉnh Hà Bắc, một người tu
luyện Pháp Luân Công. Gia đình cô thường bị
cảnh sát quấy nhiễu và đe doạ. Tối 8/2/2003,
sau khi cảnh sát “thăm viếng” nhà cô Dương Lệ
Vinh, chồng cô, một tài xế lái xe tại Cục Đo
Lường, vì sợ mất việc làm và không chịu
được áp lực, sang ngày hôm sau, thừa lúc không còn
ai ở nhà đã bóp cổ vợ chết. Cô Dương Lệ
Vinh qua đời trong bi kịch, bỏ lại đứa
con trai nhỏ 10 tuổi. Ngay sau đó, chồng cô đi báo
cáo với chính quyền, và công an lập tức đến
hiện trường để khám nghiệm tử thi cô
Dương, lúc đó vẫn còn ấm. Chúng mổ và
lấy nhiều nội tạng ra khỏi cơ thể cô,
trong khi các bộ phận nội tạng vẫn còn nóng
ấm và máu vẫn phun ra. Một nhân viên Sở Công an
Định Châu nói “Đây không phải là khám nghiệm
tử thi, mà là giải phẫu sống!” (trích dẫn
từ một bài đăng trên trang website Minghui ngày
25/09/2004). [2]
Tại trại
cải tạo lao động cưỡng bức Vạn
Gia thuộc tỉnh Hắc Long Giang, một phụ nữ
đang có thai khoảng 7 tháng bị treo lên trên một xà
ngang. Cả hai tay cô ta bị trói bằng một sợi dây
thừng thô vắt qua một cái ròng rọc gắn trên thanh
xà. Cái ghế mà chúng để cô ta đứng lên đã bị
lấy đi, và cô ta bị treo lủng lẳng trên không
trung. Cây xà ngang ở trên mặt đất khoảng 3
đến 4 mét. Sợi dây thừng được vắt
qua cái ròng rọc, và bọn cai ngục nắm một
đầu dây. Khi bọn cai ngục kéo sợi dây, cô bị
kéo lên trên không, khi chúng thả sợi dây ra, cô ta bị
rơi ngay xuống đất. Người phụ nữ
đang mang thai này bị đau đớn do tra tấn
như thế này cho đến khi cô bị sẩy thai. Còn
dã man hơn nữa là chúng bắt chồng cô chứng
kiến cảnh người vợ bị tra tấn như
vậy (trích dẫn từ một bài đăng trên trang web
Minghui ngày 15/11/2004, một cuộc phỏng vấn với
Cô Vương Ngọc Chi, người bị tra tấn
hơn 100 ngày tại trại lao động cưỡng
bức Vạn Gia). [3]
Những thảm án
kinh tâm nổi bật này đang xảy ra hằng ngày ở
Trung Quốc hiện đại. Nó xảy ra với
những học viên Pháp Luân Công, những người
đang bị chính quyền đàn áp vô cùng nghiêm trọng.
Những trường hợp kể trên chỉ là một
vài trong vô số các trường hợp tra tấn khác
đã liên tục xảy ra trong hơn 5 năm qua.
Từ khi Trung
Quốc bắt đầu cải cách nền kinh tế vào
cuối những năm 1970, Đảng Cộng sản
Trung Quốc (ĐCSTQ) đã cố gắng tạo cho mình
một hình ảnh tích cực, tự do trong cộng
đồng quốc tế. Tuy nhiên, cuộc đàn áp
đẫm máu với tính chất phi lý, đã lan tràn
khắp nơi, thủ đoạn dã man và tàn nhẫn vô cùng
đối với Pháp Luân Công diễn ra hơn 5 năm qua,
cũng cho cộng đồng quốc tế một
lần nữa chứng kiến bộ mặt thật
sự của ĐCSTQ. Đây cũng là vết nhơ
lớn nhất đối với lịch sử của
ĐCSTQ trong lãnh vực nhân quyền. Dư luận xã
hội ở Trung Quốc, đang ở trong một ảo
tưởng rằng ĐCSTQ đã cải thiện và tiến
bộ, họ đã trở nên quen thuộc với việc
cho rằng chuẩn mực đạo đức thấp
kém của cảnh sát là do sự tàn bạo của hệ
thống luật pháp và bảo vệ pháp luật của
Trung Quốc. Tuy nhiên, cuộc đàn áp tàn khốc và có
hệ thống đối với Pháp Luân Công diễn ra
ở tất cả các cấp trong xã hội Trung Quốc
đã hoàn toàn làm tan vỡ ảo tưởng về
việc cải thiện tình hình nhân quyền. Nhiều
người đang tự hỏi làm sao mà một chiến
dịch đàn áp đẫm máu và vô nhân đạo như
vậy lại có thể đang diễn ra ở Trung
Quốc. Trật tự xã hội vừa được
ổn định từ 20 năm trước, sau những
hỗn loạn của Đại Cách mạng Văn hoá, thì
tại sao Trung Quốc lại bước vào một
thời kỳ ác mộng tương tự nữa như
vậy? Tại sao Pháp Luân Công, tuân theo nguyên lý “Chân Thiện
Nhẫn”, đã được phổ biến ở hơn
60 quốc gia trên thế giới, lại chỉ bị
đàn áp ở Trung Quốc, mà không bị đàn áp ở
bất cứ nơi nào khác trên thế giới? Trong
cuộc đàn áp này, sự quan hệ giữa Giang Trạch
Dân và ĐCSTQ là như thế nào?
Giang Trạch Dân không
có đức và không có tài. Nếu không có guồng máy bạo
lực vận chuyển tinh nhuệ như Ðảng Cộng
sản Trung Quốc mà dựa trên cơ sở giết
người và lừa dối, thì hắn sẽ không bao
giờ có thể phát động chiến dịch diệt
tuyệt một quần thể này, một cuộc diệt
tuyệt quần thể được thực hiện
trên toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc và ngay cả còn lan
đến nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Tương tự như vậy, ĐCSTQ sẽ khó mà đi
ngược trào lưu lịch sử và môi trường mà
nó đã tạo ra trong chính sách cải cách kinh tế
thời gian gần đây, cộng với những nỗ
lực hòa nhập với thế giới; chỉ có một
kẻ độc tài cứng đầu cứng cổ
như Giang Trạch Dân luôn luôn nhất quyết làm theo ý
của mình mới có thể đưa ra và thực hiện
chính sách diệt tuyệt quần thể này. Sự phối
hợp với nhau và cộng hưởng giữa Giang
Trạch Dân và tà linh Cộng sản đã khuếch
đại tính tàn bạo của cuộc đàn áp
đến một mức độ chưa từng có trong
lịch sử. Nó tương tự như sự cộng
hưởng giữa âm thanh dụng cụ của
người leo núi và tuyết dày mà có thể gây nên một
vụ lở tuyết và đem đến những hậu
quả thảm khốc.
I. Lai
lịch tương tự mang lại cùng một cảm
giác nguy cơ
Giang Trạch Dân sinh
năm 1926, một năm ứng với tai kiếp mà sinh
ra. Giống như Ðảng Cộng Sản Trung Quốc
cố che dấu lịch sử đẫm máu của nó, Giang
Trạch Dân, trước Đảng cộng sản và nhân
dân Trung Quốc, cũng đã che đậy tiểu sử
phản bội của hắn đối với Trung
Quốc.
Vào năm Giang
Trạch Dân 17 tuổi, chiến tranh chống phát-xít trên toàn
thế giới đang đã lên tới đỉnh
điểm. Khi những thanh niên yêu nước thay nhau lên
đường ra tiền tuyến đánh Nhật
để bảo vệ Trung Quốc, thì Giang Trạch Dân
đã lựa chọn theo đuổi việc học lên cao
vào năm 1942 tại Đại học Trung Ương,
một trường đại học của chính phủ
bù nhìn Uông Tinh Vệ ở Nam Kinh dưới quyền
kiểm soát của quân Nhật. Theo nhiều nguồn tin
điều tra thì lý do là vì cha của Giang Trạch Dân —Giang
Sĩ Tuấn— đã từng là một sĩ quan cao cấp
trong ban Tuyên Truyền phản Hoa của quân đội
Nhật, sau khi Nhật chiếm đóng tỉnh Giang Tô trong
cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc của Nhật.
Giang Sĩ Tuấn đích thực là một tên Hán gian.
Về phương
diện Hán gian bán nước, Giang Trạch Dân và
Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) giống
hệt nhau: đều không có một chút tình cảm nào
đối với nhân dân Trung Quốc và dám tùy tiện
giết hại thường dân vô tội.
Để hỗn
nhập vào Ðảng mà mưu cầu quan chức sau khi
ĐCSTQ chiến thắng trong cuộc nội chiến
giữa Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng
Sản, Giang Trạch Dân đã bịa đặt rằng
hắn ta được người chú là Giang
Thượng Thanh, người đã gia nhập vào
Đảng từ trẻ và sau đó bị bọn
cướp bắn chết, nhận làm con nuôi và nuôi
dưỡng. Nhờ bịa đặt lý lịch gia
đình, hắn ta đã được thăng chức từ
một cán bộ cấp thấp lên Thứ trưởng
Bộ Công Nghiệp Điện Tử chỉ trong vòng
mấy năm. Việc thăng chức của Giang không
phải là vì hắn có tài, mà là do quan hệ và thiên vị cá
nhân. Trong thời kỳ hắn là Bí thư Thành ủy
Thượng Hải, Giang Trạch Dân đã hết sức
nịnh bợ các lãnh đạo kỳ cựu của
Ðảng Cộng sản Trung Quốc như Lý Tiên Niệm và
Trần Vân [4] vì hai người này đến Thượng
Hải hàng năm vào dịp Tết. Thậm chí, với
tư cách là Bí thư Thành ủy Thượng Hải, Giang
đã từng đích thân đứng đợi trong
tuyết dầy hàng giờ đồng hồ để
tự tay trao bánh sinh nhật cho Lý Tiên Niệm.
Vụ thảm sát trên
quảng trường Thiên An Môn vào ngày 4 tháng 6 năm 1989 là
một bước rẽ nữa trong cuộc đời
của Giang Trạch Dân. Giang trở thành Tổng Bí thư
Ðảng Cộng sản Trung Quốc sau khi đàn áp một
tờ báo dám nói tự do là World Economic Herald, ra lệnh
bắt Chủ tịch Quốc hội Vạn Lý giam
lỏng tại nhà riêng, và ủng hộ việc thảm
sát. Thậm chí trước khi vụ thảm sát diễn ra,
Giang Trạch Dân đã trao một bức thư mật cho
Đặng Tiểu Bình, đề nghị rằng phải
có “các biện pháp kiên quyết” đối với các sinh
viên; nếu không “sẽ mất Đảng và mất
nước”. Trong hơn 15 năm qua, Giang đã tiến hành
đàn áp và giết hại bừa bãi tất cả
những người bất đồng ý kiến hay các
tập thể tín ngưỡng độc lập,
dưới chiêu bài “ổn định là ưu tiên hàng
đầu”.
Từ khi cả Nga và
Trung Quốc bắt đầu hiệu chỉnh biên
giới chung của họ vào năm 1991, Giang Trạch Dân
đã hoàn toàn công nhận kết quả xâm lược Trung
Quốc của Nga Hoàng và cựu Liên Bang Sô Viết, và hoàn
toàn chấp thuận tất cả những hiệp
ước bất công giữa Trung Quốc và Nga kể
từ Hiệp ước Aigun. Lãnh thổ Trung Quốc
khoảng hơn một triệu kilomét vuông đã vì thế
bị Giang vĩnh viễn bán đứt.
Với tiểu
sử của Giang Trạch Dân, giả vờ là một
đứa con mồ côi của một liệt sĩ
Ðảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), trong khi trên
thực tế hắn là con cả của một tên
phản bội Trung Quốc, bản thân Giang đã theo bí
quyết "lường gạt" của Đảng
cộng sản; trong việc ủng hộ vụ thảm
sát học sinh “mùng 4 tháng 6” và đàn áp các phong trào đòi
quyền dân chủ và tín ngưỡng tôn giáo, cá nhân hắn
đã áp dụng bí quyết "giết người"
của Đảng cộng sản. Cũng như việc
ĐCSTQ đã từng ở dưới sự chỉ huy
của Liên Bang Sô Viết như là một chi nhánh Viễn
Đông của Cộng sản Quốc tế, Giang Trạch
Dân hiện đang cho không lãnh thổ Trung Quốc; hắn
đã theo bí quyết "phản bội, bán
đứng" của Đảng Cộng Sản.
Giang Trạch Dân và
Ðảng Cộng sản Trung Quốc cùng có chung nguồn
gốc và lịch sử nhục nhã như nhau. Chính vì
điều này, cả hai cùng có chung sự nhậy cảm về
nỗi bất an đối với quyền lực của
mình.
II. Cả Giang Trạch Dân và Ðảng Cộng sản Trung Quốc cùng sợ “CHÂN THIỆN NHẪN” như nhau
Lịch sử
của phong trào Cộng Sản Quốc Tế
được viết bằng máu của hàng trăm
triệu người. Gần như mỗi nước
Cộng Sản đều trải qua một quá trình
tương tự như cuộc đàn áp các phần
tử phản cách mạng do Stalin phát động ở Liên
Bang Sô Viết. Hàng triệu, hay ngay cả hàng chục
triệu người vô tội đã bị giết
hại. Trong thập niên 1990, cựu Liên Bang Sô Viết
đã bị giải thể, và khối Đông Âu đã
trải qua những biến động lớn. Khối
Cộng sản đã bị mất hơn một nửa giang
sơn chỉ trong một đêm. Ðảng Cộng sản
Trung Quốc (ĐCSTQ) đã học được bài
học này và nhận ra rằng sự việc ngưng
đàn áp và cho phép tự do ngôn luận là tương
đương với tự chôn mình. Nếu người
dân được tự do ngôn luận, thì Ðảng Cộng
sản Trung Quốc làm sao có thể che đậy
được sự tàn bạo đẫm máu của nó?
Làm thế nào ĐCSTQ có thể biện hộ cho hệ
thống tư tưởng lường gạt của chính
nó? Nếu ngưng đàn áp và người dân không bị
đe dọa và sợ hãi, chẳng phải họ sẽ dám
chọn cho mình một lối sống và niềm tin khác
với chủ nghĩa cộng sản hay sao? Vậy thì, làm
sao Ðảng Cộng sản có thể duy trì được
một nền tảng xã hội mà cần thiết cho
sự sống còn của nó?
Ðảng Cộng
sản Trung Quốc đến chết cũng vẫn không
thay đổi bất kể là nó đã có những biến
đổi gì trên bề mặt. Sau vụ thảm sát “mùng 4
tháng 6”, Giang Trạch Dân đã tuyên bố “tiêu diệt
tất cả những yếu tố không ổn
định ngay từ trong trứng nước”. Quá sợ
hãi, hắn ta kết luận rằng hắn sẽ không bao
giờ từ bỏ việc lừa dối công chúng, và
hắn sẽ tiếp tục đàn áp người dân cho
đến khi họ hoàn toàn bị trói chặt.
Cũng trong thời
kỳ này, Pháp Luân Công xuất hiện ở Trung Quốc.
Đầu tiên, nhiều người coi Pháp Luân Công là
một loại khí công [5] với một khả năng đặc
biệt tốt cho việc chữa bệnh và tăng
cường sức khoẻ. Sau đó, mọi người
dần dần nhận ra rằng chủ ý của Pháp Luân
Công không phải chỉ là năm bài tập đơn
giản, mà là dùng "Chân Thiện Nhẫn" để
chỉ dạy người ta làm một người
tốt.
1. Pháp Luân Công giảng “Chân Thiện Nhẫn”; Ðảng Cộng sản giảng “Giả dối, Ác độc, Đấu tranh”
Pháp Luân Công đề
xướng “Chân” bao gồm nói lời chân thật và làm
việc chân thật. Ðảng Cộng sản Trung Quốc
thì dựa vào những lời dối trá lường
gạt để tẩy não người dân. Nếu tất
cả mọi người bắt đầu nói sự
thật, công chúng sẽ biết rằng Ðảng Cộng
sản Trung Quốc đã lớn lên bằng cách lấy lòng
Liên-xô, giết người, bắt cóc, lợi dụng
cơ hội, bỏ chạy, trồng thuốc phiện,
cướp công trong cuộc chiến đấu chống
quân Nhật xâm lược v.v… Ðảng Cộng sản Trung
Quốc đã từng tuyên bố rằng “Không thể làm
được việc gì lớn nếu không nói dối”.
Sau khi Ðảng Cộng sản Trung Quốc nắm chính
quyền, nó đã liên tiếp phát động các phong trào
chính trị và đã gây ra vô số nợ máu. Vì vậy nói
lời “Chân” chắc chắn sẽ kết liễu Ðảng
Cộng sản Trung Quốc.
Pháp Luân Công dạy
“Thiện” bao gồm nghĩ đến người khác
trước khi nghĩ đến mình và đối xử
tốt với người khác trong mọi trường
hợp. Ðảng Cộng sản Trung Quốc thì luôn luôn
chủ trương “đấu tranh tàn bạo và triệt
hạ tàn nhẫn”. Người anh hùng mẫu mực
của Ðảng Cộng sản Trung Quốc là Lôi Phong, có
lần nói “Chúng ta nên đối xử tàn nhẫn với
kẻ thù của chúng ta và phải lạnh lùng như mùa
đông khắc nghiệt”. Thật ra, Ðảng Cộng
sản Trung Quốc không chỉ đối xử với
kẻ thù của họ như thế, mà họ cũng không
đối xử với đảng viên của chính mình
tốt hơn chút nào. Những người sáng lập ra
Ðảng Cộng sản, những tư lệnh tối cao
của quân đội, và ngay cả Chủ tịch nhà
nước cũng đều bị Đảng của
chính họ hỏi cung tàn nhẫn, đánh đập dã man
và tra tấn cực kỳ tàn bạo. Chính sách tàn sát
những người bị gọi là “kẻ thù giai
cấp” dã man đến mức làm cho người ta
chỉ cần nghe thấy đã dựng cả tóc gáy.
Nếu “Thiện” mà thịnh hành trong xã hội, thì những
phong trào chính trị “tà ác” do
Ðảng Cộng sản phát động sẽ không bao
giờ có thể diễn ra.
Bản Tuyên ngôn Cộng sản tuyên
bố rằng “lịch sử của tất cả các xã
hội tồn tại cho đến nay là lịch sử
của đấu tranh giai cấp”. Ðiều này đại
diện cho quan niệm của Đảng Cộng sản
về lịch sử và thế giới. Pháp Luân Công dạy
học viên phải tự tìm cho ra lỗi lầm của
chính mình khi có mâu thuẫn xuất hiện. Quan điểm
tự xét mình và tự kiềm chế này là hoàn toàn trái
ngược với triết lý đấu tranh và tấn
công của Ðảng Cộng sản Trung Quốc.
Ðấu tranh là thủ
đoạn chủ yếu của Ðảng Cộng sản
để chiếm đoạt quyền lực và duy trì
sự sinh tồn. Ðảng Cộng sản phát động
các phong trào chính trị có tính cách chu kỳ mà đàn áp
những nhóm người nào đó để củng cố
quyền lực và làm sống lại tinh thần
đấu tranh cách mạng của nó. Quá trình này
được lặp đi lặp lại cùng với
bạo lực và lừa dối, để tăng
cường và khơi lại nỗi sợ hãi của nhân
dân, rồi để duy trì quyền lực của nó.
Trên hình thái ý thức
mà nói, "triết học" mà Ðảng Cộng sản
dùng để sinh tồn là hoàn toàn trái ngược với
những gì Pháp Luân Công dạy.
2. Những người có chánh tín thì không sợ hãi, trong khi Ðảng Cộng sản Trung Quốc dựa vào sự sợ hãi của nhân dân để duy trì quyền lực chính trị
Những người
hiểu và biết được chân lý thì không còn sợ
hãi nữa. Cơ Đốc giáo bị đàn áp trong gần
300 năm. Nhiều người theo đạo Cơ
Đốc bị chém đầu, thiêu sống, hay bị
nhận chìm nước, hoặc ngay cả bị sư
tử ăn thịt, nhưng họ đã không từ
bỏ tín ngưỡng của mình. Khi Phật giáo trải
qua thời kỳ Pháp nạn trong lịch sử, những
Phật tử cũng đã biểu hiện sự thành tín
trung kiên tương tự như vậy.
Tuyên truyền của
những người theo thuyết vô Thần nhằm
mục đích làm cho mọi người tin rằng không có
thiên đường hay địa ngục, và không có
Thiện Ác báo ứng, để mọi người không
còn bị ràng buộc bởi lương tâm. Thay vào đó,
họ sẽ xem trọng vinh hoa và hưởng thụ
như là thực tại của thế giới này.
Nhược điểm trong nhân tính, sau đó có thể
bị thao túng, và sự đe dọa và cám dỗ mới có
thể được dùng để khống chế con
người hoàn toàn. Tuy nhiên, những người có lòng tin
mạnh mẽ có thể nhìn thấu qua giới hạn
của sinh tử. Những ảo ảnh của thế
giới trần tục không lay chuyển được tâm
của họ. Họ xem nhẹ những cám dỗ trần
tục và những uy hiếp mạng sống, do đó làm
cho Đảng Cộng sản trở nên bất lực
trong các nỗ lực hòng khống chế họ.
3. Tiêu chuẩn đạo đức cao của Pháp Luân Công làm cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc khó mà chịu nổi.
Sau vụ thảm sát
“mùng 4 tháng 6” năm 1989, hình thái ý thức của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã hoàn
toàn bị sụp đổ. Vào tháng 8/1991, Đảng
Cộng sản Liên Bang Sô Viết sụp đổ, theo sau
đó là những thay đổi lớn lao ở Đông Âu.
Điều này đã đem đến cho ĐCSTQ nỗi
sợ hãi và áp lực to lớn. Tính cách thống trị
hợp pháp và hy vọng sống còn của ĐCSTQ phải
đối mặt với những thử thách chưa
từng có khi nó phải đương đầu với
những khủng hoảng lớn cả ở trong và ngoài
nước. Vào thời gian đó, ĐCSTQ đã không còn có
thể thuyết phục các đảng viên của nó
bằng những học thuyết xưa cũ của
chủ nghĩa Marxism, Leninism và Maoism. Thay vào đó, nó đã
trở nên hoàn toàn thối nát hư hỏng để
đổi lấy sự trung thành của các đảng
viên. Nói cách khác, bất cứ ai đi theo Đảng
cũng sẽ được phép thu lợi cá nhân bằng
cách tham nhũng và biển thủ, một món lợi không
thể có đối với những ai không phải là
đảng viên. Đặc biệt là sau khi Đặng
Tiểu Bình đi thăm các địa phương ở
phía nam Trung Quốc năm 1992 [6], sự đầu cơ
trục lợi và tham nhũng của các viên chức chính
quyền trong các lãnh vực bất động sản và
thị trường chứng khoán đã trở nên không còn
có thể kiểm soát và kiêng nể gì nữa. Hôn nhân bất
hợp pháp và buôn lậu diễn ra ở khắp mọi
nơi. Phim ảnh khiêu dâm, cờ bạc và ma túy đã
trở thành tràn lan trên toàn bộ Trung Quốc. Mặc dù có
thể không công bằng nếu nói rằng không có một
người tốt nào trong Đảng Cộng Sản,
nhưng dân chúng đã từ lâu mất lòng tin vào nỗ
lực chống tham nhũng của Đảng, và cho rằng
hơn một nửa các viên chức chính quyền thuộc
trung cấp và cao cấp đều có liên quan đến
tham nhũng.
Đồng thời,
sự biểu lộ phong thái đạo đức cao
của các học viên Pháp Luân Công tu luyện theo “Chân
Thiện Nhẫn” đã khơi động được
sự thiện lương trong tâm của dân chúng. Hơn
một trăm triệu người đã chú ý đến
Pháp Luân Công và bắt đầu tu luyện. Cái gương
đạo đức của Pháp Luân Công, về mặt này,
đã chiếu ra được tất cả những
thứ bất chánh của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc.
4. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cực kỳ ghen tỵ với sự phát triển và hoạt động của Pháp Luân Công
Phương thức
phát triển của Pháp Luân Công là được truyền
từ người qua người, từ tâm truyền qua
tâm. Pháp Luân Công sử dụng phương thức quản
lý là tự do, đến và đi tùy thích. Điều này
rất khác với cách tổ chức nghiêm ngặt của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Bất
chấp sự việc có tổ chức nghiêm ngặt
thế nào, chuyện học chính trị và các hoạt
động tập thể diễn ra hàng tuần hay
nhiều hơn ở các chi bộ Đảng của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc chỉ tồn
tại trên hình thức.
Số đảng viên đồng ý với ý thức
hệ của Đảng hầu như là con số không.
Ngược lại, người tu luyện Pháp Luân Công
tự giác thực hành theo nguyên lý “Chân Thiện Nhẫn”.
Đồng thời Pháp Luân Công có thể cải thiện
sức khỏe, thân thể và tâm tánh của con
người, làm cho số người tu luyện Pháp Luân
Công đã tăng lên nhanh chóng. Những người tu
luyện tự nguyện, tự giác học các bài giảng
của Ông Lý Hồng Chí và tình nguyện quảng bá Pháp Luân
Công. Trong một thời gian ngắn khoảng 7 năm,
số lượng học viên Pháp Luân Công đã từ
số không lên đến có, rồi phát triển lên
đến 100 triệu người. Khi họ tập
luyện các bài công pháp vào buổi sáng, tiếng nhạc
tập luyện của Pháp Luân Công vang lên tại hầu
như tất cả các công viên ở Trung Quốc.
Đảng Cộng
Sản nói rằng Pháp Luân Công “tranh đoạt” quần
chúng với Đảng Cộng Sản Trung Quốc, và nói
rằng Pháp Luân Công là một “tôn giáo”. Trên thực tế,
những điều mà Pháp Luân Công đem đến cho
mọi người là một loại văn hóa và cách
thức sinh hoạt. Đó là gốc rễ của
truyền thống và văn hóa của tổ tiên truyền
lại mà người dân Trung Quốc từ lâu đã
đánh mất. Giang Trạch Dân và Đảng Cộng
Sản sợ Pháp Luân Công bởi vì một khi đạo
đức truyền thống này được công chúng
chấp nhận, thì không một sức mạnh gì có thể
ngăn cản việc nó được phổ biến
rộng rãi một cách nhanh chóng. Các tín ngưỡng
truyền thống của Trung Quốc đã bị bắt
buộc phải cắt đứt và bị sửa
đổi bởi Đảng Cộng Sản trong hàng
chục năm. Quay trở về với truyền thống
dân tộc chính là sự lựa chọn của lịch
sử. Đó là con đường trở về
được lựa chọn bởi đại đa
số người dân sau khi đã trải qua những
khổ nạn và đau đớn. Khi được cho
một sự lựa chọn như thế, mọi
người chắc chắn sẽ phân biệt rõ đúng
hay sai và sẽ ruồng bỏ, rời xa tà ác. Điều
này chắc chắn sẽ là một sự khước
từ và vứt bỏ căn bản đối với những
thứ mà Đảng cộng sản đã quảng bá.
Đây như là một cú đánh vào yếu điểm
chết người của ĐCSTQ. Khi số người
tu luyện Pháp Luân Công vượt quá số lượng
đảng viên của Đảng cộng sản, thì ai
cũng có thể tưởng tượng ra
được sự sợ hãi và ghen tỵ của
ĐCSTQ là lớn như thế nào.
Đồng thời,
ĐCSTQ thực hiện chính sách khống chế hoàn toàn
đối với mọi hoạt động của xã
hội. Ở nông thôn, các chi bộ của Đảng
Cộng sản tồn tại ở tất cả các làng
xã. Ở thành thị, các tổ chức Đảng có
thể được tìm thấy ở tất cả các
cơ quan hành chính khu vực, đường phố. Các
tổ chức của Đảng vươn tới
tận gốc rễ của quân đội, chính quyền
và các doanh nghiệp. Lũng đoạn tuyệt đối
và độc quyền điều khiển của nó là các
thủ đoạn trọng yếu mà ĐCSTQ sử
dụng để duy trì chính quyền. Trong "hiến
pháp" gọi hiện tượng này một cách hoa
mỹ là “sự kiên trì trong việc lãnh đạo của
Đảng”. Những người tu luyện Pháp Luân Công,
mặt khác, rõ ràng là lấy “Chân Thiện Nhẫn” làm tiêu
chuẩn để hành xử. ĐCSTQ coi điều này
như là từ chối sự lãnh đạo của
Đảng và điều này là tuyệt đối không
thể chấp nhận được đối với
Đảng.
5. Đảng Cộng sản coi sự tin tưởng vào thuyết "hữu Thần" của Pháp Luân Công là mối đe dọa cho sự nắm chính quyền một cách hợp pháp
Một tín
ngưỡng "hữu Thần" chân chính nhất
định sẽ là một khiêu chiến trọng
đại đối với Đảng Cộng Sản.
Bởi vì sự nắm quyền hợp pháp của
Đảng cộng sản được dựa trên
cơ sở của cái gọi là “chủ nghĩa duy vật
của lịch sử” và một mong muốn xây dựng
một “thiên đường nhân gian”, nó chỉ có thể
dựa vào “đội tiên phong" trên thế giới,
cũng chính là các lãnh đạo của "Đảng
Cộng sản". Đồng thời, sự thực
hành thuyết "vô Thần" đã cho phép Đảng
cộng sản diễn giải một cách tự do thế
nào là đạo đức, thế nào là Thiện và Ác.
Kết quả là, gần như không có chuẩn mực
đạo đức hay phân biệt rõ ràng giữa
thiện và ác để mà nói tới. Người dân
chỉ cần ghi nhớ là Đảng luôn luôn “vĩ
đại, vinh quang và chính xác”.
Tuy nhiên, thuyết
hữu Thần đem lại cho con người một tiêu
chuẩn không bao giờ thay đổi về Thiện và Ác.
Đối với những người tu luyện Pháp Luân
Công mà nói, thì đánh giá đúng hay không đúng, là dùng “Chân
Thiện Nhẫn” để cân nhắc đo lường.
Điều này rõ ràng đã gây trở ngại cho những
nỗ lực trước sau như một của ĐCSTQ
hòng “thống nhất tư tưởng" của
người dân.
Tiếp tục
với những phân tích này, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác
nữa. Tuy nhiên, bất cứ cái nào trong số năm nguyên
nhân trên cũng đã đủ chí tử cho ĐCSTQ. Trên
thực tế, Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công chính là
vì những lý do đó. Giang Trạch Dân đã bắt
đầu sự nghiệp của mình bằng những
dối trá về quá khứ của mình, nên tất nhiên là
hắn ta sợ “Chân”. Thông qua việc đàn áp nhân dân,
hắn nhanh chóng trở nên thành đạt và có quyền hành
trong tay, nên tất nhiên hắn ta ghét “Thiện”. Hắn duy
trì quyền lực của mình thông qua những cuộc
đấu tranh chính trị trong Đảng, nên tất nhiên
hắn ta không thích nghe “Nhẫn”.
Từ một sự việc nhỏ,
chúng ta có thể thấy Giang Trạch Dân cực kỳ
nhỏ mọn và ghen ghét như thế nào. Viện bảo
tàng Tàn Tích Văn Hóa Hà Mỗ Độ [7] ở huyện
Dư Diêu (hiện giờ đã được chuyển
thành thành phố), tỉnh Triết Giang là một
địa danh văn hóa và lịch sử quan trọng
được nhà nước bảo tồn. Đầu
tiên, Kiều Thạch [8] viết lời đề tựa
trên bảng hiệu của viện bảo tàng. Tháng 9/1992,
Giang Trạch Dân nhìn thấy chữ của Kiều
Thạch khi Giang đến thăm viện bảo tàng, và
hắn đã sa sầm nét mặt lại. Những
người đi theo rất lo lắng, vì họ biết
rằng Giang không thể chấp nhận được
Kiều Thạch, rằng Giang thích khoe khoang đến
mức hắn đi đến đâu cũng viết
lưu niệm, thậm chí ngay cả khi hắn đến
thăm phòng cảnh sát giao thông thuộc Sở Công An thành phố
Tế Nam và Hội Kỹ sư Hưu trí của thành
phố Trịnh Châu. Nhân viên viện bảo tàng không dám coi
thường tánh nhỏ mọn của Giang Trạch Dân. Vì
vậy, vào tháng 5/1993, với cái cớ là nâng cấp,
viện bảo tàng đã thay chữ của Kiều
Thạch bằng chữ của Giang trước khi tái khánh
thành.
Nghe nói Mao Trạch
Đông có “Hùng văn tứ quyển”, còn "Đặng
Tiểu Bình Văn Tuyển" có “lý thuyết mèo” [9]
một tư tưởng chủ nghiã thực dụng. Giang
Trạch Dân vắt kiệt óc mới chỉ có thể ra
được ba câu, nhưng hắn còn dám nói rằng
đã đưa ra học thuyết “Tam giảng”. Nó
được xuất bản thành một cuốn sách và
được ĐCSTQ quảng bá tại tất cả các
cấp chính quyền, nhưng nó chỉ có thể bán
được là vì mọi người bắt buộc
phải mua nó. Tuy nhiên các đảng viên vẫn không tôn
trọng Giang Trạch Dân một chút nào. Họ truyền
nhau những lời bàn tán về quan hệ của hắn
ta với một cô ca sĩ, các tình tiết đáng xấu
hổ về việc hắn hát bài “O Sole Mio” khi đi công
tác nước ngoài, và việc hắn chải đầu
trước mặt Vua Tây Ban Nha. Khi người sáng lập
Pháp Luân Công là Ông Lý Hồng Chí, xuất thân là một người
dân bình thường, giảng bài, hội trường
chật kín các giáo sư, chuyên gia và các sinh viên Trung Quốc
du học ở nước ngoài. Nhiều người có
học vị bác học tiến sĩ, thạc sĩ đã
bay hàng ngàn dặm đến để nghe các bài giảng
của ông. Khi Ông Lý giảng bài thì rất phong phú, rõ ràng trôi
chảy trên bục giảng trong nhiều giờ
đồng hồ, ông không phải dùng bất cứ
một lời ghi chép nào. Sau đó, bài giảng có thể
được ghi chép lại trên giấy và xuất bản
thành sách. Tất cả những điều này là không
thể chịu đựng được đối
với một người rỗng tuếch nhưng
lại đua đòi, ghen ghét và lòng dạ nhỏ mọn
như Giang Trạch Dân.
Giang Trạch Dân
sống một cuộc sống cực kỳ lãng phí,
đầy dâm dục và thối nát. Hắn ta tiêu 900
triệu đồng yuan (hơn 110 triệu đô la Mỹ)
để mua một chiếc máy bay xa xỉ để dùng
cho mình. Giang thường rút tiền từ các công quỹ,
khoảng hàng chục tỷ, để cho con trai của
hắn làm ăn buôn bán. Hắn đưa bà con họ hàng và
những kẻ bợ đỡ mình lên làm ở các chức
vụ cao cấp trên cả cấp bộ trưởng, và
hắn viện đến cả các biện pháp cực
đoan và liều lĩnh để che đậy việc
tham nhũng và các tội ác của phe cánh tay chân của mình.
Với tất cả những lý do này, Giang sợ uy lực
đạo đức của Pháp Luân Công, và hắn ta
lại càng sợ rằng các đề tài về thiên
đường, địa ngục, và nguyên lý thiện
hữu thiện báo, ác hữu ác báo mà Pháp Luân Công đề
cập đến là sự thật trên thực tế.
Mặc dù Giang nắm
trong tay quyền lực cao nhất trong ĐCSTQ, nhưng
bởi vì hắn thiếu thành tích và khả năng chính
trị, nên thường xuyên lo lắng rằng hắn
sẽ bị đánh bật ra khỏi vị trí quyền
lực giữa những cuộc đấu tranh giành
quyền lực tàn nhẫn của ĐCSTQ. Giang rất
nhạy cảm về địa vị của mình là trung
tâm của quyền lực. Để tiêu diệt những
người bất đồng với mình, hắn lén lút
bày mưu để trừ khử những kẻ thù chính
trị của hắn ta là hai anh em Dương
Thượng Côn và Dương Bạch Băng. Tại
Đại hội lần thứ 15 của Ban chấp hành
Trung ương (BCHTƯ) của Đảng cộng
sản năm 1997 và Đại hội lần thứ 16
của BCHTƯ năm 2002, Giang đã bắt buộc
những đối thủ của hắn phải rời
bỏ chức vụ. Nhưng mặt khác hắn đã
phớt lờ những quy định liên quan và kiên
quyết bám lấy vị trí của mình.
Năm 1989, Tổng bí
thư mới của ĐCSTQ Giang Trạch Dân tổ
chức một cuộc họp báo cho các phóng viên cả trong
và ngoài nước. Một phóng viên người Pháp hỏi
về câu chuyện của một nữ sinh viên, người
mà có liên quan đến cuộc vận động mùng 4
tháng 6 của sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn
đã bị đày đi cải tạo tại một nông
trại ở tỉnh Tứ Xuyên để vác gạch
từ chỗ này sang chỗ khác, và bị những nông dân
địa phương hãm hiếp nhiều lần. Giang
trả lời, “Tôi không biết điều ông nói có
phải là sự thực hay không, nhưng cô ta là một
kẻ gây rối bạo loạn. Vì vậy nếu
điều đó là sự thực thì cô ta cũng đáng
bị như vậy”. Trong Đại Cách mạng Văn
hóa, Trương Chí Tân [10] cũng bị hãm hiếp tập
thể và cổ họng của cô bị cắt khi bị
giam trong tù (để lúc bị xử tử cô ta không hô to
sự thật). Giang Trạch Dân có thể cũng nghĩ
rằng cô cũng đáng bị đối xử như
vậy. Chúng ta có thể dễ dàng thấy tính tàn bạo và
tâm lý biến thái như một kẻ lưu manh côn
đồ của Giang Trạch Dân.
Tóm lại, lòng ham
muốn quyền độc tài, sự tàn bạo, và nỗi
sợ hãi “Chân Thiện Nhẫn” của Giang Trạch Dân là
những nguyên nhân để hắn phát động cuộc
đàn áp Pháp Luân Công một cách phi lý. Điều này rất
đi sát với tổ chức của Đảng cộng
sản.
III. Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc lợi dụng lẫn nhau
Giang Trạch Dân
được biết đến vì thói khoe khoang và các
thủ đoạn chính trị của hắn. Giang nổi
tiếng về bất tài, và ngu dốt. Mặc dù toàn tâm
hắn có ý định “tiêu diệt” Pháp Luân Công mà xuất
ra từ sự phẫn uất cá nhân, nhưng hắn đã
không thể làm gì nhiều, bởi vì Pháp Luân Công có nguồn
gốc từ văn hóa truyền thống Trung Quốc và
đã trở nên phổ biến tới mức
được quần chúng trong xã hội chấp nhận
trên diện rộng. Tuy nhiên, các cơ chế bạo
ngược sử dụng bởi Đảng Cộng
Sản Trung Quốc (ĐCSTQ), đã được cải
tổ cho hoàn toàn qua nhiều phong trào chính trị, và đang
hoạt động toàn bộ, vì ĐCSTQ có ý định
nhổ tận gốc Pháp Luân Công. Giang Trạch Dân đã
lợi dụng địa vị của hắn là Tổng
bí thư của Đảng cộng sản và tự ý phát
động chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công. Hiệu
ứng của việc cấu kết và cộng
hưởng giữa Giang Trạch Dân và ĐCSTQ giống
như một trận tuyết lở gây ra bởi những
tiếng hò hét của người leo núi.
Trước khi Giang
chính thức ra lệnh đàn áp Pháp Luân Công, ĐCSTQ đã
bắt đầu ngăn cấm, theo dõi, điều tra và
bịa đặt với âm mưu nhằm buộc tội
Pháp Luân Công. Bởi vì một tổ chức tà giáo tà linh
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vốn có
bản năng tà ác, đã cảm thấy bị đe
dọa bởi sự tồn tại của “Chân Thiện
Nhẫn”, chưa kể đến sự phổ biến
nhanh chóng chưa từng có của pháp môn này. Những nhân
viên công an mật của ĐCSTQ đã thâm nhập vào Pháp
Luân Công ngay từ năm 1994, nhưng họ không thể tìm
được một lỗi nào, và một số thậm
chí đã bắt đầu tập luyện Pháp Luân Công
một cách nghiêm chỉnh. Năm 1996, tờ Quang Minh
Nhật Báo đã vi phạm “Ba Hạn chế”, một chính
sách của nhà nước đối với khí công (có
nghĩa là nhà nước không “ủng hộ, can thiệp
hay lên án” các hoạt động khí công), và đăng
một bài báo lăng mạ những tư tưởng
của Pháp Luân Công. Sau đó, những chính trị gia
xuất thân từ ngành công an và với danh hiệu là “khoa
học gia” liên tục quấy nhiễu Pháp Luân Công. Vào
đầu năm 1997, La Cán, Bí thư Ban Chính trị và Pháp
luật của Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ
lợi dụng quyền lực của mình và ra lệnh cho
Văn phòng Công an thực hiện một cuộc
điều tra trên toàn quốc đối với Pháp Luân
Công, mục đích là tìm cho ra những lỗi để bào
chữa cho sự việc ngăn cấm Pháp Luân Công. Sau khi
được báo cáo lên từ mọi nơi là không tìm
được bằng chứng hay vấn đề nào, La
Cán đã ra thông tư số 555 – “Thông báo về việc
bắt đầu một cuộc điều tra công khai
đối với Pháp Luân Công” thông qua Văn phòng thứ nhất
của Bộ Công an (còn gọi là Văn phòng An ninh Chính
trị). Đầu tiên hắn buộc tội Pháp Luân Công
là một “tà giáo” và sau đó ra lệnh cho các Sở Công an
trên toàn quốc điều tra một cách có hệ thống
đối với Pháp Luân Công, sử dụng các nhân viên
mật trà trộn nằm vùng để thu thập
chứng cứ. Cuộc điều tra đã không tìm
thấy chứng cứ nào để hỗ trợ cho
sự buộc tội của hắn ta.
Trước khi
ĐCSTQ, một tổ chức của lũ tà ma, muốn
bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công, nó cần phải có
một người then chốt để phát động
những cơ chế cho việc đàn áp. Lúc ấy
việc người lãnh đạo ĐCSTQ xử lý
vấn đề như thế nào sẽ có tác dụng
rất quan trọng. Là một cá nhân, người đứng
đầu Đảng Cộng Sản có thể có cả
Thiện và Ác – hai mặt đối lập của nhân tính.
Nếu ông ta chọn đi theo phần Thiện, thì ông ta có
thể tạm thời ức chế được sự
phát tác của Đảng tính tà ác; nếu không thì
'Đảng tính' tà ác sẽ hiển lộ ra tất
cả.
Trong phong trào sinh viên
đòi quyền dân chủ năm 1989, Triệu Tử
Dương, lúc đó là Tổng bí thư của ĐCSTQ,
hoàn toàn không có ý định đàn áp các sinh viên. Mà là tám
đảng viên lão thành đang nắm quyền kiểm soát
ĐCSTQ kiên quyết đàn áp sinh viên. Đặng Tiểu
Bình lúc đó nói rằng, “(Chúng ta sẽ) giết 200 ngàn người
để đổi lấy 20 năm ổn định”.
Cái gọi là “20 năm ổn định” này, thực ra có ý
nói là 20 năm nắm quyền của ĐCSTQ. Ý
tưởng này phù hợp với mục đích căn
bản trong sự độc tài chuyên chính của ĐCSTQ,
vì vậy nó đã được ĐCSTQ chấp thuận.
Liên quan đến
vấn đề Pháp Luân Công, trong số bảy Ủy viên
Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương ĐCSTQ, Giang Trạch Dân là người
duy nhất quyết định đàn áp. Cái cớ mà Giang
đưa ra là nó liên quan đến “sự sống còn
của Đảng và đất nước”. Điều
này đã động đến dây thần kinh nhạy
cảm nhất của ĐCSTQ và kích thích khuynh hướng
đấu tranh của ĐCSTQ. Nỗ lực của Giang
Trạch Dân nhằm duy trì quyền lực cá nhân của
hắn và nỗ lực của ĐCSTQ nhằm duy trì
quyền thống trị độc tài của một
Đảng duy nhất là được thống nhất
ở điểm này.
Buổi tối ngày
19/07/1999, Giang Trạch Dân chủ tọa một cuộc
họp gồm những viên chức cao cấp nhất của
ĐCSTQ. Giang với quyền lực chính trị của
mình đã bất chấp luật pháp, một mình “thống
nhất” nhận định của tất cả các thành
viên có mặt, tự mình quyết định phát
động một chiến dịch đàn áp đại quy
mô đối với Pháp Luân Công. Hắn lấy danh nghiã
chính quyền Trung Quốc để cấm ngặt Pháp Luân
Công ở mọi phương diện và lừa dối
người đời. Từ ĐCSTQ đến chính
quyền và dân Trung Quốc, và những cơ chế bạo
lực đã được sử dụng toàn bộ
triệt để trong một cuộc đàn áp mà trải
đến trời phủ cả đất đối
với hàng triệu học viên Pháp Luân Công vô tội.
Nếu Tổng bí
thư ĐCSTQ vào lúc đó là một ai khác chứ không
phải Giang Trạch Dân, thì cuộc đàn áp Pháp Luân Công
sẽ không xảy ra. Ở khía cạnh đó, chúng ta có thể
nói rằng Đảng cộng sản đã lợi
dụng Giang Trạch Dân.
Mặt khác, nếu
Đảng cộng sản đã không gây ra quá nhiều
nợ máu do bản tính lưu manh, vô đạo đức,
và man rợ của nó, thì nó sẽ không coi Pháp Luân Công như
là một hiểm họa. Nếu không có sự khống
chế toàn diện và rộng khắp của ĐCSTQ
đối với tất cả các bộ phận của
xã hội, thì ý định đàn áp Pháp Luân Công của Giang
Trạch Dân sẽ không đạt được sự
tổ chức, nguồn tài chính, và sự tuyên truyền, hay
ủng hộ của những người trong ngành
ngoại giao, nhân lực và máy móc, hay sự hỗ trợ
của hệ thống nhà tù, cảnh sát, Bộ An ninh
Quốc gia, và quân đội, hay cái gọi là “sự
ủng hộ” của giới tôn giáo, khoa học và kỹ
thuật, các đảng dân chủ, các công đoàn lao
động, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ,
v.v…Ở khía cạnh này, chúng ta có thể nói rằng Giang
Trạch Dân đã lợi dụng Đảng cộng
sản.
IV. Giang Trạch Dân lợi dụng Đảng Cộng Sản Trung Quốc như thế nào để đàn áp Pháp Luân Công
Bằng cách lợi
dụng nguyên tắc tổ chức của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là “toàn Đảng
phải phục tùng Trung Ương”, Giang Trạch Dân đã
lợi dụng guồng máy quốc gia do ĐCSTQ khống
chế để phục vụ mục đích đàn áp
Pháp Luân Công. Các tổ chức do ĐCSTQ khống chế bao
gồm quân đội, các cơ quan truyền thông, công an,
cảnh sát võ trang, các lực lượng an ninh quốc gia,
hệ thống tư pháp, Quốc hội, các nhân viên
ngoại giao, cũng như các nhóm ngụy tôn giáo. Quân
đội và cảnh sát võ trang, công an tất cả
đều thuộc quyền điều khiển của
ĐCSTQ, đã trực tiếp tham gia vào việc bắt cóc
và bắt giữ các học viên Pháp Luân Công. Các cơ quan
truyền thông ở Trung Quốc đã giúp đỡ
tập đoàn của Giang truyền bá những lời vu
khống dối trá nhằm bôi nhọ Pháp Luân Công. Hệ
thống an ninh quốc gia đã bị Giang Trạch Dân
lợi dụng trên tư cách cá nhân để thu thập tài
liệu và trình báo tin tức, bịa đặt ra những
lời giả dối vu khống, và cung cấp các tin tình
báo giả. Quốc hội và hệ thống tư pháp
đã khoác lên cái vỏ "hợp pháp", và bộ trang
phục “cai trị trong vòng
luật pháp” để bào chữa cho những tội
ác của Giang Trạch Dân và ĐCSTQ, thực sự đã
lừa dối được tất cả nhân dân. Họ
đã tự biến mình thành một công cụ để
phục vụ và bảo vệ Giang Trạch Dân.
Đồng thời, hệ thống ngoại giao đã
truyền bá những lời vu khống dối trá trong
cộng đồng quốc tế và lôi kéo chính phủ
ngoại quốc, các viên chức cao cấp và các cơ quan
truyền thông quốc tế bằng những món mồi
chính trị và kinh tế để họ giữ im lặng
về vấn đề đàn áp Pháp Luân Công.
Trong phiên họp
của Ban chấp hành Trung ương mà ở đó
lệnh đàn áp Pháp Luân Công được đưa ra
năm 1999, Giang Trạch Dân đã tuyên bố, “Tôi không tin
rằng Đảng cộng sản không thể chiến
thắng Pháp Luân Công”. Trong việc hoạch định
chiến lược đàn áp, có ba phương châm lớn
đã được đưa ra thực thi: “bôi nhọ
thanh danh [các học viên Pháp Luân Công], vắt kiệt tài chính,
và tiêu diệt thân thể”. Một chiến dịch đàn
áp toàn diện sau đó đã được tiến hành.
1. Lợi dụng các phương tiện truyền thông để ngăn chặn thông tin
Chính sách “bôi nhọ
thanh danh [các học viên Pháp Luân Công]” đã và đang
được thực hiện bởi những
phương tiện truyền thông nằm dưới
quyền khống chế tuyệt đối của
ĐCSTQ. Bắt đầu từ 22/07/1999, ngày thứ ba
của chiến dịch bắt giữ các học viên Pháp
Luân Công trên toàn quốc, những phương tiện
truyền thông do ĐCSTQ điều khiển bắt
đầu một cuộc công kích dữ dội toàn diện,
tuyên truyền để chống Pháp Luân Công. Hãy lấy
Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) có
trụ sở ở Bắc Kinh làm ví dụ. Trong những
tháng còn lại của năm 1999, CCTV phát 7 tiếng
đồng hồ mỗi ngày những đoạn băng
được dàn dựng trước, nhằm truyền
bá những lời vu khống bịa đặt về Pháp
Luân Công. Những người sản xuất các
chương trình này bắt đầu bằng cách bóp méo và
làm giả những lời giảng của Ông Lý Hồng Chí
là người sáng lập Pháp Luân Công, rồi sau đó xen
thêm vào những trường hợp của cái gọi là
tự tử, giết người, và tử vong bởi
từ chối điều trị y tế. Họ đã làm
mọi điều họ có thể làm để bôi nhọ
và vu khống về Pháp Luân Công và người sáng lập.
Trường hợp
được truyền bá nhiều nhất là bỏ
chữ “không” ra khỏi
điều Ông Lý Hồng Chí đã từng nói trong một
lần nói chuyện với mọi người, rằng
“Sự kiện về cái gọi là trái đất nổ
tung không tồn tại”. Chương trình của CCTV
đổi câu nói này thành: “Việc trái đất nổ tung
là có tồn tại”, và vì vậy đặt điều
rằng Pháp Luân Công tuyên truyền về ngày tận thế.
Những thủ đoạn dối trá cũng
được dùng để lường gạt công chúng,
ví dụ như trút tội của những phạm nhân bình
thường sang các học viên Pháp Luân Công. Một vụ
giết người do Phó Di Bân, một người bị
loạn thần kinh gây ra ở Bắc Kinh, và một vụ
đầu độc chết người do một kẻ
ăn xin ở tỉnh Triết Giang đều bị
đổ tội cho học viên Pháp Luân Công. ĐCSTQ sau
đó dùng các phương tiện truyền thông để
kích động sự thù hận trong công chúng là những
người đã bị ĐCSTQ lừa gạt, để
bào chữa và tìm sự ủng hộ cho cuộc đàn áp
đẫm máu mà không được lòng dân này.
Hơn 2000 tờ báo,
hơn 1000 quyển tạp chí, và hàng trăm đài phát thanh
và truyền hình địa phương dưới
quyền khống chế tuyệt đối của
ĐCSTQ đã hoạt động quá mức vì chiến
dịch tuyên truyền bôi nhọ toàn diện để
chống lại Pháp Luân Công. Những chương trình tuyên
truyền này còn được truyền bá xa hơn nữa
tới tất cả các nước khác thông qua các cơ
quan thông tấn của chính phủ Trung Quốc như Tân
Hoa Xã, Dịch vụ Tin tức Trung Quốc, Cơ quan thông
tấn Trung Quốc Hồng Kông, và các tổ chức
truyền tin khác ở hải ngoại do ĐCSTQ
điều khiển. Dựa trên thống kê chưa hoàn
tất, chỉ trong vòng 6 tháng, hơn 300 ngàn bài báo và
chương trình nhắm vào việc bôi nhọ Pháp Luân Công
đã được xuất bản hoặc phát đi trên
làn sóng phát thanh và truyền hình, đầu độc tâm trí
của vô số người mà đã bị ĐCSTQ
lường gạt.
Tại các Sứ quán
và Lãnh sự quán của Trung Quốc ở hải ngoại,
một số lượng lớn các tập truyền
đơn, đĩa CD, và bản tin phê bình và giả
vờ “vạch trần” Pháp Luân Công đã được
trưng bày. Các mục đặc biệt được
thiết lập trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung
Quốc để chỉ trích và “vạch trần” Pháp Luân
Công. Hơn nữa, tại hội nghị thượng
đỉnh Hợp tác Kinh tế Á Châu-Thái Bình Dương
(APEC) vào cuối năm 1999 tổ chức ở New Zealand,
Giang Trạch Dân đã hoàn toàn thêu dệt những lời
giả dối và phân phát các cuốn sách nhỏ phỉ báng
Pháp Luân Công cho tất cả các nguyên thủ quốc gia
của hơn 10 nước tham gia hội nghị. Ở
Pháp, Giang Trạch Dân trong sự vi phạm Hiến pháp Trung
Quốc, đã gọi Pháp Luân Công là một “tà giáo” khi nói
chuyện với các hãng thông tin quốc tế nhằm “bôi
nhọ thanh danh [các học viên Pháp Luân Công]”.
Đám mây đen
của cuộc đàn áp làm nghẹn quốc gia là dấu
hiệu cho thấy rằng một cái gì đó khủng
khiếp như Cách mạng Văn hóa lại sắp sửa
bắt đầu lần nữa .
Sự kiện đê tiện nhất để vu
khống Pháp Luân Công là vụ “tự
thiêu” dàn cảnh vào tháng 01/2001, đã truyền ra trên toàn
thế giới với tốc độ chưa từng có
thông qua Tân Hoa Xã. Sự kiện đó cho đến nay
đã bị nhiều tổ chức quốc tế chỉ
trích, gồm có cả Tổ chức Giáo dục và Phát
triển Quốc Tế phi chính phủ (NGO) của Liên
Hiệp Quốc ở Geneva, như là hành động do chính
quyền của ĐCSTQ dàn cảnh, bịa đặt
nhằm để lừa gạt người dân. Trong khi
thẩm vấn, một nhân viên của nhóm làm chương
trình truyền hình đó đã công nhận rằng một
số cảnh trên CCTV, trên thực tế, là đã được
quay lại sau này. Bản tính lưu manh của những
kẻ đàn áp đã quá rõ ràng. Người ta không thể
không tự hỏi làm sao mà những “đệ tử Pháp
Luân Công không nao núng trước cái chết” này (nói
đến những người tự thiêu) lại có
thể hợp tác như vậy với các nhà chức trách
ĐCSTQ để họ quay lại những cảnh
tự thiêu một lần nữa.
Không có lời dối
trá nào có thể tồn tại trong ánh sáng ban ngày. Trong khi
tuyên truyền, chế tạo những lời giả
dối, ĐCSTQ cũng đã làm tất cả những gì
nó có thể làm với quyền lực của nó để
phong tỏa tin tức. Nó không ngừng bịt miệng các
bản tin ở nước ngoài về các hoạt
động của Pháp Luân Công cũng như những
lời thanh minh hợp lý của các học viên Pháp Luân Công.
Tất cả các quyển sách của Pháp Luân Công và những
tài liệu khác đã bị tiêu hủy hết không còn
lại gì. Các biện pháp cực đoan đã
được sử dụng để ngăn chặn
không cho các hãng thông tin nước ngoài phỏng vấn các
học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc, bao gồm cả
việc trục xuất các ký giả ra khỏi Trung
Quốc, tạo áp lực với các hãng thông tin nước
ngoài, hay bắt buộc họ phải giữ im lặng
bằng cách đe dọa sẽ cấm họ không
được hoạt động ở Trung Quốc.
Đối với những
học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc cố gắng
gửi ra nước ngoài các sự thực về Pháp Luân
Công, và những tài liệu ghi lại sự đàn áp vô nhân
đạo của chính quyền Trung Quốc, ĐCSTQ
cũng áp dụng các biện pháp cực kỳ tàn bạo
để ngăn chặn và đàn áp họ. Lý Diễm Hoa,
một phụ nữ khoảng 60 tuổi sống ở
thành phố Đại Thạch Kiều tỉnh Liêu Ninh. Bà
bị cảnh sát bắt cóc khi đang phân phát những tài
liệu sự thực về cuộc đàn áp Pháp Luân Công
ngày 01/02/2001, và bị cảnh sát đánh đập
đến chết. Để che đậy những
tội ác của họ, cảnh sát nói rằng bà bị
chết là do “si mê Pháp Luân Công”.
Riêng ở
Trường Đại học Tổng hợp Thanh Hoa,
hơn một chục giảng viên và sinh viên bị phạt
tù rất nặng vì phân phát tài liệu sự thực
về Pháp Luân Công. Sau khi vạch rõ sự thực về
việc cô Nguỵ Tình Diễm, một học viên Pháp Luân
Công và là sinh viên cao học của Đại học
Tổng hợp Trùng Khánh bị hãm hiếp trong khi bị
giam giữ, bảy học viên Pháp Luân Công ở Trùng Khánh
đã bị kết án hình sự và bị phạt tù rất
nhiều năm.
2. Phạt tiền và kiểm kê lục soát nhà bừa bãi tước đoạt quyền lợi sinh tồn
Toàn bộ guồng
máy quốc gia của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) đã thực hiện chính sách “vắt
kiệt tài chính [của các học viên Pháp Luân Công]”. Trong hơn
5 năm kể từ khi cuộc đàn áp bắt
đầu, hàng trăm ngàn học viên Pháp Luân Công đã
bị phạt từ hàng ngàn đồng yuan cho đến
hàng chục ngàn đồng yuan để đe dọa
họ, và làm cho họ mất mát rất nhiều về
mặt tài chính. Không có một lời giải thích nào, các
chính quyền địa phương, các cơ quan, các
đồn cảnh sát và sở công an đã tùy tiện áp
dụng những hình phạt này. Những người
bị ép buộc phải nộp phạt không nhận
được bất cứ một hóa đơn thu
tiền nào và không được giải thích là họ
đã vi phạm luật lệ nào. Không có một thủ
tục hành chính hợp lệ nào.
Kiểm kê lục soát
nhà cửa là một hình thức khác của cướp bóc
và dọa nạt các học viên Pháp Luân Công. Những
người kiên định với tín ngưỡng của
mình đã phải đối mặt với việc bị
kiểm kê lục soát nhà cửa mà không có lệnh khám nhà.
Cảnh sát có thể khám xét nơi ở của họ
bất cứ lúc nào. Tiền mặt và những thứ giá
trị khác của họ đã bị tịch thu mà không có
một lời giải thích nào. Ở những khu vực
nông thôn, ngay cả lúa gạo dự trữ và những
sản phẩm lương thực khác cũng không thoát
khỏi bị tịch thu. Cũng tương tự, không
một thứ gì bị tịch thu từ các học viên Pháp
Luân Công là được ghi chép vào sổ sách của chính
quyền hay được cấp giấy biên nhận.
Thường thường những kẻ tịch thu tài
sản của các học viên giữ lại để làm
của riêng cho mình.
Đồng thời,
các học viên Pháp Luân Công cũng phải đối mặt
với hình phạt là bị sa thải . Ở những khu
vực nông thôn thì chính quyền đe dọa tịch thu
đất đai của các học viên. ĐCSTQ cũng
không bỏ qua những người già đã về hưu.
Lương hưu trí của họ cũng bị ngưng
trả, chính quyền cũng đuổi họ ra khỏi
nhà. Một số học viên Pháp Luân Công có doanh nghiệp
riêng đã bị tịch thu tài sản, và phong tỏa tài
sản ngân hàng.
Khi chấp hành
những biện pháp này, ĐCSTQ đã sử dụng lý do
'phạm tội vì liên đới'. Có nghĩa là, nếu
họ tìm thấy các học viên Pháp Luân Công ở bất kỳ
cơ quan, đơn vị hay công ty quốc doanh nào, thì lãnh
đạo và nhân viên của những cơ quan này sẽ
không được nhận thưởng và không
được thăng chức. Mục đích là
để xúi dục sự thù hận đối với các
học viên Pháp Luân Công trong xã hội. Họ hàng thân nhân
của các học viên Pháp Luân Công cũng phải đối
diện với những đe dọa bị đuổi
việc, con cái của họ sẽ bị đuổi
học, và bị đuổi ra khỏi nhà. Tất cả
những biện pháp này đều nhắm cùng một
mục đích là cắt đứt tất cả các
nguồn thu nhập của những học viên Pháp Luân Công
để bắt buộc họ phải từ bỏ tín
ngưỡng của mình.
3. Tra tấn tàn bạo và giết người bừa bãi
Chính sách rùng rợn
“tiêu diệt thân thể [của các học viên Pháp Luân Công]”
đã được thực hiện trước hết
bởi cảnh sát, các cơ quan công tố [11] và hệ
thống tòa án ở Trung Quốc. Dựa trên thống kê
chưa hoàn toàn của website Minh Tuệ, ít nhất 1,143 [12]
học viên Pháp Luân Công đã bị đàn áp đến
chết trong 5 năm qua kể từ ngày 20-7-1999. Số
trường hợp tử vong xảy ra ở trên 30
tỉnh, khu vực tự trị, và các thành thị
dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của
chính quyền trung ương. Khoảng 01/10/2004, tỉnh có
số người bị giết chết được
thống kê lớn nhất là Hắc Long Giang, theo sau là Cát
Lâm, Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Tứ Xuyên, và Hồ
Bắc. Người trẻ nhất bị giết hại
tuổi chỉ mới 10 tháng, người nhiều
tuổi nhất bị giết chết là 82 tuổi.
Phụ nữ chiếm 51.3%. Những người hơn 50
tuổi chiếm 38.8%. Các viên chức ĐCSTQ đã bí
mật công nhận rằng số học viên Pháp Luân Công
trên thực tế đã chết vì bị đàn áp còn cao
hơn nhiều.
Những thủ
đoạn tra tấn cực kỳ tàn bạo đối
với các học viên Pháp Luân Công là rất nhiều và
đủ kiểu. Đánh đập, quất gậy, roi
quất giật điện, bắt đứng ngoài
tuyết, trói bằng dây thừng, còng tay và cùm chân trong
thời gian dài, dùng lửa đốt, làm bỏng bằng
thuốc lá đang cháy hoặc sắt nung đỏ, bị
còng và treo lên không trung, bị bắt phải đứng hay
quỳ trong thời gian dài, bị đóng tăm tre hoặc
dây thép, bị xâm phạm tình dục, bị hãm hiếp…
đây chỉ là một vài ví dụ. Vào tháng 10/2000, cai
ngục ở Trại lao động cưỡng bách Mã Tam
Gia ở tỉnh Liêu Ninh lột hết quần áo của 18
học viên nữ và quẳng họ vào xà-lim nam để tù
nhân hãm hiếp và xâm phạm tùy thích. Tất cả những
tội ác này đã được ghi lại đầy
đủ và nhiều đến mức không thể
liệt kê hết được.
Một kiểu
phổ thông nữa trong số nhiều thủ đoạn
tra tấn vô nhân đạo là việc lạm dụng
“điều trị thần kinh”. Các học viên Pháp Luân Công
bình thường, rất có lý trí và khỏe mạnh đã
bị giam giữ bất hợp pháp trong các bệnh
viện tâm thần và bị tiêm những loại thuốc
không rõ tên, có khả năng hủy hoại hệ thần
kinh trung ương của con người. Kết quả
là một số học viên đã bị tàn phế một
phần hoặc toàn bộ thân thể. Một số đã
bị mù cả hai mắt hoặc điếc cả hai tai.
Một số bị hủy hoại da thịt hoặc các
cơ quan nội tạng. Một số đã bị
mất một phần hoặc toàn bộ trí nhớ và
bị trì trệ thần kinh. Các cơ quan nội tạng
của một số học viên đã bị hủy
hoại nghiêm trọng. Một số đã bị hoàn toàn
suy sụp thần kinh. Ngay cả có một số bị
chết sau khi bị tiêm thuốc không lâu.
Các thống kê cho
thấy rằng các trường hợp học viên Pháp Luân
Công bị đàn áp bằng thủ đoạn “điều
trị thần kinh” đã lan ra đến 23 trong số 33
tỉnh, khu tự trị, và thành phố dưới
quyền lãnh đạo trực tiếp của chính
quyền trung ương ở Trung Quốc. Ít nhất 100
bệnh viện thần kinh ở các cấp tỉnh, thành
phố, quận huyện đã tham gia vào việc đàn áp.
Dựa trên con số và sự phân phối của những
trường hợp này, rõ ràng là việc lạm dụng
thuốc thần kinh đối với các học viên Pháp
Luân Công là một chính sách từ trên xuống, có kế
hoạch kỹ càng và được thực hiện
một cách có hệ thống. Ít nhất có 1000 học viên
Pháp Luân Công có thần kinh hoàn toàn khỏe mạnh đã
bị cưỡng chế đưa đến các bệnh
viện thần kinh hay các trung tâm cai nghiện ma túy.
Nhiều người trong số họ đã bị
cưỡng chế tiêm hoặc nuốt nhiều loại
thuốc có khả năng hủy diệt hệ thần
kinh của con người. Các học viên Pháp Luân Công này
cũng bị trói bằng dây thừng và bị tra tấn
bằng dùi cui điện. Ít nhất 15 người đã
bị chết vì bị tra tấn quá dã man riêng theo cách này.
4. Phòng 610 vượt qua cả giới hạn của luật pháp
Ngày 07/06/1999, cá nhân
Giang Trạch Dân đã phỉ báng Pháp Luân Công một cách vô
căn cứ trong một buổi họp của Bộ chính
trị Trung Cộng. Hắn ta coi vấn đề Pháp Luân
Công như là một vấn đề “đấu tranh giai
cấp” để quyết định đàn áp toàn
diện đối với Pháp Luân Công, gọi các học
viên Pháp Luân Công là kẻ thù chính trị của Trung Cộng,
kích thích thần kinh đấu tranh của Trung Cộng, và
ra lệnh thiết lập “Phòng Xử lý Vấn đề
Pháp Luân Công” thuộc Ban chấp hành Trung ương. Vì nó
được thành lập vào ngày 10 tháng 6 nên nó
được gọi là “Phòng 610”. Sau đó, các phòng 610
đã được thiết lập trên toàn quốc ở
tất cả các cấp chính quyền, từ trên xuống
dưới, chuyên phụ trách tất cả các vấn
đề liên quan đến việc đàn áp Pháp Luân Công.
Ủy ban Chính trị và Luật pháp, các cơ quan truyền
thông, các cơ quan công an, các cơ quan công tố, tòa án, các
cơ quan an ninh quốc gia, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Ủy Trung Cộng
đều phải làm việc như những tên lưu manh
đâm thuê chém mướn cho Phòng 610. Phòng 610 về mặt
hình thức là chịu trách nhiệm trực tiếp
trước Hội đồng Quốc gia nhưng trên
thực tế nó là một tổ chức Đảng
được phép tồn tại ngoài khuôn khổ của
quốc gia và chính phủ Trung Quốc, không phải chịu
bất cứ giới hạn luật pháp, quy định hay
chính sách quốc gia nào. Nó là một tổ chức toàn
quyền rất giống với Gestapo của Đức
Quốc xã có mọi quyền lực vượt trên cả các
hệ thống luật pháp và tòa án, sử dụng các
nguồn lực tài nguyên của đất nước
một cách tùy ý. Ngày 22/07/1999, sau khi Giang Trạch Dân ra
lệnh đàn áp Pháp Luân Công, Tân Hoa Xã đã công bố các bài
phát biểu của những người phụ trách Ban
tổ chức Trung ương ĐCSTQ và Ban Tuyên Truyền
Trung ương ĐCSTQ hoàn toàn ủng hộ cuộc
đàn áp Pháp Luân Công do Giang Trạch Dân phát động.
Tất cả những cơ quan này hợp tác với nhau
dưới sự tổ chức chặt chẽ của
ĐCSTQ để thực thi mưu đồ độc
ác của Giang Trạch Dân.
Đã có quá nhiều
trường hợp chứng tỏ rằng các cơ quan
công an, các cơ quan công tố, các tòa án nhân dân không có
quyền quyết định đối với các
trường hợp liên quan đến Pháp Luân Công. Họ
phải tuân theo lệnh của Phòng 610. Khi các thân nhân
của nhiều học viên Pháp Luân Công bị bắt,
bị giam và bị tra tấn đến chết, họ
chất vấn và khiếu nại các cơ quan công an, các
cơ quan công tố, các tòa án nhân dân, họ được
thông báo là Phòng 610 sẽ quyết định tất cả.
Tuy nhiên, sự
tồn tại của Phòng 610 không dựa trên cơ sở
pháp lý nào cả. Khi nó ra lệnh cho tất cả các cơ
quan trong hệ thống của ĐCSTQ, thông thường
là không có văn bản chỉ thị hay thông báo gì cả,
mà chỉ có thông báo bằng miệng. Hơn nữa, nó quy
định rằng tất cả những ai nhận
lệnh đều bị cấm ghi âm, ghi hình và ngay cả
cả không được ghi chép điều gì lên giấy.
Việc sử
dụng loại cơ quan độc tài tạm thời này
là một ngón đòn mà ĐCSTQ thường tái diễn, hoàn
toàn bất chấp luật pháp. Trong tất cả các phong
trào thanh trừ chính trị trước đây, Đảng
luôn luôn sử dụng các thủ đoạn bất chính và
thiết lập các cơ quan tạm thời bất chính
như Đội Cách mạng Văn hóa Trung ương
để chỉ huy và truyền rộng chính sách tàn bạo
của Đảng Cộng Sản ra toàn bộ đất
nước.
Trong quá trình cầm
quyền bạo lực lâu dài và thống trị với
đè nén mạnh mẽ, Đảng đã tạo ra một
hệ thống khủng bố tà ác nhất và tàn bạo
nhất của quốc gia, sử dụng bạo lực,
chế tạo dối trá và phong tỏa thông tin. Sự vô
nhân đạo và cấp độ lừa gạt của nó
đã đạt đến mức chuyên nghiệp cao. Trình
độ và sự sắp đặt theo qui củ của
hệ thống khủng bố này là chưa từng có. Trong
tất cả các cuộc vận động chính trị
trước đó, Đảng đã tích lũy
được các thủ đoạn và kinh nghiệm có hệ
thống và có hiệu lực để phạt vạ, làm
hại và giết hại người dân theo những
thủ đoạn dã man nhất, xảo quyệt nhất
và lật lọng nhất không thể tưởng
tượng được. Trong một trường
hợp được nhắc đến trước
đây, người chồng đã không thể chịu đựng
được những đe dọa và quấy nhiễu
của cảnh sát, nên đã giết chết người
vợ tốt bụng của mình. Đây là quả ác
của chính sách khủng bố mang tính cách toàn quốc
của ĐCSTQ, bao gồm việc lừa gạt dân chúng
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
tạo áp lực về mặt chính trị, đàn áp cả
những người có liên quan, và đe dọa nhằm
mục đích làm biến dị nhân tính và kích động
lòng thù hận.
5. Sử dụng quân đội và các nguồn lực tài chính của quốc gia vào việc đàn áp
Đảng Cộng
Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) khống chế tất
cả các lực lượng quân đội của
quốc gia, cho phép nó làm mọi thứ mà nó muốn mà không cần
sợ sệt điều gì khi nó đàn áp nhân dân. Trong
chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân không
chỉ sử dụng cảnh sát và cảnh sát võ trang, mà còn
trực tiếp sử dụng cả quân đội vào
khoảng tháng bảy và tháng tám năm 1999, khi hàng trăm
ngàn và ngay cả hàng triệu dân thường tay không từ
khắp nơi trong toàn quốc định đến
Bắc Kinh để thỉnh nguyện cho Pháp Luân Công, thì
quân đội đã chực sẵn ở các vị trí trong
thành phố Bắc Kinh. Tất cả các con
đường lớn dẫn đến Bắc Kinh
đều có quân lính đứng xếp hàng mang theo súng có
đạn. Họ hợp tác với cảnh sát để
ngăn chặn và bắt giữ các học viên Pháp Luân Công
đến thỉnh nguyện. Sự kiện Giang Trạch
Dân trực tiếp điều động quân đội
của ĐCSTQ đã mở đường cho chiến
dịch đàn áp đẫm máu.
Đảng Cộng
Sản Trung Quốc khống chế các nguồn lực tài
chính của quốc gia. Điều này đã cung cấp
khả năng tài chính cho Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân
Công. Một viên chức cao cấp của Sở Tư pháp
Tỉnh Liêu Ninh đã từng nói trong một cuộc
họp ở Trại Lao Động Cưỡng Bách Mã Tam
Gia ở tỉnh Liêu Ninh rằng, “Các nguồn lực tài
chính được dùng để xử lý Pháp Luân Công
đã vượt quá chi phí cho một cuộc chiến
tranh”.
Vẫn chưa rõ là
Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ) đã
sử dụng bao nhiêu nguồn lực kinh tế quốc
gia và kết quả lao động cực nhọc của
người dân để đàn áp Pháp Luân Công. Nhưng,
cũng không khó để chúng ta có thể thấy rằng nó
là một con số khổng lồ. Năm 2001, tin tức
từ bên trong Bộ Công An của Đảng Cộng
Sản đã cho thấy rằng chỉ riêng ở quảng
trường Thiên An Môn, chi phí để bắt giữ các
học viên Pháp Luân Công là 1,7 đến 2,5 triệu
đồng yuan mỗi ngày, hay 620 đến 910 triệu
đồng yuan mỗi năm. Trên toàn quốc, từ thành
thị cho đến các vùng nông thôn hẻo lánh, từ
cảnh sát ở các đồn cảnh sát và các sở công
an cho đến nhân viên của tất cả các chi nhánh
của Phòng 610, Giang Trạch Dân đã sử dụng ít
nhất một vài triệu người để đàn áp
Pháp Luân Công. Chỉ riêng chi phí trả lương cũng
đã có thể vượt quá 100 tỷ đồng yuan
mỗi năm. Hơn nữa, Giang Trạch Dân đã tiêu
một số lượng tiền khổng lồ
để mở rộng các trại lao động
cưỡng bách để giam giữ các học viên Pháp Luân
Công, và xây dựng các trung tâm và cơ sở tẩy não. Ví
dụ, vào tháng 12/2001, Giang Trạch Dân đã tiêu 4,2 tỷ
đồng yuan chỉ riêng trong một lần chi
để xây dựng các trung tâm và cơ sở tẩy não
để “cải tạo” các học viên Pháp Luân Công. Giang
Trạch Dân cũng sử dụng tiền thưởng
để kích động và khuyến khích nhiều
người hơn tham gia vào chiến dịch đàn áp Pháp
Luân Công. Ở nhiều khu vực, giải thưởng cho
việc bắt giữ một học viên Pháp Luân Công là vài
ngàn hoặc ngay cả mười ngàn đồng yuan.
Trại lao động cưỡng bách Mã Tam Gia ở
tỉnh Liêu Ninh là một trong những nơi tà ác nhất
trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công. ĐCSTQ đã từng
thưởng cho giám đốc trại tên là Tô 50 ngàn
đồng yuan và phó giám đốc tên là Thiệu 30 ngàn
đồng yuan.
Giang Trạch Dân, cựu Tổng bí
thư của ĐCSTQ là người đã phát động
cuộc đàn áp Pháp Luân Công và cũng là người
hoạch định và chỉ huy cuộc đàn áp. Hắn
đã lợi dụng các cơ chế của ĐCSTQ
để phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công.
Hắn ta không thể trốn thoát khỏi trách nhiệm
đối với tội ác lịch sử này. Tuy nhiên,
nếu không có ĐCSTQ với những cơ chế bạo
lực của nó mà được hình thành qua nhiều
cuộc vận động chính trị thì Giang Trạch Dân
sẽ không có cách nào để phát động và thực
hiện cuộc đàn áp tà ác này.
Giang Trạch Dân và
ĐCSTQ đã lợi dụng lẫn nhau. Họ đã
liều lĩnh thử thời vận trong sự lên án
của tất cả mọi người về cuộc
đàn áp, vì quyền lợi của một người và
một Đảng mà phản đối " Chân Thiện
Nhẫn". Sự cấu kết của họ là nguyên
nhân thực sự tại sao một trường tội ác
đáng ghê tởm và ngu xuẩn như vậy lại có
thể xảy ra.
V. Giang Trạch Dân đánh đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc từ nội bộ
Vì lợi ích cá nhân thúc đẩy, Giang Trạch
Dân đã lợi dụng sự tà ác mà Đảng cộng
sản vốn có để phát động một cuộc
đàn áp khổng lồ nhắm vào những người tu
luyện vô tội tin theo “Chân Thiện Nhẫn”. Hắn
đã phát động một phong trào trừng phạt
một lực lượng mà có lợi nhất và không có
hại cho xã hội. Cuộc đàn áp này không những
chỉ lôi kéo cả quốc gia và dân chúng vào tội ác và thảm
họa, mà cuối cùng còn đánh đổ Đảng
Cộng Sản từ nền móng căn bản nhất
của nó.
Giang Trạch Dân
đã lợi dụng ĐCSTQ để sử dụng không
ngừng tất cả các thủ đoạn tà ác nhất
trên thế giới để đàn áp Pháp Luân Công. Luật
pháp, đạo đức và nhân tính, tất cả
đều phải chịu những sự phá hại
nặng nề. Điều đó đã hủy hoại
từ tận gốc các cơ sở thống trị của
chính quyền quốc gia .
Tập đoàn
của Giang đã sử dụng tất cả những
nguồn lực tài chính, vật chất và con người
để đàn áp Pháp Luân Công, gây ra một gánh nặng khổng
lồ cho quốc gia và xã hội với áp lực vô cùng
nặng nề lên hệ thống tài chính. ĐCSTQ không có
cách nào để duy trì cuộc đàn áp mà chắc chắn
là sẽ thất bại trong một thời gian dài. Nó
chỉ có thể dùng tiền tiết kiệm của
người dân, phát hành công trái, và thu hút đầu tư
ngoại quốc để tiếp tục duy trì cuộc
đàn áp.
Trong cuộc đàn
áp, ĐCSTQ và Giang Trạch Dân đã nghĩ ra đủ các
loại thủ đoạn xảo quyệt, lưu manh và
tàn bạo, sử dụng hết tất cả những
thủ đoạn lừa lọc dối trá và tà ác mà nó
vốn có, để đàn áp Pháp Luân Công.
ĐCSTQ và Giang
Trạch Dân đã sử dụng tất cả những công
cụ tuyên truyền có thể có để bịa
đặt vu khống và bôi nhọ Pháp Luân Công, và bào
chữa cho cuộc đàn áp và bức hại. Tuy nhiên, không
lời dối trá nào có thể kéo dài mãi mãi. Một khi
những lời dối trá cuối cùng bị vạch
trần, và khi tất cả những bản chất tà ác
bộc lộ ra, sau khi cuộc đàn áp thất bại ,
mọi người đều thấy rõ những
điều đó, thì các thủ đoạn tuyên truyền
của họ sẽ không còn có thể lường gạt
người ta được nữa. Đảng sẽ
hoàn toàn mất đi lòng tin tưởng và sự tín
nhiệm của người dân.
Vào lúc bắt
đầu của cuộc đàn áp Pháp Luân Công năm 1999,
Giang Trạch Dân định giải quyết vấn
đề Pháp Luân Công trong vòng “ba tháng”. Nhưng, ĐCSTQ
đã đánh giá quá thấp sức mạnh của Pháp Luân
Công, đánh giá quá thấp sức mạnh của truyền
thống và lòng tin.
Từ thời cổ
xưa tới nay, Tà không áp chế được Chính. Tà ác
là không thể “xóa sạch” thiện lương trong tâm
của người ta. Năm năm đã trôi qua. Pháp Luân
Công vẫn là Pháp Luân Công. Hơn nữa, Pháp Luân Công đã
truyền bá rộng rãi trên toàn thế giới. Giang
Trạch Dân và Đảng Cộng Sản đã phải
chịu một thất bại thảm hại trong cuộc
chiến đấu giữa chính và tà này. Và bản tính tà ác,
tàn bạo lưu manh và xảo quyệt của chúng đã
bị vạch trần toàn bộ. Giang Trạch Dân khét
tiếng giờ đây đã bị ngập trong rắc
rối tại trong và ngoài nước, và đang phải
đối mặt với nhiều vụ kiện và các yêu
cầu đưa hắn ra trước công lý.
Đầu tiên
Đảng Cộng Sản Trung Quốc định lợi
dụng cuộc đàn áp để củng cố chính
quyền bạo lực của nó. Tuy nhiên, kết quả là
nó không thể “nạp điện” mà lại tiêu hết
tất cả năng lượng của bản thân.
Giờ đây, Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đã đi quá mức mà không còn thuốc cứu. Nó bây
giờ chỉ giống như là một cái cây héo tàn, hư
hỏng. Tự nó sẽ phải ngã gục trong một
cơn gió. Mọi hy vọng viễn vông hòng cứu vớt
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đều là đi
ngược lại trào lưu lịch sử. Nó không
chỉ ở trong vô vọng thôi, mà còn hủy diệt
cả tương lai của những ai tham dự vào.
Lời kết
Cựu tổng bí
thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Giang
Trạch Dân là người đã phát động, hoạch
định, và chỉ huy cuộc đàn áp tà ác. Giang
Trạch Dân đã lợi dụng tất cả quyền
lực, địa vị, các thủ đoạn ép
người vào kỷ luật, và cơ chế cho các
cuộc vận động chính trị của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc để phát động
cuộc đàn áp Pháp Luân Công này. Hắn phải chịu
trách nhiệm cho tội ác lịch sử này. Mặt khác,
nếu không có Đảng Cộng Sản Trung Quốc thì
Giang Trạch Dân sẽ không thể phát động và
tiến hành cuộc đàn áp tà ác này. Từ ngày
được thành lập, Đảng Cộng Sản
Trung Quốc đã chống lại chính nghĩa và thiện
lương. Lấy trấn áp làm thủ đoạn
và bức hại làm chuyên môn, Đảng Cộng Sản
Trung Quốc đã đặt nền tảng thống
trị trên việc khống chế chặt chẽ tư
tưởng của người dân để họ
phải theo một Đảng duy nhất. Với bản
tính của Đảng cộng sản, nên nó sợ “Chân
Thiện Nhẫn” và coi Pháp Luân Công như là kẻ thù. Do
đó, việc nó đàn áp và bức hại Pháp Luân Công là
không thể tránh khỏi. Trong khi tấn công “Chân Thiện
Nhẫn”, Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản
Trung Quốc đã tạo cơ hội cho sự giả
dối, tà ác, bạo lực, đầu độc, tàn
bạo và tham nhũng thối nát được phát
triển tràn lan. Theo sau đó là sự phổ biến
của đạo đức tuột dốc ở Trung
Quốc mà ảnh hưởng đến tất cả
mọi người.
Sự lợi
dụng lẫn nhau giữa Đảng Cộng Sản Trung
Quốc và Giang Trạch Dân đã trói số phận của
cả hai với nhau. Pháp Luân Công hiện đang kiện Giang
Trạch Dân. Ngày mà Giang bị đưa ra trước công
lý, thì số phận của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc sẽ hiển lộ rõ ràng.
Trời Đất không dung tha những kẻ
đã tiến hành cuộc đàn áp vô nhân tính, chống
lại những người tốt và tu luyện theo “Chân Thiện
Nhẫn”. Những hành động tà ác của Giang Trạch
Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng sẽ
trở thành một bài học sâu sắc và vĩnh cửu
cho nhân loại.
Chú Thích
[1] Tin
tức chi tiết về trường hợp này có thể
tìm thấy lại các địa chỉ sau:
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2004/7/23/50560p.html,
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2004/6/7/48981p.html
[2]
Thông tin chi tiết về trường hợp này có thể
tìm thấy lại các địa chỉ sau:
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2004/9/25/52796.html.
[3]
Thông tin liên quan cũng có tại địa chỉ:
http://search.minghui.org/mh/articles/2004/7/9/79007.html (tiếng Hán)
[4] Lý Tiên Niệm (1902 – 1992),
cựu chủ tịch Trung Quốc (1983-1988) và chủ
tịch Hội nghị Cố vấn Chính trị Nhân dân
Trung Quốc (1988-1992). Ông ta là bố vợ của Giang
Trạch Dân. Trần Vân (1905-1995), một trong những lãnh
đạo có ảnh hưởng nhất của Cộng
sản Trung Quốc. Trần Vân là Ủy viên thường
trực Bộ Chính trị trong hàng thập kỷ và là
chủ tịch của Ban Cố vấn Trung ương
từ 1987 đến 1992.
[5] Khí công là một tên gọi chung
để chỉ việc tu luyện. Có rất nhiều môn
khí công, phần lớn bắt nguồn từ các tín
ngưỡng tinh thần truyền thống. Pháp Luân Công là
một môn khí công.
[6] Năm 1992, Đặng Tiểu Bình
bước ra khỏi thời kỳ bán nghỉ hưu, và
đi thăm Thẩm Quyến ở miền nam Trung
Quốc gần Hồng Kông và có các bài phát biểu
để xúc tiến nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
Chuyến đi thăm của Đặng được
coi là đã khởi động lại chính sách cải cách
kinh tế của Trung Quốc sau khi tạm lắng xuống
sau vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn
năm 1989.
[7] Được phát hiện năm
1973, Tàn tích Văn hóa Hà Mỗ Độ, 7 nghìn năm
tuổi, là một tàn tích quan trọng của một ngôi
làng ở thời kỳ đồ đá mới ở Trung
Quốc.
[8] Kiều
Thạch là cựu chủ
tịch quốc hội Trung Quốc.
[9] Đặng đã từng nói, “Mèo
trắng hay mèo đen đều tốt nếu nó bắt
được chuột”, ý nói rằng mục tiêu của
cải cách kinh tế là đem lại sự thịnh
vượng cho nhân dân bất kể với hình thức xã
hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa.
[10] Trương
Chí Tân là một nữ trí thức bị ĐCSTQ tra
tấn đến chết trong Đại Cách mạng
Văn hóa vì dám nói lên sự thực.
[11] Cơ quan nhà nước của Trung
Quốc phụ trách việc khởi tố và giám sát
luật pháp. Các chức năng của nó bao gồm
quyết định bắt và khởi tố các vụ án
hình sự nghiêm trọng, thực hiện việc
điều tra, khởi đầu và hỗ trợ quá trình
công tố, diễn giải luật pháp trong những
trường hợp cụ thể, giám sát các quyết
định của tòa án, theo dõi các thủ tục pháp lý, và
giám sát các hoạt động của hệ thống nhà tù,
trại giam và trại lao động cưỡng bức.
[12] Từ ngày 19 tháng 12 năm 2004
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
Bài bình luận số 6
Đảng Cộng Sản Trung Quốc phá hoại văn hoá dân tộc
Lời mở đầu
Bảng
hiệu tuyên truyền cho chiến dịch "Phê bình Lâm
Bưu và Khổng Tử" (AFP/Getty Images)
|
Văn hóa là linh
hồn của một dân tộc. Đối với nhân
loại yếu tố tinh thần này cũng quan trọng
ngang như yếu tố vật chất là giống nòi và
đất đai.
Lịch sử
nền văn minh của một dân tộc là lịch
sử của các sự phát triển văn hóa. Sự phá
hủy hoàn toàn văn hóa của một dân tộc dẫn
tới sự diệt vong của dân tộc đó. Những
dân tộc cổ xưa sáng tạo ra các nền văn minh
huy hoàng đã bị xem như biến mất khi văn hóa
của chúng biến mất, mặc dù người của
các dân tộc đó vẫn tồn tại. Trung Quốc là
quốc gia duy nhất trên thế giới có nền văn
minh cổ đã liên tục trải qua trên 5000 năm.
Sự phá hủy nền văn hóa truyền thống là
một tội ác không thể tha thứ.
Nền văn hóa Trung
Quốc, được tin là do Trời truyền xuống,
đã bắt đầu bởi những thần thoại
như sự tạo ra trời và đất của Bàn
Cổ [1], sự tạo ra con người của Nữ Oa
[2], sự xác định hàng trăm cây thuốc của
Thần Nông [3], và sự phát minh ra chữ Trung Quốc
của Thương Hiệt [4]. “Người thuận theo
Đất, Đất thuận theo trời, Trời
thuận theo Đạo, và Đạo thuận theo Tự
nhiên”[5]. Sự uyên thâm về sự hòa hợp giữa
người và trời của Đạo gia đã chảy
trong huyết mạch của nền văn hóa Trung Quốc.
“Cái đạo của Đại Học là rõ ràng ở
chỗ Đức sáng”[6]. Khổng Tử đã mở
một trường để dạy học hơn 2000
năm trước và đã truyền bá ra xã hội tư
tưởng Nho gia mà đại biểu gồm năm
đức hạnh chính là nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín.
Trong thế kỷ đầu tiên, Phật pháp của
Phật giáo đã truyền sang phương đông tới
Trung Quốc với sự nhấn mạnh vào tính Thiện
và sự cứu độ tất cả các chúng sinh, đó
là “từ bi phổ độ”. Nền văn hóa Trung
Quốc đã được phong phú thêm. Sau đó, Nho gia,
Đạo gia, và Phật gia đã trở thành các niềm
tin bổ xung cho nhau trong xã hội Trung Quốc, đưa
triều đại nhà Đường (618-907 sau công nguyên)
lên đến đỉnh của sự huy hoàng và thịnh
vượng, được biết đến trên
khắp thế gian.
Mặc dù dân tộc
Trung Quốc đã trải qua nhiều lần bị phá
hoại và đả kích trong lịch sử, nền văn
hóa truyền thống của Trung Quốc đã chứng
tỏ là có sức sống, sức dung hợp cực
kỳ to lớn, và tinh hoa của nó đã liên tục
được truyền xuống. Sự hợp nhất
giữa trời và người
đại biểu cho quan niệm về vũ trụ
của tổ tiên chúng ta. Mọi người đều tin
rằng ở hiền gặp lành, và ở ác gặp ác.
Một đức hạnh cơ bản là 'đừng làm
cho người khác những gì mình không muốn'. Trung,
hiếu, tiết, nghĩa là tiêu chuẩn cho cách làm
người trong xã hội, và năm đức hạnh
chính của Nho gia là nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín đã
đặt ra nền tảng đạo đức cho
từng cá nhân và toàn xã hội. Văn hóa của Trung Hoa
thể hiện ra Thành (thành thật), Thiện (lương
thiện), Hòa (hòa vi quý), Dung (bao dung) những đặc
điểm ưu tú này. Sự tưởng nhớ chung
tới những người đã quá cố của
người Trung Quốc cho thấy lòng sùng kính tới
“trời, đất, vua, cha mẹ và thầy giáo”. Đây là
sự biểu lộ văn hóa của các truyền
thống gốc rễ của Trung Quốc, nó bao gồm
sự kính trọng thần thánh, trời và đất (Thiên
Địa), sự trung thành với quốc gia (Quân), các giá
trị của gia đình cha mẹ (Thân), và sự kính
trọng thầy giáo (Sư). Nội hàm vững chắc
của văn hóa là “Tôn sư trọng đạo”. Văn
hóa Trung Quốc truyền thống đã tìm kiếm sự
hài hòa giữa con người và vũ trụ, và đã chú
trọng vào đạo đức và luân lý của từng
cá nhân. Nó đã có cơ sở trên tín ngưỡng tu
luyện của Đạo Khổng, Đạo Phật, và
Đạo Lão, và đã cung cấp cho người Trung
Quốc lòng khoan dung, sự tiến bộ xã hội, sự
bảo vệ đạo đức con người, và
niềm tin chân chính.
Không giống như
pháp luật, mô tả các quy định cứng nhắc,
văn hóa hoạt động như một chế
ước mềm mại. Pháp luật thi hành trừng
phạt sau khi một tội ác bị phạm phải, trong
khi văn hóa, bằng cách giáo dục cho có đạo
đức, ngăn ngừa các tội ác không cho xảy ra
từ trong trứng nước. Giá trị luân lý
đạo đức của một xã hội thường
phản ảnh cụ thể từ bên trong văn hóa
của nó.
Trong lịch sử
Trung Quốc, văn hóa truyền thống đã đạt
tới đỉnh điểm của nó trong triều
đại nhà Đường thịnh vượng, hội
tụ tới đỉnh cao quyền lực của
quốc gia Trung Quốc. Khoa học cũng tiến bộ
và có được danh tiếng độc nhất vô
nhị với tất cả các quốc gia khác. Các học
giả từ Châu Âu, Trung Đông, và Nhật Bản đã
đến để học tập tại Trường
An, kinh đô của triều đại nhà
Đường. Những đất nước quanh Trung
Quốc đã xem Trung Quốc như là nước tông
chủ. “Nhiều quốc gia đã đến để
triều cống Trung Quốc, dù rằng phải qua
nhiều tầng phiên dịch và phải thông qua nhiều
thủ tục.” [7]
Sau triều
đại nhà Tần (221-207 trước Công Nguyên(CN)), Trung
Quốc thường bị chiếm bởi những dân
tộc thiểu số. Điều này đã xảy ra trong
các triều đại nhà Tùy (581-618 sau CN), Đường
(618-907 sau CN), Nguyên (1271-1361 sau CN) và Thanh (1644-1911 sau CN) và
trong một số lần khác khi những dân tộc
thiểu số thành lập chế độ của riêng
họ. Tuy nhiên, hầu như tất cả các dân tộc
này đã bị đồng hóa theo các cách của
người Trung Quốc. Điều này cho thấy sức
mạnh đồng hóa to lớn của văn hóa Trung
Quốc truyền thống. Như Khổng Tử đã nói,
“(Vì vậy) nếu người phương xa không tuân theo,
thì thu phục họ bằng cách tu Văn và Đức
(của chúng ta)”[8].
Từ khi nắm
quyền lực năm 1949, Đảng Cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) đã dành các tài nguyên quốc gia vào
việc phá hủy nền văn hóa truyền thống
của Trung Quốc. Ý định xấu xa này tuyệt
đối không đến từ nhiệt tâm công nghiệp
hóa của ĐCSTQ, cũng không từ sự ngu dốt
đơn giản trong việc tôn thờ văn minh
phương Tây. Hơn thế, nó đã đến từ
sự đối nghịch ý thức hệ cố hữu
của ĐCSTQ đối với văn hóa truyền thống
của dân tộc. Vì vậy sự phá hoại văn hóa
Trung Quốc của ĐCSTQ đã được lập
kế hoạch, tổ chức tốt, và hệ thống
hóa, được hỗ trợ bởi sự sử
dụng bạo lực của chính quyền. Từ khi
được thành lập, ĐCSTQ chưa hề bao
giờ ngưng “cách mạng hóa” nền văn hóa của
Trung Quốc trong việc cố gắng phá hủy tinh
thần của nó một cách triệt để.
Thậm chí còn đáng
đê tiện hơn cả sự phá hoại văn hóa
truyền thống của Trung Quốc là sự lạm
dụng và thay đổi lừa lọc có chủ ý của
ĐCSTQ đã phát huy những phần đồi bại
từ lịch sử của Trung Quốc, những thứ
đã xảy ra bất cứ khi nào con người xa
rời các giá trị truyền thống, như là sự
tranh giành quyền lực nội bộ bên trong hoàng tộc,
sự sử dụng các thủ đoạn và âm mưu, và
sự áp dụng chế độ độc tài và chuyên
chế. Nó đã sử dụng các ví dụ lịch sử
để giúp tạo thành một bộ chuẩn mực
thiện ác, phương thức tư duy, và hệ
thống đàm luận của nó. Bằng cách làm như
vậy, khiến cho nhân dân hiểu lầm rằng đó là
“văn hóa Đảng”, là một sự kế thừa
của văn hóa truyền thống Trung Quốc. ĐCSTQ
thậm chí đã lợi dụng sự ác cảm của một
số người đối với “văn hóa
Đảng” để khuyến khích hơn nữa sự
từ bỏ văn hóa truyền thống Trung Quốc chân
chính.
Sự phá hoại
văn hóa truyền thống của ĐCSTQ đã mang
tới các hậu quả thảm khốc cho Trung Quốc.
Không chỉ con người mất các ước thúc về
đạo đức của họ, họ cũng bị
bắt buộc phải thấm nhuần các lý thuyết tà
ác của ĐCSTQ.
I. Tại sao Đảng Cộng Sản muốn phá hoại văn hóa dân tộc?
1. Truyền Thống Lâu Dài của Văn Hóa Trung Hoa—Dựa Trên Tôn Trọng Tín Ngưỡng và Đạo Đức
Văn hóa chân chánh
của người Trung Quốc đã bắt đầu
khoảng 5000 năm trước được sáng tạo
bởi Hoàng Đế, người được cho là ông
tổ đầu tiên của nền văn minh Trung
Quốc. Trên thực tế Hoàng Đế cũng là
người sáng lập nên tư tưởng Đạo
gia, cũng được gọi là trường phái tư
tưởng Hoàng-Lão. Nho gia chịu sự ảnh
hưởng sâu sắc của Đạo gia. Ngài Khổng
Tử giảng: “Lập chí ở Đạo, căn cứ
ở Đức, noi theo ở Nhân, học rộng ở Nghệ”
và “Nếu một người nghe Đạo buổi sáng,
người đó có thể chết mà không hối hận
vào buổi chiều”[9]. Cuốn Kinh Dịch, một
ghi chép về trời và đất, âm và dương, các thay
đổi của vũ trụ, sự phát triển và suy
tàn của xã hội, và các luật về cuộc sống
con người, đã được Nho gia coi là “Số
một trong số tất cả các tác phẩm kinh
điển của Trung Quốc”. Sức mạnh tiên tri
của cuốn sách đã vượt xa những gì khoa
học hiện đại có thể nhận thức. Bên
cạnh Đạo gia và Nho gia, tư tưởng Phật
gia, đặc biệt tư tưởng phái Thiền tông,
đã có một ảnh hưởng âm thầm lặng
lẽ nhưng sâu xa đối với những nhà trí
thức Trung Quốc.
Tư tưởng Nho
gia là phần văn hóa Trung Quốc truyền thống
đã đặt trọng tâm vào “nhập thế.” Nó chú
trọng vào đạo đức luân lý gia đình, ở đó
lòng hiếu thảo đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng, dạy rằng “tất cả lòng tốt bắt
đầu từ lòng hiếu thảo” (Bách thiện
hiếu vi tiên). Khổng Tử đề cao “nhân, nghĩa,
lễ, trí và tín,” nhưng cũng nói, “Chẳng phải lòng
hiếu thảo và kính trên nhường dưới là
gốc rễ của nhân đức?”
Luân thường
đạo lý dựa trên nền tảng gia đình có
thể được mở rộng một cách tự
nhiên để hướng dẫn đạo đức xã
hội. Lòng "hiếu thảo" có thể được
khuyếch trương đến sự "trung thành"
của quần thần đối với vua. Người
ta nói rằng, “Hiếm khi một người có lòng
hiếu để, mà lại phạm thượng với
bề trên”[10]. "Để" là kính nhường
bực huynh trưởng, là mối quan hệ giữa anh
em, và có thể được mở rộng hơn nữa
đến sự "nghĩa khí" và sự công bằng
giữa bè bạn. Nho gia dạy rằng trong gia tộc
phải là phụ từ, tử hiếu, huynh hữu,
đệ cung, một người cha phải từ ái,
một người con phải hiếu thảo, anh lớn
phải thân thiện, và em nhỏ phải cung kính lễ
phép. Ở đây, "từ tâm" của người cha
có thể được mở rộng đến sự
"nhân từ" của vua với quần thần.
Chừng nào mà các truyền thống trong gia tộc có
thể được duy trì, luân lý đạo đức
xã hội tất nhiên có thể được giữ gìn.
“Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” [11]
Tư tưởng
Phật gia và Đạo gia là bộ phận xuất
thế trong văn hóa Trung Quốc truyền thống.
Sự ảnh hưởng của Phật gia và Đạo
gia có thể thấy trong tất cả các khía cạnh
cuộc sống của dân chúng bình thường. Trung y, khí công, phong thủy, và bói
toán. Những môn này có nguồn gốc liên qua đến
tư tưởng của Đạo Gia rất sâu
đậm, cũng như là những khái niệm trong tư
tưởng Phật gia về thiên quốc và địa
ngục, thiện ác báo ứng, cùng với đạo
đức luân thường của tư tưởng Nho
gia, đã tạo thành hạch tâm của văn hóa Trung
Quốc truyền thống.
Tín ngưỡng Nho,
Phật và Đạo đã đem lại cho người
Trung Quốc một hệ thống tinh thần đạo
đức rất ổn định, không thay đổi
chừng nào trời đất còn tồn tại “Thiên
bất biến, Đạo cũng bất biến”[12]. Sự bền vững, hòa bình và
hài hòa trong xã hội, là dựa vào thế hệ đạo
đức mà tồn tại.
Đạo
đức thuộc về lãnh vực tinh thần; vì
vậy, nó thường thuộc về trừu
tượng, mà tác dụng trọng yếu của văn
hóa chính là sự diễn đạt thể hệ
đạo đức trong ngôn ngữ mà người thông
thường có thể hiểu.
Hãy lấy “Bốn Tác Phẩm Cổ
Điển Trung Quốc”, bốn tác phẩm nổi
tiếng nhất trong văn hóa Trung Quốc, làm ví dụ. Tây
Du Ký [13] là một chuyện thần thoại. Hồng
Lâu Mộng [14] bắt đầu với hội thoại
giữa một hòn đá có linh hồn và Mang Mang đạo
sĩ, Diệu Diệu chân nhân cùng Không Không đạo nhân
tại đỉnh Vô Kê, núi Đại Hoang, đoạn này
đưa ra đầu mối về kịch tính
được bộc lộ trong suốt tác phẩm. Thủy
Hử [15] mở đầu với câu chuyện làm
thế nào mà Hồng thái úy, người nắm binh
quyền, đã bất cẩn giải phóng 108 yêu ma.
Truyền thuyết này giải thích nguồn gốc của
"108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc". Tam
Quốc Diễn Nghĩa [16] bắt đầu với
một điềm báo của trời về một
thảm họa, và kết thúc bằng sự phán xét không
thể tránh được của thiên mệnh: “Hợp
rồi tan, tan lại hợp, đó cũng là lẽ
nhiệm mầu của Trời Đất vậy”.
Những câu chuyện nổi tiếng khác, như là Đông
Chu Liệt Quốc [17] và Thuyết Nhạc Toàn
Truyện (Chuyện đầy đủ về Nhạc
Phi) [18], tất cả đều bắt đầu với
những truyền thuyết tương tự.
Việc sử dụng thần
thoại của những nhà viết tiểu thuyết này
không phải là một trùng hợp, mà là sự phản
ảnh triết lý cơ bản của người trí
thức Trung Quốc với sự tự nhiên và con
người. Những tiểu thuyết này có một
ảnh hưởng sâu sắc lên tâm trí người Trung
Quốc. Khi nói về “nghĩa”, mọi người nghĩ
đến Quan Vũ (160-219 sau CN) trong Tam Quốc Diễn
Nghĩa hơn chỉ là về khái niệm khô cứng
của từ ngữ,
‘nghĩa’ của ông ta đối với bạn
của mình đã vượt lên mây tới trời xanh
như thế nào; lòng trung thành không thể lay chuyển
của ông ta với bề trên của ông mà cũng là anh em
kết nghĩa (Lưu Bị) đã đem lại cho ông
sự kính trọng thậm chí từ kẻ thù của ông ta
như thế nào; sự dũng cảm của ông ta trong
chiến trận đã chiến thắng trong các tình
huống thảm khốc nhất, sự thất bại
cuối cùng của ông trong trận chiến tại Mạch
Thành, và, cuối cùng là, sự gặp gỡ của ông ta
với tư cách một vị thần với con trai
của ông như thế nào. Khi nói tới chữ “trung”
người Trung Quốc tự nhiên nghĩ tới Nhạc
Vũ Mục (1103-1141 sau CN), một vị tướng nhà
Tống người đã phục vụ đất
nước của mình với tính chính trực và lòng trung
thành hoàn toàn, và Khổng Minh (181-234 sau CN), thừa tướng
của nước Thục trong thời Tam Quốc,
người “hiến dâng cả đời cho đến
tận khi trái tim ngừng đập.”
Sự ca ngợi lòng trung và nghĩa
trong văn hóa Trung Quốc truyền thống đã
được miêu tả đầy đủ trong
những câu truyện đầy mầu sắc của các
tác giả này. Những nguyên tắc tinh thần trừu
tượng họ tán thành đã được làm rõ ràng và
biểu hiện trong những thành ngữ văn hóa.
Đạo gia giảng Chân. Phật gia giảng Thiện, và Nho gia giảng Trung, Thứ (vị tha), Nhân,
Nghĩa. “Mặc dù hình
thức của chúng khác nhau, mục đích của chúng là
như nhau… tất cả chúng đều truyền cảm
hứng cho con người trở về với Thiện”[19].
Đây là những khía cạnh giá trị nhất của
văn hóa truyền thống Trung Quốc dựa trên
niềm tin vào Nho, Phật và Đạo.
Văn hóa truyền thống Trung
Quốc đầy những khái niệm và nguyên tắc
như là thiên, đạo, thần, phật, mệnh, duyên,
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, liêm, sĩ, trung, hiếu,
tiết và nhiều nữa như vậy. Nhiều
người Trung Quốc có thể mù chữ, nhưng
họ vẫn quen với hí kịch truyền thống.
Những hình thức văn hóa này đã là những cách quan
trọng đối với người thường
để học các đức hạnh truyền thống.
Do đó, sự phá hoại của ĐCSTQ đối
với văn hóa Trung Quốc truyền thống là một
sự tấn công trực tiếp vào đạo đức
của người Trung Quốc và làm suy yếu nền
tảng an định và hài hòa trong xã hội.
Sự đối lập giữa Tà Thuyết Cộng Sản và Văn Hóa Truyền Thống
“Triết học” của Đảng
Cộng Sản hoàn toàn mâu thuẫn với văn hóa
truyền thống chân chánh của Trung Quốc. Văn hóa
truyền thống là kính úy thiên mệnh, như Khổng
Tử đã từng nói, “Tử sanh hữu mệnh, phú quý
tại thiên.”[20]. Cả Phật gia và Đạo gia
đều là hữu Thần, và tin vào sự luân hồi, và
thuyết nhân quả nghiệp lực về cái thiện và
ác. Đảng Cộng Sản, thì trái lại, không những
chỉ tin vào thuyết vô Thần, mà còn “vô pháp vô thiên”. Nho
gia coi trọng gia đình, nhưng Bản Tuyên Ngôn
Cộng Sản rõ ràng công bố sự thủ tiêu gia
đình. Văn hóa Trung Quốc phân biệt người Trung
Quốc với người nước ngoài, nhưng Bản
Tuyên Ngôn Cộng Sản chủ trương không có
quốc gia. Văn hóa Nho gia đề cao lòng tốt với
người khác, nhưng Đảng Cộng Sản cổ
võ đấu tranh giai cấp. Nho gia khuyến khích lòng trung
thành với bề trên và tình yêu đất nước, còn Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản đề
xướng sự loại bỏ các quốc gia.
Để đạt được và
duy trì quyền lực ở Trung Quốc, Đảng
Cộng Sản đầu tiên đã gieo trồng những
tư tưởng trái đạo đức trên mảnh
đất Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã tuyên
bố, “Nếu chúng ta muốn lật đổ một
quyền lực, trước tiên chúng ta phải tạo ra
sự tuyên truyền, và làm việc trong lãnh vực hệ
tư tưởng”[21]. ĐCSTQ đã nhận ra rằng lý
thuyết cộng sản bạo lực, mà được
tồn tại với võ trang, đã bị tư
tưởng phương Tây từ chối và không thể
đứng vững trước lịch sử văn hóa
5000 năm sâu sắc của Trung Quốc. “Đã chót thì
phải chét”. Vì vậy ĐCSTQ đã hoàn toàn hủy
hoại văn hóa truyền thống Trung Quốc, và chỉ
như vậy chủ nghĩa Mác-xít Lênin-nít mới có
thể chiếm lấy chính trường Trung Quốc.
Văn hóa truyền thống là một chướng ngại đối với nền độc tài của ĐCSTQ
Mao Trạch Đông đã từng nói là
ông ta không theo Đạo cũng không theo Trời [22]. Văn
hóa Trung Quốc truyền thống không nghi ngờ gì nữa
đã là một chướng ngại to lớn nên ĐCSTQ
thách thức Đạo và chiến đấu với
trời.
Lòng trung thành trong văn hóa Trung Quốc
truyền thống không có nghĩa là sự trung thành một
cách ngu muội. Trong con mắt của mọi người,
Hoàng đế là “con của Trời”: có Trời ở bên
trên ông ta. Hoàng đế không thể lúc nào cũng đúng.
Do đó có nhu cầu cần những giám quan để chỉ
ra những lỗi của hoàng đế vào mọi lúc.
Hệ thống biên niên sử của Trung Quốc có
những sử gia ghi chép lại mọi lời nói và hành
động của hoàng đế. Các viên quan về giáo
dục có thể trở thành thầy giáo vì lợi ích
của vua, và hành vi của hoàng đế được
phán quyết bởi các học giả Nho gia. Nếu hoàng
đế trái đạo đức, không ngộ theo
Đạo, mọi người có thể vùng lên để
lật đổ ông ta, như là trường hợp khi
Thành Thang phạt Kiệt, hoặc Vũ Vương
phạt Trụ [23]. Những cuộc vùng lên đó,
được phán quyết từ văn hóa truyền thống,
không được coi là sự vi phạm lòng trung thành
hoặc Đạo. Thay vào đó, chúng được xem
như là thay Trời hành Đạo. Khi Văn Thiên
Tường (1236-1283 sau CN) [24], một tướng lãnh
nổi tiếng thời nhà Tống, bị bắt làm tù
nhân, ông ta đã từ chối đầu hàng kẻ xâm
lược Mông Cổ, ngay cả khi Hoàng Đế cố
gắng thuyết phục ông ta đầu hàng. Điều
này là bởi vì, là một người theo Nho gia, ông ta tin
rằng “Dân là quan trọng bậc nhất; tiếp theo là
quốc gia; cuối cùng mới là người cai trị.”
(dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh) [25].
ĐCSTQ độc tài không cách nào có
thể chấp nhận những niềm tin truyền
thống như thế. ĐCSTQ đã muốn phong thánh
những lãnh tụ của chính nó và đề cao sự sùng
bái cá nhân, và như thế sẽ không theo những khái
niệm lâu đời như là Trời, Đạo,
Thần cai quản phía trên. ĐCSTQ nhận thấy
rằng, nếu theo những tiêu chuẩn của văn hóa
truyền thống thì những gì nó đã làm bị coi là
tội ác to lớn và ghê tởm nhất chống lại
Trời và Đạo. Họ cũng nhận thấy
rằng chừng nào văn hóa truyền thống còn tồn
tại, nhân dân sẽ không ca ngợi ĐCSTQ là “Đảng
ta vĩ đại, quang vinh, và chính xác.” Các học giả
sẽ tiếp tục truyền thống “hy sinh cuộc
sống của họ để thủ nghĩa,” “duy trì
sự công bằng với sinh mạng của họ”[26], và
đặt dân lên trên những người cai trị. Vì
vậy, nhân dân sẽ không trở thành những con múa
rối của ĐCSTQ, và ĐCSTQ sẽ không thể
bắt buộc người dân suy nghĩ theo ý mình.
Sự phản ảnh của văn hóa
truyền thống đối với trời, đất và
tự nhiên đã trở thành một chướng ngại
vật ngăn cản “cuộc chiến với thiên nhiên”
của ĐCSTQ trong một nỗ lực “thay thế
Trời và Đất.” Văn hóa truyền thống trân
trọng sinh mệnh con người, dạy rằng
“bất kỳ tình huống nào liên quan đến sinh
mệnh con người phải được xem xét
với sự quan tâm lớn nhất". Sự nhận
thức như vậy là trở lực đối với
tội diệt tuyệt quần thể và thống trị
bằng khủng bố của ĐCSTQ. Trong văn hóa
truyền thống, “Đạo Trời” mới là tiêu
chuẩn tột cùng của Thiện Ác trong đạo
đức. Điều này cũng bằng như
tước đoạt quyền giải thích về
đạo đức của ĐCSTQ. Do đó, ĐCSTQ
đã xem văn hóa truyền thống là một kẻ thù
lớn trong nỗ lực duy trì quyền lực của nó.
Văn Hóa Truyền Thống Thách Thức Tính Hợp Pháp của Sự Cầm Quyền của Đảng Cộng SảnTrung Quốc
Văn hóa truyền thống Trung
Quốc bao gồm “ hữu Thần luận” và “thiên
mệnh luận”. Thừa nhận thiên mệnh là phải
chứng minh được chính mình là “minh quân có
Đạo”, “phụng thiên thừa vận”. Việc
chấp nhận niềm tin vào Thần nghĩa là chấp
nhận rằng quyền lực đối với dân tùy
thuộc vào trời.
Tuy nhiên lý luận để nắm
quyền của ĐCSTQ đã được tóm tắt là,
“Dây xích truyền thống sẽ không bao giờ trói buộc
chúng ta nữa, vùng lên các bạn những người lao
động cần cù không bao giờ là nô lệ nữa. Trái
đất sẽ phát triển trên các nền tảng
mới; chúng ta không phải là không; chúng ta sẽ là tất
cả.” [27]
ĐCSTQ tuyên truyền chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tuyên bố rằng chủ
nghĩa cộng sản là một thiên đường nhân
gian, con đường tới đó được lãnh
đạo bởi giai cấp vô sản tiên phong, hoặc là
Đảng Cộng Sản. Niềm tin vào Thần do đó
đã trực tiếp thách thức tính hợp pháp trong
sự cầm quyền của ĐCSTQ.
II. Đảng Cộng Sản Phá Hoại Văn Hóa Truyền Thống Thế Nào?
Mọi việc Đảng Cộng
Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) làm, là để phục
vụ một mục đích chính trị. Để nắm
giữ, duy trì và củng cố sự chuyên chế bạo
lực của nó, ĐCSTQ cần thay thế nhân tính
bằng Đảng tính tà ác của nó, và thay thế văn
hóa truyền thống Trung Quốc bằng văn hóa
Đảng của nó là “giả dối, tà ác và đấu
tranh”. Sự phá hoại và thay thế này không chỉ bao
gồm các di tích văn hóa, di tích lịch sử và các
cuốn sách cổ, chúng là hữu hình, và những thứ vô
hình như là quan điểm truyền thống về
đạo đức, cuộc sống và thế giới,
mà tất cả các khía cạnh đời sống nhân dân
đều dính líu tới, bao gồm các hành động, suy
nghĩ và lối sống của dân. Cùng lúc, ĐCSTQ coi các
biểu hiện văn hóa bề mặt, tầm
thường như là “tinh hoa”, mà giữ lại chúng, và sau
đó đặt thứ “tinh hoa” này lên như mặt chính.
Đảng giữ vẻ bề ngoài của truyền
thống trong khi thay thế truyền thống thực
sự bằng văn hóa Đảng. Sau đó nó lừa
dối dân chúng và xã hội quốc tế đằng sau
bề ngoài “kế thừa và phát triển” văn hóa truyền
thống Trung Quốc.
Cùng Một Lúc Tiêu Diệt ‘Tam Giáo’
Bởi vì trên thực tế, văn hóa
truyền thống có gốc rễ dựa vào tư
tưởng Khổng, Phật và Đạo, nên bước
đầu tiên của ĐCSTQ trong việc phá hủy
văn hóa truyền thống là tiêu diệt các thể
hiện cụ thể của tôn giáo trong thế giới con
người, tức là phải nhổ rễ tam giáo.
‘Tam giáo’
chính, Đạo Khổng, Đạo Phật và Đạo
Lão, đã gặp phải sự phá hủy trong các thời
kỳ khác nhau của lịch sử. Lấy Đạo
Phật làm ví dụ. Họ đã chịu bốn lần
đại nạn chính trong lịch sử, lịch sử
gọi là “Tam Vũ Nhất Tông” diệt Đạo Phật
bởi bốn vị hoàng đế Trung Quốc. Hoàng
Đế Thái Vũ[28] của triều đại Bắc
Ngụy (386-534 sau CN) và Hoàng Đế Vũ Tông [29] của
triều đại Đường (618-907 sau CN) cả hai
đều đã cố gắng làm tiêu tan Đạo
Phật để thay bằng Đạo Lão. Hoàng
Đế Vũ [30] của triều đại Bắc Chu
(557-581 sau CN) đã cố gắng làm tiêu tan cả
Đạo Phật và Đạo Lão, để sùng kính
Đạo Nho. Hoàng Đế Chu Thế Tông [31] của
triều đại Hậu Chu (951-960 sau CN) đã cố
gắng làm tiêu tan Đạo Phật chỉ để
sử dụng các tượng Phật để đúc
tiền, và đã không đụng chạm đến
Đạo Lão hay Đạo Khổng.
Duy có
Đảng Cộng Sản Trung Quốc là tiêu diệt
cả tam giáo cùng một lúc.
Ngay sau khi ĐCSTQ thành lập chính
phủ, nó đã bắt đầu phá hủy các đền
chùa, đốt kinh thư và bắt các tu sĩ và ni cô
Phật giáo phải hoàn tục. Nó cũng không nhẹ tay
hơn chút nào trong việc phá hủy các địa
điểm của tôn giáo khác. Đến thập niên 1960,
hầu như không còn lại bất cứ địa
điểm tôn giáo nào ở Trung Quốc. Cuộc vận
động Đại Cách Mạng Văn Hóa đã mang
đến những tai ương cho văn hóa và tôn giáo
thậm chí lớn hơn trong chiến dịch gọi là
“Phá Tứ Cựu” [32] - nghĩa là: phá bỏ quan niệm
cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, và thói quen cũ.
Ví dụ, ngôi chùa Phật giáo
đầu tiên ở Trung Quốc là Chùa Bạch Mã [33]
được xây dựng trong triều đại nhà
Đông Hán (25-220 sau CN) ở ngoại thành Lạc
Dương, tỉnh Hồ Nam. Nó có vinh dự là “Cái nôi
của Phật giáo Trung Quốc” và “Nhà của Người
Sáng Lập”. Trong “Phá Tứ Cựu”, Đền Bạch Mã
tất nhiên không thể thoát khỏi sự cướp phá.
Có một đội sản xuất
của Chùa Bạch Mã ở gần ngôi chùa. Bí thư chi
bộ Đảng đã dẫn nông dân tới đập
tan ngôi chùa dưới danh nghĩa “cách mạng”. Những
bức tượng Mười Tám Vị La Hán bằng
đất sét 1000 năm tuổi được xây dựng
dưới triều đại Liêu (916-1126 sau CN) đã
bị phá hủy. Kinh Bối Diệp [34] mà một cao
tăng Ấn độ mang tới đền 2000 năm
trước đã bị đốt. Một vật quý
hiếm, Ngựa Ngọc Bích, đã bị đập tan ra
từng mảnh. Nhiều năm sau đó, vua Cămpuchia
Norodom Sihanouk lưu vong đã có một yêu cầu
đặc biệt muốn bày tỏ lòng kính trọng
với Chùa Bạch Mã. Chu Ân Lai, thủ tướng Trung
Quốc lúc bấy giờ, đã vội vã ra lệnh
chuyển tới Lạc Dương kinh văn Bối
Diệp mà được lưu trữ trong Hoàng Thành ở
Bắc Kinh, và các bức tượng Mười Tám Vị
La Hán được làm từ triều nhà Thanh từ Chùa
Bích Vân ở vườn Hương Sơn[35] thuộc ngoại
ô Bắc Kinh. Với sự thay thế giả này, một
khó khăn ngoại giao đã được “giải
quyết.” [36]
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa bắt
đầu vào tháng 5, năm 1966. Nó thực sự là “cách
mạng hóa” văn hóa Trung Quốc trong chiều
hướng phá hủy. Bắt đầu từ tháng 8
năm 1966, ngọn lửa điên cuồng của “Phá
Tứ Cựu” đã cháy trên toàn bộ vùng đất Trung
Quốc. Những thứ bị xem là thuộc “chế
độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa xét lại”, các đền chùa Phật giáo,
Đạo giáo, các tượng Phật, danh thắng cổ
tích, tranh thư pháp, hội họa và các tác phẩm mỹ
thuật cổ đã trở thành những cái đích chính
để phá hủy của Hồng quân [37]. Lấy các
tượng Phật làm ví dụ. Có 1000 tượng Phật
được chạm khắc ngọc lưu ly trên
đỉnh của Núi Vạn Thọ trong Cung Điện
Mùa Hè (Di Hòa Viên) [38] ở Bắc Kinh. Sau “Phá Tứ Cựu”,
tất cả chúng đã bị phá hủy, không có
tượng nào còn nguyên ngũ quan nữa.
Thủ đô của đất
nước là như thế, và trên toàn bộ các vùng còn
lại của quốc gia cũng như vậy. Thậm chí
cả những địa hạt ở xa cũng không thoát.
Có ngôi chùa Thiên Thai ở huyện
Đại tỉnh Sơn Tây. Nó được xây dựng
trong thời Thái Duyên của triều đại Bắc
Ngụy 1600 năm trước, và có những bức
tượng và bích họa rất quý giá. Mặc dù nó nằm
ở một sườn đồi khá xa dân cư của
địa hạt, những người dân tham gia vào “Phá
Tứ Cựu” cũng không ngại gian nan hiểm trở mà
đến dọn sạch các bức tượng và bích
họa ở đó đi… Chùa Lạng Thiên [39], nơi mà Lão
Tử đã giảng bài và để lại tác phẩm
nổi tiếng 'Đạo Đức Kinh' 2500 năm
trước, nằm ở huyện Chu Chí tỉnh Thiểm
Tây. Xung quanh nơi mà Lão Tử giảng bài, trong vòng bán kính
10 dặm [40], có hơn 50 di tích lịch sử, bao gồm
chùa Tông Thánh Cung (Tôn Kính Hiền Nhân) mà Hoàng Đế
Đường Cao Tổ Lý Uyên Vi [41] đã xây dựng
để bày tỏ lòng kính trọng Lão Tử 1300 năm
trước. Bây giờ chùa Lạng Thiên và các di tích lịch
sử khác đã bị phá hủy, và tất cả các
đạo sĩ Đạo Lão đã bị bắt phải
rời đi. Theo tiêu chuẩn của các Đạo sĩ,
một khi một người trở thành Đạo
sĩ, anh ta không bao giờ cạo râu hay cắt tóc. Tuy nhiên,
bây giờ các Đạo sĩ bị bắt phải
cắt tóc, bỏ áo choàng, và trở thành xã viên của công xã
nhân dân [42]. Một số trong
họ đã lấy con gái của các nông dân địa
phương và trở thành con rể… Tại các thánh địa
của Đạo Lão trong núi Lao Sơn ở tỉnh Sơn
Đông, Thái Bình Cung, Thượng Thanh Cung, Hạ Thanh Cung,
Đấu Mỗ Cung, Hoa Nghiêm Am, Ngưng Chân Quan, Quan
Đế Miếu, ‘tượng thánh, bình cúng tế, các
cuộn kinh điển Phật Giáo, di vật văn hóa, và
miếu bia tất cả đều bị đập tan và
đốt’… Văn Miếu ở Cát Lâm là một trong
bốn miếu lớn nhất của Đạo Khổng
tại Trung Quốc. Trong chiến dịch “Phá Tứ Cựu”,
nó đã phải chịu thiệt hại nặng nề.
[43]
Một Lối Đặc Biệt Phá Hủy Tôn Giáo
Lenin đã từng nói, “Cách dễ
nhất để chiếm một thành lũy là công phá
từ nội bộ.” Là một nhóm con cháu của chủ
nghĩa Mácxít-Lêninnít, ĐCSTQ hiểu điều này một
cách tự nhiên và ngấm ngầm.
Trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn,”
của Đại Thừa [44], đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã tiên đoán rằng sau khi Ngài nhập Niết
Bàn, ma quỷ sẽ chuyển sinh làm hòa thượng, ni cô,
và nam nữ cư sĩ phá hoại làm loạn Phật Pháp.
Tất nhiên, chúng ta không thể xác nhận đức
Phật Thích Ca Mâu Ni có ngụ ý gì một cách chính xác. Tuy
nhiên, sự phá hoại Đạo Phật của ĐCSTQ
thực sự đã bắt đầu bằng cách thành
lập một “mặt trận thống nhất” với
một số tín đồ đạo Phật. Thậm chí
họ đã gửi một số thành viên Đảng
cộng sản bí mật tới xâm nhập tôn giáo trực
tiếp và phá hoại nội bộ. Trong một cuộc
họp phê bình trong Cách Mạng Văn Hóa, ai đó đã
hỏi Triệu Phác Sơ, phó chủ tịch Hiệp
Hội Phật Giáo Trung Quốc lúc đó, “Ông là một
Đảng viên, tại sao ông lại tin vào Phật Giáo?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đạt
Ngộ trọn vẹn và cao nhất qua “giới,
định, và tuệ.” Vì thế trước khi Ngài
nhập Niết Bàn, ngài đã hướng dẫn
đồ đệ của ngài “giữ gìn và duy trì giới
cấm, chớ để giảm bớt hay vi phạm”.
Ngài cũng đã cảnh cáo, “Những người vi
phạm Giáo Huấn bị trời, rồng, ma quỷ và
thần ghê tởm. Tiếng xấu của họ sẽ lan
xa và rộng... Khi cuộc sống của họ kết
thúc, họ sẽ phải chịu đau khổ trong
địa ngục để trả nghiệp, và gặp
phải sự phán quyết cuối cùng không lay chuyển
được. Sau đó họ sẽ xuất hiện.
Họ sẽ tiếp tục chịu đau khổ bằng
cách mang thân của ma đói và thú vật. Họ sẽ
chịu đau khổ vô tận trong luân hồi như
thế này mà không được giải thoát.” [45]
Các thầy tu Phật giáo chính trị
vểnh những cái tai điếc trước những
lời cảnh cáo của đức Phật. Năm 1952,
ĐCSTQ gửi đại diện tới tham dự lễ
ra mắt Hội Phật Giáo Trung Quốc. Tại buổi
lễ này, nhiều tín đồ đạo Phật trong
hội đề nghị bãi bỏ những giới
luật của Phật giáo. Họ tuyên bố rằng
những nguyên tắc này đã làm cho nhiều nam nữ thanh
niên chết. Một số người thậm chí lại
còn ủng hộ rằng “con người nên tự do tin vào
bất kỳ tôn giáo nào. Nên cũng có tự do cho các
thầy tu và nữ tu sĩ lập gia đình, uống
rượu, và ăn thịt. Không ai nên can nhiễu vào
những việc này.” Vào lúc đó, Sư Phụ Hư Vân có
mặt tại buổi lễ và đã thấy rằng
Phật giáo đang đối diện với nguy hiểm
bị biến mất ở Trung Quốc. Ông ta đã
bước ra chống đối lại những
đề xuất này và kêu gọi gìn giữ những giáo
huấn và hình thức của đạo Phật. Sư
phụ Hư Vân sau đó đã bị vu khống, và bị
gán nhãn hiệu là “phản cách mạng.” Ông bị giam
giữ trong phòng trụ trì, và đã từ chối thức
ăn và nước uống. Thậm chí ông không
được ra khỏi phòng để sử dụng nhà
vệ sinh. Ông cũng bị ra lệnh phải trao vàng,
bạc và súng ngắn của ông. Khi Hư Vân trả lời
rằng ông không có gì, ông đã bị đánh quá trầm trọng
đến nỗi sọ của ông bị rạn và
chảy máu, xương sườn của ông cũng
bị gẫy. Hư Vân lúc đó đã 112 tuổi. Quân
cảnh đã đẩy ông từ trên giường
xuống đất. Khi họ quay trở lại ngày hôm sau
và thấy rằng Hư Vân vẫn sống, họ lại
đánh ông tàn nhẫn một lần nữa.
Hội Phật Giáo Trung Quốc
được thành lập năm 1952 và Hội Đạo
Sĩ Trung Quốc được thành lập vào năm
1957, cả hai đều rõ ràng công bố trong bản tuyên
bố thành lập của mình rằng họ sẽ ở
“dưới sự lãnh đạo của chính phủ Nhân
Dân.” Trong thực tế, họ ở dưới sự lãnh
đạo của ĐCSTQ vô Thần. Cả hai hội
đều cho thấy rằng họ sẽ chủ
động tham gia vào các hoạt động xây dựng và
sản xuất, và thực thi các chính sách của chính
quyền. Họ đã bị chuyển hóa thành các tổ
chức thế tục hoàn toàn. Tuy vậy những tín
đồ Đạo Phật và Đạo Lão, những
người mà đã dành hết cho, và tuân theo các giáo
huấn đã bị gán nhãn hiệu là ‘phản cách
mạng’, hoặc là thành viên của những môn phái mê tín và
các bang hội bí mật. Dưới khẩu hiệu cách
mạng “làm trong sạch các tín đồ Đạo
Phật và Đạo Lão”, họ đã bị bỏ tù,
bắt phải “cải tạo qua lao động,” hoặc
ngay cả bị xử tử. Thậm chí những tôn giáo
truyền bá từ phương Tây, như là Cơ
Đốc Giáo và Thiên Chúa Giáo cũng không được
tha.
Dựa trên thống kê được
đưa ra trong cuốn sách Đảng
Cộng Sản Trung Quốc Đã Khủng Bố Tín Đồ Thiên Chúa Giáo
Thế Nào được xuất bản năm 1958, ngay
cả chỉ trong con số giới hạn các tài liệu
đã được xuất bản, đã vạch ra cho
thấy rằng trong số những mục sư mà bị
gán là “địa chủ” hoặc “ác bá”, thì một con
số gây sửng sốt, có 8.840 người bị
giết và 39.200 người bị bắt vào các trại lao
động. Trong số những mục sư bị gán là
“phản cách mạng” có 2.450 người bị giết, và
24.800 người bị bắt vào những trại lao
động. [46]
Các tôn giáo đều là các pháp môn mà con
người rời bỏ ràng buộc của thế
giới trần tục để tu luyện chính mình.
Họ nhấn mạnh vào “bờ bên kia” (bờ của giác
ngộ hoàn toàn) và “thiên đàng”. Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã từng là một vị hoàng tử Ấn Độ.
Để tìm kiếm giải thoát [47], một trạng thái
mà trong đó người tu luyện đạt
được thanh tịnh trong tâm, trí tuệ cao hơn,
giác ngộ hoàn toàn, và Niết Bàn, [48] Ngài đã từ
bỏ ngai vàng và đi vào một ngọn núi có nhiều cây
để tu luyện bằng cách trải qua kinh nghiệm
những gian khổ và cực nhọc. Trước khi
đức Chúa Giê su giác ngộ, ma quỷ mang ngài tới
tột đỉnh của một ngọn núi, cho ngài
thấy tất cả các vương quốc trên thế
giới trong tất cả sự tráng lệ của nó. Ma
quỷ nói, “Nếu ngài quỳ xuống và tôn thờ tôi, tôi
sẽ cho ngài tất cả những thứ này.” Nhưng
đức Chúa Giê su đã không bị dụ dỗ. Tuy
vậy những thầy tu và mục sư chính trị,
những người đã thành lập mặt trận
thống nhất với ĐCSTQ, đã tạo ra hàng
loạt những lừa đảo và dối trá như là
“Nhân gian Phật giáo”, và “tôn giáo là chân thật, và chủ
nghĩa xã hội cũng như vậy”. Họ tuyên bố
rằng “không có sự mâu thuẫn giữa bờ bên này và
bờ bên kia.” Họ khuyến khích các tín đồ
Đạo Phật và Đạo Lão theo đuổi hạnh
phúc, danh tiếng, sự tráng lệ, sự giàu có và
địa vị trong cuộc đời này, và đã thay
đổi các học thuyết tôn giáo và ý nghĩa của
chúng.
Đạo Phật nghiêm cấm sát sinh.
ĐCSTQ giết người như ruồi trong sự
“ngăn chặn phản cách mạng.”[49]. Các thầy tu chính
trị ngay sau đó đã giả mạo phán quyết
rằng “giết những kẻ phản cách mạng là
một việc thiện còn lớn hơn nữa”. Trong “Cuộc Chiến Chống Lại
Sự Xâm Lược Của Mỹ
và Giúp Đỡ Triều Tiên” (1950-1953)[50], ngay cả các
thầy tu còn bị gửi trực tiếp tới
chiến tuyến để chém giết.
Lấy Cơ Đốc giáo làm một
ví dụ khác. Năm 1950, Ngô Diệu Tông[51] thành lập
một giáo hội “Tam Tự”, nó theo nguyên tắc tự
trị (quản), tự dưỡng và tự truyền. Ông
ta tuyên bố rằng họ sẽ đập tan “chủ
nghĩa đế quốc”, và chủ động tham ra “Cuộc Chiến Chống Lại
Sự Xâm Lược Của Mỹ
và Giúp Đỡ Triều Tiên”.
Một người bạn tốt của ông ta đã
bị tù hơn 20 năm vì từ chối tham gia Tam Tự
và đã chịu đựng đủ loại tra tấn và
làm nhục. Khi anh ta hỏi Ngô Diệu Tông, “Anh nghĩ
thế nào về những sự mầu nhiệm mà
đức Chúa Giêsu đã thực hiện?” Ngô đã trả
lời, “Tôi vứt bỏ tất cả chúng”.
Không công nhận các sự mầu
nhiệm của đức Chúa Giêsu là đồng nghĩa
với không công nhận thiên đường của
đức Chúa Giêsu. Làm thế nào mà một người có
thể được coi là một tín đồ
đạo Cơ Đốc khi người đó thậm
chí không công nhận thiên đường mà đức Chúa
Giêsu ngự trị? Tuy nhiên, là người sáng lập
của giáo hội “Tam Tự”, Ngô Diệu Tông đã trở
thành một thành viên của Ban Cố Vấn Chính Trị
đương nhiệm. Khi ông ta đứng trước
Đại Hội Trường Nhân Dân [52], ông ta chắc
chắn đã hoàn toàn quên những lời của
đức Chúa Giêsu: “Các con phải yêu kính Thượng
Đế với tất cả trái tim của con, với
tất cả linh hồn của con, và với tất
cả ý chí của con. Đây là điều răn
đầu tiên và vĩ đại nhất.” (Matthew, 22:37-38)
“Trả lại Caesar những gì của Caesar; và trả
lại Thượng Đế những gì là của Thượng
Đế” (Matthew, 22:21)
ĐCSTQ đã sung công các tài sản
của chùa, bắt các thầy tu và nữ tu nghiên cứu
chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít để tẩy não họ, và
thậm chí bắt họ phải lao động. Ví dụ,
có một “công trường Phật Giáo” ở thành phố
Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Hơn 25000 thầy tu và nữ
tu đã từng bị bắt phải làm việc ở
đó. Còn lố bịch hơn nữa là ĐCSTQ khuyến
khích các thầy tu và nữ tu lập gia đình để
làm tan rã Phật giáo. Ví dụ, ngay trước Ngày Phụ
Nữ 8/3 năm 1951, Hội Phụ Nữ ở thành
phố Tràng Sa, tỉnh Hồ Nam đã ra lệnh cho tất
cả các nữ tu trong tỉnh phải quyết
định lập gia đình trong một vài ngày. Thêm vào
đó, các thầy tu trẻ và khỏe bị bắt tham gia
quân ngũ và bị gửi tới chiến trường
để phục vụ như là bia đỡ đạn!
Nhiều môn phái ở Trung Quốc
đã bị tan rã dưới sự đàn áp bạo
lực của ĐCSTQ. Những người ưu tú chân
chính trong Đạo Phật và Đạo Lão cũng bị
đàn áp. Trong số những người còn lại,
nhiều người đã trở lại cuộc sống
thế tục, và nhiều người khác đã là
những Đảng viên bí mật chuyên mặc áo cà sa, [54]
áo thụng của các Đạo sỹ, hoặc áo dòng
của các linh mục để bóp méo kinh Phật, tiêu
chuẩn Đạo Lão và Kinh Thánh, và để kiếm cách
biện minh cho các chiến dịch của ĐCSTQ từ
những lý luận căn cứ của nó.
Phá Hoại Văn Vật
Sự hủy hoại các di tích văn
hóa là một phần quan trọng trong sự phá hoại
văn hóa truyền thống của ĐCSTQ. Trong chiến
dịch “Phá Tứ Cựu”, nhiều cuốn sách độc
nhất, tranh thư pháp, và bức họa được
sưu tập bởi những người trí thức
đã bị đốt trong lửa hoặc cắt vụn
thành bột giấy. Chương Bá Quân [55] có một bộ
sưu tập gia đình trên 10,000 cuốn sách. Những
người cầm đầu Hồng Vệ Binh đã dùng
chúng để đốt lửa sưởi ấm cho họ.
Những gì còn lại bị gửi tới nhà máy giấy,
và bị xay vụn thành bột giấy.
Chuyên gia phục chế hội họa
và tranh thư pháp, Hồng Thu Thanh, là một lão nhân
được biết đến như là “thần y”
đối với những bức tranh và bức thư pháp
cổ. Ông đã phục chế vô số các kiệt tác
nổi tiếng thế giới, như là tranh phong cảnh
đời Tống Huy Tông [56], tranh tre của Tô Đông Pha
[57], và các bức tranh của Văn Trưng Minh [58] và
Đường Bá Hổ [59]. Qua nhiều thập niên,
hầu hết hàng trăm bức tranh và bức thư pháp
cổ mà ông đã cứu được, đã trở thành
một bộ sưu tập đứng hàng đầu
của quốc gia. Các bức tranh và bức thư pháp mà ông
cứu chữa được trong lúc sưu tập đã
bị gán nhãn là “Tứ Cựu”, và đã bị đốt
trong lửa. Sau đó, ông Hồng đã khóc trong nước
mắt, “Hơn 100 cân [60] (50 kg) tranh và bức thư pháp, phải
mất lâu lắm mới đốt hết
được!” [61]
“Việc
đời thay thế nhau,
Luân chuyển thành kim cổ;
Non sông lưu danh tích,
Đời đời ta ngưỡng xem” [62]
Luân chuyển thành kim cổ;
Non sông lưu danh tích,
Đời đời ta ngưỡng xem” [62]
Nếu nhân dân Trung Quốc ngày nay
vẫn nhớ một số việc trong lịch sử
của mình, họ sẽ có thể cảm thấy khác khi
họ ngâm bài thơ này của Mạnh Hạo Nhiên. Các danh
sơn thắng tích —địa điểm lịch sử
bên các ngọn núi và dòng sông nổi tiếng nhất đã
bị tàn phá, và đã biến mất trong cơn bão “Phá
Tứ Cựu.” Không chỉ là Lan Đình, ở đó
Vương Hy Chi [63] đã viết tác phẩm nổi
tiếng Lan Đình Tập Tự [64] đã bị phá
hủy, phần mộ của chính Vương Hy Chi cũng
đã bị tàn phá. Nơi ở của tổ tiên của
Ngô Thừa Ân [65] ở tỉnh Giang Tô cũng bị phá
hủy. Nơi ở của tổ tiên của Ngô Kính Tử
[66] ở tỉnh An huy cũng bị phá tan, bia đá mà Tô
Đông Pha đã viết bài Túy Ông Đình Ký [67] cũng
đã bị đẩy đi bởi “những nhà cách
mạng trẻ” [68], và những chữ trên bia đá cũng
bị cạo sạch.
Tinh hoa của văn hóa Trung Quốc
đã được thừa kế và tích lũy qua
nhiều ngàn năm. Một khi đã bị phá hủy, nó
không thể được phục hồi lại. Nhưng
ĐCSTQ đã man rợ phá hủy nó dưới danh
nghĩa của “cách mạng” mà không có đau khổ hay
xấu hổ gì. Khi chúng ta luyến tiếc vì Cung
Điện Mùa Hè Cổ, được biết tới
như là “cung điện của các cung điện”, bị
đốt bởi Các Lực Lượng Đồng Minh
Anh-Pháp, khi chúng ta luyến tiếc vì tác phẩm vĩ
đại ‘Vĩnh Lạc Đại Từ Điển’
[69] bị phá hủy bởi ngọn lửa chiến tranh
của những kẻ xâm lược, thì chúng ta lại có
thể nghĩ được sự phá hủy của
ĐCSTQ sẽ lan rộng nhiều hơn thế nữa,
kéo dài hơn và triệt để hơn những sự phá
hủy gây ra bởi bất cứ kẻ xâm lược nào
khác, như thế nào không?
Sự Phá Hủy Các Niềm Tin Tinh Thần
Bên cạnh sự phá hủy các hình
thức vật chất của tôn giáo và văn hóa, ĐCSTQ
cũng sử dụng khả năng lớn nhất
của nó để phá hủy các đặc tính tinh
thần của người ta mà đã được
tạo ra bởi tín ngưỡng và văn hóa.
Hãy lấy cách xử sự của
ĐCSTQ đối với một số tín ngưỡng
làm ví dụ. ĐCSTQ xem các truyền thống của
những người theo đạo Hồi là một trong
“Tứ Cựu” - tư tưởng, văn hóa, truyền
thống và thói quen cũ. Do đó, nó đã bắt những
người theo đạo Hồi phải ăn thịt.
Những nông dân theo đạo Hồi và những nhà thờ
Hồi giáo bị bắt phải nuôi heo, và mỗi gia
đình phải cung cấp hai con heo cho nhà nước
mỗi năm. Hồng vệ binh ngay cả còn bắt
Đức Đệ Nhị Đại Hoạt Phật,
Lạt Ma Ban Thiền, phải ăn phân người.
Họ đã bắt ba thầy tu từ chùa Cấp Lạc
ở thành phố Cáp Nhĩ Tân, tỉnh Hắc long giang, là
ngôi chùa Phật giáo lớn nhất được xây dựng
trong thời hiện đại (1921), phải dương
một tấm bảng biểu ngữ viết, “Địa
ngục với kinh - chỉ toàn là đồ bỏ đi”.
Vào năm 1971, Lâm Bưu [70], Phó Chủ
tịch Ban Trung Ương của ĐCSTQ, đã cố
gắng thoát khỏi Trung Quốc, nhưng đã bị
giết khi máy bay của ông bị rơi ở Undurkhan, Mông
Cổ. Sau đó, nơi ở của Lâm ở Bắc Kinh
tại Mao Gia Loan, có một số đoạn trích văn
của Khổng Tử được tìm thấy. Sau đó
ĐCSTQ đã bắt đầu hành động điên
rồ “Phê bình Khổng Tử”. Một nhà văn có bút danh
Lương Hiệu[71] đã đăng một bài báo trên tạp
chí Hồng Kỳ, là tạp chí mang tính biểu ngữ
của ĐCSTQ, nhan đề “Khổng Tử là ai?” Bài báo
mô tả Khổng Tử như là một “người
điên muốn quay ngược lịch sử lại”, và
là một “kẻ mị dân khôn ngoan và lừa đảo”.
Một chuỗi các tranh vẽ châm biếm và bài hát theo sau
đó, làm xấu xa danh tiếng Khổng Tử.
Theo cách này, sự cảm nhận
thần thánh trang nghiêm của tôn giáo và văn hóa đã
bị phá hủy tận cùng.
Sự phá hủy không có hồi kết thúc
Ở Trung Quốc xưa, chính quyền
trung ương chỉ mở rộng các luật lệ
của nó ở cấp tỉnh, ở cấp dưới là
các thị tộc duy trì sự kiểm soát tự trị.
Như vậy trong lịch sử Trung Quốc, sự phá
hủy, như là “đốt sách và chôn các môn sinh Khổng
giáo” của Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng[72] trong
triều đại nhà Tần (221-207 trước CN), và
bốn chiến dịch để loại bỏ đạo
Phật giữa thế kỷ thứ năm và thứ
mười của “Tam Vũ Nhất Tông”, tất cả
đều được đánh từ trên xuống, và
đã không thể nhổ tận rễ văn hóa. Các tư
tưởng và tác phẩm kinh điển của
đạo Phật và đạo Khổng đã tiếp
tục tồn tại trong những không gian rộng lớn
của xã hội. Đối ngược lại, chiến
dịch “Phá Tứ Cựu” của những nam nữ sinh
thanh thiếu niên được khuyến khích bởi
ĐCSTQ là một hành động nhổ tận rễ trên
toàn quốc với “sự hăng hái tự phát”. Sự
mở rộng của ĐCSTQ tới mọi làng qua các chi
bộ Đảng tại làng xã đã điều khiển
xã hội chặt chẽ tới mức mà hành động
“cách mạng” của ĐCSTQ đã mở rộng không có
giới hạn và đã ảnh hưởng mọi người
trên mọi tấc đất của Trung Quốc.
Không bao giờ trong lịch sử có
bất cứ vị hoàng đế nào nhổ tận
rễ khỏi đầu óc dân chúng những gì họ coi là
tuyệt vời nhất và thần thánh nhất, sử
dụng sự tuyên truyền sỉ nhục và vu khống
cùng với bạo lực, như là ĐCSTQ đã làm.
Sự tiêu diệt trên hình thái ý thức, có nhiều khi còn
hữu hiệu hơn và kéo dài hơn sự tiêu diệt
về vật chất.
Cải tạo trí thức
Chữ viết của người
Trung Quốc là hiện thân của tinh hoa 5000 năm văn
minh. Hình thức và phát âm của mỗi chữ, và các thành
ngữ và ý nghĩa văn chương tạo thành từ
sự kết hợp của các chữ, tất cả
đều diễn đạt các ý nghĩa văn hóa sâu
sắc. ĐCSTQ đã không những chỉ đơn
giản hóa chữ viết Trung Quốc, mà còn cố
gắng thay thế chúng bằng hệ thống “phiên âm” La
tinh, là những thứ sẽ loại bỏ tất cả
truyền thống văn hóa từ các chữ viết và ngôn
ngữ Trung Quốc. Mặc dù kế hoạch đã bị
thất bại, tuy thế tàn dư của nó đã gây
thiệt hại cho ngôn ngữ Trung Quốc. Tuy nhiên,
những người trí thức Trung Quốc thừa
kế một văn hóa truyền thống đó đã không
may mắn như vậy.
Trước năm 1949, Trung Quốc có
khoảng hai triệu người trí thức. Mặc dù
một số đã học tập ở những
nước phương Tây, họ vẫn thừa kế
một số tư tưởng Khổng giáo. Chắc
chắn là ĐCSTQ không thể buông lơi việc kiểm
soát họ, bởi vì là các thành viên của tầng lớp “học
sĩ quý tộc” truyền thống, tư tưởng
của họ đóng các vai trò quan trọng trong việc
định hình ý thức của dân chúng.
Vào tháng 9 năm 1951, ĐCSTQ khởi
xướng cuộc “vận động cải tạo
tư tưởng” trên diện rộng bắt đầu
với những phần tử trí thức tại
trường Đại Học Tổng Hợp Bắc Kinh
, và yêu cầu “tổ chức một phong trào (giữa các
giáo viên trong các trường đại học, trung học
và tiểu học, và giữa các sinh viên đại học)
thú nhận lịch sử của họ một cách trung
thành và thành thực, để thanh lý các phần tử
phản cách mạng”[73].
Mao Trạch Đông không bao giờ thích
những người trí thức. Ông ta nói, “Họ [những
người trí thức] sẽ phải biết sự
thực rằng trên thực tế nhiều người
được gọi là trí thức, nói một cách
tương đối, khá ngu dốt và những
người công nhân và nông dân đôi khi biết nhiều
hơn họ.” [74] “So sánh với những người công
nhân và nông dân, những người trí thức chưa
được cải tạo là không sạch sẽ, và phân
tích đến cùng, thì những người công nhân và nông
dân là những người sạch nhất, mặc dù tay
của họ bẩn và chân của họ vấy phân bò…”[75]
Cuộc khủng bố những
người trí thức của ĐCSTQ đã bắt
đầu dưới nhiều hình thức kết tội,
trải từ sự phê bình năm 1951 của Vũ
Huấn [76] “làm trường học hoạt động
bằng tiền xin được” (hành khất biện
học) tới cuộc tấn công cá nhân của Mao
Trạch Đông, năm 1955, kết tội nhà văn Hồ
Phong phản cách mạng [77]. Ban đầu, giới trí
thức không bị phân loại trong tầng lớp phản
động, nhưng đến năm 1957, sau khi vài tôn giáo
truyền thống chủ yếu đã đầu hàng qua
cuộc vận động “mặt trận thống
nhất”, ĐCSTQ đã có thể tập trung sức
mạnh của nó vào giới trí thức. Hành động
“đấu tranh chống cánh Hữu” sau đó đã
được bắt đầu.
Cuối tháng hai năm 1957, với tuyên
bố “trăm hoa đua
nở, trăm phái tranh hót”, ĐCSTQ đã kêu gọi
những người trí thức nói lên các đề
xuất và phê bình của họ với Đảng Cộng
Sản, hứa sẽ không có sự trả thù. Những
người trí thức mà đã không hài lòng với ĐCSTQ
trong một thời gian dài vì sự tàn phá của nó trên
mọi lĩnh vực, cho dù nó không phải là chuyên gia trên
những lĩnh vực đó, và vì sự giết hại
thường dân vô tội của nó trong hành động
“tiêu diệt phản cách mạng” thời kỳ 1950-1953 và
để “loại bỏ phản cách mạng” thời
kỳ 1955-1957. Họ đã nghĩ rằng ĐCSTQ cuối
cùng đã trở lên cởi mở. Vì vậy họ đã
bắt đầu nói ra cảm nghĩ thực sự
của họ và sự phê bình của họ ngày càng lớn
mạnh.
Nhiều năm sau đó, vẫn có
nhiều người tin rằng Mao Trạch Đông chỉ
bắt đầu tấn công những người trí
thức sau khi đã trở nên thiếu kiên nhẫn với
những lời phê bình quá gay gắt của họ. Tuy nhiên,
sự thực là khác hẳn.
Ngày 15 tháng 5 năm 1957, Mao Trạch
Đông đã viết một bài báo nhan đề “Sự Tình Đang Bắt Đầu Thay Đổi” và
lưu hành nó giữa những viên chức cao cấp của
ĐCSTQ. Bài báo viết: “Trong những ngày gần đây
những người cánh Hữu… đã tự biểu
lộ mình rõ ràng nhất và hung dữ nhất. Những
người cánh Hữu, là những người chống
cộng sản, đang thực hiện sự cố
gắng chia rẽ để khuấy động một
cơn bão trên lực lượng thứ bảy ở Trung
Quốc… và có xu hướng phá hủy Đảng Cộng
Sản như vậy”[78]. Sau đó, những quan chức này
mà đã thờ ơ với chiến dịch “trăm hoa
đua nở, trăm phái tranh hót” đột ngột
trở nên hăng hái và “nghiêm chỉnh”. Trong hồi ký
của mình “Quá khứ không
biến mất như làn khói”, con gái của Chương
Bá Quân đã kể lại:
“Lý Duy Hán, Bộ trưởng của
Bộ Mặt Trận Thống Nhất, gọi cá nhân
Chương Bá Quân để mời ông ta tham dự một
cuộc họp về chỉnh phong để đưa ra
ý kiến của ông ta về ĐCSTQ. Chương đã
được sắp xếp để ngồi trên hàng
ghế tràng kỷ đầu. Không biết đó là một
cái bẫy, Chương nói rõ ràng các phê bình của ông về
ĐCSTQ. Trong suốt buổi họp, “Lý Duy Hán có vẻ
thư giãn. Chương có thể nghĩ Lý đồng ý
với những gì ông ta nói. Ông ta không biết rằng Lý hài
lòng khi thấy nạn nhân của mình rơi vào bẫy.” Sau
cuộc họp, Chương được xếp vào
loại cánh Hữu số một ở Trung Quốc.”
Chúng ta có thể dẫn ra một
chuỗi các ngày tháng trong năm 1957 đã đánh dấu các
đề nghị hay diễn văn của những
người trí thức đưa ra các phê bình và đề
nghị như “Viện Thiết Kế Chính Trị” của
Chương Bá Quân vào ngày 21 tháng năm; “Các Quan Điểm
Chống Sai Lầm Của Sô Viết” của Long Vân vào ngày
22 tháng năm; “Bình phản ủy viên hội” của La Long
Cơ ngày 22 tháng năm; diễn văn của Lâm Hy Linh
về “Phê Bình Chủ Nghĩa Xã Hội Phong Kiến của
ĐCSTQ” tại trường đại học Bắc Kinh
vào ngày 30 tháng năm; “Đảng Nên Ngừng Lãnh
Đạo Nghệ Thuật” của Ngô Tổ Quan vào ngày 31 tháng
năm; “Sự Thống Trị Của Đảng Trên
Thế Giới” của Chư An Bình vào ngày mùng một tháng
sáu. Tất cả những đề xuất và diễn
văn này đã được mời, và đã
được đem ra hiến tế sau khi Mao Trạch
Đông đã mài sắc con dao đồ tể của mình.
Tất cả những trí thức này, có
thể đoán được, sau đó đã bị gán nhãn
cánh Hữu. Có hơn 550.000 những người “cánh
Hữu” như vậy trên toàn quốc.
Truyền thống Trung Quốc có
“Học sĩ thà chết chứ không chịu nhục”.
ĐCSTQ lại có khả năng làm nhục những
người trí thức bằng cách phủ nhận
quyền sống của họ và thậm chí đổ trách
nhiệm cho gia đình của họ nếu họ không
chấp nhận sự nhục nhã. Nhiều trí thức
đã đầu hàng. Trong suốt quá trình, một số
họ tiếp tục nói những thứ [nhục nhã] khác
để cứu chính mình, những thứ đã làm tan
vỡ trái tim của nhiều người. Những
người không chấp nhận sự nhục nhã đã
bị giết, bị đem sử dụng như là ví
dụ để hăm dọa các phần tử trí thức
khác.
Tầng lớp “học sĩ”
truyền thống, gương mẫu của đạo
đức trong xã hội, đã bị tiêu mất như
vậy. Mao Trạch Đông đã nói, “Tần Thủy Hoàng
đáng kể gì? Ông ta chỉ giết 460 nho sinh, nhưng
chúng ta đã giết 46.000 tên trí thức. Trong cuộc
đàn áp phản cách mạng của chúng ta, chẳng
phải chúng ta cũng đã giết một số phần
tử trí thức phản cách mạng sao? Tôi đã tranh
luận với những người phái dân chủ mà đã
kết tội chúng ta hành động giống như Hoàng
Đế Tần Thủy Hoàng. Tôi đã nói họ đã sai.
Chúng ta đã vượt hơn ông ta hàng trăm lần.”
[79]
Kỳ thực, Mao đã làm còn hơn là
giết các phần tử trí thức. Nói nghiêm trọng
hơn, là ông ta đã hủy diệt cả tín ngưỡng
và tâm linh của họ.
Tạo ra diện mạo của văn hóa bằng cách giữ lại vẻ bề ngoài truyền thống nhưng thay đổi nội dung
Sau khi Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) thực hiện cải cách kinh tế và
chính sách mở cửa, nó hồi phục lại nhiều
nhà thờ cũng như là chùa Phật giáo và Đạo
giáo. Nó cũng tổ chức một số hội lễ
chùa ở Trung Quốc, cũng như là hội văn hóa
ở hải ngoại. Điều này là nỗ lực cuối
cùng của ĐCSTQ để tận dụng và phá hủy
văn hóa truyền thống còn sót lại. Có hai lý do
để ĐCSTQ làm như vậy. Một mặt,
thiện lương trong nhân tính, mà Đảng Cộng
Sản không có cách gì để trừ sạch, sẽ
dẫn tới sự phá hủy “văn hóa Đảng”.
Mặt khác, ĐCSTQ đã có ý định sử dụng
văn hóa truyền thống để bôi mỹ phẩm
trang điểm bộ mặt thật của chúng
để che đậy bản tính tà của “giả dối, tà ác và đấu
tranh” của chúng.
Căn bản của văn hóa là các hàm
nghĩa bên trong về đạo đức, còn các hình
thức bề mặt chỉ có giá trị giải trí.
ĐCSTQ đã hồi phục lại những yếu
tố bề mặt của văn hóa, phục vụ
giải trí, để che đậy mục đích phá
hủy đạo đức. Cho dù có bao nhiêu cuộc
triển lãm tranh thư pháp và nghệ thuật mà ĐCSTQ
đã tổ chức, bao nhiêu lễ hội văn hóa
với rồng hổ nhảy múa trên sân khấu,
Đảng chỉ đơn giản hồi phục
lại vẻ bề ngoài, mà không phải là phần tinh hoa
của văn hóa. Trong khi đó, ĐCSTQ cũng lợi
dụng các phần trình diễn văn hóa của nó cả
trong và ngoài Trung Quốc, thực chất còn vì một
mục đích để duy trì quyền lực chính
trị.
Một lần nữa, lấy các chùa
làm ví dụ. Các chùa có ý nghĩa là các địa điểm
để con người tu hành, nghe chuông chùa buổi sáng và
tiếng gõ mõ lúc hoàng hôn, lễ bái đức Phật
dưới ngọn đèn dầu. Người ta trong xã
hội người thường cũng có thể sám
hối tội lỗi và lễ bái ở đó. Tu hành đòi
hỏi một tâm thanh tịnh, không theo đuổi bất
cứ điều gì. Sám hối tội lỗi và lễ bái
cũng đòi hỏi một hoàn cảnh kính cẩn và nghiêm
trang. Tuy nhiên, các chùa đã bị biến thành các nơi du
lịch vì mục đích lợi nhuận kinh tế. Trong
số những người thực sự thăm viếng
các chùa ở Trung Quốc ngày nay, bao nhiêu người
đến để suy nghĩ về những lỗi
lầm của mình với một trái tim thành thật và kính
cẩn trước Phật ngay sau khi tắm gội và thay
quần áo?
Phục hồi lại vẻ bề
ngoài nhưng phá hủy hàm nghĩa bên trong của văn hóa
truyền thống là một thủ đoạn mà ĐCSTQ
đã thực hiện để làm mê hoặc người
đời. Dù đó là Phật giáo, các tôn giáo khác, hoặc
các hình thức văn hóa xuất phát từ chúng, ĐCSTQ
cố tình nhận chìm giá trị của văn hóa truyền
thống trong cách này.
III. Văn hóa Đảng
Trong khi Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) đang phá hủy văn hóa
nửa-Thần truyền thống, nó cũng thầm
lặng thiết lập “văn hóa Đảng” của chính
nó thông qua các cuộc vận động chính trị liên
tục. Văn hóa Đảng đã cải tạo thế
hệ già, đầu độc thế hệ trẻ và
cũng có ảnh hưởng lên trẻ con. Ảnh
hưởng của nó là cực kỳ thâm sâu và rộng
khắp . Ngay cả khi nhiều người cố gắng
phơi bày sự tà ác của ĐCSTQ, họ không thể
không sử dụng tiêu chuẩn tốt hay xấu, cách phân
tích, và từ vựng đã được phát triển
bởi ĐCSTQ, những thứ chắn chắn mang
dấu ấn của văn hóa Đảng.
Văn hóa Đảng không chỉ
thừa kế cái ‘tà’ trong tà thuyết Mácxít-Lêninnít sinh ra
ở ngoại quốc, mà còn phối hợp một cách khéo
léo tất cả các nhân tố của phương diện
Âm từ hàng ngàn năm văn hóa Trung Quốc với cách
mạng bạo lực và triết lý đấu tranh từ
sự tuyên truyền của Đảng Cộng Sản.
Những thành phần mặt âm này bao gồm đấu
tranh nội bộ để dành quyền lực bên trong các
gia đình hoàng tộc, hình thành các phường hội
để theo đuổi các lợi ích cá nhân, thủ
đoạn gian trá chính trị để làm những
người khác phải đau khổ, các mánh khóe và âm
mưu bẩn thỉu. Trong suốt sự đấu tranh
để sinh tồn của Đảng Cộng Sản
trong các thập niên qua, đặc tính “giả dối, tà ác
và tranh đấu” của nó đã được làm giàu
thêm, nuôi dưỡng và chuyển sang trang mới.
Chuyên chế và độc tài là tính
chất của văn hóa Đảng. Văn hóa này phục
vụ Đảng trong các cuộc đấu tranh giai
cấp và chính trị. Người ta có thể hiểu môi
trường “nhân văn” khủng bố và chuyên chế
của Đảng đã được nó lập ra như
thế nào từ bốn khía cạnh:
Khía cạnh thống trị
A. Văn hoá bưng bít
Văn hóa của Đảng cộng
sản là một độc quyền riêng rẽ mà không có
tự do tư tưởng, ngôn luận, hiệp hội hay
tín ngưỡng. Cơ chế thống trị của
Đảng là tương tự như một hệ
thống ống dẫn nước, dựa trên áp lực
cao và sự cách ly để duy trì tình trạng kiểm soát
của nó. Thậm chí một lỗ rò nhỏ xíu có thể
dẫn tới sự sụp đổ của toàn hệ
thống. Ví dụ, Đảng từ chối đối
thoại với sinh viên trong biến động sinh viên ngày
mồng 4 tháng sáu [80], sợ rằng nếu lỗ rò này phun
ra, công nhân, nông dân, trí thức và quân đội cũng có
thể đòi đối thoại, và rồi, Trung Quốc
sẽ thực sự tiến tới dân chủ và nền
chuyên chính một Đảng sẽ bị thay đổi.
Do đó, họ đã chọn giết người hơn là
thừa nhận đề nghị của sinh viên. Ngày nay
ĐCSTQ sử dụng hàng chục ngàn “cảnh sát mạng
lưới” để theo dõi mạng Internet và trực
tiếp ngăn chặn bất kỳ mạng lưới
điện tử ngoại quốc nào mà ĐCSTQ không thích.
B. Văn hóa khủng bố
Trong 55 năm qua, ĐCSTQ đã sử
dụng khủng bố để đàn áp tâm trí của
người dân Trung Quốc. Họ đã cầm và sử
dụng roi da và dao đồ tể - nhân dân không bao giờ
biết khi nào những thảm họa không thấy
trước được, sẽ xảy ra với họ
- để bắt nhân dân tuân theo. Người dân, sống
trong sợ hãi, trở nên ngoan ngoãn. Những người
chủ trương dân chủ, những nhà tư
tưởng độc lập, những người hoài
nghi trong hệ thống (của ĐCSTQ) và những thành
viên của những nhóm tinh thần khác nhau đã trở
thành những mục tiêu để giết như là một
cách để răn đe công chúng. Đảng muốn
đập tan bất kỳ sự đối lập nào
từ trong trứng nước.
C. Một văn hóa theo mạng lưới khống
chế
Sự khống chế xã hội
của ĐCSTQ là bao gồm tất cả. Có hệ
thống hộ khẩu hộ tịch, hệ thống
ủy ban dân phố, và đủ loại uỷ ban của
Đảng với tầng cấp cấu trúc khác nhau. “Các
chi bộ Đảng được thiết lập
tại tầng mức công ty”. “Mỗi một làng có chi
bộ Đảng của mình”. Các thành viên của
Đảng và Đội Thanh Niên Cộng Sản có
những hoạt động đều đặn.
ĐCSTQ cũng cổ võ một chuỗi các khẩu
hiệu tương ứng. Một vài ví dụ: “Canh
cửa nhà mình và theo dõi người của mình”. “Ngăn
chặn người của mình không bị lôi cuốn”.
“Kiên quyết thực thi chế độ để
bắt nhận trách nhiệm, bảo đảm hoàn thành các
trách nhiệm, và chắc chắn trách nhiệm chỗ nào.
Canh gác và khống chế chặt chẽ. Nghiêm túc với
kỷ luật và quy tắc và bảo đảm các biện
pháp kiểm soát để duy trì và ngăn ngừa 24 giờ”.
“Văn phòng 610[81] sẽ thành lập một ủy ban giám
sát để kiểm tra và theo dõi các hoạt động
trong mỗi vùng và đơn vị công tác vào những
khoảng thời gian thất thường”.
D. Văn hóa vạ lây
ĐCSTQ đã hoàn toàn lờ đi các
nguyên tắc cai trị theo luật pháp trong xã hội
hiện đại và thúc đẩy mạnh mẽ các chính
sách “liên luỵ”. Nó đã sử dụng quyền lực
tuyệt đối của mình để trừng phạt
họ hàng của những người bị gán nhãn là
“địa chủ”, “giàu có”, “phản động”,
“phần tử xấu” và “cánh Hữu” (địa, phú,
phản, hoại, hữu). Nó đã đề xuất ra lý
luận “xuất thân”. [82]
Ngày nay, ĐCSTQ sẽ “gắn liền
tránh nhiệm của những nhà lãnh đạo hàng
đầu và công khai khiển trách họ, nếu họ
thất bại trong vai trò lãnh đạo của họ
đối với việc có những biện pháp thích
hợp để ngăn chặn các học viên Pháp Luân Công
đi tới Bắc Kinh khuấy động rắc
rối. Đối với những trường hợp
nghiêm trọng, hành động kỷ luật sẽ được
thực hiện”. “Nếu một người luyện
tập Pháp Luân Công, mọi người trong gia đình
sẽ bị sa thải”. “Nếu một nhân viên luyện
tập Pháp Luân Công, tiền thưởng của mọi
người trong toàn bộ công ty sẽ bị giữ
lại.” ĐCSTQ cũng ban hành những chính sách rõ ràng phân
loại trẻ em thành “có thể được giáo dục
và chuyển hóa” hoặc “năm giai cấp đen”
(địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần
tử xấu và cánh hữu). Đảng thúc đẩy
việc tuân theo Đảng và “đặt đại
nghĩa lên trên người thân thuộc.” Những hệ
thống, như là hệ thống lưu trữ cá nhân và
tổ chức, và hệ thống tạm trú, đã
được thiết lập để bảo
đảm sự thực thi các chính sách của nó.
Người dân được khuyến khích tố cáo và
vạch trần những người khác, và
được thưởng cho những đóng góp với
Đảng.
Khía cạnh tuyên truyền
A. Văn hóa tuyên truyền một chiều
Trong Cách mạng Văn Hóa, Trung Quốc
đầy những khẩu hiệu như: “chỉ thị
tối cao,” “Một câu (của Mao) nặng bằng
mười ngàn câu, mỗi câu là một chân lý.” Tất
cả các phương tiện truyền thông đều
được khơi lên để phát những lời ca
ngợi và tập thể ủng hộ Đảng. Khi
cần, những lãnh đạo từ mọi tầng
cấp của Đảng, chính phủ, quân đội, công
nhân, đội thanh niên và các tổ chức phụ nữ
sẽ được mang ra để bày tỏ sự
ủng hộ của họ với Đảng. Mọi
người đã phải đi qua thử thách đó.
B. Văn hóa khuyến khích bạo lực
Mao Trạch Đông đã nói, “Với
800 triệu dân, không đấu tranh thì làm sao có thể
hoạt động được?” Trong sự khủng
bố Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã nói, “Dẫu
đánh những người luyện tập Pháp Luân Công
tới chết thì cũng không bị trừng phạt.”
ĐCSTQ chủ trương “chiến tranh toàn diện,” và
“quả bom nguyên tử đơn giản chỉ là một
con hổ giấy… thậm chí nếu một nửa dân
số chết, nửa còn lại vẫn có thể xây
dựng tổ quốc chúng ta từ đống đổ
nát.”
C. Văn hóa kích động lòng căm thù
“Không quên sự đau khổ của
giai cấp người nghèo, và nhất định nhớ
sự thù hằn trong nước mắt và máu” đã
trở thành một chính sách quốc gia cơ bản. Sự
tàn bạo đối với các kẻ thù giai cấp đã
được ngợi ca như một đức
hạnh. ĐCSTQ đã dạy “Cắn vào lòng căm thù
của bạn, nhai nó và nuốt nó xuống. Gieo căm thù
trong lòng để nó nảy mầm.” [83]
D. Văn hóa lừa gạt và dối trá
Đây là một vài ví dụ về
những lời dối trá của ĐCSTQ. “Thu hoạch trên
mỗi mẫu [84] là quá mười ngàn cân” trong Đại Nhảy Vọt
(1958). “Không một người nào bị giết trên
quảng trường Thiên An Môn” trong cuộc tàn sát ngày 4
tháng 6 năm 1989. “Chúng ta đã khống chế vi trùng SARS”
năm 2003, “Hiện tại là thời gian tốt nhất
cho nhân quyền ở Trung Quốc”, và cái gọi là “Tam
đại biểu” [85]
E. Văn hóa tẩy não
Đây là một số khẩu hiệu
mà ĐCSTQ đã chế tạo để tẩy não nhân dân:
“Không có Đảng Cộng Sản, thì không có một Trung
Quốc mới.” “Lực lượng nòng cốt dẫn
dắt niềm tin của chúng ta tiến lên là ĐCSTQ và
cơ sở lý thuyết dẫn đường tư
tưởng chúng ta là Mácxít - Lêninnít”[86], “Duy trì sự liên
kết tối đa với Ban Trung Ương
Đảng.” “Thực hiện lệnh của Đảng
nếu hiểu nó. Ngay cả khi không hiểu, cứ
thực hiện nó và sự hiểu biết sẽ sâu
sắc trong khi thực hiện các mệnh lệnh.”
F. Văn hóa nịnh hót
“Thiên đường và trái đất
là vĩ đại nhưng vĩ đại hơn vẫn
là lòng tốt của Đảng;” “Chúng ta nợ
Đảng tất cả những gì chúng ta đạt
được;” “Tôi coi Đảng như mẹ của
tôi;” “Dùng sinh mệnh mình để bảo vệ Ban Trung Ương
Đảng.” “Đảng vĩ đại, vinh quang và chính
xác.” “Đảng không thể thất bại”, và v. v.
G. Văn hóa giả dối để “qua cầu”
Đảng đã nắm lấy các
mẫu người điển hình, và dựng nên tấm
gương này tiếp đến gương mẫu khác,
để nâng cao các phong trào “kiến thiết văn minh
tinh thần của xã hội chủ nghĩa” và “giáo dục
tư tưởng”. Kết quả, mọi người
vẫn tiếp tục làm những gì họ đã làm
trước khi có mỗi cuộc vận động.
Tất cả các bài giảng công chúng, buổi học
tập, và chia sẻ kinh nghiệm đều trở thành
những việc giả vờ “nhận là thật
để thông qua”, và tiêu chuẩn đạo đức xã
hội tiếp tục có những bước nhảy lùi
lớn.
Khía cạnh giữa cá nhân với nhau
A. Văn hóa ganh ghét
Đảng đã đẩy mạnh
“chủ nghĩa quân bình tuyệt đối” để mà
“bất cứ ai khác thường sẽ trở thành
mục tiêu bị đả kích.” Người ta ghen tị
với những ai có khả năng lớn hơn và
những ai giàu có hơn - cái được gọi là
“bệnh mắt Đỏ.” [87]
B. Văn hóa mọi người dẫm đạp lên
nhau
ĐCSTQ đã khuyến khích “mặt
đối mặt đấu tranh và lưng tựa lưng
báo cáo”. Chỉ điểm những đồng nghiệp,
viết những tài liệu để vu khống họ,
bịa đặt ra các sự kiện và thổi phồng
các lỗi lầm của họ - những hành vi lệch
lạc này đã được sử dụng để
đo lường sự gần gũi với Đảng
và mong muốn tiến bộ.
Những ảnh hưởng vô hình lên tinh thần bên trong và hành vi bên ngoài
A. Một văn hóa chuyển con người thành máy móc
Đảng muốn nngười dân là
“những con ốc không bao giờ hoen rỉ trong guồng
máy cách mạng,” là “công cụ được thuần hóa
cho Đảng,” hoặc để “Tấn công vào bất
cứ hướng gì mà Đảng chỉ chúng ta.”
“Những người lính của chủ tịch Mao nghe theo
Đảng nhất, họ đi bất cứ chỗ nào
cần họ và làm ổn định bất cứ chỗ
nào có thử thách gay go”.
B. Một văn hóa điên đảo thị phi
Trong Cách Mạng Văn Hóa, ĐCSTQ
muốn “có cỏ dại của chủ nghĩa xã hội
hơn là vụ mùa của chủ nghĩa tư bản”.
Quân đội bị ra lệnh bắn và giết trong
cuộc tàn sát ngày 4 tháng 6 để “đổi lấy 20
năm ổn định”. ĐCSTQ cũng “Làm cho
người khác những gì một người không
muốn làm cho chính mình”
C. Một văn hóa tự mình tẩy não và tuyệt
đối phục tùng
“Cấp dưới tuân lệnh cấp
trên và toàn bộ Đảng tuân theo Ban Trung Ương
Đảng.” “Đánh không thương xót để nhổ
rễ bất kỳ tư tưởng ích kỷ nào nổi
lên trong tâm trí bạn.” “Nổ ra một cuộc cách mạng
tận sâu trong tâm hồn bạn.” “Duy trì liên kết tối
đa với Ban Trung Ương Đảng.” “Thống
nhất tư tưởng, thống nhất bước
chân, thống nhất mệnh lệnh, và thống nhất
chỉ huy.”
D. Một văn hóa bảo vệ vị trí của
kẻ nô tài
“Trung Quốc sẽ bị hỗn
loạn nếu không có Đảng Cộng Sản”; “Trung
Quốc lớn như vậy. Ai có thể lãnh đạo
Trung Quốc ngoại trừ Đảng Cộng Sản?”
“Nếu Trung Quốc sụp đổ, nó sẽ là một
thảm họa trên toàn thế giới, vì vậy chúng ta
phải giúp Đảng Cộng Sản duy trì sự lãnh
đạo của nó”. Do từ sợ hãi và tự bảo
vệ, những nhóm người liên tục bị đàn áp
bởi ĐCSTQ thường thường có vẻ khuynh
Tả hơn là ĐCSTQ.
Những ví dụ quanh vấn
đề này còn có rất nhiều. Mọi độc
giả có thể tìm thấy những yếu tố khác nhau
của văn hóa Đảng qua các kinh nghiệm cá nhân
của mình.
Những người đã trải qua
Cách Mạng Văn Hóa có thể vẫn nhớ một cách
sống động “Vở Kịch Mẫu” của nhạc
kịch hiện đại, các bài hát có lời của Mao,
và Điệu Nhảy Trung Thành. Nhiều người
vẫn nhắc lại các lời từ các cuộc hội
thoại trong Bạch Mao Nữ [88], Chiến Tranh
Địa Đạo [89], và Chiến Tranh Địa
Lôi [90]. Qua những tác phẩm văn chương này,
ĐCSTQ đã tẩy não người dân, nhồi nhét
một cách bắt buộc vào tâm trí họ những thông
điệp như Đảng “anh minh vĩ đại”;
Đảng đã đấu tranh chống kẻ thù “gian
khổ và dũng cảm” thế nào; những người
lính của Đảng đã “hiến dâng tất cả cho
Đảng” thế nào; họ đã vui sướng
được hi sinh chính mình cho Đảng thế nào; và
kẻ thù xấu xa và ngu ngốc thế nào. Ngày này qua ngày
khác, sự tuyên truyền của bộ máy ĐCSTQ tiêm
một cách bắt buộc vào mọi cá nhân sự tin
tưởng mà Đảng Cộng Sản cần. Ngày nay,
nếu người ta trở lại để xem bài
thơ phổ nhạc thành màn khiêu vũ ca nhạc -
“Phương Đông Màu Đỏ”, anh ta sẽ nhận ra
rằng toàn bộ chủ đề và phong cách của màn
trình diễn là về “giết, giết, và giết hơn
nữa.”
Đồng thời, ĐCSTQ đã
tạo ra hệ thống diễn văn và thuyết trình
của nó, như là ngôn ngữ sỉ nhục trong sự phê
bình số đông, những lời tâng bốc để hát
những lời ca ngợi Đảng, và những quy
phạm chính thức sáo rỗng tương tự như là
“tiểu luận tám đoạn.”[91]. Nhân dân bị làm cho nói
một cách không ý thức theo các mô hình suy nghĩ mà
khuyến khích khái niệm “đấu tranh giai cấp”, và
để “ca tụng Đảng”, và sử dụng ngôn
ngữ độc đoán thay vì lập luận bình tĩnh
và lý trí.
Một bước tiến
trước chân lý là sai lầm. Văn hóa Đảng
cũng lạm dụng đạo đức truyền
thống tới một mức độ nhất
định. Ví dụ, văn hóa truyền thống coi trọng
“tín”, Đảng Cộng Sản cũng vậy. Tuy nhiên
những gì nó đề xướng là “trung thành và trung
thực với Đảng”. Văn hóa truyền thống
nhấn mạnh “hiếu”. ĐCSTQ có thể bỏ
người ta vào nhà tù nếu họ không chu cấp cho cha
mẹ của họ, nhưng lý do thực sự là nếu
không những người cha mẹ này sẽ trở thành
“gánh nặng” cho chính quyền. Tuy nhiên, khi phù hợp với
nhu cầu của Đảng, thì con cái đòi hỏi
phải vạch ranh giới ngăn chia họ với cha
mẹ của họ. Văn hóa truyền thống nhấn
mạnh vào “trung”. Hơn nữa, “dân là quan trọng bậc
nhất, quốc gia theo sau, cuối cùng mới là những
người cai trị” (quân khinh dân quý, xã tắc vi
trọng). “Trung” mà ĐCSTQ ưa thích là “sự hiến dâng
mù quáng” - hoàn toàn mù quáng tới mức dân bị đòi
hỏi phải tin vào ĐCSTQ vô điều kiện và tuân
theo nó mà không có một thắc mắc gì.
Những lời thường
được sử dụng bởi ĐCSTQ là rất mê
lạc. Ví dụ, nó đã gọi nội chiến giữa
Quốc Dân Đảng và Cộng Sản là “Chiến Tranh
Giải Phóng”, như thể là người dân đã
được giải phóng khỏi sự áp bức.
ĐCSTQ đã gọi thời kỳ sau 1949 là “sau khi thành
lập quốc gia”, khi mà, trong thực tế, Trung Quốc
đã tồn tại lâu trước đó. ĐCSTQ
đơn giản chỉ là kẻ đảo chính thành
lập một chế độ chính trị mới. Ba
năm Đại Đói Kém
[92] được gọi là “ba năm thảm họa thiên
nhiên,” trong khi, thực tế là, nó không phải thảm
họa thiên nhiên chút nào, mà hoàn toàn là tai họa do con
người gây ra. Tuy nhiên, nghe những lời này mà
được sử dụng trong cuộc sống thường
ngày, và bị chúng ảnh hưởng một cách vô hình,
người dân vô tình chấp nhận những khái niệm
mà ĐCSTQ đã có ý định truyền cho họ.
Trong văn hóa truyền thống,
nhạc được xem là một phương thức
để kiềm nén dục vọng. Trong Lạc Thư
(Nhạc Thư), Tập 24 của Sử Ký, Tư Mã
Thiên (145-85 trước CN) [93] đã nói rằng bản tính
của con người là hòa bình; cảm giác với
những vật chất bên ngoài ảnh hưởng cảm
xúc của người ta, và khuấy động tình
cảm yêu và ghét dựa trên đặc tính và trí tuệ
của con người. Nếu những tình cảm này không
bị kiềm nén, một người sẽ bị cám
dỗ bởi vô vàn các cám dỗ bên ngoài, và sẽ bị
đồng hóa bởi những nội tâm xấu và phạm
vào nhiều hành động xấu. Vì vậy Tư Mã Thiên
đã nói, các hoàng đế trong quá khứ sử dụng
sách dạy lễ nghi và nhạc để tiết chế
dân. Các bài hát nên “vui vẻ nhưng không tục tĩu,
buồn nhưng không quá đau thương”. Người ta
nên bày tỏ cảm giác và mong muốn, mà vẫn khống
chế được những tình cảm này. Khổng
Tử đã nói trong Luận Ngữ, “Ba trăm câu thơ
của Kinh Thi (một trong sáu tác phẩm kinh điển
được thu thập và diễn giải bởi
Khổng Tử) có thể tóm tắt trong một câu, ‘không
nghĩ tà’.
Một thứ đẹp như là
nhạc, tuy nhiên, đã bị ĐCSTQ sử dụng như
là một thủ đoạn để tẩy não
người dân. Những bài hát như là “Chủ nghĩa xã
hội là tốt,” “Sẽ không có Trung Quốc mới
nếu không có Đảng Cộng Sản,” và nhiều bài
khác, đã được hát từ lớp mẫu giáo cho
đến đại học. Khi hát lên những bài hát này,
người dân đã vô tình chấp nhận những ý
nghĩa bên trong của lời hát. Hơn nữa, ĐCSTQ
đã ăn trộm giai điệu của những bài dân
ca du dương nhất và thay thế chúng bằng lời
ca ngợi Đảng. Điều này đã phục vụ
cả việc phá hủy văn hóa truyền thống và
đề cao Đảng.
Một trong những tài liệu kinh
điển của ĐCSTQ, “Diễn văn tại tọa
đàm Duyên An về Văn học và Nghệ thuật” [94]
đã đặt các nỗ lực văn hóa và quân
đội như là “hai chiến tuyến”. Nó đã tuyên
bố rằng chỉ có quân đội võ trang thì chưa
đủ; còn phải có “quân đội văn hoá” nữa.
Nó đã quy định rằng “ văn học nghệ
thuật nên phục vụ chính trị” và “ văn học
nghệ thuật của lớp giai cấp vô sản… là “các
bánh xe và đinh ốc” của cỗ máy cách mạng.”
Một hệ thống hoàn thiện “văn hóa Đảng”
đã được phát triển từ điều này,
với “thuyết vô Thần” và “đấu tranh giai cấp”
là tinh hoa của nó. Hệ thống này hoàn toàn đi
ngược lại văn hóa truyền thống.
“Văn hóa Đảng” thực chất
đã phục vụ xuất sắc trong việc giúp
đỡ ĐCSTQ đạt được quyền
lực và khống chế xã hội. Giống như quân
đội, nhà tù và lực lượng cảnh sát của
nó, văn hóa Đảng cũng là một bộ máy bạo
lực, nó cung cấp một loại bạo lực khác -
“bạo lực văn hóa”. Sự bạo lực văn hóa
này, bằng cách phá hủy 5000 năm văn hóa truyền
thống, đã làm thui chột ý chí của người dân,
và phá hoại ngầm sự liên kết của quốc gia Trung
Quốc.
Ngày nay, nhiều người Trung
Quốc hoàn toàn không biết tinh hoa của văn hóa
truyền thống. Một số thậm chí còn đặt
ngang hàng 50 năm “văn hóa Đảng” với 5000 năm
văn hóa truyền thống Trung Quốc. Đây là một
điều đau buồn cho người Trung Quốc.
Nhiều người không nhận ra rằng khi đối
chọi với cái gọi là văn hóa truyền thống
thực tế họ đang đối lập với
“văn hóa Đảng” của ĐCSTQ, không phải là
văn hóa truyền thống thực sự của Trung
Quốc.
Nhiều người hy vọng thay
thế hệ thống của người Trung Quốc
hiện tại bằng hệ thống dân chủ
phương Tây. Thực tế, dân chủ phương Tây
cũng đã được thành lập trên cơ sở
văn hóa, đáng kể là Cơ Đốc giáo, cái mà,
giữ quan điểm rằng “mọi người
đều bình đẳng trong con mắt của Chúa”, tôn
trọng nhân tính và các sự chọn lựa của con
người. Làm sao mà một “văn hóa Đảng” vô nhân
tính, bạo ngược của ĐCSTQ lại có thể
được sử dụng như là nền tảng
của một hệ thống dân chủ theo kiểu
Phương Tây?
Kết luận
Trung Quốc đã bắt đầu
đi lệch khỏi văn hóa truyền thống của
nó trong triều đại nhà Tống (960-1279 sau CN), và
văn hóa đó đã trải qua sự phá phách không ngớt
kể từ đó. Sau Biến Động 4 tháng Năm
năm 1919 [95], một số trí thức háo hức muốn
có thành công nhanh và ích lợi ngay đã cố gắng tìm
một con đường cho Trung Quốc bằng cách quay
lưng lại với văn hóa truyền thống mà
hướng về văn minh phương Tây. Tuy nhiên, các
xung đột và thay đổi trong lĩnh vực văn
hóa vẫn còn là một tiêu điểm của tranh cãi
học thuật mà không có sự tham gia của các lực
lượng mang tính quốc gia. Nhưng, khi ĐCSTQ
xuất hiện, nó đã nâng cao các xung đột văn hóa
thành vấn đề đấu tranh sống và chết
của Đảng. Vì vậy ĐCSTQ đã bắt
đầu thực hiện một cuộc tấn công
trực tiếp vào văn hóa truyền thống, sử
dụng các phương tiện phá hủy cũng như là
sự lạm dụng gián tiếp trong hình thức “chấp
nhận cặn bã và loại bỏ tinh hoa”.
Sự phá hủy văn hóa quốc gia
cũng là quá trình thành lập “văn hóa Đảng”.
ĐCSTQ đã phá vỡ phán quyết đạo đức
và lương tâm con người, vì vậy dẫn nhân dân
quay lưng lại với văn hóa truyền thống.
Nếu văn hóa quốc gia bị phá hủy hoàn toàn, tinh
hoa của quốc gia sẽ biến mất cùng với nó,
dẫn đến chỉ còn có cái tên của quốc gia.
Đây không phải là một cảnh cáo phóng đại.
Cùng lúc, sự phá hủy văn hóa
truyền thống đã đem đến cho chúng ta
những thiệt hại vật chất không ngờ.
Văn hóa truyền thống coi
trọng sự hợp nhất giữa người và
trời, và sự đồng tồn tại hài hòa giữa
người và tự nhiên. ĐCSTQ đã tuyên bố
niềm vui vô tận từ “đấu với trời và
đất.” Văn hóa này của ĐCSTQ đã dẫn
trực tiếp tới sự giảm giá trị trầm
trọng của môi trường tự nhiên mà gây bệnh
dịch cho Trung Quốc ngày nay. Lấy các nguồn
nước làm ví dụ. Người dân Trung Quốc, đã
từ bỏ giá trị truyền thống “một
người quý tộc quý trọng sự giàu có, nhưng anh
ta làm giầu một cách đúng khuôn phép,” đã cố tình
tàn phá và làm ô nhiễm môi trường tự nhiên. Hiện
tại, hơn 75 % của 50.000 kilômét (khoảng 30.000
dặm) sông của Trung Quốc là không phù hợp cho cá sinh
sống. Hơn một phần ba nước ngầm đã
bị ô nhiễm thậm chí là từ một thập niên
trước, và bây giờ tình hình tiếp tục xấu
hơn. Một “kỳ quan” thuộc loại lạ đã
xảy ra ở dòng sông Hoài: Một trẻ em nhỏ đang
chơi bên dòng sông phủ đầy dầu tạo một
tia lửa mà, sau khi chạm bề mặt của dòng sông,
đã cháy thành một ngọn lửa cao 5 mét. Khi ngọn
lửa dâng lên không khí, hơn mười cây liễu trong
vùng lân cận đã bị đốt khô [96]. Người
ta có thể dễ dàng thấy rằng ai uống
nước đó không thể không phát triển bệnh ung
thư hay các bệnh tật lạ. Các vấn đề môi
sinh khác, như là sự tạo thành sa mạc và muối hóa
ở vùng Tây Bắc Trung Quốc, và ô nhiễm công nghiệp
ở những vùng phát triển, tất cả có quan hệ
tới việc xã hội mất sự tôn trọng với
thiên nhiên.
Văn hóa truyền thống phản
ảnh cuộc sống. ĐCSTQ đề xuất rằng
“nổi loạn là có thể bào chữa được,” và
“đấu tranh chống con người là đầy thích
thú.” Dưới danh nghĩa cách mạng, Đảng có
thể giết người và bỏ đói tới chết
hàng chục triệu người. Điều này đã
dẫn người dân tới chỗ giảm giá trị
cuộc sống, mà sau đó khuyến khích sự gia tăng
các sản phẩm giả và độc hại trên thị
trường. Ví dụ, ở thành phố Phụ
Dương của tỉnh An huy, nhiều trẻ sơ sinh
khỏe mạnh đã phát triển thành có chân tay ngắn,
thân thể yếu và gầy, và có cái đầu to trong
thời kỳ bú sữa mẹ của chúng. Tám trẻ
sơ sinh đã chết bởi vì căn bệnh lạ này.
Sau khi nghiên cứu, người ta đã phát hiện ra
rằng căn bệnh này gây ra bởi sữa bột có
chất độc được sản xuất bởi
một nhà sản xuất tham lam và có trái tim đen tối.
Một số người nuôi cua, rắn và rùa mà cho ăn
kích thích tố và thuốc kháng sinh, trộn cồn công
nghiệp vào rượu vang để uống, đánh bóng
gạo bằng cách sử dụng dầu công nghiệp, và
làm trắng bột mì bằng tác nhân làm sáng của công
nghiệp. Trong tám năm, một nhà sản xuất ở
tỉnh Hà Nam đã sản xuất hàng ngàn tấn dầu
ăn mỗi tháng sử dụng các chất liệu
chứa chất gây ung thư như là dầu bị
thải đi, dầu trích từ các bữa ăn bị
bỏ lại, hoặc đất sét bị thải ra mà
chứa dầu còn dư sau khi nó đã được
sử dụng. Sản xuất thức ăn độc
hại không phải là một hiện tượng giới
hạn hay cục bộ, mà đã là phổ biến trên toàn
Trung Quốc. Điều này tương quan với hậu
quả của sự phá hoại văn hóa, nhân tâm không còn
đạo đức ước thúc, chỉ còn truy cầu
hưởng lạc vật chất.
Không giống như tính độc
quyền tuyệt đối và độc nhất của
văn hóa Đảng, văn hóa truyền thống có
một khả năng bao dung rất lớn. Trong triều
đại thịnh vượng nhà Đường, tư
tưởng Phật gia, Cơ Đốc giáo, và các tôn giáo
phương Tây khác đồng tồn tại một cách
hài hòa với tư tưởng Nho gia, Đạo gia.
Văn hóa truyền thống Trung Quốc đích thực
sẽ giữ một thái độ khoan dung và rộng
mở với văn minh phương Tây hiện
đại. Bốn “con rồng” của Châu Á (Singapore,
Đài Loan, Nam Hàn và Hồng Kông) đã tạo ra một
đặc tính văn hóa “Tân Nho gia”. Nền kinh tế
đang vút lên của họ đã chứng minh rằng
văn hóa truyền thống không là một cản trở
với sự phát triển xã hội.
Cùng lúc, văn hóa truyền thống
đích thực đo lường chất lượng
cuộc sống con người dựa trên cơ sở
của sự hạnh phúc từ bên trong hơn là sự
thoải mái vật chất từ bên ngoài. “Tôi mong không có ai
khiển trách sau lưng tôi, hơn là có ai đó ca tụng
tôi trước mặt; tôi mong có bình yên trong tâm trí, hơn là
có sự thoải mái nơi thân thể.” [97] Đào Uyên Minh
(365-427 sau CN) [98] đã sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng
ông đã giữ một tinh thần vui sướng và đã
hưởng thời gian thư nhàn “hái hoa cúc tây ở hàng
rào phía đông, lặng ngắm núi Phương Nam ở
đằng xa”.
Văn hóa không đưa ra những câu
trả lời cho các câu hỏi như là làm thế nào
để mở rộng sản xuất công nghiệp
hoặc đi theo hệ thống xã hội gì. Đúng
hơn, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc cung
cấp các chỉ dẫn và ước thúc đạo
đức. Sự hồi phục thực sự của
văn hóa truyền thống sẽ là sự khôi phục
của khiêm nhường với Trời, Đất và
Tự nhiên, tôn trọng cuộc sống, và kính úy thần
linh của con người. Nó sẽ cho phép nhân loại
với Trời, Đất, và Tự Nhiên ở cùng trong
một xứ sở hài hòa, và bảo dưỡng những
năm trời cho.
Chú Thích
[1] Bàn Cổ (Bành Tổ) là sinh
mệnh sống đầu tiên và là người sáng tạo
ra tất cả trong thần thoại Trung Quốc.
[2] Nữ Oa là nữ thần
mẹ người đã tạo ra nhân loại trong thần
thoại Trung Quốc.
[3] Thần Nông là một nhân
vật truyền thuyết trong thần thoại Trung
Quốc người đã sống 5000 năm trước.
Ông đã dạy dân làm nông. Ông cũng được công
nhận là dành cuộc đời mình để tìm hàng
trăm cây thuốc (và độc) và nhiều thực
vật tự nhiên, những cây quan trọng cho sự phát
triển y học Trung Quốc truyền thống.
[4] Thương Hiệt là một
nhân vật truyền thuyết từ Trung Quốc cổ, là
người sáng tạo ra chữ viết, công nghệ Trung
Quốc. Phương pháp Thương Hiệt để đưa
dữ liệu vào tính toán ký hiệu Trung Quốc
được đặt tên theo tên ông.
[5] Từ Đạo Đức Kinh,
một trong những văn bản quan trọng nhất
của Đạo Lão, được viết bởi Lão
Tử.
[6] Các lời bình ngỏ từ sách Đại
Học của Khổng Tử.
[7] Từ Sử Ký của Tư
Mã Thiên (145-85 sau CN), người là nhà sử học
lớn đầu tiên của Trung Quốc. Nó ghi chép
lịch sử của Trung Quốc và các quốc gia lân
cận từ thời kỳ cổ đại tới
thời gian của ông. Hình mẫu việc chép sử
của Tư Mã Thiên là độc nhất vô nhị và
được dùng như là một mô hình lịch sử
chuẩn chính thức của các triều đại hoàng
đế trong 2000 năm tiếp theo.
[8] Từ tác phẩm Luận Ngữ
của Khổng Tử.
[9] Từ tác phẩm Luận Ngữ
của Khổng Tử.
[10] Từ tác phẩm Luận Ngữ
của Khổng Tử.
[11] Khổng Tử đã nói trong sách
Đại Học ông đã viết, “Tu thân - Tề gia - Trị
quốc - Bình thiên hạ”.
[12] Đổng Chung Chu (ca. 179-104
trước CN), một nhà tư tưởng Khổng giáo
trong thời nhà Hán, đã nói trong một chuyên luận Ba cách
để hài hoà người với trời (Thiên Nhân Tam
Sách) “trời còn tồn tại, Đạo không
đổi.”
[13] Tây Du Ký, viết bởi Ngô
Thừa Ân, là một trong những tiểu thuyết Trung
Quốc kinh điển nổi tiếng nhất. Nó dựa
trên một câu chuyện có thật về một nhà sư
Trung Quốc nổi tiếng triều đại nhà
Đường, Huyền Trang (602-664), người
đã đi bộ tới vùng đất thuộc Ấn
Độ ngày nay, là nơi sinh ra Phật Giáo, để tìm
kinh. Trong tiểu thuyết, Ngộ Không, Bát Giới và Sa
Tăng đã được Phật sắp xếp
để trở thành các đệ tử của Huyền
Trang và hộ tống ông tới Tây Trúc để lấy
kinh. Họ đã trải qua 81 nạn trước khi
tới được Tây Trúc và đắc Chính Quả.
[14] Hồng Lâu Mộng, viết
bởi Tào Tuyết Cần (1715?-1763) vào triều
đại nhà Thanh. Đó là một bộ truyện tình yêu
buồn trên nền tảng sự suy tàn của một gia
đình quý tộc. Lấy đó làm chủ đề trung
tâm, tiểu thuyết đã mở ra một bức tranh toàn
cảnh sống động và rộng lớn về
lịch sử xã hội. Nó cũng mô tả các nhân vật
chói lọi và đáng ghi nhớ mà trung tâm là Giả Bảo
Ngọc và Lâm Bảo Thoa. Cấu trúc tỉ mỉ và
trải rộng của nó cùng với giá trị văn
chương của nó trong hình thức ngôn ngữ trang nhã
đã làm cho nó được phổ biến rộng
khắp như là hình ảnh thu nhỏ của nghệ
thuật tiểu thuyết cổ điển của Trung
Quốc.
[15] Thủy Hử, một trong
những tiểu thuyết cổ điển lớn
của Trung Quốc, được viết vào thế
kỷ 14 bởi Thi Nại Am. Một trăm lẻ tám
nam nữ đã tụ họp với nhau sống ngoài vòng
pháp luật trên một đầm lầy. Mưu
đồ, mạo hiểm, tàn sát, chiến tranh, và những
câu chuyện lãng mạn được kể một cách
hồi hộp bởi người kể chuyện
truyền thống.
[16] Tam Quốc Diễn Nghĩa,
một trong những tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc nổi tiếng nhất viết bởi La
Quán Trung (1330?-1400?) dựa trên lịch sử thời Tam
Quốc (220-280 trước CN). Nó mô tả các cuộc
đấu tranh rắc rối và phức tạp để
giành ngai vàng giữa ba lực lượng chính trị hùng
mạnh: Lưu Bị, Tào Tháo, và Tôn Quyền, và tập trung
vào nhiều nhân tài lớn và những chiến lược
sâu đậm trong thời kỳ đó.
[17] Đông Chu Liệt Quốc,
một tiểu thuyết ban đầu được
viết bởi Yu Shaoyu vào triều đại nhà Minh,
được hiệu đính và viết lại bởi Feng
Menglong vào cuối triều đại nhà Minh, và sau đó
được tiếp tục hiệu đính bởi Cai
Yuanfang vào triều đại nhà Thanh. Nó bao phủ một
lích sử hơn 500 năm trong thời Xuân Thu (770-476
trước CN) và thời Chiến Quốc (475-221
trước CN).
[18] Thuyết Nhạc Toàn Truyện,
được viết bởi Qian Cai vào triều
đại nhà Thanh. Nó mô tả cuộc đời của Nhạc
Phi (1103-1142) sống ở triều đại Bắc
Tống, một trong những vị tướng và anh hùng
yêu nước nổi tiếng nhất trong lịch sử
Trung Quốc. Tướng Nhạc Phi xuất sắc trong
những trận chiến chống quân xâm lược
miền bắc từ nước Yên. Ông đã bị
đổ tội oan, tống vào tù và xử tử khi mà thừa
tướng Tần Cối cố gắng loại bỏ
phe chủ chiến. Sau đó Nhạc Phi giải oan và
một ngôi đền đã được xây để
tưởng nhớ ông. Bốn bức tượng bằng
gang đã được đúc cho mộ của ông.
Với những bộ ngực trần và tay bị trói sau
lưng và quỳ trước nó [ngôi mộ], chúng
đại diện cho những người chịu trách
nhiệm cho cái chết của Nhạc Phi. Nhạc Phi đã
trở thành một mẫu hình trong văn hóa Trung Quốc
về lòng trung với nước.
[19] Đoạn trích này lấy từ
Toát yếu của các kinh văn Đạo Giáo chọn
lọc được biên soạn vào thời nhà Thanh.
[20] Xem [8].
[21] Từ diễn văn của Mao
tại phiên họp thứ tám của Đại hội
lần thứ 10 của ĐCSTQ.
[22] Những lời nguyên gốc của
Mao trong tiếng Trung Hoa sử dụng một sự
chơi chữ: Tôi thích một thày tu cầm một cái ô -
không Đạo (hoặc Pháp, chơi chữ với “tóc”) hay
trời (chơi chữ với “bầu trời”)
[23] Kiệt là tên của vua
cuối cùng triều đại nhà Hạ (thế kỷ
21-16 trước CN), và Trụ là vua cuối cùng
đời Thương (thế kỷ 16-11 trước CN).
Cả hai đều là những bạo chúa.
[24] Văn Thiên Tường
(1236-1283 sau CN), một tướng lĩnh chống lại
quân Mông Cổ để bảo vệ lãnh thổ triềi
đại nhà Nam Tống. Sau khi bị nhốt trong tù, ông
đã bị giết vào ngày 9 tháng giêng năm 1283 sau khi đã
từ chối không đầu hàng quân Mông Cổ.
[25]
Từ Mạnh Tử.
[26] Từ một câu rất nổi tiếng trong Mạnh Tử, “Cuộc sống, ước muốn của tôi; công bằng, cũng là ước muốn của tôi. Khi tôi không thể có cả hai cùng một lúc, tôi sẽ duy trì công bằng với cái giá cuộc đời tôi.”
[26] Từ một câu rất nổi tiếng trong Mạnh Tử, “Cuộc sống, ước muốn của tôi; công bằng, cũng là ước muốn của tôi. Khi tôi không thể có cả hai cùng một lúc, tôi sẽ duy trì công bằng với cái giá cuộc đời tôi.”
[27]
Từ Cộng Sản Quốc Tế Ca. Dịch sang
tiếng Trung Quốc thì nghĩa đen của nó là: “Không
bao giờ có một đấng cứu rỗi, và chúng ta
cũng không dựa vào Chúa; để tạo ra hạnh phúc
cho con người, chúng ta dựa hoàn toàn vào chính chúng ta.”
[28] Hoàng Đế Thái Vũ đời Bắc Ngụy, (424-452 sau CN).
[29] Hoàng Đế Vũ Tông
đời Đường, (840-846 sau CN).
[30] Hoàng Đế Vũ của triều đại Bắc Chu, (561-579 sau CN).
[31] Hoàng Đế Chu Thế Tông
của triều đại Hậu Chu, (954-959 sau CN).
[32] Một biểu ngữ
được sử dụng giữa những năm 1960
trong Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Quốc.
[33] Chùa Bạch Mã, chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc, được xây dựng vào năm 68 sau CN, năm thứ 7 của Yong Ping của triều đại Đông Hán (25-220 sau CN).
[34] Bối Diệp trong tiếng Dai
gọi là Talan. Bối Diệp là loại thực vật
nhiệt đới thuộc họ cây cọ. Nó là một
loại cây cao có lá mỏng, không bị con nhậy cắn và
rất chậm bị khô hoàn toàn. Thời cổ khi giấy
chưa được phát minh, người Dai cổ đã
in thư hay các bài viết trên lá cây đó. Các bức thư
được khắc trên lá cũng được
gọi là Bối Diệp thư, và kinh trên đó, là Tanlan
(Bối Diệp kinh).
[35] Xiangshan Park, cũng được gọi
là Fragrant Hills Park, nằm cách Bắc Kinh 28 km về phía tây
nam. Được khởi công vào năm 1186 dưới
triều Jin, nó trở thành nơi nghỉ mùa hè của hoàng
gia vào các triều Nguyên, Minh và Thanh.
[36] Từ Các di vật văn hóa đã
bị đốt thế nào của Ding Shu.
[37] Hồng Quân là nói đến
những người dân tiên phong của Đại Cách
Mạng. Hầu hết là những người trẻ
tuổi ở giữa tuổi thanh thiếu niên (13
đến 19 tuổi).
[38] Cung điện Mùa Hè, nằm cách
Bắc Kinh 15 km, là vườn hoàng gia lớn nhất và
được giữ gìn tốt nhất ở ở Trung
Quốc, có lịch sử hơn 800 năm…
[39] Chùa Lạng Thiên là một
điện thờ nổi tiếng ở Trung Quốc. Nó
được tôn kính như là “vùng đất đầu
tiên được ban phước dưới trời” Chùa
ở bên sườn đồi phía bắc của nói
Zhongnan, cách huyện Zhouzhi 15 km về phía đông bắc, và
cáhc thành phố Tây An 70 km.
[40] dặm là một đơn vị
đo chiều dài của Trung Quốc (1 dặm bằng 0.5
km).
[41] Hoàng Đế Cao Tổ
của triều đại nhà Đường, tên hiệu
là Lý Uyên, (khoảng 618-626 sau CN), vị hoàng đế
đầu tiên của nhà Đường.
[42] Các công xã Nhân Dân, trước đây
là cao nhất trong ba cấp quản trị ở các khu
vực nông thôn từ năm 1958 tới khoảng 1982 ở
Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Các công xã có các chức năng
quản lý, chính trị và kinh tế. Chúng là các đơn
vị tập thể lớn nhất và được chia
nhở hơn thành các đội sản xuất và đoàn
sản xuất. Sau năm 1982, chúng đã được
thay bằng các thành phố nhỏ.
[43] Xem [36].
[44] Nội dung của Đại
Thừa Niết Bàn Kinh là kinh Đại thừa cuối
cùng của Phật, được giảng trong những
ngày cuối cùng của ông trên trái đất. Nó cho là
cấu thành tinh túy của tất cả các kinh Đại
Thừa.
[45] Từ Taisho Tripitaka tập. T01,
số 7, Đại Thừa Đại Niết Bàn kinh.
Dịch tạm thời sẽ được cải
tiến.
[46] Từ Lý Thuyết và Thực Hành
Đàn Áp Tôn Giáo của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc của Bai Zhi. Website: http://www.dajiyuan.com/gb/3/4/15/n300731.htm
(tiếng Trung).
[47] Giải thoát biểu thị Niết
bàn và cũng là tự do đạt được nhờ
Định, nó cũng nhằm thoát khỏi sự luân
hồi.
[48] Niết bàn, trong Đạo Phật
hoặc Ấn độ giáo, là một trạng thái an
lạc và hài hòa vượt khỏi đau khổ và tình;
một trạng thái duy nhất linh hồn bất diệt.
[49] Một chiến dịch Đàn Áp
Phản Cách Mạng đã xử lý các thành viên của xã
hội tâm linh, hội tôn giáo, và Quốc Dân Đảng
một cách bạo lực vào đầu năm 1951.
[50] “Cuộc chiến chống Mỹ
bành chướng và giúp đỡ Triều Tiên”, như
ĐCSTQ gọi nó, nổ ra vào năm 1950.
[51] Ngô Diệu Tông (1893-1975 sau CN) và
những người khác đã xuất bản cái gọi là
“Các phương tiện cho Cơ Đốc giáo Trung
Quốc sử dụng các nỗ lực để xây
dựng Trung Quốc mới” cũng được gọi
là “Bản tuyên ngôn sáng tạo của Tam tự” vào năm
1950 và đã thành lập giáo hội “Tam Tự” sau đó.
[52] Đại Hội Trường Nhân
Dân, xây vào năm 1959, tại phía tây của quảng
trường Thiên An Môn. Là nơi hội họp của
Quốc hội Trung Quốc.
[53] Xem [46].
[54] Áo cà sa, là áo choàng của thày tu.
[55] Chương Bá Quân (1895-1969 sau
CN) là một trong những người sáng lập “Liên
đoàn dân chủ Trung Quốc” một đảng dân
chủ ở Trung Quốc. Ông đã bị Mao Trạch
Đông liệt vào “cánh hữu số một” vào năm 1957,
và là một trong những “người cánh hữu” đã
không được khôi phục thanh danh sau Cách Mạng
Văn Hóa.
[56] Hoàng Đế Huy Tông đời
Tống, hiệu Zhao Ji (khoảng 1100-1126 sau CN).
[57] Tô Đông Pha, (1036-1101 sau CN), một
nhà thơ, văn Trung Quốc nổi tiếng đời
Tống. Một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi
đời Đường và Tống”.
[58] Văn Trưng Minh, (1470-1559 sau CN)
họa sĩ Trung Quốc đời Minh.
[59] Đường Bá Hổ, (1470-1523)
là một học giả, họa sĩ, nhà thơ nổi
tiếng đời Minh.
[60] cân là một đơn vị
trọng lượng sử dụng ở Trung
Quốc.Một cân bằng 0.5 kg.
[61] Xem [36].
[61] Xem [36].
[62] Từ một bài thơ của Mạnh
Hạo Nhiên (689 – 740 sau CN) là một nhà thơ nổi
tiếng đời Đường.
[63] Vương Hi Chi (321-379 sau CN),
là nhà thư pháp nổi tiếng nhất trong lịch sử
đời Đường.
[64] Lan Đình Tập Tự nguyên
thủy, được cho là viết bởi Vương Hi
Chi tại thời kỳ đầu sự nghiệp thư
pháp của ông (51 tuổi, 353 sau CN), được công
nhận chung như là phần quan trọng nhất trong
lịch sử thư pháp Trung Quốc.
[65] Ngô Thừa Ân (1506?-1582? sau CN),
Nhà thơ, nhà tiểu thuyết Trung Quốc đời Minh,
tác giả của Tây Du Ký, một trong bốn tiểu
thuyết nổi tiếng nhất Trung Quốc.
[66] Ngô Kính Tử (1701-1754 sau CN),
một nhà văn đời Thanh, tác giả của Học
giả (Rulin Waishi, cũng được biết như là
Lịch sử không chính thức của giới học giả).
[67] Văn xuôi viết bởi Ouyang Xiu
(1007-1072 sau CN), một trong “Tám đại sư phụ
văn xuôi đời Đường và Tống” Ouyang Xiu
tự gọi mình là “túy ông”.
[68] Tên khác của Hồng Quân.
[69] The Yongle Encyclopedia or Yongle Dadian
được ủy thác bởi Hoàng đế đời
Minh Trung Quốc Yongle vào năm 1403. Nó được coi là
cuốn bách khoa lớn nhất và sớm nhất thế.
Hai ngàn học giả đã làm việc trong dự án, tích
hợp 8000 văn bản từ thời cổ đại
tới thời nhà Minh. Cuốn Bách khoa, hoàn thành vào năm
1408, bao gồm trên 22000 tập viết tay chiếm 40 mét
khối.
[70] Lâm
Bưu (1907-1971), một lãnh tụ cao cấp trong
Đảng Cộng sản, dưới thời Mao
Trạch Đông, đã là uỷ viên Bộ Chính trị, là
Phó Chủ tịch nước (1958), và Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng (1959). Lâm Bưu được coi là
kiến trúc sư của Cách mạng Văn hoá. Lâm Bưu
từng được chọn là người kế
nhiệm Mao Trạch Đông năm 1966 nhưng sau đó
bị thất sủng vào năm 1970. Thấy bị
xuống dốc, Lâm Bưu (theo một số báo cáo) đã
định làm một vụ tầy đình và định
đào tẩu sang Liên Xô sau khi âm mưu bại lộ. Khi
chạy trốn khỏi trừng phạt, máy bay đã
nổ tại Mông Cô, kết thúc cuộc đời Lâm
Bưu.
[71] “Lương Hiệu” đại biểu cho một nhóm cây bút đã được chỉ định.
[72] Hoàng Đế Tần Thủy
Hoàng (259-210 trước CN), hiệu Doanh Chính, là
vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử
nước Trung Quốc thống nhất. Ông đã
chuẩn hóa luật pháp, ngôn ngữ viết, tiền
tệ, trọng lượng và đo lường, và đã
cho xây Vạn Lý Tường Thành. Tất cả đều
những thứ này ảnh hưởng sâu và lớn lên lịch
sử và văn hóa Trung Quốc. Ông đã ra lệnh
đốt sách của nhiều trường phái bao gồm
cả Nho gia và Đạo gia, và một lần đã r a
lệnh chôn sống 460 nhà Nho. Những sự kiện
lịch sử này được gọi là “đốt sách
và chôn Nho sĩ” Ông đã xây một lăng tẩm khổng
lồ cho chính mình và Đội quân canh mồ bằng
đất nung của Hoàng Đế Tần
được biết đến như là kỳ quan
thứ 8 của thế giới.
[73] Từ Các tác phẩm của Mao
Trạch Đông 1949-1976 (tập 2)
[74] “Chỉnh lại phong cách làm việc
của Đảng” (1942) của Mao.
[75] “Nói chuyện tại diễn đàn
Diên An về văn học và nghệ thuật” (1942) của
Mao.
[76] Vũ Huấn (1838-1896 sau CN),
tên gốc là Wu Qi, sinh tại Tangyi thuộc tỉnh Sơn
Đông. Mất cha từ thủa nhỏ, gia đình ông
rất nghèo. Ông phải xin thức ăn để nuôi
mẹ và được biết đến như là
người ăn mày hiếu thảo. Sau khi mẹ ông
mất, ăn xin trở thành phương tiện kiếm
sống duy nhất của ông. Ông mở các trường
học miễn phí bằng tiền tích lũy xin
được.
[77] Hồ Phong (1902-1985), nhà phê bình
văn chương và học giả, chống lại chính
sách văn chương giáo điều của ĐCSTQ. Ông
đã bị khai trừ khỏi Đảng năm 1955 và
kết án 14 năm tù.
[78] Từ Các Tác phẩm chọn lọc
của Mao Trạch Đông (Tập. 5), “Sự tình đang
thay đổi” (1957)
[79] Qian Bocheng, Văn hóa phương
Đông, ấn bản thứ tư (2000).
[80] Cuộc vận động Ngày
mồng 4 tháng 6 của sinh viên được khởi
xướng bởi các sinh viên đại học tán thành
cải tạo dân chủ ở Trung Quốc giữa 15 tháng
4 và ngày 4 tháng 6 năm 1989. Sau đó nó đã bị đàn áp
bởi Quân đội giải phóng nhân dân, và
được cộng đồng thế giới gọi
là cuộc tàn sát ngày mùng 4 tháng 6.
[81] “Phòng 610”: một tổ chức
được tạo ra chuyên khủng bố Pháp Luân Công,
có quyền lực tuyệt dối tại mỗi cấp
quản lý trong đảng và tất cả các hệ
thống pháp luật và chính trị khác.
[82] “Xuất thân luận” (or bloodline or
pedigree) là một lý thuyết tuyên bố rằng bản tính
của một người là do tầng lớp của gia
đình mà anh ta sinh ra quyết định.
[83] Từ bài hát của nhạc kịch
hiện đại “Huyền thoại đèn lồng
đỏ”, một “Vở kịch mẫu” chính thức
phổ biến được phát triển trong thời
“Đại cách mạng văn hóa” (1966-76).
[84] Mẫu là một đơn
vị đo diện tích ở Trung Quốc.
[85] Học thuyết tam đại biểu của Giang Trạch Dân được nhắc đến lần đầu trong bài phát biểu của Giang tháng 2 năm 2000, đại ý là Đảng cộng sản Trung Quốc phải luôn luôn (1) đại biểu cho quyền lợi dân tộc Trung Hoa, (2) đại biểu cho sự phát triển hiện đại, (3) đại biểu cho nền văn hoá tiên tiến của Trung Quốc.
[86] Diễn văn mở đầu Phiên
họp thứ nhất của Quốc hội nhân dân toàn
quốc lần thứ nhất của Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa (Tháng 9 năm 1954).
[87] “Bệnh mắt đỏ”
được sử dụng ở đây để mô
tả một người mà khi thấy người khác làm
tốt hơn mình, anh ta liền cảm thấy bất bình
và khó chịu, và nghĩ rằng anh ta đáng lẽ phải
là người đang làm tốt hơn.
[88] Một “Vở kịch mẫu” chính thức phổ biến được phát triển trong thời “Đại cách mạng văn hóa” (1966-76). Trong huyền thoại dân gian Trung Quốc, Bạch Mao Nữ là một câu chuyện về một tiên nữ sống trong một hang động có các khả năng siêu thường có thể thưởng cho những người làm việc tốt và phạt những kẻ làm điều ác, ủng hộ chính nghĩa và trấn áp tà ác. Tuy nhiên, trong các vở kịch, opera và ba-lê ở Trung Quốc hiện đại cô bị mô tả như một cô gái buộc phải chạy trốn đến một cái hang sau khi bố cô bị đánh đến chết vì từ chối không gả cô cho một người địa chủ già. Cô bị bạc tóc vì thiếu dinh dưỡng. Dưới ngòi bút của các nhà văn theo ĐCSTQ, huyền thoại này đã bị biến thành một trong những vở kịch “hiện đại” nổi tiếng nhất ở Trung Quốc nhằm để kích động lòng hận thù giai cấp đối với những người chủ sở hữu đất đai.
[89] Địa Đạo Chiến,
một phim đen trắng làm năm 1965 trong phim ĐCSTQ
tuyên bố rằng quân du kích của mình ở Nội
địa Trung Quốc đã đánh quân xâm lược
Nhật qua nhiều đường hầm dưới lòng
đát trong những năm 1940.
[90] Địa Lôi Chiến, một
bộ phim đen trắng làm năm 1962 trong phim ĐCSTQ
tuyên bố rằng quân du kích của mình ở tỉnh Hà
Bắc đã đánh quân xâm lược Nhật Bản
bằng mìn tự làm lấy trong những năm 1940.
[91] Một cách hành văn quy định
trong các bài kiểm tra tuyển dụng công chức nhà
nước. được biết là cứng nhắc
về hình thức và nghèo nàn về nội dung.
[92] Đại Đói Kém 1959-1961 ở
Trung Quốc là nạn đói lớn nhất trong lịch
sử con người. Con số ước tính
“người chết bất thường” trong nạn
đói trải từ 18 tới 43 triệu.
[93] Xem [7].
[94] Của Mao Trạch Đông (1942).
[95] Biến Động 4 tháng Năm là
biến động lớn đầu tiên trong lịch
sử Trung Quốc hiện đại, bắt đầu
từ mùng 4 tháng 5 năm 1919.
[96] Chen Guili, Cảnh báo của sông Hoài
(1995).
[97] Từ “Mở đầu xem xét Li
Yuan trở về Bàn Cổ” của Han Yu (768-824 sau CN),
một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi
đời Đường và Tống”.
[98] Đào Uyên Minh (365-427 sau CN),
cũng được biết là Tao Qian, một nhà thơ
lớn trong văn hóa Trung Quốc.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ
DAJIYUAN
Bài bình luận số 7
Lịch sử giết người của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Lời Mở
Đầu
Ảnh
tài liệu cho thấy bọn tay sai của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc đang đánh đập và
sỉ nhục một "phần tử phản Cách
Mạng" (AFP/Getty Images)
|
Lịch
sử 55 năm của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) được viết bằng máu và
những lời dối trá. Những câu chuyện
đằng sau lịch sử đầy máu này vừa
cực kỳ bi đát vừa ít được biết
đến. Dưới chế độ thống trị
của ĐCSTQ khoảng 60 đến 80 triệu
người dân Trung Quốc vô tội đã bị giết
hại, để lại đằng sau những gia
đình tan nát của họ. Nhiều người không
hiểu tại sao ĐCSTQ lại giết người.
Trong khi ĐCSTQ đang tiếp tục sự đàn áp tàn
bạo của nó đối với các học viên Pháp Luân
Công và gần đây áp bức các đám người
biểu tình ở Hán Nguyên bằng súng đạn, nhiều
người tự hỏi liệu họ có thể sẽ
thấy một ngày mà ĐCSTQ sẽ học cách nói bằng
lời thay vì bằng súng đạn.
Mao
Trạch Đông tóm tắt mục tiêu của Cách Mạng
Văn Hóa, “…sau khi thiên hạ đại loạn, thế
giới sẽ tiến đến hòa bình, nhưng cứ
khoảng 7 hoặc 8 năm, sự hỗn loạn lại
cần phải xảy ra một lần”[1]. Nói cách khác, nên
có một cuộc cách mạng về chính trị cứ 7
hoặc 8 năm một lần và một đám
người cần bị giết chết trong khoảng 7
hoặc 8 năm một lần.
Đảng
Cộng Sản giết người là có những lý
luận để căn cứ vào, và có các nhu cầu
hiện thực.
Theo
lý luận mà nói, thì Đảng Cộng Sản tin vào “chính
quyền chuyên chế của giai cấp vô sản” và
cần phải “cách mạng liên tục dưới sự
chuyên chính của giai cấp vô sản”. Do đó sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền tại
Trung Quốc, nó đã giết chết những người
địa chủ để giải quyết vấn
đề quan hệ sản xuất ở các khu vực nông
thôn. Nó đã giết hại các nhà tư bản để
đạt mục đích cải cách công thương và
giải quyết các mối quan hệ sản xuất ở
khu vực thành thị. Sau khi hai giai cấp này bị
loại trừ, các vấn đề liên quan đến
nền tảng kinh tế đã được giải
quyết trên căn bản. Tương tự vậy,
để giải quyết các vấn đề liên quan
đến kiến trúc thượng tầng cũng cần
phải giết người. Việc đàn áp 'Nhóm Hồ
Phong chống Đảng' và cuộc 'Vận động
chống cánh Hữu' đã tiêu diệt các thành phần trí
thức. Việc giết hại những tín đồ
đạo Cơ đốc, những người theo
Đạo giáo, những người theo đạo
Phật và các bang hội được dân ưa chuộng
là để giải quyết vấn đề tôn giáo. Các
cuộc tàn sát trên diện rộng trong thời kỳ Cách
mạng Văn hóa đã giải quyết vấn đề
quyền lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng về chính trị và văn hóa. Vụ thảm
sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989 được
dùng để ngăn chặn nguy cơ về chính trị
và giải quyết các vấn đề đòi hỏi dân
chủ. Chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công nhằm để
giải quyết các vấn đề về tín
ngưỡng và phương pháp truyền thống
để làm thân khỏe mạnh. Tất cả những
hành động này đều cần thiết để
Đảng Cộng Sản củng cố quyền lực
và duy trì sự thống trị, khi liên tục phải
đối mặt với các nguy cơ về tài chính (giá cả
các mặt hàng tiêu dùng tăng vọt sau khi ĐCSTQ lên
nắm quyền và nền kinh tế Trung Quốc gần
như đã sụp đổ sau Cách mạng Văn hóa),
nguy cơ chính trị (một số người không nghe
theo lệnh của Đảng hoặc một số
người muốn chia sẻ quyền lực chính trị
với Đảng) hoặc nguy cơ về niềm tin
tưởng (sự tan rã của cựu Liên Bang Sô Viết,
các biến động chính trị ở Đông Âu, và
vấn đề Pháp Luân Công). Trừ vấn đề Pháp
Luân Công ra, gần như tất cả các phong trào chính
trị trước đó đều được dùng
để làm sống lại bóng ma tà linh của
Đảng Cộng Sản và kích động tham vọng
cách mạng của nó. Đảng cũng sử dụng
những phong trào chính trị này để thử các
đảng viên ĐCSTQ, tiêu diệt những người
không đạt đủ các đòi hỏi của
Đảng.
Đồng
thời việc giết người của Đảng
Cộng Sản cũng do từ các nhu cầu hiện
thực mà ra. Bởi vì Đảng Cộng sản xây
dựng cơ nghiệp bởi những tên lưu manh vô
lại mà đi giết người để chiếm
đoạt quyền lực. Một khi tiền lệ này
đã được đặt ra thì không có
đường lui. Khủng bố liên miên đã
được dùng để dọa nạt người
dân và bắt buộc họ vì sợ hãi mà chấp nhận
quyền thống trị tuyệt đối của
Đảng Cộng Sản.
Nhìn
bề ngoài, tưởng như là Đảng cộng
sản "bị động phải giết
người” và tưởng chừng như những sự
kiện 'ngẫu nhiên' trong xã hội là "ngẫu
nhiên" kích động tà linh Đảng cộng sản,
và tình cờ châm ngòi cho cơ chế tổ chức giết
người của Đảng cộng sản. Trên
thực tế những sự kiện này được
dùng để ngụy trang nhu cầu sát nhân của
Đảng, và ĐCSTQ cần phải giết chóc
định kỳ. Nếu không có những bài học đau
đớn này, người ta có thể bắt đầu
nghĩ rằng Đảng Cộng Sản đang tiến
bộ, và sẽ bắt đầu đòi hỏi dân chủ
như những sinh viên lý tưởng hóa trong cuộc
vận động dân chủ năm 1989 đã làm. Việc
giết người cứ 7 hay 8 năm một lần là
để gợi lại sự khủng bố trong tâm trí
người dân, và có thể cảnh cáo thế hệ
trẻ: bất cứ ai chống lại ĐCSTQ, muốn
thách thức quyền lãnh đạo tuyệt đối
của ĐCSTQ, hoặc cố nói ra sự thực về
lịch sử Trung Quốc, sẽ phải nếm mùi
“nắm tay sắt của chính quyền chuyên chế của
giai cấp vô sản”.
Giết
người đã trở thành một trong những thủ
đoạn cần thiết nhất để Đảng
Cộng Sản duy trì sự thống trị. Với sự
leo thang nợ máu của ĐCSTQ, thì việc buông
lưỡi dao đồ tể của nó xuống sẽ
khuyến khích người dân báo thù cho những tội ác
đã làm. Do đó, ĐCSTQ không những chỉ giết
hại nhiều người mà còn sử dụng thủ
đoạn tàn nhẫn nhất để đe dọa
người dân một cách hiệu lực, đặc
biệt là vào thời kỳ đầu khi ĐCSTQ đang
thiết lập sự thống trị của nó.
Bởi
vì mục đích giết người là để chế
tạo khủng bố tối đa, ĐCSTQ đã lựa
chọn thành phần bị tiêu diệt một cách rất
vô lý. Trong lịch sử của mỗi lần vận
động chính trị, ĐCSTQ đều sử dụng
chính sách diệt tuyệt. Hãy lấy việc “Đàn áp các
phần tử phản Cách mạng” làm ví dụ. ĐCSTQ
đã không thực sự đàn áp những "hành vi”
phản Cách mạng mà chỉ đàn áp những “phần
tử” mà họ gọi là phản Cách mạng. Nếu ai
đã đầu quân và phục vụ vài ngày trong quân
đội của Quốc Dân Đảng nhưng tuyệt
đối không làm gì liên quan đến chính trị sau khi
Đảng Cộng Sản chiếm được
quyền lực, người này vẫn phải bị
giết chết vì “lịch sử phản Cách Mạng”
của mình. Trong quá trình cải cách ruộng đất,
để gỡ bỏ “gốc rễ của vấn
đề”, ĐCSTQ thường giết cả gia đình
của người địa chủ.
Từ
năm 1949 khi nắm chính quyền đến nay, ĐCSTQ
đã bức hại hơn một nửa nhân dân Trung
Quốc. Ước tính khoảng 60 đến 80 triệu
người đã chết vì các nguyên nhân không chính đáng.
Con số này vượt trên cả tổng số
người chết trong cả hai cuộc Chiến tranh
Thế Giới cộng lại.
Giống
như những nước Cộng Sản khác trên thế
giới, việc giết người tùy tiện của
ĐCSTQ cũng bao gồm thủ đoạn giết
hại cực kỳ tàn bạo những đảng viên
của chính nó để tiêu diệt những người
bất đồng ý kiến, coi trọng ý thức về
'nhân tính' hơn 'Đảng tính'. Sự thống trị
bằng khủng bố của ĐCSTQ nhắm đều
vào dân chúng và các đảng viên của nó để duy trì
một “pháo đài chiến đấu không thể thất
bại”.
Trong
một xã hội của chính đảng, mọi
người bày tỏ sự quan tâm và tình cảm với
nhau, sống trong sự tôn kính và biết ơn
Thượng Đế hay Thần linh. Ở phương Đông,
mọi người nói, “Đừng bao giờ gây ra cho
người khác điều gì mà chính bản thân mình không
muốn nhận nó [2].” Ở phương Tây, mọi
người nói, “Hãy yêu quý hàng xóm láng giềng như yêu chính
bản thân mình” [3]. Ngược lại, Đảng
Cộng Sản cho rằng “Lịch sử của tất
cả xã hội cho đến ngày nay là lịch sử
của các cuộc đấu tranh giai cấp” [4].
Để các cuộc "đấu tranh” được
tồn tại trong xã hội thì phải sinh ra sự thù
hận. Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ)
không những chính nó phải giết người mà nó còn
phải khuyến khích dân chúng giết hại lẫn nhau. Nó
cố làm cho người ta trở nên thờ ơ lãnh
đạm với nỗi đau khổ của
người khác bằng cách bao vây người ta trong
giết chóc liên miên. Nó muốn mọi người trở
nên tê liệt do thường xuyên phải đối
mặt với những hành động tàn nhẫn vô nhân đạo, và hình thành một
tâm lý rằng “điều tốt nhất ta có thể hy
vọng là tránh khỏi bị đàn áp”. Tất cả những
bài học về sự đàn áp dã man này khiến cho
ĐCSTQ duy trì được quyền thống trị
của nó.
Cùng
với việc hủy diệt vô số nhân mạng,
ĐCSTQ cũng hủy diệt tinh thần của
người dân Trung Hoa. Có rất nhiều người,
ở trong cuộc đấu tranh tàn khốc, đã hình
thành một loại phản
xạ có điều kiện. Chỉ cần ĐCSTQ
dơ con dao đồ tể lên, là họ hoàn toàn vứt
bỏ tất cả nguyên tắc, vứt bỏ tất
cả khả năng phán đoán. Về một khía cạnh
ý nghĩa nào đó, tinh thần của những
người này đã chết, đó là một điều
còn đáng sợ hơn cả cái chết của thể
xác.
I. Những cuộc thảm sát khủng khiếp
Trước
khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lên
nắm quyền, Mao Trạch Đông đã viết, “Chúng ta
tuyệt đối không áp dụng chính sách nhân từ đối
với các phần tử phản động và đối
với các hành vi phản động của giai cấp
phản động [5].” Nói cách khác, thậm chí trước
khi ĐCSTQ chiếm được Bắc Kinh, nó đã
quyết tâm thực hành "chính quyền bạo
lực" dưới cách nói tránh của “Chính quyền
chuyên chế Nhân dân Dân chủ” (People’s Democratic Dictatorship).
Sau đây là một vài ví dụ.
1. Đàn áp những phần tử Phản động và Cải cách ruộng đất
Vào
tháng 3 năm 1950, Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) công bố “Lệnh đàn áp nghiêm khắc các
phần tử phản động”, được
biết đến trong lịch sử như một phong
trào “đàn áp các phần tử phản động”.
Không
như các hoàng đế trong lịch sử thường ân
xá cho thiên hạ sau khi họ lên ngôi, ĐCSTQ bắt
đầu giết người ngay giây phút nó lên nắm
quyền. Mao Trạch Đông nói trong một tài liệu, “Còn
có rất nhiều nơi mà nhân dân bị đe dọa và
không dám giết các phần tử phản Cách Mạng
một cách công khai trên diện rộng [6].” Vào tháng 2/1951,
Trung Ương Đảng của ĐCSTQ nói rằng
ngoại trừ tỉnh Triết Giang và phía nam tỉnh An
Huy, “các khu vực nào mà vẫn chưa giết đủ
người, đặc biệt là ở các thành phố
lớn và trung bình, thì nên tiếp tục bắt giữ và
giết người với một số lượng
lớn và không nên dừng sớm quá.” Mao thậm chí khuyến nghị rằng “ở
các khu vực nông thôn, để giết các phần tử
phản động, nên giết hơn một phần ngàn
tổng số dân… ở các thành phố, nên giết ít
hơn một phần ngàn. [7]” Dân số Trung Quốc vào
thời gian đó là khoảng 600 triệu người; “
mệnh lệnh hoàng gia” này của Mao sẽ giết
chết ít nhất 600 ngàn người. Không một ai
biết tỉ lệ một phần ngàn này là ở đâu
ra. Có thể là Mao chợt nảy ra ý nghĩ mà quyết
định rằng 600 ngàn nhân mạng là đủ
để đặt một nền tảng mà tạo
nỗi sợ hãi trong dân chúng, nên đã ra lệnh thực
hiện như thế.
Những
người bị giết có thực sự đáng
phải chết hay không, đó không phải là mối quan tâm
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Theo Quy định của
Nước Cộng hòa Nhân dân
Trung hoa về việc trừng phạt các phần tử
phản động công bố năm 1951 nói rằng
những người “phao tin đồn” có thể bị
“tử hình ngay lập tức”.
Trong
khi việc 'Đàn áp các phần tử phản động'
đang được thực hiện mãnh liệt, thì
cải cách ruộng đất cũng đang diễn ra
trên diện rộng. Trên thực tế, ĐCSTQ đã
bắt đầu cải cách ruộng đất trong các
khu vực do nó chiếm đóng vào cuối thập niên 1920.
Trên bề mặt, cải cách ruộng đất, trông có
vẻ như ủng hộ một lý tưởng
tương tự như ở Thái Bình Thiên Quốc [8],
gọi là 'tất cả mọi người đều sẽ
có đất để trồng trọt' nhưng thực
ra nó chỉ là một cái cớ để giết
người. Đào Chú, đứng thứ tư trong hàng
lãnh đạo của ĐCSTQ, sau đó có một khẩu
hiệu cho cải cách ruộng đất là: “Làng nào
cũng đổ máu, nhà nào cũng đánh nhau,” cho thấy
rằng trong làng nào cũng có những người
địa chủ phải chết.
'Cải
cách ruộng đất' đã có thể được
thực hiện mà không cần phải giết
người. Nó đã có thể được thực
hiện đúng theo đường lối mà chính phủ
Đài Loan đã thực hiện chính sách cải cách
ruộng đất của mình, bằng cách mua lại đất
từ các địa chủ. Tuy nhiên, bởi vì Đảng
cộng sản bắt nguồn từ một nhóm những
kẻ lưu manh côn đồ vô sản, nó chỉ biết
cướp bóc. Sợ rằng nó có thể bị trả thù
do cướp bóc, Đảng cộng sản đã giết
các nạn nhân, để loại trừ nguồn gốc
của các rắc rối có thể có sau này.
Cách
giết người phổ biến nhất trong thời
kỳ cải cách ruộng đất được
biết đến là “đấu tố”. ĐCSTQ
đưa ra các tội danh giả tạo, rồi quy
tội cho các địa chủ hoặc những phú nông. Sau
đó dân làng được hỏi xem những
người này nên bị trừng phạt như thế
nào. Một số đảng viên hoặc những tên tay sai
cho ĐCSTQ đã được gài trước vào trong
những đám đông để la to “Chúng ta nên giết
họ!”, rồi các địa chủ hoặc những phú
nông sau đó bị xử tử ngay tại chỗ. Vào
thời gian đó, bất cứ ai làm chủ đất
đai trong làng đều bị coi là “bá hộ”. Những
người thường lợi dụng nông dân bị
gọi là “cường hào ác bá”; những người
thường giúp sửa chữa các tiện nghi công cộng
và tặng tiền cho các trường học và cho các
cuộc cứu trợ nạn nhân thiên tai thì gọi là “
thiện bá hộ”; những người không làm gì cả
thì gọi là “ bất bá hộ”. Việc phân loại như
thế này không có ý nghĩa gì cả, bởi vì tất
cả các “bá hộ” cuối cùng đều bị xử
tử ngay lập tức bất kể là họ thuộc
vào loại “bá hộ” nào.
Vào
khoảng cuối năm 1952, số "phần tử
phản cách mạng" bị xử tử do ĐCSTQ công
bố là khoảng 2,4 triệu người. Thực ra,
tổng số người chết bao gồm các cựu
viên chức của chính phủ Quốc Dân Đảng
dưới cấp huyện và các địa chủ, là ít
nhất 5 triệu người.
Việc
"Đàn áp các phần tử phản động" và
"Cải cách ruộng đất" có ba kết quả
trực tiếp. Thứ nhất là, các cựu quan chức
địa phương mà đã được lựa
chọn thông qua sự tự trị dựa trên cơ
sở thị tộc đã bị tiêu diệt. Thông qua
việc đàn áp các phần tử phản cách mạng và
cải cách ruộng đất, ĐCSTQ đã giết
hại tất cả những nhân viên quản lý trong
chế độ trước và thực hiện
được sự khống chế toàn bộ
đối với các khu vực nông thôn bằng cách
thiết lập các chi bộ Đảng trong từng làng
xã. Thứ hai là, chiếm được số
lượng của cải khổng lồ bằng con
đường trộm cướp trong việc đàn áp
các phần tử phản cách mạng và cải cách
ruộng đất. Thứ ba là, sự đàn áp tàn
khốc các địa chủ và phú nông đã khủng
bố tinh thần của người dân.
2. “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống”
Việc
'Đàn áp các phần tử phản cách mạng và Cải
cách ruộng đất' chủ yếu nhắm vào các khu
vực nông thôn, còn “Chiến dịch Ba chống” và
“Chiến dịch Năm chống” theo sau đó có thể
được coi là sự diệt tuyệt gốc
tương ứng ở thành thị.
“Chiến
dịch Ba chống” bắt đầu vào tháng 12/1951 và
nhắm vào nạn tham nhũng, phí phạm và quan liêu trong
nội bộ của những cán bộ Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Một số viên
chức tham nhũng của ĐCSTQ đã bị tử hình.
Sau đó không lâu, ĐCSTQ cho rằng sự việc thối
nát, tham nhũng của các viên chức chính quyền của
nó là do sự cám dỗ của các nhà tư bản. Vì
vậy “Chiến dịch Năm chống” nhằm
để chống hối lộ, trốn thuế, trộm
cắp tài sản quốc gia, xây cất dối trá cẩu
thả bằng vật liệu xấu, và làm gián điệp
thu thập các tin tức kinh tế quốc gia,
được phát động vào tháng 1 năm 1952.
“Chiến
dịch Năm chống” trên thực tế, chính là
để ăn cắp tài sản của các nhà tư
bản hay đúng hơn là giết hại các nhà tư
bản để lấy tiền của họ. Trần
Nghị, thị trưởng Thượng Hải lúc
bấy giờ, được báo cáo vắn tắt tình hình
trên ghế sô-fa với một cốc trà trong tay mỗi
đêm. Ông ta hỏi một cách nhàn nhã, “Có bao nhiêu
người nhảy dù hôm nay?”, có nghĩa là “Có bao nhiêu
thương gia nhảy lầu tự tử hôm nay?” Không
một nhà tư bản nào có thể trốn thoát “Chiến
dịch Năm chống”. Họ bị đòi hỏi
phải đóng thuế mà
“đã trốn nợ” kể từ thời vua Quang Tự
(1875-1908) của triều đại nhà Thanh (1644-1911), là khi
thị trường thương mại Thượng
Hải bắt đầu được thành lập. Các
nhà tư bản đã không thể có cách nào để trả
những thứ "thuế” như vậy, ngay cả
với tất cả tài sản của họ. Họ không
còn cách nào khác ngoài việc tự kết liễu cuộc
đời của mình, nhưng họ không dám nhảy
xuống sông Hoàng Phố tự tử. Nếu xác của
họ không được tìm thấy, ĐCSTQ sẽ
buộc tội họ là chạy sang Hồng Kông, và
người nhà của họ vẫn phải chịu trách
nhiệm trả những khoản thuế đó. Các nhà
tư bản đành phải nhảy lầu và để lại
xác cho ĐCSTQ thấy bằng chứng cái chết của
họ. Người ta nói rằng mọi người không
dám đi bộ bên cạnh các tòa nhà cao tầng ở
Thượng Hải thời bấy giờ vì sợ bị
những người nhảy từ trên xuống sẽ
rơi vào mình.
Theo
tài liệu "Sự thực của các vận
động chính trị sau khi thành lập Nước
Cộng hòa Nhân dân Trung hoa" được
đồng biên soạn bởi bốn cơ quan chính
phủ bao gồm cả Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử
của ĐCSTQ thì vào năm 1996, trong thời kỳ
“Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm
chống”, hơn 323.100 người đã bị bắt
giữ và hơn 280 người đã tự tử hay
mất tích. Trong “Chiến dịch chống Hồ Phong”
năm 1955, hơn 5.000 người đã bị buộc
tội, hơn 500 người đã bị bắt, hơn
60 người đã tự tử, và 12 người đã
chết vì các nguyên nhân mờ ám. Trong cuộc 'đàn áp các
phần tử phản cách mạng' theo sau đó, hơn
21.300 người đã bị tử hình, và hơn 4.300
người đã tự tử hoặc mất tích [9].
3. Đại mất mùa (Nạn đói khủng khiếp)
Số
người chết cao nhất được ghi lại
trong Nạn đói khủng
khiếp ( hoặc gọi là Đại
mất mùa) của Trung Quốc ngay sau chiến dịch Đại
Nhảy Vọt. Bài “Nạn đói khủng khiếp”
trong quyển sách Hồ sơ lịch sử của
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa báo cáo rằng
“Số lượng người chết do những nguyên
nhân không chính đáng và số lượng trẻ em sơ
sinh bị giảm đi từ năm 1959 đến năm
1961 được ước tính là khoảng 40 triệu…
sự giảm thiểu 40 triệu người của Trung
Quốc rất có thể là nạn đói khủng khiếp
nhất trên thế giới trong thế kỷ này.” [10]
"Nạn
đói khủng khiếp" đã bị Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dán một cái nhãn
hiệu sai lạc là “ 3 năm tai họa tự nhiên”. Trên
thực tế, 3 năm đó có thời tiết tốt mà
không có bất cứ một tai họa tự nhiên lớn
lao nào như lũ lụt, hạn hán, bão, sóng thần, động
đất, sương giá, mưa đá, hay dịch châu
chấu. “Tai họa” đó hoàn toàn do con người gây nên.
Chiến dịch Đại
Nhảy vọt đòi
hỏi mọi người ở Trung Quốc phải tham
gia vào việc luyện thép, bắt buộc nông dân phải
bỏ hoa màu thối rữa ở ngoài đồng. Không
kể điều này, các viên chức khu vực lại còn
báo cáo giả tạo để làm tăng số thu
hoạch của sản lượng. Hạ Diệc Nhiên, Bí
thư thứ nhất của Đảng bộ quận
Liễu châu tự bịa đặt lượng sản
xuất là “65.000 cân thóc trên một mẫu ruộng [11]”
ở huyện Hoàn Giang. Đây là ngay sau 'Hội nghị toàn
thể Lư sơn' khi phong trào chống cánh Hữu của
ĐCSTQ lan ra toàn quốc. Để chứng tỏ
rằng ĐCSTQ luôn luôn đúng, lúa gạo bị chính
quyền sung công trong một hình thức đánh thuế theo
sản lượng được thổi phồng lên này.
Hậu quả là, khẩu phần lúa gạo, hạt
giống và lương thực chủ yếu của nông
dân tất cả đều bị sung công. Khi đòi
hỏi vẫn chưa được đáp ứng
đủ, thì nông dân bị buộc tội là đã giấu
lúa gạo của mình.
Hạ
Diệc Nhiên đã từng nói rằng họ phải tranh
đấu giành giải nhất trong cuộc thi đua
sản xuất số lượng cao nhất, không kể
bao nhiêu người ở Liễu Châu sẽ phải
chết. Một số nông dân đã bị cướp
đi tất cả, chỉ còn lại một chút gạo
được giấu ở trong chậu nước
tiểu. Đảng bộ quận Thuần Lạc,
huyện Hoàn Giang thậm chí còn ra lệnh cấm nấu cơm,
để ngăn nông dân không được ăn lúa
gạo. Việc tuần tra được thực hiện
bởi dân quân vào ban đêm. Nếu họ thấy ánh
lửa họ sẽ tiến hành lục soát và vây bắt.
Nhiều nông dân thậm chí không dám nấu thảo mộc
dại hoặc vỏ cây ăn được, và bị
chết đói.
Trong
quá khứ, vào những lúc có nạn đói kém, quan phủ
sẽ phát chẩn cháo và lúa gạo, và cho phép các nạn nhân
di tản khỏi những khu vực có nạn đói. Còn
ĐCSTQ coi việc chạy khỏi nơi có nạn đói
là một điều ô nhục cho uy tín của Đảng,
và ra lệnh cho dân quân chặn đường không cho các
nạn nhân chạy thoát khỏi khu vực của nạn
đói. Khi các nông dân bị đói quá phải cướp
ngũ cốc ở các kho lương thực, ĐCSTQ ra lệnh
bắn vào đám đông để đàn áp việc
cướp bóc và dán cái nhãn cho những người bị
chết là các 'phần tử phản cách mạng'. Một
số lớn nông dân bị chết đói ở nhiều
tỉnh bao gồm Cam Túc, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Hồ
Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên, và Quảng Tây. Nông dân bị
đói nhưng vẫn bị bắt buộc tham gia làm các
việc tưới nước ruộng, xây đập và
luyện thép. Nhiều người bị ngã xuống
đất trong khi làm việc và không bao giờ đứng
lên được nữa. Cuối cùng thì những
người sống sót không còn sức để chôn
những người đã chết. Nhiều làng bị
chết toàn bộ khi từng gia đình lần lượt
bị chết đói.
Trong
các nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử
Trung Quốc trước thời ĐCSTQ, có những
trường hợp các gia đình phải trao đổi
con cho nhau để ăn thịt nhưng không ai từng
ăn thịt chính con của mình. Tuy nhiên dưới
thời ĐCSTQ, mọi người buộc phải ăn
thịt những người bị chết, ăn
những người chạy trốn đến từ
những khu vực khác, và thậm chí phải giết
chết và ăn thịt con của chính mình. Nhà văn Sa
Thanh đã mô tả cảnh này trong quyển sách của ông Y
Hy Đại Địa Loan (Một vùng đất hoang
vu nơi đầm lầy)[12] rằng: Trong một gia
đình nông dân, người cha chỉ còn lại một
người con trai và một người con gái trong vụ
'Nạn đói khủng khiếp'. Một hôm, người
cha đuổi người con gái ra khỏi nhà. Khi cô
trở về, cô không thể tìm thấy người em trai
mà chỉ nhìn thấy mỡ trắng nổi ở trong
chảo và một đống xương ở cạnh
bếp. Vài ngày sau, người cha thêm nước vào
chảo, và gọi người con gái đến gần. Cô
gái sợ quá, và van xin cha cô từ ngoài cửa, “Xin ba
đừng ăn thịt con. Con có thể nhặt củi
và nấu cơm cho ba. Nếu ba ăn thịt con, thì sẽ
không còn ai làm việc này cho ba nữa.”
Mức
độ lan tràn cuối cùng và số lượng thảm
kịch như thế này thì không được biết
đến. Thế nhưng Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) vẫn xuyên tạc nó như là một vinh
dự cao quý và tự cho rằng ĐCSTQ đã lãnh
đạo nhân dân một cách dũng cảm chống
lại “tai họa tự nhiên” và tiếp tục tự khen
mình là “vĩ đại, quang vinh và chính xác”.
Sau
Hội nghị toàn thể Lư Sơn năm 1959,
tướng Bành Đức Hoài đã bị tước
quyền vì lên tiếng bênh vực nhân dân. Một nhóm viên
chức và cán bộ chính quyền dám nói sự thực
đã bị bãi chức, bị tống giam hoặc bị
điều tra. Sau đó, không còn ai dám nói lên sự thực
nữa. Vào thời gian của vụ 'Nạn đói
khủng khiếp', thay vì báo cáo sự thực, người
ta lại che dấu sự kiện về số
người chết đói để bảo vệ
chức vụ của họ. Tỉnh Cam Túc thậm chí còn
từ chối viện trợ lương thực của
tỉnh Sơn Tây, nói rằng Cam Túc đã có dư
lương thực rất nhiều.
"Nạn
đói khủng khiếp" này cũng là một cuộc
thi về khả năng cho các cán bộ mới gia nhập
của ĐCSTQ. Theo tiêu chuẩn của ĐCSTQ, những
cán bộ mà không nói lên sự thực về sự kiện
hàng chục triệu người chết đói chắc chắn
là “đạt tiêu chuẩn”. Với cuộc trắc
nghiệm này, ĐCSTQ sau đó sẽ tin rằng không có gì
như tình người hay đạo Trời mà có thể
trở thành một gánh nặng tâm lý ngăn cản
những cán bộ này đi theo Đảng. Sau "Nạn
đói khủng khiếp", các viên chức chịu trách
nhiệm cấp tỉnh chỉ phải tham gia vào thủ
tục hình thức tự kiểm thảo. Lý Tỉnh
Tuyền, Bí thư tỉnh ủy của ĐCSTQ ở
Tứ xuyên nơi mà hàng triệu người bị
chết đói, đã được thăng chức lên làm
Bí thư thứ nhất Văn phòng khu vực tây nam của
ĐCSTQ.
4. Từ Cách mạng văn hóa và Vụ thảm sát tại Thiên An Môn cho đến Pháp Luân Công
Cách mạng văn hóa chính thức
bắt đầu ngày 16/05/1966 và kéo dài cho đến
tận năm 1976. Thậm chí chính bản thân Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng gọi
thời kỳ này là “Thảm họa 10 năm”. Sau này trong
một cuộc phỏng vấn với một phóng viên
Nam-tư, Hồ Diệu Bang nguyên tổng bí thư ĐCSTQ
đã nói rằng, “Vào thời gian đó, gần 100 triệu
người bị liên can, tức là một phần
mười dân số Trung Quốc.”
Tài liệu "Sự thực
của các vận động chính trị sau khi thành lập
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa" báo cáo rằng, “Vào
tháng 5/1984, sau 31 tháng tập trung điều tra, thẩm tra
và tính toán lại bởi Ủy ban Trung Ương của
ĐCSTQ, các con số liên quan đến Cách mạng Văn
hóa là: hơn 4.2 triệu người bị giam giữ và
điều tra; hơn 1.73 triệu người chết
mờ ám; hơn 135.000 người bị dán nhãn 'phản
cách mạng' và bị tử hình; hơn 237.000 người
bị giết và hơn 7.03 triệu người bị tàn
phế trong các cuộc tấn công vũ trang; và 71.200 gia
đình bị tiêu diệt.” Thống kê tổng hợp
từ các ghi chép lịch sử của các huyện cho
thấy rằng 7.73 triệu người chết vì
những nguyên nhân không chính đáng trong Cách mạng Văn
hóa.
Bên
cạnh việc đánh đập người ta
đến chết, sự khởi đầu Cách mạng
Văn hóa cũng gây ra một làn sóng tự tử. Nhiều
nhà trí thức nổi tiếng, bao gồm Lão Xả, Phó Lôi,
Tiễn Bá Tán, Vũ Hán và Trữ An Bình tất cả
đều tự kết liễu cuộc đời
của mình trong thời kỳ đầu của Cách mạng
Văn hóa.
Cách
mạng Văn hóa là thời kỳ cực Tả điên
cuồng nhất ở Trung Quốc. Giết người
đã trở thành một lối cạnh tranh để bày
tỏ lập trường của cá nhân trong cuộc cách
mạng, cho nên việc tàn sát các “kẻ thù giai cấp” là
cực kỳ tàn bạo và độc ác.
Chính
sách “cải cách và mở cửa” đã làm cho sự trao
đổi thông tin được tiến triển khá
nhiều, với nhiều phóng viên ngoại quốc đã có
thể chứng kiến vụ thảm sát trên quảng
trường Thiên An Môn năm 1989 và được
chiếu trên các chương trình truyền hình cho thấy xe
tăng đuổi theo và cán chết các sinh viên.
Mười
năm sau, vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, Giang Trạch Dân
bắt đầu chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công
của hắn. Khoảng cuối năm 2002, tin tức
nội bộ từ các nguồn tin chính phủ ở Trung
Quốc Đại lục đã xác nhận việc che
dấu sự thật của hơn 7.000 người
bị chết trong các trại giam, các trại lao
động cưỡng bách, các nhà tù và các bệnh viện
thần kinh, với trung bình khoảng 7 người bị
giết mỗi ngày.
Ngày
nay ĐCSTQ có khuynh hướng giết người rất
ít hơn so với trong quá khứ khi mà hàng triệu hay hàng
chục triệu người đã bị giết hại.
Điều này có hai nguyên nhân quan trọng . Một mặt,
Đảng đã làm biến dị đầu óc tư
tưởng của nhân dân Trung Quốc bằng văn hóa
Đảng để họ giờ đây dễ phục
tùng hơn. Mặt khác, do các viên chức ĐCSTQ cực
kỳ thối nát và tham nhũng, nền kinh tế Trung
Quốc đã trở thành một nền kinh tế "theo kiểu truyền máu” và
hầu hết dựa vào vốn đầu tư ngoại
quốc để duy trì tăng trưởng kinh tế và
ổn định xã hội. ĐCSTQ nhớ như in
sự trừng phạt kinh tế sau 'Vụ thảm sát
tại Thiên An Môn', biết rõ rằng việc giết
người công khai sẽ dẫn đến hậu
quả là vốn đầu tư ngoại quốc sẽ
bị rút ra khỏi Trung Quốc, mà sẽ gây nguy hiểm
cho sự thống trị độc tài của nó.
Tuy
nhiên, ĐCSTQ chưa hề từ bỏ việc giết
người ở đằng sau. Có khác chăng là ĐCSTQ
ngày nay cực lực che giấu các hành vi dơ bẩn
đẫm máu của nó.
II. Các thủ đoạn giết người cực kỳ tàn nhẫn
Tất
cả mọi việc mà Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) làm chỉ nhắm một mục đích:
chiếm đoạt quyền lực và duy trì quyền
lực. Mà giết người đã thành một thủ đoạn
rất quan trọng để ĐCSTQ duy trì quyền
lực của nó. Phương pháp càng độc ác tàn
nhẫn, số người bị giết trong dân chúng càng
nhiều, thì mới có thể tạo sự khủng bố
trong nhân dân càng lớn. Mà sự khủng bố như
thế đã bắt đầu từ trước thời
kỳ chiến tranh kháng Nhật.
1. Thảm sát ở miền Bắc Trung Quốc trong chiến tranh Trung-Nhật
Khi
giới thiệu cuốn sách Kẻ
Nội Thù của
Linh Mục Raymond J. De Jaegher [13], cựu tổng thống
Mỹ Hoover bình luận rằng cuốn sách đã vạch
trần bản chất khủng bố của các cuộc
vận động cho chủ nghĩa Cộng Sản. Ông
giới thiệu nó cho bất kỳ ai muốn hiểu rõ
lực lượng tà ác đó trên thế giới này.
Trong
quyển sách này, De Jaegher kể lại các câu chuyện
về việc ĐCSTQ sử dụng bạo lực
để khủng bố và khuất phục nhân dân như
thế nào. Ví dụ như, một hôm ĐCSTQ yêu cầu
tất cả mọi người đi ra một khu
đất rộng trong làng. Các giáo viên dẫn các em nhỏ
đi từ trường ra khu đất rộng. Mục
đích của việc tập trung là để chứng
kiến việc giết chết 13 thanh niên yêu nước.
Sau khi đọc các tội danh giả tạo của các
nạn nhân, ĐCSTQ ra lệnh cho một giáo viên đang
khiếp sợ đánh nhịp cho các em nhỏ hát các bài hát
yêu nước. Đứng trên sân khấu giữa các bài hát
không phải là các vũ công, mà là một tên đao phủ
đang cầm lăm lăm chiếc mã tấu sắc bén
trong tay. Đao phủ là một tên lính cộng sản
trẻ tuổi khỏe mạnh và hung tợn với đôi
tay chắc nịch khỏe mạnh. Tên lính đi
đến đằng sau nạn nhân đầu tiên, nhanh
chóng giơ cao thanh mã tấu sắc bén và chém xuống, và cái
đầu thứ nhất rơi xuống đất. Máu
phun ra như một cái vòi phun nước trong khi cái
đầu lăn lông lốc trên mặt đất. Các em
nhỏ đang ca hát một cách kích động liền gào
khóc hoảng loạn. Người giáo viên vẫn giữ
nhịp và cố giữ cho các em tiếp tục hát; cái
chuông của cô vẫn tiếp tục rung lên trong hoảng
loạn.
Tên
đao phủ chém 13 lần và 13 cái đầu rơi
xuống đất. Sau đó, nhiều tên lính cộng
sản đi đến, mổ tung lồng ngực của
các nạn nhân và moi tim họ ra để làm một bữa
tiệc. Tất cả những cảnh dã man đó diễn
ra trước mắt của các em nhỏ. Các em bị
khủng bố tái xanh cả mặt và một số
bắt đầu nôn ọe. Cô giáo la hét học trò và
bảo các em xếp thành hàng trở về trường.
Sau
đó, Linh Mục De Jaegher thường thấy các em
nhỏ bị bắt buộc phải xem cảnh chém
giết. Các trẻ em đã trở nên quen thuộc với
các cảnh đổ máu và rồi không phản ứng
với việc giết người; một số thậm
chí còn bắt đầu cảm thấy thích thú.
Khi
ĐCSTQ cảm thấy rằng việc giết
người đơn giản là chưa đủ rùng
rợn và kích động, chúng bắt đầu phát minh ra
các kiểu tra tấn tàn bạo. Ví dụ như, bắt
người ta nuốt một lượng muối lớn
mà không cho họ uống một chút nước nào --
nạn nhân sẽ phải chịu đựng cho
đến khi bị chết vì khát; hoặc lột trần
truồng người ta và bắt họ phải lăn trên
thủy tinh vỡ; hoặc là đào một lỗ trên
mặt sông đóng băng trong mùa đông, rồi ném nạn
nhân vào trong lỗ-- nạn nhân sẽ bị chết cóng
hoặc bị chết đuối.
Linh
Mục De Jaegher viết rằng, một đảng viên
Cộng Sản ở tỉnh Sơn Tây phát minh ra một
kiểu tra tấn khủng khiếp. Một hôm, khi hắn
đang đi lang thang trong thành phố, hắn dừng
lại trước cửa một nhà hàng và nhìn chằm
chặp vào một thùng nước sôi lớn. Sau đó,
hắn mua nhiều thùng lớn, và ngay lập tức
bắt một số người chống lại
Đảng cộng sản. Trong phiên tòa vội vã, các thùng
được đổ đầy nước và đun
sôi. Ba nạn nhân bị lột trần truồng và bị
quăng vào thùng nước sôi, rồi bị đun sôi cho
đến chết sau phiên tòa. Ở Bình Sơn, ông De Jaegher
đã chứng kiến một người cha bị
lột da khi vẫn còn sống. Các đảng viên bắt người con trai
của nạn nhân xem và tham gia vào cảnh tra tấn vô nhân
đạo đó, chứng kiến cha mình chết trong
đau đớn tột cùng và phải nghe những
tiếng gào thét của cha mình. Các đảng viên ĐCSTQ
đổ giấm và át-xít lên thân thể người cha và
sau đó toàn bộ da trên thân thể nạn nhân bị nhanh
chóng lột ra. Chúng bắt đầu từ lưng rồi
lên hai vai và chẳng mấy chốc da trên toàn thân thể
của ông bị lột ra, chỉ còn lại da đầu
là còn nguyên vẹn. Người cha đã chết trong vài
phút.
2. Khủng bố Đỏ trong “Tháng Tám Đỏ” và ăn thịt người ở Quảng Tây
Sau
khi chiếm được quyền thống trị
tuyệt đối trên toàn bộ đất nước,
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn
không chấm dứt bạo lực. Trong thời Cách
mạng Văn hóa, hành động bạo ngược
như vậy còn trở nên tồi tệ hơn.
Ngày
18/8/1966, Mao Trạch Đông gặp các đại diện
“Hồng vệ binh” trên vọng lâu của cổng thành Thiên
An Môn. Tống Bân Bân, con gái của lãnh tụ Cộng
Sản Tống Nhiệm Cùng, cài cho Mao một huy hiệu
“Hồng vệ binh” trên tay áo. Khi Mao biết tên của
Tống Bân Bân, cái tên có nghĩa là nho nhã lễ phép, Mao nói
rằng “Chúng ta cần nhiều bạo lực hơn
nữa.” Do đó cô Tống đổi tên của cô ta thành
Tống Yếu Vũ (có nghĩa là “muốn bạo lực”.)
Các
cuộc tấn công võ trang một cách bạo lực không lâu
sau đó đã nhanh chóng lan ra toàn bộ đất
nước. Thế hệ trẻ bị sự giáo dục
theo tư tưởng vô Thần của chủ nghĩa
Cộng Sản không còn nể sợ hay quan tâm đến
điều gì. Dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Đảng Cộng Sản và hướng
dẫn bởi các chỉ thị của Mao, “Hồng vệ
binh” ngông cuồng và điên loạn tự đặt mình
lên trên cả luật pháp, bắt đầu đánh
đập nhân dân và lục soát nhà cửa trên toàn quốc.
Ở nhiều khu vực, tất cả “năm giai cấp
đen” (địa chủ, phú nông, phần tử phản
Cách mạng, các phần tử xấu, và những
người thuộc cánh Hữu) và các thành viên gia đình
của họ đều bị tiêu diệt theo chính sách
diệt tuyệt. Một ví dụ điển hình là
Huyện Đại Hưng gần Bắc Kinh, nơi mà
từ 27/8 đến 1/9 năm 1966, tổng số có 325
người bị giết trong 48 nhóm của 13 Công Xã.
Người già nhất bị giết là 80 tuổi, và
người trẻ nhất bị giết chỉ mới
được 38 ngày. Hai mươi hai gia đình bị
giết không còn ai sống sót.
“Đánh đập một
người đến chết là một cảnh
thường thấy. Trên đường phố Sa Than,
một nhóm đàn ông thuộc lực lượng “Hồng
vệ binh” tra tấn một bà già bằng xích sắt và
thắt lưng da cho đến khi bà không thể cử
động được nữa, nhưng một cô
“Hồng vệ binh” vẫn nhảy lên người bà và
dẫm đạp lên bụng bà ta. Bà già chết ngay tại
chỗ… Gần Sùng Vân Môn, khi “Hồng vệ binh” lục
soát nhà của vợ một địa chủ (một góa
phụ sống một mình), chúng bắt buộc mỗi nhà
hàng xóm phải mang một nồi nước sôi đến
nơi và chúng đổ nước sôi lên người bà
từ cổ trở xuống cho đến khi thân thể
bà ta bị nấu chín. Nhiều ngày sau, người ta tìm
thấy bà ta bị chết ở trong phòng, thân người
bà ta bị giòi bâu kín… Lúc đó có nhiều phương pháp
giết người khác nhau, bao gồm dùng gậy đánh
đến chết, dùng liềm cắt và dùng dây thừng
thắt cổ đến chết… Cách giết trẻ
sơ sinh là tàn nhẫn nhất: kẻ giết người
giẫm lên một chân của đứa bé và giật chân
kia, xé thân thể ra làm đôi”. ("Điều
tra về Thảm sát Đại Hưng" của
Ngộ La Văn) [14]
Ăn
thịt người ở Quảng Tây thậm chí còn vô nhân
đạo hơn cả Vụ thảm sát ở Đại
Hưng. Nhà văn Trịnh Nghĩa, tác giả của
cuốn sách Kỷ niệm Đỏ mô tả việc
ăn thịt người diễn ra trong ba giai đoạn
[15].
Thứ
nhất-- giai đoạn
mở đầu: giai
đoạn bắt đầu khi khủng bố vẫn còn
diễn ra bí mật trong bóng tối. Biên niên sử của
huyện ghi lại một cảnh điển hình: vào lúc
nửa đêm, những tên giết người rón rén đi
tìm nạn nhân của chúng và mổ bụng moi tim và gan.
Bởi vì chúng chưa có kinh nghiệm và vẫn còn sợ,
chúng cắt nhầm phải phổi, sau đó chúng phải
quay lại. Một khi chúng nấu chín tim và gan rồi,
một số mang rượu từ nhà đến, một
số đem gia vị, rồi sau đó tất cả
bọn giết người cùng ăn các cơ quan nội
tạng của người ta một cách lặng lẽ trong ánh lửa
từ trong lò hắt ra.
Thứ
hai-- giai đoạn cao trào:
giai đoạn hai là đỉnh điểm, khi khủng
bố trở nên công khai. Trong giai đoạn này, những
tên giết người lâu năm đã có kinh nghiệm làm
sao moi tim gan khi nạn nhân vẫn còn sống, và chúng dạy
lại cho những người khác, làm kỹ thuật
của chúng được khéo léo hơn. Ví dụ, khi
mổ bụng một người sống, bọn giết
người chỉ cần cắt chéo trên bụng nạn
nhân, dẫm lên người (nếu nạn nhân bị trói
vào cây, bọn giết người sẽ lên gối vào
bụng dưới nạn nhân) và tim và các cơ quan nội
tạng khác sẽ tự động rơi ra. Tên trùm giết
người sẽ được lấy tim, gan và các
cơ quan sinh dục và những tên khác sẽ lấy các
phần còn lại. Những cảnh tượng khủng
khiếp này được trang hoàng bởi cờ bay và
khẩu hiệu.
Thứ
ba-- giai đoạn quần
chúng với tánh điên cuồng: ăn thịt
người đã trở thành một cuộc vận
động quần chúng. Ở huyện Vũ Tuyên, như
những con chó hoang ăn thịt những xác chết trong một
bệnh dịch, người ta ăn thịt người
khác một cách điên cuồng. Đầu tiên, các nạn
nhân thường bị “phê bình công khai”, theo sau đó luôn
luôn là bị giết, rồi bị ăn thịt. Ngay khi
nạn nhân ngã xuống đất, bất kể là còn
sống hay đã chết, mọi người lấy ra
những con dao họ đã chuẩn bị trước và
vây quanh nạn nhân, cắt bất cứ bộ phận thân
thể nào mà họ có thể túm lấy được.
Ở giai đoạn này, những công dân bình thường
đều tham gia vào việc ăn thịt người.
Cơn bão lốc của “đấu tranh giai cấp” đã
thổi khỏi đầu óc của người ta tất
cả những ý thức về tội lỗi và nhân tính.
Ăn thịt người lan ra như một bệnh
dịch và người ta còn thích thú các buổi tiệc
ăn thịt người. Bộ phận nào trong thân
người cũng có thể ăn được, bao
gồm cả tim, thịt, gan, thận, khuỷu tay, bàn chân,
và gân. Cơ thể người được nấu chín
bằng các cách khác nhau, bao gồm luộc, hấp, xào,
nướng, chiên rán, và nướng trên lửa…
Người ta uống rượu và chơi các trò chơi
trong khi ăn thịt người. Trong đỉnh cao
của phong trào này, thậm chí nhà ăn của cơ quan
chính quyền cấp cao nhất, Ủy ban Cách mạng
Huyện Vũ Tuyên cũng bán các món ăn làm từ thịt
người.
Độc
giả không nên nhầm lẫn mà nghĩ rằng những
buổi tiệc hội họp ăn thịt người
đó chỉ đơn thuần là hành vi tự phát sinh
giữa dân chúng. Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) là một tổ chức cực kỳ độc
tài, khống chế từng mỗi tế bào của xã
hội. Nếu không có sự khuyến khích và thao túng
của ĐCSTQ thì phong trào ăn thịt người đã
hoàn toàn không thể xảy ra.
Một
bài hát biên soạn bởi ĐCSTQ để tự ca
ngợi bọn chúng có đoạn, “xã hội cũ [16]
đã biến người thành quỷ, xã hội mới
biến quỷ thành người.” Tuy nhiên, những vụ
giết người và các buổi tiệc ăn thịt
người này cho chúng ta thấy rằng ĐCSTQ có thể
khiến cho con người biến thành quỷ hoặc quái
vật, bởi vì bản thân ĐCSTQ là tàn bạo hơn
bất cứ con quỷ nào hay con quái vật nào.
3. Cuộc đàn áp Pháp Luân Công
Khi
nhân dân Trung Quốc bước vào thời đại
của máy điện toán và du hành không gian, và có thể nói
chuyện riêng với nhau về nhân quyền, tự do và dân
chủ, rất nhiều người còn mê ngủ nghĩ
rằng những hành động bạo ngược
với mức độ cực kỳ ác tâm và rùng rợn
khủng khiếp đều đã trở thành quá khứ.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã
khoác lên mình một bộ quần áo văn minh và sẵn sàng
kết giao với thế giới.
Nhưng
điều đó là quá xa với sự thật. Khi ĐCSTQ
phát hiện ra rằng có một tập thể không sợ
những hành động tra tấn và giết người
tàn bạo như vậy của bọn chúng, thì bọn chúng
càng trở nên điên cuồng hơn nữa, mà tập
thể đang bị đàn áp này chính là những học
viên Pháp Luân Công.
Nếu
nói rằng những hành động bạo lực của
“Hồng vệ binh” và phong trào ăn thịt người
ở tỉnh Quảng Tây là nhắm tiêu diệt thân thể
của đối phương, thì việc giết
người chỉ kéo dài trong vài phút hoặc vài giờ. Tuy
nhiên, việc đàn áp các học viên Pháp Luân Công là
để bắt buộc họ từ bỏ tín
ngưỡng của mình vào “Chân, Thiện, Nhẫn”. Hơn
nữa, sự tra tấn tàn nhẫn thường kéo dài
nhiều ngày, nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm.
Ước tính khoảng hơn 10.000 học viên Pháp Luân Công
đã chết vì bị tra tấn.
Những
học viên Pháp Luân Công mà phải chịu đựng
đủ loại tra tấn và đã thoát khỏi
lưỡi hái của tử thần đã ghi lại
hơn 100 thủ đoạn tra tấn tàn bạo; sau
đây chỉ là vài ví dụ.
Đánh
đập tàn nhẫn là thủ đoạn tra tấn
được thường dùng nhất để làm
hại các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát và các
đầu sỏ trong tù trực tiếp đánh đập
các học viên và cũng xúi giục những tù nhân khác
đánh đập các học viên. Nhiều học viên đã
trở nên điếc do bị đánh đập, tai
của họ bị gẫy rời ra, con ngươi
mắt của họ bị vỡ, răng cũng bị
gãy, và xương sọ, xương sống, xương
sườn, xương cổ, xương hông, tay và chân
của họ bị gẫy rời; chân và tay họ đã
bị cắt bỏ do bị đánh đập. Một
số những tên tra tấn
đã tàn nhẫn bóp nát tinh hoàn của các học viên nam và
đá vào chỗ sinh dục của các học viên nữ.
Nếu các học viên không chịu khuất phục,
những kẻ tra tấn sẽ tiếp tục đánh
đập cho đến khi các học viên bị rách da
hở thịt.
Giật
điện là một thủ đoạn khác mà
thường được dùng ở các trại lao
động cưỡng bách tại Trung Quốc để
tra tấn các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát dùng dùi cui
điện để cho điện giật các chỗ
nhậy cảm trên thân thể, bao gồm miệng,
đỉnh đầu, ngực, cơ quan sinh dục, mông,
đùi, gan bàn chân, nhũ hoa của các học viên nữ, và
dương vật của các học viên nam. Một số
cảnh sát còn dùng nhiều dùi cui điện cùng một lúc
để cho điện giật các học viên cho
đến khi có thể ngửi thấy mùi thịt cháy và
các chỗ bị thương bị thâm tím. Có khi
đầu và hậu môn cũng bị giật điện
cùng một lúc. Cảnh sát thường dùng 10 hoặc
hơn dùi cui điện cùng một lúc để đánh
đập các học viên trong thời gian dài. Thông
thường mỗi dùi cui điện có điện áp
khoảng hàng chục ngàn volt. Khi nó phát điện, nó phát ra
ánh sáng xanh và tiếng kêu như tĩnh điện. Khi dòng
điện đi qua cơ thể người, cảm giác
như là bị bỏng hoặc bị rắn cắn.
Mỗi lần giật rất là đau đớn. Da
nạn nhân trở nên đỏ, nứt ra và bị cháy và
vết thương bị rữa ra. Thậm chí còn có
những dùi cui điện mạnh hơn có điện áp
cao hơn làm cho nạn nhân cảm thấy như
đầu bị búa bổ vào. Cơ thể của các
học viên đã bị hoàn toàn dị dạng do bị tra
tấn và dính be bét máu, vậy mà bọn cai ngục vẫn
còn đổ nước muối lên người họ và
tiếp tục dùng dùi cui điện để tra tấn
họ. Mùi máu và thịt cháy trộn lẫn vào nhau và
tiếng gào thét đau đớn nghe rất thương
tâm. Trong khi đó, những kẻ tra tấn cũng dùng túi
ny-lông trùm đầu các học viên để làm cho họ
khuất phục vì sợ bị ngạt thở.
Cảnh
sát cũng dùng thuốc lá đang cháy để đốt
tay, mặt, gan bàn chân, ngực, lưng, núm vú của các
học viên v.v… Chúng dùng bật lửa để đốt
tay và cơ quan sinh dục của các học viên. Các thanh
sắt chế tạo đặc biệt được
nung nóng trong lò điện cho đến khi chúng trở nên
nóng đỏ. Sau đó chúng được dùng để
đốt cháy chân của các học viên. Cảnh sát cũng
dùng than nóng đỏ để đốt cháy mặt của
các học viên. Cảnh sát đã đốt cháy đến
chết một học viên sau khi học viên này đã
phải chịu đựng các thủ đoạn tra
tấn tàn khốc và vẫn còn thoi thóp thở và tim vẫn
còn đập yếu ớt. Cảnh sát sau đó nói
rằng cái chết của anh ta là do “tự thiêu”.
Cảnh
sát đánh các học viên nữ vào ngực và khu vực
cơ quan sinh dục. Chúng đã hãm hiếp và hãm hiếp
tập thể các học viên nữ. Hơn nữa, cảnh
sát còn lột trần truồng các học viên nữ và
quẳng họ vào các xà-lim đầy các nam tù nhân
để chúng sau đó hãm hiếp họ. Chúng dùng dùi cui
điện để cho điện giật nhũ hoa và
cơ quan sinh dục của họ. Chúng dùng bật lửa
để đốt cháy núm vú của họ, và chọc dùi
cui điện vào âm đạo của các nữ học viên
để cho điện giật họ. Chúng còn buộc 4
cái bàn chải đánh răng lại và sau đó chọc vào
âm đạo của các học viên nữ, rồi chà xát và
ngoáy các bàn chải. Chúng dùng các móc sắt để móc các
chỗ kín của các học viên nữ. Tay của các học
viên nữ bị còng ở đằng sau lưng, và núm vú
của họ bị móc vào dây điện và cho dòng
điện chạy qua.
Chúng
bắt các học viên Pháp Luân Công mặc “áo vét thẳng
[17]”, và sau đó trói chéo hai tay họ ra đằng sau
lưng. Chúng kéo cánh tay của họ lên qua vai đến trước
ngực, trói hai chân họ lại và treo họ ra ngoài
cửa sổ. Cùng lúc đó, chúng nhét rẻ vào miệng các
học viên, đặt đồ nghe vào tai họ và liên
tục bật các đoạn băng phỉ báng Pháp Luân
Công. Theo mô tả của các nhân chứng, những
người bị tra tấn theo cách này bị gãy tay, dây
chằng, vai, cổ và khuỷu tay một cách nhanh chóng.
Những người bị tra tấn lâu dài theo cách này
đã bị gẫy xương sống hoàn toàn và chết
trong đau đớn tột cùng.
Chúng
cũng quẳng các học viên vào các hầm chứa
đầy nước thải. Chúng dùng búa đóng que tre vào
dưới móng tay của các học viên và bắt họ
ở trong các phòng ẩm thấp đầy mốc meo xanh,
đỏ, trắng, vàng, đủ loại ở trên
trần, sàn và tường mà làm cho các vết thương
của họ bị thối rữa. Chúng cũng cho chó,
rắn và bò cạp cắn các học viên và chích vào
người các học viên với các thuốc hủy
hoại thần kinh. Trên đây chỉ là một vài trong
số rất nhiều thủ đoạn tra tấn mà các
học viên phải chịu trong các trại lao động.
III. Đấu tranh tàn khốc trong nội bộ Đảng
Vì
Đảng Cộng Sản hợp nhất các đảng
viên của nó dựa trên cơ sở của 'Đảng
tính' thay vì dựa trên đạo đức và công lý, nên câu
hỏi quan trọng là sự trung thành của các
đảng viên, đặc biệt là các viên chức cao
cấp, đối với người lãnh đạo cao
nhất. Đảng cần tạo ra một bầu không
khí khủng bố bằng cách giết chết các
đảng viên của chính nó. Những người
sống sót sau đó thấy rằng khi kẻ độc
tài cấp cao nhất muốn ai phải chết, thì
người đó sẽ chết một cách bi thảm.
Việc
tranh đấu trong nội bộ các Đảng cộng
sản là điều nổi tiếng. Tất cả các
ủy viên của Bộ chính trị Đảng Cộng
sản Nga trong hai nhiệm kỳ đầu, ngoại
trừ Lê-nin đã chết và bản thân Stalin, đều
đã bị tử hình hoặc tự sát. Ba trong số
năm nguyên soái đã bị tử hình, ba trong số năm
Tổng tư lệnh đã bị tử hình, tất
cả 10 Phó Tổng tư lệnh quân đội đã
bị tử hình, 57 trong số 85 tư lệnh quân đoàn
đã bị tử hình, và 110 trong số 195 tư lệnh
sư đoàn đã bị tử hình.
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) luôn luôn chủ
trương “đấu tranh tàn bạo và tấn công không
nương tay”. Những chiến thuật như thế
không chỉ nhắm vào những người ở ngoài
Đảng mà thôi. Ngay từ thời kỳ Cách mạng
ở tỉnh Giang Tây, ĐCSTQ đã giết rất
nhiều người trong Đoàn chống Bôn-sê-vích
(Anti-Bolshvik Corps) đến mức chỉ còn lại
một số rất ít người sống sót để
chiến đấu trong cuộc chiến tranh. Ở thành
phố Diên An, Đảng đã thực hành một
chiến dịch “Chỉnh đốn”. Sau này khi đã
trở nên vững chắc về mặt chính trị, nó
đã diệt trừ Cao Cương, Nhiêu Thấu Thạch,
Hồ Phong, và Bành Đức Hoài. Vào thời kỳ Cách
mạng Văn hóa, hầu hết tất cả các
đảng viên cao cấp trong Đảng đã bị tiêu
diệt. Không một cựu Tổng bí thư nào của
ĐCSTQ gặp kết thúc tốt đẹp.
Lưu
Thiếu Kỳ[18], một cựu chủ tịch nhà
nước của Trung Quốc, người đã từng
là nhân vật số 2 của quốc gia đã chết bi
thảm. Vào ngày sinh nhật lần thứ 70 của ông ta,
Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đặc biệt căn
dặn Uông Đông Hưng (vệ sỹ trưởng
của Mao) đem cho Lưu Thiếu Kỳ một món quà
sinh nhật, một cái radio, để cho ông ta nghe bản
báo cáo chính thức của 'Phiên họp Toàn thể lần
thứ 8' của Ủy ban Trung ương khóa 12 nói
rằng, “vĩnh viễn khai trừ tên phản bội, gián
điệp và nổi loạn Lưu Thiếu Kỳ ra
khỏi Đảng, rồi tiếp tục vạch
trần và chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và các tội
phản bội, mưu phản của những tay sai
của hắn.”
Lưu
Thiếu Kỳ bị suy sụp về mặt tinh thần
và bệnh tình của ông ta càng tệ hại một cách
nhanh chóng. Bởi vì ông ta đã phải nằm liệt
giường trong một thời gian dài và không thể
cử động, cho nên các dấu nằm trên cổ,
lưng, mông, và gót chân của ông ta bị rữa ra đau
đớn. Khi ông ta cảm thấy đau quá, ông ta phải
nắm lấy chăn đệm, đồ vật
hoặc tay người khác, mà không chịu buông ra, nên
mọi người phải để các chai nhựa
cứng vào tay ông ta. Khi ông ta chết, hai chai nhựa
cứng đã có hình thù của chai 'đồng hồ
cát' do ông ta nắm tay lại
mà thành.
Khoảng
tháng 10/1969, thân thể của Lưu Thiếu Kỳ đã
bắt đầu thối rữa mọi chỗ và mủ
nhiễm trùng có mùi rất mạnh. Ông ta gầy như
một cái que và ở bên bờ cái chết. Nhưng một
thanh tra đặc biệt của Ủy ban Trung ương
Đảng không cho phép ông ta được tắm hay
lật người để thay quần áo. Thay vào đó,
chúng lột bỏ tất cả quần áo của ông ta,
quấn ông ta trong một cái chăn, và đưa ông ta
bằng máy bay từ Bắc Kinh đi thành phố Khai Phong,
và khóa trái ông ta trong một tầng hầm của một
lô-cốt kiên cố. Khi ông ta bị sốt cao, chúng không
những không cho ông ta thuốc mà còn chuyển các nhân viên y
tế đi chỗ khác. Khi Lưu Thiếu Kỳ chết,
thân thể ông ta đã hoàn toàn bị huỷ hoại và mái
tóc bạc của ông ta xõa ra dài 60 phân. Hai ngày sau, vào lúc
nửa đêm, ông ta bị hỏa thiêu như một
người bị bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Bộ giường nệm, gối và các thứ còn lại
khác của ông ta đều bị đốt hết. Trên
tấm phiếu khai tử của ông ta đọc là, 'Tên:
Lưu Vệ Hoàng; Nghề nhiệp: thất nghiệp;
Nguyên nhân bị chết: bị bệnh chết'.
Đảng đã bức hại một vị chủ
tịch nhà nước đến chết như vậy mà
còn không đưa ra một lý do rõ ràng.
IV. Xuất cảng Cách Mạng---Giết người ở các nước khác
Ngoài
việc hứng thú giết người bằng nhiều
cách ở Trung Quốc và trong nội bộ Đảng,
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng
tham dự vào việc giết người ở các
nước khác, bao gồm cả các Hoa kiều hải
ngoại, bằng cách xuất cảng “cách mạng”.
Khờ-me Đỏ là một ví dụ điển hình.
Khờ-me
Đỏ do Pôn-Pốt cầm đầu chỉ tồn
tại trong 4 năm ở Cam-pu-chia. Tuy vậy, từ 1975
đến 1978, có hơn hai triệu người, bao
gồm cả hơn 200.000 người Hoa, đã bị
giết chết ở đất nước nhỏ bé này
với dân số chỉ có 8 triệu dân.
Các
tội ác của Khờ-me Đỏ là không đếm
xuể, nhưng chúng tôi sẽ không bàn luận về
vấn đề đó ở đây. Tuy nhiên chúng tôi
phải nói về quan hệ của nó với ĐCSTQ.
Pôn-Pốt
đã tôn thờ Mao Trạch Đông. Đầu năm 1965,
hắn viếng thăm Trung Quốc 4 lần để
đích thân nghe lời chỉ dẫn của Mao Trạch
Đông. Ngay từ tháng 11/1965, Pôn-Pốt đã ở lại
Trung Quốc 3 tháng. Trần Bá Đạt và Trương Xuân
Kiều[19] đã đàm luận với hắn về các lý
thuyết như “quyền lực chính trị lớn lên
từ nòng súng”, “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô
sản” v.v… Sau đó, những điều này đã trở
thành cơ sở cho cách thức hắn thống trị
Cam-pu-chia. Sau khi quay trở về Cam-pu-chia, Pôn-Pốt
đổi tên Đảng của hắn thành Đảng
Cộng sản Cam-pu-chia, và dựng lên các căn cứ cách
mạng theo khuôn thức vây tròn thành phố từ các vùng
nông thôn của ĐCSTQ.
Năm
1968, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia chính thức thành
lập quân đội. Đến cuối năm 1969, nó có
khoảng hơn 3.000 người một chút. Nhưng
năm 1975, trước khi tấn công và chiếm đóng
thành phố Nam Vang, nó đã trở thành một lực
lượng được trang bị tốt và sẵn
sàng chiến đấu với 80.000 lính. Đây hoàn toàn là
nhờ vào sự ủng hộ và tiếp tay của
ĐCSTQ. Cuốn sách Tài liệu về việc hỗ
trợ Việt nam và chiến đấu với Mỹ
của Vương Hiền Căn [20] nói rằng: trong
năm 1970 Trung Quốc cho Pôn-Pốt các vũ khí trang bị
cho 30 ngàn lính. Tháng 4/1975, Pôn-Pốt chiếm được
thủ đô của Cam-pu-chia, và 2 tháng sau, hắn
đến Bắc Kinh để thăm ĐCSTQ và nghe
chỉ thị. Rõ ràng rằng, nếu tội ác diệt
chủng của Khờ-me Đỏ mà không dựa vào các lý
thuyết và hỗ trợ vật chất của ĐCSTQ,
thì nó đã không thể thực hiện được.
Ví
dụ, sau khi hai người con trai của Thái tử
Sihanouk bị Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết
chết, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia đã ngoan
ngoãn đưa Sihanouk đến Bắc Kinh theo lệnh
của Chu Ân Lai. Ai cũng biết rằng, khi Đảng
Cộng sản Cam-pu-chia giết hại nhân dân, chúng sẽ
“thậm chí giết cả bào thai” để ngăn
chặn những rắc rối có thể xảy ra trong
tương lai. Nhưng theo yêu cầu của Chu Ân Lai,
Pôn-Pốt đã tuân lệnh mà không hề phản đối.
Chu
Ân Lai có thể cứu Sihanouk chỉ bằng một lời
nói, nhưng ĐCSTQ đã không phản đối việc
hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Đảng Cộng sản
Cam-pu-chia giết hại. Vào lúc đó, những người
Cam-pu-chia gốc Hoa đã đến Sứ quán Trung Quốc
để cầu cứu nhưng Sứ quán đã phớt
lờ những tiếng cầu cứu của họ.
Tháng
5/1998, khi việc giết hại và cướp bóc, hãm
hiếp người Hoa thiểu số diễn ra trên
diện rộng ở Nam Dương, ĐCSTQ đã không nói
một lời nào. Nó đã không giúp đỡ bất cứ
điều gì, mà thậm chí còn bưng bít tin tức ở
bên trong Trung Quốc. Dường như chính quyền Trung
Quốc không quan tâm về số phận của những
người Hoa hải ngoại; thậm chí nó còn không giúp
đỡ một chút gì về phương diện nhân
đạo.
V. Hủy diệt gia đình
Chúng
ta không có cách nào để đếm xem bao nhiêu
người đã bị giết chết trong các cuộc
vận động chính trị của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Giữa dân chúng, không có cách
nào để làm một cuộc điều tra thống kê
bởi vì những trở ngại và rào cản thông tin
giữa các khu vực, các dân tộc và các thổ ngữ
địa phương khác nhau. Chính quyền của
ĐCSTQ sẽ không bao giờ thực hiện cuộc
điều tra loại này bởi vì nó sẽ giống
như là đào mồ chôn chính nó. ĐCSTQ thích bỏ quên những
chi tiết này khi viết lại lịch sử của
bản thân nó.
Ngay cả số lượng các
gia đình bị ĐCSTQ hủy hoại còn khó biết hơn.
Trong vài trường hợp, một người chết và
gia đình của người đó bị tan vỡ. Trong
những trường hợp khác, cả gia đình bị
chết hết. Ngay cả khi không có ai bị chết, thì
nhiều người cũng bị buộc phải ly
dị. Cha con, mẹ con bắt buộc phải từ
bỏ các mối quan hệ giữa họ. Một số
người đã bị tàn phế, một số phát
điên, và một số đã chết sớm vì bệnh
nặng sinh ra bởi tra tấn. Hồ sơ của
tất cả các thảm kịch gia đình này là rất
không đầy đủ.
Báo Yomiuri
News của Nhật bản đã từng tường
thuật rằng hơn một nửa dân số Trung
Quốc đã bị ĐCSTQ đàn áp. Nếu đó là
sự thật, thì số lượng các gia đình bị
ĐCSTQ hủy diệt ước tính khoảng hơn 100
triệu.
Trương
Chí Tân đã trở thành một cái tên quen thuộc với
mọi người vì mức độ tin tức
tường thuật về câu chuyện của bà.
Nhiều người biết rằng bà bị tra tấn
về mặt thể xác, bị hãm hiếp tập thể,
và tra tấn về mặt tinh thần. Cuối cùng, bà ta
bị phát điên và bị bắn chết sau khi cổ
của bà ta bị rạch ra. Nhưng nhiều người
có thể không biết rằng có một câu chuyện
thảm khốc nữa đằng sau bi kịch này--ngay
cả người nhà của bà ta đã phải tham dự
một “buổi học tập cho các gia đình của
những người tử tù”.
Lâm
Lâm, con gái của Trương Chí Tân nhớ lại rằng
vào đầu xuân 1975:
“Một
người ở Tòa án Thẩm Dương nói lớn
rằng, “Mẹ của ngươi là một tên phản
cách mạng thực sự ngoan cố. Bà ta từ chối không chấp nhận cải
tạo, và rất ngang bướng không dễ bị lung
lạc. Bà ta chống lại Mao Chủ tịch, lãnh tụ
vĩ đại của chúng ta, chống lại Tư
tưởng 'chiến đấu không thể bại'
của Mao Trạch Đông, và chống lại
đường lối cách mạng vô sản của Mao
Chủ tịch. Với tội ác chồng chất, chính
quyền của chúng ta đang cân nhắc việc tăng
hình phạt. Nếu bà ta bị
tử hình, thái độ của ngươi là gì?” Tôi bị ngạc nhiên và không
biết trả lời như thế nào. Trái tim tôi tan
vỡ. Nhưng tôi đã giả vờ bình tĩnh, cố
giữ cho khỏi bị rơi nước mắt. Cha tôi
đã nói với tôi rằng chúng tôi không thể khóc
trước mặt người khác, nếu không chúng tôi
sẽ không có cách nào để từ bỏ mối quan
hệ của chúng tôi với mẹ tôi. Bố đã trả
lời thay cho tôi, “Nếu đây là sự thật, chính
quyền cứ tự do làm những gì mà thấy cần
thiết”.
Người
đó lại hỏi, “Ngươi sẽ nhận xác bà ta
nếu như bà ta bị tử hình chứ? Ngươi
sẽ nhận tư trang của bà ta trong tù chứ?” Tôi cúi
đầu và không nói gì cả. Bố lại trả lời
thay cho tôi, “Chúng tôi không cần gì cả”… Bố nắm
lấy tay tôi và em tôi rồi chúng tôi bước ra khỏi
nhà nghỉ của huyện. Cùng bị choáng váng, chúng tôi
đi bộ trở về nhà trong cơn bão tuyết
đang gào thét. Chúng tôi không nấu cơm; bố bẻ
đôi chiếc bánh ngô tồi tàn duy nhất còn lại trong
nhà và đưa cho em tôi và tôi. Ông nói, “Ăn đi rồi
đi ngủ sớm.” Tôi nằm im trên chiếc
giường đất. Bố ngồi trên chiếc
ghế đẩu và nhìn chằm chặp vào ánh lửa
một cách thẫn thờ. Sau một lúc, ông nhìn vào
giường và tưởng rằng chúng tôi đã ngủ.
Ông đứng lên, nhẹ nhàng mở chiếc va-li chúng tôi
mang từ nhà cũ ở Thẩm Dương, và lấy ra
một bức ảnh của mẹ. Ông nhìn nó và không
thể cầm được nước mắt.
Tôi
ngồi dậy, dựa đầu vào cánh tay bố và
bắt đầu khóc to lên. Bố vỗ về tôi và nói,
“Đừng làm thế, chúng ta không thể để hàng xóm
nghe thấy được.” Em tôi tỉnh dậy sau khi nghe
thấy tôi khóc. Bố ôm chặt em tôi và tôi trong vòng tay.
Đêm nay, chúng tôi không biết chúng tôi sẽ rơi bao nhiêu
nước mắt, nhưng chúng tôi không thể khóc một
cách tự do.” [21]
Một
giảng viên đại học có một gia đình hạnh
phúc, nhưng gia đình ông đã phải đối mặt
với một tai họa trong quá trình khôi phục cho
những người khuynh Hữu. Vào thời gian của
phong trào chống cánh Hữu, vợ ông yêu một
người bị cho là thuộc cánh Hữu. Người
yêu của bà sau đó bị đưa đến một
vùng xa xôi và đã phải chịu đựng rất
thống khổ. Bởi vì bà, là một cô gái trẻ, không
thể đi cùng, nên đành phải bỏ người yêu
và lấy người giảng viên. Khi người yêu
cũ của bà cuối cùng đã quay trở lại quê
hương họ, bà, giờ đã là mẹ của mấy
đứa con, đã không có cách nào khác chuộc lại
sự phản bội của mình trước kia. Bà kiên
quyết ly dị chồng để chuộc lại
lương tâm cắn rứt của mình. Vào lúc này, người
giảng viên đã hơn 50 tuổi; ông không thể chấp
nhận sự thay đổi bất ngờ và bị
điên lên. Ông cởi hết quần áo và chạy khắp
nơi để tìm một chỗ bắt đầu
một cuộc sống mới. Cuối cùng, vợ ông
đã bỏ ông và các con của họ. Sự ngăn cách
đau khổ do Đảng ra lệnh là một vấn
đề không thể giải quyết và là một căn
bệnh không thể chữa được của xã
hội, mà chỉ có thể thay sự chia tay này bằng
sự chia tay khác.
Gia
đình là kết cấu cơ bản khởi đầu
của xã hội Trung Quốc. Nó cũng là hàng rào phòng
thủ cuối cùng của văn hóa truyền thống
chống lại văn hóa Đảng. Bởi đó mà
tại sao phá hoại gia đình lại là vết xấu tàn
bạo nhất trong lịch sử giết người
của ĐCSTQ.
Bởi
vì ĐCSTQ độc quyền kiểm soát tất cả
nguồn tài nguyên xã hội, khi một người bị
coi là đứng ở phe chống đối sự
độc tài của Đảng, người đó sẽ
phải đối mặt ngay lập tức với nguy
cơ trong cuộc đời, và bị tất cả
mọi người trong xã hội buộc tội, và bị
tước đi phẩm giá con người. Bởi vì
họ bị đối xử không công bằng, nên gia
đình là nơi ẩn náu an toàn duy nhất để an
ủi những con người vô tội này. Nhưng chính
sách liên lụy của ĐCSTQ không cho phép những
người trong gia đình an ủi lẫn nhau; nếu
không họ cũng sẽ phải chịu rủi ro bị
dán cái nhãn là chống đối sự độc tài
của Đảng. Ví dụ như Trương Chí Tân
bị bắt buộc phải ly dị. Đối với
nhiều người, sự phản bội của thân nhân
—tố cáo, đấu tố, công khai phê bình, hay lên án— là
cọng rơm cuối cùng đè xuống làm cho tinh thần
mong manh của họ xụp đổ. Nhiều
người vì thế đã phải tự tử.
VI. Các kiểu mẫu giết người và hậu quả của nó
1. Lý luận chỉ đạo cho sự giết người của Đảng Cộng Sản
Đảng
Cộng Sản luôn luôn tự khen mình là tài tình và sáng tạo
trong việc phát triển chủ nghĩa Marxism-Leninism,
nhưng trên thực tế chúng đã phát triển với
tính cách sáng tạo một thứ tà linh chưa từng
thấy trong lịch sử và trên khắp thế giới.
Nó sử dụng tư tưởng đại đồng
của chủ nghĩa Cộng Sản để lừa
gạt dân chúng và những người trí thức. Nó
lợi dụng niềm tin của mọi người vào
khoa học và kỹ thuật để quảng bá tư
tưởng vô Thần. Nó sử dụng chủ nghĩa
Cộng Sản để cấm tư hữu cá nhân,
lại dùng lý luận và sự thực hành cách mạng
bạo lực của Lê-nin để thống trị
quốc gia. Đồng thời, nó kết hợp và
củng cố mạnh hơn phần tà ác nhất của
văn hóa Trung Quốc mà đã sai lệch khỏi các
truyền thống chính của dân tộc Trung Hoa.
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã phát minh ra một bộ các lý luận và
kiểu mẫu hoàn chỉnh về “cách mạng” và “liên
tục cách mạng” dưới sự chuyên chính của giai
cấp vô sản; nó đã sử dụng hệ thống này
để thay đổi xã hội và bảo đảm
sự độc tài của Đảng. Lý luận của
nó có hai phần: cơ sở kinh tế và kiến trúc
thượng tầng dưới chế độ chuyên
chính vô sản, trong đó cơ sở kinh tế quyết định
kiến trúc thượng tầng, trong khi kiến trúc
thượng tầng đến lượt mình lại
hoạt động trên cơ sở kinh tế.
Để
củng cố kiến trúc thượng tầng,
đặc biệt là chính quyền của Đảng,
đầu tiên nó phải bắt đầu từ nền
tảng kinh tế để tiến hành cách mạng, bao
gồm:
(1)
Giết
hại địa chủ để giải quyết các
quan hệ sản xuất [22] ở nông thôn, và
(2)
Giết
chết các nhà tư bản để giải quyết các
quan hệ sản xuất ở thành thị.
Về
mặt kiến trúc thượng tầng, việc giết
người cũng được thực hiện lặp
đi lặp lại để bảo đảm sự
lũng đoạn tuyệt đối của Đảng
trên hình thái ý thức. Điều này bao gồm:
a. Giải quyết vấn đề về thái
độ chính trị của các nhà trí thức đối
với Đảng
Qua
một thời gian dài, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) đã khởi xướng nhiều
lần "vận động nhằm cải tạo
tư tưởng của các phần tử trí thức".
ĐCSTQ buộc tội các nhà trí thức là theo chủ
nghĩa cá nhân giai cấp tư sản, có tư
tưởng của giai cấp tư sản, có quan
điểm vượt khỏi chính trị, có tư
tưởng vượt khỏi giai cấp, theo chủ
nghĩa tự do, v.v… ĐCSTQ tước đi nhân phẩm
của các nhà trí thức thông qua việc tẩy não và
hủy diệt lương tâm của họ. ĐCSTQ đã
gần như hủy diệt hoàn toàn những tư
tưởng độc lập và nhiều phẩm chất
tốt khác của các nhà trí thức, bao gồm truyền
thống bênh vực công lý và cống hiến cả cuộc
đời để bảo vệ công lý. Truyền
thống đó dạy rằng: “Không được
sống buông thả khi giàu có và vinh quang hay mất
phương hướng khi nghèo khó, và không được
cúi đầu trước cường quyền [23]”;
“Phải là người đầu tiên lo cho đất
nước và là người cuối cùng đòi hỏi
hạnh phúc cho cá nhân mình. [24]”; “Mỗi người dân bình
thường đều phải có trách nhiệm đối
với sự thành bại của đất nước.
[25]”; và “Khi vô danh đấng trượng phu tự hoàn
thiện mình, còn khi thành danh thì đấng trượng phu
làm hoàn thiện cả đất nước.” [26]
b. Phát động
cuộc Cách Mạng Văn Hóa giết người
để chiếm quyền lãnh đạo tuyệt
đối về văn hóa và chính trị cho Đảng
Cộng Sản Trung Quốc
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ) phát động các
cuộc vận động quần chúng từ bên trong
Đảng đến bên ngoài Đảng, bắt
đầu giết người trong các lãnh vực văn
học, nghệ thuật, kịch nghệ, lịch sử
và giáo dục. ĐCSTQ nhắm những cuộc tấn công
đầu tiên vào những người nổi tiếng
như: “Làng ba người” [27], Lưu Thiếu Kỳ,
Vũ Hán, Lão Xả, và Tiễn Bá Tán[28]. Sau đó, số
người bị giết hại đã tăng đến
“một nhóm nhỏ trong Đảng”, rồi “một nhóm
nhỏ trong quân đội”, và cuối cùng thì sự tàn sát
lẫn nhau đã lan tràn tới toàn bộ Đảng, và
toàn quân đội cho đến tất cả mọi
người trên toàn bộ đất nước. Tranh
đấu bằng võ khí thì tiêu diệt thân thể con
người; còn các cuộc đấu tranh về văn hóa
thì tiêu hủy linh hồn của người ta. Đó là
một thời kỳ hỗn loạn và cực độ
bạo ngược dưới sự khống chế
của Đảng. Phương diện tà ác trong nhân tính cần phải
được phóng đại lên đến mức
tối đa bởi vì nguy cơ của Đảng. Ai cũng
có thể tùy ý giết người khác nhân danh “cách mạng”
và “bảo vệ đường lối cách mạng
của Mao chủ tịch”. Đó là một lần thao
luyện không tiền khoáng hậu của giai cấp vô
sản để diệt tuyệt nhân tính của toàn dân.
c. Đảng
Cộng Sản Trung Quốc bắn vào những sinh viên trên
quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989 để
giải quyết những đòi hỏi dân chủ sau Cách
mạng Văn hóa
Đây
là lần đầu tiên quân đội của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) công khai giết
hại thường dân để đàn áp sự phản
đối của nhân dân đối với các tệ
nạn biển thủ, tham nhũng và thông đồng
giữa các viên chức chính quyền và các nhà doanh nghiệp,
và đàn áp những đòi hỏi của họ đối
với quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và
tự do hội họp. Trong vụ thảm sát tại Thiên
An Môn, để gây thù hận giữa quân đội và dân
thường, ĐCSTQ thậm chí còn dàn cảnh
thường dân đốt xe quân đội và giết quân
nhân, và còn đạo diễn thảm kịch Quân
đội Nhân dân thảm sát người dân của
nước mình.
d. Tàn sát những
người không cùng tín ngưỡng
Lãnh
vực tín ngưỡng chính là vận mệnh của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Để cho các tà thuyết với lý luận sai lệch
của nó có thể lường gạt mọi người
trong một thời, ĐCSTQ bắt đầu tiêu diệt
tất cả các tôn giáo và các hệ thống tín
ngưỡng vào lúc khởi đầu sự thống
trị của nó. Nhưng đối diện với
một tín ngưỡng tinh thần trong thời đại
mới —Pháp Luân Công trong quần chúng— ĐCSTQ lại
một lần nữa rút lưỡi dao đồ tể
của nó ra. Chiến lược của ĐCSTQ là lợi
dụng những nguyên tắc “Chân, Thiện và Nhẫn”
của Pháp Luân Công và sự kiện mà các học viên Pháp Luân
Công không nói dối, không sử dụng bạo lực, và
sẽ không làm gì gây bất ổn định xã hội. Sau
khi có kinh nghiệm trong việc đàn áp Pháp Luân Công,
ĐCSTQ sẽ khéo léo hơn trong sự tiêu diệt tất
cả các tín ngưỡng khác. Lần này, chính Giang Trạch
Dân và Đảng Cộng Sản đã đi ra trước
sân khấu để giết người thay vì sử
dụng người khác hay nhóm khác.
e. Giết
người để che dấu tin tức
Quyền
được biết của con người là một
chỗ yếu khác của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ); ĐCSTQ cũng vì phong tỏa tin tức
mà giết người. Quá khứ, “nghe đài phát thanh
của kẻ thù"” là một trọng tội bị
bỏ tù. Hiện nay đối với các loại
đột nhập vào hệ thống truyền hình của
nhà nước để giải thích sự thật về
cuộc đàn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã bí
mật ra mệnh lệnh “giết ngay không tha”[29]. Lưu
Thành Quân, người đã thực hiện một cuộc
xâm nhập vào sự truyền bá tin tức như vậy,
đã bị tra tấn đến chết. ĐCSTQ đã
huy động ‘Phòng 610’ (một tổ chức tương
tự như Gestapo của Đức Quốc Xã
được lập ra chuyên để đàn áp Pháp Luân
Công), cảnh sát, các công tố viên, hệ thống tòa án, và
một hệ thống cảnh sát trên mạng lưới
điện tử Internet khổng lồ để theo dõi
từng hoạt động của quần chúng.
f. Cướp
đoạt quyền sinh tồn của nhân dân chỉ vì
tư lợi của Đảng
Lý
luận 'cách mạng liên tục' của Đảng
Cộng Sản, kỳ thực là vấn đề không
thể buông bỏ quyền lãnh đạo của nó. Trong
giai đoạn hiện tại, nạn biển thủ và
tham nhũng trong nội bộ Đảng Cộng Sản
Trung Quốc (ĐCSTQ) đã phát triển thành các xung
đột giữa một bên là quyền lãnh đạo
tuyệt đối của Đảng và một bên là
quyền sinh tồn của người dân. Khi dân chúng
đứng lên để bảo vệ các quyền này trong
phạm vi của pháp luật, thì lại thấy
Đảng Cộng Sản động dụng bạo
lực, không ngừng vung lưỡi dao đồ tể của
nó lên về phía những người mà nó gọi là “kẻ
cầm đầu” của những phong trào này. ĐCSTQ
đã chuẩn bị sẵn hơn một triệu
cảnh sát có võ trang cho mục đích này. Ngày nay, ĐCSTQ
được chuẩn bị khá hơn để sẵn
sàng chém giết rất nhiều so với thời kỳ
thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989,
là khi nó phải tạm thời huy động quân
đội để đàn áp. Tuy nhiên, khi bắt buộc
dân chúng phải ở trên con đường cùng,
đồng thời ĐCSTQ cũng đã buộc mình đi
trên con đường không có lối thoát. ĐCSTQ đã
đi đến một giai đoạn cực kỳ nguy
hiểm đến nỗi nó thậm chí “ khi gió thổi còn
xem cả cỏ cây như kẻ thù”, như một câu nói
của người Trung Quốc.
Trên
đây chúng ta có thể thấy rằng Đảng Cộng
Sản trên bản chất là một tà linh, bởi vì
quyền khống chế tuyệt đối của nó,
dẫu biểu hiện của nó vào từng lúc hay từng
nơi có biến hóa là gì đi nữa, thì lịch sử của Đảng Cộng
Sản với quá khứ giết người, hiện
tại đang giết người, và tương lai còn
sẽ giết người, lịch sử đó vẫn
không hề thay đổi.
2. Tình huống khác nhau thì kiểu giết người khác nhau
a. Đi đầu bằng tuyên truyền
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sử dụng các
loại các kiểu phương pháp khác nhau để
giết người tùy theo thời kỳ. Trong phần
lớn các trường hợp giết người, chúng
đều sử dụng tuyên truyền trước tiên.
Một câu mà Đảng Cộng Sản thường nói là
“không giết thì không làm yên cơn phẫn nộ của dân
chúng”, cứ như thể là Đảng Cộng Sản
phải theo yêu cầu của dân chúng mà giết
người như vậy. Trên thực tế, “sự
phẫn nộ của dân chúng” tức là sự kích
động quần chúng nổi dậy do ĐCSTQ làm.
Lấy
ví dụ, vở kịch “Bạch
mao nữ” hoàn toàn là một sự xuyên tạc
đối với truyền tụng dân gian khi nói về
chuyện xưa tích cũ, và câu chuyện bịa
đặt chỗ cho thuê mướn và hầm nước
được kể trong vở kịch “Lưu Văn
Thải”, cả hai đều được sử
dụng như các công cụ “giáo dục” nhân dân để
họ thù ghét những người địa chủ.
ĐCSTQ thường nói về những kẻ thù như là
ma quỷ, như trong trường hợp của cựu
Chủ Tịch Nhà Nước của Trung Quốc Lưu
Thiếu Kỳ. Đối với Pháp Luân Công thì càng sử
dụng ngụy tạo hơn nữa, ĐCSTQ đã dàn cảnh tự thiêu trên quảng
trường Thiên An Môn vào tháng 01/2001 để làm cho dân
chúng thù ghét Pháp Luân Công, và sau đó tăng gấp đôi
chiến dịch diệt tuyệt khổng lồ của
chúng chống lại Pháp Luân Công. Loại kiểu mẫu
giết người này, Đảng Cộng Sản không
những đã không thay đổi mà còn phát triển càng ngày
càng khéo léo hơn qua việc sử dụng các kỹ
thuật thông tin mới. Trong quá khứ ĐCSTQ
lường gạt dân Trung Quốc, nhưng bây giờ nó
cũng lường gạt dân chúng của các quốc gia
khác.
b. Phát động quần chúng giết người
Đảng
Cộng Sản không chỉ giết hại nhân dân thông qua
bộ máy chính quyền độc tài của nó mà còn tích
cực phát động quần chúng chém giết lẫn nhau.
Nếu như nói rằng lúc đầu nó có những câu
về điều lệ quy tắc của pháp luật,
nhưng đến lúc nó đã kích động dân chúng tham
gia vào việc giết người thì không gì có thể làm
dừng lại sự tàn sát. Ví dụ, khi ĐCSTQ đang
thực hiện chính sách cải cách ruộng đất
của nó, thì Ủy ban Cải cách ruộng đất có
thể quyết định sự sống chết của
các địa chủ
c. Giết linh hồn của người ta
trước, rồi giết thân xác của họ sau
Một
cách giết người khác là giết chết người
ta về mặt tinh thần trước, rồi giết
chết thân xác của họ sau. Trong lịch sử Trung
Quốc, ngay cả vua Tần tàn bạo nhất (221 – 207 BC)
cũng không tàn sát tinh thần của dân chúng. Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chưa bao giờ cho người
ta có cơ hội mà khẳng khái dõng dạc chết một
cách có ý nghĩa. Chúng ban hành các chính sách như “khoan dung
những người nhận tội và trừng phạt
nặng nề những kẻ chống đối”, và “cúi
đầu nhận tội là lối thoát duy nhất”.
ĐCSTQ bắt buộc người dân phải từ
bỏ những tư tưởng và tín ngưỡng
của chính mình, làm cho họ chết nhục nhã như
những con chó; bởi vì một cái chết khẳng khái
dõng dạc sẽ có tác dụng khích lệ những
người theo sau. Chỉ khi người ta không thể
chết trong sự tôn quý nghiêm trang thì ĐCSTQ mới có
thể đạt được mục đích của nó
là “giáo dục” những người ngưỡng mộ
nạn nhân đó. Nguyên nhân mà ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công
một cách cực kỳ tàn bạo là vì các học viên Pháp
Luân Công coi trọng tín ngưỡng của họ hơn
cả mạng sống của chính mình. Khi ĐCSTQ không
thể hủy hoại sự tôn nghiêm của họ, nó
đã làm tất cả những gì nó có thể làm để
tra tấn thân xác của họ.
d. Giết
người bằng cách gây chia rẽ và tạo bè phái
Khi
giết người, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) sử dụng cả hai thủ
đoạn dụ dỗ và đe dọa, làm ra vẻ thân
thiện với một số người và làm cho
người ta xa lánh những người khác. ĐCSTQ luôn
luôn cố tấn công một phần nhỏ của toàn
bộ dân số, với tỷ lệ là 5%. “Phần đa
số” của toàn bộ dân số là luôn luôn tốt, luôn
luôn là đối tượng của “giáo dục”. Loại
giáo dục này bao gồm khủng bố và chăm sóc.
"Khủng bố" là khiến cho người ta
thấy là những người chống đối
Đảng Cộng Sản sẽ không có kết cục
tốt đẹp, làm cho họ tránh xa những ai đã
từng bị Đảng tấn công trước kia.
"Chăm sóc" là khiến cho người ta thấy
rằng nếu họ có thể có được sự tin
cậy của Đảng và đứng về phía
Đảng, họ sẽ không những được an
toàn mà còn được trọng dụng hoặc có
được các lợi ích khác. Lâm Bưu đã từng
nói, “Một bộ phận nhỏ [bị đàn áp] hôm nay và
một phần nhỏ ngày mai, không bao lâu sẽ tổng
cộng thành một phần lớn.” Những người
sung sướng sống sót qua một cuộc vận
động thường trở thành những nạn nhân
của cuộc vận động khác.
e. Tiêu diệt
những hiểm họa tiềm tàng từ trong trứng
nước và bí mật giết người một cách
bất hợp pháp
Gần
đây Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
đã phát triển một kiểu giết người là
diệt trừ các vấn đề từ trong trứng
nước và giết người một cách bí mật
ở ngoài vòng luật pháp. Ví dụ như, khi những
cuộc đình công của công nhân hoặc các cuộc
biểu tình phản đối của nông dân trở nên phổ
biến hơn ở nhiều nơi, ĐCSTQ vốn có
nguyên tắc 'tiêu diệt các phong trào trước khi các phong
trào có thể phát triển' bằng cách bắt giữ
những người được gọi là “kẻ
cầm đầu” và trừng phạt họ rất
nặng. Trong một ví dụ khác, khi tự do và nhân
quyền càng ngày càng trở nên một trào lưu
được công nhận rộng rãi trên toàn thế
giới, ĐCSTQ không xử tử hình bất kỳ
một học viên Pháp Luân Công nào, nhưng dưới
sự xúi dục của Giang Trạch Dân là “không ai phải
chịu trách nhiệm về việc giết chết các
học viên Pháp Luân Công”, thì các học viên Pháp Luân Công thông
thường bị tra tấn đến chết rất
thảm thương ở khắp nơi trên toàn bộ Trung
Quốc. Mặc dù Hiến pháp Trung Quốc qui định
rằng các công dân có quyền kháng cáo nếu phải
chịu đựng sự bất công. Tuy nhiên, ĐCSTQ
sử dụng cảnh sát mặc thường phục
hoặc thuê các kẻ lưu manh ở địa
phương để ngăn chặn, bắt giữ, và
đưa những người dân đi kháng cáo về nhà,
và ngay cả nhốt họ lại ở trong những
trại lao động.
f. Giết
người để cảnh cáo những người khác
Việc
bức hại Trương Chí Tân, Ngộ La Khắc và Lâm
Chiêu [30] là tất cả những ví dụ mhư thế.
g. Dùng đàn áp
để che đậy việc giết người
Những
người nổi tiếng mà có ảnh hưởng trên
quốc tế thường hay bị Đảng Cộng
Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đàn áp nhưng không bị
giết chết. Mục đích của việc này là
để che dấu việc giết hại những
người mà cái chết của họ không bị dân chúng
để ý đến. Ví dụ, trong chiến dịch
"Đàn áp các phần tử phản cách mạng",
ĐCSTQ đã không giết các tướng lãnh cao cấp
của Quốc Dân Đảng như Long Vân, Phó Tác Nghĩa
và Đỗ Duật Minh, mà thay vào đó là giết chết
các viên chức cấp thấp và các binh sĩ của
Quốc Dân Đảng.
Việc
giết người qua một thời gian dài đã
biến tâm hồn của người ta thành quái dị.
Hiện nay ở Trung Quốc, nhiều người có khuynh
hướng giết người. Khi bọn khủng
bố tấn công nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001,
nhiều người Trung Quốc đã ăn mừng
vụ khủng bố trên các diễn đàn của Internet
ở Trung Quốc Đại lục. Những người
kêu gọi “chiến tranh không hạn chế” đã lên
tiếng ở khắp nơi làm cho mọi người run
lên vì sợ.
Lời Kết
Do
sự bưng bít tin tức của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc (ĐCSTQ), chúng tôi không có cách nào
để biết chính xác bao nhiêu người đã
chết trong những cuộc đàn áp khác nhau đã xảy
ra trong thời kỳ ĐCSTQ cầm quyền. Ít nhất 60
triệu người đã chết trong các cuộc vận
động mà chúng tôi đã đề cập đến
trên đây. Hơn nữa ĐCSTQ cũng đã giết
hại các dân tộc thiểu số ở Tân Cương,
Tây Tạng, Nội Mông Cổ, Vân Nam và các nơi khác;
rất khó tìm được tin tức về những
việc này. Báo Washington Post đã từng ước tính
rằng số người đã bị ĐCSTQ đàn áp
đến chết lên tới 80 triệu [31]
Bên
cạnh số người chết, chúng tôi không có cách nào
để biết được bao nhiêu người
đã bị tàn phế, bị rối loạn tinh thần,
phát điên, trầm uất, hay sợ chết khiếp sau
khi họ bị đàn áp. Mỗi một cái chết là
một thảm kịch cay đắng để lại
những đau đớn khôn nguôi cho thân nhân của các
nạn nhân.
Như
hãng thông tấn Yomiuri News
của Nhật đã từng tường thuật [32],
chính quyền Trung ương Trung Quốc đã mở
một cuộc điều tra về thương vong trong
Cách mạng Văn hóa ở 29 tỉnh và quận lỵ
trực thuộc chính quyền trung ương. Kết
quả cho thấy rằng gần 600 triệu người
đã bị đàn áp hoặc bị tội liên can trong Cách
mạng Văn hóa mà tổng số thành khoảng một
nửa số dân Trung Quốc.
Stalin
đã từng nói rằng “Cái chết của một
người là một bi kịch, nhưng cái chết
của một triệu người thì chỉ đơn
giản là một con số thống kê”. Khi được
thông báo rằng nhiều người dân đã bị
chết đói ở tỉnh Tứ Xuyên, Lý Tỉnh
Tuyền, nguyên Bí thư Đảng ủy tỉnh Tứ
Xuyên nhận xét “Triều đại nào mà không có
người chết?”. Mao Trạch Đông nói, “Thương
vong là không thể tránh khỏi trong bất kỳ cuộc
đấu tranh nào. Chết chóc thường xảy ra.”
Đấy là thái độ về sinh mạng của
bọn Cộng sản vô Thần. Đấy là lý do tại
sao 20 triệu người đã chết do bị đàn áp
trong thời gian Stalin nắm quyền, chiếm 10% tổng
số dân của Liên Bang Sô Viết trước kia. ĐCSTQ
đã giết hại ít nhất 80 triệu người hay
cũng vào khoảng 10% tổng số dân Trung Quốc [tính
cho đến lúc kết thúc Cách mạng Văn hóa].
Khờ-me Đỏ đã giết chết 2 triệu
người, hay 1 phần tư của tổng số dân
Cam-pu-chia lúc bấy giờ. Ở Bắc Triều Tiên,
số người bị chết vì đói kém ước
tính khoảng hơn 1 triệu. Đây là tất cả món
nợ máu của các Đảng Cộng Sản.
Các
tà giáo dùng máu của kẻ bị giết chết
để cúng tế tà linh. Ngay từ đầu
Đảng Cộng sản đã liên tục giết
người--khi nó không thể giết những
người ngoài Đảng, nó thậm chí sẽ giết
cả những người ở trong Đảng-- tất
cả để tế lễ các tà thuyết “đấu
tranh giai cấp”, “đấu tranh về đường
lối” của nó. Nó thậm chí đặt các tổng bí
thư Đảng, các tướng lãnh, các bộ trưởng,
và những đảng viên khác của chính nó lên bàn cúng
tế của tà giáo.
Nhiều
người nghĩ rằng nên để cho Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có thời gian
để tự biến đổi thành tốt hơn; nói
rằng hiện giờ nó đã rất kiềm chế trong
việc giết người rồi. Tuy nhiên, giết một
người vẫn làm cho người đó trở thành
kẻ giết người, nên từ bình diện to lớn
hơn mà nói, thì bởi vì giết người là một
trong những thủ đoạn mà ĐCSTQ dùng để
thống trị với chế độ khủng bố
của nó, như vậy ĐCSTQ sẽ tăng giảm
việc giết người tùy theo nhu cầu của nó.
Việc giết người của ĐCSTQ nói chung, khó
đoán trước. Khi biểu hiện của
người dân là ít sợ hãi, thì ĐCSTQ có thể giết
nhiều người hơn để tăng cảm giác
sợ hãi của họ lên; khi mọi người đã
sợ rồi, thì giết một vài người cũng có
thể nâng cao sự khủng bố; khi mọi
người đã quá sợ rồi, nó chỉ cần tuyên
bố ý định giết người chứ chưa
cần giết thật thì cũng có thể duy trì tình
trạng khủng bố. Sau khi trải qua vô số các
chiến dịch giết người cho chính trị,
người dân đã hình thành một 'phản xạ có
điều kiện' đối với sự khủng
bố của ĐCSTQ. Do đó, ĐCSTQ thậm chí không
cần phải nhắc đến việc giết
người, chỉ cần luận điệu phê phán gay gắt
của bộ máy tuyên truyền thì cũng đủ
để gợi lại ký ức sự khủng bố cho
mọi người.
ĐCSTQ
sẽ điều chỉnh mức độ giết
người của nó một khi cảm giác sợ hãi
của người dân thay đổi. Do đó giết
người nhiều hay ít, tự nó không phải là mục
đích của ĐCSTQ; mà chủ yếu là thói quen giết
người của nó. ĐCSTQ chưa bao giờ trở nên
ôn hòa. Nó cũng sẽ không bao giờ buông lưỡi dao
đồ tể của nó xuống. Ngược lại, người
dân đã trở nên phục tùng hơn. Một khi nhân dân
đứng lên yêu cầu điều gì vượt quá
sức chịu đựng của ĐCSTQ, thì ĐCSTQ
sẽ không ngần ngại mà giết người.
Cũng
bởi vì muốn duy trì bầu không khí khủng bố, nên
việc giết người tùy tiện chính là cách làm có
hiệu quả tối đa để duy trì sự
khủng bố. Trong những chiến dịch giết chóc
trên bình diện rộng lớn diễn ra trước
đây, ĐCSTQ có chủ ý mập mờ về nhân
dạng, tội danh và tiêu chuẩn buộc tội
đối với các mục tiêu của nó. Để tránh
bị trở thành mục tiêu tàn sát, mọi người
thường tự giới hạn mình trong một “khu
vực an toàn” dựa trên sự đánh giá của chính
họ. Một “khu vực an toàn” như vậy, nhiều khi
thậm chí còn hẹp hơn cả giới hạn mà
Đảng Cộng Sản định đặt ra. Đó
là lý do tại sao trong mỗi một phong trào, mọi người
có khuynh hướng hành động như “một
người khuynh Tả hơn là khuynh Hữu”. Kết
quả là, một phong trào thường được
“mở rộng” hơn so với phạm vi chủ
định ban đầu, bởi vì người dân ở
các cấp tự đặt ra những giới hạn cho
mình để đảm bảo cho sự an toàn của
họ. Cấp càng thấp, thì phong trào càng trở nên tàn
bạo hơn. Sự khủng bố tự động
phóng đại trong toàn xã hội như vậy là xuất
phát từ việc giết người tùy tiện của
Đảng Cộng Sản.
Trong
lịch sử sát nhân lâu dài của nó, ĐCSTQ đã tự
biến mình thành một kẻ cuồng điên giết
người hàng loạt. Thông qua việc giết
người, nó đã thỏa mãn cảm giác biến thái
của nó là nắm được quyền sinh sát trong tay.
Thông qua việc giết người, nó làm nguôi đi sự
sợ hãi sâu thẳm trong thâm tâm của nó. Thông qua việc
giết người, nó trấn áp sự không ổn
định trong xã hội và bất mãn do những giết
chóc trước kia của nó gây ra. Ngày nay, những món
nợ máu chồng chất của ĐCSTQ đã khiến
cho các giải pháp thiện lành là không thể áp dụng
được nữa. Nó chỉ có thể dựa trên áp
lực lớn và chế độ độc tài để
duy trì sự tồn tại của nó cho đến thời
khắc cuối cùng. Cho dù có những lúc nó sử dụng
kiểu mẫu "giết người rồi sau đó
sửa sai", bồi thường cho các nạn nhân đã
bị chính nó giết hại, làm mê hoặc người ta,
thì bản chất khát máu của ĐCSTQ vẫn chưa bao
giờ biến đổi, thậm chí lại càng không
thể thay đổi trong tương lai.
Chú
thích:
[1] Thư của Mao Trạch Đông gửi cho vợ
là Giang Thanh (1966).
[2] Luận Ngữ của Khổng tử.
[3] Leviticus 19:18. (quyển giáo sĩ thứ 3 của
Kinh Cựu Ước/chú thích của người dịch
sang tiếng Việt)
[4] Karl Marx and Frederick Engels, Bản tuyên ngôn Cộng
sản (1848).
[5] Mao Trạch Đông, Chế độ Độc
Tài Dân chủ Nhân dân (1949).
[6] Mao Trạch Đông, “Chúng ta phải tận tình
khuyến khích [việc đàn áp các phần tử phản
cách mạng] để mọi gia đình đều
được biết đến.” (30/03/1951).
[7] Mao Trạch Đông, “Chúng ta phải tấn công
những phần tử phản cách mạng thật
mạnh mẽ và chính xác.” (1951)
[8] Thái Bình Thiên Quốc (1851-1864), còn gọi là
Cuộc nổi dậy Thái Bình, là một trong những
cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch
sử Trung Quốc. Nó là cuộc chạm trán giữa các
lực lượng của Triều Đình Trung Quốc
(nhà Thanh) và những người do Hồng Tú Toàn, một
người thần bí tự xưng của nhóm văn hóa
Hakka, lãnh đạo. Hồng Tú Toàn cũng là một
người đã chuyển sang theo đạo Cơ
Đốc. Người ta tin rằng ít nhất đã có 30
triệu người đã chết trong cuộc xung
đột này.
[9] Những dữ liệu lấy từ phần trích
của cuốn sách do tạp chí Chengming ở Hồng Kông
xuất bản (www.chengmingmag.com), số ra tháng 10, 1996.
[10] Tài Liệu Lịch Sử về Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc ( Nhà xuất bản Cờ Đỏ, 1994).
[11] Đơn vị đo lường đất
đai của Trung Quốc. 1 mẫu Trung Quốc = 0.165
mẫu Anh.
[12] Sa Thanh, Y Hy Đại
Địa Loan (Vùng Đất Hoang Vu Nơi Đầm
Lầy) (1988)
[13] De Jaegher, Raymond J., Kẻ
Thù Bên Trong. Guild Books,
Catholic Polls, Incorporated (1968).
[14] Thảm sát Đại Hưng xảy ra vào
tháng 8/1966 trong khi thay đổi nhân sự cho vị trí Bí
thư Thành ủy Bắc Kinh. Vào thời gian đó, Bộ
trưởng Bộ Công an Xie Fuzhi có một bài phát biểu
trong một cuộc họp với Nha Công an Bắc Kinh
về việc không can thiệp vào các hoạt động
của “hồng vệ binh” chống lại “năm giai
cấp đen”. Bài phát biểu đó sớm được
chuyển đến cuộc họp của Ban
thường trực của Phòng Công an huyện Đại
Hưng. Sau buổi họp, Phòng Công an huyện Đại
Hưng ngay lập tức hành động và lập một
kế hoạch kích động quần chúng nhân dân ở
huyện Đại Hưng giết chết những
người thuộc “năm giai cấp đen”.
[15] Trịnh Nghĩa, Kỷ
Niệm Đỏ (Đài Bắc: Nhà xuất bản
Truyền hình Trung Quốc, 1993). Cuốn sách này cũng
đã được xuất bản bằng tiếng Anh: Kỷ Niệm Đỏ: Các
câu chuyện ăn thịt người ở Trung Quốc
hiện đại, của tác giả Yi Zheng, dịch và biên
soạn bởi T. P. Sym (Boulder, Colorado: Westview Press, 1998.)
[16] “Xã hội cũ” theo cách nói của ĐCSTQ, dùng
để chỉ thời kỳ trước năm 1949 và
“xã hội mới” dùng để chỉ thời kỳ sau
năm 1949 khi ĐCSTQ lên nắm quyền ở Trung
Quốc.
[17] Áo bó là một dụng cụ tra tấn hình
chiếc áo bó chặt. Hai tay của nạn nhân bị
vặn chéo vào nhau và bị trói lại bằng dây thừng
ở đằng sau lưng rồi sau đó bị giật
qua đầu ra phía đằng trước; thủ
đoạn tra tấn này có thể ngay lập tức làm què
hai tay nạn nhân. Sau đó, nạn nhân bị đặt vào
trong áo bó và bị treo hai tay lên. Hậu quả trực
tiếp nhất của thủ đoạn tra tấn tàn
bạo này là nạn nhân bị gẫy xương vai,
xương khuỷu tay, xương cổ tay và lưng, làm
cho nạn nhân bị chết trong đau đớn tột
cùng. Rất nhiều học viên Pháp Luân Công đã chết vì
bị tra tấn như thế này. Hãy đến các
địa chỉ trên Internet sau đây để biết
thêm thông tin:
Tiếng Hán: http://minghui.org/mh/articles/2004/9/30/85430.html
Tiếng Anh:
http://clearwisdom.net/emh/articles/2004/9/10/52274.html
[18] Lưu Thiếu Kỳ, Chủ Tịch Nhà
Nước của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc từ
1959 đến 1968, đã từng được xem là
người kế vị của Mao Trạch Đông. Trong
cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976), ông ta bị chính
ĐCSTQ kết tội là phản bội, gián điệp,
và phản động. Ông ta chết năm 1868 sau khi bị
hành hạ cực kỳ tàn nhẫn trong lao tù của
ĐCSTQ.
[19] Trần Bá Đạt (1904-1989) đã từng là
Thư Ký Chính Trị của Mao Trạch Đông và là Chủ
Biên của báo Cờ Đỏ của ĐCSTQ. Họ
Trần là người cầm đầu của nhóm Cách
Mạng Văn Hóa và đã viết trên Nhật Báo Nhân Dân bài
xả thuyết “Quét Sạch Bọn Quái Vật và Ác
Qủy” năm 1966. Bài này được đánh dấu là
bắt đầu của một trong những cuộc thanh
trừng lớn nhất trong thời kỳ Cách Mạng
Văn Hóa. Trương Xuân Kiều (1917) đã từng là
Đệ Nhị Phó Thủ Tướng năm 1975. Họ
Trương là một trong Băng Đảng Bốn
Người, nhóm lãnh đạo trong thời kỳ Cách
Mạng Văn Hóa. Bài viết nổi tiếng nhất
của họ Trương là “ Hãy Sử Dụng Độc
Tài Toàn Diện đối với Bọn Phản Động”.
[20] Vương Hiền Căn, Tài liệu về ủng hộ Việt nam và Đánh
Mỹ. (Bắc Kinh: Công ty Xuất bản Văn hóa
Quốc tế, 1990)
[21] Từ Báo cáo ngày 12/10/2004 của Viện nghiên
cứu Laogai: Trẻ Em Trong
Những Nạn Nhân của Cuộc Đàn Áp Pháp Luân Công.
http://www.laogai.org/news2/newsdetail.php?id=391 (tiếng Hán).
[22] Một trong ba công cụ (phương tiện
sản xuất, phương thức sản xuất và quan
hệ sản xuất) do Mác dùng để phân tích giai
cấp xã hội. Quan hệ sản xuất dùng để
chỉ mối quan hệ giữa những người
sở hữu công cụ sản xuất và những
người không sở hữu công cụ sản xuất,
ví dụ, mối quan hệ giữa những người
chủ sở hữu đất đai và dân cày hoặc
mối quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân.
[23] Từ Mạnh Tử, Quyển 3. Bộ Kinh
điển Penguin, do D.C. Lau biên dịch.
[24] Tác giả Fan Zhongyan (989-1052), một nhà giáo
dục, nhà văn và là một vị quan xuất chúng
của Trung Quốc dưới Triều đại Bắc
Tống. Đoạn trích này được lấy từ
bài văn nổi tiếng của ông với nhan đề
“Trèo lên tháp Nhạc Dương.”
[25] Tác giả Gu Yanwu (1613-1682), một học giả
xuất sắc vào đầu Triều đại Thanh.
[26] Từ Mạnh Tử, Quyển 7. Bộ Kinh
điển Penguin, do D.C. Lau biên dịch.
[27] Làng Ba Nhà là bút danh của ba nhà văn trong những
năm 1960 là Deng Kuo, Wu Han và Liao Mosha. Wu là tác giả của
vở kịch, “Hai Rui từ chức” mà Mao coi là một
sự châm biếm chính trị về mối quan hệ
của ông ta với tướng Bành Đức Hoài.
[28] Lão Xả (1899-1966) là một nhà văn Trung Quốc
được nổi tiếng qua việc mô tả
cuộc đời của người dân Trung Quốc trong
những năm chiến tranh. Nhiều tác phẩm của
ông ta được diễn trên những tuồng TV và các
phim điện ảnh. Ông ta bị hành hạ dã mang trong
thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa và đã tự tử
bằng cách nhảy xuống hồ năm 1966. Jian Bozan
(1898-1968) đã từng là Phó Viện Trưởng Viện
Đại Học Bắc Kinh và là một giáo sư sử
học. Mao đã đặc biệt ra lệnh là phải
dùng ông ta như một thí dụ xấu của thành
phần trí thức phàn cách mạng. Ông ta và vợ cùng
tự tử bằng cách uống thuốc ngũ quá
liều vào tháng 12 năm 1968.
[29] Theo như Clearwisdom.net, mạng lưới chính
thức của Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã hạ
lệnh rằng những người tập Pháp Luân Công thì
phải bị giết chết không nhân nhượng và
những cái chết này được tính là tự tử.
Xin xem “Thụy Điển: Lá thư của hội Pháp Luân
Đại Pháp gởi cho Tổng Trưởng Ngoại Giao trong Hội Nghị Nhân
Quyền Liên Hiệp Quốc ở Geneva”.
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2003/3/18/33461.html.
[30] Ngộ La Khắc là một nhà tư tưởng
và đấu tranh vì nhân quyền bị ĐCSTQ giết
chết trong Cách mạng Văn hóa. Bài tiểu luận
bất hủ của ông “Về lịch sử gia đình”
viết ngày 18/01/1967 được lưu truyền
rộng rãi nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất
trong tất cả các bài tiểu luận phản ánh các
tư tưởng không tuân theo đường lối
của ĐCSTQ trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa.
Lâm Chiêu, một sinh viên khoa báo chí trường Đại
học Tổng hợp Bắc Kinh bị coi là một
người hữu khuynh năm 1957 vì cô đã có những
tư tưởng độc lập và phê phán thẳng
thắn đối với phong trào cộng sản đó. Cô
bị buộc tội là có âm mưu lật đổ
chế độ chuyên chính dân chủ nhân dân và bị
bắt năm 1960. Năm 1962, cô bị kết án 20 năm
tù. Cô bị ĐCSTQ giết hại ngày 29/04/1968 với
tội danh là phản cách mạng.
[31] Dữ liệu dựa trên
http://www.laojiao.org/64/article0211.html (tiếng Hán).
[32] Từ “Một bức thư ngỏ của Song
Meiling gửi Liao Chengzhi” (17/08/1982).
Nguồn tin:
http://www.blog.edu.cn/more.asp?name=fainter&id=16445 (tiếng Hán).
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
Bài bình luận số 8
Bản chất tà giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Lời Mở Đầu
Cách Mạng Văn Hóa là thời kỳ mà "Mặt Trời đỏ nhất" trong khi "Thế giới tối tăm nhất". Mọi người đều phải học các tác phẩm của Mao Trạch Đông (Getty Images) |
Sự sụp đổ của khối
Cộng Sản do Liên Bang Sô Viết dẫn đầu vào
đầu thập niên 90 đã đánh dấu sự
thất bại cho các cuộc vận động của
Cộng Sản quốc tế sau gần một thế
kỷ. Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(ĐCSTQ ) không ngờ đã sống sót và vẫn khống
chế Trung Quốc, một quốc gia với 1/5 dân số
thế giới. Một vấn đề không thể né
tránh được chính là: ' Đảng Cộng Sản
ngày nay có còn là Đảng Cộng Sản thật sự hay
không?'
Không ai ở Trung Quốc ngày nay, bao
gồm cả các đảng viên, còn tin vào chủ nghĩa
Cộng Sản. Sau 50 năm đi theo chủ nghĩa Xã
Hội, ĐCSTQ bây giờ đã chấp nhận quyền
tư hữu và ngay cả còn có thị trường cổ
phiếu. ĐCSTQ còn tìm kiếm đầu tư của ngoại
quốc để thành lập các doanh nghiệp mới,
trong khi vẫn bóc lột công nhân và nông dân đến
mức độ tối đa. Điều này hoàn toàn trái ngược
với lý tưởng của chủ nghĩa cộng
sản. Mặc dù thỏa hiệp với chủ nghĩa
tư bản, ĐCSTQ vẫn duy trì quyền lãnh đạo
tuyệt đối với người dân Trung Quốc.
Hiến pháp sửa đổi năm 2004 vẫn cứng
ngắc quy định rằng “Nhân dân Trung Quốc gồm
các giống dân khác nhau sẽ tiếp tục kiên trì theo
chế độ chuyên chính Dân chủ Nhân dân và
đường lối Xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc và sự dẫn lối của
chủ nghĩa Mácxít-Lêninít, tư tưởng của Mao
Trạch Đông, lý luận của Đặng Tiểu Bình
và tư tưởng chủ yếu trong ‘Tam đại
biểu’…”
“Con báo đã chết, vẫn còn lưu
lại bộ da” [1]. Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) ngày nay chỉ còn lại “bộ da”
của Đảng Cộng Sản. ĐCSTQ kế thừa
bộ da này và dùng nó để duy trì quyền thống
trị của Đảng Cộng Sản.
Như vậy, 'bộ da' của
Đảng Cộng Sản, tức là tổ chức
của Đảng Cộng Sản mà Đảng Cộng
Sản Trung Quốc kế thừa, bản chất của
nó là gì đây?
I. Các đặc trưng của Tà giáo Đảng Cộng Sản
Bản chất của Đảng Cộng Sản, kỳ thực là một tà giáo làm hại nhân loại
Mặc dù Đảng Cộng Sản
chưa bao giờ tự gọi mình là một tôn giáo
nhưng nó có tất cả các sắc thái của một tôn
giáo. Xem Bảng 1. Khi mới bắt đầu thành lập,
nó coi chủ nghĩa Mác-xít là chân lý tuyệt đối trên
thế giới. Nó sùng bái tôn thờ Marx như vị thánh
tinh thần của mình, và hô hào nhân dân tham gia vào cuộc
đấu tranh suốt đời với mục đích
để xây dựng một “thiên đường nhân gian”
của chủ nghĩa cộng sản.
Bảng 1. Các sắc thái tôn giáo của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc:
Các hình thức cơ bản của
một tôn giáo
|
Các hình thức tương ứng
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
|
|
1.
|
Nhà thờ hay giảng-đàn.
|
Tất cả các cấp Đảng
ủy; các diễn thuyết gồm từ các buổi
họp Đảng cho đến các phương tiện
thông tin đều bị khống chế bởi
Đảng Cộng Sản.
|
2.
|
Giáo nghĩa.
|
Chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít, tư
tưởng Mao Trạch Đông, lý luận của
Đặng Tiểu Bình và tư tưởng ‘Tam
Đại biểu’ của Giang Trạch Dân và Hiến
chương của Đảng.
|
3.
|
Nghi thức nhập giáo.
|
Buổi lễ tuyên thệ trung thành
vĩnh viễn với Đảng Cộng Sản
|
4.
|
Chuyên nhất với một tôn giáo.
|
Đảng viên phải tuyệt
đối tin theo Đảng Cộng Sản.
|
5.
|
Giáo sĩ, linh
mục, thượng toạ, …
|
Các bí thư và nhân viên phụ trách các
công tác Đảng ở các cấp.
|
6.
|
Thờ Thần,
Phật, Thượng đế…
|
Chửi rủa tất cả chư
Thần và sau đó tự tôn mình làm một vị
"Thần” vô danh.
|
7.
|
Chết được gọi là “lên
thiên đường hoặc xuống địa ngục”.
|
Chết được gọi là
“đi gặp Karl Marx”.
|
8.
|
Kinh sách.
|
Lý thuyết và các bài viết của
các lãnh tụ Đảng.
|
9.
|
Giảng đạo.
|
Các thể loại họp hành và phát
biểu của lãnh đạo.
|
10.
|
Đọc kinh; học và trau dồi
kinh sách.
|
Học chính trị, họp nhóm
thường kỳ hoặc các hoạt động
của các đảng viên.
|
11.
|
Thánh ca.
|
Các bài hát ca ngợi Đảng.
|
12.
|
Tự nguyện
đóng chi phí.
|
Đảng phí bắt buộc; phân
bổ ngân sách nhà nước bắt buộc phải cho
Đảng là tiền từ mồ hôi và máu của dân.
|
13.
|
Giới luật, kỷ luật.
|
Kỷ luật Đảng bao gồm
“quản thúc tại nhà”, điều tra, và “khai trừ
khỏi Đảng” cho đến các thủ đoạn
tra tấn chết người và ngay cả trừng
phạt người thân và bạn bè.
|
Đảng Cộng Sản rất khác
biệt với bất cứ chính giáo nào. Bởi vì các tôn
giáo chính thống đều tin vào Thần, tin vào từ bi,
và lấy sự giáo hóa đạo đức con
người và cứu rỗi linh hồn người ta làm
mục đích. Tuy nhiên Đảng Cộng Sản không tin
vào thần linh, mà còn đi ngược lại đạo
đức truyền thống.
Những việc Đảng Cộng
Sản làm, đã chứng minh rằng nó là một tà giáo.
Trung tâm cho các giáo điều của Đảng Cộng
Sản là đấu tranh giai cấp, cách mạng bạo
lực và sự chuyên chính của giai cấp vô sản,
đã tạo ra cái gọi là “Cách mạng của Cộng
Sản” đầy tàn sát và bạo lực đẫm máu.
Khủng bố nhuộm Đỏ dưới chính
quyền của Đảng Cộng sản đã kéo dài khoảng
một thế kỷ, đem đến thảm họa cho
hàng chục quốc gia trên thế giới và cướp
đi hàng chục triệu sinh mạng con người. Tín
ngưỡng của Đảng cộng sản mà đã
tạo ra địa ngục nhân gian như thế thì
thực ra là một tà giáo to lớn số một của
thế gian con người.
Từ các đặc trưng của tà
giáo Đảng Cộng Sản, chúng ta có thể tóm tắt
chúng dưới sáu mục như sau:
1. Sự bịa đặt giáo điều -- tiêu diệt những người không giống mình
Đảng Cộng Sản lấy
chủ nghĩa Karl Marx làm giáo điều và khoe
trương nó như là “chân lý không thể phá vỡ.” Giáo
điều của Đảng Cộng Sản thiếu nhân
ái và khoan dung. Thay vào đó, nó chứa đầy cuồng
vọng tự cao tự đại. Chủ nghĩa Mác-xít
là một sản phẩm thời ban đầu của
chủ nghĩa tư bản khi sự sản xuất
thấp và khoa học vẫn còn kém phát triển. Nó không có
nhận thức chính đáng về mối quan hệ căn
bản giữa con người và xã hội, giữa con
người và tự nhiên. Rủi thay, một tà thuyết
dị đoan như thế đã phát triển thành một
phong trào cộng sản quốc tế và đã làm hại
thế gian con người hơn một thế kỷ, cho
mãi đến khi bị chứng minh là hoàn toàn sai lầm
trong thực tiễn, rồi bị thế nhân ruồng
bỏ.
Các lãnh tụ Đảng từ
thời Lê-nin đã liên tục thêm vào nội dung mới
trong giáo điều của tà giáo cộng sản. Từ lý
luận cách mạng bạo lực của Lê-nin cho
đến lý luận về cách mạng liên tục
dưới chế độ chuyên chính của giai cấp
vô sản của Mao Trạch Đông, đến “Tam
đại biểu” của Giang Trạch Dân, lịch sử
của Đảng Cộng Sản đầy rẫy
những loại tà thuyết mà có lý luận sai lệch
như thế. Mặc dù những tà thuyết này đã liên
tục gây ra những thảm họa trong thực tiễn
và tự mâu thuẫn với nhau, Đảng Cộng
Sản vẫn tự cho rằng nó giải thích đúng và
bắt buộc nhân dân phải học tà thuyết của
nó.
Tiêu diệt những người mà khác
với mình là thủ đoạn truyền giáo hữu
hiệu nhất của tà giáo cộng sản. Bởi vì giáo
điều và hành vi của tà giáo cộng sản này cực
kỳ sai lầm, cho nên Đảng Cộng Sản chỉ
dựa vào bạo lực để tiêu diệt những
người khác với mình thì mới có thể
cưỡng ép người dân chấp nhận nó. Sau khi
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chiếm
đoạt chính quyền ở Trung Quốc, nó bắt đầu
việc thực hiện “cải cách ruộng đất”
để tiêu diệt giai cấp địa chủ,
“cải tạo chủ nghĩa xã hội” trong công nghiệp
và thương nghiệp để tiêu diệt các nhà tư
bản, “phong trào tiêu diệt phản động”
để tiêu diệt những tôn giáo truyền thống và
những nhân sĩ trong chính quyền trước , “phong trào
chống cánh Hữu” để bịt miệng những
người trí thức và “Đại Cách mạng Văn
hóa” để tiêu diệt văn hóa truyền thống
của Trung Quốc. ĐCSTQ đã có thể thống
nhất Trung Quốc dưới tà giáo cộng sản và
đạt được một tình thế mà tất
cả mọi người phải đọc Sách
Đỏ, nhảy “điệu trung thành”[2] và “xin chỉ
thị của Đảng buổi sáng và báo cáo lên
Đảng vào buổi tối.” Vào thời kỳ sau
chế độ của Mao Trạch Đông và của
Đặng Tiểu Bình, ĐCSTQ đánh giá rằng Pháp Luân
Công, một phương pháp tu luyện truyền thống
tin vào “Chân, Thiện, và Nhẫn” sẽ cạnh tranh với
nó để thu hút quần chúng, và do đó có ý định
tiêu diệt Pháp Luân Công, vì vậy nó bắt đầu
một cuộc đàn áp mang tính cách diệt tuyệt
đối với Pháp Luân Công cho đến tận bây
giờ.
2. Sùng bái Giáo chủ --- Chỉ có ta là nhất
Từ Karl Marx đến Giang Trạch
Dân, bức hình của các lãnh tụ Đảng cộng
sản được treo lên rõ ràng để cho
người ta quỳ lạy. Quyền lực tuyệt
đối của các lãnh tụ Đảng cộng sản
là không dung tha kẻ khiêu
chiến. Mao Trạch Đông được dựng lên làm “mặt
trời đỏ” và là người “đại cứu
tinh”. Đảng cộng sản tán dương một cách
thái quá những câu nói của Mao rằng là “một câu nêu cao
bằng 10 ngàn câu bình thường”. Với tư cách là
một “đảng viên phổ thông”, Đặng Tiểu
Bình đã từng làm chúa tể nền chính trị Trung
Quốc dưới hình thức 'thái thượng hoàng'. Lý
thuyết “Tam đại biểu” của Giang Trạch Dân
chỉ dài có hơn 40 chữ một chút bao gồm cả
dấu chấm, nhưng Đại hội kỳ 4 của
Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã
thổi phồng lên là “đem đến câu trả lời
sáng tạo cho những vấn đề như chủ
nghĩa xã hội là gì, làm thế nào để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chúng ta xây dựng loại
Đảng nào và xây dựng Đảng như thế
nào.” ĐCSTQ cũng tán
dương thái quá về tư tưởng của “Tam
đại biểu”, mặc dù khi nói rằng nó là sự
tiếp nối và phát triển của chủ nghĩa
Marxít-Leninnít, tư tưởng Mao Trạch Đông và lý
luận Đặng Tiểu Bình thì thực ra là chế
nhạo nó.
Việc giết người vô tội
một cách vô nhân đạo của Stalin, tai kiếp từ phong trào
“Đại Cách mạng Văn hóa” của Mao Trạch
Đông, lệnh thảm sát Thiên An Môn của Đặng
Tiểu Bình và cuộc đàn áp Pháp Luân Công vẫn đang
tiếp diễn của Giang Trạch Dân là những kết
quả tàn ác của loại giáo chủ độc tài này.
Một mặt, Đảng cộng sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) trong Hiến Pháp quy định rằng, “Tất
cả quyền lực trong Nước Cộng hòa Nhân dân
Trung hoa thuộc về nhân dân. Các cơ quan mà nhân dân thi hành
quyền lực quốc gia là Quốc hội đại
diện nhân dân và các Hội đồng địa
phương các cấp”. “Không một tổ chức hay cá
nhân nào có đặc quyền vượt trên Hiến pháp và
pháp luật”[3]. Nhưng mặt khác, trong "Đảng
chương" của ĐCSTQ quy định rằng
ĐCSTQ là "trung tâm lãnh đạo cho sự nghiệp
của xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung
Quốc", làm cho Đảng vượt trên cả
quốc gia và nhân dân. Chủ tịch Ủy ban thường
vụ Quốc hội có “những bài phát biểu quan
trọng” trên khắp cả nước nói rằng Quốc
hội, cơ quan quyền lực cao nhất của
quốc gia, phải tuân theo "sự kiên trì lãnh
đạo của Đảng". Theo nguyên tắc của
“chế độ tập trung dân chủ” của ĐCSTQ,
toàn Đảng phải phục tùng Ban chấp hành Trung
ương Đảng. Nói thực ra, điều mà
Quốc hội thực sự nhấn mạnh là
"sự độc tài của Tổng bí thư", mà dùng hình thức luật pháp
để bảo vệ "sự độc tài của
Tổng bí thư".
3. Tẩy não bằng bạo lực, khống chế tinh thần, tổ chức nghiêm ngặt, và có thể vào Đảng nhưng không thể ra khỏi Đảng
Tổ chức của Đảng
cộng sản rất là nghiêm ngặt: người ta
phải có giới thiệu của 2 đảng viên
trước khi được nhận vào Đảng; vào
Đảng phải thề trung thành vĩnh viễn với
Đảng ; đảng viên phải đóng đảng
phí, phải tham dự các hoạt động của tổ
chức, và tham gia học chính trị tập thể. Các
tổ chức của Đảng thâm nhập tất
cả các cấp chính quyền. Tổ chức cơ
tầng của Đảng có mặt ở mỗi một
làng, thị trấn, chỗ láng giềng… Đảng
cộng sản khống chế không chỉ các đảng
viên và các công tác của Đảng mà cả những dân
chúng không phải là đảng viên bởi vì toàn bộ chính
quyền phải “kiên trì theo sự lãnh đạo của
Đảng”. Tuy nhiên trong những năm, khi các chiến
dịch đấu tranh giai cấp đang diễn ra, các “thần giao”(người
giảng bài) của giáo hội Đảng cộng sản,
gọi là các "bí thư
Đảng" trong tổ chức ở mọi
cấp, thường là không biết làm gì khác hơn ngoài
việc ép người ta theo kỷ luật.
“Phê bình và tự phê bình mình” trong các
buổi sinh hoạt của Đảng là một loại
thủ đoạn phổ biến và trường kỳ
để khống chế tinh thần của đảng
viên. Trong lịch sử, Đảng Cộng Sản đã
phát động nhiều lần các phong trào chính trị
để "thanh lọc đảng viên", “chỉnh
đốn không khí trong Đảng”,
“bắt kẻ phản bội”, “giết 'tập đoàn
chống Bolshevik' (AB Đoàn) và “chỉnh đốn
Đảng”, thỉnh thoảng lợi dụng khủng
bố bằng bạo lực để bồi dưỡng
"Đảng tính” của các đảng viên, khiến cho
họ phải trung thành mãi mãi với Đảng.
Gia nhập Đảng cộng sản
như là ký một hợp đồng bán thân xác và linh
hồn mà không thể hủy bỏ. Gia pháp của
Đảng luôn luôn ở trên luật pháp của quốc
gia, Đảng có thể khai trừ cá nhân đảng viên,
trong khi các đảng viên không thể thoát ly khỏi
Đảng cộng sản mà không bị trừng phạt
nghiêm trọng. Nếu như thoái Đảng thì bị coi
là kẻ phản bội và sẽ đưa đến
những hậu quả tệ hại. Trong thời kỳ
Cách Mạng dưới sự thống trị tuyệt
đối của tà giáo Đảng cộng sản,
nếu Đảng muốn người nào chết thì
người đó không thể sống, nếu Đảng
muốn người nào sống thì người đó không
thể chết. Nếu như tự sát thì người
đó sẽ bị dán cái nhãn hiệu là “sợ bị nhân
dân trừng phạt vì tội lỗi của mình” và người
nhà của họ cũng sẽ bị liên lụy và bị
trừng phạt.
Quyết định sách lược bên
trong Đảng hoạt động như một cái
hộp đen và đấu tranh trong nội bộ
Đảng phải tuyệt đối giữ bí mật.
Tất cả các tài liệu của Đảng đều
là văn kiện cơ mật. Làm chuyện xấu thì
sợ nhất bị vạch trần, cho nên Đảng
cộng sản thường xuyên xử lý những
người khác với mình bằng cách gán cho họ tội
danh “tiết lộ cơ mật quốc gia”.
4. Xúi giục bạo lực, tôn sùng máu tanh, và khích lệ hy sinh cho tà giáo Cộng Sản
Mao Trạch Đông nói: “Cách mạng
không phải là một bữa tiệc buổi tối,
hoặc viết một bài văn, hoặc vẽ một
bức tranh, hoặc là làm công việc thêu thùa; nó không
thể tao nhã như vậy, nhẹ nhàng và nhàn hạ như
vậy, ôn hòa, tử tế, lịch thiệp, cần
kiệm và nhượng bộ như vậy. Cách mạng là
bạo lực, là hành động bạo lực mãnh
liệt của một giai cấp dùng để lật
đổ một giai cấp khác.”[4]
Đặng Tiểu Bình nói: “Giết
chết 200 ngàn người để đổi lấy 20
năm ổn định”.
Giang Trạch Dân ra lệnh: “Tiêu
diệt thân xác (các học viên Pháp Luân Công), bôi nhọ thanh
danh, vắt kiệt tài chính.”
Đảng cộng sản xúi giục
bạo lực và đã giết vô số người trong
lịch sử các lần vận động chính trị
trước kia của nó. Nó giáo dục người dân
đối xử "với kẻ thù phải lạnh
lẽo vô tình”. Lá cờ đỏ được hiểu
là màu đỏ tượng trưng cho “máu tươi
của những liệt sĩ.” Đảng cộng sản
sùng bái màu đỏ, trên thực tế là nó sùng bái máu
tươi.
Đảng cộng sản trưng bày
những ví dụ "anh hùng" để khuyến khích
người ta hy sinh cho Đảng. Khi Trương Tư
Đức chết trong lúc đang làm việc tại lò
sản xuất thuốc phiện, Mao Trạch Đông đã
ca ngợi cái chết của anh ta là “nặng như Núi Thái
sơn [5].” Trong những năm điên cuồng đó,
những lời như “Một không sợ khổ, hai không
sợ chết” và “Vì có hy sinh mạnh mẽ quyết tâm bao
nhiêu, nên chúng ta dám làm mặt trời và mặt trăng
chiếu sáng những khung trời mới” chứa
đầy cuồng vọng, và thiếu thốn trầm
trọng về vật chất.
Vào cuối thập niên 70, Việt
Cộng mang quân đi lật đổ chính quyền
Khờ me Đỏ mà Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) ủng hộ, gây ra các tội ác tầy
trời. Mặc dù ĐCSTQ rất tức giận nhưng
không thể đưa quân đến hỗ trợ Khờ
me Đỏ bởi vì Trung Quốc và Cam-pu-chia không có chung
đường biên giới. Thay vào đó, ĐCSTQ bắt
đầu một cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam dọc theo biên giới Trung-Việt để
trừng phạt Việt Cộng dưới chiêu bài
“tự vệ”. Hàng chục ngàn lính Trung Quốc vì đó
đã hy sinh cả máu và mạng sống cho cuộc
chiến tranh giữa các Đảng cộng sản. Cái
chết của họ thực ra không liên quan gì đến lãnh
thổ và chủ quyền quốc gia. Tuy vậy vài năm
sau, ĐCSTQ trâng tráo gợi nhớ lại sự hy sinh vô
nghĩa của bao nhiêu sanh mạng trẻ tươi sáng
khờ dại mà làm thành “tinh thần anh hùng cách mạng”,
mượn từ bài hát “cử chỉ đẹp
đẽ nhuộm máu”. Mặc dù 154 binh sĩ Trung Hoa đã
chết năm 1981 trong khi chiếm lại núi Pháp Ca ở
tỉnh Quảng Tây, ĐCSTQ đã tùy tiện trả nó
lại cho Việt Nam sau khi hai bên phân chia lại biên
giới.
Khi sự lan rộng hoành hành của
bệnh dịch SARS đã đe dọa tánh mạng
người dân vào đầu năm 2003, ĐCSTQ sẵn
sàng nhận vào các nữ y tá trẻ. Sau đó những
phụ nữ này nhanh chóng bị ép ở trong bệnh
viện để chăm sóc các bệnh nhân SARS. ĐCSTQ
đã đẩy những người trẻ tuổi vào
nơi tiền tuyến nguy hiểm nhất để
tạo dựng “hình ảnh vinh quang” trong khẩu hiệu
“không sợ gian khổ , không sợ cái chết” của
Đảng cộng sản. Tuy nhiên những người
còn lại trong số 65 triệu đảng viên hiện có
thì đang ở đâu và đã đem lại hình ảnh
như thế nào cho Đảng, thì ĐCSTQ không có lời
giải thích.
5. Phủ nhận đức tin vào thần thánh và bóp chết nhân tính
Đảng cộng sản tuyên
truyền lý luận vô Thần, nói rằng tôn giáo là
“thuốc phiện tinh thần” có thể đầu
độc người dân. Nó dùng quyền lực của nó
để tiêu diệt hoặc đè bẹp tất cả
các tôn giáo ở Trung Quốc, và sau đó thần thánh hóa
chính mình, thực hiện sự thống trị tuyệt
đối của tà giáo Cộng Sản.
Cùng lúc với việc Đảng
cộng sản đàn áp tôn giáo, nó cũng phá hoại văn
hóa truyền thống. Nó nói rằng truyền thống,
đạo đức và luân lý là phong kiến, mê tín và
phản động, rồi dùng danh nghĩa cách mạng
để diệt trừ tất cả. Trong thời
kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, xuất hiện các
hiện tượng xấu tràn lan đi ngược
lại truyền thống Trung Quốc, như vợ
chồng tố cáo lẫn nhau, học trò đánh đập
thầy cô, cha con thành thù địch với nhau, Hồng
vệ binh giết bừa bãi những người vô
tội, và quân nổi loạn đánh đập,
đập phá và cướp bóc. Đây chính là kết
quả sự việc bóp chết nhân tính của ĐCSTQ.
Sau khi thành lập chế độ,
ĐCSTQ đã cưỡng bức các dân tộc thiểu
số phải theo sự lãnh đạo của cộng
sản, làm tổn hại đến nền văn hóa dân
tộc mà họ đã tạo dựng rất phong phú và
đầy màu sắc.
Ngày 4/6/1989, cái gọi là “Quân đội
Giải phóng của Nhân dân” đã thảm sát rất
nhiều sinh viên ở Bắc Kinh. Việc này đã làm cho
người dân Trung Quốc hoàn toàn mất hy vọng vào
tương lai chính trị của Trung Quốc. Từ
đó trở đi, toàn thể dân chúng tập trung vào
việc kiếm tiền. Từ năm 1999 cho đến
nay, ĐCSTQ đã đàn áp tàn khốc Pháp Luân Công, và đi
ngược lại với “Chân, Thiện và Nhẫn” , vì
vậy tăng thêm sự suy đồi nhanh chóng về
chuẩn mực đạo đức.
Từ đầu thế kỷ này,
một chiến dịch chia đất[6], chiếm giữ
tiền bạc và tài nguyên vật chất một cách
bất hợp pháp của các viên chức chính quyền tham
nhũng mà thông đồng với kẻ kiếm lợi
đã làm cho rất nhiều người dân trở thành
bần cùng và vô gia cư. Số người kháng cáo lên chính
quyền để đòi hỏi giải quyết bất
công, đã tăng lên rất cao, và mâu thuẫn xã hội
cũng phát triển mạnh mẽ. Các cuộc phản kháng
trên diện rộng diễn ra thường xuyên, và đã
bị cảnh sát và quân đội đàn áp dã man. Bản
chất phát-xít của “nuớc Cộng hòa” đã trở nên
rõ rệt, và xã hội lại càng mất đi chuẩn
mực đạo đức.
Trước kia, một kẻ ác không
bao giờ làm hại hàng xóm láng giềng, hoặc như câu
nói "cáo chỉ săn mồi xa nhà". Bây giờ, khi
người ta muốn lừa gạt người nào,
họ càng muốn nhắm vào họ hàng và bạn bè của
chính mình và gọi đó là “giết người quen
thuộc”.
Trong quá khứ, người dân Trung
Quốc quý trọng chữ trinh tiết lên hàng đầu,
còn ngày nay người ta khinh người nghèo, chứ không
khinh kẻ bán dâm. Lịch sử phá hoại nhân tính và
đạo đức của dân tộc Trung Hoa
được mô tả sống động trong các câu sau:
“Trong
thập niên 50 người ta giúp đỡ nhau,
Trong thập niên 60 người ta chỉnh lý nhau,
Trong thập niên 70 người ta lừa đảo lẫn nhau,
Trong thập niên 80 người ta chỉ lo cho chính mình,
Trong thập niên 90 người ta lợi dụng bất kể ai mà họ gặp”.
Trong thập niên 60 người ta chỉnh lý nhau,
Trong thập niên 70 người ta lừa đảo lẫn nhau,
Trong thập niên 80 người ta chỉ lo cho chính mình,
Trong thập niên 90 người ta lợi dụng bất kể ai mà họ gặp”.
6. Dùng quân đội để chiếm quyền lực, độc quyền hóa nền kinh tế và các tham vọng điên cuồng về chính trị và kinh tế
Tôn chỉ thành lập của
Đảng cộng sản là cướp chính quyền
bằng bạo lực và sau đó tạo ra một hệ
thống quốc doanh trong đó nhà nước nắm
giữ độc quyền nền kinh tế thiết
kế. Tham vọng điên cuồng của Đảng
cộng sản vượt xa các tà giáo thông thường
khác là họ chỉ có mục đích gom tiền.
Trong một quốc gia với chế
độ công hữu xã hội chủ nghĩa do
Đảng cộng sản thống trị, các tổ
chức của Đảng mà quyền lực rất
lớn (có nghĩa là các Đảng ủy và các chi bộ
Đảng ở mọi cấp) nắm quyền hoặc
sở hữu các cơ cấu thông thường của
quốc gia. Các tổ chức "phụ thể
Đảng" khống chế bộ máy quốc gia, và rút
tiền trực tiếp từ ngân sách chính phủ ở các
cấp khác nhau. Đảng cộng sản như một
con quỷ hút máu, không hiểu đã hút biết bao nhiêu
của cải xã hội của quốc gia.
II. Những nguy hại mà tà giáo Đảng Cộng Sản gây ra
Khi những sự việc như
giết người bằng khí độc hủy hoại
thần kinh 'sarin' của giáo phái Aum Shinri Kyo, tự sát
để lên thiên đường của giáo phái " Thái
Dương", hoặc vụ tự sát tập thể
của hơn 900 người theo giáo phái “Nhân dân” do Jim Jones
lập ra được nhắc đến, tất cả
mọi người run lên vì sợ và căm phẫn.
Nhưng Đảng cộng sản là một tà giáo với
tội ác rùng rợn hơn hàng ngàn lần, làm hại tính
mạng của không biết bao nhiêu người.
Điều này là bởi vì Đảng cộng sản có
những chỗ độc đáo sau đây mà một tà giáo
bình thường không có:
Tà giáo Đảng Cộng Sản được quốc giáo hóa
Trong một quốc gia bình
thường, nếu quý vị không tin theo một tôn giáo nào
đó thì quý vị vẫn có thể sống vui vẻ mà
không phải đọc sách hay nghe những lý luận
của tôn giáo đó. Tuy nhiên sinh sống ở Trung Hoa
Đại Lục, quý vị không thể không học
tập thường xuyên những giáo điều của tà
giáo Đảng cộng sản, không thể không nghe tà giáo
tuyên truyền, bởi vì chính quyền cướp
đoạt của Đảng cộng sản đã
biến tà giáo Cộng Sản thành quốc giáo rồi.
Đảng cộng sản nhồi nhét
những thuyết giáo chính trị của nó vào đầu
ngay từ khi bắt đầu mẫu giáo và trường
tiểu học. Người ta không được học
cao hơn hay được thăng chức mà không thi
đậu kỳ thi chính trị. Không một câu hỏi nào
trong kỳ thi chính trị cho phép học sinh được
suy nghĩ độc lập. Thí sinh ép buộc phải ghi
nhớ câu trả lời mẫu của Đảng
cộng sản thì mới có thể thi đậu. Những
người dân Trung Quốc đáng thương kia bị
bắt buộc phải nhắc lại những thuyết
giáo của Đảng cộng sản từ khi còn nhỏ,
phải tự tẩy não chính mình lần này tới lần
khác. Khi một cán bộ được thăng chức
trong chính quyền, bất kể người đó là
đảng viên Cộng sản Trung Quốc hay không, họ
bắt buộc phải theo học trường
Đảng. Người đó sẽ không được
thăng chức nếu không hội đủ điều
kiện tốt nghiệp của trường Đảng.
Ở Trung Quốc, nơi Đảng
cộng sản là quốc giáo, các đoàn thể khác ý
kiến không được dung tha. Ngay cả các
“đảng phái dân chủ” được dựng lên
bởi Đảng cộng sản để làm bình phong
chính trị, và giáo hội bị cải tạo “TamTự”
(có nghĩa là tự quản, tự lực và tự phát
triển) cũng phải chính thức tiếp nhận
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Trung thành với Đảng cộng sản là điều
kiện đầu tiên trước khi muốn theo bất
cứ tín ngưỡng nào, đây là lối suy nghĩ
của tà giáo Đảng cộng sản.
Khống chế xã hội một cách cực đoan
Cơ sở tà giáo này có thể trở
thành quốc giáo là vì Đảng cộng sản khống
chế nhân dân và cướp đi quyền tự do của
con người. Loại khống chế này là vô tiền
khoáng hậu, bởi vì Đảng cộng sản đã
cướp đoạt quyền tư hữu tài sản
của người dân, mà quyền tư hữu tài sản
là nền tảng của tự do. Trước thập niên
80, người dân thành thị chỉ có thể kiếm
sống bằng cách làm việc trong các doanh nghiệp
Đảng cộng sản khống chế. Nông dân ở
nông thôn phải sống dựa vào đất ruộng
thuộc công xã nông nghiệp của Đảng. Không ai có
thể thoát khỏi sự khống chế của
Đảng cộng sản. Trong một quốc gia theo
chủ nghĩa xã hội như Trung Quốc, các tổ
chức của Đảng cộng sản có mặt ở
khắp nơi – từ chính quyền trung ương cho
đến các đơn vị xã hội nhỏ nhất bao
gồm cả làng, xã và láng giềng. Thông qua các Đảng
uỷ, các chi bộ, các tổ chức của Đảng
ở mọi cấp, Đảng cộng sản khống
chế xã hội thật vững chắc. Kết quả
của sự khống chế nghiêm ngặt như vậy
đã hoàn toàn bóp nghẹt quyền tự do cá nhân – quyền
tự do đi lại (hệ thống đăng ký hộ
tịch), quyền tự do ngôn luận (500 ngàn người
thuộc cánh Hữu bị đàn áp bởi ĐCSTQ vì
họ thực thi quyền tự do ngôn luận), quyền
tự do tư tưởng (Lâm Chiêu[7] và Trương Chí
Tân[8] bị tử hình vì nghi ngờ ĐCSTQ) và quyền
tự do về thông tin (đọc sách cấm hoặc nghe
đài “địch” là bất hợp pháp; xem Internet cũng
bị theo dõi).
Người ta có thể nói rằng
hiện nay Đảng cộng sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) đã cho phép chế độ tư hữu
nhưng chúng ta không nên quên rằng chính sách cải cách khai
phóng này chỉ được đưa ra khi chủ
nghĩa xã hội đi đến mức mà người
dân đã không còn đủ ăn và nền kinh tế
của quốc gia đang bên bờ sụp đổ.
Đảng cộng sản phải lùi một bước
để tự cứu mình khỏi bị diệt vong. Tuy
nhiên, ngay cả sau khi cải cách và khai phóng, ĐCSTQ chưa
bao giờ nới lỏng việc khống chế người
dân. Cuộc đàn áp tàn khốc đối với các
học viên Pháp Luân Công đang diễn ra chỉ có thể
xảy ra ở một quốc gia bị thống trị
bởi Đảng cộng sản. Nếu như
ĐCSTQ thực sự
trở thành một thế lực kinh tế to lớn
như ý nguyện của nó, điều có thể chắc
chắn là sự khống chế nhân dân của Đảng
cộng sản chỉ có tăng gia càng ngày càng mạnh.
Tôn sùng bạo lực và coi thường mạng sống
Gần như tất cả các tà giáo
khống chế tín đồ hoặc chống lại áp
lực bên ngoài, đều dùng bạo lực. Tuy nhiên,
rất ít tà giáo đã từng sử dụng đến
những thủ đoạn bạo lực tới mức
độ như Đảng cộng sản đã từng
làm một cách không hối hận. Ngay cả tổng số
người chết vì tất cả các tà giáo khác trên
thế giới cũng không thể so sánh được
với số người bị tà giáo Đảng cộng
sản giết hại. Theo cái nhìn của tà giáo Đảng
cộng sản, thì con người chỉ là phương
tiện để thực hiện mục đích, và
giết người cũng chỉ là một thủ
đoạn. Do đó, Đảng cộng sản không
đắn đo ngần ngại gì trong việc đàn áp
người dân. Bất cứ người nào, kể
cả những người ủng hộ, đảng viên
và người lãnh đạo của Đảng
đều có thể trở thành đối tượng
của sự đàn áp.
Đảng cộng sản Trung
Quốc(ĐCSTQ) ủng hộ Khờ me Đỏ, một
trường hợp điển hình cho sự tàn bạo và
coi rẻ nhân mạng của tà giáo cộng sản. Trong vòng
3 năm 8 tháng cầm quyền, Đảng Cộng sản
Campuchia do Pol Pot cầm đầu, cảm hứng bởi
tư tưởng của Mao Trạch Đông, đã
giết chết 2 triệu người – khoảng một
phần tư dân số của quốc gia nhỏ bé này –
nhằm “tiêu diệt chế độ tư hữu”. Trong
tổng số người chết, hơn 200 ngàn
người thuộc gốc Hoa.
Để ghi lại những tội ác
của Đảng Cộng sản và tưởng niệm
các nạn nhân, Cam-pu-chia đã thành lập một viện
bảo tàng để ghi lại và trưng bày sự tàn
bạo của Khờ me Đỏ. Viện bảo tàng này
được đặt tại một nhà tù cũ
của Khờ me Đỏ. Đầu tiên đó là một
trường học do Pol Pot dùng làm Nhà tù S-21 để
đối phó đặc biệt với các tù nhân bất
khuất. Rất nhiều người trí thức đã
bị giam cầm ở đó và bị tra tấn
đến chết. Trưng bày dọc theo các bức
tường nhà tù và các loại dụng cụ tra tấn là
các bức ảnh đen trắng của những nạn
nhân trước khi họ bị giết chết. Có rất
nhiều cách tra tấn tàn khốc đã được ghi
lại như cắt cổ, khoan sọ, trẻ em bị
ném xuống đất và bị giết chết v.v…
Được biết là tất cả các lối tra
tấn này đều được các “chuyên gia và kỹ
thuật viên chuyên nghiệp” do ĐCSTQ gửi đến
để hỗ trợ Khờ me Đỏ truyền
dạy. ĐCSTQ ngay cả còn đào tạo những
người chụp hình để chuyên chụp hình các tù
nhân trước khi họ bị giết chết để
lưu lại làm tài liệu hoặc là để giải
trí.
Chính tại nhà tù S-21 này, một
chiếc máy khoan đầu người đã
được đặc chế để lấy óc
người làm thức ăn bổ dưỡng cho các
người lãnh đạo Đảng Cộng sản
Campuchia. Những tù nhân bất khuất bị trói vào
một chiếc ghế đặt trước máy khoan
đầu người. Nạn nhân sẽ phải chịu
nỗi sợ hãi cùng cực khi chiếc mũi khoan quay nhanh
chọc thủng đầu từ phía đằng sau và
lấy óc ra một cách mau lẹ và hiệu lực
trước khi nạn nhân chết.
III. Bản chất tà giáo của Đảng Cộng sản
Điều gì đã khiến cho
Đảng Cộng sản tàn bạo như vậy, và tà ác
như vậy? Khi âm hồn của Đảng Cộng
sản đến thế giới này, nó mang theo một
sứ mạng đáng sợ. Bản Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản phần cuối cùng có
một đoạn rất nổi tiếng là:
"
Người Cộng sản chẳng thèm che đậy quan
điểm và ý đồ của bọn họ. Họ công
khai tuyên bố rằng các mục đích của bọn
họ chỉ có thể đạt được bằng
cách dùng bạo lực để lật đổ toàn
bộ chế độ xã hội hiện tại. Hãy
để cho giai cấp thống trị run sợ vì cách
mạng của chủ nghĩa cộng sản. Trong cách
mạng này, những người vô sản không có gì
để mất ngoài xiềng xích của mình. Họ có
cả thế giới để chinh phục."
Sứ mạng của âm hồn này là
dùng bạo lực để công khai khiêu chiến xã hội
loài người, để đập nát thế giới
cũ, để “tiêu diệt chế độ tư
hữu”, “tiêu diệt cá tính, tính độc lập và tự
do của các nhà tư bản”, tiêu diệt sự bóc
lột, tiêu diệt gia đình, và để những
người vô sản thống trị thế giới.
Đảng phái chính trị này, mà công
khai tuyên bố ước muốn “đánh đập,
đập phá và cướp bóc”của nó, không những không
thừa nhận quan điểm tà ác của chính mình mà còn tự
tuyên cáo trong Bản Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản rằng “Cách mạng
của chủ nghĩa cộng sản là cùng phá tan sự thực
hành mối quan hệ truyền thống một cách
triệt để nhất; không ngạc nhiên rằng trong
tiến trình phát triển của chính nó phải cùng dứt
bỏ khỏi sự thực hành quan niệm truyền
thống một cách triệt để nhất.”
Các quan niệm truyền thống
của xã hội là từ đâu đến? Chiếu theo
luật tự nhiên của lý luận vô Thần mà nói, các
quan niệm truyền thống là điều tất nhiên
giữa qui luật tự nhiên với qui luật xã hội.
Chúng là kết quả của qui luật vận động
của vũ trụ. Tuy nhiên, chiếu theo quan điểm
hữu Thần mà nói, truyền thống và luân lý đạo
đức của nhân loại là do thần thánh truyền
cho con người. Bất kể là đến như
thế nào, luân lý đạo đức căn bản nhất
của con nqười, khuôn mẫu quy định hành vi, và
tiêu chuẩn Thiện Ác đều tương đối
có tính chất không biến đổi ; là nền tảng
cho cách cư xử của loài người và để duy
trì trật tự xã hội trong hàng ngàn năm qua. Nếu
nhân loại không có các khuôn mẫu quy định đạo
đức và chuẩn mực Thiện và Ác, thì chẳng
phải con người sẽ thoái hóa trở thành con
vật hay sao? Khi bản Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản tuyên bố
rằng nó sẽ “dứt bỏ tận gốc sự
thực hành các quan niệm truyền thống”, nó đã
đe dọa đến nền tảng của sự
tồn tại bình thường trong xã hội nhân loại,
Đảng cộng sản chủ định là một tà
giáo phá hoại nhân loại.
Toàn bộ văn kiện của
bản Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, mà đặt ra các nguyên
tắc chỉ đạo cho Đảng cộng sản,
tràn đầy những tuyên bố cực đoan, không
một chút nhân ái và khoan dung nào cả. Marx và Engels nghĩ
rằng họ đã tìm ra quy luật phát triển xã hội
thông qua chủ nghĩa duy vật. Do đó, với “chân lý”
trong tay, họ đặt câu hỏi cho tất cả và
phủ nhận tất cả. Họ khăng khăng áp
đặt ảo tưởng chủ nghĩa Cộng
sản lên con người và không ngần ngại chủ
trương dùng bạo lực để huỷ diệt
các cấu trúc xã hội và nền tảng văn hóa hiện
có. Bản Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản
có hiệu quả là tiêm nhiễm vào Đảng
Cộng sản mới sinh, một tà linh mà phản lại Trời Đất,
hủy diệt nhân tính, cuồng vọng tự cao tự
đại, cực kỳ ích kỷ và hoàn toàn hành
động theo dục vọng.
IV. Lý thuyết về ngày tận thế của Đảng Cộng Sản – Nỗi lo sợ về ngày "Đảng bị diệt mất"
Marx và Engels đã tiêm nhiễm một tà linh vào Đảng Cộng
sản. Lenin thành lập Đảng Cộng sản ở
Nga, và thông qua bạo lực của những kẻ vô
lại, ông ta đã lật đổ chính phủ chuyển
tiếp được thành lập sau Cách mạng tháng
Hai[9], rồi bóp chết cách mạng giai cấp tư
sản ở Nga, cướp đoạt chính quyền, và
chiếm được một chỗ đứng cho tà
giáo Cộng sản ở thế gới con người. Tuy
nhiên, sự thành công cách mạng của Lê-nin đã không giúp
được những người vô sản chinh phục
thế giới. Mà trái lại, như trong đoạn
đầu của bản Tuyên
ngôn của Đảng Cộng
sản nói, “Tất cả mọi quyền lực
của cựu Âu châu đã vào tay một liên minh thần
thánh để xua đuổi âm hồn này…” Sau khi sinh ra, Đảng Cộng
sản đã lập tức phải đối mặt
với nguy cơ về sự sinh tồn của nó và lo
sợ bị diệt trừ bất cứ lúc nào.
Sau Cách mạng tháng Mười[10], bọn Cộng sản Nga hay còn gọi là bọn Bôn-sê-vích, đã không đem lại hòa bình hay bánh mì cho người dân, mà chỉ có giết người bừa bãi. Tiền tuyến thì đang thua trận còn sự khó khăn của kinh tế hậu phương thì càng vì cuộc cách mạng mà trở nên tồi tệ thêm. Do đó, dân chúng bắt đầu nổi dậy. Nội chiến lan nhanh ra toàn bộ đất nước và nông dân từ chối cung cấp lương thực cho các thành phố. Bạo loạn xảy ra ở khắp nơi, khởi đầu giữa những người Cossacks ở gần sông Don; cuộc chiến của họ với Hồng quân đã gây ra đổ máu tàn khốc. Bản chất man rợ và tàn khốc của cuộc tàn sát xảy ra trong cuộc chiến này có thể được nhìn thấy qua các tác phẩm văn học như “Sông Đông êm đềm” của Sholokhov và các tuyển tập truyện Sông Don khác của ông. Đội quân do nguyên đô đốc của Bạch quân Aleksandr Vailiyevich Kolchak và tướng Anton Denikin cầm đầu có lúc gần như đã lật đổ Đảng Cộng sản Nga. Ngay cả khi còn là một chính quyền sơ sinh, Đảng Cộng sản đã kích động sự phản đối của hầu hết toàn bộ dân chúng, có thể bởi vì tà giáo cộng sản quá tà ác nên không thể đạt được lòng dân.
Cảnh ngộ của Đảng
Cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) cũng tương
tự như Đảng Cộng sản Nga. Từ “Sự
kiện Mari” và “Vụ thảm sát ngày 12 tháng Tư”[11], cho
đến việc bị trấn áp năm lần ở
những khu vực do cộng sản Trung Quốc kiểm
soát, và cuối cùng là việc bị bắt buộc phải
thực hiện một cuộc “trường chinh” dài 25 ngàn
cây số - ĐCSTQ đã luôn luôn phải đối mặt
với nguy cơ bị tiêu diệt.
Đảng Cộng sản
được thành lập với một quyết tâm phá
hủy thế giới cũ bằng tất cả mọi
thủ đoạn. Sau đó chính nó đã phải
đối mặt với một vấn đề hiện
thực: làm sao tiếp tục sinh tồn mà không bị tiêu diệt. Như
vậy Đảng Cộng sản phải sống trong
một hoàn cảnh luôn luôn lo sợ bị tiêu diệt. Sinh
tồn đã trở thành mối lo ngại hàng đầu,
luôn luôn ám ảnh tà giáo Đảng cộng sản.
Dưới tình huống mà Liên minh Cộng sản Quốc
tế toàn bộ tan rã, nguy cơ sống còn của
Đảng cộng sản Trung Quốc càng thêm nghiêm
trọng. Từ năm 1989, lý luận về kiếp
nạn "Đảng bị diệt vong" càng ngày càng
trở nên hiện thực .
V. Vũ khí bửu bối cho sự sống còn của Tà giáo Cộng sản – Đấu tranh tàn bạo
Đảng Cộng sản luôn luôn
nhấn mạnh kỷ luật sắt thép, trung thành
tuyệt đối và các nguyên tắc của tổ
chức. Đảng viên
của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
khi gia nhập Đảng bắt buộc phải tuyên
thệ:
“Tôi muốn gia
nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, ủng
hộ cương lĩnh của Đảng, tuân theo
điều lệ của Đảng, hoàn thành các nghĩa
vụ của đảng viên, thi hành các quyết
định của Đảng, nghiêm chỉnh tuân theo các
kỷ luật của Đảng, giữ gìn các bí mật
của Đảng, trung thành với Đảng, làm
việc chăm chỉ, cống hiến toàn bộ cuộc
đời mình cho chủ nghĩa Cộng sản, sẵn
sàng hy sinh tất cả cho Đảng và nhân dân, và không bao
giờ phản bội Đảng.”[12]
Đảng cộng sản gọi
loại tinh thần hiến thân này khi gia nhập giáo
phái là “Đảng tính”. Nó yêu
cầu một đảng viên cộng sản phải
sẵn sàng vứt bỏ tất cả niềm tin và nguyên
tắc cá nhân bất cứ lúc nào để tuyệt
đối phục tùng ý muốn của Đảng và ý
muốn của người lãnh đạo. Nếu
Đảng muốn quý vị làm người tốt thì quý
vị làm người tốt; nếu muốn làm chuyện
ác thì quý vị làm chuyện ác. Nếu không làm thì không
đạt tiêu chuẩn của đảng viên, và không
biểu hiện Đảng tính được mạnh
mẽ.
Mao Trạch Đông nói, “Triết
học của chủ nghĩa Marx là triết học
đấu tranh”. Để nuôi dưỡng và duy trì
Đảng tính, Đảng cộng sản Trung
Quốc(ĐCSTQ) dựa vào cơ chế đấu tranh có
tính cách chu kỳ bên trong Đảng. Thông qua việc phát
động liên tục các cuộc đấu tranh tàn
khốc ở trong và ngoài Đảng, một mặt
Đảng cộng sản tiêu diệt những
người không giống nó, tạo ra sự khủng
bố đầy màu đỏ, mặt khác Đảng liên
tục khai trừ đảng viên, làm cho các nội quy
luật lệ của tà giáo cộng sản chặt chẽ
hơn, và bồi dưỡng Đảng tính của
đảng viên, để tăng cường sức
lực chiến đấu cho các tổ chức
Đảng. Điều này trở thành một vũ khí
bửu bối mà Đảng cộng sản dùng để
bảo trì sự sống còn của nó.
Trong số các lãnh tụ của
ĐCSTQ, Mao Trạch Đông là người lão luyện
nhất trong việc dùng thứ vũ khí bửu bối này
cho các cuộc đấu tranh tàn bạo trong Đảng.
Thủ đoạn tàn bạo của cuộc đấu
tranh như thế và sự độc ác của các
phương thức nó dùng đã bắt đầu từ
những năm 1930 trong những khu vực do Cộng
sản Trung Quốc khống chế, gọi là “Khu vực Sô-viết”.
Năm 1930, Mao Trạch Đông khởi
xướng một cuộc khủng bố cách mạng toàn
diện trong Khu vực Sô viết ở tỉnh Giang Tây,
được biết đến như một cuộc
truy quét những người thuộc đoàn thể
chống Bôn-sê-vích (Anti-Bolshevik Corps, gọi là đoàn AB). Hàng
ngàn lính Hồng quân, Đảng viên và Đoàn viên và
thường dân ở trong những căn cứ Cộng
sản đã bị giết chết một cách dã man.
Sự kiện đó xảy ra là do sự khống chế
độc tài của Mao. Sau khi Mao thành lập Khu vực Sô
viết ở Giang Tây, không lâu sau đó ông ta đã bị
thách thức bởi các tổ chức Đảng và
Hồng quân địa phương ở khu vực tây nam
tỉnh Giang Tây do Lý Văn Lâm cầm đầu. Mao không
thể chấp nhận bất cứ một lực
lượng đối lập có tổ chúc nào ở ngay
trước mũi, nên ông ta đã dùng các thủ đoạn
cực đoan nhất để đàn áp các đồng
chí trong Đảng mà thuộc lực lượng
đối lập. Để tạo ra một bầu không
khí cứng rắn cho cuộc tiêu diệt, Mao không ngần
ngại khởi đầu đội quân dưới
quyền chỉ huy trực tiếp của ông ta. Từ
cuối tháng 11 cho đến giữa tháng 12, Hồng quân tiền
tuyến đã đi qua một cuộc "chỉnh
đốn quân đội nhanh chóng”. Các tổ chức chuyên
diệt trừ những người phản cách mạng
được thành lập tại mỗi một cấp
trong quân đội bao gồm sư đoàn, trung đoàn,
tiểu đoàn, đại đội, và trung đội,
bắt bớ và giết chết những đảng viên
xuất thân từ những gia đình địa chủ hay
phú nông và những người dám phàn nàn. Trong vòng chưa
đầy một tháng, trong số hơn 40 ngàn lính Hồng
quân, có 4400 người bị cho là các phần tử
của đoàn AB bao gồm cả hơn 10 đoàn
trưởng (đoàn trưởng của đoàn AB);
tất cả đã bị tử hình.
Trong thời kỳ tiếp theo, Mao
bắt đầu trừng phạt những người
khác ý kiến đó ở Khu vực Sô-viết. Vào tháng 12/1930, ông ta ra lệnh cho Lý
Thiều Cửu, Tổng bí thư của Tổng cục
Chính trị của Hồng quân tiền tuyến và Chủ
tịch của Ủy ban Thanh trừng đại diện
cho Tổng Ủy Biên giới và đi đến thị
trấn Phú Điền ở tỉnh Giang Tây nơi chính
quyền cộng sản đặt trụ sở. Lý
Thiều Cửu bắt giữ các thành viên của Ủy ban
Hành động tỉnh và 8 chỉ huy trưởng của
Hồng quân thuộc đoàn 20, bao gồm Đoàn
Lương Bật và Lý Bạch phương. Ông ta dùng
nhiều thủ đoạn tra tấn dã man như đánh
đập và đốt thân thể - những người
bị tra tấn như vậy có thương tích khắp
thân thể, các ngón tay bị rạn nứt, bị bỏng
toàn thân và không thể di chuyển. Theo các chứng cớ tài
liệu, thì lúc đó các nạn nhân gào khóc to như xé
trời; các thủ đoạn tra tấn tàn khốc
cực kỳ vô nhân đạo.
Ngày 8/12, các bà vợ của Bạch Phương,
Mã Minh và Chu Miện đến thăm các ông chồng bị
giam giữ, nhưng họ cũng bị bắt như các
thành viên của đoàn AB và bị tra tấn tàn bạo. Họ
bị đánh đập nghiêm trọng, thân thể và âm
hộ của họ bị đốt và phần vú bị
cắt bằng dao. Trong khi bị tra tấn dã man, Đoàn
Lương Bật đã thú nhận rằng Lý Văn Lâm,
Kim Vạn Bang, Lưu Địch, Chu Miện, Mã Minh và
những người khác là lãnh đạo của đoàn AB
và rằng có nhiều thành viên của đoàn AB trong các
trường học của Hồng quân.
Từ 7/12 cho đến tối 12/12,
chỉ trong 5 ngày, Lý Thiều Cửu và những
người khác đã bắt giữ hơn 120 người
bị cho là các thành viên của đoàn AB và hàng chục
người chủ chốt chống cách mạng trong
cuộc càn quét tận cùng đoàn AB ở Phú Điền;
hơn 40 người đã bị tử hình. Hành
động tàn bạo của Lý Thiều Cửu cuối cùng
đã kích động thành “Sự kiện Phú Điền”
[13] ngày 12/12/1930 làm kinh hoàng Khu vực Sô-viết.
Từ Khu vực Sô-viết cho
đến Diên An, Mao dựa vào học thuyết của ông
ta và thực hành đấu tranh , dần dần tìm kiếm
và thiết lập địa vị lãnh đạo
tuyệt đối của mình ở trong Đảng. Sau
khi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
đoạt được chính quyền năm 1949, Mao
tiếp tục dựa vào hình thức đấu tranh trong nội
bộ Đảng này. Ví dụ, trong cuộc họp hội
nghị toàn thể lần thứ 8 của Ủy ban Trung
ương Đảng cộng sản, tổ chức
ở Lư sơn năm 1959, Mao Trạch Đông bất
ngờ tấn công tướng Bành Đức Hoài và bãi
chức ông ta [14]. Tất cả các lãnh đạo trung
ương tham dự cuộc họp được yêu
cầu phải bày tỏ quan điểm của mình;
một vài người dám bày tỏ những quan
điểm khác biệt đều bị dán một nhãn
hiệu là thuộc nhóm 'Bành Đức Hoài chống
Đảng'. Trong Cách mạng Văn hóa, các cán bộ lâu
năm trong Ủy ban Trung ương ĐCSTQ lần
lượt bị trừng phạt, nhưng tất cả
họ đều nhượng bộ mà không tranh
đấu gì cả. Có ai dám nói một chữ chống
lại Mao Trạch Đông? Đảng cộng sản luôn
luôn nhấn mạnh trung thành với Đảng, nhấn
mạnh tính cách tổ chức và kỷ luật sắt
thép, nhấn mạnh phải
tuyệt đối phục tùng giáo chủ lãnh tụ .
Loại Đảng tính này đã được khắc sâu
vào đầu óc qua các cuộc đấu tranh chính trị
không ngừng nghỉ.
Lý Lập Tam, đã từng là một
lãnh tụ của Đảng cộng sản Trung Quốc
(ĐCSTQ),trong thời Cách mạng Văn hóa đã bị
dồn vào chân tường. Ở tuổi 68, ông bị hỏi
cung trung bình 7 lần một tháng. Vợ ông, Lý Sa bị coi
là một gián điệp của “nhóm Sô viết xét lại”,
cũng bị bỏ tù và bị mất tích. Không còn lựa
chọn nào khác, trong nỗi tuyệt vọng tột cùng ông
Lý đã tự tử bằng cách uống một
lượng lớn thuốc ngủ. Trước khi chết,
Lý Lập Tam viết một lá thư cho Mao Trạch
Đông, thật sự phản ảnh Đảng tính, có
nghĩa là một đảng viên cộng sản không dám
đầu hàng ngay cả khi gần kề cái chết:
Chủ tịch,
Tôi đang bước vào con đường phản bội Đảng bằng cách tự sát và không có cách nào để bào chữa cho tội lỗi của mình. Chỉ có một điều, rằng toàn thể gia đình tôi và tôi chưa bao giờ hợp tác với các quốc gia thù địch. Chỉ riêng về vấn đề này, tôi đề nghị chính quyền trung ương cho điều tra và nghiên cứu thực tế và kết luận dựa trên sự thực…
Lý Lập Tam
22/06/1967 [15]
Tôi đang bước vào con đường phản bội Đảng bằng cách tự sát và không có cách nào để bào chữa cho tội lỗi của mình. Chỉ có một điều, rằng toàn thể gia đình tôi và tôi chưa bao giờ hợp tác với các quốc gia thù địch. Chỉ riêng về vấn đề này, tôi đề nghị chính quyền trung ương cho điều tra và nghiên cứu thực tế và kết luận dựa trên sự thực…
Lý Lập Tam
22/06/1967 [15]
Trong khi triết lý đấu tranh
của Mao Trạch Đông cuối cùng đã kéo Trung
Quốc vào một đại tai kiếp chưa từng
có, loại vận
động chính trị "cứ 7 hay 8 năm một
lần" và cuộc đấu tranh trong Đảng
diễn ra tràn lan đã bảo đảm sự sống còn
của Đảng cộng sản. Mỗi lần có cuộc vận động,
một thiểu số 5% sẽ bị đàn áp, và đa
số còn lại 95% sẽ phải ngoan ngoãn thống
nhất theo đường lối của Đảng,
bởi đó tăng cường sức tập trung và
sức chiến đấu của tổ chức
Đảng. Những cuộc đấu tranh này cũng tiêu
diệt những phần tử “không kiên định” mà
không sẵn lòng từ bỏ lương tri của họ,
và tấn công bất cứ lực lượng nào dám
chống lại. Thông qua cơ chế đấu tranh
như vậy, những người có nhiều tinh thần
đấu tranh nhất và giỏi nhất trong việc
sử dụng các thủ đoạn lưu manh bên trong
Đảng cộng sản thì mới chiếm
được sự khống chế. Nói một cách khác,
các giáo chủ của tà giáo Đảng cộng sản
bảo đảm đều là những phần tử
không biết sợ, đầy kinh nghiệm đấu
tranh và đầy Đảng tính. Loại đấu tranh
tàn khốc này cũng đem lại cho những
người từng trải qua một “bài học bằng
xương máu”, và tẩy não bằng bạo lực.
Đồng thời, đấu tranh liên tục đem
đến sức sống cho Đảng cộng sản,
làm mạnh mẽ thêm tinh thần đấu tranh của
Đảng, bảo đảm Đảng không bị tiêu
diệt, và ngăn không cho Đảng trở thành một
tập thể ôn hòa mà buông bỏ đấu tranh.
Loại Đảng tính mà Đảng
cộng sản đòi hỏi chính là từ bản chất
tà giáo của Đảng cộng sản diễn biến mà
ra . Để thực hiện mục đích của chính
mình, Đảng cộng sản quyết tâm vứt bỏ
tất cả các nguyên tắc truyền thống, quyết
tâm sử dụng tất cả các thủ đoạn
để chiến đấu không do dự với bất
cứ lực lượng nào cản trở nó. Do đó, nó
cần phải đào tạo và nô lệ hóa các đảng
viên để họ trở thành công cụ vô tình vô nghĩa
vô tín ngưỡng của Đảng. Bản chất này
của Đảng cộng sản bắt nguồn từ
sự thù hận của nó đối với xã hội và
truyền thống loài người, từ cái ảo
tưởng tự hào của nó, và tính cực kỳ ích kỷ
và coi thường mạng sống người khác của
nó. Để đạt được cái gọi là lý
tưởng của chính mình, Đảng cộng sản
đã sử dụng bạo lực bằng mọi giá
để đập tan thế giới và tiêu diệt
tất cả những người khác ý kiến. Một tà
giáo độc ác như vậy sẽ phải đối
diện với sự phản đối của những
người có lương tri, nên nó phải tiêu diệt
lương tri và ý niệm thiện lành của mọi
người thì mới có thể làm cho người ta tin vào
tà thuyết của nó. Do đó, để bảo
đảm cho sự sống còn của nó, Đảng
cộng sản trước hết phải tiêu diệt
lương tri, ý niệm thiện lành và tiêu chuẩn
đạo đức của con người, biến
người ta thành công cụ và nô lệ thuần phục.
Theo lý luận của Đảng cộng sản, sinh
mạng của Đảng và lợi ích của Đảng
vượt lên trên tất cả mọi thứ khác; ngay
cả vượt lên trên lợi ích tập thể của tất
cả các đảng viên, do đó bất cứ
đảng viên nào cũng phải sẵn sàng hy sinh cho
Đảng.
Nhìn vào lịch sử của
Đảng cộng sản Trung Quốc, những
người vẫn còn giữ được lối
nghĩ của những nhà trí thức truyền thống như
Trần Độc Tú và Cù Thu bạch, hoặc những
người vẫn còn quan tâm đến quyền lợi
của nhân dân như Hồ Diệu Bang và Triệu Tử
Dương, hoặc những người kiên quyết làm
cán bộ trong sạch và thực sự phục vụ nhân
dân như Chu Dung Cơ – cho dù họ đã đóng góp cho
Đảng cộng sản nhiều như thế nào, và cho
dù họ không quan tâm đến tham vọng cá nhân như
thế nào, họ cũng không tránh khỏi bị khai
trừ, bị ném sang một bên, hoặc bị giới
hạn bởi lợi ích và kỷ luật của
Đảng.
Qua nhiều năm đấu tranh,
Đảng tính đã được bồi dưỡng
ăn sâu vào xương tủy của họ, làm cho họ
thường thường thỏa hiệp và đầu
hàng vào những giây phút nguy kịch, bởi vì trong tiềm
thức của họ, sự sống còn của
Đảng là lợi ích lớn nhất. Họ chẳng thà
hy sinh chính mình và nhìn lực lượng tà ác trong
Đảng giết người, họ cũng không dám vì
lương tri và ý niệm thiện lành mà ảnh
hưởng đến sự sống còn của
Đảng. Đây chính là kết quả cơ chế
đấu tranh của Đảng cộng sản: nó
biến người tốt thành công cụ để
sử dụng, và dùng Đảng tính để giới
hạn và ngay cả tiêu diệt lương tri con
người đến mức độ tối đa. Hàng
chục cuộc "đấu tranh đường
lối" của Đảng cộng sản Trung Quốc
đã đánh hạ hơn 10 lãnh tụ cao cấp nhất
của Đảng hoặc là những người
được chỉ định làm người kế
nhiệm; không một lãnh tụ cao nhất nào của
Đảng cộng sản có một kết cục tốt
đẹp. Mặc dù Mao Trạch Đông đã làm vua 43
năm, ngay sau khi ông ta chết, vợ và cháu trai của ông
ta đã bị bỏ tù, và điều này được
toàn bộ Đảng ăn mừng như là một
thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa
Mao. Đây có phải là trò hề chăng? Là hài kịch chăng?
Sau khi Đảng cộng sản
cướp đoạt chính quyền, các cuộc vận
động chính trị diễn ra liên tục, từ
đấu tranh trong Đảng đến đấu tranh
ngoài Đảng. Giống như dưới thời Mao
Trạch Đông, và giống hệt như trong thời
“cải cách và khai phóng” sau đó. Trong thập niên 80, khi
người dân vừa mới bắt đầu
được tự do suy nghĩ một chút thì
Đảng cộng sản khởi xướng một
chiến dịch “phản đối sự tự do hóa
của giai cấp tư sản”, và đề xuất
“Bốn nguyên tắc cơ bản”[16], bởi vì
Đảng cộng sản cần giữ quyền lãnh
đạo tuyệt đối. Năm 1989, những sinh viên
yêu cầu dân chủ một cách hòa bình đã bị đàn áp
đẫm máu bởi vì Đảng cộng sản không dung
tha các trào lưu tư tưởng về dân chủ.
Thập niên 90 chứng kiến một sự tăng nhanh
về số lượng các học viên Pháp Luân Công tin vào
Chân, Thiện, Nhẫn, và họ đã phải chịu
một cuộc bức hại có tính cách diệt tuyệt
bắt đầu năm 1999, bởi vì Đảng cộng
sản không thể chấp nhận nhân tính và ý niệm
thiện lành, mà nhất định dùng bạo lực
để hủy diệt lương tri trong tâm của
người ta thì mới có thể bảo đảm
quyền lực của chính nó. Từ khi bước vào
thế kỷ 21, Internet đã nối liền thế giới
với nhau nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc
đã tiêu một số tiền khổng lồ để
dựng nên những trạm kiểm soát trên mạng
điện toán để đánh bẫy những nhân sĩ
tự do trên mạng lưới, bởi vì Đảng
cộng sản rất sợ sự việc người
dân được tự do thông tin .
VI. Sự biến đổi thành ác của tà giáo Đảng Cộng Sản
Tà giáo Đảng cộng sản trên
bản chất là phủ nhận đạo lý của
Trời, và bóp chết nhân tính. Bản tính của
Đảng cộng sản là cuồng vọng, tự cao
tự đại, cực kỳ ích kỷ, và có các hành
động dã man, không còn kiêng nể gì nữa. Tuy rằng
trên thực tế, Đảng cộng sản không
ngừng phạm tội ác đem lại tai họa cho
quốc gia và dân chúng, nhưng nó vĩnh viễn không
thừa nhận những tội ác của chính mình, cũng
vĩnh viễn không dám để cho người dân nhìn
thấy rõ bản chất của chính nó . Mặt khác
Đảng cộng sản từ trước đến
nay cũng không ngần ngại thay đổi khẩu
hiệu và chiêu bài của nó, bởi vì theo Đảng
cộng sản nhìn thì tất cả những sự
việc này đều là thủ đoạn để duy
trì quyền lực; chỉ cần có lợi cho sự sinh
tồn của Đảng cộng sản, thì nó sẽ làm
bất cứ việc gì mà không màng đến nguyên tắc
đạo nghĩa, công lý và nhân mạng.
Một tà giáo mà chế độ hóa và
xã hội hóa như vậy, theo phương hướng
phát triển, thì chỉ có hướng đến sụp
đổ hoàn toàn. Bởi vì sự tập trung cao
độ về quyền lực, và vì các cơ chế có
thể giám sát và đốc thúc dư luận xã hội
đã bị bóp chết, nên không có bất cứ lực
lượng nào để ngăn chặn Đảng
cộng sản đi vào sa đọa và thối nát.
Đảng cộng sản Trung
Quốc(ĐCSTQ) ngày nay đã sa đọa đến
trở thành “Đảng tham ô" và "Đảng
thối nát” lớn nhất trên thế giới. Theo
thống kê chính thức ở Trung Quốc, trong số 20
triệu viên chức, hoặc cán bộ trong chính quyền
thuộc ĐCSTQ suốt 20 năm qua, có 8 triệu
người đã phạm tội tham nhũng, thối nát
và bị trừng phạt hoặc khai trừ theo kỷ
luật của Đảng hoặc luật pháp chính quyền.
Nếu những phần tử thối nát tham nhũng
chưa bị phát hiện cũng được tính
đến thì các quan viên thối nát trong chính quyền
của Đảng ước khoảng hơn 2 phần 3,
nhưng chỉ có một phần nhỏ trong số đó
đã bị điều tra và phanh phui.
Tham ô thối nát, vì mình mà tống
tiền kẻ khác, vơ vét chỗ tốt, loại vật
chất này chính là lực tập trung lớn nhất
của một đoàn thể mà Đảng cộng sản
Trung Quốc ngày nay ôm giữ. Bọn tham nhũng biết
rằng, không có Đảng cộng sản, thì không có cơ
hội cho bọn họ làm chuyện thối nát, và nếu
như Đảng cộng sản sụp đổ,
bọn họ không những chỉ mất quyền lực
và địa vị mà còn phải đối diện
với sự nguy hiểm bị điều tra. Trong
"Sự phẫn nộ của Trời", một
tiểu thuyết vạch trần những sự việc
đằng sau của các viên chức ĐCSTQ, tác giả
Trần Phương đã chỉ ra điều tối
mật của 'một Đảng' qua miệng của Hác
Tương Thọ, một phó giám đốc văn phòng
thành phố của ĐCSTQ rằng “tham nhũng thối nát
khiến cho chính quyền của chúng ta càng thêm ổn
định”.
Dân chúng
thấy rất rõ điều đó, “nếu chúng ta
chống tham nhũng thối nát, Đảng sẽ diệt
vong; nếu chúng ta không chống tham nhũng thối nát, thì
quốc gia sẽ diệt vong.” Tuy nhiên Đảng cộng
sản sẽ không liều lĩnh chống tham nhũng
thối nát để rồi phải đối diện
với nguy hiểm bị mất Đảng. Cái mà
Đảng sẽ làm, là giết một số cá nhân tham
nhũng làm vật hy sinh tượng trưng nhằm
bảo vệ hình ảnh của nó, điều này sẽ
kéo dài sự tồn tại của nó thêm vài năm nữa.
Tà giáo Đảng cộng sản cho đến hôm nay, tôn
chỉ duy nhất chính là bảo vệ quyền lực và
ngăn ngừa Đảng bị diệt vong.
Ở Trung Quốc ngày nay, đạo
đức luân lý đã bị phá hoại đến mức
cực kỳ nghiêm trọng thê thảm. Hàng hóa giả
mạo, mãi dâm, ma túy, thông đồng giữa các viên
chức và băng đảng, bọn băng đảng
hung hăng ngang ngược, cờ bạc, hối lộ,
tham nhũng thối nát đủ loại diễn ra tràn lan.
Đảng cộng sản đã phớt lờ những
bại hoại về mặt đạo đức như
thế, trong khi nhiều viên chức cao cấp cũng là
những tên trùm đằng sau đang moi móc tiền bảo
vệ cho những người dân yếu đuối. Sài
Thiếu Khánh, một chuyên gia nghiên cứu về xã hội
đen và các tổ chức tội phạm ở
trường Đại học Tổng hợp Nam Kinh,
ước tính rằng tổng số bọn tội
phạm băng đảng ở Trung Quốc là khoảng 1
triệu. Mỗi một tên tội phạm trong băng
đảng, khi bị bắt luôn luôn khai ra những
phần tử thối nát của Đảng cộng
sản ở đằng sau là các viên chức chính quyền,
quan tòa hoặc cảnh sát.
Đảng cộng sản Trung
Quốc(ĐCSTQ) sợ rằng người dân có
lương tri và ý niệm thiện lành, cho nên nó không dám
để cho dân chúng có tự do tín ngưỡng. Nó sử
dụng tất cả những nguồn lực của nó
để đàn áp những người tốt có tín ngưỡng,
như là những người bí mật theo Thiên Chúa Giáo mà
tin vào Chúa Giê-su và Thượng Đế và những học
viên Pháp Luân Công muốn trở nên Chân, Thiện và Nhẫn. ĐCSTQ
sợ rằng chính trị dân chủ sẽ kết liễu
chế độ chuyên chính một Đảng của nó nên
nó không dám để cho nhân dân có tự do chính trị. Nó hành động mau
lẹ và bắt giam những nhân sĩ có tư tưởng
độc lập tự do và những người hoạt
động đề cao nhân quyền. Tuy nhiên, nó cho
người dân Trung Quốc một loại tự do khác, là
chỉ cần người ta không quan tâm đến chính trị
và không phản đối sự lãnh đạo của
Đảng, thì họ có thể muốn làm gì thì làm,
thậm chí người ta có thể làm những điều
tà ác hoặc những sự việc tàn nhẫn, vô nhân
đạo. Kết quả là ĐCSTQ sa đọa rất
nhanh và đạo đức xã hội ở Trung Quốc
đang xuống dốc nhanh chóng ở mức báo
động.
“Bịt lấp đường lên thiên
đàng và mở cửa xuống địa ngục” là câu
mô tả rõ nhất việc tà giáo Đảng cộng
sản Trung Quốc đã phá hủy xã hội Trung Quốc
ngày nay như thế nào.
VII. Kiểm lại sự thống trị của tà giáo Đảng Cộng Sản
Đảng Cộng sản là gì?
Vấn đề nhìn có vẻ
đơn giản này lại không có cách trả lời
đơn giản. Dưới chiêu bài “vì công chúng” và dùng
danh nghĩa một đảng phái chính trị để
xuất hiện, Đảng Cộng sản trên thực
tế đã lừa dối hàng triệu người.
Hơn nữa Đảng cộng sản không phải là
một đảng phái chính trị theo ý nghĩa thông
thường, mà là một tà giáo hại người, và
bị phụ thể tà linh điều khiển.
Đảng Cộng sản là một sanh mạng sống:
tổ chức của Đảng, tức là biểu
tượng của tà giáo trên thế gian, là cơ thể
của sinh mạng đó. Trên căn bản, chủ tể
của Đảng Cộng sản chính là tà linh đó mà
đã nhập vào Đảng ngay từ đầu, và tà linh
đó quyết định bản chất tà giáo của
Đảng Cộng sản.
Bọn lãnh tụ của Đảng
Cộng sản, với thân phận giáo chủ của tà
giáo Cộng sản, chỉ là cái miệng lưỡi
của tà linh và của Đảng. Khi mục đích và ý
chí của bọn chúng nhất trí với Đảng và có
thể dùng cho Đảng, thì
bọn chúng sẽ được chọn là người
lãnh đạo. Nhưng khi bọn chúng không thể thỏa
mãn đòi hỏi của Đảng nữa thì bọn chúng
sẽ bị lật đổ một cách vô tình. Cơ chế
đấu tranh của Đảng bảo đảm
rằng chỉ những phần tử nào giảo hoạt,
dối trá nhất, tà ác nhất và hung hãn man rợ nhất
mới có thể trụ vững được ở
địa vị giáo chủ của Đảng Cộng
sản. Trong lịsh sử của Đảng cộng
sản Trung Quốc, khoảng hơn một chục lãnh
tụ Đảng bị hạ bệ đã chứng minh
cho vấn đề này. Lãnh đạo cao nhất của
Đảng, kỳ thực đang đi trên một sợi
dây thừng rất hạn hẹp. Họ có thể hoặc
là bứt ra khỏi giáo phái Đảng và để lại
tiếng tốt trong lịch sử như Gorbachev đã làm,
hoặc là trở thành nạn nhân của Đảng
giống như nhiều Tổng bí thư Đảng.
Quần chúng là đối tượng
bị biến thành nô lệ và đàn áp của Đảng
cộng sản. Bên trong phạm vi khống chế của
Đảng cộng sản, dân chúng không có quyền cự
tuyệt Đảng cộng sản. Thay vào đó, họ
bị cưỡng ép phải chấp nhận sự lãnh
đạo của Đảng và phải gánh vác việc duy
trì (sự cúng bái) nghĩa vụ của Đảng
cộng sản. Dân chúng, dưới sự đe dọa
cưỡng bức sắt máu của Đảng, phải
chấp nhận sự tẩy não thường xuyên theo hình
thức tà giáo. Đảng cộng sản ở tại
Trung Quốc cưỡng ép toàn dân phải tin vào tà giáo, cúng bái
tà giáo; điều này là hiếm thấy trên thế giới
ngày nay, thậm chí có thể nói rằng đây là kỹ
thuật vô địch của Đảng cộng sản
trong những áp bức như vậy.
Đảng viên được dùng
để lấp đầy cơ thể nhân quần
của Đảng cộng sản. Có những người
trong số đó là người trung thực và lương
thiện, thậm chí có thể là rất thành đạt
trong sự nghiệp của mình. Càng là những
người như thế thì Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) càng thích
chiêu dụ bởi vì thanh danh và năng lực của
họ đã bị lợi dụng để phục
vụ cho Đảng. Nhiều người khác, vì muốn
trở thành quan chức hoặc thụ hưởng lợi
ích riêng tư , sẽ cố gắng gia nhập Đảng
cộng sản và giúp đỡ sinh mạng tà ác đó.
Cũng có người vì muốn làm được
điều gì đó trong đời và nhận ra rằng,
dưới sự thống trị của Đảng
cộng sản, họ sẽ không có cơ hội phát
triển như vậy trừ khi họ gia nhập
Đảng. Một số người vào Đảng là vì
họ muốn được chia cho một chỗ ở
hay chỉ đơn giản là vì muốn có một hình
ảnh tốt hơn. Do đó, trong số hàng chục
triệu đảng viên có cả người tốt
lẫn người xấu. Nhưng cho dù gia nhập
Đảng với động cơ gì đi nữa,
một khi họ thề trung thành trước cờ
Đảng, tự nguyện hay không, thì nghĩa là họ
đã tự nguyện hiến thân cho Đảng. Sau đó
họ sẽ phải đi qua một quá trình tẩy não liên
tục bằng cách tham gia sinh hoạt của tổ
chức và học tập chính trị hàng tuần. Phần
lớn đảng viên có rất ít ý chí của chính mình,
nếu có, và bị mê hoặc bởi Đảng tính
"thống nhất tư tưởng" mà hoàn toàn
bị chủ tể tà linh điều khiển . Những
người như vậy sẽ hoạt động ở
trong Đảng giống như những tế bào của
cơ thể con người, và sẽ làm việc không
ngưng nghỉ vì sự tồn tại của
Đảng, mặc dù chính họ cũng là một phần
của quần chúng bị biến thành nô lệ bởi
Đảng cộng sản. Còn đáng buồn hơn là, sau
khi sự bó buộc của “Đảng tính”
được áp đặt trên đầu thì rất khó
vứt bỏ nó đi. Một khi người ta biểu
hiện phần "nhân tính" của mình, thì sẽ
bị loại trừ hoặc bị bức hại.
Người ta không thể tự ra khỏi Đảng,
ngay cả nếu họ muốn thế, bởi vì chính sách
'vào-được ra-không' của tà giáo Đảng
cộng sản sẽ coi họ như là kẻ phản
bội. Vì vậy người ta thường thấy hai
nhân cách trên thân đảng viên của Đảng cộng
sản Trung Quốc: một mặt là "Đảng
tính" trong trường hợp chính trị , còn mặt
kia là "nhân tính" trong sinh hoạt thường ngày.
Các cán bộ đảng là nhóm
người nắm quyền trong số những
đảng viên. Mặc dù họ có thể biểu hiện
giữa thiện và ác hoặc làm ra quyết định cá
nhân trong những hoàn cảnh riêng biệt, vào những
thời gian riêng biệt và những sự kiện riêng
biệt, toàn thể bọn họ phải đi theo ý chí
của Đảng, đó gọi là “toàn Đảng
phục tùng Ban chấp hành Trung ương”. Các cán bộ
Đảng, nhận lệnh từ bên trên và thi hành ở
dưới, là lực lượng trung kiên của
Đảng cộng sản, nhưng bọn họ cũng
chỉ là công cụ cho Đảng. Họ cũng bị
lừa đảo, lợi dụng và trở thành nạn
nhân trong các phong trào chính trị trước kia. Qui tắc
tiêu chuẩn đằng sau này là xem người ta có
một lòng đi theo giáo chủ hay không.
Tại sao người dân vẫn không giác ngộ?
Đảng cộng sản Trung
Quốc(ĐCSTQ) thống trị Trung Quốc trong suốt
hơn 50 năm, làm rất nhiều chuyện ác, tà ác không gì
sánh bằng. Nhưng tại sao toàn dân Trung Quốc thiếu
nhận thức thực tế về bản chất tà giáo
của Đảng cộng sản? Có phải vì
người Trung Quốc ngu ngốc chăng? Không phải. Người Trung
Quốc là một trong những dân tộc thông minh nhất
trên thế giới, mà lại có một nền văn hóa
truyền thống lâu dài 5000 năm. Nhưng người
Trung Quốc vẫn đang phải sống dưới
sự thống trị của Đảng cộng sản,
mà hoàn toàn không dám nói lên sự bất mãn. Nguyên nhân chủ
chốt là tư tưởng của người dân đã
chịu sự trói buộc của tà linh Đảng
cộng sản.
Nếu như người dân Trung
Quốc có được tự do ngôn luận và có thể
công khai thảo luận về giá trị và tội lỗi
của Đảng cộng sản, thì chúng ta cũng không
khó tưởng tượng rằng người Trung
Quốc từ lâu đã có thể thấy rõ được
bản chất tội ác của Đảng cộng
sản và giải phóng cho chính mình thoát khỏi tà giáo
Đảng cộng sản. Không may là, dưới sự
thống trị của Đảng cộng sản Trung
Quốc trong hơn nửa thế kỷ, nhân dân Trung Quốc
đã bị mất đi quyền tự do tư
tưởng và tự do ngôn luận. Mục đích
đằng sau việc đàn áp những người cánh
Hữu trong số những phần tử trí thức
năm 1957 là để kiềm chế quyền tự do
ngôn luận và để trói buộc tư tưởng
của người dân. Trong một xã hội mà không có
những quyền tự do căn bản như vậy,
đối với những thanh niên đã thành tâm nghiên
cứu các tác phẩm của Karl Marx và Engels trong suốt
thời kỳ Cách mạng Văn hóa, phần lớn họ
cũng bị dán cái mác trớ trêu là “tập đoàn
phản Đảng”, và sau đó bị đàn áp. Việc thảo
luận về đúng hay sai của Đảng cộng
sản lại càng không được đặt ra.
Không mấy người Trung Quốc
dám nghĩ đến việc gọi Đảng cộng
sản là tà giáo. Tuy nhiên, nhưng một khi theo lập
luận, những người đã từng sống ở
Trung Quốc sẽ thấy không khó khăn gì trong việc
tìm ra đầy đủ chứng cớ lý luận
để chứng minh cho nhận định đó, từ
cảnh ngộ của bản thân, của gia đình và
bạn bè.
Người dân Trung Quốc không
những chỉ bị tước đi quyền tự do
tư tưởng, mà họ còn bị rót vào đầu
đầy những văn hóa Đảng và tà thuyết
của Đảng cộng sản. Do đó, tất cả
những gì mà người dân có thể nghe thấy là
những lời ca tụng 'công đức' của
Đảng và đầu óc của họ đã bị nghèo
nàn đáng thương đến mức chỉ còn lại
những thứ của Đảng cộng sản. Hãy
lấy vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An
Môn làm ví dụ. Khi súng bắt đầu nổ hôm 4/6/1989,
nhiều người theo bản năng chạy trốn.
Một lúc sau, bất chấp rủi ro, họ dũng
cảm bước ra khỏi chỗ ẩn náu và cùng nhau hát
bài “Quốc tế ca”. Những người Trung Quốc này
thực sự dũng cảm, vô tội và đáng kính
trọng, nhưng tại sao họ lại hát bài “Quốc
tế ca” của Đảng cộng sản, khi phải
đối diện với sự tàn sát do Đảng
cộng sản gây ra? Nguyên nhân cũng rất đơn
giản: bị giáo dục trong văn hóa của
Đảng, tất cả những điều mà các
người đáng thương đó biết chỉ là chủ
nghĩa cộng sản. Những người ở trên
quảng trường Thiên An Môn lúc đó không biết
bất cứ một bài hát nào khác hơn là bài “Quốc
tế ca” và một số bài hát ca tụng Đảng
cộng sản.
Đâu là lối thoát?
Đảng cộng sản Trung
Quốc(ĐCSTQ) đang tiến đến một sụp
đổ hoàn toàn của nó. Đáng buồn là, trước
khi tà giáo này diệt vong, nó đang còn cố gắng trói
buộc số phận của nó với dân tộc Trung
Quốc.
Đảng cộng sản Trung
Quốc đang giãy chết, rõ ràng nó đang yếu dần;
sự kiềm chế tư tưởng của
người dân cũng bắt đầu càng ngày càng không
linh nghiệm nữa. Với sự phát triển của
viễn thông và Internet, ĐCSTQ thấy khó mà kiểm soát
thông tin và áp bức quyền tự do ngôn luận. Khi các viên
chức tham nhũng thối nát ngày càng cướp bóc và áp
bức nhân dân, dân chúng đã bắt đầu thức
tỉnh từ những ảo tưởng của mình
về ĐCSTQ, và nhiều người trong dân gian đã
bắt đầu con đường tranh đấu kháng
cự. ĐCSTQ không những đã thất bại trong các
cố gắng gia tăng sự kiềm chế tư
tưởng trong sự việc đàn áp Pháp Luân Công, mà trái
lại càng làm tiêu nhanh nguyên khí của ĐCSTQ, bộc
lộ rõ ràng sự tàn bạo của ĐCSTQ. Một hoàn
cảnh như vậy đã làm cho dân chúng suy xét lại
Đảng cộng sản, mở đường cho dân tộc
Trung Hoa tự giải phóng, trừ sạch sự kiềm
chế tư tưởng và hoàn toàn thoát khỏi sự
khống chế của tà linh Đảng cộng sản.
Sau khi đã sống dưới sự
thống trị của tà giáo Đảng cộng sản
Trung Quốc hơn 50 năm qua, người Trung Quốc
không cần 'Cách mạng bạo lực'; mà họ cần
cứu giúp đòi lại linh hồn của mình.
Điều này có thể đạt được bằng
cách tự cứu mình, và bước đầu tiên tiến
tới mục đích đó là việc phải nhận ra
bản chất tà giáo của Đảng cộng sản.
Ngày đó sẽ đến khi nhân dân
vứt ra từng tổ chức của Đảng
cộng sản mà đang gắn liền với hệ
thống hành chính quốc gia, để cho các hệ
thống xã hội hoạt động một cách
độc lập, và được trợ giúp bởi các
lực lượng nòng cốt của xã hội. Với
sự ra đi của các tổ chức độc tài
của Đảng, hiệu quả trong hoạt
động của các cơ quan chính quyền sẽ
được cải thiện và đề cao. Và ngày
đó đang đến gần. Thực ra, từ hồi
đầu thập niên 80, những người theo
đường lối cải cách ở trong Đảng
ủng hộ ý tưởng “tách Đảng ra khỏi chính
quyền”, trong một nỗ lực để loại
trừ Đảng cộng sản ra khỏi chính phủ.
Nhưng nếu không thể phủ nhận ý thức về
"sự lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng", thì các nỗ lực cải cách bên trong
thể hệ tà giáo này, sự thực đã chứng minh là
không đủ và cũng khó tiến hành.
Văn hóa Đảng là tổ chức
của tà giáo Đảng cộng sản mà cần thiết
cho hoàn cảnh tồn tại của nó. Trừ sạch
văn hóa Đảng và dấu vết của tà giáo
Đảng cộng sản trong tư tưởng, tức
là trừ sạch phụ thể Đảng trong trí óc, có
thể nhiều khó khăn hơn việc gỡ bỏ
sự khống chế của Đảng cộng sản
trong các cơ cấu hành chính quốc gia, nhưng đó là cách
duy nhất để thực sự trừ sạch tà giáo
Đảng cộng sản. Điều này chỉ có
thể đạt được bằng nỗ lực
của chính người dân Trung Quốc. Với tư
tưởng của họ được điều
chỉnh lại cho ngay chánh như ban đầu, nhân tính
của họ trở về với trạng thái chân
thật vốn có ban đầu, thì mới có thể
thực hiện sự xây dựng một xã hội
đạo đức và thành công trong việc chuyển
tiếp thành một xã hội lương thiện mà không có
Đảng cộng sản. Cách tốt nhất để
giải trừ phụ thể khống chế này là
việc nhận ra bản chất và sự độc
hại của tà linh đó, rồi quyết liệt quét
sạch nó ra khỏi trí óc, để cho phụ thể tà
linh đó không còn chỗ để trốn. Đảng
Cộng sản nhấn mạnh việc khống chế
"hình thái ý thức" bởi vì Đảng cộng
sản không gì khác hơn là một loại hình thái ý
thức. Khi tất cả nhân dân Trung Quốc, trong tâm linh,
phủ nhận các tà thuyết trong lý luận sai lệch
của Đảng cộng sản, chủ động
trừ sạch văn hóa Đảng, trừ sạch
mọi ảnh hưởng của tà giáo Đảng
cộng sản trong quan niệm và cuộc sống của
chính mình, thì hình thái ý thức của Đảng cộng
sản phải kề cận sự tan vỡ. Khi
người dân tự cứu mình, thì Đảng cộng
sản sẽ tan rã.
Các quốc gia dưới quyền
thống trị của Đảng cộng sản,
phần nhiều đi kèm với nghèo đói, độc
tài, và áp bức. Chỉ còn lại vài nước như
vậy bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên,
Việt nam, và Cuba. Những chế độ đó đang
sống những ngày còn lại cuối cùng.
Với trí tuệ của người
Trung Quốc, chiếu sáng trên lịch sử huy hoàng của
dân tộc Trung Hoa, một Trung Quốc được
giải thoát khỏi sự khống chế của phụ
thể tà linh Đảng cộng sản sẽ trở thành
một xã hội đầy hứa hẹn.
Lời kết
Đảng cộng sản không còn tin
vào chủ nghĩa cộng sản nữa. Linh hồn
của nó đã chết, nhưng cái bóng âm hồn của nó
vẫn còn. Đảng cộng sản Trung Quốc đã
kế thừa “bộ da” của Đảng cộng
sản, nhưng vẫn tràn đầy bản tính của
một tà giáo: cuồng vọng, tự cao tự
đại, cực kỳ ích kỷ, và hành động theo
dục vọng. Đảng cộng sản Trung Quốc,
ở trong cái tà giáo mà truyền nhau sự phủ nhận
đạo lý Trời và bóp chết nhân tính của
Đảng cộng sản, thì vẫn không hề thay
đổi.
Ngày nay, Đảng cộng sản Trung
Quốc tiếp tục thống trị Trung Quốc
với các thủ đoạn đấu tranh tích lũy
được qua nhiều năm của Đảng
cộng sản, sử dụng hệ thống tổ
chức chặt chẽ của chế độ, cộng
với hình thức thống trị “phụ thể
Đảng”, để tuyên truyền cho cái tà giáo mà
được quốc giáo hóa này. Sáu đặc trưng tà
giáo của Đảng Cộng sản được nêu ra
trên đây, đã đặt Đảng cộng sản
Trung Quốc ngày nay chặt chẽ trong định nghĩa
của một “tà giáo”: nó không làm gì tốt lành cả,
chỉ toàn làm những việc tà ác.
Khi tà giáo Đảng cộng sản
này, trên con đường cùng, càng gần với sự
diệt vong, thì lại gia tăng tốc độ thối
nát và sa đọa của nó. Một điểm đáng
sợ nhất chính là nó không cam chịu tà giáo bị
diệt vong, mà vẫn cố làm những gì mà nó có thể
làm, để đưa xã
hội Trung Quốc rơi cùng xuống một vực
thẳm của thối nát và sa đọa.
Người Trung Quốc cần
phải tự cứu chính mình, cần phải kiểm
điểm lại những gì đã qua, cần phải
thoát khỏi Đảng Cộng Sản.
Chú thích:
[1] “Con báo đã chết, vẫn còn
lưu lại bộ da” được trích từ một
quyển sách tiên tri cổ của Trung Quốc, bài thơ Hoa
Mai của Shao Yong (1011-1077). Con báo ở đây là để
nói đến lãnh thổ của Liên xô cũ trên thực
tế trông giống như hình một con báo đang
chạy. Với sự sụp đổ của Liên xô
cũ, cốt lõi của hệ thống cộng sản
đã tan rã, chỉ còn để lại “bộ da” (hình
thức) mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thừa
kế.
[2] Một lối hợp vũ rất
phổ thông trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hoá
để bày tỏ lòng trung thành với Mao và với
Đảng. Xin xem hình về màn vũ trêm mạng
lưới
hay
http://www.chinaphotocenter.com/pop-photo/2004-2/2004-2p40-4.jpg.
[3] Hiến pháp của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (bản dịch chính thức,
1999).
[4] Trích
từ “Báo cáo về việc điều tra phong trào nông dân
ở Hồ Nam” của Mao (1927).
[5] Trích từ một bài thơ của
Tư Mã Thiên ( khoảng 140-87 trước Tây Lịch),
một Sử Gia và là một Học Giả vào thời Tây
Hán. Bài thơ nổi tiếng của ông ta nói: “Mọi
người đều phải chết; có người xem
cái chết nhẹ như lông hồng hay nặng hơn núi
Thái Sơn.” Núi Thái Sơn là một trong những ngọn núi
chính ở Trung Quốc.
[6] Phong Trào Thu Hồi Đất liên quan
đến mặt đen tối của cải cách kinh
tế của Trung Quốc. Tương tự như
cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh (1760-1850),
đất nông nghiệp ở Trung Quốc ngày nay đã
bị phân bổ để xây dựng các khu vực kinh
tế khác nhau ở tất cả các cấp (huyện, thành
phố, tỉnh và quốc gia). Kết quả của thu
hồi đất là nông dân Trung Quốc đã bị
mất đất canh tác. Ở các thành phố, dân cư
ở các quận của thị trấn và thành phố
cổ thường xuyên bị bắt buộc di dời
để lấy đất cho việc phát triển các khu
thương mại với đền bù tối thiểu
cho dân cư. Muốn tin chi tiết hơn có tại:
http://www.uglychinese.org/enclosure.htm.
[7] Liz Zhao, một sinh viên theo học
về nghành báo chí, đã bị chụp mũ là
người thiên Hữu trong năm 1957 về sự suy
nghĩ độc lập và công khai chỉ trích đảng
cộng sản của cô. Cô
đã bị buộc tội âm mưu lật đổ
chế độ Cộng Hòa nhân dân độc tài và bị
giam giữ năm 1960. Vào
năm 1962, cô đã bị xử án 20 năm tù đày. Ngày 29 tháng 4 năm 1968, cô đã
bị ĐCSTQ tử hình về tội phản cách
mạng.
[8] Trương Chí Tân là một
người trí thức bị ĐCSTQ tra tấn
đến chết trong thời kỳ Cách Mạng Văn
Hóa vì cô chỉ trích Mao Trạch Đông đã thất
bại trong phong trào “- Đại Nhảy Vọt” và cô
đã nói thẳng sự thật.
Bọn canh tù đã lột quần áo cô nhiều
lần, còng tay cô sau lưng và quăng vào tù của nam
giới để cô bị hãm hiếp tập thể cho
đến khi cô trở nên điên loạn. Nhà giam đã cắt cổ cô
trước khi xử tử vì sợ cô la lên những
khẩu hiệu phản đối.
[9] Nói đến cách mạng tư
sản Nga tháng 2/1917 lật đổ ngai vàng của Sa
hoàng.
[10] Cách mạng tháng Mười, hay Cách
mạng Bôn-sê-vích do Lênin lãnh đạo xảy ra tháng 10/1917.
Cuộc cách mạng đã giết chết những
người cách mạng của giai cấp tư sản mà
đã lật đổ Sa hoàng, bởi đó đã bóp
chết cách mạng tư sản Nga.
[11] Cả hai “Sự kiện Mari” và
“Vụ thảm sát 12/4” nói đến các vụ tấn công
ĐCSTQ của Quốc Dân Đảng. “Sự kiện Mari”
xảy ra ngày 21/5/1927 ở thành phố Trường sa
của tỉnh Hồ Nam. “Vụ thảm sát 12/4” xảy ra
ngày 12/4/1927 ở Thượng Hải. Trong cả hai
trường hợp, một số đảng viên ĐCSTQ
và những người hoạt động ủng hộ
ĐCSTQ bị tấn công, bị bắt hoặc bị
giết chết.
[12] Xin xem Hiến Pháp của Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc, Chương Một, Điều Sáu.
[13] Lưu Địch, một chính
trị viên của Hồng quân thứ 20 bị buộc
tội là thành viên của “AB Đoàn”, lãnh đạo một
cuộc cuộc nổi dậy ở Phú Điền
buộc tội Lý Thiều Cửu là một người
phản cách mạng. Họ cướp quyền kiểm
soát thành phố Phú Điền và thả hơn 100
người bị bắt vì “AB Đoàn”, và hô khẩu
hiệu “Đả đảo Mao Trạch Đông”.
[14] Bành Đức Hoài (1898-1974): một
tướng và lãnh đạo chính trị cộng sản
Trung Quốc. Bành là Tư lệnh trưởng trong
chiến tranh Triều Tiên, Phó thủ tướng của
Hội đồng Quốc Gia, ủy viên Bộ chính
trị, và Bộ trưởng quốc phòng từ 1954-1959. Ông
ta bị sa thải khỏi các chức vụ của mình sau
khi bất đồng với cách tiếp cận kiểu
cánh Tả của Mao tại Hội nghị toàn thể
Lộc sơn của ĐCSTQ năm 1959.
[15] Từ “Lý Lập Tam: Người
được truy điệu bốn lần”.
[16] Bốn nguyên tắc là: con
đường xã hội chủ nghĩa, độc tài vô
sản, sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản, và chủ nghĩa Mác-xít – Lê-nin-nít và tư
tưởng Mao Trạch Đông.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ
DAJIYUAN
No comments:
Post a Comment