Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday 10 February 2014

CỬU BÌNH I

CỬU BÌNH

TẬP SÁCH DO CHÍNH NGƯỜI TRUNG QUỐC VIẾT VỀ CHÍNH HỌ.

Kể từ khi phát hành, Cửu Bình đã góp phần thức tỉnh được người dân sống dưới chế độ Cộng Sản Trung Quốc và tính đến nay đã có hơn 90 triệu người đăng tuyên bố thoái xuất khỏi các tổ chức của Đảng Cộng Sản (Đảng – Đoàn – Đội) trên trang web thoái đảng của Epochtimes. Chúng tôi xin được giới thiệu loạt phim tài liệu đến quý độc giả.

9 video Bình Luận Về Đảng Cộng Sản Trung Quốc  
Bình luận 1: Đảng Cộng Sản là gì
http://www.youtube.com/watch?v=TcdkbFNn5m4
Bình luận 2: Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất sinh như thế nào
http://www.youtube.com/watch?v=otHPNk-TUzM
Bình luận 3: Chính quyền bạo lực của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=gBCjeOn53Sg
Bình luận 4: Đảng Cộng Sản - một lực lượng phản vũ trụ
http://www.youtube.com/watch?v=mgHJ9Bh_usk
Bình luận 5: Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc lợi dụng nhau đàn áp Pháp Luân Công
http://www.youtube.com/watch?v=p1BsIXr9nc8
Bình luận 6: Đảng Cộng Sản Trung Quốc phá hoại văn hóa dân tộc
http://www.youtube.com/watch?v=NQrBG_AKN8A
Bình luận 7: Lịch sử giết chóc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=CKcWFH8ejl4
Bình luận 8: Bản chất tà giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=LBBYOyfoxyU
Bình luận 9: Bản tính lưu manh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=d_HNAggSEEA


 Chín bài bình luận về Đảng Cộng sản".  Cuốn sách làm rúng động nhân dân Trung Quốc. Ngay ở chính Trung Quốc cuốn sách không được bán tự do - nó bị chính quyền cấm, tuy nhiên các phiên bản của tập các bài báo phân tích này được  được truyền  tay hàng chục lần sau  mỗi lần đọc trong dân chúng.

Vào tháng này, cuốn sách tròn tám năm kể từ khi "Chín bài bình luận" (Cửu Bình) được công bố trên báo quốc tế Epoch Times. Nhiều người dân Trung Quốc nói rằng nhờ cuốn sách này họ có cơ hội nhìn lại lịch sử hiện đại và những viễn cảnh tương lai của Trung Quốc về nguyên tắc theo cách mới.

Jing Chu, nhà văn Trung Quốc

"Lịch sử [của Trung Quốc] và thực tế của nó đã không được hệ thống hóa. Không có gì vạch trần được bản chất của đảng cộng sản, như "Cửu Bình" đã làm được điều này. Đây là một cuốn sách tuyệt vời. Sau khi đọc nó, mọi người bị shok. Cuốn sách giúp hiểu thêm nhiều điều mọi cách rõ ràng nhất".

Lấy các sự kiện làm cơ sở, "Cửu Bình" tiến hành một phân tích triệt để và rành mạch tác động mà đảng cộng sản Trung Quốc trong 60 năm cai trị của nó đã gây nên đối với người dân Trung Quốc. Trong đó - kết quả của sự đàn áp các giá trị truyền thống đạo đức của đảng và thay thế chúng bởi ý thức hệ cộng sản, và cũng như những hậu quả của điều này trong xã hội Trung Quốc đương đại như thế nào.

"Ý thức hệ của Mao Trạch Đông đã mang lại cho Trung Quốc máu, nước mắt và những bất hạnh. Nó biến Trung Quốc trở thành mảnh đất của sự lừa dối và đạo đức giả ... Người ta không nói sự thật, họ nói dối nhau. Điều này đã dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn giá trị tâm linh và đạo đức".

Nhà phân tích về Trung Quốc Lee Shantszyan nói rằng "Cửu Bình" đã giúp ông hiểu được tại sao ĐCS thường nói về cải cách, nhưng trong thực tế không thể thay đổi. 

Shantszyan Lee, nhà phân tích về Trung Quốc:

"Để tồn tại, đảng cộng sản thay đổi hiến pháp của mình. Khi đảng làm một cái gì đó, và tất cả mọi người hiểu rằng đó là điều tồi tệ, đảng loại khỏi mình một hoặc hai thành viên của đảng, đổ lỗi cho họ. Để tồn tại, đảng tìm những con dê làm vật tế thần".

Theo ông Li, tương lai của Trung Quốc chỉ có thể không có chế độ cộng sản.
"Nếu khôi phục lại nền văn hóa truyền thống đích thực, những tư tưởng cộng sản sẽ bị bải bỏ. Hai điều này không thể cùng tồn tại. Tuy nhiên, không có văn hóa và các giá trị truyền thống, Trung Quốc sẽ không có tương lai. Vì vậy, để có một tương lai ở Trung Quốc, chúng ta cần phải từ bỏ các giá trị của đảng cộng sản. " 

Phiên bản tiếng Trung của tờ báo Epoch Times lần đầu tiên công bố "Cửu Bình" vào ngày 19 tháng 11 2004. Sau đó, trên cơ sở của cuốn sách này đài truyền hình NTD đã phát bộ phim tài liệu. 

---
Xem:
Cửu Bình
Chín Bài Bình Luận Về Đảng Cộng Sản
Lời Tựa (báo Hoa Ngữ DAJIYUAN)

 Bài bình luận số 1   
Đảng cộng sản là gì?

Lời mở đầu

     

Bóng của Mao: Người mẹ và đứa con bước qua cổng viện Bảo tàng Quân đội của Bắc Kinh, được đón chào bằng bức tượng lớn của cố lãnh đạo độc tài Trung Quốc Mao Trạch Đông. (Stephen Shaver/AFP/Getty Images)

Hơn 5000 năm qua, dân tộc Trung Hoa được nuôi dưỡng bởi châu thổ sông Hoàng Hà và sông Trường Giang, gây dựng giống nòi, trải qua bao nhiêu triều đại, mới thiết lập được một nền văn minh rực rỡ, sáng lạn.  Trong suốt thời gian có thành lập, có sụp đổ, có hưng thịnh, có suy vong, những câu chuyện hào hùng xẩy ra trong sóng gió bao la của những cuộc đổi thay đã làm lòng người xúc động.

Năm 1840, các sử gia  nhìn nhận rằng đó là  cái mốc đánh dấu khởi điểm của lịch sử Trung Quốc đang chuyển từ thế kỷ Trung Cổ đi sang hiện đại hóa. Bắt đầu từ đó, nền văn minh Trung Hoa đại khái đã trải qua bốn lần ứng phó cho các trận sóng bão khiêu chiến. Ba trận sóng bão khiêu chiến đầu tiên là: Liên quân Anh-Pháp xâm chiếm Bắc Kinh hồi đầu thập niên 1860; chiến tranh Trung Quốc-Nhật Bản vào năm Giáp Ngọ 1894, và chiến tranh Nga-Nhật ở vùng đông bắc Trung Quốc vào năm 1906. Đối với 3 cuộc  khiêu chiến này, Trung Quốc đã đáp ứng bằng phong trào Tây hóa với sự nhập cảng hàng hóa hiện đại và vũ khí, cùng với sự cải cách chế độ ( tức là ban hành Hiến Pháp sửa đổi năm Mậu Tuất 1898 [1], và Đại Thanh Lập Hiến vào cuối đời nhà Đại Thanh ), và sau đó là Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 [2].
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, mặc dù thuộc phe thắng trận, nhưng lợi ích của Trung Quốc vẫn không được những cường quốc trông coi đến. Thời bấy giờ, nhiều người Trung Hoa cho rằng ba lần ứng phó đầu cho các trận sóng bão nói trên đã hoàn toàn thất bại. Do vậy cuộc Vận Động mùng 4 tháng 5 [3] xuất hiện, từ đó mà bắt đầu lần ứng phó thứ tư cho các trận sóng bão này, mà cũng là sự đáp ứng cuối cùng trên một bình diện;  bình diện văn hóa được hoàn toàn chuyển sang ‘Tây hoá'. Theo sau đó, là cách mạng cực đoan bắt đầu, tức là sự vận động cho chủ nghĩa cộng sản.
 Trọng tâm của bài bình luận này là nói về kết quả của một sự ứng phó sóng bão cuối cùng của Trung Quốc đối với cuộc vận động cho chủ nghĩa cộng sản và Đảng cộng sản. Nhìn vào lịch sử 160 năm vừa qua của Trung Quốc để phân tích xem, với gần 100 triệu người dân thường bị chết mờ ám, hầu hết tất cả văn hóa và văn minh truyền thống của  dân tộc Trung Quốc bị tàn phá, dù đó là chọn lựa của người dân Trung Hoa hay là bị bên ngoài cưỡng bức, thì kết quả thực sự là như thế nào?

I. Dùng khủng bố bằng bạo lực để chiếm đoạt và duy trì chính quyền

“Bọn Cộng sản chẳng thèm che giấu quan điểm và ý đồ của bọn họ. Bọn chúng công khai tuyên bố rằng mục đích của chúng chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ chế độ xã hội hiện tại”[4], đoạn cuối cùng bản Tuyên ngôn của Cộng Sản  kết luận như thế. Bạo lực là thủ đoạn mà Đảng cộng sản dùng để cướp đoạt chính quyền, và cũng là thủ đoạn duy nhất. Đó là cái nhân di truyền đầu tiên được quyết định từ ngày Đảng cộng sản chào đời cho đến hôm nay.
Thực ra,  Đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới, phải nhiều năm sau khi Karl Marx qua đời mới được thành lập. Năm thứ hai sau Cách mạng Tháng Mười của Nga (1917), Đảng cộng sản Nga (Bôn-sê-vích) đã chính thức khai sinh, đó là tiền thân của Đảng cộng sản Liên Xô sau này. Đảng cộng sản này sinh ra trong sự thực hành bạo lực đấu tranh vũ trang đối với các " kẻ thù giai cấp", đồng thời đã liên tục dùng bạo lực để đàn áp những người của chính mình và những người dân thường để duy trì sự tồn tại của Đảng. Riêng trong cuộc thanh trừ nội bộ của Đảng cộng sản thời Stalin vào những năm 1930, Đảng cộng sản Liên Xô đã tàn sát hơn  20 triệu người, những người mà họ gán cho tội danh như ‘gián điệp’, hoặc ‘phản quốc’, và bất cứ ai không đồng ý kiến.
Đảng cộng sản Trung Quốc, khi thành lập chính là một chi bộ của Cộng sản Quốc tế Đệ Tam mà chịu sự khống chế của Đảng cộng sản Liên Xô, nên tự nhiên đã kế thừa loại truyền thống bạo lực này. Riêng trong thời kỳ nội chiến giữa Đảng Cộng Sản và Quốc dân Đảng của Trung Quốc, từ năm 1927 đến năm 1936, dân số tỉnh Giang Tây đã giảm từ hơn 20 triệu xuống  khoảng 10 triệu. Chỉ riêng con số ấy đã nói lên sự thiệt hại mà Đảng cộng sản Trung Quốc gây ra bằng bạo lực.
Nếu như nói rằng, bạo lực có thể không tránh khỏi trong chiến tranh của chính quyền khủng bố, thì trên thế giới chưa bao giờ có một chính quyền nào mà trong thời hòa bình , vẫn cứ tiếp tục yêu chuộng bạo lực như  Đảng Cộng sản. Tính từ năm 1949 đến nay, số người dân Trung Quốc bị tàn sát do bạo lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vượt quá số người chết trong thời chiến từ năm 1927 đến năm 1949.
Một trong những ví dụ điển hình về thành tích khát máu của Đảng Cộng sản  Trung Quốc mà ai cũng biết, là sự ủng hộ toàn lực vũ trang cho Khờ-me Đỏ.  Sau thời Khờ-me Đỏ nắm quyền, một phần tư người dân Căm-Bốt, trong đó đại đa số là người di dân Hoa Kiều và con cháu của họ, đã bị tàn sát. Đến tận hôm nay chính quyền Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn không ngừng ngăn cản cộng đồng quốc tế đưa Khờ-me Đỏ ra công lý, vì mục đích đương nhiên là muốn che đậy vai trò lừng danh của Đảng cộng sản Trung Quốc trong cuộc diệt chủng ấy.
Điều tất yếu phải nêu ra là những chính quyền tàn bạo và các căn cứ võ trang tàn bạo nhất trên thế giới hiện nay đều có quan hệ mật thiết với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Không chỉ riêng có Khờ-me Đỏ của Căm-Bốt, mà còn có Đảng cộng sản Nam Dương, Cộng sản Phi luật Tân, Cộng sản Mã-lai, Cộng Sản Việt Nam, Cộng Sản Miến Điện, Cộng Sản Lào,  Đảng Cộng sản Nê-pal, vân vân… tất cả được thành lập là đều do bàn tay của Đảng cộng sản Trung Quốc ủng hộ, chống đỡ. Nhiều lãnh tụ của các Đảng cộng sản này là người Trung Hoa, mà một số trong đó giờ đây vẫn đang ẩn nấp tại Trung Quốc.
Hơn nữa trên thế giới, lấy chủ nghĩa Mao Trạch Đông làm tôn chỉ cho Đảng cộng sản còn có Đường Quang Minh của Nam Phi, Hồng Quân của Nhật bản. Những tổ chức tàn bạo như vậy đều bị cộng đồng thế giới phỉ nhổ và lên án.
Một trong những lý luận ban đầu mà chủ nghĩa cộng sản dùng là Tiến Hoá Luận. Đảng cộng sản dùng sự cạnh tranh giữa các loài, để suy diễn ra đấu tranh giai cấp trong sự tiến hóa của xã hội. Họ cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất giúp xã hội phát triển tiến bộ. Bởi vậy "Đấu tranh" đã trở thành "Tín Ngưỡng" chủ yếu để duy trì sự sinh tồn của chính quyền Đảng cộng sản. Một trong những câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông — “ Với tám trăm triệu người, làm sao mà không đấu tranh” — đã nói trắng ra cái lý luận để sinh tồn này.
Mao Trạch Đông còn có một câu nổi tiếng tương tự  rằng " Đại Cách mạng Văn hoá cần  phải xẩy ra mỗi lần trong 7 hay 8 năm”[5]. Sử dụng bạo lực nhiều lần lặp lại là một trong những thủ đoạn quan trọng bậc nhất của chính quyền Đảng cộng sản nhằm duy trì quyền thống trị. Mục đích của  bạo lực là tạo ra sự sợ hãi. Mỗi lần vận động đấu tranh đều là một lần Đảng Cộng sản huấn luyện sự khủng hoảng tinh thần của người dân, làm cho nhân dân run sợ trong lòng mà khuất phục, làm họ dần dần trở thành nô lệ của sợ hãi.
Hiện nay chủ nghĩa khủng bố đã biến thành kẻ thù số một của toàn thể thế giới tự do và văn minh. Nhưng Đảng Cộng sản không hề từ bỏ chủ nghĩa khủng bố bằng bạo lực, mà trái lại còn triển khai sâu rộng, lâu dài hơn nữa dựa vào bộ máy chính quyền đương thời. Nó đã có quy mô lớn hơn, có sức tàn phá mạnh mẽ hơn. Ngày nay đã sang thế kỷ 21 rồi, chúng ta không thể quên được tính chất di truyền này của Đảng cộng sản, bởi vì đến lúc thích hợp, điều này nhất định đối với tương lai của Đảng Cộng Sản sẽ có tác dụng quyết định cho nó hướng đi như thế nào.

II. Dùng lời dối trá làm bàn đạp ngon trớn cho bạo lực

Trình độ văn minh của nhân loại có thể được đo lường qua mức độ mà bạo lực được sử dụng trong chế độ. Xã hội của chính quyền Cộng sản, hiển nhiên là một lần nữa bước lùi lại rất xa với văn minh của nhân loại. Nhưng tiếc thay, Đảng Cộng Sản lại có thể thành công trong sự việc người đời tưởng chúng đang trên đà tiến bộ. Những người này cho rằng, sử dụng bạo lực, không những đưa đến sự tiến bộ của xã hội mà còn là một quá trình tất yếu và tự nhiên.
 Sự chấp nhận bạo lực này, phải  nói rằng, chính là kết quả của việc vận dụng lời dối trá lường gạt có một không hai của Đảng cộng sản. Vì vậy lường gạt và dối trá  là một cái nhân di truyền khác của  Đảng cộng sản.
“Từ thủa bé thơ, chúng ta đều thấy nước Mỹ là một quốc gia đặc biệt đáng mến. Chúng ta tin điều này, một phần vì trên thực tế nước Mỹ chưa từng chiếm cứ Trung Quốc, cũng chưa hề phát động chiến tranh với Trung Quốc. Suy nghĩ sâu hơn nữa, thì  người Trung Quốc luôn mang ấn tượng tốt đẹp về Mỹ quốc, chính vì dân tính của người dân Mỹ phát xuất ra phong độ dân chủ và một tâm rộng lượng.”
Đó là một đoạn văn trích trong xã luận đăng ngày 4 tháng 7 năm 1947 trên ‘Tân Hoa nhật báo’ (tờ báo chính thức của Đảng cộng sản Trung Quốc). Nhưng chỉ vỏn vẹn 3 năm sau đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gởi quân đến đánh nhau với quân Mỹ tại Bắc Hàn, và người dân Mỹ đã được Đảng Cộng sản Trung Quốc mô tả như những phần tử của chủ nghĩa đế quốc tà ác nhất trên thế giới. Bất kể người Trung Quốc nào đến từ Trung Hoa Đại Lục, nếu đọc được bài xã luận này, viết 50 năm trước đó của Đảng cộng sản Trung Quốc, cũng phải cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Đảng cộng sản Trung Quốc đã cấm ngặt tất cả xuất bản thuộc loại văn chương tương tự có liên quan đến bài xã luận như thế, mà chỉ phát hành các bài đã được Đảng viết lại.
Từ ngày nắm quyền, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn diễn đi diễn lại thủ đoạn tương tự trong mỗi một phong trào , gồm có cuộc thanh trừng Phản-cách mạng (1950-1953), công ty quốc gia và tư nhân Hợp Doanh (1954-1957), thanh trừng phe Cánh Hữu (1957), Đại Cách mạng Văn hoá (1966-1976), thảm sát sinh viên học sinh ngày 4 tháng 6 năm 1989 tại Thiên An Môn, và gần đây nhất là cuộc đàn áp Pháp Luân Công từ năm 1999. Tai tiếng nhất phải kể đến cuộc đàn áp phần tử trí thức năm 1957. Đảng cộng sản Trung Quốc kêu gọi các phần tử trí thức phát biểu ý kiến của họ, rồi sau đó lấy ngay những bài họ viết làm ‘bằng chứng’ để khép họ vào tội ‘theo Cánh Hữu’ để thanh trừng họ. Đến khi bị người ta phê phán tại sao lại dùng “âm mưu” như thế, thì Mao Trạch Đông nói thẳng: “Đó không phải âm mưu, mà là ‘dương’ mưu — tao làm công khai đấy chứ.”
Lường gạt và dối trá  đóng vai trò cực kỳ đắc lực giúp Đảng cộng sản chiếm đoạt và bảo vệ quyền lực. Từ xưa đến nay, niềm tin tưởng quan trọng nhất của các phần tử trí thức Trung Quốc vẫn là lịch sử của mình. Trung Quốc là một quốc gia có lịch sử được ghi chép lâu đời nhất, và hoàn chỉnh nhất trên thế giới. Người Trung Hoa vẫn lấy lịch sử làm tấm gương phản chiếu để phán đoán hiện thực, thậm chí còn noi theo những nhân vật mẫu mực trong lịch sử để tự răn dạy bản thân và nâng cao đạo đức. Vì thế, bóp méo, sửa đổi và che giấu sự thật của lịch sử cũng là thủ đoạn trọng yếu để thống trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Các giai đoạn lịch sử từ thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (770-221 trước Công Nguyên) cho đến Cách mạng Văn hoá, đều bị Đảng cộng sản Trung Quốc không ngừng che giấu, bóp méo và  sửa đổi chuyện kể lại  bằng những thủ doạn tuyên truyền lừa mị. Lịch sử trong các sách mới xuất bản suốt 55 năm qua (từ 1949) đều bị sửa lại. Tất cả những cố gắng để khôi phục lại lịch sử nguyên gốc đều bị Đảng Cộng sản Trung Quốc cấm ngặt và diệt trừ.
Khi  bạo lực không đủ mạnh để duy trì quyền lực và che đậy các sửa chữa , thì lường gạt và dối trá lập tức được Đảng cộng sản dùng đến. Dối trá là một mặt khác của  bạo lực, và cũng là cái bàn đạp ngon trớn cho bạo lực.
Phải nhìn nhận rằng, dối trá và lường gạt không phải do Đảng cộng sản phát minh chế tạo ra, chẳng qua chỉ là Đảng cộng sản sử dụng thủ đoạn lưu manh tự cổ chí kim này một cách công khai mà không biết hổ thẹn mà thôi. Đảng cộng sản Trung Quốc hứa hẹn đất đai cho nông dân, hứa nhà máy cho công nhân, hứa tự do và dân chủ cho các phần tử trí thức, hứa hẹn hoà bình. Nhưng đến nay không hề có lời hứa nào được thực hiện. Một thế hệ người Trung Quốc bị lường gạt và đã qua đời, lại một thế hệ khác của người Trung Quốc nay cũng đang bị Đảng cộng sản mê hoặc bằng bưng bít thông tin và tuyên truyền lường gạt. Đây chẳng phải là niềm đau thương lớn nhất và cũng là nỗi bất hạnh nhất của dân tộc Trung Hoa hay sao?

III. Lập trường nguyên tắc biến đổi không ngừng

Trong cuộc biện luận tranh cử tổng thống Mỹ năm 2004 vừa qua, có một ứng cử viên phát biểu rằng, người ta có thể thay đổi chiến lược về vài vấn đề khi cần thiết, nhưng họ không thể, nói chung, chuyển đổi “ niềm tin” hoặc “nguyên tắc” của vấn đề mà họ nhìn nhận, nếu không người này là người “không thể tin được”[6]. Câu nói này thực sự làm rõ ràng một tính chất.
Đảng cộng sản chính là điển hình về mặt này. Lấy Đảng cộng sản Trung Quốc làm ví dụ, thì từ ngày thành lập 80 năm trước đến nay, đã trải qua 16 đại hội với đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mà cũng đã thay đổi, sửa chữa luật lệ của Đảng 16 lần. Trong 50 năm sau khi chiếm đoạt chính quyền , Đảng cộng sản Trung Quốc đã có 5 lần sửa đổi lớn Hiến Pháp của Trung Quốc.
Lý tưởng của Đảng cộng sản là sự công bằng của xã hội, để rồi cuối cùng thực hiện theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng dưới sự thống trị của Đảng cộng sản, Trung Quốc hôm nay là một trong những quốc gia phân biệt giầu nghèo nhất trên thế giới. Rất nhiều đảng viên Cộng sản giàu sụ, trong khi quốc gia có khoảng 800 triệu người dân đang sống trong cảnh bần cùng.
Tư tưởng của Đảng cộng sản Trung Quốc ban đầu là chủ nghĩa Karl Marx-Lenin. Sau đó nhồi thêm tư tưởng của Mao Trạch Đông. Rồi đắp thêm vào đó là lý luận của Đặng Tiểu Bình. Và giờ đây lại có thuyết “tam đại biểu” của Giang Trạch Dân được gắn lên nữa. Thực ra ngay tư tưởng và chủ nghĩa của Mác-Lê và Mao so với lý luận của họ Đặng và thuyết 'Tam đại biểu' của họ Giang thì đã khác nhau như trâu với ngựa, không những thế chúng còn trái lại và cách xa nhau vạn dặm, vậy mà Đảng cộng sản Trung Quốc, một khi thổi phồng chúng lên, rồi đặt bệ tôn thờ để quỳ lạy các thứ ấy cùng nhau được, thì sự việc này quả thực tự cổ chí kim chỉ thấy có một.
Các lý luận phát sinh diễn tiến của Đảng Cộng sản phần lớn là trái ngược với nhau.  Đảng cộng sản chưa hề có tổ quốc, mà lại xây dựng thuyết 'toàn cầu đại đồng', đến hôm nay lại là chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Ban đầu Đảng tịch thu mọi tài sản tư hữu, đả đảo giai cấp tư sản bóc lột, rồi đến hôm nay chính sách của Đảng cộng sản là kết nạp các nhà tư bản vào Đảng. Nguyên tắc cơ bản của Đảng cộng sản đổi trắng thay đen thật chớp nhoáng khỏi cần nói. Trên lịch sử lập nghiệp và duy trì chính quyền, hôm nay Đảng sẵn sàng vứt bỏ nguyên tắc đang được tuyên truyền hôm qua, và ngày mai, có thể Đảng lại có một lập trường nguyên tắc mới. Thực ra dù có biến đổi thế nào đi nữa, thì mục tiêu rõ ràng, chắc chắn của Đảng cộng sản vẫn là tước đoạt và duy trì chính quyền, và hưởng thụ quyền lực trên sự lũng đoạn tuyệt đối đến xã hội.
Trong lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã có hơn mười phen đấu tranh về đường lối được coi là ‘sống chết’. Thực ra những phen đấu tranh đó không có gì khác hơn là những đợt thanh trừng nội bộ sau mỗi lần Đảng cộng sản thay đổi nguyên tắc và lập trường.
 Cần phải nói rõ là, mỗi một lần lập trường nguyên tắc được thay đổi là đều xẩy ra khi Đảng cộng sản Trung Quốc đối diện với  nguy cơ khủng hoảng không tránh khỏi mà có liên quan đến việc hợp pháp hoá và vấn đề sống còn của Đảng. Lần nào Đảng cộng sản thỏa thuận nhượng bộ , như là — hợp tác với Quốc Dân Đảng, ngoại giao theo hướng thân Mỹ, cải cách và cởi mở kinh tế, đẩy mạnh chủ nghĩa dân tộc —cũng đều vì muốn chiếm đoạt  hoặc củng cố vững chắc quyền lực. Cái chu kỳ tuần hoàn của mỗi một lần  "Đàn áp - Vuốt ve" cũng không phải không nguyên do mà phát sinh
Tây phương có câu ngạn ngữ rằng: chân lý là cần phải kiên trì không đổi, còn dối trá là vĩnh viễn biến hoá. Quả là rất đúng!

IV. Lấy ‘đảng tính’ để thay thế và tiêu diệt 'nhân tính'

Đảng cộng sản Trung Quốc là đảng phái chính trị theo thể thức của Lê-nin. Từ ngày thành lập, đã xác lập ra ba đường lối lớn để xây dựng cho Đảng: đường lối chính trị, đường lối tư tưởng, và đường lối tổ chức. Diễn đạt nôm na cho dễ hình dung là thế này: đường lối tư tưởng là cơ sở triết học của Đảng cộng sản, đường lối chính trị tức là xác lập mục tiêu, rồi sau đó lấy hình thức tổ chức nghiêm nhặt để thực hiện mục tiêu này .
Đảng viên của Đảng cộng sản cho đến nhân dân của xã hội cộng sản , đòi hỏi phải tuyệt đối phục tùng. Đó chính là toàn bộ nội dung của đường lối tổ chức.
Ở Trung Quốc, người ta nói chung đều biết đến hai đặc tính quan trọng về tư cách con người của một đảng viên Đảng cộng sản. Tại gia đình và hoàn cảnh riêng tư, một đảng viên Đảng Cộng sản vẫn có đầy đủ ‘nhân tính’ như một con người bình thường, buồn vui hờn giận, có ưu điểm và khuyết điểm  của con người. Họ có thể là cha mẹ, là vợ chồng, là bè bạn… Nhưng đặt lên trên những nhân tính này, chính là ‘đảng tính’, mà được nhấn mạnh nhất, của Đảng cộng sản. Mà 'đảng tính', theo đòi hỏi của Đảng cộng sản, là vĩnh viễn vượt trên 'nhân tính' thường tình của con người . 'Nhân tính' trở thành tương đối, có thể đổi thay, còn 'đảng tính’ là tuyệt đối, và không thể hoài nghi hay khiêu chiến.
Trong thời kỳ Đại Cách mạng Văn hoá, cha con giết nhau, vợ chồng đấu nhau, thầy trò phản nhau, mẹ con tố cáo nhau như kẻ thù,… là những việc thường xảy ra trong quần chúng. Đó là tác dụng của 'đảng tính' mà nên. Thời kỳ đầu khi Đảng cộng sản nắm quyền, có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng cộng sản Trung Quốc bó tay không cứu nổi người nhà khi người nhà của họ bị liệt kê vào giai cấp thù địch và bị đàn áp. Như thế cũng là tác dụng của đảng tính.
‘Đảng tính’ là kết quả của những huấn luyện trường kỳ do Đảng cộng sản tổ chức. Loại huấn luyện này được thực hiện ngay từ thủa nhi đồng một cách có hệ thống. Tại các trường mẫu giáo ở Trung Quốc, trẻ em được giáo dục bằng khen thưởng khi trả lời đúng, mà câu trả lời thường không theo luân thường đạo lý và nhân tính. Từ tiểu học, trung học, cho đến đại học, học sinh phải học môn chính trị, tuân theo hệ thống tư tưởng của Đảng cộng sản. Ai không học theo và không trả lời đúng theo tiêu chuẩn của Đảng đề ra thì không thể tốt nghiệp.
Một đảng viên, bất kể ý kiến riêng tư của mình như thế nào, nhưng một khi bày tỏ thái độ với cương vị của một đảng viên, thì tất nhiên phải giữ vững nhất trí với đường lối  'tổ chức' của Đảng cộng sản. Với tổ chức nhất quán từ trên xuống dưới, Đảng cộng sản Trung Quốc sau cùng thống nhất một tập đoàn to tướng, nó tựa như một điểm cao nhất của kim tự tháp, với điều khiển tuyệt đối từ trên xuống. Đó là đặc tính kết cấu trọng yếu nhất của chính quyền Đảng cộng sản, là sự phục tùng tuyệt đối.
Ngày nay Đảng cộng sản Trung Quốc đã biến thái trở thành một tập đoàn chính trị chỉ biết đấu tranh để bảo trì lợi ích bản thân. Nó từ lâu đã không còn theo đuổi mục tiêu  của chủ nghĩa cộng sản nữa. Nhưng nguyên tắc tổ chức của Đảng cộng sản không hề thay đổi , sự đòi hỏi phục tùng tuyệt đối của 'đảng tính' cũng không hề biến đổi . Mà Đảng này, tự đặt mình cao hơn hết thảy, cao hơn nhân dân, cao hơn quốc gia, cao hơn pháp luật; 'đảng tính' được đặt cao hơn phương thức tồn tại của nhân loại, hơn cả 'nhân tính' và điều tự nhiên. Do đó, nó sẵn sàng trừ sạch tất cả tổ chức hoặc cá nhân nào mà nó cho rằng có thể nguy hại đến quyền lực của Đảng hoặc lãnh tụ của Đảng, không phân biệt đó là thường dân hoặc lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sản.

V. Lũ quỷ tà phản tự nhiên và phản nhân tính

Vạn vật trong trời đất đều phải trải qua mỗi chu kỳ của mạng sống bao gồm sinh ra, trưởng thành, suy yếu rồi diệt vong.

Không giống như chính quyền của Đảng cộng sản, tất cả các xã hội của chính quyền mà không cộng sản, không kể là chuyên chế hay cực quyền đến mấy, xã hội nào cũng đều có một bộ phận của những tổ chức tự phát triển và có các thành phần tự chủ. Xã hội của Trung Quốc cổ đại, trên thực chất, là thuận theo kết cấu nhị nguyên. Nông thôn cũng có tổ chức tự phát triển với dòng tộc làm trung tâm, thành thị cũng có tổ chức tự phát với phường hội ngành nghề làm trung tâm, còn cơ cấu tổ chức từ trên xuống của vua quan về cơ bản chỉ quản lý công việc từ cấp huyện trở lên.
Đến thời hiện đại, Đức quốc xã — có thể sánh với Đảng Cộng sản về mức độ hà khắc và cực quyền chuyên chế — vẫn cho phép có quyền tư hữu, cho phép người dân có tài sản riêng. Vậy mà các chính quyền của Đảng cộng sản đều tiêu diệt sạch những tổ chức tự phát và các thành phần tự chủ, để thay vào đó là kết cấu tập trung quyền lực triệt để, ngay từ trên xuống dưới.
Nếu nói rằng loại hình thái xã hội trước là một loại do từ dưới lên trên, và để cho các tổ chức tự phát triển, các thành phần được tự chủ, trạng thái xã hội được trưởng thành một cách tự nhiên, thì như vậy chính quyền của Đảng cộng sản chính là một loại trạng thái xã hội phản tự nhiên.
Cái lý lẽ kia của Đảng cộng sản không chứa đựng tiêu chuẩn nhân tính phổ biến của con người. Khái niệm lương thiện và tham ác, tiêu chuẩn pháp luật và nguyên tắc đã bị bóp méo, thay đổi một cách tuỳ tiện. Luật của cộng sản cấm sát nhân, ngoại trừ giết những ai mà Đảng quyết định là kẻ thù. Hiếu cha kính mẹ là tốt, nhưng nếu cha mẹ bị loại vào giai cấp thù địch của Đảng thì không được hiếu thuận. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, vốn là tốt, ngoại trừ khi Đảng không muốn hoặc không bằng lòng . Những tiêu chuẩn làm người trong truyền thống dân tộc nay bị Đảng trút đổ và xoá bỏ triệt để, vì vậy Đảng cộng sản là phản nhân tính.
Tại tất cả các xã hội phi cộng sản, người ta nói chung đều thừa nhận rằng nhân tính Thiện và Ác đều cùng có mặt thực sự, sau đó dựa vào các khế ước cố định để đạt đến sự cân bằng của xã hội. Tuy nhiên, xã hội cộng sản không thừa nhận nhân tính, tức là không thừa nhận cái thiện lương trong nhân tính và cũng không thừa nhận cái tà ác tham lam trong nhân tính. Theo cách nói của Karl Marx, xoá sạch quan niệm Thiện và Ác chính là tiêu trừ triệt để cái kiến trúc thượng tầng[7] của thế giới cũ.
Đảng cộng sản không tin tưởng Thần hay Thượng đế, và cũng không tôn trọng vạn vật Tự nhiên. “Đấu với Trời, đấu với Đất, đấu với Người, hân hoan vô cùng”, đó là khẩu hiệu của Đảng cộng sản thời Cách mạng văn hoá. Đấu với Trời, đấu với Đất, tàn sát nhân dân.
Người Trung Quốc xưa nay vẫn tin rằng con người phải hoà hợp làm một với trời đất. Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử giảng rằng: “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên”[8], con người hoà hợp với tự nhiên là một trạng thái liên tục của vũ trụ.
Đảng cộng sản cũng là một loại sinh mạng, nhưng đó là sinh mạng phản Tự Nhiên, phản Trời, phản Đất, phản Người, là một loại sinh linh tà ác phản vũ trụ.

VI. Những biểu hiện đặc biệt của phụ thể tà linh

Tổ chức của Đảng cộng sản, bản thân nó không bao giờ có hoạt động sản xuất hay phát minh gì hết. Một mai, khi nắm được chính quyền, nó liền gắn bám vào nhân dân để thao túng và khống chế người dân; khống chế xuống tận từng đơn vị nhỏ bé nhất trong dân chúng để giữ gìn quyền lực, đồng thời là để lũng đoạn tài nguyên của quốc gia có được từ ban đầu, và để vơ vét tài vật của xã hội.
Ở Trung Quốc, tổ chức của Đảng cộng sản len lỏi đến tất cả mọi nơi, quản lý tất cả mọi thứ, nhưng nhân dân không có ai đã từng thấy được hồ sơ thu chi và dự tính về tài chính của Đảng cộng sản. Người ta chỉ thấy có báo cáo dự tính của quốc gia, của chính quyền địa phương, dự tính của doanh nghiệp,… chứ không bao giờ có báo cáo thu chi của Đảng. Từ chính quyền trung ương cho đến uỷ hội nông thôn, tất cả viên chức hành chính đều bị xếp vào cấp dưới viên chức của Đảng, vì thế các nhân viên hành chánh phải tuân theo chỉ thị từ các tổ chức của Đảng ngang cấp bực. Chi tiêu của Đảng cộng sản là do các đơn vị hành chánh cung cấp, nhưng không có hạng mục thống kê báo cáo.
Cách tổ chức này của Đảng — giống một con quỷ nhập xác ăn bám to tướng — đang bám chặt như hình với bóng vào từng tế bào đơn nguyên nhỏ nhất của xã hội Trung Quốc, len vào từng thớ thịt, găm vào từng mạch máu, để khống chế và thao túng nhân dân cũng như để rút kiệt tài nguyên xã hội.
Kết cấu ma quái của một sinh linh phụ thể như vậy trong lịch sử nhân loại đã từng có lúc xuất hiện, hoặc có tính cách cục bộ, hoặc có tính cách nhất thời, nhưng chưa bao giờ tồn tại vừa triệt để, rộng khắp, vừa kéo dài quá lâu, ổn định như Đảng cộng sản.
Cho nên, nông dân Trung Quốc mới bần cùng nghèo khổ đến thế. Họ đang cõng trên lưng không chỉ các viên chức hành chính theo thông lệ, mà còn cả các viên chức trong tổ chức của Đảng với số lượng không kém.
Cho nên, công nhân Trung Quốc lúc nào cũng sợ thất nghiệp, sợ sa thải đại quy mô đến thế. Các vòi hút máu của con quỷ ăn bám kia, bao năm nay vẫn len vào để tham nhũng, hút cạn tiền vốn của những nhà máy và cơ sở hạ tầng.
Cho nên, phần tử trí thức của Trung Quốc mới thấy tự do sao mà xa vời, khó khăn đến thế. Ngoài cơ cấu hành chính chủ quản ra, thì Đảng cộng sản đang chụp xuống mọi thứ, len vào mọi nơi, chỉ để giám sát và khống chế người dân mà không làm gì cho nhân dân cả.
Con quỷ nhập xác ăn bám có một đặc điểm rất biểu hiện đặc biệt: nó bắt vật chủ phải chịu khống chế tuyệt đối về tinh thần, từ đó nó mới có thể thâu nạp năng lượng để duy trì cuộc sống của mình.
Chính trị học hiện đại nhìn nhận rằng quyền lực trong xã hội có từ ba nguồn: bạo lực, tài phú, và tri thức. Đảng cộng sản lạm dụng bạo lực trắng trợn và ngang ngược: cướp đoạt tài sản của dân chúng — và nghiêm trọng hơn — tước đoạt quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí truyền thông của người dân, trấn áp tự do ý chí và tinh thần của người dân, tất cả là để đạt đến mục tiêu là quyền khống chế tuyệt đối toàn xã hội. Xét về mặt này, thì Đảng Cộng Sản Trung Quốc là một con quỷ nhập xác ăn bám có năng lực khống chế tinh thần rất chặt chẽ, từ xưa đến nay chưa từng xuất hiện thứ gì hung ác hơn chúng trong lịch sử của nhân loại.

VII. Tự kiểm điểm và thoát ra khỏi khống chế của phụ thể Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Trong văn kiện " Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản", phần cương lĩnh thứ nhất của Đảng Cộng Sản,  tư tưởng của Karl Marx là như thế này: “năm 1848, một âm hồn đang lang thang tại Âu Châu – âm hồn của chủ nghĩa cộng sản”[9] . Một trăm năm sau, chủ nghĩa cộng sản đã không chỉ là ‘âm hồn’ nữa, mà đã có một hình tượng vật chất cụ thể, hiện diện rõ ràng. ‘Âm hồn’ đó đã trở thành con quỷ, và trong thế kỷ qua, như một trận đại dịch lan tràn trên thế giới, nó đã cướp đi hàng trăm triệu sinh mạng, cướp đoạt của cải vật chất, và thậm chí tinh thần và linh hồn, vốn là tự do của biết bao dân chúng.
Nguyên tắc căn bản bắt đầu của Đảng cộng sản là tước đoạt tất cả tài sản tư hữu, tiến đến sự diệt tuyệt "giai cấp bóc lột". Thực ra, tài sản tư hữu thuộc về cá nhân là nền tảng của tất cả quyền lợi xã hội mà người dân được hưởng, lắm lúc cũng là một bộ phận trọng yếu góp phần gìn giữ văn hoá dân tộc. Người dân một khi đã bị tước đoạt tài sản riêng tư, thì tất nhiên, sẽ bị tước đoạt cả tự do tinh thần và tự do ý chí, rồi cuối cùng sẽ mất nốt quyền tự do tranh thủ quyền lợi xã hội và chính trị.
Khi đối diện trước nguy cơ sụp đổ lên đầu vào thập niên 1980, Đảng Cộng Sản Trung Quốc buộc phải tiến hành cải cách kinh tế, trả lại một số quyền lợi về tài sản tư hữu cho người dân. Điều ấy cũng đã tạo nên một lỗ hổng trong cỗ máy chính quyền của Đảng cộng sản Trung Quốc, một cỗ máy điều hành vốn đòi hỏi độ chính xác cao. Đến nay, lỗ hổng ấy càng ngày càng bị khoét rộng, nhất là vào tình trạng bây giờ khi mà toàn thể đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc đều điên cuồng ganh sức góp nhặt tiền của.
Đó chính là dấu hiệu cho thấy Đảng cộng sản Trung Quốc — con quỷ phụ thể, cường bạo và gian dối, liên tục thay đổi bộ mặt — đã đến lúc suy vong. Nó run sợ và cảnh giác trước bất kể khuấy động nhỏ nào. Hơn bao giờ hết, nó đang điên cuồng góp nhặt của cải và tăng cường quân cảnh xiết chặt, điều khiển dân chúng mong kéo dài mạng sống. Nhưng chính những trạng thái hành động đó đang khoét sâu thêm lỗ hổng khủng hoảng, đẩy mạnh nó đến chỗ nguy cơ.
Trung Quốc ngày nay, xem như là phồn vinh, nhưng nguy cơ đã chồng chất trong xã hội đang được đẩy tới mức độ căng thẳng chưa từng có. Không thay đổi tập tính của mình, chính quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn đang tái diễn những thủ đoạn xưa cũ dù đã có phần thoả hiệp và tinh vi hơn — đàn áp biểu tình tại Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 năm 1989, đàn áp Pháp Luân Công,… sau đó tìm cách ‘vuốt ve' — tất cả đều là thủ đoạn để tách một bộ phận thiểu số dân chúng mà Đảng gọi là ‘kẻ thù’ để ra oai vũ lực nhằm duy trì thống trị với hình thức nô dịch bằng khủng bố.
Dân tộc Trung Hoa trong quá trình hơn một trăm năm phải đối diện với những thách thức lớn, đã từ nhập khẩu vũ khí, cải cách chế độ, cho đến cách mạng cực đoan một cách kịch liệt. Tổn thất vô số sinh mạng, đánh mất đi hầu hết văn minh dân tộc truyền thống, như vậy, hiện tại minh chứng rằng cách ứng phó này vẫn là một thất bại. Trong sự phẫn uất, thù hận của toàn dân, Đảng cộng sản Trung Quốc đã cướp lấy thời cơ đoạt chính quyền, và con quỷ nhập xác ăn bám ấy đã khống chế một dân tộc có truyền thống văn minh lâu đời bậc nhất thế giới này.
Thấy rõ nguy cơ của tương lai, đại dân tộc Trung Hoa sẽ không tránh khỏi phải có quyết định lựa chọn một lần nữa. Nhưng dù là chọn thế nào, thì người dân Trung Quốc nhất định phải tỉnh táo, không nên mơ tưởng Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mà cần nhận thức rõ  ràng rằng tai nạn của dân tộc Trung Hoa thì Đảng cộng sản Trung Quốc không những không giải quyết mà còn gây thêm tranh chấp, đều làm tình huống trở nên khó khăn hơn, đều là trợ giúp con quỷ hung ác có thêm cơ hội chiếm hữu lâu hơn nữa.
Chỉ có cách suy xét thật tỉnh táo, vứt bỏ tất cả những ảo ảnh, cương quyết không để cho thù hận và sự mưu cầu lợi ích cá nhân làm ảnh hưởng, thì chúng ta mới có thể thoát khỏi cơn ác mộng trong 50 năm qua dài đăng đẳng, do con quỷ tà Cộng Sản thêu dệt nên. Bản thân là một dân tộc tự do, chúng ta có thể tái lập nền văn minh Trung  Hoa với nền tảng tôn trọng nhân tính và thiện lương cho tất cả.

Chú Thích
 [1]. Cuộc Cải Cách 100 Ngày kéo dài 103 ngày kể từ ngày 11 tháng sáu cho tới ngày 21 tháng chín năm 1898. Hoàng Đế Quang Tự (1875-1908) của nhà Thanh ra lệnh một loạt cải cách về mặt xã hội và hành chánh mặt dầu bị phản đối kịch liệt từ nhóm thủ cựu. Với sự  ủng hộ của Vương Thế Khải, Thái Hậu Từ Hy đã tạo ra cuộc chính biến vào ngày 21 tháng chín năm 1898. Bà ta đã đày Quang Tự vào biệt cung và nắm lấy chính quyền với cương vị nhiếp-chính. Cuộc Cải Cách 100 Ngày kết thúc bằng sự phế bỏ hết cả những tân chính của Quang Tự. Cùng lúc đó, sáu người chủ trương cuộc cải cách thì bị chặt đầu.
 [2]. Cách Mạng Tân Hợi, lấy tên từ năm âm lịch Tân Hợi, là cuộc lật đổ (10/10/1911 – 12/02/1912) chính quyền nhà Thanh và việc thành lập chế độ Cộng Hòa Trung Quốc.
 [3]. Phong Trào Ngày Bốn Tháng Năm là cuộc biểu tình đại qui mô đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc hiện đại và bắt đầu vào ngày 4 tháng 5 năm 1919.
 [4]. Từ http://eserver.org/marx/1848-communist.manifesto/cm4.txt
 [5]. Lá thư của Mao Trạch Đông gởi cho vợ là Giang Thanh (1966).
 [6]. Tài liệu từ http://www.debates.org/pages/trans2004a.html.
 ]7]. Siêu cơ cấu trong nội dung của lý thuyết xã hội Mác Xít đề cập tới đường lối giao tiếp giữa sự chủ quan của con người và thể vật chất của xã hội.
 [8]. Từ chương 25 trong Đạo Đức Kinh, một tác phẩm quan trọng nhất của đạo Lão, được viết bởi Lão Tử.
 [9]. Từ http://eserver.org/marx/1848-communist.manifesto/cm4.txt.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
 
 BÀI BÌNH LUẬN SỐ 2
 Đảng Cộng Sản Trung Quốc lập nghiệp như thế nào?

Lời mở đầu



Một người đàn ông Trung Hoa nhìn bức vẽ lãnh tụ Cộng Sản Trung Quốc Mao trạch Đông đang tuyên cáo sự thành lập Nước Cộng Hòa Nhân Dân tại cửa Cấm Thành năm 1949. Cho dù Đảng Cộng Sản Trung Quốc tự nhận như vậy, thì trái lại lịch sử của ĐCSTQ là đầy máu của kẻ vô tội và bị lường gạt (Ảnh: Goh Chai Hin/AFP/Getty Images)

Theo sách "Thuyết Văn Giải Tự" [1] từ văn bản của Xu Shen (147 AD đời nhà Đông Hán), thì chữ Hán “Đảng” có nghĩa là “bè” hay là “bọn”; theo mẫu tự truyền thống là ghép từ chữ “thượng”  ở trên ( thuộc về bộ Tiểu và có nghĩa là 'ưa chuộng') với chữ "hắc" (thuộc về bộ Hắc là bộ gốc nằm ở dưới và có nghĩa là 'đen tối' ).  Ghép hai chữ ấy lại thành chữ 'Đảng' có nghĩa là “ưa chuộng cái đen tối”.  “Đảng” hay “đảng viên” (ý là “bè” hay “bè lũ”) mang một ý nghĩa mà ngài Khổng Tử đã từng giảng: "Ngô văn quân tử bất đảng" ( tạm dịch “người quân tử nổi tiếng, ta cũng không a dua theo ai mà kéo bè kết đảng”).  Trong "Luận Ngữ" của ngài giảng rằng: "Tương trợ nặc phi viết đảng", ( tạm dịch “giúp đỡ lẫn nhau che đậy hành vi bất chánh thì chính là bè đảng)[2].  Trong lịch sử Trung Quốc, các tập đoàn chính trị nhỏ thường thường bị xem là ‘bè đảng’, mà theo văn hóa truyền thống Trung Hoa, thì là kéo bè kết bọn làm điều xấu; nếu đem so với câu 'hồ bè cẩu đảng' thì cũng là cùng một nghĩa.
Vậy thì tại sao Đảng Cộng Sản lại xuất hiện, trưởng thành và thậm chí còn chiếm đoạt chính quyền hiện tại ở Trung Quốc?  Từ xưa đến nay Đảng Sộng Sản Trung Quốc liên tục dỉ tai người ta rằng lịch sử chọn Đảng Cộng Sản Trung Quốc, rằng nhân dân Trung Quốc đã lựa chọn Đảng Cộng Sản, rằng “không có Đảng Cộng Sản thì không có một Trung Quốc mới.”
 Vậy có phải người dân Trung Quốc đã chủ động chọn Đảng Cộng Sản hay không?   Hay là chính Đảng Cộng Sản đã tụ tập bè đảng để cưỡng ép nhân dân Trung Quốc phải chấp nhận chúng?  Chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời này từ lịch sử.
Từ cuối đời Mãn Thanh (1644-1911) cho đến đầu thời kỳ Dân Quốc (1911–1949); Trung Quốc đã trải qua bao nhiêu chấn động từ bên ngoài và phải trải qua bao nhiêu cải cách ở bên trong.  Xã hội Trung Hoa rối loạn thảm thương.  Nhiều phần tử trí thức và sĩ phu ái quốc muốn cứu nước cứu dân.  Tuy nhiên giữa lúc quốc gia suy yếu và hỗn loạn, ý thức ưu tư lo lắng của họ khởi lên càng nhiều, đưa đến trước hết là thất vọng và sau đó là hoàn toàn tuyệt vọng.  Cũng giống như một người bệnh đi tìm bất cứ bác sĩ nào, họ tìm cách giải quyết từ bên ngoài Trung Quốc.  Từ Anh Quốc cho đến Pháp Quốc, phương cách nào cũng thất bại, sau đó họ đổi sang cách của nước Nga.  Họ không ngần ngại đưa ra một liều thuốc điều trị cực kỳ mãnh liệt với hy vọng rằng Trung Quốc sẽ nhanh chóng phục hồi.
Cuộc vận động ngày 4 tháng 5 vào năm 1919 là phản ảnh rõ rệt nỗi tuyệt vọng này.  Một số người chủ trương chủ nghĩa Vô Chính Phủ.  Một số người đề xuất lật đổ học thuyết Nho Giáo, lại có một số người đề nghị du nhập văn hoá nước ngoài.  Tóm lại, thái độ của họ là phủ nhận văn hoá truyền thống Trung Quốc và phản đối đạo lý Trung Dung của Nho Giáo.  Vì nóng lòng muốn dùng biện pháp tắt nhanh hơn, những gì thuộc về truyền thống thì họ chủ trương lật đổ tất cả.  Các phần tử cấp tiến này (với quan điểm cực đoan), một mặt không tìm ra phương sách cứu quốc gia, nhưng mặt khác họ lại tin tưởng chắc chắn vào lý tưởng và ý chí của chính mình. Họ cho rằng thế giới này thực ra không còn thuốc gì để cứu chữa nữa, và tin rằng chỉ có chính mình mới tìm ra giải pháp thích hợp cho sự phát triển tương lai của Trung Quốc.  Do đó họ theo cách mạng và bạo lực với đầy nhiệt tình to lớn.
Kinh nghiệm khác nhau giữa các nhóm trí sĩ yêu nước khác nhau đã dẫn đến lý luận, học thuyết và đường lối khác nhau.  Cuối cùng một nhóm người đã gặp người liên lạc của Đảng Cộng Sản từ Liên Xô.  Tư tưởng “chiếm đoạt chính quyền bằng cách mạng bạo lực.” của Marx và Lenin đã được nghênh đón với lòng nôn nóng của họ, và cũng phù hợp với nguyện vọng cứu nước cứu dân của họ.  Lập tức họ thành lập một liên minh.  Thế là, chủ nghĩa Cộng Sản, một tư tưởng nước ngoài hoàn toàn xa lạ, được đem vào nước Trung Hoa cổ xưa.  Tổng cộng là có 13 đại biểu tham dự Đại Hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc đầu tiên.  Sau đó, một số thì chết, một số bỏ đi, một số phản bội Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hoặc chạy theo cơ hội mà làm việc cho quân Nhật đang chiếm đóng và trở thành Hán gian, hoặc là ly khai khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc và gia nhập Quốc Dân Đảng. Đến năm 1949, khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc chiếm được quyền hành của Trung Quốc, chỉ có Mao Trạch Đông và Đổng Tất Vũ là còn lại trong số 13 đảng viên lúc khởi đầu.  Không rõ là những người thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc lúc đó có biết rằng “thần linh” mà họ rước về từ Liên Xô tức là một "tà linh” hay không, và không rõ là họ có biết “linh dược” mà họ mang về để làm quốc gia cường mạnh kỳ thực là một “thuốc độc” giết người hay không?
Đảng Cộng Sản Nga (Bolshevik, sau này được xem là Đảng Cộng Sản Liên Sô), ngay sau khi thành công trong cách mạng, đã có dã tâm dòm ngó Trung Quốc.  Năm 1920, Liên Xô thành lập văn phòng Bí thư Viễn Đông tại Tây Bá Lợi Á, là một chi nhánh của Cộng Sản Quốc Tế Đệ Tam, với nhiệm vụ thành lập và quản lý Đảng Cộng Sản tại Trung Quốc và các quốc gia khác. Sumiltsky là trưởng phòng, và Grigori Voitinsky là phụ tá.  Họ cùng với Trần Độc Tú và một số người khác bắt đầu chuẩn bị để thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc.  Đề nghị được đưa lên văn phòng Bí thư Viễn Đông vào tháng 6 năm 1921 ở Tây Bá Lợi Á với kế hoạch thành lập một chi nhánh Trung Quốc của Cộng Sản Quốc Tế Đệ Tam, đã chứng nhận rằng Đảng Cộng Sản Trung Quốc là một chi bộ của Cộng Sản Quốc Tế Đệ Tam.  Vào ngày 23 tháng bảy năm 1921, dưới sự trợ giúp của Nikolsky và Maring của văn phòng Bí Thư Viễn Đông, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chính thức được thành lập. 
Từ đó cuộc vận động chủ nghĩa Cộng Sản đã bị đưa vào Trung Quốc như là một thí nghiệm, cũng từ đó sinh mạng của Đảng được đặt trên tất cả; nó chinh phục tất cả, và bắt đầu lừa bịp Trung Quốc vì thế mà liên tục mang đến vô vàn tai họa cho Trung Quốc.

I. Sự lập nghiệp của Đảng Cộng Sản là một quá trình liên tục tích tụ tà ác

Mang một thứ “tà linh” ngoại lai, như là Đảng Cộng Sản, vào Trung Quốc, một quốc gia với lịch sử 5 ngàn năm văn minh, không phải là một sự việc dễ dàng, vì nó hoàn toàn không hợp với truyền thống của người Trung Hoa.  Với "tư tưởng đại đồng của chủ nghĩa Cộng Sản”, toàn dân và những nhà trí thức yêu nước, những người muốn phục vụ quốc gia, đã bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc lừa bịp.  Thêm vào đó, Đảng còn bóp méo những lý luận của chủ nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa mà trước đây đã bị Lenin bóp méo một cách nghiêm trọng rồi, để dựng nên một lý luận căn bản cho việc tận diệt tất cả những tư tưởng, nguyên tắc đạo đức cổ truyền.  Ngoài ra, sự bóp méo lý luận của chủ nghĩa Cộng Sản  chính là dùng để tiêu diệt bất cứ những gì làm bất lợi cho sự thống trị của Đảng Cộng Sản, và để tiêu diệt tất cả giai cấp xã hội và bất cứ nhân sĩ nào mà có thể đe dọa đến sự thống trị của chúng.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc áp dụng sự tiêu diệt tín ngưỡng qua Cách Mạng Công Nghiệp , cũng như áp dụng triệt để hơn học thuyết Vô Thần của chủ nghĩa Cộng Sản .  Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn thừa kế sự phủ nhận quyền tư hữu trong chủ nghĩa Cộng Sản , và chúng áp dụng cách mạng bạo lực theo lý thuyết của Lenin.  Đồng thời Đảng Cộng Sản Trung Quốc lại còn thừa kế và phát triển phần tệ hại nhất trong chế độ quân chủ của người Trung Hoa.
Lịch sử của Đảng Cộng Sản Trung Quốc là một quá trình dần dần thu nhập bất cứ đường lối tàn bạo, tà ác nào, từ trong và ngoài nước. Trong quá trình này, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã làm hoàn hảo chín cái nhân di truyền mà "đặc sắc Trung Quốc" là: Tà ác, lường gạt, xúi giục, lưu manh, gián điệp, cướp đoạt, đấu tranh, tiêu diệt, khống chế.  Những cái nhân di truyền này được thừa truyền liên tục, và qua mỗi lần nguy cơ khủng hoảng, thì chúng lại càng tiến đến một bước mà thủ đoạn và trình độ tà ác của Đảng Cộng Sản càng mạnh mẽ và phát triển hơn.

1. Nhân di truyền thứ nhất: Tà ác--- Khoác lên tấm áo choàng tà ác của chủ nghĩa Marx-Lenin

Điều đầu tiên Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thấy hấp dẫn ở chủ nghĩa Marx chính là: “Dùng cách mạng bạo lực để đập tan chế độ cũ, tạo dựng chính quyền chuyên chính của giai cấp vô sản”. Đó chính là cội rễ tà ác trong chủ nghĩa Marxít-Lêninít.
Lý luận trong chủ nghĩa duy vật của Karl Marx (Các-Mác) là khái niệm về kinh tế rất chật hẹp nông cạn dựa trên sức sản xuất, quan hệ sản xuất, và giá trị thặng dư. Vào thời kỳ đầu của giai đoạn chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, Karl Marx đã dự đoán thiển cận rằng chủ nghĩa Tư bản sẽ sớm diệt vong, rằng giai cấp vô sản sẽ thắng lợi. Trên thực tế, lịch sử đã phủ nhận điều ấy. Cách mạng bạo lực và sự chuyên chính của giai cấp vô sản trong chủ nghĩa Marxít-Lêninít chủ trương áp đặt nền chính trị cường quyền, độc tài với giai cấp vô sản làm chủ. Bản Tuyên ngôn của Cộng sản đã lấy sự đối lập giai cấp và đấu tranh giai cấp để trình bày quan điểm lịch sử và quan điểm triết học của Đảng cộng sản. Mục đích đấu tranh của bọn vô sản là để đả phá mọi đạo đức truyền thống và quan hệ xã hội, và cướp đoạt chính quyền. Ngay từ khi xuất hiện, chủ nghĩa Cộng Sản đã đối chọi với tất cả những gì truyền thống.
Thiên tính tự nhiên của con người thông thường là tẩy chay bạo lực. Con người trong bạo lực biến đổi thành bạo ngược. Học thuyết bạo lực của Đảng cộng sản đều bị nhân loại, trên bản tánh, phủ nhận, từ chối ở khắp nơi. Tất cả các hệ tư tưởng, triết học, truyền thống trong quá khứ đều không có chủ trương nào như thế cả. Hệ thống khủng bố của cộng sản đúng là từ trên không rơi xuống trái đất.
 Loại quan niệm tà ác này có tiền đề là “nhân định thắng thiên”, con người cải tạo lại thế giới. Những lý tưởng như “giải phóng toàn nhân loại”, “thế giới đại đồng”[3] mà Đảng cộng sản dùng để lường gạt, đã thu hút được không ít người, đặc biệt là những người quan tâm đến tình trạng của con người, hoặc khao khát lập sự nghiệp trong xã hội. Bọn họ quên rằng ở trên còn có Trời. Những lời dối trá rất đẹp đẽ như xây dựng “thiên đường tại nhân gian" đã khiến họ miệt thị truyền thống, coi thường sinh mạng người khác, mà thực ra là làm cho sinh mạng của chính mình còn nhẹ hơn lông hồng..
 “Chủ nghĩa Cộng Sản thế giới” được con người chế tạo ra để phụng thờ như chân lý, kích động nhiệt tình của người ta để  “sục sôi nhiệt huyết trong tim, quyết phen này sống chết, …” [4]. Đảng cộng sản sử dụng ý niệm hoang đường, tuyệt đối như thế để cắt đứt quan hệ giữa con người và Trời ở trên, cắt đứt chính họ với tổ tông, với huyết mạch truyền thống của dân tộc. Từ đó khiến người ta hiến thân cho chủ nghĩa Cộng Sản hoang đường, và gia trì năng lượng tàn sát, bạo ngược của Đảng Cộng Sản.

2.  Nhân di tryền thứ hai: Lường gạt-- ma quỷ muốn giả dạng thần linh thì phải lường gạt.

Kẻ tà chắc chắn phải lường gạt.  Để lợi dụng công nhân, Đảng Cộng Sản tán dương họ thành “giai cấp tiên tiến nhất”, “đại công vô tư”, “giai cấp lãnh đạo”, “đội quân tiên phong của giai cấp cách mạng vô sản”… Để lợi dụng nông dân, Mao Trạch Đông vuốt ve “không có bần nông thì không có cách mạng, đả kích nông dân chính là đả kích cách mạng”[5] rồi hứa hẹn “người cày có ruộng”… Đến lúc cần giai cấp tư sản ủng hộ, Đảng cộng sản thổi phồng họ lên thành “bạn đồng hành của cách mạng vô sản” rồi hứa hẹn một chế độ “dân chủ cộng hoà”. Khi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) gặp nguy cơ suýt bị Quốc Dân Đảng tiêu diệt, bèn hô hào “người Trung Quốc không hại người Trung Quốc”, và hứa hẹn sẽ phục tùng sự lãnh đạo của Quốc Dân Đảng. Kết quả là gì? Kháng chiến Trung-Nhật vừa kết thúc(1937-1945), ĐCSTQ gom toàn lực lật đổ chính quyền Quốc Dân Đảng. Sau khi chiếm đoạt chính quyền không lâu, ĐCSTQ lập tức tiêu diệt giai cấp tư sản, và biến công nhân và nông dân thành giai cấp vô sản triệt để, chẳng còn một chút sở hữu gì.
‘Thống nhất chiến tuyến’ là thủ đoạn lường gạt điển hình của Đảng Cộng Sản. Để giành thắng lợi trong cuộc nội chiến giữa Đảng cộng sản và Quốc Dân Đảng, Đảng cộng sản Trung Quốc đã thay đổi kế sách trước đó vốn coi địa chủ phú nông là giai cấp thù địch phải giết bỏ, mà thay bằng “chính sách thống nhất chiến tuyến lâm thời”. Ngày 20 tháng 7 năm 1947, Mao Trạch Đông ra chỉ thị: “ngoài một số ít những phần tử phản cách mạng, thì phải có thái độ hoà hoãn, nới lỏng với giai cấp địa chủ… giảm bớt kẻ thù”. Nhưng sau khi ĐCSTQ chiếm được chính quyền, địa chủ phú nông vẫn không thoát khỏi vận mạng của ‘quần thể bị tiêu diệt triệt để'.
Nói một đằng làm một nẻo là điều bình thường đối với Đảng cộng sản. Khi Đảng Cộng Sản cần lợi dụng  đảng phái dân chủ, liền kêu gọi “sống chung lâu bền, giúp nhau quản lý, thành thật với nhau, vinh nhục có nhau, v. v.”.. Bất cứ ai không đồng ý hay từ chối theo tư tưởng, hành xử, và tổ chức của Đảng đều bị tiêu diệt. Marx, Lenin, và các lãnh tụ Đảng cộng sản đều từng tuyên bố thẳng rằng, quyền lực chính trị của Đảng Cộng Sản không chia xẻ với bất cứ ai hay tổ chức nào khác. Ngay từ đầu, độc tài chuyên chế đã là nhân di truyền bất di bất dịch của chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản Trung Quốc là bạo ngược và độc tài. Nó chưa bao giờ cùng sinh sống thành thực với bất cứ đảng phái chính trị hay tập đoàn nào cả, bất kể là trong thời kỳ cướp được chính quyền hay nắm chính quyền, kể cả vào những thời kỳ “nới lỏng” nhất.
Bài học lịch sử dạy rằng không thể tin vào bất cứ hứa hẹn nào của Đảng Cộng Sản, đừng mong tưởng Đảng Cộng Sản thực hiện sự cam kết. Ai tin lời Đảng Cộng Sản vào bất cứ vấn đề gì, rồi sẽ có ngày phải trả giá bằng tính mạng của chính mình.

3.  Nhân di truyền thứ ba: Xúi bẩy--- gây hận thù trong nhân dân, phân nhóm đấu nhau

Lường gạt là để kích động thù hận. Đấu tranh thì phải dựa vào thù hận. Đâu không có thù hận, thì Đảng Cộng Sản xúi bẩy, tạo ra thù hận.
Loại hình thức chế độ dòng tộc và sở hữu đất đai đã ăn sâu vào nông thôn Trung Quốc. Đó là chướng ngại lớn trên con đường thiết lập chính quyền của Đảng Cộng Sản. Xã hội nông thôn vốn là hài hoà. Quan hệ giữa địa chủ có sở hữu đất đai và nông dân được thuê dùng không phải là quan hệ đối lập tuyệt đối. Địa chủ cho nông dân thuê đất canh tác, còn nông dân dựa vào đó để sinh sống và nộp tiền thuê hay thóc lúa cho địa chủ. Địa chủ và nông dân dựa vào nhau mà sống qua hàng bao nhiêu thế hệ như thế.
Quan hệ ‘dựa vào nhau để sinh tồn’ ở một mức độ nào đó đã bị Đảng Cộng Sản bóp méo thành quan hệ của giai cấp bóc lột, giai cấp đối nghịch. Nó biến đổi bè bạn thành cừu địch, biến hài hoà thành chống đối, làm thành thù hận, làm thành đấu tranh, biến hợp lý thành vô lý, biến trật tự thành hỗn loạn, biến đổi cộng hoà thành chuyên chế. Đảng Cộng Sản chủ trương cướp đoạt tài sản, vừa cướp của giết người, giết bản thân người địa chủ phú nông đó, giết người nhà của địa chủ phú nông, rồi giết đến cả gia tộc của địa chủ phú nông. Có nhiều người nông dân không đành lòng theo kẻ cường bạo nên ban ngày thì cướp nhưng đến đêm lại quay lại trả đồ cho gia chủ; rồi bị đội công tác biết được và bị chỉ trích là “giác ngộ về giai cấp” không cao.
Bạch mao nữ  [6]vốn là một câu chuyện xưa về tiên nữ, không có liên quan gì đến đấu tranh giai cấp hay áp bức bóc lột. Nhưng đội văn công đã sửa đổi biên soạn thành kịch nói, ca kịch, rồi cả kịch múa ballet, và dùng để xúi bẩy, kích động thù hận giai cấp.
Vào Thế Chiến Thứ Hai, khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, Đảng cộng sản đã không đánh Nhật, mà còn công kích chính phủ Quốc Dân Đảng là bán nước vì không đánh Nhật, thậm chí ngay lúc quốc gia lâm nguy, nó còn xúi bẩy người dân chống lại Quốc Dân Đảng.
Xúi bẩy thù hận giữa một nhóm người dân này với một nhóm người dân khác là một thủ đoạn rập khuôn cho các cuộc vận động của Đảng Cộng Sản. Công thức phân chia giai cấp dân chúng ‘95:5’ cũng từ đó mà ra. Đảng Cộng Sản sau này đều dùng nó trong các phong trào chính trị, cho đến nay đã không ngừng phát triển thành một thủ đoạn nhuần nhuyễn. Đảng cộng sản chia dân chúng thành hai phần, 95% và 5%, trong đó nếu rơi vào phần 95% thì an toàn vô sự, còn rơi vào phần 5% thì bị coi như kẻ thù phải bị thanh trừng đấu tố. Vì sợ hãi và muốn an toàn, bảo hộ cho chính mình mà người dân phải tranh đấu để chuyển sang phần 95%. Hậu quả là họ hãm hại lẫn nhau, tạo thù hận sâu sắc giữa mọi người.

4.  Nhân di truyền thứ tư: Lưu manh, côn đồ ---Lấy lưu manh, cặn bã xã hội lập thành đội ngũ cơ bản.

Lưu manh, côn đồ là cơ sở của tà ác, muốn tà thì phải dùng bọn lưu manh, côn đồ, cặn bã của xã hội. Những cuộc cách mạng thường thường đều xuất phát từ những phần tử lưu manh, cặn bã trong xã hội nổi loạn lên mà thành. Ví dụ điển hình là cách mạng của ‘Công xã Pa-ri (the Paris commune)', mà thực sự bao gồm đốt phá, giết người, bạo ngược được dẫn đầu bởi bọn lưu manh, cặn bã xã hội. Ngay Karl Marx cũng khinh rẻ giai cấp vô sản lưu manh này [7], trong bản Tuyên ngôn của Cộng sản [8], Marx viết rằng “Cái ‘giai cấp nguy hiểm’, cặn bã xã hội, mà là thành phần thối nát tiêu cực bị vứt đi bởi tầng lớp hạ cấp nhất trong xã hội cũ, thì có thể ở chỗ này chỗ nọ được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho những mưu đồ của phe phản động.” Còn nông dân, trên phương diện khác, theo Karl Marx và Engels, được coi là có tính phân tán và tính ngu muội nên “không xứng đáng là một giai cấp”.
Đảng cộng sản Trung Quốc còn phát triển xa hơn những thứ trong tư tưởng Karl Marx về phương diện tà ác. Mao Trạch Đông nói: “lưu manh, côn đồ, cặn bã xã hội là tầng lớp vứt đi của xã hội, nhưng trong cách mạng nông thôn, thì họ là dũng cảm nhất, triệt để nhất, kiên quyết nhất” [9]. Bọn lưu manh vô sản là đội ngũ gia tăng bạo lực và duy trì chính quyền ở nông thôn cho Đảng Cộng sản Trung Quốc  (ĐCSTQ) vào thời kỳ đầu. Danh từ ‘cách mạng’ trong tiếng Trung Hoa có nghĩa là ‘cắt đứt sinh mạng’ (= giết), trên thực tế nó diễn ra đúng như vậy. Đối với người dân lương thiện, nó thật kinh khủng và khiếp hãi. Ban đầu Đảng Cộng Sản tự nhận là ‘vô sản lưu manh’, nhưng đến thời Cách mạng Văn hoá, bọn chúng cảm thấy danh từ ‘lưu manh’ như thế không tốt, khó lọt tai, nên bỏ nó đi, và tự nhận là người ‘vô sản’.
Bọn lưu manh, côn đồ thường có biểu hiện vô lại một cách ngu xuẩn. Có lần bị chỉ trích là độc tài, viên chức Đảng cộng sản đã biểu lộ khuynh hướng côn đồ, vô liêm sỉ mà chẳng ngượng miệng trả lời trắng ra rằng: “anh nói đúng, chúng tôi chính là như vậy. Qua tất cả những kinh nghiệm mà người Trung Quốc trải qua mấy chục năm nay, đòi hỏi chúng tôi phải thực hành “nhân dân dân chủ chuyên chính”. Chúng tôi gọi đó là “nhân dân dân chủ độc tài”.

5. Nhân di truyền thứ năm: Gián điệp - thâm nhập, ly gián , mua chuộc, phá tan, thay thế

Lừa dối, kíck động bạo lực, sử dụng bọn lưu manh, cặn bã xã hội còn chưa đủ, những kỹ thuật gián điệp và gây chia rẽ cũng được Đảng Cộng Sản sử dụng thành thạo. Nằm vùng là sở trường của Đảng Cộng Sản. Mấy thập niên trước đây có ba gián điệp ‘xuất sắc đứng đầu’— Tiền Tráng Phi, Lý Khắc Nông và Hồ Bắc Phong — đều ở dưới sự chỉ huy của Trần Canh, trưởng khoa số 2 Trường Đặc vụ Trung ương của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tiền Tráng Phi là thư ký đặc vụ và là tuỳ tùng thân tín của Từ Ân Tăng, chủ nhiệm Ban Điều Tra Trung Ương của chính phủ Quốc Dân Đảng, Tiền Tráng Phi đã bí mật gởi tin tức tình báo về điều quân chiến lược lần một và hai của Quốc Dân Đảng trong việc bao vây Đảng cộng sản ở tỉnh Giang Tây, rồi dùng hệ thống nội bộ chuyển thư của Trung Ương Quốc Dân Đảng mà gởi hai lần tới Lý Khắc Nông để hắn mang tay đến cho Chu Ân Lai [10]. Tháng 4 năm 1930, một nhóm đặc vụ hai-mặt do Ban Điều tra Trung ương Quốc Dân Đảng tổ chức và chu cấp chi phí đã được thành lập ở đông bắc Trung Quốc. Trên bề mặt, đó là của Quốc Dân Đảng do Tiền Tráng Phi chỉ huy, nhưng thực chất là của Đảng cộng sản dưới sự chỉ huy của Trần Canh.
Lý Khắc Nông ban đầu gia nhập Bộ Tổng tư lệnh Hải Lục Không quân Quốc Dân Đảng với chức vụ dịch giải mật mã. Chính Lý Khắc Nông đã giải mật mã tin khẩn cấp về việc bắt giữ và tạo phản của Cố Thuận Chương [11], một chỉ huy trưởng phòng An Ninh của Đảng cộng sản. Tiền Tráng Phi đã lập tức chuyển bức điện đã giải mã cho Chu Ân Lai, vì vậy một số lớn gián điệp của Đảng cộng sản mới thoát khỏi lưới.
Dương Đăng Doanh, một đặc vụ thân Cộng làm ở Ban Điều tra Trung Ương Quốc Dân Đảng, biệt phái ở Thượng Hải. Khi Đảng cộng sản thấy đảng viên nào không đáng tin nữa, liền ra lệnh cho Dương đi bắt họ và đem đi hành quyết. Một cán bộ lão thành của Đảng cộng sản ở Hà Nam, do làm mích lòng một đảng viên khác, vì thế liền bị phe của họ Dương giựt dây bầy mưu để tống giam ông ta vào nhà ngục của Quốc Dân Đảng trong nhiều năm.
Vào thời chiến tranh Giải Phóng [12] tình báo của Đảng cộng sản Trung Quốc đã cài được một tên nằm vùng là người rất thân cận với Tưởng Giới Thạch [13], đó là Lưu Phỉ, trung tướng và là thứ trưởng Bộ quốc phòng, và cũng là người nắm quyền điều động quân đội của Quốc Dân Đảng. Khi quân lính Quốc Dân Đảng còn chưa nhận được lệnh điều binh, thì tin tình báo đã lọt sang Diên An, tổng hành dinh của Đảng cộng sản. Quân Quốc Dân Đảng chưa đến thì Đảng cộng sản đã có kế hoạch phòng bị rồi. Có một lần Hùng Hướng Huy, bí thư và là tuỳ tùng thân tín của Hồ Tôn Nam [14] đã tiết lộ kế hoạch hành quân đánh Diên An cho Chu Ân Lai. Kết quả, khi Hồ Tôn Nam mang quân đến, chỉ thấy Diên An là cái thành trống không. Chu Ân Lai đã từng nói: “Mệnh lệnh tác chiến của Tưởng Giới Thạch còn chưa đến các Tư Lệnh Bộ Binh của họ Tưởng, mà Mao chủ tịch đã thấy được rồi”.

6. Nhân di truyền thứ sáu:  Trấn lột - Trấn lột bằng thủ đoạn hoặc bạo lực, rồi thiết lập ‘trật tự mới’

Tất cả những gì Đảng cộng sản đạt được là từ cướp bóc mà ra. Khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dựng lập Hồng Quân để cai trị bằng quân sự, thì chúng cần phải có tiền cho võ khí đạn dược, lương thực, và quần áo. Do đó, Đảng cộng sản phải ‘gây quỹ’ qua hình thức là dùng thủ đoạn trấn lột nhà giàu địa phương hoặc cướp ngân hàng, hành tung giống hệt băng đảng đi cướp bóc. Ví dụ Lý Tiên Niệm [15], một lãnh đạo cao cấp trong quân đội Hồng Quân, có nhiệm vụ là điều hành Hồng Quân đi bắt cóc những người nhà giàu trong vùng Ngạn Tây tỉnh Hồ Bắc. Chúng không những chỉ bắt một người, mà còn chọn ra mỗi dòng tộc giàu có, bắt cóc lấy một người. Người bị bắt vẫn được sống để chúng dùng họ mà tống tiền nhiều lần gia đình nạn nhân để lấy tiền phục vụ cho Hồng Quân. Chỉ đến chừng nào Hồng Quân thỏa mãn đòi hỏi hoặc gia đình nạn nhân đã cạn kiệt tiền tài, chúng mới thả người ra, phần nhiều là lúc họ sắp chết. Có những trường hợp do bị khủng bố và tra tấn quá nhiều, nên chưa về đến nhà thì họ đã chết.
Dưới chiêu bài “đả đảo địa chủ để lấy ruộng”, Đảng Cộng Sản triển khai rộng rãi thủ đoạn trấn lột ra toàn xã hội, thay thế truyền thống với ‘trật tự mới’ của Đảng. Đảng Cộng Sản làm đủ điều ác, to có nhỏ có, và không làm được điều gì tốt cả. Nó thường dùng những món lợi nhỏ dụ dỗ người ta để xúi bẩy một số người đi tố cáo một số người khác. Kết quả là thiện lương và đạo đức trong xã hội bị hoàn toàn biến mất, và được thay thế bởi đấu tranh và giết chóc. “Cộng sản đại đồng” thực tế chính là đồng nghĩa với công khai trấn lột, cướp đoạt bằng bạo lực.

7. Nhân di truyền thứ bẩy: Đấu tranh — Tiêu hủy trật tự truyền thống và chế độ quốc gia

Lường gạt, xúi bẩy, lưu manh, thâm nhập nằm vùng đều là để cướp đoạt và đấu tranh. Triết lý của Đảng cộng sản là triết lý đấu tranh. Cách mạng của Cộng sản quyết không phải chỉ có đấu tranh, và cướp bóc vô tổ chức. Mao nói rằng: “ Mục tiêu chủ yếu trong sự công kích của nông dân là nhắm vào cường hào địa chủ, nhưng qua đó cũng đả phá sạch luôn tất cả các chế độ và các loại tư tưởng về gia pháp tổ tông, thanh lý tham quan ô lại, cũng như tập quán cũ của xóm làng.” [16].  Mao rõ ràng đã ra lệnh tiêu huỷ tất cả chế độ truyền thống và tập quán của nông thôn.
Đấu tranh của Đảng cộng sản còn bao gồm cả đấu tranh võ trang. “Cách mạng không phải là mở tiệc đãi khách, không phải là ngâm thơ làm văn, không phải là vẽ tranh thêu thùa; nó không phải là một thứ trang nhã kiểu cách, êm đềm thư thả, nhẹ nhàng nho nhã, khiêm cung ôn hoà. Cách mạng là bạo lực, là giai cấp này dùng bạo lực lật đổ giai cấp kia”[17]. Khi cướp đoạt chính quyền, tất phải dùng tranh đấu bạo lực. Chỉ mấy chục năm sau, nhân di truyền về đấu tranh như vậy lại được Đảng cộng sản dùng để ‘giáo dục’ thế hệ kế tiếp trong Cách mạng Văn hoá.

8. Nhân di truyền thứ tám:  Diệt - Chế tạo một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về diệt tuyệt quần thể

Đảng Cộng Sản làm rất nhiều việc gian ác, tuyệt tình nghĩa: hứa hẹn ‘thiên đường ở nhân gian’ cho trí thức, sau đó xếp họ vào ‘cánh Hữu’, rồi vào hàng thứ chín [18] của giai cấp thù địch và phải bị tiêu diệt cùng với địa chủ và các phần tử phản cách mạng. Nó còn làm những việc như cướp đoạt gia tài của các nhà tư bản và địa chủ, tiêu diệt địa chủ và phú nông, phá bỏ trật tự ở thôn quê, đảo lộn và cướp đoạt chính quyền địa phương, bắt cóc tống tiền phú nông, tẩy não tù binh, cải tạo giai cấp công thương và tư bản, cài gián điệp và ly gián Quốc Dân Đảng, ly khai khỏi Cộng sản quốc tế rồi sau đó phản bội Cộng sản quốc tế, trừ sạch phần tử đối lập qua nhiều cuộc vận động chính trị liên tiếp kể từ khi cướp được chính quyền năm 1949, đe doạ những đảng viên của mình, v.v., tất cả các việc làm đều rất tuyệt tình nghĩa.
Tất cả những sự việc kể trên đều dựa trên nền tảng lý luận của Đảng Cộng Sản về diệt tuyệt quần thể. Mỗi một cuộc vận động chính trị trong lịch sử Đảng cộng sản đều là một chiến dịch khủng bố với ý định diệt sạch một quần thể dân chúng. Ngay từ đầu, Đảng cộng sản đã bắt đầu chế tạo liên tục một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về diệt tuyệt quần thể, mà đến từ những lý luận của Đảng cộng sản như — giai cấp luận, cách mạng luận, đấu tranh luận, bạo lực luận, chính quyền chuyên chế luận, vận động luận, đảng phái chính trị luận,… — toàn là tổng hợp của các kinh nghiệm thực tiễn đủ loại đủ kiểu về diệt tuyệt quần thể.
Điểm đặc sắc nhất trong việc diệt tuyệt quần thể  của Đảng Cộng Sản là nó diệt tuyệt lương tri và nhân tính từ trên tư tưởng. Điều này phù hợp với phương pháp thống trị bằng bạo lực, khủng bố để phục vụ các lợi ích căn bản của tập đoàn. Nó phải tiêu diệt bạn vì bạn phản đối nó; nhưng cũng có thể phải tiêu diệt bạn chính vì bạn ủng hộ nó. Khi nó nhận thấy rằng cần phải tiêu diệt ai, thì nó phải tìm cách tiêu diệt. Vì vậy ai cũng cảm thấy nguy cơ bên mình, và đều sợ hãi Đảng cộng sản.

9. Nhân di truyền thứ chín: Khống chế - Dùng Đảng tính để khống chế toàn đảng, rồi giáo dục lại toàn dân và toàn xã hội.

Tất cả những nhân di truyền kể trên đều dẫn đến cùng một mục đích: khống chế với áp lực của sợ hãi khủng bố. Sự tà ác của Đảng Cộng Sản đã khiến cho nó trở thành kẻ thù tự nhiên của mọi lực lượng xã hội. Ngay từ ngày thành lập, Đảng Cộng Sản đã giãy giụa trong từng cơn nguy cơ liên tiếp lần này rồi lần khác, mà nguy cơ lớn nhất luôn luôn là sự sống còn của nó. Nó tồn tại trong sợ hãi, vĩnh viễn có cảm giác nguy cơ. Thế nhưng, trong nguy cơ, sự sợ hãi đã trở thành lợi ích cao nhất cho Đảng cộng sản, đó là duy trì sự tồn tại và quyền lực của tập đoàn Đảng cộng sản qua những đợt khó khăn. Để bù đắp cho sự suy yếu lực lượng, Đảng Cộng Sản phải thường xuyên bổ xung những điều tệ hại hơn ở bề mặt. Lợi ích của Đảng không phải là lợi ích cá nhân của bất cứ đảng viên nào, cũng không phải là tổng hợp các lợi ích cá nhân của đảng viên; mà là lợi ích của tập đoàn Đảng Cộng Sản, nó được đặt cao hơn tất cả những gì của cá nhân.
‘Đảng tính’ là một bản chất lợi hại nhất của con quỷ tà linh này. Nó có thể mở rộng vô hạn, nuốt trửng ‘nhân tính’, và biến người ta thành một năng lực bắt buộc phải phi nhân tính. Ví dụ Chu Ân Lai và Tôn Bính Văn đã từng là đồng chí. Sau khi Tôn Bính Văn qua đời, Chu Ân Lai đã nhận con gái của Tôn Bính Văn là Tôn Duy Thế làm con nuôi. Trong thời Cách mạng Văn hoá, Tôn Duy Thế bị đấu tố, và sau đó chết trong tù do một cái đinh dài được đóng vào đầu. Lệnh bắt Tôn Duy Thế chính là do cha nuôi của cô là Chu Ân Lai ký.
Một trong những người lãnh đạo thời kỳ đầu của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vào thời chiến tranh Trung–Nhật là Nhậm Bật Thời được Đảng giao nhiệm vụ buôn bán nha phiến (ma tuý). Mà nha phiến là dấu hiệu của ngoại bang xâm lược Trung Quốc vào thời đó, bởi vì Anh Quốc đã dùng nha phiến xuất cảng sang Trung Quốc để làm kiệt quệ kinh tế Trung Hoa và khiến cho dân Trung Quốc bị nghiện ma tuý. Bất chấp sự chống đối nha phiến trên toàn quốc, Nhậm Bật Thời đã dám trồng nha phiến trên một vùng rộng lớn, chẳng kể đến nguy cơ bị dân tộc kết tội, thật ra là cần phải có chút ‘đảng tính’.  Bởi vì tính chất bất hợp pháp và nhạy cảm của ‘nha phiến’, nên bấy giờ ĐCSTQ nói trại thành ‘xà phòng’. Khi buôn bán nha phiến với các quốc qia lân cận, lợi nhuận thu vào được dùng cho sự tồn tại của Đảng Cộng Sản. Đến kỷ niệm 100 năm sinh nhật của Nhậm Bật Thời, một lãnh đạo thế hệ sau của ĐCSTQ đã phát biểu ca ngợi công lao của Nhậm Bật Thời: “Nhậm Bật Thời có phẩm giá cao, và là một đảng viên cộng sản gương mẫu. Ông ta tin tưởng kiên trì vào Đảng, và trung thành vô hạn với sự nghiệp của Đảng”.[19]
Trương Tư Đức cũng là một gương mẫu cho Đảng tính. ĐCSTQ nói rằng anh ta hy sinh do lò gạch sập đột ngột, còn người ta nói rằng anh ta chết khi đang chế biến nha phiến. Vì Trương Tư Đức là một người ít nói trong Đoàn cảnh vệ Trung Ương, không bao giờ đòi hỏi thăng chức, nên khi anh chết, mới nói rằng cái chết của anh “nặng tựa Thái Sơn” [20], có nghĩa là ám chỉ cuộc đời của anh ta rất quan trọng.
Sau này còn có một mẫu hình nữa là Lôi Phong, nổi tiếng với danh hiệu là “chiếc ốc vít không bao giờ han rỉ trong guồng máy cách mạng”.  Trong một thời gian dài, cả Lôi Phong và Trương Tư Đức đều được dùng để giáo dục người dân Trung Quốc trung thành với Đảng Cộng Sản. Mao Trạch Đông có nói “ Sức mạnh của gương mẫu là vô biên”. Ngoài ra cũng có nhiều anh hùng khác của Đảng cộng sản được dùng để tuyên truyền “ý chí sắt thép và nguyên tắc của Đảng tính”.
Sau khi chiếm đoạt chính quyền, Đảng cộng sản càng phát triển rộng cái nhân di truyền về khống chế tư tưởng con người để chế tạo những “ốc vít” mới và ‘công cụ’ mới cho Đảng trong những thế hệ kế tiếp. Đảng tính được nhấn mạnh lên để trở thành một lối suy nghĩ nhất định, một mẫu hình cho các hành vi rập khuôn. Ban đầu, các khuôn mẫu cho hành vi Đảng tính chỉ dùng trong nội bộ Đảng, nhưng ngay sau đó đã mở rộng quy mô đến toàn dân toàn quốc. Dưới cái vỏ dân tộc, lối suy nghĩ và hành vi như thế được dùng để tẩy não người dân phải phục tùng theo cơ chế tà ác của Đảng cộng sản.

II. Lịch sử dựng nghiệp một cách bẩn thỉu của Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) mô tả lịch sử của mình là một lịch sử vẻ vang “liên tiếp đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Khi cố gắng tự tô vẽ bộ mặt của mình trước công chúng chính là để hợp thức hoá sự cướp đoạt quyền lực của Đảng Cộng Sản. Thực ra, lịch sử của Đảng Cộng Sản không có gì vẻ vang cả. Chỉ bằng cách áp dụng 9 cái nhân di truyền là: tà ác, lường gạt, xúi bẩy, lưu manh, gián điệp, trấn lột, đấu tranh, diệt tuyệt, khống chế  thì chúng mới có thể gây dựng và duy trì chính quyền .

1.Thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc — Lớn lên nhờ uống sữa Liên Xô

Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bảo với người dân rằng: “Cách mạng tháng Mười nổ phát pháo đầu tiên, đưa chủ nghĩa Marxism-Leninism đến với chúng ta”[21]. Tuy nhiên Đảng cộng sản Trung Quốc khi mới thành lập, là một chi bộ Á châu của Đảng cộng sản Liên Xô, mà ngay từ đầu nó là một đảng phái chính trị bán nước.
Trong thời kỳ mới thành lập, ĐCSTQ không có tiền, không có lý luận, không có kinh nghiệm thực tiễn nào cả, lại càng không có cơ sở chủ yếu, gia nhập Đảng Cộng Sản Quốc Tế chỉ là muốn tham dự và nương tựa vào cách mạng bạo lực của Cộng sản quốc tế. Cách mạng bạo lực của Đảng Cộng Sản tại Trung Quốc chỉ là một cái mạch tiếp nối theo cách mạng bạo lực từ giai đoạn của Marx và Lenin. Đảng Cộng Sản Quốc Tế chính là bộ tổng chỉ huy cho sự đảo chánh chính quyền của các quốc gia trên toàn cầu, ĐCSTQ lúc đó chỉ là một chi bộ Đông Phương của Cộng sản Quốc Tế, và chấp hành theo đường lối chủ nghĩa Đế Quốc của Hồng Quân Liên Xô. ĐCSTQ phải dựa vào Đảng Cộng Sản Liên Xô để trưởng thành kinh nghiệm trong sự cướp đoạt chính quyền bằng bạo lực và áp dụng chế độ độc tài chuyên chính của giai cấp vô sản. Đường lối chính trị, đường lối tư tưởng, và đường lối tổ chức đều phải tuân theo chỉ thị của Đảng Cộng Sản Liên Xô. ĐCSTQ cũng bắt chước đường lối bí mật và ngoài vòng pháp luật của các tổ chức phi pháp để tạo nên một phương thức tồn tại, áp dụng sự theo dõi và khống chế thật chặt chẽ. Đảng Cộng Sản Liên Xô không những là xương sống chính của Đảng cộng sản Trung Quốc, mà còn hỗ trợ cho nó.
Tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Trung Cộng, Đảng chương của Đảng cộng sản Trung Quốc được thông qua chính là do Cộng sản Quốc tế soạn ra, bản Tuyên ngôn cũng được soạn theo chủ nghĩa Mác-Lê, đấu tranh giai cấp, chính quyền chuyên chế của giai cấp vô sản, học thuyết lập Đảng, đều căn cứ theo cương lĩnh của Đảng cộng sản Liên Xô. Linh hồn của Đảng cộng sản Trung Quốc là phẩm vật ngoại lai theo thể thức Đảng Cộng Sản Liên Xô. Trần Độc Tú, một lãnh đạo của ĐCSTQ, đã từng có lần bất đồng ý kiến với đại biểu Ma-ring của Cộng sản quốc tế. Ma-ring gởi một phong thư cho Trần Độc Tú, nói rằng nếu ông Trần là đảng viên thật sự của Đảng Cộng Sản, thì ông phải tuân theo mệnh lệnh từ Đảng Cộng sản quốc tế. Dù Trần Độc Tú là một trong những người sáng lập ĐCSTQ, ông ta không làm được gì hơn là tuân theo mệnh lệnh của Cộng sản Quốc tế. Kỳ thực, ông ta và Đảng là chỉ lệ thuộc và hèn hạ khuất phục Đảng cộng sản Liên Xô.
Năm 1923, Trần Độc Tú đã công khai thừa nhận tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ ba, rằng hầu hết các chi phí của Đảng là hoàn toàn do Cộng sản Quốc tế chu cấp. Trong một năm, Cộng sản Quốc tế đã cung cấp khoảng 200 ngàn đồng yuan cho Đảng cộng sản Trung Quốc, nhưng kết quả thu được không hài lòng mấy, và Cộng sản Quốc tế trách các đồng chí Trung Quốc đã không nỗ lực đủ.
Theo một văn kiện đã giải mật của Đảng cộng sản Trung Quốc với thống kê chưa đầy đủ, từ tháng 10 năm 1921 đến tháng 6 năm 1922, Đảng cộng sản Trung Quốc đã nhận 16.655 đồng yuan. Năm 1924 nhận 1.500 đô-la Mỹ và 31.927,71 đồng yuan; năm 1927 nhận 187.674 đồng yuan; mỗi tháng Cộng sản Quốc tế chu cấp khoảng 20 ngàn đồng yuan. Những mánh khoé mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc thường dùng ngày nay —móc nối, đi cổng sau, mua chuộc, đút lót, thậm chí uy hiếp,… — đều đã được dùng từ thời bấy giờ. Đảng Cộng sản Quốc tế từng phê bình nghiêm khắc các mánh khóe chạy chọt mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay dùng để xin tiền.
 “Họ thường lợi dụng các nguồn chi phí khác nhau (ban liên lạc Quốc tế, các đại biểu của Cộng sản quốc tế, các tổ chức quân sự,…) để xin cùng một ngân khoản, bởi vì nguồn chi phí này có thể không biết rõ nguồn chi phí kia đã chi khoản đó hay chưa… Điều tức cười là các đồng chí Trung Quốc không những đã biết được tâm lý của các đồng chí Liên Xô chúng ta, mà quan trọng hơn là họ còn biết cách đối xử khác biệt với từng đồng chí có trách nhiệm phê chuẩn cho từng ngân khoản. Một khi các đồng chí Trung Quốc hiểu rằng, ngân khoản sẽ không được chính thức thông qua, họ liền bắt đầu trì hoãn các buổi họp. Sau đó thậm chí có những thủ đoạn xảo trá như phao tin đồn kiểu như "nhân viên công tác địa phương có mâu thuẫn với Liên Xô, nên số tiền đó đã không cấp cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mà cấp cho quân phiệt”.[22]

2. Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất — Phụ thể ăn bám đào khoét tận đến tâm, và phá hoại Bắc phạt [23]

Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn luôn bảo người dân rằng Tưởng Giới Thạch đã phản bội Cách mạng Quốc Dân [24] khiến Đảng cộng sản đi vào cái thế bắt buộc phải khởi nghĩa võ trang.
Trên thực tế, Đảng Cộng Sản trong sự hợp tác Quốc-Cộng lần thứ nhất, là giống như một phụ thể bám chặt, ăn bám vào Cách mạng Quốc Dân để phát triển chính mình. Hơn nữa nó còn hăng hái phát động cuộc cách mạng do Liên Xô hậu thuẫn để chiếm đoạt quyền lực, nhưng cái tham vọng nắm quyền của nó, thực ra đã phá hoại và phản bội Cách Mạng Quốc Dân.
Tháng 7 năm 1922 trong Đại hội Đại biểu lần thứ nhì của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, bởi vì các đảng viên nôn nóng muốn giành chính quyền ngay, cho nên những người phản đối liên minh với Quốc Dân Đảng chiếm đại đa số trong Đại hội. Tuy nhiên khi nghị quyết được đưa lên quốc hội thì ‘thái thượng hoàng’ Cộng sản Quốc tế đã gạt bỏ quyết nghị và chỉ thị Đảng cộng sản phải gia nhập Quốc Dân Đảng.
Trong giai đoạn Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất, tháng 1 năm 1925, Đảng cộng sản Trung Quốc cử hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ tư tại Thượng Hải. Bấy giờ toàn thể Đảng cộng sản Trung Quốc mới có 994 đảng viên, nhưng Đảng Cộng Sản đã đề xuất vấn đề lãnh đạo chính quyền Trung Quốc trước khi Tôn Dật Tiên [25] tạ thế vào ngày 12 tháng 3 năm 1925. Nếu Tôn Dật Tiên chưa tạ thế, thì chính ông ta, chứ không phải là Tưởng Giới Thạch, mới là nhân vật bị nhắm vào trong việc chiếm đoạt quyền hành của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Được Liên Xô nâng đỡ, Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ) cứ mặc ý nắm quyền, và đã chiếm các vị trí lớn tại Quốc Dân Đảng trong thời gian Quốc-Cộng hợp tác: Đàm Bình Sơn (1886-1956, một trong những lãnh đạo ban đầu của ĐCSTQ ở tỉnh Quảng Đông)  làm bộ trưởng Bộ Tổ chức Cán bộ Trung ương Quốc Dân Đảng, Phùng Cúc Pha (1899-1954, một trong những lãnh đạo ban đầu của ĐCSTQ) làm bí thư Bộ Công Nhân toàn quyền xử lý các sự vụ, Lâm Tổ Hàm (1886-1960, một trong những lãnh đạo đầu tiên nhất của ĐCSTQ) làm bộ trưởng Bộ Nông Dân cùng Bành Bái (1896-1929 một trong những lãnh đạo của ĐCSTQ) làm bí thư Bộ Nông Dân, Mao Trạch Đông làm quyền bộ trưởng Bộ Tuyên Truyền của Quốc Dân Đảng. Trường quân sự và chỉ huy quân đội luôn luôn là mục tiêu của Đảng cộng sản: Chu Ân Lai làm chủ nhiệm khoa Chính trị của trường quân sự Hoàng Phố, và Trương Thân Phủ ( 1893-1986 một trong những người sáng lập ĐCSTQ và là người giới thiệu Chu Ân Lai gia nhập ĐCSTQ) làm phó chủ nhiệm. Chu Ân Lai cũng kiêm nhiệm Trưởng Ban Quân pháp, và cài những cố vấn quân sự của Liên Xô vào các nơi. Có nhiều người của Đảng cộng sản được đưa vào làm giáo viên chính trị và giáo chức trong các trường quân sự của Quốc Dân Đảng, và làm đại biểu các cấp bậc khác nhau trong quân đội của Cách mạng Quốc Dân [26]. Chúng quy định rằng quân lệnh nào nếu không có đại diện của Đảng Cộng sản ký thì mệnh lệnh đó không công hiệu. Nhờ vào việc phụ thể bám chặt và luồn lách vào Cách mạng Quốc Dân này mà kết quả là số đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc đã tăng nhanh, từ dưới 1.000 người năm 1925 lên đến 30.000 người năm 1928.
Cách mạng Bắc phạt bắt đầu tháng 2 năm 1926. Nhưng từ tháng 10 năm 1926 cho đến tháng 3 năm 1927, Đảng cộng sản Trung Quốc đã tổ chức ba cuộc bạo động võ trang tại Thượng Hải, sau đó tấn công vào trung ương quân Bắc phiệt, nhưng đã bị quân Bắc phiệt đánh bại, giải trừ võ trang. Các cuộc đình công tại Quảng Đông đã gây đụng độ võ trang với cảnh sát hàng ngày. Những tranh đấu đó đã dẫn đến quyết định đại thanh trừ Đảng Cộng Sản 'ngày 12 tháng 4' năm 1927 của Quốc Dân Đảng [27].
Tháng 8 năm 1927, các đảng viên Cộng sản trong Quân đội Cách mạng Quốc Dân đã phát động bạo lực tại Nam Xương, nhưng bị đàn áp ngay lập tức. Đến tháng 9, Đảng cộng sản lại phát động cuộc khởi nghĩa  Mùa thu hoạch tại Trường Sa, và cũng bị đàn áp luôn. Bấy giờ Đảng cộng sản Trung Quốc bắt đầu thực hành hệ thống khống chế trong quân đội theo kiểu “chi bộ Đảng là phải thành lập từ cấp đại đội trong quân đội”, và rút chạy về địa khu  núi Cương Sơn tỉnh Giang Tây [28] và thiết lập chính quyền cục bộ nông thôn ở đó.

3. Bạo động nông dân tại Hồ Nam — Phát động bọn vô lại xã hội tạo  phản.

Trong cuộc Bắc phạt, lúc quân Cách mạng Quốc Dân đang lâm chiến với quân phiệt, thì Đảng cộng sản xúi giục tạo phản ở nông thôn để cướp đoạt quyền lực.
Cuộc vận động nổi dậy của nông dân tại Hồ Nam năm 1927, là bạo loạn của bọn lưu manh, cặn bã của xã hội, cũng giống như cuộc nổi dậy tiếng tăm của Công Xã Pa-ri năm 1871 (khởi nghĩa Cộng Sản đầu tiên). Nhân dân Pháp và người ngoại quốc tại Pa-ri đã chứng kiến Công xã Pa-ri chính là bạo loạn của một đám quân vô lại, mang tính phá hoại và không có lý tưởng gì. Chúng ở những lâu đài xa hoa, tiêu xài hoang phí, chơi bời khoái lạc, hưởng thụ nhất thời, chứ không lo nghĩ đến tương lai.  Trong thời kỳ bạo loạn của Công xã Pa-ri, chúng cấm báo chí. Chúng bắt Georges Darboy (người thuyết giáo cho nhà vua) làm con tin và sau đó bắn chết ông ta. Chúng tiêu khiển bằng cách giết hại tàn độc 64 giáo sĩ, đốt cung điện, đập phá dinh thự của quan chức, nhà cửa của dân chúng, cũng như tượng đài và cột khắc. Trước đó Pháp là quốc gia giàu có nhất nhì ở Âu Châu, nguy nga cũng vào bậc nhất. Tuy nhiên trong cuộc nổi dậy của Công xã Pa-ri, điện đài bị đốt thành tro, dân chúng bị tàn sát thành xương khô. Tai họa thảm khốc tàn ác như thế, lịch sử xưa nay thật hiếm có.
Mao Trạch Đông thừa nhận: “Nông dân đúng là có phần ‘làm loạn’ làng thôn. Nông hội có quyền lực cực cao, khộng cho phép địa chủ mở miệng, mà còn tước đoạt quyền tự do đó. Điều này cũng bằng như đã đánh địa chủ gục xuống đất, rồi còn dẫm đạp lên nữa. Nông dân đe doạ: ‘ bọn tao sẽ cho mày vào danh sách bọn phản động!’ Người giàu bị phạt tiền, bị bắt đóng góp, ghế kiệu cũng bị đập bể nát. Gia đình nào có người phản đối Nông hội, thì đội nông dân xông thẳng vào nhà họ giết heo lấy thóc lúa, còn dẫm đạp, nhổ nước bọt lên giường khảm ngà của tiểu thư con nhà giàu. Ai mà hé miệng một chút liền bị chụp mũ giấy cao trên đầu rồi trói lôi đi khắp làng, và mắng chửi họ rằng: ‘Thằng địa chủ bần tiện kia! Hôm nay mày đã biết chúng ta là ai chưa!’ Chúng muốn sao làm vậy, đảo lộn tất cả mọi thứ bình thường, và chúng đã tạo nên một loại hiện tượng khủng bố như thế ở thôn quê.” (Mao 1927)
Và Mao còn tán dương: “Nói trắng ra. Nông thôn chỗ nào cũng cần phải trải qua một thời kỳ khủng bố như vậy. Nếu không thì không cách nào dẹp yên bọn phản cách mạng ở nông thôn, lại càng không thể lật đổ quyền lực của bọn nhà giàu. Phải đẩy con người ta đến cùng cực thì uốn nắn cái sai tất phải đúng, nếu không thì sai không bao giờ thành đúng được… Trong thời cách mạng, tưởng như đó là những hành xử ‘thái quá’, nhưng thực ra đó là những gì mà cách mạng cần.” (Mao 1927)
Cách mạng của Cộng Sản đã dựng lập một hệ thống khủng bố.

4. Đánh Nhật phía bắc — Thất bại  trốn chạy

Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn tuyên truyền rằng cuộc trường chinh của mình là cuộc chiến chống Nhật. Nó thổi phồng cho đó là thần thoại cách mạng của Trung Quốc, là ‘bản Tuyên ngôn’, là ‘đội tuyên truyền’, là ‘ guồng máy gieo mầm', là bước ngoặc đưa Đảng Cộng Sản đến thắng lợi và đưa kẻ thù đến thất bại.
Đó là tuyên truyền bậy bạ quá trắng trợn. Cuộc ‘bắc tiến kháng Nhật’ là che đậy cho sự thất bại thảm hại của Đảng Cộng Sản. Từ tháng 10 năm 1933 đến tháng 1 năm 1934, Đảng Cộng Sản liên tiếp chịu thua trận hoàn toàn. Trong cuộc tấn công lần thứ năm của Quốc Dân Đảng nhằm bao vây và tiêu diệt Đảng Cộng Sản, thì Đảng Cộng Sản đã lần lượt mất các căn cứ nông thôn cái này tới cái khác. Hồng Quân của Đảng Cộng Sản buộc phải trốn chạy. Đó chính là gốc thực sự của cuộc trường chinh.
Cuộc trường chinh thực ra là nhắm vào việc phá vỡ vòng vây, chạy sang vùng Ngoại Mông Cổ để cùng với quân Liên Xô làm thành một vòng cung từ Tây sang Đông. Như vậy với phía tây giáp Ngoại Mông Cổ, nếu không thủ được sẽ rút lui về Liên Xô ở phía bắc. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc hành quân đến địa khu Ngoại Mông Cổ. Họ chọn con đường đi qua Sơn Tây và Tuy Viễn, một mặt có thể che đậy nói rằng họ lên vùng phía bắc kháng Nhật để lấy lòng người dân, một mặt vừa an toàn vì ở đó không có quân Nhật. Bấy giờ quân Nhật chiếm giải Vạn Lý Trường Thành lập thành chiến tuyến. Sau một năm, khi quân trường chinh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc thoát đến Thiểm Bắc thì Hồng Quân chủ lực giảm từ 800 ngàn xuống còn khoảng 6 ngàn.

5. Biến cố Tây An — Quỷ kế của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, quay lại ăn bám một lần nữa

Tháng 12 năm 1936, Trương Học Lương và Dương Hổ Thành (hai tướng của Quốc Dân Đảng) bắt cóc Tưởng Giới Thạch ở Tây An. Sự kiện này sau được gọi là biến cố Tây An .
Theo sách giáo khoa mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) viết cho dân chúng, thì biến cố Tây An là do hai tướng Trương, Dương muốn ‘can gián bằng quân lực’nên mang tối hậu thư sống hay chết cho Tưởng Giới Thạch, bắt ép Tưởng Giới Thạch phải chọn con đường chống bọn Nhật xâm lăng, đồng thời mời đại biểu của Đảng Cộng Sản là Chu Ân Lai sang thương lượng một giải pháp hòa bình. Dưới sự trung gian của các nhóm khác nhau trong toàn quốc, biến cố này đã giải quyết hoà bình, và nhờ vậy kết thúc 10 năm nội chiến, Đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng lại hợp tác thành một liên minh quốc gia chống Nhật. Sách lịch sử của Đảng Cộng Sản Trung Quốc viết rằng biến cố này là then chốt chuyển Trung Quốc ra khỏi sự nguy cơ. Đảng cộng sản đã tự tô vẽ mình như một đảng phái yêu nước, và chúng thực thi vì lợi ích quốc gia
Thực ra càng ngày càng có nhiều tài liệu vạch trần sự kiện này. Trước ngày biến cố Tây An, ĐCSTQ đã tụ tập rất nhiều gián điệp quanh Dương Hổ Thành và Trương Học Lương. Ví dụ: Lưu Đỉnh một đảng viên nằm vùng của Đảng Cộng Sản do Tống Khánh Linh, (vợ của Tôn Dật Tiên, chị của bà Tưởng và là một đảng viên của Đảng Cộng Sản) giới thiệu trở thành người thân tín của Trương Học Lương, và đã có công trong biến cố Tây An. Sau này khi luận công trạng, Mao Trạch Đông biểu dương: “Biến cố Tây An, Lưu Đỉnh có công lớn”. Phu nhân Tạ Bảo Chân, vợ của Dương Hổ Thành, là đảng viên Đảng Cộng Sản, và làm việc trong Ban chính trị quân đội của Dương Hổ Thành. Cô ta đã được Đảng Cộng Sản phê chuẩn kết hôn với Dương Hổ Thành vào tháng 1 năm 1928. Đảng viên Vương Bình Nam, sau này trở thành Thứ trưởng bộ Ngoại giao ĐCSTQ, bấy giờ là thượng khách gia đình họ Dương. Chính những người cộng sản thân tín này ở chung quanh hai tướng Trương, Dương đã trực tiếp xúi dục họ làm phản trong cuộc binh biến này.
Trước khi xảy ra biến cố, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc đều muốn ám sát Tưởng Giới Thạch để trả thù. Lúc ấy quân Đảng Cộng Sản đóng tại Thiểm Bắc quá ít ỏi, lâm vào cảnh khốn cùng, có thể bị tiêu diệt chỉ trong một trận. Do đó ĐCSTQ dở mánh khoé lừa dối gian manh xúi dục hai tướng Trương, Dương làm phản. Nhưng Liên Xô lại muốn cầm chân quân Nhật, không muốn quân Nhật dễ bề tấn công Liên Xô từ phía nam, nên Stalin đã tự viết thư cho trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, là không được giết Tưởng Giới Thạch, mà phải quay lại hợp tác với Quốc Dân Đảng lần thứ hai. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cũng nhận định rằng, với quân lực Đảng Cộng Sản Trung Quốc quá yếu, họ không thể nào thắng được Quốc Dân Đảng, cho dù có ám sát Tưởng Giới Thạch được, thì khi quân Quốc Dân Đảng đến báo thù, Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ bị tiêu diệt mất. Do vậy, Đảng Cộng Sản thay đổi kế hoạch, lấy hợp tác đánh Nhật làm danh nghĩa, bắt ép Tưởng Giới Thạch đồng ý hợp tác Quốc-Cộng lần thứ hai.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc ban đầu sách động binh biến nhằm ám toán Tưởng Giới Thạch, nhưng sau lại xoay lại, đóng vai người hùng trên sân khấu, bắt Tưởng Giới Thạch phải chấp nhận Đảng Cộng Sản lần thứ hai. Đảng Cộng Sản không những thoát được nguy cơ diệt vong, mà còn được thêm một cơ hội ăn bám lần thứ hai vào chính phủ Quốc Dân Đảng. Không lâu sau đó, Hồng Quân trở thành đoàn Bộ Binh số 8, lại có cơ hội phát triển lớn mạnh hơn xưa.  Sự gian giảo, dối trá của Đảng cộng sản Trung Quốc, thật là xứng danh cao thủ.

6. Chiến tranh kháng Nhật — Mượn dao giết người, để bành trướng bản thân

Trong sách giáo khoa của Đảng Cộng Sản Trung Cộng viết là, Đảng cộng sản lãnh đạo chiến tranh kháng Nhật đến thắng lợi.
Thực ra khi chiến tranh đánh Nhật bùng nổ, Quốc Dân Đảng có hơn 1.7 triệu quân võ trang, chiến hạm có sức bài nước 110 ngàn tấn, và khoảng 600 phi cơ chiến đấu các loại. Trong khi đó tổng số quân của Đảng Cộng Sản, kể cả Bộ Binh Tân Tứ thành lập vào tháng 11 năm 1937, không quá 70 ngàn người, đã thế còn bị chia năm xẻ bảy vì tranh quyền chính trị trong nội bộ. Nó yếu đến nỗi chỉ cần một trận chiến là có thể bị tiêu diệt hoàn toàn. ĐCSTQ biết rõ nếu thật sự xuất quân đánh Nhật, thì sẽ nắm chắc phần thua và mất binh quyền. Trong mắt của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, vấn đề “thống nhất chiến tuyến” với Quốc Dân Đảng, là để chiếm đoạt quyền lãnh đạo, chứ không phải vì sự tồn vong của dân tộc Trung Hoa, do đó phương châm cho kế hoạch của Đảng Cộng Sản là: “trong quá trình hợp tác, nhất định phải đấu tranh để tranh thủ các vị trí lãnh đạo, nhưng chỉ nói điều này trong nội bộ Đảng”.
Sau biến cố 18 tháng 9 năm 1931, quân Nhật chiếm đóng thành phố Thẩm Dương, từ đó làm chủ một vùng rộng lớn ở đông bắc Trung Quốc. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chiến đấu sát vai với quân xâm lược Nhật Bản để đánh bại quân Quốc Dân Đảng. Trong 'tuyên ngôn biến cố Mãn Châu', viết để đáp ứng sự xâm lăng của quân Nhật, Đảng Cộng Sản Trung Quốc kêu gọi nhân dân toàn quốc lật đổ chính phủ Dân Quốc: “Ở khu vực Quốc Dân Đảng thống trị, thì công nhân phải bãi công, nông dân bạo động, học sinh bãi khoá, dân nghèo bỏ việc, quân sỹ tạo phản”.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc tay vẫy cao lá cờ kháng Nhật, nhưng bên trong đang gom góp quân địa phương cùng du kích và di chuyển đại đa số quân binh khỏi chiến tuyến, chỉ để lại rất ít quân đánh Nhật. Ngoại trừ vài trận, trong đó có trận Bình Hình Quan, Đảng Cộng Sản không đóng góp gì trong cuộc chiến chống Nhật. Thay vào đó, nó tập trung năng lực vào việc mở rộng địa bàn hoạt động. Khi quân Nhật đầu hàng, Đảng Cộng Sản thâu nạp hàng binh vào lực lượng của nó, rồi thổi phồng mà tuyên bố rằng quân đội Cộng Sản có hơn 900 ngàn quân chính quy cộng với 2 triệu dân quân. Thực tế chỉ có quân Quốc Dân Đảng đã ra chiến trường đánh Nhật, bị chết hơn 200 viên  tướng trong trận chiến này, trong khi đó, Đảng Cộng Sản hầu như không mất một viên tướng nào. Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn luôn luôn  tuyên truyền với dân chúng rằng Quốc Dân Đảng không đánh Nhật, mà là Đảng cộng sản Trung Quốc đã dẫn dắt nhân dân đến thắng lợi lớn lao.

7. Chỉnh phong tại Diên An — Chế tạo một phương pháp đàn áp tàn bạo khủng khiếp

Chiêu bài ‘kháng Nhật’ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thu hút được vô số thanh niên yêu nước đến Diên An, nhưng cũng chính tại ‘cái nôi cách mạng’ này, Đảng cộng sản Trung Quốc đã thi triển cuộc ‘chỉnh phong’ (chỉnh đốn nội bộ), đàn áp hàng ngàn hàng vạn thanh niên cách mạng. Sau khi chiếm được chính quyền toàn quốc, ĐCSTQ vẫn miêu tả Diên An là “thánh địa” cách mạng, nhưng họ dấu nhẹm tội ác về cuộc chỉnh phong này.
Cuộc vận động ‘chỉnh phong’ Diên An là trò biểu diễn quyền lực khủng bố nhất, hắc ám nhất, tàn bạo nhất trong lịch sử con người. Lấy danh nghĩa dọn sạch những độc hại của giai cấp tiểu tư sản, ĐCSTQ đã loại trừ hết tất cả những giá trị của con người như văn minh, độc lập, tự do, dung nhẫn, tôn nghiêm. Bước một của cuộc chỉnh phong là lập hồ sơ nhân sự cho từng đồng chí, gồm có (1) lý lịch tự thuật, (2) niên phổ văn hoá chính trị mà ghi chép toàn bộ quá trình chính trị và đào tạo, (3) quan hệ gia đình và quan hệ xã hội, (4) tự thuật của cá nhân về quá trình biến đổi tư tưởng, (5) kiểm thảo Đảng tính.
Như vậy mỗi hồ sơ nhân sự có đủ các thứ như: những ai mà cá nhân đó đã từng có tiếp xúc trong đời, những việc xảy đến trong đời kèm theo thời gian, địa điểm. Đương sự được yêu cầu khai đi khai lại nhiều lần, nếu Đảng thấy có chỗ không thống nhất lập tức đặt vấn đề nghi vấn. Phải ghi tất cả những hoạt động xã hội và quan hệ cá nhân, nhất là những ai liên quan đến việc gia nhập Đảng. Phải khai kỹ nhận thức cá nhân về các hoạt động xã hội này. Quan trọng nhất là bản kiểm thảo Đảng tính, cá nhân phải thú tội nếu có bất cứ tư tưởng, hoặc hành vi chống Đảng trong tư duy, lời nói, thái độ công tác, sinh hoạt hàng ngày, cho đến mọi giao tiếp xã hội. Tìm tòi kiểm tra xem sau khi vào Đảng hoặc nhập ngũ rồi có theo đuổi lợi ích cá nhân gì không, có lợi dụng công tác cho lợi ích riêng hay không, có dao động nghi ngờ tương lai của cách mạng hay không, có sợ chết khi ra trận không, cho đến nhớ nhà nhớ người thân hay không. Bởi vì không có một tiêu chuẩn khách quan để đánh giá, nên một khi xoi mói ra, thì hầu như ai cũng bị phát hiện là có vấn đề.
Khi điều tra cán bộ, Đảng Cộng Sản xử dụng các thủ đoạn để bắt buộc họ ‘cung khai’, rồi dùng để thanh lý ‘gian tế nội bộ’, tất nhiên phải sinh ra vô số bản án oan ức, giả tạo, sai lầm, rất nhiều cán bộ bị hành quyết. Thời chỉnh phong, Diên An được coi là một “nhà ngục tẩy sạch nhân tính”. Một tổ công tác thẩm sát vào đóng trong trường đại học Quân Chính để thẩm tra cán bộ, gây một cuộc khủng bố Đỏ đẫm máu suốt hai tháng. Đủ các thủ đoạn vô nhân tính: cá nhân tự khai, tự khai trước mặt người khác, nhóm khuyến cáo, năm phút khuyến cáo, nói chuyện riêng, mở hội báo cáo, truy tìm củ cải (ám chỉ cán bộ nào ngoài đỏ trong trắng, ngoài miệng theo cộng sản còn bên trong thì không), ‘ghi hình’ (đưa một nhóm lên trên khán đài để người khác quan sát, hễ ai có gì bất thường,  lập tức đặt vấn đề nghi vấn và cho đi điều tra).
Ngay cả những đại biểu từ Cộng sản Quốc tế cũng chịu không nổi, nói rằng tình hình Diên An đầy tang khí. Người ta không ai dám giao tiếp với ai, ai cũng bụng đầy quỷ kế. Ai cũng căng thẳng và lo sợ, thậm chí thấy bạn bị phỉ báng chịu oan cũng không dám hé miệng nói một lời, chỉ lo bảo vệ tính mạng của mình thôi. Kẻ lưu manh côn đồ— a dua nịnh hót, nhục mạ người khác, lươn lẹo lừa dối —thì lại được trọng dụng.  Sống ở Diên An thật là tủi nhục. Con người bị áp lực gần như phát điên, chỉ biết lo cho tính mạng và bát cơm của mình, quên cả liêm sỉ, quên cả bạn bè, không còn dám hé răng nói gì khác ngoài tụng đi tụng lại những bài viết của lãnh tụ Đảng.
Sau này khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc đoạt được chính quyền trong tay, đã chiếu theo kiểu đàn áp này trong tất cả các vận động chính trị.

8. Ba năm nội chiến Quốc-Cộng — Bán nước để đoạt quyền

Cách mạng giai cấp tư sản tháng 2 năm 1917 tại Nga là một cách mạng ôn hoà. Sa Hoàng xem trọng quốc gia dân tộc, chỉ thoái vị chứ không phản kháng đến cùng. Lê-Nin đã vội vàng từ Đức quay trở về Nga, phát động cuộc thay đổi chính trị một lần nữa, trong danh nghĩa cách mạng mà sát hại những người giai cấp tư sản vừa mới lật đổ Sa Hoàng, vì vậy đã bóp chết cách mạng Tư sản ở nước Nga. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng theo cách của Lenin, cướp trắng thành quả của Quốc Dân Đảng. Ngay sau khi quân Nhật bại trận, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh “giải phóng”(1946-1949) để  lật đổ chính phủ Quốc Dân Đảng, mang tai họa chiến tranh cho Trung Quốc một lần nữa.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc nổi tiếng với lối đánh biển người, thí quân chịu đạn. Các trận đánh với quân Quốc Dân Đảng tại Liêu Tây - Thẩm Dương, Bắc Kinh - Thiên Tân, cũng như tại Hoài Hải[31], đã dùng chiến thuật lấy thịt người làm bia đỡ đạn, một chiến thuật nguyên thuỷ nhất, dã man và vô nhân đạo nhất. Khi vây hãm Trường Xuân ở đông bắc Trung Quốc, để cắt đứt mọi nguồn cung ứng lương thực, Quân đội Giải Phóng được lệnh cấm không cho một người dân thường nào rời thành phố. Kết quả là sau khi bị vây hãm trong hai tháng, những người bị chết đói chết rét gần 200 ngàn người. Nhưng quân giải phóng của Đảng Cộng Sản vẫn không cho dân thường ra vào. Tuy nhiên sau khi trận chiến chấm dứt , Đảng Cộng Sản Trung Quốc không một chút hổ thẹn mà vẫn tuyên truyền rằng “giải phóng Trường Xuân không phí một viên đạn”.
Từ năm 1947 đến năm 1948, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã ký với Liên Xô “Hiệp định Cáp Nhĩ Tân”, và “Hiệp định Mạc Tư Khoa” giao nộp quyền lợi và tài nguyên quốc gia tại vùng đông bắc Trung Quốc, để đổi lấy ủng hộ toàn diện về ngoại giao và quân sự từ Liên Xô. Trong những hiệp định song phương này, Liên Xô cung cấp 50 phi cơ cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc; tất cả võ khí Liên Xô cướp được từ quân Nhật đã đầu hàng sẽ được bàn giao cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc làm hai đợt, và Liên Xô sẽ bán với giá rẻ đạn dược và quân dụng mà Liên Xô quản lý ở vùng đông bắc. Nếu Quốc Dân Đảng dùng Lục quân, Không quân tấn công lên vùng đông bắc, thì Liên Xô sẽ bí mật phối hợp với Đảng Cộng Sản Trung Quốc tác chiến. Ngoài ra Liên Xô còn hỗ trợ Đảng Cộng Sản Trung Quốc đoạt chính quyền tại Tân Cương thuộc tây bắc Trung Quốc; xây dựng lực lượng không quân liên hợp Nga-Trung, cung cấp quân trang cho 11 sư đoàn Đảng Cộng Sản Trung Quốc, chuyển một phần ba võ khí Mỹ viện trợ cho Liên Xô đến đông bắc Trung Quốc (trị giá khoảng 13 tỉ Mỹ kim).
Để có hỗ trợ từ Liên Xô, Đảng Cộng Sản Trung Quốc cam kết cho Liên Xô có đặc quyền giao thông bằng đường bộ và đường không ở vùng đông bắc; cung cấp cho Liên Xô các tin tình báo về hoạt động quân sự của Quốc Dân Đảng và Mỹ Quốc; cung cấp sản phẩm chiến lược của vùng đông bắc (bông gòn, đậu) và quân dụng cho Liên Xô, để đổi lấy võ khí tối tân. Liên Xô được quyền ưu tiên khai thác khoáng sản Trung Quốc, được quyền đóng quân tại Tân Cương, và mở Cục tình báo Viễn đông tại Trung Quốc. Nếu chiến tranh Âu Châu bùng nổ, thì Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ phái 100 ngàn quân viễn chinh và 2 triệu người lao động để hỗ trợ Liên Xô. Ngoài ra Đảng Cộng  Sản Trung Quốc cam kết sẽ chuyển một số đặc khu tỉnh Liêu Ninh, và tỉnh An Đông sang nhập vào Đại Hàn.

 III. Biểu hiện những nhân di truyền tà ác của Đảng Cộng Sản

1. Đặc trưng của lịch sử Đảng Cộng Sản — cảm giác lo sợ bất tận

Cảm giác vĩnh viễn sợ hãi là đặc trưng lớn nhất của Đảng cộng sản Trung Quốc trong lịch sử Đảng, đã khiến vấn đề sinh tồn trở thành lợi ích tối cao của Đảng Cộng sản. Lợi ích đó đã được sử dụng để vượt qua nỗi lo sợ về sinh tồn mà ẩn dấu dưới cái vỏ bề ngoài không ngừng biến đổi của nó. Đảng Cộng Sản giống như các tế bào ung thư ác tính, phân tán và thâm nhập mỗi một bộ phận trong thân thể, giết hại các tế bào tốt, phát triển độc tố mà không thể kiềm chế nổi. Trong chu kỳ lịch sử của chúng ta, xã hội chưa thể giải quyết cái nhân biến dị như là Đảng cộng sản và không có cách nào khác hơn là để nó lan tràn tự do. Cái nhân di truyền biến dị này mạnh mẽ hung hăng đến độ không có gì trong vòng phát triển của nó mà có thể làm ngưng nó lại, kết quả khiến xã hội càng ngày càng trở nên ô nhiễm, chủ nghĩa Cộng Sản hoặc các nhân di truyền của Cộng Sản càng ngày càng lan tràn tới những vùng rộng lớn hơn. Những nhân di truyền độc hại đó đã không ngừng được Đảng cộng sản lợi dụng và tăng cường, khiến xã hội nhân loại cùng với đạo đức và giá trị nhân văn căn bản ngày càng tệ hại.
Đảng Cộng Sản không có đức tin, và phủ nhận niềm tin vào nguyên tắc đạo nghĩa mà con người xưa nay vẫn nhìn nhận. Tất cả những nguyên tắc của Đảng hoàn toàn áp dụng để phục vụ cho lợi ích tuyệt đối của tập đoàn này. Căn bản của Đảng Cộng Sản là ích kỷ, không có một nguyên tắc nào có thể kiềm chế hoặc khống chế dục vọng của nó. Dựa trên nguyên tắc của chính nó, Đảng Cộng Sản cần liên tục thay đổi cái vỏ bề ngoài, bằng cách khoác lên các bộ áo mới. Trong giai đoạn đầu khi sự sinh tồn của nó còn mong manh, Đảng Cộng Sản Trung Quốc lúc ăn bám Đảng Cộng Sản Liên Xô, lúc ăn bám Quốc Dân Đảng, ăn bám chính phủ Quốc dân, ăn bám cuộc Cách mạng Quốc Dân. Sau khi cướp đoạt chính quyền, Đảng Cộng Sản lại tiếp tục gắn nó vào các loại chủ nghĩa cơ hội khác nhau, gắn vào dân ý dân tình, gắn vào các loại cơ chế xã hội và thủ đoạn, gắn vào mọi thứ để trục lợi. Mỗi lần lâm nguy, đối với Đảng Cộng Sản, là một cơ hội thi triển thủ đoạn các loại để gom thâu quyền lực và làm mạnh mẽ các thủ đoạn khống chế.

2. Những ‘bửu bối’ tà ác để lập Đảng của Đảng Cộng Sản.

Đảng Cộng Sản tuyên bố rằng thắng lợi cách mạng có được là nhờ vào ba ‘bửu bối’: thống nhất chiến tuyến, đấu tranh võ trang, và kiến thiết của Đảng. Qua Quốc Dân Đảng, Đảng Cộng Sản thu thập thêm bài học với hai điều mới: tuyên truyềngián điệp. Những đại ‘bửu bối’ ấy của Đảng Cộng Sản đều xuyên suốt trong đó với chín yếu tố di truyền của Đảng: tà ác, lừa dối, xúi bẩy, lưu manh, gián điệp, trấn lột, đấu tranh, diệt tuyệt, khống chế.
Chủ nghĩa Marxism-Leninism là tà ác trong bản chất. Oái ăm thay, đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc thực ra không hiểu chủ nghĩa Marxism-Leninism là gì. Lâm Bưu [32] từng nói: chẳng có mấy đảng viên thực sự đọc tác phẩm của Karl Marx và Lenin. Một đảng viên được công chúng coi là nhà tư tưởng như Cù Thu Bạch [33] cũng thú thật rằng bản thân ông mới đọc một phần rất nhỏ các tác phẩm của Marx và Lenin. Tư tưởng Mao Trạch Đông là cải biên của chủ nghĩa Mác-Lê khi ứng dụng vào nông thôn, với chủ trương kích động nông dân tạo phản. Lý luận của Đặng Tiểu Bình là thuộc giai đoạn sơ khởi của chủ nghĩa xã hội và gắn thêm cái tên chủ nghĩa tư bản vào. Còn thuyết “tam đại biểu” [34] của Giang Trạch Dân thì chẳng có gì trong đó. Đảng Cộng Sản Trung Quốc chưa bao giờ thực sự hiểu chủ nghĩa Marxism-Leninism là gì, mà chỉ kế thừa đặc tính tà ác của nó, hơn nữa Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn nhét thêm vào đó những thứ tà ác hơn.
Đặc biệt là bửu bối ‘thống nhất chiến tuyến’ do Đảng Cộng Sản Trung Quốc đề xuất, chính là thủ đoạn lừa dối và mua chuộc nhằm lợi dụng nhất thời. Nhờ ‘thống nhất chiến tuyến’, Đảng cộng sản Trung Quốc đã từ tình trạng độc thân mà trở thành một băng đảng lớn mạnh, mà thay đổi tỉ số bạn bè của nó thành tỉ số kẻ thù của nó. Thống nhất thì cần phải phân biệt: nhận rõ ai là bạn và ai là kẻ thù, ai thuộc phe Tả, ai thuộc cánh Hữu và ai ở giữa; ai cần thân thiện và làm thân khi nào, ai phải tấn công và vào lúc nào. Nó cũng dễ dàng xem kẻ thù khi trước trở thành bè bạn, nhưng sau đó lại coi như kẻ thù. Ví dụ, thời kỳ cách mạng Dân Chủ, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đoàn kết với giai cấp tư sản, đến thời cách mạng Xã hội chủ nghĩa thì tiêu diệt giai cấp tư sản. Một ví dụ nữa là, lãnh đạo của những đảng phái dân chủ như Chương Bá Quân [35], La Long Cơ [36], đều được xem là các ủng hộ viên cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong thời kỳ chiếm đoạt chính quyền, nhưng sau đó nó lại khép họ theo ‘cánh Hữu’ để tiêu diệt họ.

3. Đảng Cộng Sản là lưu manh chuyên nghiệp.

Đảng Cộng Sản thành thạo món công phu hai mặt nhuyễn công và, ngạnh công. Nhuyễn công (mềm) bao gồm: tuyên truyền, thống nhất chiến tuyến, ly gián, đặc vụ, phản gián, dao hai lưỡi, vuốt ve lòng người, tẩy não, vu khống, lừa dối, bưng bít sự thật, khủng bố tâm lý, đe dọa tinh thần. Khi sử dụng các thủ đoạn này, Đảng Cộng Sản đã tạo ra triệu chứng của bệnh sợ hãi trong lòng người dân mà đẩy họ đến cùng tột để quên đi dễ dàng các sai lầm của Đảng Cộng Sản. Đòn nhuyễn công chủ yếu là để tiêu diệt nhân tính, khuyếch trương ác tính. Ngạnh công (cứng) gồm có: bạo lực, đấu tranh võ trang, trấn áp, vận động chính trị (chỉnh phong, cách mạng văn hoá,…), sát nhân diệt khẩu, bắt cóc, thanh trừ bất đồng ý kiến, võ đấu, đàn áp có tính cách chu kỳ,… Đòn ngạnh công giúp Đảng Cộng Sản chế tạo và duy trì khủng bố.
Nhuyễn công và ngạnh công kết hợp thành thạo: khi lỏng khi chặt, có khi nới lỏng bề ngoài nhưng thắt chặt bên trong. Lúc ‘nới lỏng’, Đảng Cộng Sản khích lệ mọi người bày tỏ ý kiến khác nhau, nhưng khi dụ rắn ra khỏi hang rồi, thì khi ‘xiết chặt’ sau đó là lúc thanh trừng họ. Đảng cộng sản Trung Quốc lúc nào cũng lấy chiêu bài “dân chủ” để thách thức Quốc Dân Đảng, nhưng các phần tử trí thức tại khu vực Đảng Cộng Sản khống chế mà không đồng ý kiến với Đảng thì họ sẽ bị tra tấn hoặc ngay cả bị chặt đầu. Điển hình là “sự kiện hoa bách hợp dại” (hoa li-li dại): trong đó nhà trí thức Vương Thực Vị (1906- 1947) người đã viết bàí văn “Hoa bách hợp dại” để bày tỏ lý tưởng của ông ta về công bằng, dân chủ và chủ nghĩa nhân đạo liền bị kiểm điểm và ngược đãi trong cuộc vận động chỉnh phong Diên An, rồi sau bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc chém bằng rìu cho đến chết năm 1947.
Theo hồi ức một cán bộ kỳ cựu, trước đã từng sống qua cuộc vận động chỉnh phong Diên An, kể rằng bấy giờ bị lôi đi thẩm vấn, rồi bị cưỡng ép mạnh mẽ để cung khai, điều duy nhất anh ta có thể làm là phản bội lương tri của chính mình và nói dối. Sau đó quá đau khổ vì đã làm liên luỵ đến đồng chí, và thấy rằng không thể tự tha thứ cho mình được, nên muốn tìm đến cái chết. Trùng hợp thay, lúc quẫn trí ấy, thấy một khẩu súng đặt ngay trên bàn, anh ta bèn chụp lấy, tự dí súng vào đầu và bóp cò. Súng không có đạn! Cán bộ thẩm tra anh ta bước vào phòng, nói: “Làm sai mà thừa nhận là tốt rồi. Chính sách của Đảng là khoan hồng. Như vậy, qua sự việc này Đảng biết anh đã đến chỗ cùng cực rồi, biết anh thật lòng “trung thành” với Đảng. Vậy là vượt qua thử thách rồi”.  Đảng Cộng Sản nói chung thường đặt người ta vào tử địa lúc đầu rồi sau đó thích thú nhìn sự đau đớn và sỉ nhục của họ. Khi người ta đã tới giới hạn và chỉ mong được chết cho hết đau đớn, thì Đảng Cộng Sản lại “tử tế” thò mặt ra để chỉ cho họ một con đường sống. Có câu “ thà sống hèn hạ còn hơn là chết như anh hùng”.  Họ sẽ biết ơn Đảng như là một vị cứu tinh. Nhiều năm sau, người cán bộ này ở Hương Cảng đã biết đến Pháp Luân Công, một môn khí công tu luyện mà khởi đầu ở Trung Quốc, và thấy rằng học Pháp Luân Công tốt lắm. Tuy nhiên khi  sự đàn áp Pháp Luân Công bắt đầu năm 1999, hồi ức khủng khiếp kia quay trở lại ám ảnh, và ông ta không dám nói Pháp Luân Công tốt nữa.
Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, Phổ Nghi [37] cũng trải qua tình trạng tương tự. Khi bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc giam giữ, vì liên tục chứng kiến cái chết của những người bị tử hình, nên ông ta nghĩ rằng mình cũng sẽ sớm bị xử trảm. Xuất phát từ bản năng sinh tồn, ông ta đã tự động chịu nhận tẩy não, và phục tùng bọn cai tù. Sau đó ông đã viết tự truyện “Nửa đời trước của tôi” mà được Đảng Cộng Sản dùng như một ví dụ thành công về ‘cải tạo tư tưởng’.
Theo một nghiên cứu của Y học hiện đại, được biết với cái tên là triệu chứng Stockholm, sau một thời gian bị khủng bố kèm theo sự xa rời khỏi xã hội, nạn nhân hình thành một tâm lý dị thường, một quan hệ ‘tuỳ thuộc’ một cách vô ý thức vào kẻ khủng bố, đến mức vui buồn sướng khổ đều phụ thuộc vào kẻ khủng bố. Khi nạn nhân bị bẫy vào tâm lý dị thường ấy, gặp lúc kẻ khủng bố nương nhẹ, có khi còn cảm thấy biết ơn, thậm chí ‘yêu mến’ kẻ khủng bố. Hiện tượng tâm lý học này đã được Đảng Cộng Sản vận dụng từ lâu một cách thành công để khống chế tinh thần, cải tạo, và tẩy não đối với kẻ thù và với cả người dân.

4. Đảng là tà ác nhất.

Mười người tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đều có kết cục trở thành ‘phần tử phản Đảng’ và bị triệt hạ không một ngoại lệ. Rõ ràng Đảng Cộng Sản có đời sống riêng của nó, với một thân thể độc lập, và Đảng quyết định vận mệnh của người lãnh đạo chứ không phải người lãnh đạo quyết định vận mệnh của Đảng Cộng Sản. Tại “biệt khu Sô Viết” ở tỉnh Giang Tây, khi bị quân đội chính phủ Quốc Dân Đảng bao vây rất khó mà sống sót , thế mà ĐCSTQ  vẫn thanh trừng nội bộ với danh nghĩa dọn sạch phần tử  “phản lại Bolshevich” (Phần Tử AB hay Anti-Bolshevik) [38],  và đã xử tử rất nhiều quân lính của mình vào ban đêm hoặc thậm chí lấy đá đập chết để tiết kiệm đạn. Tại Thiểm Bắc, khi bị chèn giữa quân Nhật và quân Quốc Dân Đảng, phải đối mặt sinh tử, mà vẫn lấy danh nghĩa chỉnh phong Diên An để tiến hành thanh trừng nội bộ, giết người vô số. Những cuộc tàn sát các phần tử ‘phản Đảng’ trong nội bộ mà lặp đi lặp lại có tính cách đại quy mô như thế cũng không ngăn cản được việc khuyếch trương quyền lực của Đảng Cộng Sản, để cuối cùng là thống trị toàn Trung Quốc. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bành trướng thủ đoạn thanh trừng nội bộ và giết lẫn nhau từ khu vực Sô Viết nhỏ cho đến toàn quốc.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc giống như một cái bướu ác tính: trong quá trình bành trướng nhanh chóng của nó, trung tâm khối u đã chết, nhưng nó vẫn liên tục lan rộng tới những tế bào bình thường ở vòng bên ngoài. Sau khi các bộ phận trong thân thể đã bị thâm nhập, thì một khối ung nhọt mới mọc lên. Bất luận một con người kia ban đầu là tốt hay xấu đến đâu, một khi gia nhập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, liền bị biến thành một phần tử của lực lượng phá hoại. Ai càng chân chánh thì càng tin tưởng thật sự, và tánh phá hoại càng mạnh. Không nghi ngờ gì nữa, cái bướu Cộng Sản sẽ tiếp tục tăng trưởng cho tới khi cơ thể bị triệt để hủy hoại thì khi đó là thời kỳ tử vong của nó rồi. Cái bướu nhất định phải chết

Sáng lập viên Đảng cộng sản Trung Quốc và cũng là một phần tử trí thức lãnh đạo cuộc vận động văn hóa ngày 4 tháng 5 năm 1919, Trần Độc Tú, vốn không ưa bạo lực, đã cảnh cáo các đảng viên cộng sản rằng nếu tìm cách ép buộc Quốc Dân Đảng đi theo ý thức cộng sản, hoặc quá chạy theo giành giật quyền lãnh đạo, thì sẽ dẫn đến quan hệ căng thẳng trong nội bộ. Tuy rất quyết liệt trong cuộc vận động 4 tháng 5 nhưng ông là người có lòng khoan dung. Tuy vậy Trần Độc Tú vẫn không tránh khỏi là một trong những người đầu tiên bị chụp mũ là phần tử của “chủ nghĩa cơ hội thuộc cánh Hữu”.
Một lãnh đạo khác trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Cù Thu Bạch, luôn tin tưởng rằng đã là người cộng sản thì phải dấn thân chinh chiến, dấy động binh đao, tổ chức bạo động, phá bỏ tất cả các cấp chính quyền, dùng các biện pháp cực đoan để khôi phục trật tự cho xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên, trước lúc lìa đời, Cù Thu Bạch đã thú nhận rằng “ Tôi thực không có ý nguyện làm liệt sĩ mà chết. Tôi, trên thực chất đã ra khỏi đội ngũ của các bạn từ lâu. Hỡi trời xanh! Lịch sử trêu tôi, lôi kéo tôi từ một ‘văn nhân’ bị cưỡng bách vào võ đài chính trị bao năm trường. Tôi, cho tới phút chót vẫn không thể khắc phục được ý thức thân sĩ của chính mình. Rốt cuộc tôi vẫn không thể trở thành người chiến sĩ của giai cấp vô sản”.[39] 

Vương Minh, một lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tuân theo lệnh Cộng sản Quốc Tế, đã chủ trương hợp tác Quốc-Cộng để kháng Nhật, chứ không mở rộng địa bàn hoạt động cho Đảng Cộng Sản. Tại đại hội Đảng, Mao Trạch Đông và Trương Văn Thiên [40] không thể thuyết phục đồng chí Vương Minh, và cũng cực kỳ khó xử vì không dám tiết lộ rằng lực lượng Hồng Quân của Đảng Cộng Sản Trung Quốc bấy giờ không đủ sức đương đầu với dù chỉ một sư đoàn quân Nhật. Nếu theo cái lý thông thường, và Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất binh, thì lịch sử Trung Quốc sẽ không thành ra như ngày nay. Bị ép theo văn hoá truyền thống của người chủ dẫn là “quên mình giữ nghĩa”, Mao Trạch Đông chỉ còn cách im lặng. Sau này Vương Minh bị hất cẳng, đầu tiên là vì lệch sang ‘Tả khuynh’, rồi sau đó bị gắn tội là phần tử của ‘cơ hội chủ nghĩa thuộc cánh Hữu’.
Hồ Diệu Bang, một Tổng Bí Thư Đảng khác,  đã bị bức bách từ chức tháng 1 năm 1987 vì đã từng chủ trương ‘sửa sai’ và trả lại công lý cho những ai bị xử oan trong cuộc vận động chính trị trước đó là Cách mạng Văn hoá. Hồ Diệu Bang muốn cải thiện cho Đảng Cộng Sản bằng lương tâm của một công dân, kết quả vẫn bị đánh hạ xuống.
Triệu Tử Dương [41], Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc bị hạ bệ gần đây nhất, muốn cải cách để cứu vãn Đảng cộng sản, nhưng hành động của ông chỉ mang lại kết quả bi đát cho mình.
Như vậy, mỗi lãnh đạo mới của Đảng Cộng Sản có thể làm được gì đây? Nếu thật sự phải cải cách Đảng cộng sản, thì Đảng cộng sản sẽ diệt vong. Do đó, những lãnh tụ chủ trương cải cách Đảng Cộng Sản sẽ thấy quyền lực hợp pháp của mình bị Đảng lấy đi ngay lập tức. Những thứ mà đảng viên muốn tự mình cải biến cơ chế của Đảng Cộng Sản là cũng có giới hạn. Do đó, mọi cố gắng cải cách bản thân của Đảng Cộng Sản đều không thể thành công.
Tất cả lãnh đạo trong Đảng cộng sản đều là xấu xa, vậy tại sao cách mạng không những vẫn tiến hành mà còn mở rộng? Nhiều khi vào lúc tà ác nhất, thì người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng Sản bị hạ bệ, bởi vì tà ác trong họ không đạt đủ tiêu chuẩn của Đảng, chỉ những ai tà ác nhất mới được Đảng Cộng Sản chọn lựa. Những người lãnh đạo của Đảng Cộng Sản thường có kết thúc bi thảm, còn bản thân Đảng vẫn ngoan cố sống sót. Những lãnh đạo trụ vững được không phải là những người có thể thao túng Đảng, mà trái lại hiểu thấu Đảng, thuận theo ý định tà ác của Đảng, có thể gia trì năng lượng cho Đảng, có thể giúp đỡ Đảng qua khỏi cơn nguy. Không lạ gì, đảng viên của Đảng Cộng Sản dám đấu với trời, đấu với đất, đấu với người, nhưng không dám đấu với Đảng. Họ là những công cụ thuần phục của Đảng, đến rốt cùng thì đó chính là sự lợi dụng lẫn nhau.
Lưu manh du côn vẫn là nhân di truyền có một không hai của Đảng Cộng Sản cho đến tận ngày nay. Mọi sai lầm của Đảng đều do cá nhân đảng viên lãnh đạo làm thành, như là do Trương Quốc Đảo [42], hoặc là do bè lũ bốn tên (Tứ Nhân Bang) [43],… Đảng xét Mao Trạch Đông có 7 phần công 3 phần sai lầm. Đặng Tiểu Bình tự xét mình có 6 phần công 4 phần sai lầm. Bản thân Đảng không bao giờ sai. Mà dẫu Đảng có sai lầm rồi, thì Đảng sẽ tự sửa lại cho đúng. Đảng bắt các đảng viên luôn phải “ nhìn hướng trước”, chứ không “bận rộn về những chuyện cũ xưa”. Mọi thứ có thể thay đổi, như: Thiên đường nhân gian của chủ nghĩa Cộng Sản đều bị rơi xuống mà biến thành no ấm của chủ nghĩa Xã Hội. Chủ nghĩa Marxism-Leninism được chuyển thành chỉ lệnh của “Tam đại biểu”. Người ta không nên ngạc nhiên nếu thấy Đảng cộng sản hô hào dân chủ, mở cửa cho tự do tôn giáo, hoặc sau một đêm hất cẳng Giang Trạch Dân, ‘sửa sai’ cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Nhưng có những thứ mà không cải biến được, đó chính là mục tiêu của tập đoàn Đảng Cộng Sản, sự  sinh tồn của tập đoàn, và tôn chỉ cho quyền lực của tập đoàn không đổi, sự duy trì quyền lực và thống trị của Đảng Cộng Sản là không đổi.
 Đảng cộng sản lấy bạo lực, khủng bố và tuyên truyền cao độ làm cương lĩnh lý luận cho Đảng, hoá thành Đảng tính, và nguyên tắc tối cao của Đảng, hoá thành linh hồn của người lãnh đạo, hoá thành chuẩn mực quy tắc cho mọi cơ chế vận hành trong Đảng cũng như cho hành vi của tất cả đảng viên. Đảng cộng sản là Đảng cứng rắn, kỷ luật sắt đá, ý chí thống nhất, và hành động của đảng viên trong toàn đảng bắt buộc phải nhất trí.
                                                               

Lời kết

Lực lượng nào trong lịch sử đã lựa chọn Đảng cộng sản? Tại sao không chọn khác đi mà lại chọn Đảng Cộng Sản Trung Quốc? Chúng ta đều biết rằng trên thế giới tồn tại hai loại thế lực, hai loại lựa chọn. Một loại là thế lực cũ tà ác, chúng muốn làm điều ác, lựa chọn những gì thuộc phương diện Âm. Còn thế lực kia là chân chính, là tốt, muốn chọn điều tốt, lựa chọn phương diện Thiện. Đảng cộng sản là lựa chọn của thế lực cũ. Chọn Đảng Cộng Sản chính là vì Đảng Cộng Sản hội tụ đầy đủ mọi tà ác khắp trên thế giới từ xưa đến nay, là đại biểu tập trung cho tà ác nhất. Bấy giờ, nó đã lợi dụng và chà đạp lên bản tính lương thiện của con người, rồi từng bước, từng bước một trở thành một lực lượng phá hoại của hôm nay.
Đảng Cộng Sản luôn luôn tuyên truyền “không có Đảng Cộng Sản thì không có Trung Quốc mới” là ý nghĩa gì?  Từ khi thành lập năm 1921 cho đến khi Đảng Cộng Sản chiếm đoạt chính quyền năm 1949, sự thật chứng minh rằng nếu không có máu tanh và giảo hoạt dối trá thì Đảng cộng sản cũng không có thiên hạ của nó. Đảng Cộng Sản Trung Quốc không giống với bất kỳ đoàn thể nào khác trong lịch sử, bởi vì nó chiếu theo tư tưởng của Karl Marx và Lenin để chế ra lý luận, nó tuỳ theo dục vọng mà làm càn, nó có thể chế tạo lý luận để hợp thức hoá những hành động tà ác của mình, khiến phần đông dân chúng bị lừa dối. Nó vừa bưng bít thông tin, vừa tuyên truyền đủ loại mỗi ngày, mỗi lúc choàng lên đủ thứ chính sách, sách lược và lý luận để người ta tưởng rằng nó luôn luôn đúng.
Sự dựng nghiệp của Đảng Cộng Sản Trung Quốc là một quá trình hoàn toàn tích tụ tà ác không có chút xíu vẻ vang nào mà có thể nói được. Lịch sử dựng nghiệp của Đảng Cộng Sản Trung Quốc chỉ rõ rằng chính quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc không hề có tính cách hợp pháp. Nhân dân Trung Quốc không hề lựa chọn Đảng cộng sản, mà chính là Đảng cộng sản — một thứ tà linh ngoại lai — đã cưỡng chế để chui vào nhân dân Trung Quốc bằng cách áp dụng đủ loại nhân di truyền mà nó kế thừa từ Đảng Cộng Sản là: tà ác, lừa dối, xúi bẩy, lưu manh, gián điệp, trấn lột, đấu tranh, tiêu diệt, khống chế.

Chú thích:
 [1] Thuyết văn giải tự, cuốn sách giải nghĩa của chữ Hán , năm 147 sau công nguyên.
[2] Zhu xi, Luận Ngữ Chú Thích Sưu Tập. 
[3] Xem http://www.epochtimes.com/gb/2/4/5/n181606.htm (bằng tiếng Hán)
[4] Lời bài hát Quốc tế ca của cộng sản: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian…”
[5] Mao Trạch Đông, Bản Báo Cáo Về Cuộc Điều Tra Về Phong Trào Nông Dân Ở Hồ Nam (1927)
[6] Trong huyền thoại dân gian Trung Quốc, Bạch Mao Nữ là một câu chuyện về một tiên nữ sống trong một hang động có các khả năng siêu thường có thể thưởng cho những người làm việc tốt và phạt những kẻ làm điều ác, ủng hộ chính nghĩa và trấn áp tà ác. Tuy nhiên, trong các vở kịch, opera và ballet ở Trung Quốc hiện đại, cô bị mô tả như một cô gái buộc phải chạy trốn đến một cái hang sau khi cha cô bị đánh đến chết vì từ chối không gả cô cho một người địa chủ già. Cô bị bạc tóc vì thiếu dinh dưỡng. Dưới ngòi bút của các nhà văn theo ĐCSTQ, huyền thoại này đã bị biến thành một trong những vở kịch “hiện đại” nổi tiếng nhất ở Trung Quốc nhằm để kích động lòng hận thù giai cấp đối với những người địa chủ.
[7] Vô sản lưu manh: chỉ những phần tử vô sản sống ngoài pháp luật (ăn xin, đĩ điếm, móc túi, trộm cắp, lừa đảo, cướp giật,…) quần tụ ở một số khu ổ chuột của thành phố công nghiệp, thường là hậu quả của đào thải nhân công, và họ trở nên thối nát. Đây là thuật ngữ do Karl Marx đưa ra trong Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848–1850.
[8] Karl Marx and Frederick Engels, Bản tuyên ngôn Cộng sản (1848).
[9] Mao Trạch Đông (1927)
[10] Chu Ân Lai (5/3/1898–8/1/1976): lãnh tụ số hai ngay sau Mao Trạch Đông trong Đảng cộng sản Trung Quốc, giữ chức Thủ tướng ĐCSTQ từ 1949 cho đến hết đời.
[11] Cố Thuận Chương ban đầu là một trong những đặc vụ hàng đầu của ĐCSTQ. Năm 1931 bị Quốc Dân Đảng bắt và đã giúp Quốc Dân Đảng phát hiện một số bí mật của ĐCSTQ. Sau này cả gia đình 8 người của Cố Thuận Chương đều bị bức tử. Xem Lịch sử ám sát của ĐCSTQ (http://english.epochtimes.com/news/4-7-14/22421.html).
[12] Nội chiến giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và Quốc Dân Đảng từ tháng 6 năm 1946. Trải qua ba chiến dịch lớn, chính quyền Quốc Dân Đảng bị lật đổ, và Đảng cộng sản Trung Quốc lập ra nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vào 1 tháng 10 năm 1949.
[13] Tưởng Giới Thạch: lãnh tụ Quốc Dân Đảng, sau khi thất trận đã lưu vong và trở thành lãnh tụ Đài Loan.
[14] Hồ Tôn Nam (1896-1962), nguyên quán ở quận Tiểu Phong, tỉnh Quế Giang. Ông ta đã từng là Phó Tư Lệnh, Tư Lệnh Uỷ Nhiệm và là Tổng Tham Mưu Trưởng của quân đội Quốc Dân Đảng vùng Tây Bắc và các bộ chỉ huy hành chánh.
[15] Lý Tiên Niệm (1902 – 1992), cựu chủ tịch Trung Quốc (1983-1988) và chủ tịch Hội nghị Cố vấn Chính trị Nhân dân Trung Quốc (1988-1992). Ông ta đã đóng  một vai trò quan trọng trong việc trợ giúp Đặng Tiểu Bình dành lại quyền hành vào lúc cuối của cuộc Cách Mạng Văn Hóa vào tháng 10 năm 1976.
[16] Mao Trạch Đông (1927)
[17] Mao Trạch Đông (1927)
[18] Khi bắt đầu Cải cách ruộng đất, ĐCSTQ phân tách nhân dân thành các giai cấp. Trong những giai cấp thù địch thì trí thức đứng ở hàng thứ 9 bên cạnh địa chủ, Hán gian, phản quốc,…
[19] Hồ Cảnh Đào. Bài diễn văn trong đại hội kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhật của Mhậm Bật Thời (30 tháng tư năm 2004)
[20] Trích từ một bài thơ của Tư Mã Thiên ( khoảng 140-87 trước Tây Lịch), một Sử Gia và là một Học Giả vào thời Tây Hán. Bài thơ nổi tiếng của ông ta nói: “Mọi người đều phải chết; có người xem cái chết nhẹ như lông hồng hay nặng hơn núi Thái Sơn.” Núi Thái Sơn là một trong những ngọn núi chính ở Trung Quốc.
[21] Mao Trạch Đông, Chế độ Độc Tài Dân chủ Nhân dân (1949).
[22]Yang Kuisong (30 tháng sáu năm 2004). Một yếu lược về sự ủng hộ tài chánh Mạc Tư Khoa đã cung cấp cho ĐCSTQ từ thập niên 1920 cho đến thập niên 1940.
[23] Bắc phạt: Chiến dịch quân sự do Quốc Dân Đảng lãnh đạo với mục đích thống nhất Trung Quốc dưới quyền Quốc Dân Đảng, kết thúc giai đoạn làm chủ của quân phiệt lãnh chúa.
[24] Cách mạng Quốc dân: Cách mạng thời liên minh Quốc-Cộng, đánh dấu bởi chiến dịch Bắc phạt.
[25] Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn): Lãnh tụ sáng lập ra Trung Quốc hiện đại.
[26] Quân Cách mạng Quốc dân: tức là quân đội nước Trung Hoa Dân Quốc, do Quốc Dân Đảng lãnh đạo, trong thời liên minh Quốc-Cộng, cũng có đảng viên cộng sản tham gia.
[27] Đại thanh trừ 12 tháng 4: Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, ngày 12 tháng 4 năm 1927 đã khởi binh triệt hạ Đảng cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải và một số thành phố khác. Khoảng 5.000 đến 6.000 đảng viên cộng sản đã bị bắt và nhiều người bị chết trong khoảng thời gian từ 12 tháng 4 cho đến hết năm 1927.
[28] Vùng núi Jinggangshan được coi là căn cứ cách mạng thôn quê đầu tiên của ĐCSTQ và còn được gọi là “cái nôi của Hồng Quân”.
[29] Mao Trạch Đông (1927)
[30] Mao Trạch Đông (1927)
[31] Liễu Tây-Thẩm Dương, Bắc Kinh-Thiên Tân, và Hoài-Hải là ba chiến trường chính mà ĐCSTQ đã đánh với Quốc Dân Đảng từ tháng chín 1948 cho tới tháng giêng 1949 và đã tiêu diệt rất nhiều bộ đội Quốc Dân Đảng. Hàng triệu sinh mạng đã bị hủy diệt trong ba chiến trường này.
[32] Lâm Bưu (1907-1971), một lãnh tụ cao cấp trong Đảng Cộng sản, dưới thời Mao Trạch Đông, đã là uỷ viên Bộ Chính trị, là Phó Chủ tịch nhà nước (1958), và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1959). Lâm Bưu được coi là kiến trúc sư của Cách mạng Văn hoá. Lâm Bưu từng được chọn là người kế nhiệm Mao Trạch Đông năm 1966 nhưng sau đó bị thất sủng vào năm 1970. Thấy bị xuống dốc, Lâm Bưu (theo một số báo cáo) đã định làm một vụ tầy đình và định đào tẩu sang Liên Xô sau khi âm mưu bại lộ. Khi chạy trốn khỏi trừng phạt, máy bay đã nổ tại Mông Cô, kết thúc cuộc đời Lâm Bưu.
[33] Cù Thu Bạch (1899-1935): một trong những đảng viên từ hồi ĐCSTQ còn non trẻ và là cây bút cánh Tả lừng danh; bị Quốc Dân Đảng bắt ngày 23 tháng 2 năm 1935, và chết ngày 18 tháng 6 năm ấy.
[34] Học thuyết tam đại biểu của Giang Trạch Dân được nhắc đến lần đầu trong bài phát biểu của Giang tháng 2 năm 2000, đại ý là Đảng cộng sản Trung Quốc phải luôn luôn (1) đại biểu cho quyền lợi dân tộc Trung Hoa, (2) đại biểu cho sự phát triển hiện đại, (3) đại biểu cho nền văn hoá tiên tiến của Trung Quốc.
[35] Trương Bá Quân (1895-1969) là một trong những người sáng lập ra Trung Quốc Dân Chủ Hội, một đảng phái dân chủ ở Trung Quốc. Ông ta bị Mao Trạch Đông xếp vào người cánh hữu số một năm 1957 và là một trong số ít người cánh hữu không được khôi phục lại sau Cách Mạng Văn Hóa.
[36] La Long Cơ (1898-1965) là một trong những người sáng lập ra Trung Quốc Dân Chủ  Hội. Ông ta bị Mao Trạch Đông xếp vào người cánh hữu năm 1958 và là  một trong số ít người cánh hữu không được khôi phục lại sau Cách Mạng Văn Hóa
[37] Phổ Nghi (1906–1967): Hoàng đế cuối cùng (1908–1912) của Trung Hoa. Sau khi ông thoái vị, chính quyền Dân quốc cho ông một khoản hưu trí rất lớn và để ông ngụ tại Cấm Thành, Bắc Kinh đến năm 1924. Sau 1925, ông sống tại Thiên Tân do quân Nhật tiếp quản. Năm 1934 ông trở thành vua của chính quyền bù nhìn Mãn Châu Quốc do quân Nhật dựng lên. Sau đó, ông bị quân Nga bắt làm tù binh năm 1945. Năm 1946, tại toà án tội phạm chiến tranh ở Tô-ky-ô, ông tuyên bố rằng mình đã bị quân Nhật cưỡng ép trở thành công cụ cho chúng, chứ không phải là công cụ của chính quyền Mãn Châu Quốc. Ông bị trao trả cho ĐCSTQ năm 1950 và bị giam tại Thẩm Dương cho đến năm 1959. Sau đó Mao Trạch Đông ân xá trả tự do cho ông.
[38] Đây là một biến cố về sự đấu tranh nội bộ của ĐCSTQ vào năm 1930 khi Mao Trạch Đông hạ lệnh giết chết hàng ngàn đảng viên cũng như lính của Hồng Quân và những người dân vô tội ở tỉnh Giang Tây với mục đích để củng cố quyền hành của Mao trong những vùng kiểm soát bởi ĐCSTQ.
Muốn thêm chi tiết  xin xem http://kanzhonggua.com/news/articles/4/4/27/64064.htm (bằng tiếng Hán).
[39] Cù Thu Bạch, Một Vài Chữ Nữa (23 tháng 5 năm 1935). Tác phẩm này được viết trước khi ông ta chết ( ngày 18 tháng 6 năm 1935).
[40] Trương Văn Thiên (1900-1976) là một lãnh tụ quan trọng của ĐCSTQ từ thập niên 1930. Ông ta đã từng là Phó Tổng Trưởng Ngoại Giao của Trung Quốc từ năm 1954-1960. Ông ta bị xử tội chết năm 1976 trong thời Cách Mạng Văn Hóa. Hồ sơ của ông ta được phục hồi vào tháng tám 1979.
[41] Triệu Tử Dương: người cuối cùng trong 10 Tổng Bí Thư ĐCSTQ bị hạ bệ. Ông bị khai trừ vì bất đồng ý kiến với Đảng trong vụ dùng bạo lực thảm sát biểu tình đòi dân chủ của sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn năm 4 tháng 6 năm 1989.
[42] Trương Quốc Đảo (1897-1979) là một trong những người sáng lập ĐCSTQ. Ông ta bị loại trừ ra khỏi ĐCSTQ vào tháng tư năm 1938. Ông ta trốn qua Đài Loan vào tháng 11 năm1948, rồi qua Hồng Kông năm 1949. Ông ta di trú vào Canada vào năm 1968.
[43] Bè lũ bốn tên: gồm vợ Mao Trạch Đông là Giang Thanh (1913-1991), viên chức Ban Tuyên giáo Thượng Hải Trương Xuân Kiều (1917-1991), nhà phê bình văn học Diệu Văn Nguyên (1931-), và cảnh vệ Thượng Hải Vương Hồng Văn (1935-1992). Họ thâu đoạt quyền hành thời Cách mạng Văn hoá (1966-1976) và lũng đoạn chính trị Trung Quốc đầu những năm thập kỷ 1970.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN


BÀI BÌNH LUẬN SỐ III.

Chính Quyền Bạo Lực của Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Lời  mở đầu



Bạo chính bị bắt quả tang trong hình chụp: Cảnh sát Trung Quốc đồng phục và thường phục bắt giam các học viên Pháp Luân Công đến kháng cáo ôn hòa tại quảng trường Thiên An Môn để chấm dứt sự đàn áp, Tháng 7, 2001 (Clearwisdom)
Nói về “bạo chính”, hầu hết những người Trung Hoa sẽ liên tưởng đến Tần Thủy Hoàng (259-210 B.C.), hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Tần, người đã ra lệnh đốt sách và chôn sống nho sĩ. Chính sách hà khắc bạo ngược của Tần Thủy Hoàng đối với dân chúng là: “dùng tất cả tài nguyên trong thiên hạ để phụng sự cho sự cai trị của vua” [1]. Chính sách này bao gồm bốn phương diện: đánh thuế thật nặng; lạm dụng nhân lực cho các dự án để tuyên dương hoàng đế; dùng luật lệ tàn bạo tra tấn tội nhân và trừng phạt ngay cả thân nhân và láng giềng của họ; kiềm chế tư tưởng và áp bức bằng cách đốt sách và ngay cả chôn sống nho sĩ.  Dưới sự thống trị của Tần Thủy Hoàng, dân số của Trung Quốc có khoảng mười triệu; nhưng triều đình nhà Tần đã bắt hơn hai triệu người làm nô lệ.  Tần Thủy Hoàng cũng áp dụng chính sách hà khắc tàn bạo này cho giới trí thức, bằng cách cấm tự do tư tưởng trên mọi lãnh vực.  Dưới sự cai trị của Tần Thủy Hoàng, hàng ngàn nho sĩ và các quan lại mà phê phán triều đình đều bị giết chết.
Ngày nay, so với triều đại hổ lang của Tần Thủy Hoàng, sự bạo ngược của Đảng Cộng Sản còn mãnh liệt hơn rất nhiều.  Triết lý của Đảng Cộng Sản là "đấu tranh”, và sự thống trị của Đảng Cộng Sản  xây dựng trên một loạt đấu tranh: “đấu tranh giai cấp”, “đấu tranh đường lối”, “đấu tranh tư tưởng” ở trong Trung Quốc và ở các quốc gia khác.  Mao Trạch Đông, lãnh tụ Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đầu tiên của Cộng hòa Nhân Dân Trung Quốc, huỵch toẹt tuyên bố rằng, “Tần Thủy Hoàng đáng kể gì?  Ông ta chỉ giết có 460 nho sĩ, còn chúng ta thì thủ tiêu đến 46 ngàn tên trí thức.  Có người cho chúng ta là kẻ độc tài thống trị, giống như Tần Thủy Hoàng, chúng ta thừa nhận tất cả.  Nó phù hợp với thực tế.  Tiếc thay họ nói thế còn chưa đủ, cho nên chúng ta cần phải gia tăng để bổ sung.” [2]
 Chúng ta hãy nhìn lại 55 năm khốn khổ của Trung Quốc dưới sự thống trị của Đảng Cộng Sản. Vì lý luận nền tảng của Đảng cộng sản là “đấu tranh giai cấp”, cho nên Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ khi nắm chính quyền đã thẳng tay diệt tuyệt từng giai cấp, và chúng đã lấy học thuyết cách mạng bạo lực mà thực hành chính trị khủng bố.  Giết người và tẩy não đã được sử dụng đi đôi với nhau để đàn áp bất cứ tín ngưỡng nào khác, ngoại trừ lý thuyết của Đảng cộng sản. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đưa ra vận động này đến vận động khác để tạo hình ảnh thần thánh cho chúng. Theo sau lý luận của đấu tranh giai cấp và cách mạng bạo lực, Đảng Cộng Sản Trung Quốc không ngừng tiêu diệt những phần tử không giống mình ở trong quần chúng và những người không cùng phạm vi. Đồng thời dùng các thủ đoạn lừa dối đã gia tăng trong đấu tranh để cưỡng ép tất cả người dân Trung Quốc trở thành những tên đầy tớ trung thành ngoan ngoãn dưới sự thống trị bạo ngược của chúng.

I. Cải Cách Ruộng Đất — "Tiêu Diệt Giai Cấp Địa Chủ"

Chưa được ba tháng sau khi thành lập Trung Quốc cộng sản, Đảng Cộng Sản hô hào tiêu diệt giai cấp địa chủ, như một trong những dẫn đầu cho chương trình cải cách ruộng đất trên toàn quốc.  Khẩu hiệu của Đảng là “dân cày có ruộng”, đã nuôi dưỡng cái tâm ích kỷ của tá điền, khuyến khích họ đấu tranh với địa chủ bằng bất cứ phương kế nào và bất chấp hành động của họ có đạo đức hay không.  Chiến dịch cải cách ruộng đất qui định rõ ràng: tiêu diệt giai cấp địa chủ, phân loại dân chúng ở vùng nông thôn thành các nhóm xã hội khác nhau.  Hai mươi triệu dân ở vùng nông thôn trên toàn quốc đã bị gắn nhãn là “địa chủ, phú nông, phản cách mạng, hay là phần tử xấu”.  Những người thuộc loại này, bị khinh miệt, bị làm nhục, bị mất tất cả quyền lợi công dân.  Khi chiến dịch cải cách ruộng đất lan rộng ra đến các vùng xa xôi hẻo lánh và làng mạc của dân tộc thiểu số, thì các tổ chức Đảng của Đảng Cộng Sản cũng phát triển rất nhanh. Các chi bộ làng xã của Đảng phát triển khắp nơi trên Trung Quốc.  Các chi bộ địa phương là miệng lưỡi để truyền chỉ thị từ Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và cũng là tuyến đầu của đấu tranh giai cấp, đã kích động tá điền vùng lên chống lại địa chủ.  Gần 100 ngàn địa chủ đã bị giết chết trong chiến dịch này. Trong một số vùng, Đảng Cộng Sản và tá điền đã giết toàn bộ gia đình của các địa chủ, bất kể già hay trẻ, coi như là cách thức để hoàn toàn nhổ tận gốc giai cấp địa chủ.
Cùng lúc ấy, Đảng Cộng Sản Trung Quốc phát động làn sóng tuyên truyền đầu tiên của chúng, tuyên bố rằng “Chủ tịch Mao là cứu tinh vĩ đại của nhân dân” và rằng “chỉ có Đảng Cộng Sản mới có thể cứu được Trung Quốc”.  Trong giai đoạn cải cách đất đai, qua chính sách cưỡng đoạt của Đảng Cộng Sản, tá điền đạt được những gì họ muốn mà không cần phải lao động, họ cướp bóc bằng bất cứ cách nào.  Nông dân nghèo mang ơn Đảng Cộng Sản đã cải thiện đời sống cho họ và vì vậy chấp nhận tuyên truyền của Đảng Cộng Sản rằng Ðảng phục vụ lợi ích của nhân dân.
Đối với chủ nhân mới của đất chiếm được, những ngày tươi đẹp của “dân cày có ruộng” cũng ngắn ngủi. Trong vòng hai năm, Đảng Cộng Sản bắt đầu áp dụng một số chính sách ép buộc nông dân gia nhập các tổ chức như tổ hỗ trợ, hợp tác xã sơ cấp, hợp tác xã cao cấp, và công xã nhân dân.  Dùng khẩu hiệu mà đả kích “phụ nữ bó bàn chân” — là những người theo chậm — Đảng Cộng Sản Trung Quốc, từ năm này đến năm khác, điều động và thúc đẩy nông dân “xông vào” chủ nghĩa xã hội.  Với thóc lúa, bông, và dầu nấu ăn được đặt dưới một hệ thống thu mua thống nhất trên toàn quốc, các sản phẩm nông nghiệp chính không được trao đổi trên thị trường. Thêm vào đó Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn thiết lập một hệ thống đăng ký cư trú (hộ khẩu), ngăn chận không cho nông dân ra thành thị để tìm việc hay cư trú.  Những ai đăng ký ở nông thôn thì không được phép mua thóc lúa tại các cửa hàng quốc doanh và con cái của họ bị cấm không được đi học ở thành phố.  Con cái của nông dân chỉ là nông dân, như vậy đã biến 360 triệu dân nông thôn vào đầu thập niên 50 trở thành những công dân hạng nhì.
Bắt đầu vào năm 1978, trong 5 năm đầu sau khi chuyển từ hệ thống làm việc tập thể sang hệ thống khoán hộ, một số người trong 900 triệu nông dân có tình trạng khá hơn, lợi tức thu hoạch khá hơn và địa vị xã hội tương đối cũng khá hơn.  Tuy nhiên lợi ích nhỏ nhoi đó mấy chốc cũng mất luôn bởi vì cơ cấu giá cả ưu đãi hàng hóa công nghiệp hơn là hàng nông nghiệp; một lần nữa các nông dân lại phải lâm vào cảnh bần cùng. Lợi tức giữa dân thành phố và dân nông thôn cách nhau rất xa, sự chênh lệch về kinh tế càng ngày càng lan rộng ra.  Các địa chủ và phú nông mới đã xuất hiện trở lại trong các vùng nông thôn.  Tài liệu từ Tân Hoa Xã, miệng lưỡi của Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, cho thấy rằng từ năm 1997, thu hoạch từ các vùng sản xuất thóc lúa chính và lợi tức của hầu hết các gia đình nông thôn vẫn giữ nguyên, thậm chí trong một số trường hợp lại còn giảm đi.  Nói cách khác, thu hoạch của nông dân từ sản xuất nông nghiệp kỳ thực không tăng. Tỷ lệ lợi tức giữa thành phố và nông thôn tăng lên từ 1.8 / 1 vào giữa thập niên 80 cho đến ngày nay là 3.1 / 1.

II.  Cải tạo công nghiệp và thương mại — Tiêu diệt giai cấp tư sản

Một giai cấp khác mà Đảng Cộng Sản muốn tiêu diệt là giai cấp tư sản trong nước, là những người có tài sản ở các đô thị và các thị trấn nông thôn.  Trong khi cải cách công nghiệp và thương mại ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản cho rằng bản nguyên của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân là khác nhau: giai cấp thứ nhất là giai cấp bóc lột, trong khi giai cấp thứ hai là giai cấp không bóc lột và chống bóc lột.  Theo cái lô-gic này, giai cấp tư sản đã được tạo ra để bóc lột và sẽ không ngừng bóc lột cho đến khi bị diệt vong; nên phải bị tiêu diệt chứ không cải tạo được.  Với cái tiền đề ấy, Đảng Cộng Sản dùng cả hai cách, giết và tẩy não, để cải tạo các nhà tư bản và thương gia.  Đảng Cộng Sản sử dụng phương pháp đã được kiểm nghiệm lâu dài của nó: thuận theo thì sống, nghịch thì bị tiêu diệt.  Nếu ai cống hiến tài sản cho quốc gia và ủng hộ Đảng Cộng Sản, thì chỉ coi là mâu thuẫn nội bộ của nhân dân.  Trái lại, nếu bất đồng ý kiến hay phàn nàn về chính sách của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, thì bị liệt vào phần tử phản cách mạng và sẽ thành đối tượng của chính quyền độc tài tàn bạo của Đảng Cộng Sản.
Trong giai đoạn gió tanh mưa máu của các cuộc cải tạo này, các nhà tư bản và chủ doanh nghiệp đều dâng nạp tài sản của họ. Nhiều người trong bọn họ tự tử vì không chịu được sự sỉ nhục.  Trần Nghị, lúc đó là thị trưởng của Thượng Hải, đã hỏi mỗi ngày rằng, “Hôm nay có bao nhiêu người nhảy dù?”, nghĩa là hỏi số người trong nhóm tư bản tự tử bằng cách nhảy xuống từ nóc tòa nhà trong ngày đó.  Chỉ có vài năm, mà Đảng Cộng Sản đã hoàn toàn tiêu diệt chế độ tư hữu ở Trung Quốc.
Trong khi thực hiện các chương trình cải cách đất đai và cải tạo công thương, Đảng Cộng Sản cũng phát động nhiều cuộc vận động qui mô để đàn áp người dân Trung Quốc.  Những cuộc vận động này gồm có: đàn áp “phản cách mạng”, chiến dịch cải tạo tư tưởng, trừ sạch tập đoàn chống Đảng do Cao Cương và Nhiêu Sấu Thạch[3] cầm đầu, và thanh trừ nhóm “phản cách mạng” Hồ Phong [4], chiến dịch Tam Phản, Ngũ Phản, và trừ sạch hơn nữa các phần tử phản cách mạng.  Đảng Công Sản dùng những cuộc vận động này để nhắm vào và đàn áp tàn nhẫn vô số người dân vô tội.  Trong mỗi cuộc vận động chính trị, Đảng Cộng Sản cùng với với các đảng ủy, tổng chi, chi bộ, tận dụng toàn bộ sự khống chế tài nguyên của chính phủ.  Cứ ba đảng viên là hình thành một nhóm chiến đấu nhỏ, thâm nhập các làng xóm và các nẻo đường.  Các nhóm chiến đấu này ở đâu cũng có, không việc gì là không quản  lý đến.  Trong những năm chiến tranh, kết cấu khống chế kiểu mạch lưới đan xéo chặt của Đảng là từ mạng lưới “chi bộ Đảng đặt trong quân đội” của Ðảng Cộng Sản, đã đóng một vai trò then chốt trong các cuộc vận động chính trị sau này.

III. Đàn Áp Tôn Giáo và Cấm chỉ các Môn phái Đạo

Đảng Cộng Sản còn phạm một điều gian ác nữa trong cuộc đàn áp tôn giáo tàn bạo và cấm chỉ hoàn toàn các Đạo môn cội rễ sau khi thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc.  Vào năm 1950, Đảng Cộng Sản Trung Quốc ra lệnh cho chính quyền địa phương phải cấm ngặt tất cả các Đạo môn và bang hội nào không chánh thức.  Đảng Cộng Sản tuyên bố rằng các tổ chức “phong kiến” bí mật này chỉ là công cụ trong tay của các địa chủ, phú nông, phần tử phản cách mạng, và đặc vụ của Quốc Dân Đảng. Trong chiến dịnh thẳng tay đàn áp trên toàn quốc, chính phủ động viên các giai cấp mà chúng tin cậy để nhận diện và đàn áp hội viên của các môn phái Đạo.  Chính quyền trong các cấp khác nhau trực tiếp giải tán các nhóm gọi là “nhóm mê tín” như là nhóm Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo, Đạo Giáo (đặc biệt những người tin tưởng Nhất Quán Ðạo), và Phật Giáo.  Chúng ra lệnh cho tất cả các thành viên của nhà thờ, chùa, và các môn phái phải đăng ký với chính quyền và phải hối lỗi vì đã tham dự các hoạt động này.  Không đăng ký thì sẽ bị trừng phạt nặng nề.  Vào năm 1951, chính quyền [của Ðảng] chính thức ban hành luật cấm: những ai tiếp tục hoạt động trong các môn phái không chính thức sẽ bị tù chung thân hay bị tử hình.
Cuộc vận động này đã đàn áp một số đông tín đồ tin tưởng Thượng Ðế, Thần linh, là những người lương thiện và tuân theo luật pháp. Thống kê chưa đầy đủ, cho thấy rằng trong thập niên 50 Đảng Cộng Sản đã đàn áp ít nhất 3 triệu tín đồ tôn giáo và hội viên của các bang hội bí mật, một số trong nhóm người này đã bị giết chết.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc khám xét hầu hết mỗi một gia đình trên toàn quốc và thẩm vấn mọi người trong gia đình, thậm chí còn đập nát các tượng thờ ông Táo, ông Địa mà các nông dân Trung Quốc theo truyền thống vẫn thờ cúng.  Đồng thời việc giết người lại càng củng cố thông điệp của Đảng Cộng Sản rằng chỉ có thể hệ tư tưởng của Đảng cộng sản mới là thể hệ tư tưởng hợp pháp duy nhất, và chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới là tín ngưỡng hợp pháp duy nhất.  Vì vậy có những người mà gọi là tín đồ “ái quốc” xuất hiện ngay sau đó.  Hiến pháp quốc gia chỉ bảo vệ các tín đồ “ái quốc”. Trên thực tế, cho dù tin vào bất cứ tín ngưỡng nào mọi người chỉ có một tiêu chuẩn: mọi hành vi phải tuân theo sự chỉ huy của Đảng Cộng Sản, và phải thừa nhận rằng Đảng Cộng Sản là trên hết, trên tất cả các giáo hội.  Nếu là một tín đồ Cơ Ðốc Giáo, thì Đảng Cộng Sản là Thượng đế của Thượng đế trong Cơ Ðốc Giáo.  Nếu là một Phật tử, Đảng Cộng Sản là Phật Tổ của Phật Tổ. Nếu ở trong Hồi Giáo, thì Đảng Cộng Sản là Allah của Allah.  Còn đối với Phật sống trong Phật Giáo Tây Tạng, thì Đảng Cộng Sản sẽ xen vào, và Ðảng sẽ chọn ai làm vị Phật sống này. Hễ Đảng cần người ta nói cái gì thì người ta phải nói cái đó, và hễ Đảng cần người ta làm cái gì thì họ phải làm cái đó.  Tất cả tín đồ bị bắt phải thực thi mục tiêu của Đảng Cộng Sản, trong khi tín ngưỡng của họ thì chỉ là trên danh nghĩa mà thôi. Nếu không làm như vậy thì sẽ là đối tượng để đả kích của Ðảng Cộng Sản độc tài .
Theo báo cáo ngày 22 tháng 2 năm 2002 của báo Nhân Loại và Nhân Quyền trên Internet, 20 ngàn tín đồ Cơ Ðốc Giáo thực hiện một cuộc kiểm kê với 560 ngàn tín đồ Cơ đốc Giáo thuộc các giáo hội gia đình trong 207 thành phố thuộc 22 tỉnh ở Trung Quốc.  Cuộc kiểm kê cho thấy rằng trong số các tín đồ của giáo hội gia đình, 130 ngàn người đã bị chính quyền theo dõi. Trong quyển sách Đảng Cộng Sản Trung Quốc Ðàn Áp Tín Ðồ Cơ Ðốc Giáo như thế nào (1958)[5] đã viết rằng đến năm 1957, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã giết chết hơn 11 ngàn tín đồ tôn giáo và ngang nhiên giam giữ và tống tiền nhiều người hơn nữa.
Bằng cách tiêu diệt giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản, và bằng cách đàn áp quảng đại quần chúng là các tín đồ tôn giáo và những người tôn trọng luật pháp, Đảng Cộng Sản đã dọn đường cho chủ nghĩa Cộng Sản trở thành một giáo phái bao trùm mọi người ở Trung Quốc.

IV. Vận Động Chống Cánh Hữu — Tẩy Não Toàn Quốc để mà Thâu Dùng

Vào năm 1956, một nhóm trí thức Hungary thành lập câu lạc bộ Vòng Petofi, để tổ chức hội thảo và tranh luận về  chính phủ Hungary.  Nhóm người này đã khích động một cuộc cách mạng toàn quốc ở Hungary, nhưng sau đó thì bị lính của Liên Sô dẹp tắt.  Mao Trạch Đông đã lấy “Sự kiện Hungary” này làm một bài học.  Vào năm 1957, Mao kêu gọi các phần tử trí thức và dân chúng ở Trung Quốc “giúp Đảng Cộng Sản chấn chỉnh”.  Cuộc vận động này, vắn tắt là “Vận Ðộng Trăm Hoa”, mang khẩu hiệu “trăm hoa đua nở, trăm phái tranh hót”.  Mục đích của Mao là để dụ dỗ, lừa bịp mà lôi ra các “phần tử chống Đảng” trong dân chúng.  Trong bức thư gửi cho các lãnh đạo Đảng cấp tỉnh vào năm 1957, Mao Trạch Đông nói ra ý định “dụ rắn ra khỏi hang” của mình bằng cách để cho họ tự do phô bày quan điểm của họ dưới danh nghĩa tự do tư tưởng và chỉnh đốn Đảng cộng sản.
Vào thời đó, Ðảng hô hào khuyến khích dân chúng bày tỏ quan điểm và hứa hẹn không trả thù — Đảng sẽ không túm tóc, không lấy gậy đập, không chụp mũ, và quyết không thanh toán sau khi mọi chuyện đã qua — ý rằng Ðảng sẽ không tìm lỗi, tấn công, vu khống, hay trả đũa.  Nhưng sau đó không lâu, Đảng Cộng Sản bắt đầu một cuộc vận động “chống cánh Hữu”, tuyên bố rằng 540 ngàn người dám bày tỏ quan điểm như là “ thuộc cánh Hữu”.  Trong số này có 270 ngàn người đã bị mất việc và 230 ngàn người đã bị gán nhãn là “phần tử trung Hữu”, hay là “phần tử chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội”.  Sau đó có người tổng kết chiến lược chính trị của Đảng cộng sản cho sự đàn áp, thành 4 loại: “dụ rắn ra khỏi hang"; "bịa đặt tội trạng, đột nhiên tập kích, trừng phạt với một lời buộc tội"; "tấn công không thương xót dưới danh nghĩa cứu dân"; "ép người phải tự phê phán mình, rồi gán cho nhãn hiệu xấu xa nhất”.
Như vậy cái gọi là “ngôn luận phản động” lúc đó, đã khiến cho rất nhiều người trong cánh Hữu và những phần tử chống Đảng cộng sản phải bị đi đày gần 30 năm ở những nơi vô cùng xa xôi hẻo lánh trong nước. Lúc đó Đảng sử dụng " vạn mũi tên cùng bắn ra" để phê phán chặt chẽ đối với những người cánh Hữu. Ba lý luận chính về cách mạng mà gọi là “Ba lý luận đại phản động”, là mục tiêu công kích chung, mạnh mẽ vào thời đó bao gồm vài bài diễn văn của La Long Cơ, Chương Bá Quân và Chư An Bình. Nhưng xét kỹ hơn thì điều mà họ nêu ra và đề nghị cho thấy rằng mong ước của họ cũng không hại gì cả.
La Long Cơ đề nghị thành lập một ủy ban liên hợp Đảng cộng sản và các đảng “dân chủ” đủ loại để kiểm tra những điều sai lệch trong công tác của chiến dịch “Tam Phản”, “Ngũ Phản” và các cuộc vận động thanh trừ phản cách mạng. Thông thường Hội Đồng Quốc Gia cũng đệ trình những văn thư lên Ban Cố Vấn Chính Trị và Quốc Hội Nhân Dân để xem xét và bình luận, cho nên Chương Bá Quân đã đề nghị Hội Ðồng Cố Vấn Chính Trị và Quốc Hội Nhân Dân nên tham gia vào các quá trình hình thành chính sách.
Chư An Bình đề nghị rằng, bởi vì những người không phải là đảng viên cũng có ý kiến hay, tự trọng, có trách nhiệm đối với quốc gia, do đó trên toàn quốc không cần phải giao cho đảng viên phụ trách lãnh đạo các đơn vị, dù to hay nhỏ, hoặc ngay cả các đội trong mỗi đơn vị. Cũng không cần thiết là mọi việc, dù to hay nhỏ, phải được thực hiện theo cách mà Đảng viên đề nghị.  Cả ba đã bày tỏ ý định sẵn lòng đi theo Đảng cộng sản, và không một đề nghị nào của họ vượt quá phạm vi đã định, như là lời của nhà văn và nhà phê bình Lỗ Tấn [6]. “Thưa lão gia, áo choàng của ông đã bị bẩn. Xin cởi ra để con giặt cho ông.”. Giống như Lỗ Tấn, những người “cánh Hữu” này đã thể hiện sự ngoan ngoãn, phục tùng và kính trọng.
Không ai trong số những người bị kết tội thuộc “cánh Hữu” đã đề nghị rằng Đảng Cộng Sản nên bị lật đổ; tất cả những gì mà họ đề nghị đều là phê bình xây dựng. Nhưng chính vì những đề nghị này, mà hàng chục ngàn người dân mất tự do, hàng triệu gia đình đau khổ. Tiếp theo đó là các cuộc vận động như là “giao phó cho Đảng ”, nhổ cờ trắng tức là lôi ra những người có lập trường kiên định, chiến dịch mới “Tân Tam Phản”, đẩy giới trí thức ra các vùng nông thôn làm lao động nặng nhọc, lùng bắt các phần tử cánh Hữu mà bị sót lại trong lần đầu.  Hễ ai phản đối người lãnh đạo trong đơn vị, nhất là bí thư Đảng, thì sẽ bị gán nhãn hiệu là phản Đảng.  Thông thường là bắt họ phải chịu những phê phán liên tục, hoặc gửi họ vào các trại lao động để cưỡng ép cải tạo.  Đôi khi Đảng còn chuyển cả gia đình của họ đến các vùng nông thôn, cấm không cho con em của họ vào đại học hay gia nhập quân đội. Họ cũng không thể xin việc làm ở thành phố hoặc tỉnh, và mất luôn quyền lợi về y tế công cộng.  Họ trở thành những người thấp kém trong hạng nông dân và bị ruồng bỏ, ngay cả ở giữa đám công dân hạng nhì.
Sau cuộc đàn áp giới trí thức, một số học giả đã hình thành loại nhân cách hai mặt, và ngả theo chiều gió.  Họ theo sát “Mặt trời Đỏ” và trở thành “phần tử trí thức ngự dụng”(là trí thức được toà chỉ định) của Đảng Cộng Sản, thi hành hoặc nói bất cứ điều gì Đảng muốn.  Còn một số phần tử thanh cao khác trở nên xa vời, tách mình ra khỏi vấn đề chính sách, và câm như hến. Các phần tử trí thức Trung Quốc, mà có ý thức trách nhiệm với quốc gia theo truyền thống, lúc đó cũng giống như Từ Thứ đã bị nhốt vào ngục của Tào Doanh, lại càng câm lặng hơn từ đó.

V. Đại Nhảy Vọt — Tạo Sai Lầm để Thử Lòng Trung Thành

Sau cuộc vận động Chống Cánh Hữu,  Trung Quốc tiến vào trạng thái sợ hãi sự thật. Mọi người đều tham gia vào nghe những lời giả dối, kể lại chuyện bịa đặt, nói dối, trốn tránh và che dấu sự thật bằng dối trá và tin đồn.  Đại Nhảy Vọt là một lần bùng nổ của bài thực hành tập thể về dối trá, lừa bịp trên toàn quốc.  Người dân trên toàn quốc, dưới sự lãnh đạo của tà linh Đảng Cộng Sản làm rất nhiều điều ngu xuẩn.  Từ kẻ nói dối đến những người bị lừa dối cả hai đều lừa dối mình và lừa dối người như nhau. Trong chiến dịch dối trá và hành động ngu đần này, Đảng Cộng Sản đã khắc sâu cái tà khí bạo ngược của chúng vào trong cảnh giới tinh thần của toàn dân Trung Quốc.  Có lúc, nhiều người lại còn cao giọng hát những bài ca tụng Đại Nhảy Vọt như “Tôi là Ngọc Hoàng, tôi là Long Vương. Tôi ra lệnh cho tam sơn ngũ núi mở đường, tôi đến đây!”[7]. Các chính sách như là “đạt sản lượng thóc lúa 75 tấn trên mỗi héc-ta”, “gấp đôi sản lượng thép”, và “vượt qua Anh quốc trong 10 năm và đuổi kịp Mỹ trong 15 năm” đã diễn ra từ năm này đến năm khác.  Các chính sách này dẫn tới vụ Đại mất mùa  làm thành nạn đói khủng khiếp trên toàn quốc, trầm trọng cướp đi hàng triệu sinh mạng.
Trong phiên họp toàn thể lần thứ Tám của Hội Nghị ban Trung Ương Đảng Cộng Sản ở Lư Sơn vào năm 1959, có ai trong những người tham dự đã không đồng ý với quan điểm của tướng Bành Đức Hoài [8] rằng Đại Nhảy Vọt do Mao Trạch Đông đề ra là ngu xuẩn?  Tuy nhiên, ủng hộ chính sách của Mao hay không đã biểu hiện giữa trung thành và phản bội, hoặc là vạch một ranh giới giữa sống và chết.  Trong một câu chuyện từ lịch sử Trung Quốc, khi Triệu Cao[9] tuyên bố rằng con nai là con ngựa, ông ta thừa biết sự khác biệt giữa nai và ngựa, nhưng ông cố ý gọi con nai là con ngựa vì để kiểm soát dư luận, kiểm soát tranh cãi ngầm, và mở rộng quyền lực của ông ta.  Kết quả của phiên họp toàn thể Lư Sơn là ngay cả Bành Đức Hoài cũng bị bắt buộc phải ký một nghị quyết tự kết tội và bị đào thải khỏi chính quyền trung ương.  Tương tự như thế, trong thời kỳ sau của Đại  Cách Mạng Văn Hóa, Đặng Tiểu Bình cũng bị bắt buộc phải hứa rằng ông ta sẽ không bao giờ "lật lại bản án” mà chống lại quyết định của chính quyền đã cách chức ông.
Xã hội của nhân loại phải dựa trên những kinh nghiệm đã có để hiểu biết thế giới và phát triển phạm vi kiến thức. Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã khiến cho người ta mất đi cơ hội học hỏi từ các bài học và kinh nghiệm trong lịch sử. Thêm vào đó, các cơ quan kiểm duyệt truyền thông chỉ giúp cho càng ngày càng hạ thấp khả năng nhận định tốt hay xấu của người dân. Sau mỗi cuộc vận động chính trị, thế hệ trẻ chỉ được biết những báo cáo đã bị sửa đổi của Ðảng, và bị tước đoạt những phân tích, lý tưởng, và kinh nghiệm sâu sắc từ các thế hệ trước.  Kết quả là người dân chỉ thu thập được các tin tức rải rác làm nền tảng để hiểu biết lịch sử và phán đoán những sự kiện mới, họ nghĩ rằng mình đã thấy chính xác nhưng kỳ thực đã chệch khỏi sự thật hằng ngàn dặm. Như thế chính sách làm cho dân ngu dốt của Đảng Cộng Sản đã dựa vào loại phương thức này mà thực hành rộng rãi và có hệ thống.

VI.  Đại Cách Mạng Văn Hóa — Tà Linh Phụ Thể,  Đảo Ngược Càn Khôn

Nói đến chính quyền bạo ngược thì không thể nào không nói đến Đại Cách Mạng Văn Hóa, là một cuộc biểu diễn to lớn của tà linh cộng sản khi nó chiếm hữu toàn bộ Trung Quốc.  Năm 1966, một trào lưu ngông cuồng bạo ngược mới tràn vào Trung Quốc đại lục, cuồng phong gầm thét của khủng bố Đỏ, như một con rồng yêu nghiệt điên loạn đã thoát khỏi dây xích trói, làm chấn động núi non và đóng băng sông ngòi.  Nhà văn Tần Mục miêu tả Đại Cách Mạng Văn Hóa trong những lời ảm đạm như sau:
“Đây thực sự là một trường tai kiếp chưa từng xảy ra. Biết bao nhiêu triệu người bị tống giam vì có liên hệ với một người trong gia đình [là đối tượng phải diệt trừ của Đảng], biết bao nhiêu triệu người đã ôm hận kết thúc cuộc sống, hơn nữa biết bao gia đình bị tan vỡ, biến trẻ em thành lưu manh ác độc, bao nhiêu sách bị đốt, đập phá các ngôi nhà cổ xưa, tàn phá mộ phần của các bậc tiền hiền, dựa vào danh nghĩa cách mạng mà phạm đủ loại tội ác.”[10]
Theo thống kê bảo thủ, số người chết mờ ám ở Trung Quốc trong cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa là 7.73 triệu.
Người ta thường hiểu lầm rằng bạo lực và tàn sát trong Đại Cách Mạng Văn Hóa hầu hết xảy ra dưới trạng thái vô chính phủ, do các cuộc vận động tạo phản và Hồng Vệ Binh[11] tham gia trong việc giết người.  Tuy nhiên, hàng ngàn tư liệu được xuất bản chính thức hàng năm tại các huyện ở Trung Quốc chứng tỏ rằng cao điểm của những cái chết mờ ám trong thời kỳ Đại Cách Mạng Văn Hóa không phải là vào năm 1966, khi Hồng Vệ Binh nắm giữ hầu hết các văn phòng chính phủ, cũng không phải vào năm 1967 khi những bọn tạo phản đấu tranh với các nhóm khác bằng võ trang, mà là vào năm 1968 khi Mao Trạch Ðông nắm quyền thống trị trên toàn quốc. Các hung thủ chém giết đẫm máu tanh trong những trường hợp ô nhục nhất, hầu hết là các sĩ quan quân đội và binh lính, lực lượng dân quân, và các đảng viên của Ðảng Cộng Sản thuộc mọi cấp của chính quyền.
Trong các ví dụ sau đây chúng ta có thể thấy các hành vi bạo ngược xảy ra trong thời kỳ Đại Cách Mạng Văn Hóa là từ chính sách của Đảng Cộng Sản và chính quyền địa phương, chứ không phải là hành vi quá khích của Hồng Vệ Binh và phe tạo phản.  Đảng Cộng Sản đã che đậy chủ mưu trực tiếp và che đậy sự liên hệ trong cuộc tàn sát bạo ngược của các đảng viên lãnh đạo và các viên chức chính phủ.
Vào tháng tám năm 1966, Hồng Vệ Binh trục xuất các dân cư trú ở Bắc Kinh, là những người bị phân loại trong các cuộc vận động quá khứ là “địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu, và cánh Hữu”, và bắt họ phải về nông thôn.  Các thống kê chính thức nhưng chưa đầy đủ cho thấy rằng 33.695 ngôi nhà đã bị lục soát và 85.196 dân cư tại Bắc Kinh bị trục xuất ra khỏi thành phố và đuổi về nguyên quán của cha mẹ họ. Hồng Vệ Binh trên toàn quốc cũng theo cùng một chính sách, trục xuất trên 400 ngàn dân cư ở thành thị về nông thôn.  Ngay cả các viên chức cao cấp, những người mà cha mẹ là địa chủ, cũng không tránh khỏi bị đày ải về nông thôn.
Trên thực tế Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã sắp đặt sẵn cho chiến dịch 'đuổi về nông thôn' này, ngay cả trước khi Cách Mạng Văn Hóa bắt đầu.  Bành Chân, cựu thị trưởng Bắc Kinh, tuyên bố rằng dân cư ở Bắc Kinh phải là thành phần trong sạch như các “tấm thủy tinh, đá pha lê”, tức là tất cả dân cư không tốt thuộc thành phần giàu có phải bị trục xuất khỏi thành phố.  Vào tháng 5 năm 1966, Mao Trạch Ðông đã ra lệnh cho thuộc hạ “bảo vệ thủ đô”.  Một tổ công tác thủ đô được thành lập, do Diệp Kiếm Anh, Dương Thành Vũ và Tạ Phú Trị chỉ huy.  Một nhiệm vụ của tổ công tác này là dùng công an trục xuất những dân cư Bắc Kinh thuộc về thành phần giàu có không tốt.
Lịch sử này giúp làm sáng tỏ vấn đề vì sao chính phủ và các sở công an đã không can thiệp, mà còn hỗ trợ Hồng Vệ Binh lục soát nhà cửa và trục xuất cả hơn 2% dân cư Bắc Kinh.  Bộ trưởng Bộ Công An, Tạ Phú Trị, ra lệnh cho công an không được can thiệp vào các hành động của Hồng Vệ Binh, và còn phải cố vấn và cung cấp tin tức cho bọn chúng.  Hồng Vệ Binh chẳng qua chỉ là một quân cờ cho Đảng cộng sản dùng để thi hành kế hoạch đã sắp đặt, rồi sau đó, vào cuối năm 1966, bọn Hồng Vệ Binh này đã bị Đảng Cộng Sản vứt bỏ; hơn nữa nhiều người trong bọn đã bị gán tội là phản cách mạng và còn bị bỏ tù, một số khác bị đuổi về nông thôn, cùng với các thanh niên thành thị khác, để lao động và cải tạo tư tưởng. Tổ chức Tây Thành của Hồng Vệ Binh, mà dẫn đầu cuộc trục xuất dân cư thành phố lúc đó, đã được thành lập dưới sự "quan tâm thương mến” của các lãnh đạo Đảng Cộng Sản. Lệnh buộc tội bọn Hồng Vệ Binh này cũng được phát ra sau khi được Bí thư trưởng của Hội Đồng Nhà Nước lúc đó duyệt lại.
Theo sau cuộc trục xuất dân cư Bắc Kinh mà bị cho là thuộc thành phần giàu không tốt, các vùng nông thôn lại bắt đầu một cuộc đàn áp khác tới các thành phần giàu không tốt. Vào ngày 26 tháng 8 năm 1966, một bài nói chuyện của Tạ Phú Trị đã được chuyển xuống phiên họp của Cục Công An Ðại Hưng.  Tạ Phú Trị ra lệnh cho công an hỗ trợ Hồng Vệ Binh lục soát nhà cửa của các gia đình  thuộc“năm giai cấp đen” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu, và cánh Hữu) bằng cách cố vấn và cung cấp tin tức để đột kích.  Cuộc Tàn Sát Đại Hưng[12] ô nhục xảy ra là kết quả của mệnh lệnh trực tiếp từ Cục Công An huyện; những người tổ chức là giám đốc và bí thư Đảng ủy của Cục Công An huyện, và bọn giết người đa số là dân quân, ngay cả trẻ em chúng cũng không tha.
Trong cách mạng, rất nhiều người vì các “biểu hiện tốt” trong những cuộc tàn sát tương tự, mà được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản.  Theo thống kê chưa hoàn toàn của tỉnh Quảng Tây, khoảng 50 ngàn Ðảng viên đã tham dự giết người.  Trong số đó có hơn 9 ngàn người được kết nạp vào Đảng sau khi sát nhân; hơn 20 ngàn người sau khi gia nhập Ðảng thì tham dự giết người, và hơn 19 ngàn Đảng viên khác đã tham dự vào việc giết người bằng cách này hay cách khác.
Trong thời Cách Mạng Văn Hóa, "đánh đập người ta" cũng phải phân tích theo giai cấp: "Người tốt đánh người xấu là đích đáng.  Người xấu đánh người xấu là vinh dự.  Người tốt đánh người tốt là vì hiểu lầm.”  Câu nói này của Mao Trạch Ðông đã được truyền rộng ra trong các cuộc vận động tạo phản. Nếu quả nhiên bạo lực đối với giai cấp kẻ thù là bởi vì bọn họ "đáng kiếp", như vậy bạo lực và tàn sát bừa bãi sẽ lan rộng ra.
Từ ngày 13 tháng 8 đến ngày 7 tháng 10 năm 1967, dân quân ở huyện Đạo, thuộc tỉnh Hồ Nam đã tàn sát các thành viên của tổ chức “Tương Giang Phong Lôi”, và những người thuộc “năm giai cấp đen”.  Cuộc tàn sát kéo dài 66 ngày; hơn 4.519 người trong 2.778 gia đình đã bị giết chết thuộc 468 đại đội nằm trong 36 công xã trong 10 khu.  Trong tổng số 9.093 người đã bị giết chết thuộc 10 huyện của địa khu, có 38% dân là thuộc vào “năm giai cấp đen” và 44% là con cái của họ.  Người già nhất bị giết là 78 tuổi, người trẻ nhất tuổi chỉ có 10 ngày.
Đây mới chỉ là một sự kiện của một vùng nhỏ trong Cách Mạng Văn Hóa bạo hành.  Ở Nội Mông, sau khi thiết lập “ủy ban cách mạng” vào đầu năm 1968, cuộc thanh trừ hạng giai cấp và diệt trừ “Đảng Nhân Dân Nội Mông” dưới danh nghĩa chế tạo là thanh tra, đã giết hơn 350 ngàn người.  Vào năm 1968, hàng chục ngàn dân cư ở tỉnh Quảng Tây tham dự vào một cuộc Đại tàn sát đã được hóa trang để tiêu diệt một tập thể quần chúng của “4.22”, đã giết hơn 110 ngàn người.
Những sự kiện này đã cho thấy rằng tất cả hành động tàn bạo giết người chủ yếu trong thời Cách Mạng Văn Hóa là ở dưới sự xúi giục và điều khiển trực tiếp của các lãnh đạo của Ðảng cộng sản, họ đã dung túng và lợi dụng bạo lực để đàn áp và tàn sát dân chúng.  Những kẻ giết người tham dự trực tiếp vào việc chỉ huy và tàn sát hầu hết là quân đội, cảnh sát, dân quân võ trang, và các đoàn viên, đảng viên cốt cán của Ðảng cộng sản.
Nếu nói rằng, trong sự Cải cách Ruộng đất,  Đảng Cộng Sản đã lợi dụng nông dân đạp đổ địa chủ mà cướp đất; trong sự Cải tạo Công nghiệp và Thương mại, Đảng Cộng Sản đã lợi dụng giai cấp công nhân đạp đổ các nhà tư bản để cướp đoạt tài sản, và trong cuộc Vận động Chống cánh Hữu, Đảng Cộng Sản đã loại trừ tất cả giới trí thức mà có tư tưởng đối lập, khiến cho các phần tử trí thức phải câm miệng, vậy thì mục đích giết người trong thời Cách Mạng Văn Hóa là gì?  Đảng Cộng Sản sử dụng nhóm này để giết nhóm khác, và không một giai cấp nào được tin cậy. Ngay cả những ai thuộc giai cấp công nhân và nông dân, hai giai cấp mà Đảng tin cậy trong quá khứ, nếu quan điểm của họ mà khác với quan điểm của Đảng, thì mạng sống sẽ bị hiểm nguy. Như vậy mục đích chủ yếu rốt cuộc là gì?
Mục đích là tạo dựng hình thế to lớn cho Đảng Cộng Sản trở thành một tôn giáo duy nhất thống trị thiên hạ, không những thống trị quốc gia mà còn phải thống trị cả tư tưởng của mỗi một người dân.
Cách Mạng Văn Hóa đẩy Đảng Cộng Sản và cuộc vận động "thần thánh hóa" cá nhân Mao Trạch Đông lên đến tột đỉnh. Lý luận độc tài của Mao Trạch Ðông nhất định phải được sử dụng cho tất cả mọi thứ, và phải sắp đặt cho lý tưởng của một cá nhân (của Mao) được in sâu vào đầu óc của hàng chục triệu người.  Cách Mạng Văn Hóa, trong một cách chưa từng xảy ra và không bao giờ so sánh được, đã không quy định những sự tình gì mà không thể làm. Thay vào đó Đảng nhấn mạnh “sự việc gì có thể làm, và phải làm như thế nào".  Còn những gì khác thì không thể làm, cũng không được nghĩ tới.
Trong thời Cách Mạng Văn Hóa, mọi người trên toàn quốc thực hành nghi lễ giống như tôn giáo là: “sáng nghe chỉ thị của Đảng, chiều báo cáo với Đảng”, chúc Mao Chủ Tịch được sống lâu mãi mãi nhiều lần trong ngày, tổ chức hai buổi cầu nguyện chính trị sáng chiều mỗi ngày.  Hầu hết mỗi cá nhân biết đọc, biết viết đều có kinh nghiệm viết các bài tự phê bình mình và bài báo cáo tư tưởng.  Trích dẫn lời của Mao Trạch Ðông được ngâm nga thường xuyên, chẳng hạn như : “chống trả mãnh liệt bất cứ ý niệm ích kỷ nào thoáng qua”, hoặc “hiểu thì phải chấp hành, không hiểu cũng phải chấp hành, trong khi chấp hành sẽ tăng thêm sự hiểu biết”.
Trong cách mạng, chỉ có một vị " Thần linh"(Mao) được phép sùng bái; chỉ được ngâm và đọc một bản kinh sách duy nhất--ngữ lục của Mao chủ tịch.  Không bao lâu quá trình “tạo Thần” đã phát triển đến mức độ mà người dân không được mua thức ăn ở các căng tin nếu không ngâm lời của Mao hoặc chúc mừng Mao Chủ Tịch. Khi mua hàng, đi xe buýt, ngay cả lúc gọi điện thoại, người ta cũng phải đọc lên lời của Mao chủ tịch, cả những lúc hoàn toàn không thích hợp cũng phải đọc.  Trong các nghi thức sùng bái này, người ta hoặc là cuồng nhiệt phấn khởi, hoặc là tê liệt, chai cứng như gỗ, đều đã bị tà linh Đảng cộng sản bao trùm lại.  Chế tạo lời dối trá, dung túng chịu đựng sự dối trá, và nhờ dựa vào nghề dối trá đã trở thành cách thức sinh hoạt của người dân Trung Quốc.

VII. Cải Cách và Khai Phá — “Bạo Ngược” không đổi mà còn tiến triển theo thời gian

Cách Mạng Văn Hóa là một thời đại đẫm máu, giết chóc, oan hồn bất hạnh oán trách, mất hết lương tri, trắng đen điên đảo.  Sau thời Cách Mạng Văn Hóa, chính quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đã thường xuyên thay đổi biểu ngữ của nó, tương ứng với sự thay đổi 6 người lãnh đạo trong vòng 20 năm. Chế độ tư hữu lại trở lại ở Trung Quốc, sự chêch lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn đã mở rộng thêm, các vùng sa mạc nhanh chóng mở rộng, sông hồ khô cạn dần, ma túy mãi dâm gia tăng.  Tất cả “tội ác” mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã từng chống lại thì bây giờ lại được phép xảy ra lần nữa.
Tâm địa sài lang man rợ, bản tính lươn lẹo rắn rết, hành động quỷ quái tà ác, khả năng mang tai họa cho quốc gia của Đảng cộng sản chỉ có tăng chứ không giảm. Trong cuộc Tàn Sát Thiên An Môn vào năm 1989, Đảng đã điều động quân đội và xe tăng giết chết các sinh viên đang kháng cáo tại Quảng Trường Thiên An Môn. Cuộc bức hại tàn bạo nhắm vào những người tu luyện Pháp Luân Công còn tồi tệ hơn nữa, không lời nào có thể diễn tả được. Vào tháng 10 năm 2004, để chiếm đất của nông dân, chính quyền thành phố Du Lâm tỉnh Thiểm Tây đã điều động hơn 1600 cảnh sát chống bạo loạn để bắt và bắn hơn 50 nông dân. Hiện nay sự thống trị nền chính trị của Trung Quốc vẫn tiếp tục dựa trên triết học đấu tranh và sùng bái bạo lực của Đảng Cộng Sản.  So với quá khứ, điểm khác biệt duy nhất là Đảng càng tăng thêm tính dối trá, lường gạt hơn nữa.
Làm Luật Pháp: Đảng Cộng Sản chưa bao giờ ngưng chế tạo xung đột giữa người dân.  Bọn chúng đã đàn áp một số lớn dân chúng với tội danh gán cho như là phản cách mạng, chống chủ nghĩa xã hội, phần tử xấu, hoặc theo tà giáo.  Tập đoàn chuyên chế độc tài của Đảng Cộng Sản vẫn tiếp tục xung đột với tất cả các nhóm và đoàn thể nhân dân.  Dưới danh nghĩa “duy trì trật tự và ổn định xã hội”, Đảng cộng sản liên tục thay đổi hiến pháp, luật lệ và điều khoản, và đàn áp bất cứ người nào không đồng ý với chính quyền như là những kẻ phản cách mạng.
Vào tháng 7 năm 1999, chống lại ý muốn của đa số các thành viên trong Bộ Chính Trị, Giang Trạch Dân đã tự mình quyết định loại trừ Pháp Luân Công trong vòng ba tháng; lời vu khống và tin đồn nhảm nhí nhanh chóng lan truyền ra toàn quốc.  Sau khi Giang Trạch Dân tự ý lên án Pháp Luân Công là “tà giáo” trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Pháp La Figaro, tuyên truyền chính thức của Trung Quốc theo sau bằng cách nhanh chóng xuất bản những bài báo làm áp lực cho mọi người dân trên toàn quốc chống lại Pháp Luân Công.  Đại hội Đại Biểu Nhân Dân bị ép buộc phải thông qua một “quyết định” vô luân và không thuộc loại nào để đối phó với tà giáo này; ngay sau đó Tối Cao Pháp Viện và Viện Kiểm Sát Tối Cao đã cùng phát hành một văn kiện “giải thích” về “quyết định” này.
Vào ngày 22 tháng 7 năm 1999, Tân Hoa Xã xuất bản các bài diễn văn của lãnh đạo trong Bộ Tổ Chức Trung Ương và Bộ Tuyên Truyền Trung Ương của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, công khai ủng hộ cuộc đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân. Người dân Trung Quốc vì vậy bị vướng vào một cuộc đàn áp mà người và Thần linh đều phẫn nộ, chỉ vì nó là quyết định của " Trung Ương Đảng".  Họ chỉ có thể tuân theo mệnh lệnh, và không dám đưa ra bất cứ phản đối nào.
Cả hơn 5 năm qua, chính quyền đã dùng một phần tư tài chính quốc gia để đàn áp Pháp Luân Công.  Mọi người trên toàn quốc phải trải qua một cuộc khảo nghiệm; hầu hết những người thừa nhận rằng họ tu luyện Pháp Luân Công và từ chối không bỏ thì bị mất việc; một số bị kết án đi lao động cưỡng bách. Những học viên Pháp Luân Công không vi phạm luật lệ nào cả, cũng không phản bội quốc gia, hoặc chống đối chính quyền; họ chỉ tin tưởng vào “Chân, Thiện, Nhẫn”.  Nhưng hàng trăm ngàn người đã bị bỏ tù.  Trong khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc cố gắng phong tỏa tin tức rất chặt chẽ, cả hơn 1143 người[13] đã được gia đình của họ xác nhận là bị tra tấn đến chết. Số người chết thực sự là cao hơn nhiều.
Báo cáo tin tức: Vào ngày 15 tháng 10 năm 2004, tờ báo Hồng Kông Văn Hối Báo tường trình rằng vệ tinh thứ 20 của Trung Quốc đã bay trở về trái đất, rơi xuống và phá hủy căn nhà của Hoắc Tích Ngọc ở thị trấn Bồng Lai thuộc huyện Đại Anh tỉnh Tứ Xuyên.  Bài tường trình đã trích dẫn lời của Ngải Dụ Khánh giám đốc văn phòng chính phủ huyện Đại Anh xác nhận cái “cục đen” đó là vệ tinh. Ngải Dụ Khánh là phó Tổng chỉ huy hiện trường dự án thu hồi vệ tinh.  Tuy nhiên, Tân Hoa Xã chỉ báo cáo về thời gian phục hồi vệ tinh này, còn nhấn mạnh rằng đây là vệ tinh thí nghiệm kỹ thuật và khoa học thứ 20 được Trung Quốc thu hồi lại.  Tân Hoa Xã không hề đề cập một lời nào việc vệ tinh phá hủy một căn nhà.  Đây là một ví dụ điển hình về hệ thống thông tin mà thực hành nhất trí của Trung Quốc, là chỉ tường thuật tin tức tốt và che đậy tin tức xấu, như đã được Đảng chỉ dẫn.
Báo chí và tin tức truyền hình tuyên truyền những lời dối trá và vu khống, trợ giúp rất nhiều cho việc thực thi chính sách của Ðảng Cộng Sản trong tất cả các cuộc vận động chính trị trong quá khứ. Chỉ thị của Đảng cộng sản được các hệ thống truyền tin thực hành ngay lập tức trên toàn quốc. Khi Đảng muốn bắt đầu cuộc “Vận Ðộng Chống Cánh Hữu”,  tất cả hệ thống thông tin trên toàn Trung Quốc liền tường thuật cùng một giọng điệu, những tội ác của các phần tử cánh Hữu.  Khi Đảng muốn thành lập công xã nhân dân, tất cả báo chí trong nước bắt đầu tán dương các ưu điểm của công xã nhân dân. Trong tháng đầu tiên của cuộc đàn áp Pháp Luân Công, tất cả các đài truyền hình và phát thanh, trong giờ chánh yếu thông tin, đã liên tục vu khống Pháp Luân Công để tẩy não người dân.  Từ đó Giang Trạch Dân đã liên tục huy động toàn bộ hệ thống truyền thông để chế tạo và tuyên truyền những lời dối trá vu khống về Pháp Luân Công, khiến cho dân chúng thù ghét Pháp Luân Công, bằng cách tường thuật các tin tức giả tạo về những người tu luyện Pháp Luân Công đang phạm tội giết người và tự tử.  Một ví dụ về những tường thuật giả dối như vậy là sự kiện dàn dựng “Tự Thiêu ở Thiên An Môn", mà đã bị Tổ Chức Phát Triển Giáo Dục Quốc Tế NGO chỉ trích đó là hành động của chính quyền dàn dựng lên để lừa dối người dân. Trong 5 năm qua, không một báo chí hay một đài truyền hình nào ở Trung Hoa Lục Ðịa đã tường thuật tình huống chân thật về Pháp Luân Công.
Người dân Trung Quốc đã quen với các tường thuật tin tức bịa đặt.  Một ký giả tư, lão thành của Tân Hoa Xã có lần tuyên bố rằng: “Làm sao mà tin tưởng Tân Hoa Xã được?” Dân gian thậm chí còn hình dung các cơ quan báo chí Trung Quốc như những con chó của Đảng cộng sản. Có bài dân ca rằng: “Nó là con chó Đảng nuôi, giữ cổng cho Đảng. Ðảng kêu nó cắn ai là nó cắn người đó, Ðảng muốn nó cắn bao nhiêu lần là nó cắn bấy nhiêu lần”.
Giáo dục: Ở Trung Quốc, giáo dục đã trở thành một cái gông xiềng khác dùng để thống trị người dân.  Mục đích nguyên thủy của giáo dục là đào tạo các phần tử trí thức. Mà trí thức là do hai phần "tri" (hiểu biết) và "thức"( suy xét) hợp thành. "Tri" là nói về hiểu biết tin tức, tư liệu, và sự kiện lịch sử; "Thức" là nói về những thứ đã biết mà tiến hành phân tích, nghiên cứu, phê phán và tái sáng tạo, tức là một quá trình phát triển về tinh thần.  Những ai có "tri" mà không có "thức" thì được xem như là mọt sách, không phải là người trí thức thực sự có lương tâm xã hội.  Ðây là nguyên nhân tại sao trong lịch sử Trung Quốc người ta đặt nhiều kính trọng đối với các học giả có thức, là có khả năng suy xét chân chánh, chứ không phải là các học giả chỉ có tri ( biết) mà thôi.  Tuy nhiên, dưới sự thống trị của Đảng Cộng Sản, các phần tử trí thức  Trung Quốc là những người có tri(biết) mà không có thức (khả năng suy xét), những người có tri mà không dám rèn luyện thức.  Giáo dục trong trường học chỉ tập trung vào việc dạy học sinh không làm những gì mà Đảng không muốn chúng làm. Những năm gần đây, tất cả các trường học đã bắt đầu dạy về chính trị và lịch sử của Đảng Cộng Sản bằng sách giáo khoa thống nhất.  Giáo viên dù không tin vào nội dung của sách, nhưng bởi “kỷ luật” của Đảng, họ bắt buộc phải căn cứ vào đó mà dạy dù trái với tâm của họ.  Các học sinh dù không tin vào sách vở hoặc thầy cô của chúng, nhưng chúng phải nhớ tất cả những gì trong sách để thi đậu.  Gần đây, những câu hỏi về Pháp Luân Công được bỏ vào trong các bài thi học kỳ và các bài thi để vào trường trung học và đại học.  Những học sinh nào không biết các câu trả lời mẫu thì không được điểm cao để vào được các trường trung học hay đại học tốt. Nếu học sinh nào dám nói lên sự thật, thì sẽ bị trục xuất khỏi trường ngay lập tức, và mất bất cứ cơ hội được giáo dục một cách chính thức.
Trong hệ thống giáo dục công cộng, vì ảnh hưởng báo chí và tài liệu của chính quyền, nhiều câu nói nổi tiếng đã được truyền ra như là chân lý, như là lời của Mao Trạch Ðông “Chúng ta nên ủng hộ những gì mà kẻ thù chống đối và chống lại những gì kẻ thù ủng hộ”.  Hậu quả không tốt lan rộng: nó đã đầu độc lòng dân, thay thế lòng hướng thiện, và phá hủy luân lý đạo đức để sống hòa bình và hòa đồng.
Vào năm 2004, Trung Tâm Thông Tin Trung Quốc đã phân tích một cuộc kiểm kê do Mạng Internet Sina Trung Quốc thực hiện, kết quả cho thấy rằng 82.6% thanh niên Trung Quốc đã đồng ý rằng trong thời chiến người ta có thể ngược đãi phụ nữ, trẻ em và tù nhân.  Kết quả này gây ra một chấn động; nhưng nó đã phản ảnh tâm ý của dân chúng  Trung Quốc, đặc biệt là của thế hệ trẻ, là những người không có hiểu biết căn bản về chính quyền nhân từ trong văn hóa truyền thống hoặc không có khái niệm tối thiểu về nhân tính căn bản.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2004, một người đàn ông điên cuồng dùng dao chém 28 đứa trẻ ở thành phố Tô Châu.  Vào ngày 20 cùng tháng, một người đàn ông ở tỉnh Sơn Đông dùng dao chém 25 em học sinh tiểu học bị thương.  Một số giáo viên tiểu học bắt ép học sinh nắn tay làm pháo để gây quỹ cho trường, kết quả gây ra một vụ nổ làm chết một số học sinh.
Thực thi chính sách: Lãnh đạo của Đảng Cộng Sản thường thường  hăm dọa và ép buộc người dân để bảo đảm rằng chính sách của chúng được thực thi.  Một trong những thủ đoạn mà chúng dùng là biểu ngữ chính trị. Trong một thời gian dài, chính quyền Đảng Cộng Sản đã trưng lên một số biểu ngữ  làm tiêu chuẩn để đánh giá thành tích chính trị của một cá nhân.  Trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, chỉ qua một đêm Bắc Kinh đã trở thành “biển đỏ”, với biểu ngữ giăng đầy khắp mọi nơi “Đả đảo phe cầm quyền theo chủ nghĩa tư bản trong Đảng”.  Ở nông thôn thì trớ trêu thay, các biểu ngữ được viết ngắn gọn là “Đả đảo bọn cầm quyền”.
Gần đây để tuyên truyền "Luật rừng rậm", Cục Lâm Nghiệp Quốc Gia và tất cả các trạm và văn phòng bảo vệ rừng nghiêm khắc ra lệnh rằng một số biểu ngữ phải được treo lên theo đúng chỉ tiêu.  Không đạt đúng chỉ tiêu thì xem như không hoàn thành công tác. Kết quả là các văn phòng chính quyền địa phương treo lên một số lượng lớn biểu ngữ, như là “Ai đốt núi sẽ bị tù”.  Trong việc kiểm soát sinh đẻ những năm gần đây, có các biểu ngữ còn rùng rợn hơn nữa, như là “Một người phạm luật đẻ, cả làng sẽ bị cột (không cho đẻ)”, hoặc “Thà thêm một ngôi mộ còn hơn thêm một đứa con”, hay là “Phải cột mà không cột (ống dẫn tinh) thì nhà anh sẽ bị đập phá; Phải phá mà không phá thai thì bò và ruộng lúa của chị sẽ bị tịch thu”. Có rất nhiều biểu ngữ vi phạm nhân quyền và Hiến pháp, như là “không đóng thuế hôm nay, ngày mai sẽ ngủ trong tù”.
Trên căn bản biểu ngữ là cách thức để truyền bá, nhưng trong tính cách quan sát trực tiếp và lặp đi lặp lại. Vì thế chính quyền Trung Quốc thường dùng biểu ngữ để tuyên truyền quan điểm chính trị, ý chí và địa vị. Biểu ngữ chính trị cũng được xem như là những lời mà chính quyền nói với người dân.  Tuy nhiên trong các biểu ngữ tuyên truyền chính sách của Ðảng Cộng Sản, cũng không khó để người ta nhìn ra khuynh hướng bạo lực với máu tanh khí tức ở đằng sau.
******************

VIII. Tẩy Não Toàn Quốc và Vòng Đất lại Làm “Nhà Tù”

Vũ khí hiệu quả nhất mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc dùng để duy trì sự thống trị của nó là hệ thống (hình thức võng lưới) khống chế của nó.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc dựa trên lý luận "chó vâng lời chủ" mà sử dụng hình thức của các tổ chức Đảng để bắt buộc mỗi một người dân phải tuân phục mệnh lệnh của chúng. Cho dù Ðảng có trước-sau mâu thuẫn hoặc liên tục thay đổi chính sách thì cũng không thành vấn đề, miễn là Ðảng phải dùng các tổ chức Đảng để cướp đoạt quyền lợi làm người mà mỗi người đều sanh ra cùng.  Các vòi tiếp xúc thám thính chính trị của chính quyền ở khắp mọi nơi.  Bất kể là ở thành thị hay nông thôn, người dân đều bị quản lý bởi cái gọi là Ủy ban Đường phố hoặc Ủy hội Nông thôn. Đến tận gần đây, lập gia đình, ly dị, sinh con, tất cả đều phải thông qua sự đồng ý của các ủy ban này.  Hình thái ý thức của Đảng, cách suy nghĩ, phương thức tổ chức, cấu trúc xã hội, hệ thống tuyên truyền và hệ thống quản lý chỉ là để phục vụ sự thống trị độc tài, cường quyền của Đảng. Đảng cộng sản, phải thông qua hệ thống chính quyền, khống chế lối suy nghĩ của mỗi một người dân cho đến hành động của mỗi một cá nhân.  
Sự tàn khốc trong cách khống chế của Đảng Cộng Sản không chỉ giới hạn ở chỗ tra tấn và hành hạ thân thể, mà Đảng còn bắt ép người ta biến đổi trở thành không còn khả năng suy xét một cách độc lập, tức là làm cho họ khiếp sợ, khiến cho họ nhát gan co rúm không dám nói lên sự thật.  Mục đích thống trị của Đảng Cộng Sản, trong sự tẩy não từng người, là khiến cho người ta phải nghĩ những gì Đảng cộng sản nghĩ, nói những gì mà Ðảng Cộng Sản nói, và phải làm bất cứ sự việc gì mà Đảng cộng sản đề xướng.
Có câu nói rằng, “Chính sách của Đảng giống như mặt trăng: ngày rằm và mồng một thì không giống nhau”. Nhưng bất kể Đảng cộng sản có thay đổi chính sách thường xuyên như thế nào, mọi người dân trên toàn quốc phải tuân theo một cách chặt chẽ.  Khi một cá nhân bị dùng như một công cụ để công kích người khác, thì cá nhân ấy phải cám ơn Ðảng vì Ðảng cộng sản hiểu biết giá trị của cá nhân ấy; khi bị đả kích, thì phải cám ơn Đảng Cộng Sản đã “dạy cho một bài học”; khi nhầm lẫn bị kết tội, rồi sau đó Đảng khôi phục lại thanh danh  thì phải cám ơn Đảng Cộng Sản đã khoan dung, cởi mở và có khả năng sửa sai. Chính sách bạo ngược của Ðảng Cộng Sản là được thực thi trong sự không ngừng đả kích với sửa sai.
Sau 55 năm thống trị bạo ngược, tư tưởng của người dân trên toàn quốc đã bị Đảng Cộng Sản vẽ lối cho theo, vào một nhà tù, và nhốt nó bên trong phạm vi tư tưởng mà Đảng Cộng Sản cho phép. Hễ ai có ý tưởng ngoài phạm vi này thì bị tội phải chết .  Qua nhiều lần đấu tranh lặp đi lặp lại, ngu đần được đề cao là trí tuệ; nhát gan được xem là cách để sinh tồn.  Trong xã hội hiện đại với mạng lưới thông tin Internet là phương tiện chủ yếu để trao đổi tin tức, Đảng Cộng Sản Trung Quốc thậm chí còn đòi hỏi người dân phải thực hành tự kỷ luật, và không đọc tin tức từ bên ngoài, hay là xem, tìm kiếm các mạng lưới website với những danh từ như là “nhân quyền” và “dân chủ”.
Cuộc vận động tẩy não người dân của Đảng Cộng Sản như là hoang đường, tàn bạo, hèn hạ, ở khắp mọi nơi. Chúng đã thay đổi giá trị giữ được từ luân lý đạo đức của xã hội Trung Quốc, hoàn toàn đặt lại chuẩn mực hành vi cư xử và lối sinh hoạt của dân tộc Trung Hoa.  Đảng Cộng Sản liên tục sử dụng sự tra tấn thể xác và tinh thần của người dân để gia tăng quyền hành tuyệt đối của một giáo phái Đảng Cộng Sản mà thống trị thiên hạ.

Lời Kết

Tại sao Đảng Cộng Sản phải đấu tranh không ngừng để giữ quyền lực của nó? Năm nào cũng đấu tranh, tháng nào cũng đấu tranh, ngày nào cũng đấu tranh. Tại sao Đảng cộng sản tin rằng chừng nào đời sống tồn tại thì đấu tranh vẫn không bao giờ hết? Để đạt được mục đích của nó, Đảng cộng sản không do dự khi giết người hoặc phá hủy môi trường sinh thái, cũng như không quan tâm rằng đa số nông dân và dân thành thị đang sống trong cảnh bần cùng.
Điều này có phải vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản chăng? Câu trả lời là “Không”. Một trong những nguyên tắc của Đảng Cộng Sản là loại trừ tất cả chế độ tư hữu, bởi vì Đảng cộng sản cho rằng chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc gây ra tất cả tội ác. Đảng cộng sản, sau khi chiếm đoạt chính quyền, đã cố gắng loại trừ chế độ tư hữu trên mọi phương diện. Tuy nhiên, sau cải cách kinh tế vào thập niên 1980, sở hữu tư nhân lại một lần nữa được phép tồn tại ở Trung Quốc  Hiến pháp cũng quy định bảo vệ tài sản tư hữu. Xuyên qua những lời nói dối của Đảng cộng sản, người ta đã  thấy rõ ràng trong 55 năm cầm quyền, sự thống trị của Đảng cộng sản chẳng qua chỉ là đạo diễn một màn kịch phân phối lại tài sản. Sau nhiều lần phân phối như vậy, rốt cuộc Đảng cộng sản chuyển tài sản của người khác thành tài sản riêng tư của chính nó.
Đảng cộng sản tự tuyên bố nó là “người tiên phong của giai cấp công nhân”. Nhiệm vụ của nó là tiêu diệt giai cấp tư sản. Tuy nhiên, bây giờ trong Đảng chương của Đảng cộng sản rõ ràng quy định là những nhà tư bản có thể gia nhập Đảng. Không còn người nào trong nội bộ của Đảng cộng sản tin vào Đảng cộng sản và Chủ nghĩa Cộng sản nữa. " Danh bất chính, thì ngôn bất thuận". Những gì còn lại của Đảng Cộng Sản chỉ là cái vỏ bề ngoài mà rỗng ruột, có thể nói rằng tự nó là vô thực chất.
 Vậy thì, đấu tranh trường kỳ như thế sẽ giữ cho các thành viên Đảng cộng sản thanh liêm, không bị thối nát chăng? Không phải. Trong 55 năm Đảng cộng sản nắm chính quyền, những sự việc tham ô, thối nát, hối lộ, làm xằng bậy không theo pháp luật, và những hành động phá hoại đất nước và nhân dân vẫn lan rộng trong các cán bộ của Đảng cộng sản trên toàn quốc. Trong những năm gần đây, trong tổng số gần 20 triệu viên chức Đảng cộng sản ở Trung Quốc, 8 triệu viên chức thối nát đã bị trừng trị vì những tội ác liên quan đến tham ô. Mỗi năm, khoảng 1 triệu người tố cáo với các cấp chính quyền cao hơn về những viên chức thối nát chưa bị điều tra. Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2004, Cục Quản lý Ngoại hối Trung Quốc đã điều tra các trường hợp thanh toán trao đổi tiền bất hợp pháp trong 35 ngân hàng và 41 xí nghiệp, và đã tìm thấy 120 triệu đô la Mỹ trong các giao dịch bất hợp pháp. Theo thống kê những năm gần đây, không ít hơn 4.000 cán bộ trong chính quyền Đảng cộng sản đã trốn ra khỏi Trung Quốc cùng với tiền biển thủ, và tiền của trộm cắp từ quốc gia đã lên tới hàng chục tỉ đô la Mỹ.
Vậy thì, đấu tranh như thế là nhằm mục đích nâng cao tố chất và giác ngộ của dân và để cho mọi người quan tâm tới các việc quốc gia đại sự chăng? Câu trả lời cũng là một chữ “Không” vang rền khác. Ở Trung Quốc ngày nay, sự kiện theo đuổi vật chất đang bành trướng, và người ta đang mất đi đức hạnh truyền thống của lòng chân thật. Một tính phổ biến của mọi người là lừa dối người thân thuộc và bịp bợm bạn bè. Nhiều người Trung Quốc hoặc không quan tâm hoặc từ chối không nói đến nhiều vấn đề quan trọng như nhân quyền hoặc cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Giữ lại nhận thức cho riêng mình, và lựa chọn không nói sự thật đã trở thành một phương thức sinh tồn cơ bản ở Trung Quốc. Trong lúc đó, Đảng cộng sản liên tục kích động tình cảm quần chúng về chủ nghĩa dân tộc khi có cơ hội. Đảng cộng sản Trung Quốc có thể, ví dụ như, tổ chức cho người dân Trung Quốc ném đá vào tòa đại sứ Hoa Kỳ và đốt cờ Mỹ. Người dân Trung Quốc có thể được đối xử như là "dân phục tùng" hoặc là "dân bạo lực", nhưng không bao giờ là những công dân mà có nhân quyền được bảo đảm. Tu dưỡng văn hóa là  nâng cao căn bản tố chất. Trong hàng ngàn năm các kỷ cương về đạo đức của Khổng Tử và Mạnh Tử đã thiết lập các tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức. “Nếu tất cả những nguyên tắc [đạo đức] này bị bỏ đi, thì lúc đó con người đều là vô chủ (không có luật cho dân noi  theo), và dân không nhận thức được tốt và xấu. Họ sẽ lạc hướng… là Đạo đại loạn” [14]
Mục đích đấu tranh giai cấp của Đảng cộng sản là liên tục tạo ra đại loạn, qua đó nó có thể vững vàng tự xây dựng mình trở thành địa vị giáo chủ của "một và chỉ một Đảng" thống trị thiên hạ ở Trung Quốc, sử dụng tư tưởng chính trị của độc (một) Đảng để khống chế toàn dân Trung Quốc. Các cơ cấu chính phủ, quân đội và các phương tiện thông tin là tất cả các công cụ được sử dụng bởi Đảng cộng sản để thực hành nền chuyên chính bạo lực của nó. Đảng cộng sản, mang các bệnh tật không thể chữa được tới Trung Quốc, chính nó đang đứng trên bờ diệt vong, và sự sụp đổ của nó là không thể tránh khỏi.
Có người cho rằng đất nước sẽ hỗn loạn nếu Đảng cộng sản tan rã. Ai có thể thay thế vai trò của Đảng cộng sản để lãnh đạo Trung Quốc? Trong 5.000 năm lịch sử của Trung Quốc, chỉ 55 năm bị thống trị bởi Đảng cộng sản ngắn như là đám mây lướt nhanh. Tuy nhiên, bất hạnh thay, trong khoảng thời gian 55 năm ngắn ngủi này, Đảng cộng sản đã làm tiêu tan các tín ngưỡng và tiêu chuẩn truyền thống; phá hủy các nguyên tắc đạo đức truyền thống và cấu trúc xã hội; biến đổi sự quan tâm và yêu thương giữa con người thành đấu tranh và hận thù; và đã thay thế sự kính ngưỡng Trời, Đất và Tự Nhiên bằng sự ngông cuồng, xem Trời bằng vung, như là “nhân định thắng thiên”. Với hành động phá hủy hết cái này đến cái khác Đảng đã tàn phá các hệ thống sinh thái, và hệ thống đạo đức xã hội, để lại một quốc gia Trung Hoa chìm sâu trong nguy cơ.
Trong lịch sử Trung Quốc, các triều đại có chính quyền nhân đức đều xem yêu thương, nuôi dưỡng và giáo dục dân chúng là trách nhiệm của chính phủ. Bản năng của con người là hướng Thiện, và vai trò của chính phủ là hỗ trợ người dân  thực hiện bản năng này. Mạnh Tử đã nói, “Đây là đạo của dân: có kế lâu bền thì sẽ bền lòng, không có kế lâu bền thì sẽ không bền lòng”. (dân chi vi đạo dã, hữu hằng sản giả hữu hằng tâm, vô hằng sản giả vô hằng tâm). Giáo dục mà không có thịnh vượng thì không có hiệu quả tốt; những kẻ lãnh đạo hung tàn, bạo ngược, không có tình thương dân mà lại giết những người vô tội, những kẻ lãnh đạo đó đáng bị nhân dân Trung Quốc khinh miệt.
Trong 5.000 năm lịch sử Trung Quốc, có nhiều nhà lãnh đạo nhân đức, như là vua Nghiêu vua Thuấn vào thời cổ, triều nhà Chu có vua Vũ, triều nhà Hán có hoàng đế Văn và hoàng đế Cảnh, hoàng đế Đường Thái Tông triều nhà Đường, hoàng đế Khang Hy và hoàng đế Càn Long triều nhà Thanh. Sự thịnh vượng trong những triều đại này tất cả đều là kết quả mà những nhà lãnh đạo đã thực thi theo đạo Trời, theo học thuyết Trung Dung, và phấn đấu cho hòa bình và ổn định. Đặc điểm của một nhà lãnh đạo nhân từ là chiêu dùng người có Đức và có Tài, lắng nghe và suy xét những ý kiến khác nhau, đề cao công lý và hòa bình, và cho dân những gì người dân cần. Theo cách này, dân chúng sẽ tuân theo luật pháp, giữ gìn lễ nghĩa, an cư lạc nghiệp.
Quan sát các vấn đề của thế giới, chúng ta thường hỏi ai quyết định một nước thịnh vượng hay suy vong, mặc dù chúng ta biết rằng sự thăng hay trầm của một quốc gia có những lý do của nó. Khi Đảng cộng sản biến mất, chúng ta có thể hy vọng hòa bình và hòa khí sẽ trở lại với Trung Quốc. Dân gian sẽ lại chân thành, thiện lương, khiêm tốn, khoan dung, và quốc gia sẽ một lần nữa quan tâm đến các nhu cầu căn bản của người dân, và mọi nghề nghiệp đều sẽ thịnh vượng.

Chú thích
[1] Từ “Biên niên sử về thực phẩm và hàng hóa” trong cuốn Hán Sử.
[2] Qian Bocheng, Văn hóa Phương Đông, ấn bản thứ tư, 2000.
[3] Cao CươngNhiêu Sấu Thạch đều là các thành viên của Ban Trung Ương. Sau thất bại tranh giành quyền lực vào năm 1954, họ bị buộc tội âm mưu chia rẽ Đảng và sau đó bị khai trừ khỏi Đảng.
[4] Hồ Phong, học giả và phê bình văn học, đã chống lại chính sách văn chưong cằn cỗi của ĐCSTQ. Ông bị khai trừ khỏi Đảng năm 1954 và bị kết án 14 năm tù. Từ năm 1951 đến 1952, ĐCSTQ khởi xướng các chiến dịch “Tam Phản” và “Ngũ Phản”, các cuộc vận động có mục tiêu được nói rõ là loại bỏ tham ô, lãng phí và quan liêu trong Đảng, chính phủ, quân đội và các tổ chức lớn.
[5] Những Cách Đảng Cộng Sản Trung Quốc dùng để đàn áp tín đồ Thiên Chúa Giáo (1958) (bằng chữ Hán)
[6] Lỗ Tấn (25/9/1881 –19/10/1936) thường được coi là người sáng lập ra văn học Trung Quốc bản xứ hiện đại. Ông cũng là một dịch giả nổi tiếng. Là một nhà văn cánh tả, Lỗ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Sách của ông đã ảnh hưởng lớn lên nhiều thanh niên Trung Quốc. Trở lại Trung Quốc sau khi học y ở Sendai, Nhật bản vào năm 1909, ông đã trở thành một giảng viên tại Đại Học Bắc Kinh và bắt đầu viết từ đó. Sách của ông đã ảnh hưởng đến rất nhiều người trẻ Trung Quốc hiện đại.
[7] Ngọc Hoàng và Long Vương cả hai đều là nhân vật thần thoại. Ngọc Hoàng, còn được mệnh danh là Ngọc Nhân Tháng Tám cũng như được người thường và trẻ em gọi là ông trời, là vua ở thiên đình và là một trong những bậc thần tiên quan trọng nhất của Đạo Giáo. Long Vương là vua của bốn biển. Mỗi biển định theo bốn hướng (đông, tây, nam, bắc) đều có một Long Vương. Long Vương sống ở trong lâu đài bằng pha lê canh gác bởi các tướng cua và lính tôm. Ngoài việc trị vì các hải vật, Long Vương còn làm ra mây mưa. Đông Hải Long Vương được nói rằng là có lãnh thổ to nhất. 
[8] Bành Đức Hoài (1898-1974): Nhà lãnh đạo chính trị và tướng cộng sản Trung Quốc. Bành là tổng tư lệnh trong chiến tranh Triều Tiên, phó chủ tịch Hội đồng nhà nước, ủy viên Bộ Chính Trị, Bộ trưởng Bộ quốc phòng từ 1954-1959. Ông đã bị phế truất khỏi vị trí của mình sau bất đồng với các giải pháp cánh tả của Mao tại phiên họp toàn thể Lư Sơn của ĐCSTQ năm 1959.
[9] Triệu Cao (? - 210 trước CN): Tổng thái giám trong triều đại nhà Tần. Vào năm 210 trước CN, sau khi Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng chết, Triệu Cao, thừa tướng Lý Tư và con thứ hai của Hoàng Đế là Hồ Hợi đã làm giả chúc thư của Hoàng Đế, đưa Hồ Hợi lên làm Hoàng Đế mới và ra lệnh cho hoàng thái tử Phù Tô phải tự tử. Sau đó xung đột xảy ra giữa Triệu Cao và Hồ Hợi (Nhị Thế Hoàng Đế), Cao đã mang vào hoàng cung một con nai và nói nó là một con ngựa. Chỉ một số ít quan lại dám không đồng ý và nói nó là một con nai. Triệu Cao tin rằng những viên quan gọi con vật là nai chống lại mình và tìm cách bãi chức của họ.
[11] Vệ Binh Đỏ là những người dân sự đã thực thi chính sách của Cách Mạng Văn Hóa ở các địa phương.
[12] Cuộc Tàn Sát Đại Hưng xảy ra vào tháng 8 năm 1966 trong khi thay đổi lãnh đạo Đảng ở Bắc Kinh. Vào lúc đó Tạ Phú Trì, bộ trưởng Bộ Công an, đã có một bài diễn văn tại một cuộc họp Cục Công an tại Bắc Kinh, đã khuyến khích không can thiệp vào các hành động của Hồng Vệ binh chống lại “năm giai cấp đen”. Bài diễn văn này chẳng mấy chốc được chuyển tới cuộc họp Ủy Ban Lâm Thời của Cục Công an Đại Hưng. Sau cuộc họp, Cục Công An Đại Hưng ngay lập tức đã hành động là lên kế hoạch kích động những đám đông ở huyện Đại Hưng giết “năm giai cấp đen”.
[13] Thuộc về ngày 19 tháng 12 năm 2004.
[14] Từ Kang Youwei, Tuyển tập các bài viết chính trị (1981). Zhonghua Zhuju. Kang Youwei (1858-1927) là một nhà tư tưởng cải cách quan trọng vào cuối đờiThanh. 
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN

  
 BÀI SỐ IV
 Đảng Cộng Sản là lực lượng phản vũ trụ


Lời mở đầu

     

Bảng hiệu khuyến khích Hồng Vệ Binh đánh đập dân chúng, tiêu hủy tài sản, và cướp bóc nhà cửa. Khẩu hiệu trong hình này là "Đả phá thế giới cũ, sáng lập thế giới mới".
Người Trung Hoa rất trọng “Đạo.  Thời xưa một vị hoàng đế mà hung bạo thì bị gọi là “hôn quân vô đạo.”  Bất kể hành vi nào không phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức thì được xem là "không có đạo đức", thể theo hai chữ Hán ngữ là “Đạo” và “Đức”.  Đến cả nông dân khi nổi dậy, họ cũng giương cao khẩu hiệu rằng họ “thế thiên hành Đạo.  Ngài Lão Tử [1] giảng rằng, “Có cái gì huyền bí và nguyên vẹn tồn tại trước khi khai thiên lập địa: Tĩnh mịch, vô hình, vắng vẻ và độc lập.  Trường tồn khắp nơi trong tuyệt mỹ, là mẹ của vạn sự vạn vật.  Ta không biết tên chi.  Ta gọi đó là Đạo.”  Ý nói rằng thế giới được hình thành từ “Đạo”.
Hơn trăm năm vừa qua, hồn ma Cộng Sản thình lình xâm chiếm khiến tạo thành một luồng trái với Tự nhiên, một lực lượng trái với nhân tính, gây ra vô vàn thống khổ và bi thảm. Chúng đã đẩy văn minh nhân loại đến bên bờ hủy diệt.  Hành động bạo tàn chống lại "Đạo", tự nhiên cũng là phản thiên nghịch địa , rồi từ đó mà trở thành một lực cực kỳ tà ác và phản vũ trụ.
“Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên.” [2].  Người Trung Quốc từ xưa đến nay, tin tưởng và giữ đúng điều 'Trời với người hợp nhất'; con người và trời đất hòa hợp, dựa nhau mà sinh tồn.  Đạo Trời không biến đổi,  tuần hoàn vận hành thuận theo Đạo một cách trật tự.  Đất thuận theo thiên thời, vì thế mà có bốn mùa phân biệt rõ ràng.  Thuận theo trời đất, nhân loại được hưởng cuộc sống hài hòa hạnh phúc.  Điều này phản ảnh qua thành ngữ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa" [3].   Người Trung Hoa nghĩ rằng, thiên văn, địa lý, hệ thống lịch, y học, văn học, đến cả cấu trúc xã hội, tất cả đều thể theo quy luật này.
Nhưng chỉ có Đảng Cộng Sản thì lại cổ võ  “nhân định thắng thiên” và “triết lý đấu tranh”, coi thường Trời, Đất và Tự Nhiên.  Mao Trạch Đông nói rằng, “đấu với Trời là vui vô cùng, đấu với Đất là vui vô cùng, đấu với Người là vui vô cùng”.  Có lẽ từ các đấu tranh này mà Đảng Cộng Sản đạt được niềm vui thực sự, nhưng người dân đã phải trả cái giá cực kỳ thảm thương.

 

I. Đấu với Người, diệt tuyệt nhân tính

1. Thiện Ác điên đảo -- mất hẳn nhân tính

Con người trước hết là người của tự nhiên, sau đó là người của xã hội.  “Nhân chi sơ tính bổn thiện” [4], “ Người nào cũng có thể động lòng trắc ẩn” [5] là những nguyên lý chỉ đạo mà con người sẵn có khi chào đời, các nguyên lý chỉ đạo này giúp họ phân biệt được đúng hay sai, thiện hay ác.  Tuy nhiên, đối với Đảng Cộng Sản, con người là thú vật, thậm chí còn như là máy móc.  Thể theo Đảng Cộng Sản, thì không kể là giai cấp tư sản hay giai cấp vô sản, tất cả cũng chỉ là lực lượng vật chất mà thôi.
Mục đích của Đảng Cộng Sản là kiềm chế thao túng người ta và dần dần biến họ thành bọn hung tợn, tạo phản của cách mạng.  Karl Marx cho rằng, “Chỉ có lực lượng vật chất mới có thể phá tan được lực lượng vật chất; mà lý luận một khi đã nắm được quần chúng, cũng sẽ biến thành một lực lượng vật chất.” [6]  Ông ta tin rằng toàn bộ lịch sử của nhân loại không gì khác hơn là sự tiến hóa liên tục của nhân tính, rằng trên thực tế nhân tính chính là giai cấp tính, rằng không có gì là cố hữu, bẩm sinh mà tất cả đều là sản phẩm của môi trường mà thôi.  Ông ta lý luận rằng con người là một “người của xã hội”, và không đồng ý với khái niệm “người của tự nhiên” mà Feuerbach [Phơ-bách] thừa nhận.  Lenin tin rằng chủ nghĩa Marxism không thể tự nhiên mà tạo ra trong thành phần giai cấp vô sản, mà phải từ bên ngoài mà đưa vào.  Lenin [Lê-nin] cố gắng nỗ lực hết sức nhưng vẫn không làm cho công nhân chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị để chiếm đoạt quyền lực.  Cho nên ông đặt hy vọng vào Thuyết Phản Xạ Có Điều Kiện của Ivan Petrovich Pavlov, người đã từng đoạt giải Nobel. Lenin cho rằng lý thuyết này “có ý nghĩa quan trọng đối với thành phần giai cấp vô sản trên toàn thế giới.” Trotsky [7] còn tự phụ rằng Thuyết Phản Xạ Có Điều Kiện không những chỉ thay đổi con người về mặt tâm lý, mà còn thay đổi con người về mặt vật chất.  Cũng giống như một con chó chảy nước miếng mỗi khi nghe tiếng chuông gọi bữa ăn trưa reo lên, quân lính nghe súng nổ mà dũng cảm xông lên và hiến dâng mạng sống cho Đảng Cộng Sản.
Từ cổ xưa, người ta tin tưởng rằng thành quả có được từ nỗ lực và lao động.  Bằng cách lao động chăm chỉ người ta có được cuộc sống thịnh vượng.  Biếng nhác là bị khinh thường và hưởng lợi mà không lao động là trái với đạo đức.  Sau khi Đảng Cộng Sản lan tràn vào Trung Quốc như một bệnh dịch, chúng hô hào cặn bã xã hội và những kẻ ăn không ngồi rồi đi chia đất, cướp đoạt tài sản riêng tư, áp bức mọi người, công khai làm như thế dưới danh nghĩa pháp luật.
Ai cũng hiểu rằng kính trọng người lớn tuổi, chăm lo trẻ em là tốt; không kính trọng người lớn tuổi và thầy giáo là xấu.  Nền giáo dục theo Khổng Tử khi xưa có hai phần: Tiểu Học và Đại Học. Giáo dục của Tiểu học là dạy cho trẻ em dưới 15 tuổi, chủ yếu là tập trung vào quy tắc về vệ sinh, giao tiếp xã hội, nghi thức (có nghĩa là giáo dục vệ sinh, cách đối xử xã hội, lời nói v..v).  Giáo dục Đại Học nhấn mạnh về Đức tính và tiếp thụ Đạo Lý [8].  Trong các chiến dịch của Đảng Cộng Sản Trung Quốc để chỉ trích Lâm Bưu [9], phê phán Khổng Tử và bãi bỏ không kính trọng thầy, Đảng đã xóa tan tất cả chuẩn mực đạo đức trong tâm hồn của thế hệ trẻ.
Có một câu nói từ cổ xưa thế này, ‘Một ngày làm thầy của ta, thì trọn đời ta phải kính trọng người đó như là cha của mình.’
Ngày 5 tháng 8 năm 1966, Biện Trọng Vân, một cô giáo của Trường Trung học Nữ thuộc Đại Học Sư Phạm Bắc Kinh, bị các nữ sinh của cô bắt diễn hành trên phố, đội một chiếc mũ lừa cao, quần áo dính đầy mực đen, quàng một cái bảng đen sỉ nhục trên cổ, đi giữa đám học sinh trong khi chúng đang đánh trống bằng thùng rác.  Cô bị bắt phải quỳ trên mặt đất, bị đánh bằng một cái gậy gỗ có đóng đinh lởm chởm, và bị đổ nước sôi lên người.  Cô ta đã bị tra tấn đến chết đi.
Một nữ hiệu trưởng trường Trung học của Đại học Bắc Kinh bị học sinh bắt phải gõ lên một cái chậu rửa đã vỡ và la lớn rằng “Tôi là một phần tử xấu”.  Để làm nhục bà ta, tóc bà đã bị cắt xén một cách bừa bãi.  Bà bị đánh vào đầu cho đến khi máu phun ra, trong khi đó thì bị bắt buộc phải quỳ xuống và bò trên mặt đất.
Ai cũng nghĩ rằng sạch là tốt, bẩn là xấu.  Vậy mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc lại hô hào “phủ bùn khắp người và làm chai đầy bàn tay”, lại còn khen rằng “tay lem luốc và chân dính phân bò” [10] là hay.  Những người như thế được xem là những phần tử cách mạng nhất, có thể đi học đại học, được gia nhập Đảng, được thăng chức, cuối cùng trở thành lãnh đạo của Đảng.
Tiến bộ của nhân loại là tiến bộ về kiến thức, nhưng dưới sự thống trị của Đảng Cộng Sản, kiến thức bị xem là những thứ không tốt.  Các phần tử trí thức thì bị xếp loại thành 'loại hôi thối hạng chín' — là tệ nhất trên tỉ lệ từ một đến chín.  Người trí thức phải học hỏi từ dân mù chữ, phải bị nông dân nghèo giáo dục lại để họ được cải tạo và bắt đầu một cuộc sống mới.  Trong việc cải tạo lại thành phần trí thức, các giáo sư từ Đại học Thanh Hoa bị đày đến đảo Như Châu ở Nam Xương, tỉnh Giang Tây.  Bệnh sán máng [11] là một bệnh rất phổ biến ở khu vực này, thậm chí một trại lao động cải tạo trước kia ở chỗ này cũng phải dời đi nơi khác.  Vừa khi đụng vào nước sông, các giáo sư này đã bị nhiễm trùng và bị bệnh sơ gan, vì thế mà mất đi khả năng làm việc và sống.
Dưới sự chủ mưu của cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, Đảng Cộng sản Căm-pu-chia (Khờ-me Đỏ) đã tiến hành cuộc đàn áp dã man nhất nhắm vào thành phần trí thức.  Những người có tư tưởng độc lập trở thành đối tượng bị cải tạo và bị tiêu diệt về tinh thần lẫn thể xác.  Từ năm 1975 đến 1978, một phần tư dân số của Căm-pu-chia đã bị ám sát, một số người chỉ vì có cái dấu đeo mắt kính trên mặt mà bị giết chết.
Sau khi Đảng Cộng Sản Căm-pu-chia chiến thắng vào năm 1975, Pol Pot [Pôn-pốt] vội vàng bắt đầu thành lập chủ nghĩa xã hội — gọi là “một thiên đàng của xã hội nhân loại”, một xã hội không có sự khác biệt về giai cấp, không phân biệt thành thị nông thôn, không có tiền tệ hay thương mại.  Cuối cùng thì các gia đình bị tan nát và được thay thế bởi những đội lao động nam và những đội lao động nữ.  Tất cả bị bắt phải làm việc và ăn chung với nhau, mặc đồng phục cách mạng màu đen hay quân phục.  Vợ chồng chỉ được phép gặp nhau mỗi tuần một lần.
Đảng Cộng Sản tuyên bố rằng không sợ Trời, không sợ Đất và ngông cuồng đòi cải tạo lại trời đất. Thật ra là chúng hoàn toàn chối bỏ hết thảy các nhân tố và lực lượng chân chính trong vũ trụ.  Khi còn là sinh viên ở Hồ Nam, Mao Trạch Đông đã từng nói rằng:
“Trong những thế kỷ, các dân tộc đã từng trải qua những cuộc cách mạng lớn lao. Thường thường cái cũ thì bị rửa trôi đi và tất cả được nhuộm lại với cái mới; biến đổi to lớn xảy ra, có thể bao gồm sống và chết, thành công và hủy diệt.  Cũng giống như sự hủy diệt của vũ trụ. Mà hủy diệt của vũ trụ chắc chắn không phải là sự hủy diệt cuối cùng, và cũng không hẳn hủy diệt ở nơi này thì sẽ là sáng tạo ở nơi kia.  Con người chúng ta ai cũng có phần trong sự hủy diệt như thế, bởi vì trong việc hủy diệt vũ trụ cũ, chúng ta sẽ đem lại vũ trụ mới.  Chẳng phải nó tốt hơn vũ trụ cũ hay sao!"
Tình cảm đối với người thân thuộc là điều tự nhiên của con người.  Tình cảm thân mến giữa vợ chồng, con cái, cha mẹ, bạn bè nói chung là bình thường trong xã hội loài người.  Qua các cuộc vận động chính trị liên tiếp, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thay đổi con người thành chó sói, thậm chí biến thành thú vật hung tợn hơn cả chó sói nữa.  Ngay cả những con hổ hung dữ nhất cũng không ăn thịt con của nó; nhưng dưới quyền thống trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cha mẹ và con cái đấu tố nhau, vợ chồng tố cáo nhau, đều là chuyện thường; quan hệ gia đình thân thuộc thường thường không được chấp nhận.
Vào giữa thập niên 1960, một nữ giáo viên ở một trường tiểu học tại Bắc Kinh vô tình viết hai chữ ‘chủ nghĩa xã hội’ và ‘sụp đổ’ chung với nhau, lúc cô tập cho các học sinh viết chữ Hán.  Các học sinh liền báo cáo cô.  Sau đó, hằng ngày cô ta bị phê bình chỉ trích và bị các nam học sinh tát mặt.  Con gái của cô ta đã cắt đứt tình mẹ con với cô.  Khi tranh cãi dữ dội trong các buổi sinh hoạt chính trị, con gái cô ta đã chỉ trích thái độ của mẹ mình trong “chiều hướng mới của đấu tranh giai cấp”.   Tiếp theo sự bất hạnh này, vài năm sau, cô giáo viên đó thường ngày không làm chi khác hơn mà chỉ quét dọn trường và dọn dẹp nhà vệ sinh.
Ai đã từng sống trong thời Cách Mạng Văn Hóa sẽ không bao giờ quên cô Trương Chí Tân, bị cầm tù vì phê phán Mao Trạch Đông bị thất bại trong chiến dịch Đại Nhẩy Vọt.  Rất nhiều lần cai ngục cởi hết quần áo của cô ta, còng tay cô về phía sau và quẳng cô vào xà-lim của đàn ông để cho các tù nhân nam hãm hiếp tập thể.  Cuối cùng cô ta đã bị điên loạn. Trước khi bị giết chết, cai ngục sợ rằng cô ta sẽ hô to những khẩu hiệu phản đối, nên bọn chúng đè đầu cô ta trên một phiến đá và cắt cuống họng cô mà không dùng một chút thuốc tê.
Trong cuộc đàn áp bức hại Pháp Luân Công những năm gần đây, Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn liên tục sử dụng thủ đoạn cũ đó để kích động căm thù và xúi giục bạo lực.
Đảng Cộng Sản tiêu diệt bản tính thiện lương của con người, chúng xúi giục, dung túng và lợi dụng phần ác trong nhân tính của con người để củng cố quyền thống trị của chúng.  Từ cuộc vận động này đến cuộc vận động khác, người có lương tâm vì kinh sợ bạo lực mà ép buộc phải im lặng.  Đảng Cộng Sản đã tiêu diệt chuẩn mực đạo đức trong vũ trụ một cách có hệ thống; mục đích là để hoàn toàn phá hủy khái niệm đạo đức, phá hủy khái niệm Thiện và Ác mà nhân loại đã duy trì hàng ngàn năm qua.

2. Tà ác đến độ đã vượt qua quy luật tương sinh tương khắc

 Ngài Lão Tử giảng rằng: “Dưới gầm trời, tất cả nhận thấy cái đẹp là đẹp bởi vì có cái xấu.  Biết được cái thiện là thiện bởi vì có tà ác.  Cho nên 'có và không' sinh cùng với nhau.  Khó khăn và dễ dàng phối hợp với nhau.  Dài và ngắn so với nhau, cao và thấp nghiêng vào nhau, tiếng nói và âm thanh hòa hợp nhau; trước và sau đi theo nhau.” [12]
Nói một cách đơn giản, quy luật tương sinh tương khắc tồn tại ở thế gian của con người.  Không chỉ có người ta được phân chia thành người tốt và người xấu, mà thiện và ác cũng cùng tồn tại trong bản thân của mỗi một người.
Đạo Chích, một nhân vật điển hình của bọn cướp ở Trung Quốc thời xưa, nói với đám lâu la rằng “Ăn cướp cũng phải có Đạo.”  Hắn tiếp tục nói rằng tên cướp cũng phải có tài cao, dũng cảm, ân nghĩa, trí tuệ và nhân từ.  Đó là nói rằng, ngay cả một tên cướp cũng không thể muốn làm gì làm, mà còn có các qui củ phải tuân theo.
Nhìn lại lịch sử của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, có thể nói là tràn đầy thủ đoạn xảo quyệt và phản bội, không có qui củ bó buộc.  Ví dụ, bọn cướp tôn trọng nhất là “nghĩa”.  Đến cả nơi mà chúng chia của cải cướp đoạt cũng được gọi là “ Tụ nghĩa phân sảnh đường" (Sảnh đường để phân chia đồ tụ nghĩa). Vậy mà khi khủng hoảng xảy ra giữa các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, thì họ tố cáo và buộc tội lẫn nhau, thậm chí còn bịa đặt tội danh giả để hại nhau, chà xát thêm muối vào vết thương.
Lấy Tướng Bành Đức Hoài làm ví dụ. Mao Trạch Đông xuất thân từ một gia đình nông dân, đương nhiên thừa biết rằng một mẫu đất không thể nào sản xuất ra 130 ngàn cân gạo [13] và cũng thừa biết rằng điều mà Tướng Bành nói tất cả là đúng.  Mao cũng biết rõ rằng Bành không có ý định cướp đoạt quyền hành của Mao, chưa kể đến việc Bành đã cứu mạng Mao nhiều lần khi Bành chỉ có 20 ngàn quân mà chiến đấu với 200 ngàn quân lính của Hồ Tông Nam trong cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc.  Vậy mà khi Bành vừa phát biểu ý kiến bất đồng với Mao, lập tức Mao phát cơn thịnh nộ, ném vào thùng rác một bài thơ mà Mao đã viết ca ngợi về Bành—“Ai dám rút kiếm cưỡi ngựa tiến lên, chỉ có tướng Bành chúng ta!”— Mao nhất quyết xử tử Bành, không đếm xỉa gì đến sự cao thượng và tình đồng chí ân nhân cứu mạng của Bành đối với mình, có thể nói là ân đoạn nghĩa tuyệt.
Đảng Cộng Sản giết người một cách tàn bạo thay vì cai trị với lòng nhân từ; chúng đàn áp bức hại đảng viên, không kể đến tình đồng chí và không nói đến nghĩa khí; chúng bán rẻ đất của Trung Quốc, hành động hèn nhát; tự chúng làm cho mình trở thành kẻ thù của lòng tin chân chính, chúng thiếu trí tuệ; chúng đề cao các cuộc vận động quần chúng, chà đạp đường lối trị quốc của các bậc thánh nhân.  Tóm lại, Đảng Cộng Sản đã  đi quá xa, đến cả một chút chuẩn mực đạo đức tối thiểu ấy như là “Ăn cướp cũng phải có Đạo.” mà chúng cũng vứt đi.  Sự tà ác của chúng đã vượt hẳn đạo lý tương sinh tương khắc trong vũ trụ.  Đảng Cộng Sản triệt để lật đổ nhân tính và tự nhiên, mục đích là chúng muốn lật đổ tiêu chuẩn Thiện và Ác, lật đổ quy luật của vũ trụ.  Khi những cuồng vọng đi đến tột cùng, thì tự nhiên chúng khó mà chạy trốn khỏi cái kết cục phải bị tiêu diệt.

 

II. Đấu với Đất, làm trái với tự nhiên, gây tai họa vô cùng

1. Mở rộng đấu tranh giai cấp đến sự Tự Nhiên

Kim Huấn Hoa, một học sinh tốt nghiệp trung học vào năm 1968 của trường Trung học Ngô Tùng số 2 của Thượng Hải và cũng là một thành viên của Ủy Ban Thường Trực Hồng Vệ Binh Trung Học ở Thượng Hải, được đưa đến vùng quê của tỉnh Hắc Long Giang vào tháng Ba năm 1969.  Vào ngày 15 tháng 8, năm 1969, những cơn lũ dữ dội từ trên núi đổ xuống và làm ngập nhanh chóng hết cả các khu vực xung quanh sông Song Hà.  Kim nhảy vào trong dòng nước đang chảy xiết để kéo lên hai cột dây điện cho đội sản xuất của anh ta nên đã bị chết đuối.
Sau đây là hai đoạn văn trong nhật ký [14] của Kim viết trước khi chết.
Ngày 4 tháng Bảy:
Tôi bắt đầu cảm thấy sự nghiêm trọng và ác liệt của đấu tranh giai cấp ở nông thôn.  Là một Hồng vệ binh của Mao Chủ Tịch, với tư tưởng bất chiến bại của Mao Trạch Đông làm vũ khí, tôi hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu chống lại lực lượng phản động.  Dù phải hy sinh mạng sống, tôi vẫn sẵn sàng chiến đấu.  Tôi sẽ chiến đấu! chiến đấu! và chiến đấu với tất cả khả năng của tôi để củng cố giai cấp vô sản chuyên chính .
Ngày19 tháng Bảy:
Kẻ thù giai cấp trong đội sản xuất đó vẫn còn kiêu ngạo.  Thanh thiếu niên trí thức về vùng quê chính là để tham gia vào ba cuộc đấu tranh cách mạng lớn lao ở vùng quê.  Trước tiên là tham gia đấu tranh giai cấp. Chúng ta  nên dựa vào giai cấp nông dân nghèo và thấp dưới trung bình, vận động quần chúng và tiêu diệt tính kiêu ngạo của kẻ thù .Chúng ta là  thanh thiếu niên đã hiểu biết phải luôn luôn nâng cao khẩu hiệu vĩ đại của Tư Tưởng Mao Trạch Đông, đừng quên đấu tranh giai cấp, và đừng quên đấu tranh giai cấp vô sản chuyên chính.
Kim về vùng quê với tư tưởng đấu với Trời,  đấu với Đất và cải tạo lý tưởng của nhân loại.  Quyển nhật ký của anh đã thể hiện tâm của anh đầy “chiến đấu”.  Anh mở rộng ý tưởng “đấu tranh với con người” với mục đích là đấu với Trời, đấu với Đất, vì tư tưởng đó mà mất đi mạng sống của cá nhân mình.  Kim là một trường hợp điển hình của triết lý đấu tranh, đồng thời rõ ràng cũng trở thành nạn nhân của nó.
Engels đã từng cho rằng “Tự do là sự nhận thức những điều tất nhiên”.  Mao Trạch Đông thêm vào đó một câu “và là sự cải tạo thế giới.”  Phần cuối của câu này hoàn toàn nêu rõ ra thái độ của Đảng Cộng Sản về Tự Nhiên, đó chính là cải tạo sự Tự Nhiên.  Đối với nhận thức của Đảng cộng sản, “tất nhiên” là những thứ mù quáng, và là những “qui luật” mà chúng không cách nào hiểu nổi nguồn gốc.  Chúng tin rằng Tự Nhiên và nhân loại có thể  “chinh phục” được bằng cách vận động ý thức chủ quan con người để diễn giải quy luật khách quan.  Trong nỗ lực cải tạo sự Tự Nhiên, Đảng cộng sản đã gây hỗn loạn cho cả Nga và Trung Quốc, đây là hai nơi thí nghiệm của chúng.
Các bài hát dân ca trong thời Đại Nhẩy Vọt đã thể hiện cái tâm cuồng vọng và ngu xuẩn của Đảng Cộng Sản Trung Quốc: “Hãy cho núi cao phải cúi đầu, hãy cho sông biển phải nhường bước”; “Không Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời, không Long Vương dưới đất.  Chính ta là Ngọc Hoàng Thượng Đế và chính ta là Long Vương.  Dưới mệnh lệnh của ta ba núi năm đèo cũng phải dẹp đi, nhìn xem ta đến đây!” [15]
Đảng Cộng Sản đã đến!  Chúng đã phá hoại sự quân bình tự nhiên và phá hoại thế giới từ nguyên thủy vốn đã hài hòa.

2. Phá hoại sự Tự Nhiên,  phải tự nhận lãnh hậu quả

Dưới chính sách nông nghiệp mà dùng thóc lúa làm chủ yếu, Đảng Cộng Sản Trung Quốc cố ý biến đổi các vùng đồi núi lớn rộng  và đồng cỏ không canh tác được thành vùng nông nghiệp, và lấp các sông hồ ở Trung Quốc để cải biến thành các vùng đất nông nghiệp.  Kết quả thế nào?  Đảng Cộng Sản Trung Quốc tuyên bố rằng mức sản xuất lúa gạo vào năm 1952 đã vượt trên mức sản xuất vào thời Quốc Dân Đảng, nhưng Đảng Cộng Sản Trung Quốc không tiết lộ ra là, mãi cho đến năm 1972 thì tổng số lượng sản xuất thóc lúa ở Trung Quốc vẫn chưa bằng lượng sản xuất thời thái bình thịnh vượng của Vua Càn Long đời nhà Thanh.  Thậm chí cho đến ngày nay, số lượng sản xuất lúa gạo của Trung Quốc tính theo đầu người, vẫn còn thấp hơn số lượng sản xuất của đời nhà Thanh, và cũng chỉ bằng một phần ba số lượng sản xuất của thời nhà Tống, đó là thời kỳ mà sản xuất nông nghiệp đạt đến mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc.
 Kết quả của sự đốn cây, và san lấp sông hồ bừa bãi, đã phá hoại trầm trọng cho hệ sinh thái Tự nhiên của Trung Quốc.  Ngày nay hệ sinh thái ở Trung Quốc đang trên đà suy sụp. Sự khô cạn của sông Hải Hà và sông Hoàng Hà và độ ô nhiễm của Sông Hoài và Sông Dương Tử (Trường Giang) đã cắt đứt con đường sinh tồn mà Trung Quốc dựa vào để sinh sống.  Đồng cỏ ở các vùng Cam Túc, Thanh Hải, khu Nội Mông, và Tân Cương biến mất, những trận bão cát đã có lối để thổi vào khu vực trung tâm của đồng bằng.
Vào thập niên 1950, dưới sự chỉ dẫn của các  chuyên gia Sô-viết, Đảng Cộng Sản Trung Quốc cho xây nhà máy thủy điện Tam Môn Hạp trên sông Hoàng Hà.  Cho đến ngày nay, nhà máy điện này chỉ mang lại một công suất phát điện bằng sức của một con sông trung bình sản xuất thôi, dù rằng sông Hoàng Hà là sông lớn thứ nhì ở Trung Quốc.  Còn tệ hại hơn nữa , dự án này đã tạo ra sự tích tụ các chất bùn và cát ở phía thượng nguồn dòng sông, khiến cho đáy sông dâng cao lên.  Vì lý do này, ngay cả một trận bão lụt trung bình thôi cũng đủ gây thiệt hại to lớn cho mạng sống và đất đai tài sản của người dân sống ở hai bên bờ sông.  Trong trận bão lụt vào năm 2003 trên sông Vị, khi ở điểm cao nhất, mực nước chảy nhanh là 3.700 mét khối mỗi giây, hiện tượng này chỉ có khoảng 3 đến 5 năm mới xảy ra một lần.  Tuy nhiên trận bão lụt này đã gây thiệt hại chưa từng thấy (so với những trận bão lụt đã xảy ra) trong 50 năm qua.
Có nhiều bể chứa nước cỡ lớn được xây cất ở vùng địa phương của Trú Mã Điếm, tỉnh Hồ Nam.  Vào năm 1975, các đập thủy điện của những bể chứa nước này đã sụp đổ từ cái này đến cái khác.  Chỉ trong khoảng hai tiếng đồng hồ, 60 ngàn người bị chết đuối.  Tổng số người chết lên đến 200 ngàn người.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn ngang nhiên  hành động phá hủy đất đai của Trung quốc.  Đập thủy điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử và Dự Án Chuyển Nước Từ Nam Đến Bắc là ý đồ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhằm cải biến hệ sinh thái Tự Nhiên, với số tiền đầu tư vào dự án lên đến hàng trăm tỷ đô-la Mỹ; chưa kể đến những dự án nhỏ hoặc trung bình để “đấu với Đất”.  Thêm vào đó, nội bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã có lần đưa ra đề nghị phải dùng bom nguyên tử cho nổ để mở đường nối liền với vùng cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng để cải biến môi trường Tự Nhiên ở miền Tây Trung Quốc.  Mặc dù sự cuồng vọng và xúc phạm đất đai của Đảng cộng sản Trung Quốc đã làm chấn động thế giới, nhưng đây không có gì là ngạc nhiên cả.
Trong Bát Quái của kinh Dịch, tổ tiên Trung Quốc xem Trời là Càn hay tạo hoá, và kính trọng Đạo Trời.  Họ xem Đất  là Khôn hay là mẹ, kính trọng và lĩnh hội Đức của Khôn.
Khôn là hình tượng (quẻ) kế tiếp theo Càn được tả trong kinh Dịch rằng: “Địa thế Khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật.” –(tạm hiểu " hình thế sức mạnh của Đất là Khôn, noi theo bản tính của Đất người quân tử lấy Đức dầy mà chở muôn vật").
Ngài Khổng tử ghi chú trong kinh Dịch rằng [16], “Chí tai khôn nguyên, vạn vật tư sinh.” – (tạm hiểu " đến cái chức năng đứng đầu, cao nhất của Khôn thì chính là sinh ra tất cả vạn vật.]
Và giảng tiếp về bản chất của Khôn: “Khôn là mềm mại nhất, nhưng khi vận động thì lại cứng rắn.  Là tĩnh lặng nhất, nhưng Đức bao quát khắp phương. Uyển chuyển,nhu mì, thuận theo Trời mà trường tồn mãi.  Khôn bao gồm vạn vật và biến đổi rạng rỡ.  Khôn là thế, ngoan ngoãn biết bao, đón nhận mệnh Trời và chuyển động với thời gian.”
Hiển nhiên rằng chỉ trong vòng khuôn đạo đức của mẹ Đất (là Đức của Khôn), mà còn nhu mì, tĩnh lặng, bền bỉ, và nhẫn nại để thuận theo Trời  thì mới có thể lấy 'Đức dầy mà chở vật' , vạn vật từ đó mà sinh ra. Đồng thời, mới đề cao được thái độ của nhân loại đối với Đạo của Càn và Đức của Khôn, tức là phải vâng mệnh Trời, thuận theo Đất, tôn trọng sự Tự Nhiên.
Tuy nhiên Đảng Cộng Sản Trung Quốc lại vi phạm Càn Khôn, chủ trương “chiến Trời, đấu Đất”.  Chúng tùy tiện cướp đoạt tài nguyên của quả địa cầu.  Cuối cùng chắc chắn chúng sẽ bị trời, đất và qui luật tự nhiên trừng phạt.

 

III.  Đấu với Trời -- đàn áp tín ngưỡng, bác bỏ chánh tín của con người đối với Thần (Thượng đế)

1. Làm sao sinh mạng hữu hạn có thể hiểu được thời gian-không gian vô hạn?

Con trai của Einstein là Edward, có một lần hỏi Einstein rằng sao ông nổi danh như thế.  Einstein  chỉ vào một con bọ mù ở trên một quả banh da trả lời rằng, nó không biết con đường mà nó đang bò là cong, nhưng “Einstein biết”.  Kỳ thực câu trả lời của Einstein có hàm nghĩa sâu xa. Người Trung Quốc cũng có câu có ý nghĩa tương tự, “Ta không thấy được bộ mặt thật của núi Lư Sơn, chính vì ta đang ở trong núi đó.”  Muốn hiểu một hệ thống, thì cần phải bước ra khỏi hệ thống đó để mà quan sát. Tuy nhiên, dùng sinh mạng có giới hạn của con người để quan sát thời gian-không gian vô hạn của vũ trụ, nhân loại sẽ không bao giờ hiểu được toàn bộ cấu trúc của vũ trụ, vì thế vĩnh viễn vũ trụ sẽ là một ẩn đố đối với nhân loại.
Chướng ngại mà khoa học không cách gì vượt qua nổi là thuộc về cảnh giới tâm linh hay trừu tượng, mà tự nhiên thuộc về phạm trù của “tín ngưỡng”.
Tín nguỡng, loại hoạt động thuộc về thế giới nội tâm của con người, bao gồm kinh nghiệm và hiểu biết về sinh mạng, thời gian-không gian và vũ trụ, không phải là phạm trù nằm trong vòng kiềm chế của bất cứ một đảng phái chính trị nào.  “Hãy trả lại cho Caesar (hoàng đế La mã) những gì của Caesar, và hoàn trả lại Thượng Đế những gì của Thượng Đế.” [17].  Tuy nhiên dựa vào sự hiểu biết đáng tội nghiệp và đáng tức cười về vũ trụ và sinh mạng, Đảng Cộng Sản gọi tất cả những gì vượt khỏi lý luận của chúng đều là “mê tín”, và những ai tin vào Trời Phật Thượng Đế là sẽ bị tẩy não và bị cải tạo. Những ai không thay đổi đức tin thì bị sỉ nhục hay thậm chí còn bị giết chết.
Các khoa học gia chân chính, đều có một cái nhìn khoáng đạt về vũ trụ. Dù với tri thức có giới hạn của chính mình, họ cũng không phủ nhận những thứ “chưa biết” mà vô giới hạn.  Khoa học gia nổi tiếng Newton trong quyển sách đầu tiên của ông "Nguyên Lý Toán Học" ấn hành vào năm 1678, diễn giải chi tiết các nguyên lý về lực học, giải thích thủy triều, sự vận động của các hành tinh, và phương thức vận chuyển của Thái Dương hệ.  Newton, một nhân tài thành công như thế, vẫn liên tục nhắc nhở rằng quyển sách của ông chỉ mô tả các hiện tượng bề mặt, rằng tuyệt đối ông không dám đề cập đến ý nghĩa chân chính của Thượng Đế tối cao trong việc sáng tạo ra vũ trụ.  Trong lần tái bản quyển sách "Nguyên Lý Toán Học", để bày tỏ đức tin của mình, Newton viết rằng, “ Một hệ thống to lớn hết sức thiện lương và mỹ diệu bao gồm mặt trời, các hành tinh, các vì sao chổi chỉ được xuất phát từ dưới bàn tay toàn năng của Thượng Đế … chúng ta cũng giống như một người mù không có khái niệm về màu sắc, nên không hiểu được cách lý giải của Thượng Đế về vạn sự vạn vật.”
Chúng ta hãy để qua một bên những câu hỏi: có thế giới thiên đàng mà siêu vượt khỏi thời gian-không gian này hay không?, và những người tu luyện có thể quay trở về cội nguồn thiêng liêng và chân ngã hay không?.  Một điều mà tất cả chúng ta đều có thể đồng ý là: Những ai có đức tin chân chính đều tin tưởng vào nguyên lý của quan hệ nhân quả, rằng Thiện và Ác có báo ứng.  Niềm tin chân chính đóng giữ một vai trò rất quan trọng là duy trì đạo đức nhân loại ở một chuẩn mực nhất định.  Từ Aristotle cho đến Einstein, rất nhiều người tin rằng, trong vũ trụ có một qui luật phổ biến tồn tại. Bằng đủ mọi cách nhân loại không ngừng đi tìm chân lý của vũ trụ. Như vậy ngoài thám hiểm khoa học ra, thì tại sao tôn giáo, đức tin và tu luyện không thể là những phương thức khác để tìm ra chân lý của vũ trụ?

2. Đảng Cộng Sản Trung Quốc phá tan đức tin chân  chính của nhân loại

Trong lịch sử, mỗi một dân tộc trên thế giới đều tin vào Thần linh.  Chính là đối với tín ngưỡng về thần linh, mà tin tưởng rằng có Thiện và Ác báo ứng, thì con người mới tự kiềm chế chính mình và duy trì chuẩn mực đạo đức của xã hội.  Trong tất cả thời gian và trên toàn thế giới, các tôn giáo chính thống ở Tây Phương, Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo ở Đông Phương tất cả đều dạy con người: hạnh phúc thực sự là từ đức tin vào Thượng Đế mà có, tôn kính trời, có lòng từ tâm, quý trọng những gì mình có, biết ơn khi được phúc lành, đền đáp lại lòng tốt của người khác đối với mình.
Tư tưởng chỉ dẫn trong trung tâm của chủ nghĩa cộng sản là Thần, không Phật, không Đạo, không đời trước, không thế hệ sau, không có nhân quả báo ứng.  Vì thế Đảng cộng sản của mọi quốc gia đều bảo người nghèo và bọn vô sản lưu manh [18] rằng họ không cần tin tưởng vào Thần linh; không cần phải trả nghiệp lực mà họ gây ra; không cần tôn trọng luật pháp và không cần tự kiềm chế cá nhân mình.  Ngược lại là phải dùng thủ đoạn gian trá và bạo lực để cướp đoạt của cải.
Ở Trung Quốc cổ xưa, hoàng đế được xem là bậc tối thượng cao quý, mà vẫn tự đặt chính mình ở dưới Trời, tự gọi mình là Thiên Tử (con của Trời).  Dưới sự cai quản và ràng buộc của “ý Trời”, có lúc họ còn ra sắc lệnh để ăn năn hối lỗi với Trời.  Tuy nhiên Đảng cộng sản lại thay thế "ý Trời" bằng chính bọn chúng .  Không sợ luật pháp hay đạo Trời ràng buộc, chúng ngênh ngang muốn làm gì thì làm.  Kết quả là chúng đã tạo ra địa ngục nhân gian này đến địa ngục nhân gian khác.
 Karl Marx, ông tổ của Đảng Cộng Sản, tin rằng tôn giáo là thuốc phiện tinh thần cho người dân.  Marx sợ rằng người ta tin tưởng vào Thần linh và Thượng Đế thì sẽ không tin vào chủ nghĩa Cộng Sản của ông ta.  Chương đầu tiên của quyển sách Phép Biện Chứng của Tự Nhiên của Engels đã chứa đựng lời chỉ trích đối với Mendeleyev và các nghiên cứu của nhóm ông ta về thuyết "linh học".
Engels [Ăng-ghen] cho rằng: " Trong cuộc phán xét 'tính lý luận' của nhân loại thì tất cả những gì đã có ở trong và trước thế kỷ Trung Cổ đều phải biện hộ cho cái lý do tồn tại trước đây của chính nó."  Trong lúc Engels tuyên bố câu này, hắn tự xem mình và Marx là quan tòa trong cuộc phán xét này. Mikhail Bakunin, người theo chủ nghĩa vô chính phủ, bạn của Marx, đã bình luận về Marx như thế này: “Ông ta nghiễm nhiên là Thượng Đế của người ta; ông ta không thể chịu đựng người nào khác là Thượng Đế ngoại trừ chính cá nhân mình; muốn dân chúng tôn sùng mình như là tôn sùng Thần linh và muốn được tôn kính như thần tượng.  Nếu không ông ta sẽ mạ nhục họ hoặc sẽ đàn áp họ.”
Mà chánh tín truyền thống đã tạo thành chướng ngại thiên nhiên cho ý đồ của bè lũ Đảng cộng sản.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc không còn bình tĩnh, điên cuồng đàn áp tôn giáo.  Trong thời Cách Mạng Văn Hóa, bao nhiêu chùa chiền và nhà thờ của Hồi giáo đã bị phá vỡ, các tu sĩ bị sỉ nhục phải đi diễn hành trên đường phố.  Ở Tây Tạng, 90% phần trăm chùa chiền đã bị phá hoại.  Đến tận ngày nay, Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn còn tiếp tục đàn áp bức hại tôn giáo, giam giữ trong tù hàng chục ngàn người theo đạo Cơ đốc tại gia.  Cung Phẩm Mai, một linh mục Công Giáo ở Thượng Hải, bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc giam trong tù cả hơn 30 năm.  Ông sang Mỹ vào thập niên 1980.  Lúc hơn 90 tuổi, trước khi từ trần, ông đã để lại di chúc rằng, “Hãy chuyển ngôi mộ của tôi trở về Thượng Hải khi Đảng Cộng Sản không còn thống trị Trung Quốc nữa”.  Qua cả hơn 30 năm bị biệt giam vì tín ngưỡng của chính mình, đã nhiều lần Đảng Cộng Sản Trung Quốc ép ông từ bỏ đức tin của ông và để đổi lấy tự do ông phải chấp nhận quyền lãnh đạo của “Ủy Ban Ái Quốc Tam-Tự” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc[19]. Những năm gần đây, cuộc đàn áp của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đối với những người tu luyện Pháp Luân Công tin tưởng vào Chân Thiện Nhẫn, chính là đã mở rộng chủ nghĩa “đấu với Trời” của chúng, và cũng là một kết quả tất nhiên trong sự việc chúng bắt ép người dân đi ngược lại ý muốn của họ.
Đảng cộng sản vô Thần cố gắng lãnh đạo và khống chế đức tin vào Thần linh của người ta; chúng tìm niềm vui trong sự “đấu với Trời”.  Sự ngu xuẩn của chúng không diễn tả được bằng lời; ngay cả những chữ như 'ngông cuồng, xấc xược', cũng không thể diễn tả được một phần nhỏ.

Lời kết

Trên thực tế là chủ nghĩa Cộng Sản đã hoàn toàn thất bại trên toàn thế giới.  Giang Trạch Dân, cựu lãnh đạo của một quốc gia Cộng Sản to lớn cuối cùng trên thế giới, đã đàm thoại với một phóng viên của tờ báo The Washington Post vào tháng Ba 2001 rằng, “Khi còn trẻ tôi tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ phát triển rất nhanh, nhưng bây giờ tôi không còn cảm thấy như vậy nữa.” [20].  Hiện nay con số người thật sự tin vào chủ nghĩa Cộng Sản rất ít và không còn bao nhiêu nữa.
Các cuộc vận động cho chủ nghĩa Cộng Sản đã tiến đến thất bại bởi vì chúng vi phạm quy luật của vũ trụ và chúng chống lại đạo Trời.  Một lực lượng phản vũ trụ như thế, chắc chắn sẽ bị ý Trời và các đấng Thần linh trừng phạt.
Qua bao nhiêu cơn khủng hoảng, mặc dù Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thoát khỏi và vẫn còn bám theo thủ đoạn cuối cùng không còn hy vọng của chúng, thể hiện rõ ràng trước toàn thế giới ngày tàn của chúng đã đến rồi.  Từng cái một, cái mặt nạ lừa đảo của chúng đang bị lột ra, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang lộ ra bản tính thật của chúng: tham lam, tàn bạo, vô liêm sỉ, lưu manh, phản vũ trụ.  Nhưng chúng vẫn còn tiếp tục khống chế tư tưởng con người, bóp méo luân lý đạo đức của nhân loại, và vì thế tàn phá văn minh đạo đức của nhân loại, tàn phá hòa bình và tiến bộ của nhân loại.
Vũ trụ bao la mang đầy thiên ý mà không cách gì kháng cự được, nhưng thiên ý còn được gọi là ý chí của đấng Thần linh, hoặc là quy luật của Tự Nhiên , hoặc là lực lượng to lớn của Tự Nhiên.  Trọng thiên ý, thuận theo tự nhiên, tôn trọng quy luật của vũ trụ, yêu thương tất cả chúng sinh ở dưới Trời, thì nhân loại mới có thể có tương lai của chính mình.

Chú Thích
[1] Lão Tử, triết gia Trung Quốc, sống vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Ông ta được coi là tác giả của quyển sách Đạo Đức Kinh (Tao-Te Ching), quyển sách căn bản của Đạo giáo.
[2] Đạo Đức Kinh, chương 25.
[3] Trích từ Mạnh Tử, Quyển 2.
[4] Tam tự kinh, sách giáo khoa tiểu học cổ truyền Trung Quốc.
[5] Mạnh Tử, Quyển 6.
[6] Karl Marx, “Một đóng góp cho việc phê bình Triết lý của Quyền của Hegel” (A Contribution to the Critique of Hegel's Philosophy of Right.”)
[7] Leon Trotsky (1879-1940), một nhà lý luận, nhà sử học, và lãnh đạo quân đội của cộng sản Nga, người sáng lập Hồng quân Nga. Ông ta bị mật vụ của Stalin ám sát ở thành phố Mexico city ngày 22/8/1940.
[8] Theo Zhu Xi hay Chu Hsi (1130-1200), còn được gọi là Zhu-zi hay Chu-tzu, một nhà Nho hiện đại dưới triều đại nhà Tống, Tiểu học dạy cách ứng xử lễ phép còn Đại học giảng sâu về những nguyên lý cơ bản đằng sau những phép ứng xử đó. Nguồn: Các buổi nói chuyện được phân loại của Sư Phụ Zhu (Zhu Zi Yu Lei), Quyển 7 (Học 1).
[9] Lâm Bưu(1907-1971), một trong những người lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, dưới thời Mao Trạch Đông là một Ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc, Phó Chủ tịch (1958) và Bộ trưởng Quốc phòng (1959). Lâm được coi là kiến trúc sư của Đại Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Lâm được chỉ định là người kế nhiệm Mao năm 1966 nhưng bị thất sủng năm 1970. Cảm nhận được sự thất sủng này, Lâm nghe nói có liên quan đến một cuộc đảo chính và cố trốn thoát sang Liên-xô sau khi âm mưu đảo chính bị bại lộ. Trong lúc chạy trốn để khỏi bị truy tố, máy bay của ông ta bị rơi ở Mông Cổ, làm ông ta bị chết.
[10] Trích từ “Buổi nói chuyện tại diễn đàn Diên An về Văn học và Nghệ thuật” của Mao (1942).
[11] Bệnh sán máng là một căn bệnh do những con sán sống ký sinh gây ra. Sự nhiễm bệnh xảy ra khi tiếp xúc với nước lã bị nhiễm sán. Các triệu chứng thông thường bao gồm sốt, ớn lạnh, ho và đau cơ. Trường hợp nặng hơn, bệnh có thể làm hại gan, ruột, phổi và bàng quang, và trong các trường hợp hiếm hoi, bị lên cơn, tê liệt, hoặc viêm tủy sống.
[12] Đạo Đức Kinh, Chương 2.
[13] “cân” là một đơn vị đo khối lượng của Trung Quốc, một cân ta bằng nửa cân tây (kg); “mẫu” là đơn vị đo diện tích đất của Trung Quốc, 1 mẫu = 0,165 mẫu Anh.
[14] Dịch bởi dịch giả.
[15] Ngọc HoàngLong Vương là hai nhân vật thần thoại của Trung Quốc. Ngọc Hoàng, hay Ngọc Hoàng Đại Đế (Thượng Đế) và được các con và thần dân gọi thân mật là Ông Trời, là người trị vì trên Thiên quốc và là một trong những vị thần quan trọng nhất của các vị thần của Trung Quốc. Long Vương là vị thần trị vì bốn biển. Mỗi biển, tương ứng với một trong các phương chính (Đông Tây Nam Bắc – dịch giả) được trị vì bởi một Long Vương. Các Long Vương sống trong các lâu đài pha lê, có các lính tôm và tướng cua canh gác. Ngoài việc trị vì các biển, các Long Vương còn điều khiển mây và mưa. Long Vương của Biển Đông nghe nói có lãnh thổ rộng lớn nhất.
[16] The Complete I Ching, do Alfred Huang dịch. Rochester, VT: Inner Traditions (1998).
[17] Kinh Thánh, Matthew, 22:21.
[13] Vô sản lưu manh, dịch nôm na là công nhân nghèo đói. Danh từ này dùng để chỉ giai cấp bao gồm các phần tử vô gia cư, suy đồi hoặc xã hội đen là một bộ phận dân cư ở các trung tâm công nghiệp. Nó bao gồm những người ăn xin, gái điếm, kẻ cướp, những kẻ tống tiền, những kẻ lừa đảo, những tên trộm vặt, những kẻ du thủ du thực, những người thất nghiệp thường xuyên hoặc không thể có việc làm, những người bị các ngành công nghiệp sa thải, và đủ các loại phần tử thoái hóa, suy đồi và hạ lưu. Từ này do Mác đưa ra trong “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, 1848-1850.
[14] Ủy ban Yêu nước Tam tự (hay Nhà thờ yêu nước Tam tự) là một “sáng kiến” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.  Tam tự nghĩa là “tự trị, tự cung và tự phổ biến”. Ủy ban yêu nước Tam tự đòi hỏi những người Công giáo Trung Quốc cắt đứt liên hệ với những người Công giáo ở ngoài Trung Quốc. Nó kiểm soát tất cả những nhà thờ chính thức ở Trung Quốc. Những nhà thờ nào không gia nhập Ủy ban này đều bị buộc phải đóng cửa. Những người lãnh đạo và tín đồ của những nhà thờ độc lập bị đàn áp và thường bị xử tù.
[20] John Pomfret. “Giang cảnh cáo Mỹ – Lãnh đạo Trung Quốc nói việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan sẽ thúc đẩy chạy đua vũ trang.” Tờ báo Washington Post, 24/3/2001.

Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN


No comments:

Post a Comment