Wednesday, June 9, 2010
Viên Linh
– Làm báo văn nghệ ở miền Nam trước tháng Tư 1975
Viên Linh: Liên hệ giữa báo chí văn nghệ và chính quyền tôi thấy rất tốt
đẹp. Chính quyền không hề có biện pháp đặc biệt nào đối với báo văn
nghệ, còn báo chí loại khác như nhật báo thì có thể khác.
Viên Linh – Làm báo văn nghệ ở miền Nam trước tháng Tư 1975
Posted on 22.08.2009 by litviet
Phan Nhiên Hạo phỏng vấn
http://litviet.com/2009/08/22/vien-linh-bao-van-ngh%E1%BB%87-mi%E1%BB%81n-nam-tr%C6%B0%E1%BB%9Bc-1975/
Viên Linh là một tên tuổi lớn của văn chương miền Nam trước 1975. Ông
đã in cả chục tác phẩm truyện, thơ. Nhưng Viên Linh cũng là một người
làm báo kỳ cựu, có lẽ kỳ cựu nhất trong giới nhà văn từ trước đến nay.
Ông theo đuổi nghề báo đã hơn năm mươi năm, từ trong nước ra đến hải
ngoại, làm chủ bút nhiều tờ báo văn chương quan trọng, có được sự cộng
tác của hầu hết các cây bút nổi tiếng trong văn giới miền Nam.
Trong bài phỏng vấn dưới đây, nhà thơ Viên Linh hồi tưởng lại công việc với một số tờ báo ông đã làm qua, giúp người đọc hôm nay có một ý niệm về sinh hoạt báo chí và văn chương Sài Gòn trước 1975.
Phan Nhiên Hạo: Anh là người làm nhiều báo văn nghệ ở Sài Gòn
trước 1975, xin anh cho biết một số thông tin về các tờ báo anh từng làm
thư ký toà soạn hoặc chủ trương? Tôi nghĩ điều này có thể có ích cho
những người nghiên cứu lịch sử văn chương miền Nam sau này.
Viên Linh: Tờ báo tôi làm thư ký tòa soạn đầu tiên là tờ Màn Ảnh,
và ngay sau đó vài tháng chuyển qua làm tờ Kịch Ảnh (1961-1967). Bốn
năm sau tôi làm thư ký tòa soạn Tuần báo Nghệ Thuật (1966-1968, chủ
nhiệm chủ bút Mai Thảo, trong khi vẫn giữ việc làm bên Kịch Ảnh; mấy năm
sau nữa thì được mời làm thư ký tòa soạn tuần báo Khởi Hành (1969-1973,
cơ quan ngôn luận của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội). Có một thời gian ngắn
tôi được mời làm chủ bút tuần báo Diễn Đàn của Liên Minh Á Châu Chống
Cộng, trong khi vẫn làm bên Khởi Hành. Nói chung không bao giờ tôi chỉ
làm một tờ báo, trừ khi tôi ra báo riêng của mình, là tờ bán nguyệt san
Thời Tập (1973-1975) lúc tôi đã trên ba mươi tuổi, và có nhà in riêng ở
đường Nguyễn Trãi.
Tạp chí Thời Tập
Về tuần báo Màn Ảnh và Kịch Ảnh (1960-1967). Trước khi vào làm thường
trực cho hai tuần báo chuyên về nghệ thuật trình diễn này (ca nhạc, xi
nê, kịch nghệ), tôi sống trong môi trường nhật báo, nên lúc bước vào làm
một tờ tuần báo tôi quan tâm tới sự khác biệt phải có. Màn Ảnh hay Kịch
Ảnh là báo xi-nê, giải trí, bài vở cần tươi vui, trình bày phải tân
tiến, bởi báo xi-nê có nghĩa rằng người đọc là giới trẻ, học sinh sinh
viên; thẩm mỹ quan của họ là thẩm mỹ quan ảnh hưởng Tây phương. Biết như
thế, tôi tự nghiên cứu cách trình bày một tờ tạp chí cho thích hợp qua
các tờ tuần báo ngoại quốc tôi được biết lúc đó, như Ciné Monde, Ciné
Revue, L’Express chẳng hạn.
Tuần báo Nghệ Thuật . Nghệ Thuật xuất hiện rất tưng bừng: trong thập
niên 60, đó là tờ tạp chí văn học nghệ thuật duy nhất của miền Nam ra
hàng tuần, bìa in offset nhiều màu. Cho tới lúc đó miền Nam chỉ có các
bán nguyệt san, hai tuần mới ra một lần: Bách Khoa, Văn, Tân Văn, Văn
Học. Năm làm thư ký tòa soạn Nghệ Thuật (1966) tôi chưa đến ba mươi,
chưa lập gia đình, và còn làm bên tờ Kịch Ảnh, cũng ra hàng tuần, nhưng
như cái tên, chuyên về nghệ thuật trình diễn, mạnh nhất về tân nhạc, và
xi-nê, cũng có kịch nói và cải lương. Tờ Kịch Ảnh chỉ có ba người làm
biên tập thường trực, ông chủ nhiệm kiêm chủ bút Quốc Phong, ông tổng
thư ký Mai Thảo, và tôi. Ngoài việc viết bài, kể chuyện phim, phỏng vấn
ca sĩ, tôi còn kiêm trình bày offset tờ báo, vì đã có vài năm kinh
nghiệm qua tờ Kịch Ảnh. Trình bày bằng phim, bài vở hình ảnh chụp ra
phim, trình bày bằng negatives trên bàn kính (light table), kể cả bài
viết cũng chụp ra phim, sau đó thợ in đốt ra bản kẽm. Như thế là tân kỳ
nhất Việt Nam thời đó. Khi Mai Thảo và nhóm các anh Vũ Khắc Khoan, Thanh
Nam, Pham Đình Chương, Anh Ngọc được ông thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ tài
trợ cho khoảng một triệu bạc thì tôi được mời làm thư ký tòa soạn Nghệ
Thuật, vì các anh muốn có một tờ báo vừa văn học nghệ thuật, lại vừa in
offset nhiều màu.
Khởi Hành. Tới tháng 5 năm 1969 tôi được Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội mời
làm thư ký tòa soạn tờ báo của hội, có hơn 700 hội viên. Chủ nhiệm kiêm
chủ bút là đại tá Trần Văn Trọng, chủ tịch hội. Ông chính là nhạc sĩ Anh
Việt, tác giả bản nhạc bất hủ Bến Cũ. Chúng tôi đã biến Khởi Hành thành
tuần báo văn học nghệ thuật cho tất cả mọi người, quân nhân hay không.
Và nó đã trở thành báo bán, như một tờ báo dân sự, của tư nhân, bán cho
độc giả từ Đông Hà tới Cà Mâu, in từ năm tới bảy ngàn số, có lúc lên đến
mười ngàn (có ghi rõ số lượng phát hành trên Khởi Hành số 13) mỗi kỳ.
Khởi Hành sống tới số 156.
Thời Tập. Vài tháng sau, trong năm 1973 tôi ra tờ báo riêng của mình,
bán nguyệt san Thời Tập, và số chót phát hành ngày 15.4.1975, hai tuần
trước khi cộng sản hoàn toàn kiểm soát Việt Nam. Số báo chót này năm vừa
qua được anh em trong nhóm Thư Ấn Quán in lại ở Hoa Kỳ (có hình bìa gửi
kèm đây).
Phan Nhiên Hạo: Khởi Hành là tờ báo gắn bó lâu dài với anh, ra
hải ngoại anh cũng tục bản tờ báo này, và duy trì nó cho đến nay. Xin
anh cho biết anh bắt đầu làm tờ Khởi Hành như thế nào? Có những ai cộng
tác với tờ báo này lúc đó?
Viên Linh: Khi làm tờ Khởi Hành tôi đã đặt nền tảng cho chính
mình về việc làm một tạp chí văn chương, và sau tờ đó, tôi làm tờ Thời
Tập cũng theo cách đó. Đó là hai tờ báo gắn liền với tôi. Một cách vắn
tắt, nếu chỉ kể hai mươi người đã cộng tác, đã viết thường xuyên cho hai
tờ đó, tôi xin kể: Bình Nguyên Lộc, Cung Trầm Tưởng, CHÓE, Dương Nghiễm
Mậu, Đỗ Khánh Hoan, Huỳnh Phan Anh, Lê Xuyên, Lê Huy Oanh, Mai Thảo,
Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Sơn Nam,
Tam Ích, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Tuệ Sỹ, Võ Phiến, Vũ Bằng, Văn
Quang, …
Nguyễn Mạnh Côn (1920 - 1979)
Năm 1966 trong khi đang làm thư ký tòa soạn nhật báo Tiền Tuyến của Tổng
Cục Chiến Tranh Chính Trị, tờ nhật báo duy nhất của quân đội, tôi được
Đại tá Trần Văn Trọng liên lạc, mời về làm báo cho Hội Văn Nghệ Sĩ Quân
Đội. Lúc ấy tôi mới biết tờ Khởi Hành từng hiện diện, nhưng ra được tám
số thì đình bản, và chỉ lưu hành trong giới nhà binh. Anh em trong Hội
Văn Nghệ Sĩ Quân Đội từng biết tôi qua tờ Tuần báo Nghệ Thuật
(1966-1968), nên mới có quyết định mời tôi về để phục hồi tờ Khởi Hành,
với chủ trương mới: báo phải bán ngoài thị trường.
Nhật báo Tiền Tuyến
Vì không phải là nhân viên cơ hữu của Cục Quân Cụ mà Đại tá chủ nhiệm
Trần Văn Trọng là Cục trưởng, nên tôi vào làm tờ Khởi Hành với tư cách
người ngoài được mời, có hợp đồng riêng, theo đó tôi có toàn quyền về
việc mời người cộng tác, chọn đăng bài, và toàn quyền trong việc trả
nhuận bút cho các tác giả cộng tác. Tức là điều hành tờ báo một cách
chuyên nghiệp, như một tờ báo dân sự, cạnh tranh với các báo khác ngoài
thương trường. Tôi biết rõ sinh hoạt báo chí của Sài Gòn từ 1955 khi
bước chân vào làng báo: các tác giả tên tuổi thường chỉ viết bài, trao
bài sau khi đã nhận tiền nhuận bút, (nói đúng ra, anh em thường tiêu hết
tiền nhuận bút rồi mới nghĩ đến chuyện viết bài trả nợ; vì thế mới có
danh từ “nộp bài”). Và nơi gặp nhau làm việc không phải là bàn giấy tòa
báo, mà là trong quán xá hay trong các cuộc hội thảo văn học.
Mới đầu thực ra là tôi từ chối, vì rất không thích không khí quan cách.
(Tôi tưởng như thế khi còn là một thiếu niên, nên chưa bao giờ nghĩ đến
chuyện đi làm công chức chẳng hạn.) Chính nhà văn Nguyễn Mạnh Côn khuyến
khích tôi nhận lời mời làm Khởi Hành. Trong ba bốn năm ở trung học, học
cùng lớp với cháu ruột của anh Côn, tác giả Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử,
nên được gặp anh luôn. Anh nói: Trong giới văn nghệ bây giờ đầy hủi, cậu
nên nhận lời mời làm tờ Khởi Hành, vấn đề là phải có toàn quyền quyết
định, nếu cậu có quyền thành lập bộ biên tập một tờ báo, khi tham khảo,
chọn người, tôi tin là cậu sẽ biết ai là hủi, ai không hủi. Khi mình
biết nó là hủi, mình dẹp nó đi, như thế văn nghệ sẽ bớt hủi đi. Cho nên
nói cách khác, cậu phải chơi với hủi. Không chơi với hủi thì hủi sẽ tràn
lan; chơi với hủi mới dẹp được hủi, không chơi với hủi là lầm. Những
lời ấy là kim chỉ đường cho tôi trong nhiều chục năm sau.
Tờ Khởi Hành trước 1975 sống đến số 156, qui tụ các nhà văn tên tuổi
nhất Miền Nam mà tôi biết được: viết truyện dài có những nhà văn vừa kể ở
trên; viết trang-mục có Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Ký giả Lô Răng, Tú
Kếu, Võ Phiến; viết truyện ngắn và đăng thơ, hình như không thiếu một
ai, từ Nguyễn Thị Hoàng đến Túy Hồng, từ Lý Hoàng Phong đến Phạm Công
Thiện, từ Hoàng Trúc Ly đến Phạm Thiên Thư, từ Nguyễn Đức Sơn đến Thảo
Trường, viết phê bình có Lê Huy Oanh, Nguyễn Nhật Duật, Huỳnh Phan Anh,
Cao Huy Khanh, về tham luận văn triết sử giáo dục và văn hóa có Tam Ích,
Nguyễn Hiến Lê, Thạch Trung Giả, Nguyễn Sỹ Tế, vẽ có Tạ Tỵ, Nguyễn
Trung, CHÓE, dịch thuật có Mặc Đỗ, Trần Trọng San, Nguyễn Hữu Hiệu.
Bình Nguyên Lộc
Phan Nhiên Hạo: Bây giờ như anh biết, báo văn chương hải ngoại và
internet không có nhuận bút, người chủ báo cũng phải làm việc không
công. Tôi nghĩ đây là điểm đáng buồn. Nhưng hình như vấn đề nhuận bút
của các nhà văn cộng tác với báo chí ở miền Nam thời trước rất khá?
Viên Linh: Khi bắt đầu làm Khởi Hành, tôi trình bày với Đại tá
chủ tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội: Không ai có thể làm một tờ báo thành
công nếu làm với một bộ biên tập có sẵn. Vì thế, ngay trong phiên họp
của ban chấp hành hội, tôi được cam kết là có toàn quyền về biên tập.
Tôi cũng đưa ra ý kiến là tôi cần lựa chọn nhà in thích hợp, và sẽ quyết
định việc trả nhuận bút cho các tác giả cộng tác theo mức độ tên tuổi
và tài năng của họ, trong khuôn khổ tài chánh mà Hội đã đồng ý. Tôi đưa
ra ví dụ: người ta không thể trả nhuận bút cho học trò của nhà văn Vũ
Khắc Khoan ngang hàng với nhà văn Vũ Khắc Khoan, chẳng hạn tôi, từng là
học trò giáo sư Vũ Khắc Khoan hồi học ở Chu Văn An, Hà Nội. Làm sao cứ
đúng ngày thứ Năm quí vị có báo thì thôi. Tất cả đồng ý. Do đó trong
những năm làm Khởi Hành, trong số hai mươi ngàn đồng nhuận bút dành cho
một số báo, kể cả lương tôi, tôi sử dụng theo tiêu chuẩn trên. Điều này
đã khiến nhà văn Thanh Tâm Tuyền được trả 1.500 đồng một bài và những
người khác từ Cung Tích Biền (nhà văn viết hay nhưng mới xuất hiện) tới
Trùng Dương, Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo (bốn nhà văn sau viết
thường xuyên cho Khởi Hành) được trả theo giá từ 700, 1000, và tới 1.500
một bài. Bốn người viết truyện dài cho Khởi Hành, lần lượt Thanh Tâm
Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Trùng Dương, Cung Tích Biền, mỗi kỳ một trang,
được trả theo tiêu chuẩn 1.500, 1.000 và 700. Tôi trực tiếp xin bài và
đưa nhuận bút tận tay các tác giả mà không qua quản lý.
Viên Linh (bên trái) và Mai Thảo (bên phải), 1982
Việc trả nhuận bút tùy tác giả còn vì lý do khác, chẳng hạn Thanh Tâm
Tuyền viết rất khó khăn, nếu không thúc giục và trả giá cao, ông không
viết được. Ông Tuyền là người cố viết ngắn trong khi nhiều nhà văn cố
viết dài, cà kê dê ngỗng. Còn những người khác có khi có sẵn hai ba cái
truyện ngắn chẳng hạn, thì chỉ cần trả giá vừa phải, có khi trả rẻ nữa,
cũng vẫn có bài như thường. Chuyện trả nhuận bút chênh lệch cũng đôi lần
gây ra kỳ kèo, nhưng không có gì đáng phiền hà, vì trong khi xây một
ngôi nhà, có chỗ thì lát gạch Lái Thiêu, có chỗ thì lát cẩm thạch Ý, có
chỗ để một tí cỏ mọc tự do, hay một khối đá sần sùi, đó là quan điểm của
kiến trúc sư; ông chủ nhà và người trong nhà hài lòng thì thôi. Tôi
biết rõ những người kỳ kèo, vì chủ nhiệm Trần Văn Trọng đều cho tôi biết
họ là ai. Ông là vị chủ nhiệm chủ bút tư cách nhất mà tôi được cộng
tác. Vì thế khi tục bản tờ Khởi Hành ở Hải ngoại năm 1996, tôi tự ý đề
tên ông ra bìa là chủ nhiệm sáng lập trong khi ông không hề dính gì tới
tờ Khởi Hành ở Hải ngoại.
Thanh Tâm Tuyền
Nhà văn miền Nam như tôi biết viết nhiều thứ cho báo chí, nhiều loại.
Nếu chỉ viết cho một tờ báo thì chỉ lãnh được 20.000 đồng một truyện cho
một tháng. Thường phải viết thêm nhiều thứ khác như kể truyện cổ tích
(Hoàng Trúc Ly), nghiên cứu khoa học, “giải đáp tâm tình” (Bà Tùng
Long), bình luận từ tướng số tới tâm linh, từ giai thoại thi cử tới tình
sử của các giai nhân, danh sĩ, v.v. Một kỳ viết hàng ngày (không kể
truyện dài) thường là 200, một truyện ngắn thường là 500 hay 700 đồng.
Một số nhà văn viết truyện từng kỳ vượt hẳn lên, viết ba báo một ngày,
tức là ba truyện một ngày, thì lãnh được 60.000 một tháng. Có bốn năm
người viết năm truyện một ngày, như Lê Xuyên, Văn Quang, Ngọc Linh, Sĩ
Trung, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long. Những người này kiếm xấp xỉ một trăm
ngàn một tháng. Bà Tùng Long, Bình Nguyên Lộc hay Sơn Nam, Thanh Nam,
Nhã Ca, Túy Hồng thì thường viết hai truyện cộng thêm một hai mục gì đó,
và viết cho báo tuần, báo tháng cũng nhiều.
Nguyễn Thụy Long
Phan Nhiên Hạo: Ngoài báo chuyên về văn chương, hình như anh cũng làm một vài tờ báo tin tức, giải trí khác?
Viên Linh: Tôi từng làm thư ký tòa soạn các nhật báo Dân Ta (chủ
nhiệm Nguyễn Vỹ), Dân Tiến, Đất Tổ (Thượng tọa Thiện Minh chủ trương),
chủ bút tuần báo Hồng. Như đã nói, tôi làm hai ba tờ báo một lúc, vì sau
khi nhận lời làm thư ký tòa soạn một tờ báo, tôi tổ chức một bộ biên
tập riêng, giao việc cho anh em, mỗi người một hay hai mục, nên việc
chính của tôi là điều hành, nên thêm gì bỏ gì, khi nào phải thay đổi, vì
thế mà làm được nhiều báo, trừ tờ Thời Tập của tôi, từ 1973 tôi không
làm báo cho ai nữa.
Phan Nhiên Hạo: Anh thấy vai trò của báo chí trong văn chương miền Nam như thế nào?
Viên Linh: Đây là một câu hỏi rất quan trọng. Tại nhiều nước Âu
Mỹ, ngành xuất bản sách ảnh hưởng lớn tới sinh hoạt văn chương, trong
khi tại miền Nam, chính các tạp chí mới đóng vai trò thúc đẩy, mạnh hơn
sách, hơn nhà trường, trong sinh hoạt văn chương.
Nhiều nhà văn tôi biết viết feuilleton (truyện dài viết từng kỳ trên
nhật báo và tuần báo), sau đó mới xuất bản thành sách. Báo chí Âu Mỹ
không đăng truyện trên báo ngày hay báo tuần. Có lẽ cũng vì thế mà nhà
văn Âu Mỹ có cơ hội viết kỹ, viết xong từ đầu tới cuối truyện, đọc và
sửa lại xong xuôi, rồi mới đi tìm người xuất bản cái truyện đó thành
sách. Ở miền Nam thì không, ngày nào chúng tôi cũng viết. Viết năm sáu
tháng xong một cuốn truyện, mỗi ngày viết một đoạn. Nhưng có người mỗi
ngày viết năm truyện dài cho năm tờ báo khác nhau. Năm 1969 tôi có năm
cuốn tiểu thuyết được xuất bản, tức là năm trước đó và năm đó, có thời
gian tôi viết bốn hay năm truyện một ngày. Cũng không khó khăn gì vì
thật ra, tôi chỉ sáng tác một hoặc hai truyện, ba truyện còn lại là
phóng tác và đọc vào máy thu băng, khi mang đến tòa soạn thì đưa cô thư
ký, cô nghe băng đánh máy ra và đem trao cho các báo. Thời kỳ viết năm
truyện một ngày, tôi đã phóng tác các truyện rất hay của Georges
Simenon, như Vòng Dây Treo Cổ (Tante Jane), Những Kẻ Đồng Lõa (Les
Complices), Cuộc Chạy Trốn của Ông Hoàn Vũ (La Fuite de Monsieur Monde).
Nhà văn Lê Xuyên khi làm thư ký tòa soạn báo Quật Cường rất tinh, ảnh
cười bảo tôi: Bạn thích Simenon chứ tôi, tôi thích James Hadley Chase.
Chúng tôi cười vang với nhau trên hè đường Gia Long.
Thứ hai, nước ta liên tiếp có chiến tranh, cứ khoảng chín năm có một
biến cố chính trị hay quân sự làm thay đổi tình hình sinh hoạt thượng
tầng của xã hội, mà thời kỳ này, hay giai đoạn này, khuynh hướng sau
chống lại khuynh hướng trước, hay ngược lại. Ví dụ từ 1954 tới 1963,
chính quyền do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo, Thiên chúa giáo La Mã ở thế
chính quyền, Đại học Huế do một linh mục thành lập rầm rộ; rồi một đại
học tư, Minh Đức, cũng do một linh mục đỡ đầu. Trong khi ấy thì Đại học
Văn khoa Sài Gòn và Đại học Đà Lạt cũng đã do hai linh mục khác làm Viện
trưởng. Các năm sau, từ 1964 đến 1973, sau khi chính quyền ấy bị lật đổ
bởi các vận động của Quân đội, Phật giáo, đại học tư Vạn Hạnh mới ra
đời, nhiều tạp chí Phật học xuất hiện như Vạn Hạnh, Tư Tưởng. Văn học
Miền Nam giai đọan này chuyển hướng mạnh về Thiền học, nhất là thơ văn
Thiền, báo chí tràn ngập bài vở về Thiền, và nhiều báo có ảnh hưởng Phật
giáo được xuất bản. Khi có báo hỗ trợ, ngành xuất bản phát triển, do đó
báo chí đóng vai trò quan trọng là chuyện đương nhiên.
Nguyên Sa
Nếu chịu khó đi ngược lại lịch sử, qua mốc chín năm, ta sẽ thấy chiến
tranh Pháp-Việt 1946-1954, một bên Việt minh cộng sản, một bên Quốc gia
với Pháp, bên nào cũng có những báo chí riêng, chống lại nhau. Có thể
nói trong khi ở các nước Tây phương, cứ hai mươi năm mới có một thế hệ,
hay ý thức hệ, thì ở Việt Nam chúng ta chỉ cần chín năm. Thời gian ấy
quá ngắn để xây dựng một công trình lớn lao, hay một nền học thuật căn
bản. Cho nên chúng ta có nhiều tạp chí văn chương, (mỗi nhóm có một tạp
chí), và nhiều truyện ngắn hơn truyện dài. Báo chí miền Nam như thế phản
ảnh xã hội miền Nam một cách trực tiếp, tức thời, và trên phương diện
văn học sử, cung cấp nhiều tài liệu sinh hoạt phong phú, giúp các nhà
nghiên cứu nhiều hơn và cụ thể hơn là sách vở.
Phan Nhiên Hạo: Ngoài sáng tác văn thơ, vấn đề tranh luận và phê bình văn chương trên báo chí thời đó ra sao?
Viên Linh: Tranh luận văn chương tương đối là nghiêm chỉnh, nhưng
không phải chỉ có phê bình, tranh luận văn chương. Không khí báo chí
miền Nam nung nấu chuyện chính trị bên trong, và đương nhiên, sự ung
thối đến từ những ngòi bút có cộng sản chỉ đạo, ví dụ Vũ Hạnh, Nguyễn
Ngọc Lương, Lữ Phương, một hai tờ báo thiên tả ra mặt như Trình bày, Đất
Nước, Tin Văn. Điều bi thảm là một số cây bút Bắc di cư, theo đạo Thiên
chúa giáo, lại vô tình hay cố ý làm lợi cho cộng sản, như một số cây
bút trong nhóm Trình bày (chữ “bày” không viết hoa) như Thế Nguyên, Trần
Tuấn Nhậm. Ông này còn ra ứng cử dân biểu, in poster “chống Mỹ cứu
nước” dán đầy đường phố gốc cây Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Văn Trung, các
linh mục Thanh Lãng, Nguyễn Ngọc Lan được biết như những gương mẫu cho
mấy cây bút này. Phê bình văn chương đáng tiếc là thái độ của vài người
trong nhóm Sáng Tạo đối với Tự Lực Văn Đoàn. Có thể vì coi thường mấy
nhân sự nối dài của nhóm Tự Lực Văn Đoàn mà họ đã thiếu sự kính trọng
đáng lẽ phải có với nhà văn Nhất Linh. Nhưng ngược lại, cũng có chuyện
kỳ cục xảy ra, chẳng hạn một hai nhà văn gửi tác phẩm dự thi Giải Văn
học Nghệ thuật Toàn quốc, đến khi bị trượt, hay chỉ được trao giải
khuyến khích, thì viết báo chửi rủa ban giám khảo. Nhưng nói chung văn
chương báo chí miền Nam Việt Nam cho tới 1975 đã diễn ra trong không khí
tự do, cởi mở chưa từng có. Ưu điểm nhiều nhưng khuyết điểm không phải
là ít: một số thi văn tài đích thực không nổi tiếng bằng những kẻ khác,
chỉ vì họ không thân với những người có báo trong tay, và ngược lại.
Vũ Hạnh
Phan Nhiên Hạo: Xin anh nói qua về quan hệ của báo chí văn nghệ với chính quyền thời đó? Thủ tục và mức độ kiểm duyệt ra sao?
Viên Linh: Liên hệ giữa báo chí văn nghệ và chính quyền tôi thấy
rất tốt đẹp. Chính quyền không hề có biện pháp đặc biệt nào đối với báo
văn nghệ, còn báo chí loại khác như nhật báo thì có thể khác. Chủ trương
thì không có hạn chế, tuy nhiên, một số cán bộ thông tin thuộc Nha Báo
chí bộ Thông tin khá xa lạ với văn nghệ trong cung cách, nhưng đó là
chuyện con người nói chung. Về vấn đề kiểm duyệt, tác giả không cần đưa
bản thảo xin kiểm duyệt sách báo trước khi in, nhưng cứ cho sắp chữ, chỉ
cần nạp bản vỗ (tức bản chụp khuôn chữ chì bằng mực in, trên tờ giấy có
thấm nước). Đối với sách, trong vòng mười lăm ngày, sở kiểm duyệt thuộc
bộ Thông tin Văn hóa phải trả lời cho in hay không, hay đề nghị bỏ vài
đoạn, bớt vài đoạn, ra sao. Bạn nên nhớ, Việt Nam Cộng Hòa là một thể
chế được đâu tám mươi quốc gia trong Liên Hiệp Quốc công nhận như một
nước, và nước ấy đang trong tình trạng chiến tranh, nhất là từ khi cộng
sản lập ra Mặt trận Giải phóng miền Nam vào tháng 12 năm 1960, thế thì
việc phòng ngự quốc gia là chuyện sinh tử. Việc kiểm duyệt sách vở báo
chí bị chế riễu, thổi phồng, chỉ là do sự phá hoại của cộng sản rồi bị
tay sai và một số người mang ra làm chuyện đùa, chuyện diễu. Bản chất
chính quyền miền Nam 1954-1975 theo tôi là tốt nhất trong lịch sử Việt
Nam trong thế kỷ XX và XXI đến thời điểm này. Thời nhà Nguyễn thế kỷ
XIX, tới năm 1915, sĩ tử đi thi còn bị xổ toẹt vì phạm húy, trong khi
tại miền Nam sau thời ông Diệm, báo chí mang tổng thống bộ trưởng ra chế
diễu là chuyện xảy ra hàng ngày.
Chuyện xảy ra sau đây cho thấy một khía cạnh của kiểm duyệt thơ văn: Nhà
thơ Tô Thùy Yên đưa cho tạp chí Văn bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang”,
báo Văn không dám đăng, vì sợ bị kiểm duyệt, hay nghĩ rằng có sắp chữ
đưa kiểm duyệt rồi cũng bị kiểm duyệt bỏ mà thôi, vừa tốn thì giờ vừa
tốn công sắp chữ. Lúc ấy Mai Thảo là thư ký tòa soạn báo Văn bảo tôi nếu
dám đăng thì hỏi Tô Thùy Yên rồi đến lấy về mà đăng trên Thời Tập, vì
chủ nhiệm Nguyễn Đình Vượng của Văn “rét”. Thấy bài thơ hay, tôi đưa họa
sĩ Nguyễn Trung minh họa, rồi đăng hết ba hay bốn trang Thời Tập, hình
như trên số 4, cuối năm 73 hay đầu 74. Khoảng năm sáu năm trước đây, từ
Houston, Tô Thùy Yên gọi điện thoại nói chuyện với tôi, cảm ơn tôi,
“không có bạn thì bài Chiều trên phá Tam Giang” đã chung số phận với
những bản thảo chưa đăng báo của tôi”. Nhà thơ Tô Thùy Yên ở tù cộng sản
mười ba năm, tác phẩm bị cộng sản hỏa thiêu không còn một tờ giấy. Việc
kiểm duyệt thơ văn của nhà cầm quyền miền Nam có chuyện như thế: có
kiểm duyệt, nhưng kiểm duyệt là để diệt cộng sản hay ngăn ngừa tay sai
cộng sản lợi dụng và lạm dụng, còn những người làm báo văn nghệ chân
chính thì không có gì phải sợ cho dù trong một bài sáng tác, người nghệ
sĩ có thể có lúc đã phát biểu không kiêng nể. (Nói về mặt chính trị, còn
khi các ông kiểm duyệt viên trở thành nhà đạo đức kiểm duyện truyện
tình lại là chuyện khác).
Tô Thùy Yên
Trong bài thơ của Tô Thùy Yên có đoạn tác giả tự hỏi và tự trả lời, coi
chính nghĩa mà chế độ dương danh không ra cái gì, như cuộc đối thoại với
một cán binh Việt Cộng, có đoạn như sau:
Ta tự hỏi vì sao,
(Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi?)
Và ta tự trả lời.
(Có bao giờ ngươi tự trả lời?)
Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
Phải quạt, phải quạt
Chỉ vì nó phải quạt.
Ta thương ta yếu hèn.
Ta thương ngươi khờ khạo.
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng.
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử
Cùng mê sa một con đĩ thập thành.
Một đoạn thơ như thế viết ra, và in lên báo một cách trịnh trọng, tờ báo
và tác giả không hề bị làm khó dễ gì, thì không thể bảo ở miền Nam
không có tự do báo chí, tự do sáng tác. Có những kẻ nghe hơi nồi chõ,
ngửi phải bùa thiên tả, cho việc phê phán miền Nam là tiến bộ, nói về
kiểm duyệt như nhà tranh đấu nhân quyền rởm, chỉ làm họ hiện ra ngây ngô
chứ không cao cấp gì. Chỉ những kẻ ngây thơ và những kẻ có dị tật mới
có thể thấy thích thú hay thấy thỏa mãn mỗi khi được bôi xấu miền Nam
bằng những khuôn mẫu quen thuộc như tham nhũng, sa đọa, kiểm duyệt thô
bạo hay buôn lậu, đĩ điếm. Nhưng có khi họ không ngây thơ đâu, họ viết
internet kiểu đó để khi về Việt Nam du ngoạn không bị cán bộ văn hóa làm
khó dễ, họ bôi trơn bằng ngòi bút mà thôi. Bọn này không chỉ là người
Việt Nam; Mỹ thiên tả hay Mỹ có vợ Việt khôn ngoan không thiếu gì.
Phạm Công Thiện
Phan Nhiên Hạo: Ra hải ngoại đến nay, anh vẫn là người làm báo
văn nghệ. Bên này dĩ nhiên không còn lượng bạn đọc đông đảo như Việt
Nam. Những năm gần đây lại thêm hiện tượng internet khiến các báo in hải
ngoại, nhất là báo văn nghệ, rơi vào tình trạng bế tắc. Nhiều tạp chí
đã đình bản. Tuy vậy, tờ Khởi Hành anh làm từ nhiều năm nay vẫn tiếp tục
ra báo đều đặn. Đọc giả chính của Khởi Hành là ai, và làm thế nào anh
giữ được sự tồn tại của tờ báo trong hoàn cảnh hiện nay?
Viên Linh: Tôi luôn luôn tin vào điều này: Thấy cái gì phải thì
cứ làm; thấy hủi thì báo cho mọi người biết, vì hủi là bệnh hay lây,
loan báo ra là giúp cho môi trường mình sống được quang đãng sạch sẽ.
Làm báo, nhất là báo văn nghệ, là thực hiện những gì đẹp, thật, và lành.
Một tờ báo thấy thơ văn không hay, nhưng vẫn đăng vì quen biết, nể
nang: tờ báo ấy không chân. Một nhà phê bình văn nghệ, thấy sách dở sách
sai vẫn ca ngợi, thấy ca sĩ hát khó nghe, vẫn viết bài nồng nhiệt về
cái khó nghe, mà tưởng người đọc không biết sao? Tờ báo ấy không đẹp,
nếu không nói là có bụng dạ xấu, không lành. Làm báo là cảnh giác và
trao đổi tương quan mà tờ báo lại không tìm hiểu đối tượng là mất cảnh
giác, là đi trong đui mù, hay giả đui. Như anh nói: Khởi Hành vẫn xuất
bản đều đặn (mỗi tháng một kỳ, hai tháng nữa bước sang năm thứ 14), và
anh hỏi “độc giả Khởi Hành là ai”. Câu hỏi ấy, tôi tự hỏi mình trước khi
làm tờ báo số ra mắt.
Có một câu thơ của Thế Lữ từ vài chục năm qua tôi dùng làm châm ngôn cho
mình: “Ta là ai giữa mùa thay đổi ấy?” Nếu anh không biết con đường anh
đang đi dẫn đến đâu, nếu anh không nhận ra trời sắp mưa hay mùa đang
chuyển, anh sẽ ướt như chuột lột và đứng lại bên sông không một chuyến
đò ngang, và đêm đang xuống, xung quanh không một ánh đèn.
Võ Phiến
Khởi Hành còn đi, đi không ngừng nghỉ, vì chúng tôi có lương thực đủ ăn,
con đường trước mặt thanh quang, bạn đồng hành thân ái, những bàn tay
chờ đợi bên đường. Vì tạp chí Khởi Hành viết cho người ở đây, hôm nay,
không viết cho người vọng tưởng, không viết cho người ngày mai. Nhiều
tạp chí văn nghệ đã đình bản, như anh cho biết; vâng, nhiều quá không
thể nhớ nổi, tôi không rõ vì sao, nhưng tôi biết rõ là tôi biết họ là
ai. Họ ở hải ngoại nhưng viết cho người trong nước hài lòng. Một vị chủ
bút một tờ nguyệt san đã đóng cửa từng viết: “Khi đạp xe lòng vòng trong
Chợ Lớn, thấy những gia đình chen chúc sống trên lề đường, con cái đói
xanh mặt, tôi quyệt định vượt biển, dù đang mùa lũ!” Ông ấy tả cảnh đói
khổ của Việt Nam thời cộng sản chăng? Không phải đâu, ông ấy chỉ muốn
nhắn với Hà Nội: Tôi ra đi không phải vì lý do chính trị đâu, chỉ vì các
cháu đói quá, tôi là di dân kinh tế thôi mà. Tờ báo ấy không làm vì độc
giả hải ngoại, nó nhắm vào độc giả trong nước, và chỉ vài mươi người
biết đến là được rồi. Khi mục đích đã đạt, ông chủ bút đi về Việt Nam
thoải mái, tờ báo sống hay chết không quan trọng nữa. Mà không phải chỉ
có một tờ như vậy. Họ đình bản là chuyện tự nhiên mà thôi.
Đương nhiên cũng có những tờ phải đình bản vì lý do khác. Các vị chủ báo
ấy chưa từng làm báo bao giờ, tuy có viết văn xuôi, làm văn vần, và mặc
dầu các vị ấy ra hải ngoại viết rất nhiều, nhưng viết gì thì viết cũng
không phải là làm báo. Viết không phải là làm, nhất là làm báo. Nhà văn
Trần Phong Giao, khoảng hơn mười năm làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn ở
Sài Gòn, nói: Một tờ báo không phải là một tuyển tập thơ văn. Hải ngoại
có hằng hà sa số những tuyển tập thơ văn, nhưng lác đác có dăm ba tờ tạp
chí. Và câu nữa của anh: làm thế nào tôi giữ được sự tồn tại của tờ báo
trong hoàn cảnh hiện nay? Câu trả lời của tôi là: Tôi có giữ đâu, độc
giả giữ Khởi Hành tồn tại đấy chứ.
Tú Kếu, sau 1975
Phan Nhiên Hạo: Được biết gần đây báo Khởi Hành có giải thưởng Văn Chương Toàn Sự Nghiệp, xin anh cho biết thêm về giải thưởng này?
Viên Linh: Giải văn chương Khởi Hành hay giải Toàn Sự Nghiệp của
Khởi Hành hai năm tổ chức một lần, trị giá 5.000 mỹ kim, trong có 3.000
hiện kim, còn 2.000 dùng để mua vé máy bay, di chuyển, cho tác giả được
giải tới lãnh. Giải không nhất thiết, tuy chủ yếu, nhằm trao cho một nhà
văn nhà thơ có sự nghiệp hoạt động lâu dài, và hiện còn ở Việt Nam
nhưng không được phép xuất bản sách. Năm 2005, chúng tôi đã tổ chức trao
giải cho nhà văn Nguyễn Thụy Long, tác giả Loan Mắt Nhung, và nhất là
năm truyện ngắn xuất sắc đăng trên Khởi Hành năm đó. Năm 2007, chúng tôi
đã tổ chức trao giải cho nhà thơ Hữu Loan, tác giả Màu Tím Hoa Sim. Cả
hai tác giả đều đã có thư gửi qua cảm tạ văn nghệ sĩ và đồng bào hải
ngoại. Năm nay 2009, Khởi Hành đang thăm dò bạn đọc về giải này, mời bạn
đọc đề cử, góp ý với chúng tôi qua địa chỉ sau đây:
Email: vienlinh@khoihanh.com ; hay phamcongkh@yahoo.com
Thư gửi về : P.O. Box 670, Midway City, CA, 92655, U.S.A.
http://khoihanh.com
Phan Nhiên Hạo: Anh có thể cho biết nguồn tài chính khá lớn cho giải thưởng này đến từ đâu được không?
Viên Linh: Tất cả đều do độc giả đóng góp, với danh sách công khai trên báo Khởi Hành.
Phan Nhiên Hạo: Tôi nghĩ công việc làm báo có thể đem lại những phần
thưởng tinh thần cho người viết văn như cảm giác hữu ích, tạo quan hệ
rộng, dấn thân vào sinh hoạt văn chương. Nhưng mặt khác, làm báo cũng là
một công việc phiền phức, mệt mỏi, nhất là nó lấy đi rất nhiều thời
gian sáng tác vốn đã eo hẹp của mình. Là một nhà thơ, nhà văn, nhưng
cũng là người làm báo văn nghệ kỳ cựu hơn năm mươi năm, anh thấy công
việc làm báo đã đem lại gì cho đời sống tinh thần và sáng tác văn chương
của anh? Nếu được làm lại từ đầu, anh có đi theo nghề báo văn chương
không?
Viên Linh: Người có nghiệp sáng tác, như nhà thơ, nhà văn, rất
thiệt thòi khi bước vào nghề làm báo. Đó là lời nhà thơ Nguyễn Vỹ – tác
giả Hoang Vu và Tuấn, Chàng Trai Nước Việt, chủ nhiệm tạp chí Phổ Thông –
cảnh giác tôi năm 1964 khi tôi làm thư ký tòa soạn tờ Dân Ta của ông.
Tôi nghiệm thấy rất đúng. Thơ văn Nguyễn Vỹ hay, phong phú, ông vào tù
vì bãi khóa xuống đường chống Pháp, song các nhà phê bình tránh nói tới
ông. Họ không muốn khen, vì sợ hiểu lầm là khen ông để xin viết báo cho
ông, và họ cũng ít chê ông, vì sợ ông có báo trong tay sẽ trả đũa trở
lại. Cuối cùng đa số coi như không có ông. Anh Đặng Hiền, chủ trương tạp
chí Hợp Lưu nói với tôi: Tôi không hiểu vì sao người ta ít nhắc đến anh
trong các bài viết hay sinh hoạt văn nghệ. Cô Bích Ty, ra nhiều băng
ngâm thơ, khi mới dọn từ miền Trung Tây tới Quận Cam, gặp tôi nói: Bích
Ty muốn có thơ anh để ngâm cho một băng thơ, mà không tìm thấy ở đâu cả.
Cô nói đúng, về phần tôi, có thể nói, tôi không gửi thơ cho báo nào
đăng cả. Cách đây mười năm có thể có một lần. Cách đây nửa năm tôi từng
liên lạc với một website bảo cô nhà văn chủ trương bỏ thơ tôi xuống. Nói
thế không có nghĩa tôi hoàn toàn biệt lập. Có khi vì tôi rất bận và rất
lười chuyện giao tế. Có khi tôi thấy mấy bài đó không đủ để gọi là điển
hình, v.v.
Nhà văn nhà thơ đi làm báo có thể có hại cho tiếng tăm của mình, vì
người đương thời chỉ thấy con người làm báo của mình, mà không thấy hai
con người kia. Nhưng về lâu về dài, nó tốt. Nếu được làm lại từ đầu, tôi
chắc cũng lại làm như hiện nay mà thôi.
Phan Nhiên Hạo: Cảm ơn nhà thơ Viên Linh đã trả lời phỏng vấn.
(Phỏng vấn thực hiện qua email, tháng 7 và 8, 2009)
http://minhduc7.blogspot.ca/2010/06/vien-linh-lam-bao-van-nghe-o-mien-nam.html
No comments:
Post a Comment