Sustainable Development —
internationally — and in the case of Vietnam
Dr. Mai Thanh
Truyet
In this article, Dr. Mai Thanh Truyet, who specializes in chemistry,
pointed out that the matter of development (for a project or national
plan) which is acceptable for the current generation, is not necessarily
acceptable to future generations. Not only is this view point
applicable to VN, but also it is applicable to many other countries,
during the 20th century, until the final decades of the century, before
humankind moved to the 3rd millennium. The reasons: pollution, global
warming (as a result of greenhouse effect), the thinner ozone layer
etc., all signaled that the earth is in danger for survival in the
future, should nations and the world fail to respond adequately to the
matter. The Kyoto Protocol was one that responded to the question of
pollution and global warming, internationally.
But that protocol expired at the end of 2012. No new protocol or
international agreement has been in effect since January 1, 2013.
According to the U.N., "On 1 January 2013, the world can go back to
emitting greenhouse gases with abandon. The pollution-reduction
commitments that nations made as part of the Kyoto Protocol will expire,
leaving the planet without any international climate regulation and
uncertain prospects for a future treaty. Nature explores the options for
limiting - and living with - global warming".
Before 1850, pollution to the environment was restricted to localities;
but in the late decades of the 20th century, pollution turned to the
global level. Impact of smoke of chemical plants in Yun Nan now can
reach Seattle, WA. Therefore, an international agreement is necessary to
resolve such matters as pollution, global warming (greenhouse effect),
atomic waste etc.
Innovation in the chemical industry is key to resolve the problems,
especially the green chemistry and energy-saving programs, not only in
the car industry, but also in all other activities, such as the home
energy star program or the use of less energy-consuming products (like
the use of fluorescent light to replace incandescent bulb...)
Conventional oil reserves will probably end in the next generation; but
oil shale and oil sand will prolong the use of oil in the car or plane
industry for many more generations (probably one hundred years!). So,
the greenhouse effect and global warming will still be existent, even at
a more serious degree than today! An international agreement to deal
with the matter is needed more than ever. Green chemistry and green
energy planning are key to all countries, including Vietnam, which is
now in a serious situation of pollution (like China).
Phát Triển Bền Vững hay Phát Triển Khả Chấp
TS Mai Thanh Truyết
Hi`nh 1 (xin xem attachment trang 45- KTTT 93
Danh từ “sustainability” hay “sustainable development” cho đến nay vẫn được báo chí và những nhà biên khảo Việt Nam dịch là “sự bền vững” hay “phát triển bền vững”. Danh từ trên đã được Ủy hội Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển (UN World Commission on Environment & Development) đem vào chương trình nghị sự vào năm 1983 qua báo cáo đúc kết vào năm 1987: “Tương lai Chung của Chúng Ta” (Our Common Future). Trong báo cáo trên, định nghĩa của sự phát triển bền vững là: “Sự phát triển bền vững là sự phát triển đạt được nhu cầu đòi hỏi của hiện tại, nhưng không thoả hiệp với nhu cầu của các thế hệ tương lai mà là để cho chính họ sẽ định đoạt”. Trong lúc đó, Hội Hoá học Hoa Kỳ (ACS) định nghĩa như sau: “Sự bền vững thể hiện một tiến trình qua đó, con người đạt được nhu cầu môi trường và y tế mà không kết ước liên quan đến sự tiến bộ và thành công của thế hệ tương lai”.
Từ hai định nghĩa trên, rõ ràng chúng ta thấy có một cái gì không ổn trong khi dùng từ bền vững trong ý nghĩa của LHQ và ACS. Trong tinh thần của hai định nghĩa trên, thiết nghĩ từ “khả chấp” có vẻ chính xác hơn. Khả chấp là hai từ ghép của “khả thi” và chấp nhận”. Như vậy, tính khả thi và tính chấp nhận trong điều kiện phát triển hiện tại, và không nói đến ảnh hưởng hay đề cập đến tương lai. Và từ nầy nói lên tính chính xác của sự phát triển thực sự vì không có một phát triển nào chứng minh được là “phát triển bền vững tuyệt đối” cả.
Thế nào là phát triển khả chấp?
Trong hầu hết mọi trao đổi, tranh luận, đa số đều đồng ý là con người có nhu cầu phải thay đổi “cung cách ứng xử” với trái đất hiện tại đứng trước hiện tượng hâm nóng toàn cầu. Và sự thay đổi phải như thế nào?
Các hiện tượng sau đây chứng minh cho lập luận báo hiệu cho sự hâm nóng toàn cầu đang tăng dần:
• Khoa học gia đã tìm thấy dấu vết của Carbon (than) trên những tảng băng cực lạnh trên vùng Bắc cực (Arctic), và kết luận rằng đây là vết tích do con người tạo dựng qua phát triển. Điều nầy đã được James Hanson, Giám đốc Cơ quan Quốc gia Hàng không & Không gian ở Goddard Space Flight Center điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ về hiện tượng hâm nóng toàn cầu vào năm 1988;
• Sau đó, Cựu Phó Tổng thống Mỹ Al Gore phát hành cuốn sách vào năm 1992 dưới tựa đề: “Cân bằng trái đất: Hệ sinh thái và Lương tâm con người”. Sau đó, cũng chính Al Gore được giải Nobel 2007 qua cuốn sách “Một sự thật bất tiện” (An inconvenient truth) qua các phân tích và lý giải nguy cơ của sự hâm nóng toàn cầu;
(Hi`nh 2: xin xem attachment trang 46- KTTT 93)
• Năm 2006, Chủ tịch của Dow Chemical Co., Andrew Liveris, trong buổi lễ nhận lãnh huy chương Perkin Medal về môi trường, làm say mê những người hiện diện qua chính sách năng lượng mới và sạch của công ty nầy và kêu gọi các công ty hoá chất khác cùng cùng nhau phát triển “khả chấp” bằng cách gia tăng ngân khoản nghiên cứu cho chương trình phát triển sạch trên.
Kỹ nghệ dầu lửa
Hiện tại, trung bình hàng ngày, thế giới tiêu thụ 87 triệu thùng dầu thô dùng cho đủ mọi nhu cầu năng lượng của gần 7 tỷ nhân khẩu. Do đó có thể nói con người tuỳ thuộc rất nhiều vào nhu cầu dầu lửa, điều mà con người không để ý đến trước khi khám phá ra nguyên liệu cho loại năng lượng nầy. Từ những năm 1850, nhu cầu tạo ra năng lượng cho con người là cây rừng và một số biomass từ súc vật chăn nuôi.
Nhưng từ khi kỹ nghệ phát triển đồng thời với mức gia tăng dân số, nhu cầu tiêu thụ càng tăng. Mức gia tăng càng nhanh khi con người khám phá ra than đá. Từ đó công nghệ hoá chất ngày càng được đẩy mạnh…và tình trạng ô nhiễm môi trường phát sinh.
Và kế hoạch hạn chế ô nhiễm bằng cách đề ra nhiều phương cách trong đó phát triển khả chấp được nêu lên nhằm mục đích hạn chế sự hâm nóng toàn cầu và hiệu ứng nhà kính.
Năng lượng hoá thạch (dầu khí, than đá) là một loại năng lượng có mức tồn trữ có giới hạn. Với mức độ tiêu dùng hiện tại, dầu thô có thể sẽ không còn nữa để khai trác trong vòng 30 năm nữa theo sự ước tính của nhiều nhà khoa học. Đứng trước vấn nạn trên, con người cố gắng phát triển các loại năng lượng ngoài năng lượng dầu khí, dầu thô trong đá (oil shale) và than đá cũng còn có thể cung cấp nhu cầu năng lượng cho thế giới khoảng 100 năm nữa sau giai đoạn của dầu khí….
Và cứ tiếp tục như thế, làm thế nào để giải quyết vấn nạn hâm nóng toàn cầu?
Thán khí hay khí carbonic sẽ tiếp tục phát thải vào môi trường ngày càng nhiều hơn. Liên hiệp Quốc qua Nghị quyết Kyoto và nghị quyết diễn ra vào tháng 12, 2009 để thay thế nghị quyết cũ sắp hết hạn vào năm 2012 có còn đủ tính thuyết phục để các quốc qia trên thế giới tuân thủ hay không? Đây chính là điều mà mỗi chúng ta cần suy nghĩ về con đường phát triển khả chấp.
Và, kể từ ngày 1/1/2013 cho đến nay, thế giới vẫn chưa tạo ra một đồng thuận nào cho việc hạn chế phóng thích mức thán khí vào môi trường cho mỗi quốc gia căn cứ theo Nghị định thư Kyoto năm 2009. (On 1 January 2013, the world can go back to emitting greenhouse gases with abandon. The pollution-reduction commitments that nations made as part of the Kyoto Protocol will expire, leaving the planet without any international climate regulation and uncertain prospects for a future treaty. Nature explores the options for limiting - and living with - global warming).
Trước năm 1850, mức di hại của con người vào môi trường có tính cách hạn chế, và địa phương. Còn bây giờ, với tất cả khả năng công nghệ hiện tại, mối nguy cơ trở thành toàn cầu chứ không còn nằm trong lãnh vực địa phương nữa. Một quốc gia hay một vùng nào đó trên quả địa cầu cố gắng phát triển theo tinh thần khả chấp cũng không thể giải quyết được vấn nạn ô nhiễm toàn cầu. Khói nhà máy hóa chất ở Vân Nam, Trung Cộng đã bay qua tận Seattle, Hoa Kỳ. Do đó, cần phải có một sự đồng thuận chung cho thế giới và cùng chia xẻ trách nhiệm trong việc giải quyết hạn chế sự hâm nóng toàn cầu.
Hướng giải quyết cho phát triển khả chấp
Các công ty hoá chất và hoá học gia: Có thể nói rằng hoá chất là kỹ nghệ cốt lỏi giúp chúng ta đạt được và vượt qua những thách thức của thay đổi khí hậu và việc cung cấp thực phẩm cho toàn thế giới.
Vấn nạn do chính con người mang đến cho môi trường rất nhiều, từ sự xuất hiện hoá chất DDT đến tai nạn Bhopal, từ các lổ hổng ngày càng lớn của tầng khí quyển ozone cho đến những bao plastic chứa thực phẩm. Chúng ta hình dung một thế giới không sử dụng nguyên liệu hoá thạch, các công ty sẽ nghiên cứu nhiều phương cách tạo ra năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, gió, thủy triều v.v…Nếu cần có nước sạch, công ty hoá chất sẽ sản xuất những màng gạn lọc hoá học và vật lý.
Trong chiều hướng suy nghĩ tương tự, chúng ta thấy nhà hoá học giữ một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường trong phát triển khả chấp. Và có thể nói rằng, con đường chính yếu để mang lại phẩm chất của đời sống chúng ta có được ngày hôm nay và tiếp tục phát triển khả chấp nếu các công ty hoá chất trên thế giới tìm được và cung ứng giải đáp cho công cuộc phát triển nầy.
Điều nầy đã được các công ty đang cố gắng thực hiện việc bảo vệ môi trường nghiêm chỉnh hơn bằng cách thực hiện việc phát triển “xanh” hơn so với trước đây. Đây mới chính là phát triển trong tính cách khả thi và chấp nhận được theo suy nghĩ phát triển mới ngày hôm nay.
Sự thay đổi mới (innovation), làm xanh và làm sạch trong phát triển của các công ty hoá chất là một dấu hiệu tốt có thể làm cho thế giới do con ngươiø hành xử có thể được chấp nhận hơn trong cuộc sống.
Nguyên lý cho Hoá học xanh:
Làm mới, làm xanh, làm sạch là những việc làm hết sức quan trọng của các công ty hoá chất và chuyên viên hoá học. Muốn được như thế, cần phải tuân thủ một số nguyên lý do những nhà hoá học xanh đề xướng nhằm giảm thiểu hay chấm dứt sự phát thải ô nhiễm dưới bất cứ hình thức nào theo quan niệm khả chấp.
• Phòng ngừa: Tốt hơn cả là phòng ngừa thải hồi chất phế thải hơn là tính toán phương cách thanh lọc sau đó;
• Phản ứng hoá học: Trong một quy trình sản xuất, làm thế nào để cho các hoá chất liên quan với nhau, hoàn toàn dự phần vào dây chuyền sản xuất để không phải phát ra phế thải;
• Phương pháp tổng hợp: Quy trình tổng hợp cần phải được tính toán kỹ lưỡng để cho tiến trình sản xuất không gây hại đến sức khoẻ người dân và có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường;
• Các hoá chất sản xuất cần giảm thiểu tối đa tính độc hại lên con người;
• Dung môi, hoá chất phụ (dung môi hữu cơ, chất xúc tác) dự phần vào quy trình sản xuất cần phải giảm thiểu tối đa và có khuynh hướng được tái sử dụng;
• Tính toán quy trình sản xuất để hạn chế tối đa năng lượng cần thiết cho quy trình sản xuất;
• Cần sử dụng năng lượng tái chế tối đa cùng nghiên cứu thêm năng lượng sạch cho tiêu dùng;
• Đối với các dịch vụ nghiên cứu, cần hạn chế sự phát thải phế thải, theo dõi và tính toán các quy trình pilot để đạt được điều kiện tối ưu;
Những gợi ý trên giúp cho những nhà nghiên cứu và tổng hợp hoá chất có thêm khái niệm nghiêm chỉnh về sự phát triển khả chấp trong tương lai. Một trong những tiến bộ gần đây nhất là sự hình thành hoá học nano, chính môn nầy là tiền để và đã tạo ra nhiều đại lộ thông suốt cho hoá học xanh.
Từ đó, có thể kết luận là nhà hoá học trong tương lai sẽ dự phần tối quan trọng trong những việc làm sáng tạo cho sự phát triển khả chấp dự phần vào mọi định chế kinh tế, xã hội, và môi trường của thế giới.
Cây gậy và củ cà rốt trong phát triển bền vững
Thông thường, chính phủ hay cơ quan chính quyền và từ “bền vững” không thể hiện cùng một “nhịp điệu”. Từ một địa phương nhỏ, đến thành phố lớn, cả một quốc gia, hay thậm chí đến Liên Hiệp Quốc, tất cả đều hoạch định chính sách làm thế nào để mang đến những yếu tố môi trường có thể ảnh hưởng lên người dân và kinh tế chung.
Các chính phủ luôn cố gắng tạo nên một thí dụ điển hình trong mọi hoạt động phát triển để từ đó làm một khung chung gợi ý cho cá nhân hay công ty hình dung ra sự phát triển khả chấp.
Nhưng trên thực tế, có một phát triển nào thuần tuý là một phát triển khả chấp hay không?
Nếu chúng ta lấy thí dụ việc sản xuất rượu (ethanol) từ bắp để có năng lượng thay thế nạn khan hiếm dầu khí trên thế giới. Nếu ngừng ở nơi đây, chúng ta có thể kết luận rằng, chính sách nầy là một phát triển khả chấp góp phần vào việc giải quyết sự hâm nóng toàn cầu. Nhưng chính sự phát triển nầy gây ra một vấn nạn khác là làm cho giá thực phẩm gia súc tăng lên, từ đó kéo theo nhiều hệ lụy làm cho đời sống kinh tế của người dân khó khăn hơn. Do đó, sự phát triển trên không thể được xem như là một phát triển khả chấp được, vì đường hướng giải quyết một vấn đề hình thành một vấn nạn khác cho người dân.
Vào ngày 18 tháng 11. 2013 vừa qua, Tổng thống Obama vừa ra một thông tư cho biết đã yêu cầu EPA duyệt xét lại việc xử dụng ethanol làm chất trợ oxy cho xăng chạy xe. Lý do ông đưa ra quyết định trên là vì kết quả trong 5 năm thử nghiệm, việc thêm ethanol vào xăng không làm thay đổi hiệu năng và hiệu quả kinh tế trong việc tiết giảm năng lượng trong việc nầy. Ông cũng đã đề nghị nghiên cứu thêm về việc du`ng biogas…
Rốt ráo lại, hiện tượng cây gậy và củ cà rốt rất tương đối trong mọi phát triển trong hiện tại và tương lai. Từ thí dụ điển hình trên, mọi hành động của chúng ta trong phát triển cần phải soi rọi đủ mọi khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, thậm chí đôi khi cần phải cân lường với nhiều yếu tố chính trị địa phương hay quốc tế nữa.
Kết luận
Hi`nh 3 (xin xem attachment trang 47- KTTT 93)
Hầu hết mọi người trong chúng ta đều đồng thuận về việc ứng dụng tất cả mọi phương tiện về năng lượng, về sản xuất để đạt được sự phát triển khả chấp cho thế giới ngày hôm nay. Đó là điều cần thiết. Tuy chúng ta, theo định nghĩa không “hứa” là phải bảo vệ môi trường thế giới sạch qua “phát triển bền vững” đối với thế hệ tương lai, nhưng dù muốn dù không chúng ta cũng phải có trách nhiệm trong việc phát triển khả chấp nầy.
Khả chấp trong hiện tại, nhưng phải khả chấp cho luôn cả tương lai.
Trong suốt thế kỷ 20, vì trữ lượng của các loại năng lượng hoá thạch (fossil fuel) được xem như là “vô tận”. Từ đó con người trở nên làm biếng và tự ru ngủ với chính mình qua việc tận dụng nguồn nguyên liệu của thiên nhiên. Do đó, khái niệm phát triển khả chấp chưa thành hình, những công nghệ sạch không được lưu ý và nghiên cứu. Nơi đây thể hiện một thái độ “không khả chấp” trong phát triển của con người ở thế kỷ 20.
Mãi đến gần cuối thế kỷ, quan niệm nầy mới được các khoa học gia, kinh tế gia, nhà môi trường, xã hội học…lưu ý.
Có thể nói, tình trạng ô nhiễm môi trường toàn cầu, sự hâm nóng trái đất, ảnh hưởng nhà kính trên trái đất đã đến hồi báo động, con người mới bắt đầu chuyển hoá theo hướng phát triển khả chấp. Nhưng chậm còn hơn không! Đây là một tín hiệu cho thấy con người ngày hôm nay nhận lãnh lấy trách nhiệm của mình để cố gắng gầy dựng lại một môi trường “xanh” cho thế hệ mai sau.
Tiến trình chuyển hoá nầy là một tiến trình tự nguyện và dai dẳng cũng như không giản dị hay chỉ kéo dài một thời gian. Nhưng đó là một tiến trình liên tục để bước vào tương lai.
Môi trường là một ẩn số, nhưng là một ẩn số chúng ta có thể kiểm sóat và giải đáp được; do đó, chúng ta phải hiểu và hoạch định chương trình hành động thế nào cho phù hợp với tiến trình toàn cầu hoá và phát triển khả chấp.
Phát triển khả chấp không phải một điểm đến, mà chính là con đường vô tận chúng ta phải đi, và tất cả chúng ta phải cùng hoà chung một nhịp điệu và cùng tiến bước. Có được suy nghĩ như thế, chúng ta mới hy vọng kéo dài sự sống của Trái Đất chúng ta đang cư ngụ.
Chúng ta, những người con Việt cần phải động não nhiều thêm nữa để vạch ra một đường hướng tương lai cho Việt Nam trong điều kiện “khả chấp” thực sự có thể áp dụng vào tình trạng thực tế của Đất và Nước.
Bài đọc thêm:
Phòng Ngừa Ô Nhiễm:
Chiến Lược Tối Ưu Cho Phát Triển Toàn Cầu
Welcome to a greener, cleaner future. . .
Hinh 4 (xin xem attachment trang 48- KTTT 93)
Trong vòng một thập niên trở lại đây, ở các quốc gia hậu kỹ nghệ, phong trào Hóa học Xanh (Green Chemistry) đã được các nhà khoa học đưa lên hàng đầu trong việc giải quyết ô nhiễm và bảo vệ môi trường. Mục tiêu nầy do Hội Đồng LHQ về Môi sinh và Phát triển đề ra qua Nghị trình 21 là: Tạo dựng tăng trưởng kỹ nghệ, Cân bằng môi sinh, và Tiến bộ xã hội. Đây là ba nguyên tắc căn bản để có thể xây dựng được một sự phát triển bền vững cho toàn cầu. Một trong những biện pháp để tiến tới mục tiêu trên là làm thế nào để phòng ngừa ô nhiễm. Từ suy nghĩ nầy, phong trào hóa học xanh ngày càng phát triển mạnh và được xem như là một biện pháp hữu hiệu nhất hiện tại để giải quyết các vấn nạn môi trường.
Hàng năm có rất nhiều Hội nghị ở cấp quốc gia và quốc tế về vấn đề trên qua những chương trình kỹ thuật nhất là ở các đại hôi của Hội Hóa học Hoa Kỳ (American Chemical Society – ACS). Nhiều tạp chí khoa học khác đều có những ấn bản đặc biệt liên quan đến Hóa học Xanh như tạp chí Nghiên cứu Khoa học và Hạch toán Hóa học (Scientific Research & Accounts of Chemical). Riêng tại Anh Quốc, Hội Hoá học Hoàng gia đã phát hànhtạp chí Hóa học Xanh từ mười năm qua.
Một số viện đại học trên thế giới cũng đã thành lập phân khoa riêng cho môn Hóa học Xanh nầy. Viện Hóa học Xanh thuộc Hội Hóa học Hoa Kỳ đã đóng góp rất nhiều khóa huấn luyện cho sinh viên và các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới. Và công nghệ Hóa học Xanh đã ra đời cũng như đã được xem như là một công nghệ chiến lược cho phát triển bền vững toàn cầu.
Hiện tại, trên thế giới đã có nhiều Viện hay Trung tâm nghiên cứu đã được thành hình ở Anh Quốc, Ý, Nhật Bổn, Hoa Kỳ, và Úc Châu. Có thể nói hầu hết các nhà hóa học trên thế giới đều được biết qua thông tin về Hóa học Xanh ngày nay.
Hóa học Xanh hay Hóa học Bền vững
Hóa học Xanh còn được gọi là Hóa học Bền vững đã được Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (US EPA) đề xướng lần đầu tiên với mục đích để phòng ngừa ô nhiễm nhằm truy tìm những biện pháp giải quyết, sáng kiến kỹ thuật tối ưu hơn là đặt trọng tâm vào việc quản lý và xử lý các chất thải rắn, lỏng, và khí từ kỹ nghệ.
Trên 12 nguyên tắc căn bản để thực hiện công nghệ hóa học bền vững, công nghệ sinh học và siêu vi (nano) là hai công nghệ được áp dụng nhiều nhất trong các quy trình sản xuất và chế biến hóa chất. Điểm đặc sắc của hai công nghệ nầy là làm cho môi trường rất ít hay không bị ô nhiễm.
Vấn đề cấp bách được đặt ra là làm thế nào để cho tất cả các quốc gia trên thế giới được cập nhật thông tin và áp dụng những công nghê mới khám phá sau nầy. Nếu không, cuộc cách mạng xanh chỉ có thể xảy ra ở những quốc gia hậu kỹ nghệ và vấn nạn ô nhiểm toàn cầu vẫn chưa được giải quyết đúng đắn.
Hinh 5- xin xem attachment trang 49- KTTT 93
Corn cup- Biodegradable in 1 to 5 years
Trong kỳ Hội nghị Thượng đỉnh LHQ về Phát triển Bền vững tại Johannesburg năm 2002, GS Jurgen Metzger thuộc đại học Oldenburg (Đức) có nêu lên những tiến bộ của thế giới trong việc ứng dụng Nghị trình 21 vào chính quốc như việc sử dụng hóa chất an toàn cũng như lưu tâm nhiều đến sức khỏe của con người và môi trường. Đây chính là một đóng góp lớn của các công ty sản xuất hóa chất trên thế giới. Công ty Dow Chemical (Hoa Kỳ) là một công ty sản xuất hóa chất lớn nhất thế giới đã giảm được sự thải hồi thán khí (CO2) trong các quy trình sản xuất từ 28,1 triệu tấn năm 1994 xuống còn 26,1 triệu tấn năm 2002.
Hinh 6: xin xem attachment trang 49- KTTT 93
Market traders are not allowed to use plastic bags
(Kế hoạch khuyến khích không dùng bao plastic ở Ấn Độ)
Sau cùng GS Metzger đã đề nghị Viễn kiến 2020 (Vision 2020) với một mục tiêu rõ ràng là giảm thiểu 30% năng lượng so với năm 2002 trong các công nghệ sản xuất hóa chất toàn cầu. Và Ông cũng đã tiên liệu sẽ có 25% hóa chất hữu cơ sẽ được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu tái sinh.
Tuy nhiên, Ông cũng đưa ra một nghi vấn là sẽ rất khó để cho toàn thế giới áp dụng các kỷ năng mới nầy cũng như “sự ù lì” của một số đại công ty vẫn còn muốn đi theo lề lối cũ trong kỹ nghệ như sử dụng nguồn hóa dầu để sản xuất ra sản phẩm hóa học khác hơn là áp dụng nguồn nguyên liệu tái sinh.
Chất dẽo tổng hợp từ thực vật
Một trong những việc làm đáng ca ngợi của công ty Cargill Dow thuộc nhóm Nature Works là đã thành công trong việc sản xuất chất dẽo (plastic) từ trái bắp. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng xanh lớn nhất vào đầu thế kỷ 21 nầy. Polylactic acid hay PLA là một loại chất dẽo thực vật có được từ việc tổng hợp đường dextrose trong trái bắp. Phát minh nầy đã được giải thưởng Presidential Green Chemistry Challenge năm 2002. Loại plastic “bắp” nầy có thể áp dụng trong các kỹ nghệ như quần áo, khăn, thảm, bao bì cho thực phẩm và nhiều ứng dụng khác trong nông nghiệp. Cũng theo Cargill Dow thì việc sản xuất chất dẽo trong điều kiện trên sẽ giảm thiểu được 20 đến 50% năng lượng sử dụng so với việc sản xuất theo quy trình chất dẽo hiện tại.
Hinh 7: xin xem attachment trang 49- KTTT
Khay plastic làm từ bột bắp ở Hoa Kỳ
Công ty nầy hiện ở Blair, Nebraska đã bắt đầu sản xuất 140.000 tấn /năm từ năm 2002 và dự kiến tăng lên trên 1.000.000 tấn vào năm 2014.
EPA Hoa Kỳ đã tổng kết tất cả các thành quả của Hóa học xanh tại nước nầy từ năm 1996 đến 2002, là trung bình hàng năm, Hoa Kỳ đã:
• Loại bỏ 800.000 tấn hóa chất trong đó có Chlorofluorocarbon (CFC)(Chất làm vỡ từng ozone của bầu khí quyển), hợp chất hữu cơ nhẹ, độc hại và không bị sinh thoái hóa;
• Giảm 650 triệu gallon dung môi hữu cơ;
• Giảm 138 tỷ gallon nước dùng trong việc sản xuất các kỹ nghệ dệt, phim ảnh, chất bán dẫn;
• Giảm được 90.000 tỷ đơn vị năng lượng tiêu thụ Btu và 430.000 tấn thán khí (CO2) thải hồi vào không khí;
• Giải quyết được 19 triệu tấn phế thải độc hại đã được xử lý hay tái sinh.
Cản ngại trong việc chuyển đổi quy trình sạch
Đứng trên căn bản lợi nhuận, việc chuyển đổi các quy trình cổ điển qua quy trình sạch thích hợp với tiến trình toàn cầu hóa là một việc không dễ dàng. Vì thế, tích cách “bảo thủ trong sản xuất” là một trong những cản ngại căn bản cho việc chuyển đổi nầy.
Lấy một thí dụ trong kỹ nghệ dược phẩm. Theo ước tính, nếu một công ty trong kỹ nghệ nầy đã nghiên cứu thành công dây chuyền sản xuất sạch, thì trong giai đoạn chuyển tiếp, công ty có thể bị gián đoạn hay giảm 50% sản xuất; từ đó việc thất thoát mức lợi nhuận sẽ phải là những con số đáng kể mà khó có công ty nào chấp nhận hy sinh được.
Do đó, để giảm bớt tính bảo thủ trên, các công ty, ngoài việc nghiên cứu quy trình sạch cần phải thực hiện song hành với việc nghiên cứu tài chính và thị trường trong công cuộc chuyển đổi nấy.
Những điểm “tối” trong hóa học xanh
Chuyển hóa hóa học hiện tại qua hóa học xanh là một cuộc cách mạng toàn diện, do đó những nhà hóa học và kỹ sư hiện đang gặp phải nhiều khó khăn trong công cuộc chuyển đổi nầy. Lý do là hầu như không có một quy trình dự kiến nào để làm căn bản cho nghiên cứu cả, mà chỉ dựa vào tính sáng tạo cá nhân của những người làm khoa học.
Trên lý thuyết, kinh tế nguyên tử (atom economy) là một nguyên tắc căn bản để thực hiện hóa học xanh đã được GS Burry Trost, đại học Stanford gợi ý vào năm 1991. Dựa theo quan niệm trên, phương pháp tổng hợp nguyên tử sẽ được áp dụng triệt để để hoàn thành sản phẩm sau cùng. Từ đó có thể kiểm soát được lượng “nguyên tử nguyên liệu” và “nguyên tử sản xuất”. Theo nguyên tắc nầy, thì trong quá trình sản xuất sản phẩm sẽ không có phụ phẩm (by-product). Thí dụ như trong quá trình cổ điển, việc sản xuất thuốc diệt cỏ 2,4,5-T đã sinh sản ra một phụ phẩm nổi tiếng là TCDD hay Dioxin.
Vấn đề mấu chốt của việc tổng hợp trên là làm thế nào đo lường “nguyên tử nguyên liệu” cho công cuộc tổng hợp. Và đây cũng là điểm đen trong cuộc cách mạng xanh nầy.
Kết luận
Mặc dù vẫn còn nhiều trở ngại trong việc chuyển đổi các quy trình sản xuất hóa chất cổ điển ra quy trình sạch, điều không thể chối cải là hóa học xanh hiện nay vẫn là một biện pháp phòng ngừa ô nhiễm hữu hiệu nhất. Tuy nhiên, nhận thức trên vẫn còn nhiều nghi vấn khó mang đến sự đồng thuận của nhiều nhà khoa học trên thế giới.
Các câu hỏi được đặt ra trong hiện tại là:
• Liệu các nguyên liệu đến từ việc chuyển hóa sinh học, hay tái sinh có thể hoàn toàn thay thế được nguyên liệu dầu hỏa hay không?
• Thán khí và các nguồn khí thải khác có thể được thu hồi và chuyển đổi thành hóa chất khác hay không?
• Liệu khinh khí (hydrogen) sẽ là một nguồn năng lượng chính trong tương lai?
• Liệu các hóa chất sử dụng trong nông nghiệp và dược phẩm sẽ là những
hóa chất có thể dễ bị sinh thoái hóa (bio-degradable) và không còn ảnh
hưởng lên môi trường?
Nhiều nhà môi sinh bi quan đã nghi ngờ sự thành công của khái niệm về
hóa học xanh và từ đó quy kết là sự phát triển bền vững đúng nghĩa không
thể nào thực hiện được và chỉ là mộng tưởng mà thôi.
Ngược lại, những người lạc quan tin tưởng rằng tiến trình phát triển bền
vững là một hướng đi, chứ không phải là mục tiêu để đến đích.
Và Hóa học Xanh là một cẩm nang căn bản đưa đến việc làm sạch và bảo vệ môi trường.
Nghĩ được như thế, Hóa Học Xanh sẽ là ngón tay chỉ hướng Niết Bàn của
Đức Phật Thích Ca trong công cuộc phát triển bền vững toàn cầu. Mai Thanh Truyết
No comments:
Post a Comment