CỬU
BÌNH
TẬP SÁCH DO CHÍNH NGƯỜI TRUNG QUỐC VIẾT VỀ CHÍNH HỌ.
Kể từ khi phát hành, Cửu Bình đã góp phần thức tỉnh được người dân sống dưới chế độ Cộng Sản Trung Quốc và tính đến nay đã có hơn 90 triệu người đăng tuyên bố thoái xuất khỏi các tổ chức của Đảng Cộng Sản (Đảng – Đoàn – Đội) trên trang web thoái đảng của Epochtimes. Chúng tôi xin được giới thiệu loạt phim tài liệu đến quý độc giả.
9
video Bình Luận Về Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Bình luận 1: Đảng Cộng Sản là gìhttp://www.youtube.com/watch?v=TcdkbFNn5m4
Bình luận 2: Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất sinh như thế nào
http://www.youtube.com/watch?v=otHPNk-TUzM
Bình luận 3: Chính quyền bạo lực của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=gBCjeOn53Sg
Bình luận 4: Đảng Cộng Sản - một lực lượng phản vũ trụ
http://www.youtube.com/watch?v=mgHJ9Bh_usk
Bình luận 5: Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc lợi dụng nhau đàn áp Pháp Luân Công
http://www.youtube.com/watch?v=p1BsIXr9nc8
Bình luận 6: Đảng Cộng Sản Trung Quốc phá hoại văn hóa dân tộc
http://www.youtube.com/watch?v=NQrBG_AKN8A
Bình luận 7: Lịch sử giết chóc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=CKcWFH8ejl4
Bình luận 8: Bản chất tà giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=LBBYOyfoxyU
Bình luận 9: Bản tính lưu manh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=d_HNAggSEEA
Chín bài bình luận về Đảng Cộng sản". Cuốn sách làm rúng động nhân dân Trung Quốc. Ngay ở chính Trung Quốc cuốn sách không được bán tự do - nó bị chính quyền cấm, tuy nhiên các phiên bản của tập các bài báo phân tích này được được truyền tay hàng chục lần sau mỗi lần đọc trong dân chúng.
Vào tháng này,
cuốn sách tròn tám năm kể từ khi "Chín bài bình luận" (Cửu Bình) được
công bố trên báo quốc tế Epoch Times. Nhiều người dân Trung Quốc nói rằng nhờ
cuốn sách này họ có cơ hội nhìn lại lịch sử hiện đại và những viễn cảnh tương
lai của Trung Quốc về nguyên tắc theo cách mới.
Jing Chu,
nhà văn Trung Quốc
"Lịch sử [của Trung Quốc] và thực tế của nó đã không được hệ thống hóa. Không có gì vạch trần được bản chất của đảng cộng sản, như "Cửu Bình" đã làm được điều này. Đây là một cuốn sách tuyệt vời. Sau khi đọc nó, mọi người bị shok. Cuốn sách giúp hiểu thêm nhiều điều mọi cách rõ ràng nhất".
Lấy các sự kiện
làm cơ sở, "Cửu Bình" tiến hành một phân tích triệt để và rành mạch
tác động mà đảng cộng sản Trung Quốc trong 60 năm cai trị của nó đã gây nên đối
với người dân Trung Quốc. Trong đó - kết quả của sự đàn áp các giá trị truyền
thống đạo đức của đảng và thay thế chúng bởi ý thức hệ cộng sản, và cũng như
những hậu quả của điều này trong xã hội Trung Quốc đương đại như thế nào.
"Ý thức hệ
của Mao Trạch Đông đã mang lại cho Trung Quốc máu, nước mắt và những bất hạnh. Nó
biến Trung Quốc trở thành mảnh đất của sự lừa dối và đạo đức giả ... Người ta
không nói sự thật, họ nói dối nhau. Điều này đã dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn giá
trị tâm linh và đạo đức".
Nhà phân tích về
Trung Quốc Lee Shantszyan nói rằng "Cửu Bình" đã giúp ông hiểu được tại
sao ĐCS thường nói về cải cách, nhưng trong thực tế không thể thay đổi.
Shantszyan
Lee, nhà phân tích về Trung Quốc:
"Để tồn tại, đảng cộng sản thay đổi hiến pháp của mình. Khi đảng làm một cái gì đó, và tất cả mọi người hiểu rằng đó là điều tồi tệ, đảng loại khỏi mình một hoặc hai thành viên của đảng, đổ lỗi cho họ. Để tồn tại, đảng tìm những con dê làm vật tế thần".
Theo ông Li, tương
lai của Trung Quốc chỉ có thể không có chế độ cộng sản.
"Nếu khôi
phục lại nền văn hóa truyền thống đích thực, những tư tưởng cộng sản sẽ bị bải
bỏ. Hai điều này không thể cùng tồn tại. Tuy nhiên, không có văn hóa và các giá
trị truyền thống, Trung Quốc sẽ không có tương lai. Vì vậy, để có một tương lai
ở Trung Quốc, chúng ta cần phải từ bỏ các giá trị của đảng cộng sản. "
Phiên bản tiếng
Trung của tờ báo Epoch Times lần đầu tiên công bố "Cửu Bình" vào ngày
19 tháng 11 2004. Sau đó, trên cơ sở của cuốn sách này đài truyền hình NTD đã phát
bộ phim tài liệu.
---
Xem:
Bài bình luận số 1
Đảng cộng sản là gì?
Lời mở đầu
Bóng của Mao: Người mẹ và đứa con bước qua cổng viện Bảo tàng Quân đội của Bắc Kinh, được đón chào bằng bức tượng lớn của cố lãnh đạo độc tài Trung Quốc Mao Trạch Đông. (Stephen Shaver/AFP/Getty Images) |
Hơn 5000 năm qua, dân tộc Trung Hoa được nuôi dưỡng bởi châu thổ sông Hoàng Hà và sông Trường Giang, gây dựng giống nòi, trải qua bao nhiêu triều đại, mới thiết lập được một nền văn minh rực rỡ, sáng lạn. Trong suốt thời gian có thành lập, có sụp đổ, có hưng thịnh, có suy vong, những câu chuyện hào hùng xẩy ra trong sóng gió bao la của những cuộc đổi thay đã làm lòng người xúc động.
Năm 1840, các
sử gia nhìn nhận rằng
đó là cái mốc đánh
dấu khởi điểm của lịch sử Trung
Quốc đang chuyển từ thế kỷ Trung Cổ
đi sang hiện đại hóa. Bắt đầu từ
đó, nền văn minh Trung Hoa đại khái đã
trải qua bốn lần ứng phó cho các trận sóng bão
khiêu chiến. Ba trận sóng bão khiêu chiến đầu tiên
là: Liên quân Anh-Pháp xâm chiếm Bắc Kinh hồi đầu
thập niên 1860; chiến tranh Trung Quốc-Nhật Bản
vào năm Giáp Ngọ 1894, và chiến tranh Nga-Nhật ở
vùng đông bắc Trung Quốc vào năm 1906. Đối
với 3 cuộc khiêu
chiến này, Trung Quốc đã đáp ứng bằng phong
trào Tây hóa với sự nhập cảng hàng hóa hiện
đại và vũ khí, cùng với sự cải cách chế
độ ( tức là ban hành Hiến Pháp sửa đổi
năm Mậu Tuất 1898 [1], và Đại Thanh Lập
Hiến vào cuối đời nhà Đại Thanh ), và sau
đó là Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 [2].
Sau Thế
Chiến Thứ Nhất, mặc dù thuộc phe thắng
trận, nhưng lợi ích của Trung Quốc vẫn không
được những cường quốc trông coi
đến. Thời bấy giờ, nhiều người
Trung Hoa cho rằng ba lần ứng phó đầu cho các
trận sóng bão nói trên đã hoàn toàn thất bại. Do
vậy cuộc Vận Động mùng 4 tháng 5 [3] xuất
hiện, từ đó mà bắt đầu lần ứng
phó thứ tư cho các trận sóng bão này, mà cũng là sự
đáp ứng cuối cùng trên một bình diện; bình diện văn hóa
được hoàn toàn chuyển sang ‘Tây hoá'. Theo sau đó,
là cách mạng cực đoan bắt đầu, tức là
sự vận động cho chủ nghĩa cộng
sản.
Trọng tâm của bài bình luận
này là nói về kết quả của một sự ứng
phó sóng bão cuối cùng của Trung Quốc đối
với cuộc vận động cho chủ nghĩa
cộng sản và Đảng cộng sản. Nhìn vào
lịch sử 160 năm vừa qua của Trung Quốc
để phân tích xem, với gần 100 triệu
người dân thường bị chết mờ ám,
hầu hết tất cả văn hóa và văn minh
truyền thống của dân
tộc Trung Quốc bị tàn phá, dù đó là chọn lựa
của người dân Trung Hoa hay là bị bên ngoài
cưỡng bức, thì kết quả thực sự là
như thế nào?
I. Dùng khủng bố bằng bạo lực để chiếm đoạt và duy trì chính quyền
“Bọn Cộng
sản chẳng thèm che giấu quan điểm và ý
đồ của bọn họ. Bọn chúng công khai tuyên
bố rằng mục đích của chúng chỉ có thể
đạt được bằng cách dùng bạo lực
lật đổ toàn bộ chế độ xã hội
hiện tại”[4], đoạn cuối cùng bản Tuyên
ngôn của Cộng Sản
kết luận như thế. Bạo lực là
thủ đoạn mà Đảng cộng sản dùng
để cướp đoạt chính quyền, và cũng là
thủ đoạn duy nhất. Đó là cái nhân di truyền
đầu tiên được quyết định từ
ngày Đảng cộng sản chào đời cho
đến hôm nay.
Thực ra, Đảng cộng sản
đầu tiên trên thế giới, phải nhiều năm
sau khi Karl Marx qua đời mới được thành
lập. Năm thứ hai sau Cách mạng Tháng Mười
của Nga (1917), Đảng cộng sản Nga (Bôn-sê-vích)
đã chính thức khai sinh, đó là tiền thân của
Đảng cộng sản Liên Xô sau này. Đảng
cộng sản này sinh ra trong sự thực hành bạo
lực đấu tranh vũ trang đối với các
" kẻ thù giai cấp", đồng thời đã
liên tục dùng bạo lực để đàn áp những
người của chính mình và những người dân
thường để duy trì sự tồn tại của
Đảng. Riêng trong cuộc thanh trừ nội bộ
của Đảng cộng sản thời Stalin vào
những năm 1930, Đảng cộng sản Liên Xô đã
tàn sát hơn 20 triệu
người, những người mà họ gán cho tội
danh như ‘gián điệp’, hoặc ‘phản quốc’, và
bất cứ ai không đồng ý kiến.
Đảng
cộng sản Trung Quốc, khi thành lập chính là một
chi bộ của Cộng sản Quốc tế Đệ
Tam mà chịu sự khống chế của Đảng
cộng sản Liên Xô, nên tự nhiên đã kế thừa
loại truyền thống bạo lực này. Riêng trong
thời kỳ nội chiến giữa Đảng Cộng
Sản và Quốc dân Đảng của Trung Quốc,
từ năm 1927 đến năm 1936, dân số tỉnh
Giang Tây đã giảm từ hơn 20 triệu xuống khoảng 10 triệu. Chỉ riêng
con số ấy đã nói lên sự thiệt hại mà
Đảng cộng sản Trung Quốc gây ra bằng
bạo lực.
Nếu như nói
rằng, bạo lực có thể không tránh khỏi trong
chiến tranh của chính quyền khủng bố, thì trên
thế giới chưa bao giờ có một chính quyền nào
mà trong thời hòa bình , vẫn cứ tiếp tục yêu
chuộng bạo lực như
Đảng Cộng sản. Tính từ năm 1949
đến nay, số người dân Trung Quốc bị tàn
sát do bạo lực của Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã vượt quá số người chết
trong thời chiến từ năm 1927 đến năm
1949.
Một trong
những ví dụ điển hình về thành tích khát máu
của Đảng Cộng sản
Trung Quốc mà ai cũng biết, là sự ủng
hộ toàn lực vũ trang cho Khờ-me Đỏ. Sau thời Khờ-me Đỏ
nắm quyền, một phần tư người dân
Căm-Bốt, trong đó đại đa số là
người di dân Hoa Kiều và con cháu của họ, đã
bị tàn sát. Đến tận hôm nay chính quyền
Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn không
ngừng ngăn cản cộng đồng quốc tế
đưa Khờ-me Đỏ ra công lý, vì mục đích
đương nhiên là muốn che đậy vai trò lừng
danh của Đảng cộng sản Trung Quốc trong
cuộc diệt chủng ấy.
Điều
tất yếu phải nêu ra là những chính quyền tàn
bạo và các căn cứ võ trang tàn bạo nhất trên
thế giới hiện nay đều có quan hệ mật
thiết với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Không chỉ riêng có Khờ-me Đỏ của
Căm-Bốt, mà còn có Đảng cộng sản Nam
Dương, Cộng sản Phi luật Tân, Cộng sản
Mã-lai, Cộng Sản Việt Nam, Cộng Sản Miến
Điện, Cộng Sản Lào,
Đảng Cộng sản Nê-pal, vân vân… tất cả
được thành lập là đều do bàn tay của
Đảng cộng sản Trung Quốc ủng hộ,
chống đỡ. Nhiều lãnh tụ của các
Đảng cộng sản này là người Trung Hoa, mà
một số trong đó giờ đây vẫn đang
ẩn nấp tại Trung Quốc.
Hơn nữa
trên thế giới, lấy chủ nghĩa Mao Trạch
Đông làm tôn chỉ cho Đảng cộng sản còn có
Đường Quang Minh của Nam Phi, Hồng Quân của
Nhật bản. Những tổ chức tàn bạo như
vậy đều bị cộng đồng thế
giới phỉ nhổ và lên án.
Một trong
những lý luận ban đầu mà chủ nghĩa cộng
sản dùng là Tiến Hoá Luận. Đảng cộng
sản dùng sự cạnh tranh giữa các loài, để suy
diễn ra đấu tranh giai cấp trong sự tiến hóa
của xã hội. Họ cho rằng đấu tranh giai
cấp là động lực duy nhất giúp xã hội phát
triển tiến bộ. Bởi vậy "Đấu
tranh" đã trở thành "Tín Ngưỡng" chủ
yếu để duy trì sự sinh tồn của chính
quyền Đảng cộng sản. Một trong những câu
nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông — “ Với tám
trăm triệu người, làm sao mà không đấu tranh”
— đã nói trắng ra cái lý luận để sinh tồn
này.
Mao Trạch
Đông còn có một câu nổi tiếng tương
tự rằng "
Đại Cách mạng Văn hoá cần phải xẩy ra mỗi lần trong 7 hay 8
năm”[5]. Sử dụng bạo lực nhiều lần
lặp lại là một trong những thủ đoạn
quan trọng bậc nhất của chính quyền
Đảng cộng sản nhằm duy trì quyền thống
trị. Mục đích của
bạo lực là tạo ra sự sợ hãi. Mỗi
lần vận động đấu tranh đều là
một lần Đảng Cộng sản huấn luyện
sự khủng hoảng tinh thần của người
dân, làm cho nhân dân run sợ trong lòng mà khuất phục, làm
họ dần dần trở thành nô lệ của sợ
hãi.
Hiện nay
chủ nghĩa khủng bố đã biến thành kẻ thù
số một của toàn thể thế giới tự do và
văn minh. Nhưng Đảng Cộng sản không hề
từ bỏ chủ nghĩa khủng bố bằng
bạo lực, mà trái lại còn triển khai sâu rộng, lâu
dài hơn nữa dựa vào bộ máy chính quyền đương
thời. Nó đã có quy mô lớn hơn, có sức tàn phá
mạnh mẽ hơn. Ngày nay đã sang thế kỷ 21
rồi, chúng ta không thể quên được tính chất
di truyền này của Đảng cộng sản, bởi
vì đến lúc thích hợp, điều này nhất
định đối với tương lai của
Đảng Cộng Sản sẽ có tác dụng quyết
định cho nó hướng đi như thế nào.
II. Dùng lời dối trá làm bàn đạp ngon trớn cho bạo lực
Trình độ
văn minh của nhân loại có thể được
đo lường qua mức độ mà bạo lực
được sử dụng trong chế độ. Xã
hội của chính quyền Cộng sản, hiển nhiên là
một lần nữa bước lùi lại rất xa
với văn minh của nhân loại. Nhưng tiếc thay,
Đảng Cộng Sản lại có thể thành công trong
sự việc người đời tưởng chúng
đang trên đà tiến bộ. Những người này
cho rằng, sử dụng bạo lực, không những
đưa đến sự tiến bộ của xã
hội mà còn là một quá trình tất yếu và tự nhiên.
Sự chấp nhận bạo
lực này, phải nói
rằng, chính là kết quả của việc vận
dụng lời dối trá lường gạt có một
không hai của Đảng cộng sản. Vì vậy lường
gạt và dối trá là
một cái nhân di truyền khác của Đảng cộng sản.
“Từ thủa
bé thơ, chúng ta đều thấy nước Mỹ là
một quốc gia đặc biệt đáng mến. Chúng
ta tin điều này, một phần vì trên thực tế
nước Mỹ chưa từng chiếm cứ Trung
Quốc, cũng chưa hề phát động chiến tranh
với Trung Quốc. Suy nghĩ sâu hơn nữa, thì người Trung Quốc luôn mang
ấn tượng tốt đẹp về Mỹ
quốc, chính vì dân tính của người dân Mỹ phát
xuất ra phong độ dân chủ và một tâm rộng
lượng.”
Đó là một
đoạn văn trích trong xã luận đăng ngày 4 tháng
7 năm 1947 trên ‘Tân Hoa nhật
báo’ (tờ báo chính thức
của Đảng cộng sản Trung Quốc). Nhưng
chỉ vỏn vẹn 3 năm sau đó, Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã gởi quân đến
đánh nhau với quân Mỹ tại Bắc Hàn, và
người dân Mỹ đã được Đảng
Cộng sản Trung Quốc mô tả như những
phần tử của chủ nghĩa đế quốc tà
ác nhất trên thế giới. Bất kể người
Trung Quốc nào đến từ Trung Hoa Đại
Lục, nếu đọc được bài xã luận này,
viết 50 năm trước đó của Đảng
cộng sản Trung Quốc, cũng phải cảm
thấy vô cùng kinh ngạc. Đảng cộng sản Trung
Quốc đã cấm ngặt tất cả xuất bản
thuộc loại văn chương tương tự có
liên quan đến bài xã luận như thế, mà chỉ
phát hành các bài đã được Đảng viết
lại.
Từ ngày
nắm quyền, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn
diễn đi diễn lại thủ đoạn
tương tự trong mỗi một phong trào , gồm có
cuộc thanh trừng Phản-cách mạng (1950-1953), công ty
quốc gia và tư nhân Hợp Doanh (1954-1957), thanh trừng
phe Cánh Hữu (1957), Đại Cách mạng Văn hoá
(1966-1976), thảm sát sinh viên học sinh ngày 4 tháng 6 năm
1989 tại Thiên An Môn, và gần đây nhất là cuộc
đàn áp Pháp Luân Công từ năm 1999. Tai tiếng nhất
phải kể đến cuộc đàn áp phần tử
trí thức năm 1957. Đảng cộng sản Trung
Quốc kêu gọi các phần tử trí thức phát biểu
ý kiến của họ, rồi sau đó lấy ngay
những bài họ viết làm ‘bằng chứng’ để
khép họ vào tội ‘theo Cánh Hữu’ để thanh
trừng họ. Đến khi bị người ta phê phán
tại sao lại dùng “âm mưu” như thế, thì Mao
Trạch Đông nói thẳng: “Đó không phải âm mưu,
mà là ‘dương’ mưu — tao làm công khai đấy chứ.”
Lường
gạt và dối trá
đóng vai trò cực kỳ đắc lực giúp
Đảng cộng sản chiếm đoạt và bảo
vệ quyền lực. Từ xưa đến nay,
niềm tin tưởng quan trọng nhất của các
phần tử trí thức Trung Quốc vẫn là lịch
sử của mình. Trung Quốc là một quốc gia có lịch
sử được ghi chép lâu đời nhất, và hoàn
chỉnh nhất trên thế giới. Người Trung Hoa
vẫn lấy lịch sử làm tấm gương
phản chiếu để phán đoán hiện thực,
thậm chí còn noi theo những nhân vật mẫu mực
trong lịch sử để tự răn dạy bản
thân và nâng cao đạo đức. Vì thế, bóp méo,
sửa đổi và che giấu sự thật của
lịch sử cũng là thủ đoạn trọng
yếu để thống trị của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc. Các giai đoạn lịch
sử từ thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa
(770-221 trước Công Nguyên) cho đến Cách mạng
Văn hoá, đều bị Đảng cộng sản
Trung Quốc không ngừng che giấu, bóp méo và sửa đổi chuyện
kể lại bằng
những thủ doạn tuyên truyền lừa mị.
Lịch sử trong các sách mới xuất bản suốt 55
năm qua (từ 1949) đều bị sửa lại.
Tất cả những cố gắng để khôi phục
lại lịch sử nguyên gốc đều bị
Đảng Cộng sản Trung Quốc cấm ngặt và
diệt trừ.
Khi bạo lực không đủ
mạnh để duy trì quyền lực và che đậy
các sửa chữa , thì lường gạt và dối trá
lập tức được Đảng cộng sản
dùng đến. Dối trá là một mặt khác của bạo lực, và cũng là cái bàn
đạp ngon trớn cho bạo lực.
Phải nhìn
nhận rằng, dối trá và lường gạt không
phải do Đảng cộng sản phát minh chế
tạo ra, chẳng qua chỉ là Đảng cộng sản
sử dụng thủ đoạn lưu manh tự cổ
chí kim này một cách công khai mà không biết hổ thẹn mà
thôi. Đảng cộng sản Trung Quốc hứa hẹn
đất đai cho nông dân, hứa nhà máy cho công nhân,
hứa tự do và dân chủ cho các phần tử trí
thức, hứa hẹn hoà bình. Nhưng đến nay không
hề có lời hứa nào được thực hiện.
Một thế hệ người Trung Quốc bị
lường gạt và đã qua đời, lại một
thế hệ khác của người Trung Quốc nay
cũng đang bị Đảng cộng sản mê hoặc
bằng bưng bít thông tin và tuyên truyền lường
gạt. Đây chẳng phải là niềm đau
thương lớn nhất và cũng là nỗi bất
hạnh nhất của dân tộc Trung Hoa hay sao?
III. Lập trường nguyên tắc biến đổi không ngừng
Trong cuộc
biện luận tranh cử tổng thống Mỹ năm
2004 vừa qua, có một ứng cử viên phát biểu
rằng, người ta có thể thay đổi chiến
lược về vài vấn đề khi cần thiết,
nhưng họ không thể, nói chung, chuyển đổi “
niềm tin” hoặc “nguyên tắc” của vấn đề
mà họ nhìn nhận, nếu không người này là
người “không thể tin được”[6]. Câu nói này
thực sự làm rõ ràng một tính chất.
Đảng
cộng sản chính là điển hình về mặt này.
Lấy Đảng cộng sản Trung Quốc làm ví
dụ, thì từ ngày thành lập 80 năm trước
đến nay, đã trải qua 16 đại hội với
đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc, mà cũng đã thay đổi, sửa
chữa luật lệ của Đảng 16 lần. Trong 50
năm sau khi chiếm đoạt chính quyền ,
Đảng cộng sản Trung Quốc đã có 5 lần
sửa đổi lớn Hiến Pháp của Trung Quốc.
Lý tưởng
của Đảng cộng sản là sự công bằng
của xã hội, để rồi cuối cùng thực
hiện theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng
dưới sự thống trị của Đảng
cộng sản, Trung Quốc hôm nay là một trong những
quốc gia phân biệt giầu nghèo nhất trên thế
giới. Rất nhiều đảng viên Cộng sản
giàu sụ, trong khi quốc gia có khoảng 800 triệu
người dân đang sống trong cảnh bần cùng.
Tư
tưởng của Đảng cộng sản Trung
Quốc ban đầu là chủ nghĩa Karl Marx-Lenin. Sau
đó nhồi thêm tư tưởng của Mao Trạch
Đông. Rồi đắp thêm vào đó là lý luận của
Đặng Tiểu Bình. Và giờ đây lại có
thuyết “tam đại biểu” của Giang Trạch Dân
được gắn lên nữa. Thực ra ngay tư
tưởng và chủ nghĩa của Mác-Lê và Mao so với
lý luận của họ Đặng và thuyết 'Tam
đại biểu' của họ Giang thì đã khác nhau
như trâu với ngựa, không những thế chúng còn trái
lại và cách xa nhau vạn dặm, vậy mà Đảng
cộng sản Trung Quốc, một khi thổi phồng
chúng lên, rồi đặt bệ tôn thờ để
quỳ lạy các thứ ấy cùng nhau được, thì
sự việc này quả thực tự cổ chí kim
chỉ thấy có một.
Các lý luận phát
sinh diễn tiến của Đảng Cộng sản
phần lớn là trái ngược với nhau. Đảng cộng sản
chưa hề có tổ quốc, mà lại xây dựng
thuyết 'toàn cầu đại đồng', đến
hôm nay lại là chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Ban đầu Đảng tịch thu mọi tài sản
tư hữu, đả đảo giai cấp tư sản
bóc lột, rồi đến hôm nay chính sách của
Đảng cộng sản là kết nạp các nhà tư
bản vào Đảng. Nguyên tắc cơ bản của
Đảng cộng sản đổi trắng thay đen
thật chớp nhoáng khỏi cần nói. Trên lịch sử
lập nghiệp và duy trì chính quyền, hôm nay Đảng
sẵn sàng vứt bỏ nguyên tắc đang
được tuyên truyền hôm qua, và ngày mai, có thể
Đảng lại có một lập trường nguyên
tắc mới. Thực ra dù có biến đổi thế
nào đi nữa, thì mục tiêu rõ ràng, chắc chắn của
Đảng cộng sản vẫn là tước
đoạt và duy trì chính quyền, và hưởng thụ
quyền lực trên sự lũng đoạn tuyệt
đối đến xã hội.
Trong lịch
sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc,
đã có hơn mười phen đấu tranh về
đường lối được coi là ‘sống
chết’. Thực ra những phen đấu tranh đó không
có gì khác hơn là những đợt thanh trừng nội
bộ sau mỗi lần Đảng cộng sản thay
đổi nguyên tắc và lập trường.
Cần phải nói rõ là, mỗi
một lần lập trường nguyên tắc
được thay đổi là đều xẩy ra khi
Đảng cộng sản Trung Quốc đối diện
với nguy cơ khủng
hoảng không tránh khỏi mà có liên quan đến việc
hợp pháp hoá và vấn đề sống còn của
Đảng. Lần nào Đảng cộng sản thỏa
thuận nhượng bộ , như là — hợp tác với
Quốc Dân Đảng, ngoại giao theo hướng thân
Mỹ, cải cách và cởi mở kinh tế, đẩy
mạnh chủ nghĩa dân tộc —cũng đều vì
muốn chiếm đoạt
hoặc củng cố vững chắc quyền
lực. Cái chu kỳ tuần hoàn của mỗi một
lần "Đàn áp -
Vuốt ve" cũng không phải không nguyên do mà phát sinh
Tây phương
có câu ngạn ngữ rằng: chân lý là cần phải kiên
trì không đổi, còn dối trá là vĩnh viễn biến
hoá. Quả là rất đúng!
IV. Lấy ‘đảng tính’ để thay thế và tiêu diệt 'nhân tính'
Đảng
cộng sản Trung Quốc là đảng phái chính trị
theo thể thức của Lê-nin. Từ ngày thành lập,
đã xác lập ra ba đường lối lớn
để xây dựng cho Đảng: đường
lối chính trị, đường lối tư
tưởng, và đường lối tổ chức.
Diễn đạt nôm na cho dễ hình dung là thế này:
đường lối tư tưởng là cơ sở
triết học của Đảng cộng sản,
đường lối chính trị tức là xác lập
mục tiêu, rồi sau đó lấy hình thức tổ
chức nghiêm nhặt để thực hiện mục tiêu
này .
Đảng viên
của Đảng cộng sản cho đến nhân dân
của xã hội cộng sản , đòi hỏi phải
tuyệt đối phục tùng. Đó chính là toàn bộ
nội dung của đường lối tổ chức.
Ở Trung
Quốc, người ta nói chung đều biết
đến hai đặc tính quan trọng về tư cách
con người của một đảng viên Đảng
cộng sản. Tại gia đình và hoàn cảnh riêng tư,
một đảng viên Đảng Cộng sản vẫn
có đầy đủ ‘nhân tính’ như một con
người bình thường, buồn vui hờn giận,
có ưu điểm và khuyết điểm của con người. Họ có
thể là cha mẹ, là vợ chồng, là bè bạn… Nhưng
đặt lên trên những nhân tính này, chính là ‘đảng
tính’, mà được nhấn mạnh nhất, của
Đảng cộng sản. Mà 'đảng tính', theo đòi
hỏi của Đảng cộng sản, là vĩnh
viễn vượt trên 'nhân tính' thường tình của
con người . 'Nhân tính' trở thành tương đối,
có thể đổi thay, còn 'đảng tính’ là tuyệt
đối, và không thể hoài nghi hay khiêu chiến.
Trong thời
kỳ Đại Cách mạng Văn hoá, cha con giết nhau,
vợ chồng đấu nhau, thầy trò phản nhau,
mẹ con tố cáo nhau như kẻ thù,… là những
việc thường xảy ra trong quần chúng. Đó là
tác dụng của 'đảng tính' mà nên. Thời kỳ
đầu khi Đảng cộng sản nắm quyền,
có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng cộng
sản Trung Quốc bó tay không cứu nổi người
nhà khi người nhà của họ bị liệt kê vào giai
cấp thù địch và bị đàn áp. Như thế
cũng là tác dụng của đảng tính.
‘Đảng tính’
là kết quả của những huấn luyện
trường kỳ do Đảng cộng sản tổ
chức. Loại huấn luyện này được
thực hiện ngay từ thủa nhi đồng một
cách có hệ thống. Tại các trường mẫu giáo
ở Trung Quốc, trẻ em được giáo dục
bằng khen thưởng khi trả lời đúng, mà câu
trả lời thường không theo luân thường
đạo lý và nhân tính. Từ tiểu học, trung học,
cho đến đại học, học sinh phải
học môn chính trị, tuân theo hệ thống tư
tưởng của Đảng cộng sản. Ai không
học theo và không trả lời đúng theo tiêu chuẩn
của Đảng đề ra thì không thể tốt
nghiệp.
Một
đảng viên, bất kể ý kiến riêng tư của
mình như thế nào, nhưng một khi bày tỏ thái
độ với cương vị của một
đảng viên, thì tất nhiên phải giữ vững
nhất trí với đường lối 'tổ chức' của
Đảng cộng sản. Với tổ chức nhất
quán từ trên xuống dưới, Đảng cộng
sản Trung Quốc sau cùng thống nhất một tập
đoàn to tướng, nó tựa như một điểm
cao nhất của kim tự tháp, với điều
khiển tuyệt đối từ trên xuống. Đó là
đặc tính kết cấu trọng yếu nhất
của chính quyền Đảng cộng sản, là sự
phục tùng tuyệt đối.
Ngày nay
Đảng cộng sản Trung Quốc đã biến thái
trở thành một tập đoàn chính trị chỉ
biết đấu tranh để bảo trì lợi ích
bản thân. Nó từ lâu đã không còn theo đuổi
mục tiêu của chủ
nghĩa cộng sản nữa. Nhưng nguyên tắc tổ
chức của Đảng cộng sản không hề thay
đổi , sự đòi hỏi phục tùng tuyệt
đối của 'đảng tính' cũng không hề
biến đổi . Mà Đảng này, tự đặt
mình cao hơn hết thảy, cao hơn nhân dân, cao hơn
quốc gia, cao hơn pháp luật; 'đảng tính'
được đặt cao hơn phương thức tồn
tại của nhân loại, hơn cả 'nhân tính' và
điều tự nhiên. Do đó, nó sẵn sàng trừ
sạch tất cả tổ chức hoặc cá nhân nào mà nó
cho rằng có thể nguy hại đến quyền lực
của Đảng hoặc lãnh tụ của Đảng,
không phân biệt đó là thường dân hoặc lãnh
đạo cao cấp của Đảng cộng sản.
V. Lũ quỷ tà phản tự nhiên và phản nhân tính
Vạn vật trong trời đất đều phải trải qua mỗi chu kỳ của mạng sống bao gồm sinh ra, trưởng thành, suy yếu rồi diệt vong.
Không giống
như chính quyền của Đảng cộng sản,
tất cả các xã hội của chính quyền mà không
cộng sản, không kể là chuyên chế hay cực
quyền đến mấy, xã hội nào cũng đều
có một bộ phận của những tổ chức
tự phát triển và có các thành phần tự chủ. Xã
hội của Trung Quốc cổ đại, trên thực
chất, là thuận theo kết cấu nhị nguyên. Nông thôn
cũng có tổ chức tự phát triển với dòng
tộc làm trung tâm, thành thị cũng có tổ chức
tự phát với phường hội ngành nghề làm trung
tâm, còn cơ cấu tổ chức từ trên xuống
của vua quan về cơ bản chỉ quản lý công
việc từ cấp huyện trở lên.
Đến
thời hiện đại, Đức quốc xã — có
thể sánh với Đảng Cộng sản về
mức độ hà khắc và cực quyền chuyên chế
— vẫn cho phép có quyền tư hữu, cho phép người
dân có tài sản riêng. Vậy mà các chính quyền của
Đảng cộng sản đều tiêu diệt sạch
những tổ chức tự phát và các thành phần tự
chủ, để thay vào đó là kết cấu tập
trung quyền lực triệt để, ngay từ trên
xuống dưới.
Nếu nói
rằng loại hình thái xã hội trước là một
loại do từ dưới lên trên, và để cho các
tổ chức tự phát triển, các thành phần
được tự chủ, trạng thái xã hội
được trưởng thành một cách tự nhiên, thì
như vậy chính quyền của Đảng cộng
sản chính là một loại trạng thái xã hội
phản tự nhiên.
Cái lý lẽ kia
của Đảng cộng sản không chứa đựng
tiêu chuẩn nhân tính phổ biến của con người.
Khái niệm lương thiện và tham ác, tiêu chuẩn pháp
luật và nguyên tắc đã bị bóp méo, thay đổi
một cách tuỳ tiện. Luật của cộng sản
cấm sát nhân, ngoại trừ giết những ai mà
Đảng quyết định là kẻ thù. Hiếu cha
kính mẹ là tốt, nhưng nếu cha mẹ bị
loại vào giai cấp thù địch của Đảng thì
không được hiếu thuận. Nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, vốn là tốt, ngoại trừ khi Đảng
không muốn hoặc không bằng lòng . Những tiêu
chuẩn làm người trong truyền thống dân tộc
nay bị Đảng trút đổ và xoá bỏ triệt
để, vì vậy Đảng cộng sản là phản
nhân tính.
Tại tất
cả các xã hội phi cộng sản, người ta nói
chung đều thừa nhận rằng nhân tính Thiện và
Ác đều cùng có mặt thực sự, sau đó dựa vào
các khế ước cố định để
đạt đến sự cân bằng của xã hội.
Tuy nhiên, xã hội cộng sản không thừa nhận nhân
tính, tức là không thừa nhận cái thiện lương
trong nhân tính và cũng không thừa nhận cái tà ác tham lam
trong nhân tính. Theo cách nói của Karl Marx, xoá sạch quan
niệm Thiện và Ác chính là tiêu trừ triệt để
cái kiến trúc thượng tầng[7] của thế
giới cũ.
Đảng
cộng sản không tin tưởng Thần hay
Thượng đế, và cũng không tôn trọng vạn
vật Tự nhiên. “Đấu với Trời, đấu
với Đất, đấu với Người, hân hoan
vô cùng”, đó là khẩu hiệu của Đảng cộng
sản thời Cách mạng văn hoá. Đấu với
Trời, đấu với Đất, tàn sát nhân dân.
Người Trung
Quốc xưa nay vẫn tin rằng con người
phải hoà hợp làm một với trời đất.
Trong Đạo Đức
Kinh, Lão Tử giảng rằng: “Người thuận
theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận
theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên”[8], con
người hoà hợp với tự nhiên là một
trạng thái liên tục của vũ trụ.
Đảng
cộng sản cũng là một loại sinh mạng,
nhưng đó là sinh mạng phản Tự Nhiên, phản
Trời, phản Đất, phản Người, là
một loại sinh linh tà ác phản vũ trụ.
VI. Những biểu hiện đặc biệt của phụ thể tà linh
Tổ chức
của Đảng cộng sản, bản thân nó không bao
giờ có hoạt động sản xuất hay phát minh gì
hết. Một mai, khi nắm được chính quyền,
nó liền gắn bám vào nhân dân để thao túng và khống
chế người dân; khống chế xuống tận
từng đơn vị nhỏ bé nhất trong dân chúng
để giữ gìn quyền lực, đồng thời
là để lũng đoạn tài nguyên của quốc gia
có được từ ban đầu, và để vơ
vét tài vật của xã hội.
Ở Trung
Quốc, tổ chức của Đảng cộng sản
len lỏi đến tất cả mọi nơi, quản
lý tất cả mọi thứ, nhưng nhân dân không có ai
đã từng thấy được hồ sơ thu chi và
dự tính về tài chính của Đảng cộng
sản. Người ta chỉ thấy có báo cáo dự tính
của quốc gia, của chính quyền địa
phương, dự tính của doanh nghiệp,… chứ không
bao giờ có báo cáo thu chi của Đảng. Từ chính
quyền trung ương cho đến uỷ hội nông
thôn, tất cả viên chức hành chính đều bị
xếp vào cấp dưới viên chức của
Đảng, vì thế các nhân viên hành chánh phải tuân theo
chỉ thị từ các tổ chức của Đảng
ngang cấp bực. Chi tiêu của Đảng cộng
sản là do các đơn vị hành chánh cung cấp,
nhưng không có hạng mục thống kê báo cáo.
Cách tổ
chức này của Đảng — giống một con quỷ
nhập xác ăn bám to tướng — đang bám chặt
như hình với bóng vào từng tế bào đơn nguyên
nhỏ nhất của xã hội Trung Quốc, len vào
từng thớ thịt, găm vào từng mạch máu,
để khống chế và thao túng nhân dân cũng như
để rút kiệt tài nguyên xã hội.
Kết cấu ma
quái của một sinh linh phụ thể như vậy trong
lịch sử nhân loại đã từng có lúc xuất
hiện, hoặc có tính cách cục bộ, hoặc có tính cách
nhất thời, nhưng chưa bao giờ tồn tại
vừa triệt để, rộng khắp, vừa kéo dài
quá lâu, ổn định như Đảng cộng
sản.
Cho nên, nông dân
Trung Quốc mới bần cùng nghèo khổ đến
thế. Họ đang cõng trên lưng không chỉ các viên
chức hành chính theo thông lệ, mà còn cả các viên chức
trong tổ chức của Đảng với số
lượng không kém.
Cho nên, công nhân
Trung Quốc lúc nào cũng sợ thất nghiệp, sợ
sa thải đại quy mô đến thế. Các vòi hút máu
của con quỷ ăn bám kia, bao năm nay vẫn len vào để
tham nhũng, hút cạn tiền vốn của những nhà
máy và cơ sở hạ tầng.
Cho nên, phần
tử trí thức của Trung Quốc mới thấy
tự do sao mà xa vời, khó khăn đến thế. Ngoài
cơ cấu hành chính chủ quản ra, thì Đảng
cộng sản đang chụp xuống mọi thứ, len
vào mọi nơi, chỉ để giám sát và khống
chế người dân mà không làm gì cho nhân dân cả.
Con quỷ
nhập xác ăn bám có một đặc điểm
rất biểu hiện đặc biệt: nó bắt
vật chủ phải chịu khống chế tuyệt
đối về tinh thần, từ đó nó mới có
thể thâu nạp năng lượng để duy trì
cuộc sống của mình.
Chính trị
học hiện đại nhìn nhận rằng quyền
lực trong xã hội có từ ba nguồn: bạo lực,
tài phú, và tri thức. Đảng cộng sản lạm
dụng bạo lực trắng trợn và ngang ngược:
cướp đoạt tài sản của dân chúng — và nghiêm
trọng hơn — tước đoạt quyền tự do
ngôn luận và tự do báo chí truyền thông của
người dân, trấn áp tự do ý chí và tinh thần
của người dân, tất cả là để
đạt đến mục tiêu là quyền khống
chế tuyệt đối toàn xã hội. Xét về mặt
này, thì Đảng Cộng Sản Trung Quốc là một con
quỷ nhập xác ăn bám có năng lực khống
chế tinh thần rất chặt chẽ, từ xưa
đến nay chưa từng xuất hiện thứ gì hung
ác hơn chúng trong lịch sử của nhân loại.
VII. Tự kiểm điểm và thoát ra khỏi khống chế của phụ thể Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Trong văn
kiện " Tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản", phần cương lĩnh thứ nhất
của Đảng Cộng Sản, tư tưởng của Karl Marx là như
thế này: “năm 1848, một âm hồn đang lang thang
tại Âu Châu – âm hồn của chủ nghĩa cộng
sản”[9] . Một trăm năm sau, chủ nghĩa
cộng sản đã không chỉ là ‘âm hồn’ nữa, mà
đã có một hình tượng vật chất cụ
thể, hiện diện rõ ràng. ‘Âm hồn’ đó đã
trở thành con quỷ, và trong thế kỷ qua, như
một trận đại dịch lan tràn trên thế
giới, nó đã cướp đi hàng trăm triệu sinh
mạng, cướp đoạt của cải vật
chất, và thậm chí tinh thần và linh hồn, vốn là
tự do của biết bao dân chúng.
Nguyên tắc
căn bản bắt đầu của Đảng
cộng sản là tước đoạt tất cả tài
sản tư hữu, tiến đến sự diệt
tuyệt "giai cấp bóc lột". Thực ra, tài
sản tư hữu thuộc về cá nhân là nền
tảng của tất cả quyền lợi xã hội mà
người dân được hưởng, lắm lúc
cũng là một bộ phận trọng yếu góp phần
gìn giữ văn hoá dân tộc. Người dân một khi
đã bị tước đoạt tài sản riêng tư,
thì tất nhiên, sẽ bị tước đoạt cả
tự do tinh thần và tự do ý chí, rồi cuối cùng
sẽ mất nốt quyền tự do tranh thủ
quyền lợi xã hội và chính trị.
Khi đối
diện trước nguy cơ sụp đổ lên
đầu vào thập niên 1980, Đảng Cộng Sản
Trung Quốc buộc phải tiến hành cải cách kinh
tế, trả lại một số quyền lợi về
tài sản tư hữu cho người dân. Điều
ấy cũng đã tạo nên một lỗ hổng trong
cỗ máy chính quyền của Đảng cộng sản
Trung Quốc, một cỗ máy điều hành vốn
đòi hỏi độ chính xác cao. Đến nay, lỗ
hổng ấy càng ngày càng bị khoét rộng, nhất là vào
tình trạng bây giờ khi mà toàn thể đảng viên
Đảng cộng sản Trung Quốc đều điên
cuồng ganh sức góp nhặt tiền của.
Đó chính là
dấu hiệu cho thấy Đảng cộng sản Trung
Quốc — con quỷ phụ thể, cường bạo và
gian dối, liên tục thay đổi bộ mặt — đã
đến lúc suy vong. Nó run sợ và cảnh giác
trước bất kể khuấy động nhỏ nào.
Hơn bao giờ hết, nó đang điên cuồng góp
nhặt của cải và tăng cường quân cảnh
xiết chặt, điều khiển dân chúng mong kéo dài
mạng sống. Nhưng chính những trạng thái hành
động đó đang khoét sâu thêm lỗ hổng
khủng hoảng, đẩy mạnh nó đến chỗ
nguy cơ.
Trung Quốc ngày
nay, xem như là phồn vinh, nhưng nguy cơ đã
chồng chất trong xã hội đang được
đẩy tới mức độ căng thẳng
chưa từng có. Không thay đổi tập tính của
mình, chính quyền của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc vẫn đang tái diễn những thủ
đoạn xưa cũ dù đã có phần thoả hiệp
và tinh vi hơn — đàn áp biểu tình tại Thiên An Môn ngày 4
tháng 6 năm 1989, đàn áp Pháp Luân Công,… sau đó tìm cách
‘vuốt ve' — tất cả đều là thủ
đoạn để tách một bộ phận thiểu
số dân chúng mà Đảng gọi là ‘kẻ thù’ để
ra oai vũ lực nhằm duy trì thống trị với
hình thức nô dịch bằng khủng bố.
Dân tộc Trung
Hoa trong quá trình hơn một trăm năm phải
đối diện với những thách thức lớn,
đã từ nhập khẩu vũ khí, cải cách chế
độ, cho đến cách mạng cực đoan một
cách kịch liệt. Tổn thất vô số sinh mạng,
đánh mất đi hầu hết văn minh dân tộc
truyền thống, như vậy, hiện tại minh
chứng rằng cách ứng phó này vẫn là một thất
bại. Trong sự phẫn uất, thù hận của toàn
dân, Đảng cộng sản Trung Quốc đã
cướp lấy thời cơ đoạt chính quyền,
và con quỷ nhập xác ăn bám ấy đã khống
chế một dân tộc có truyền thống văn minh lâu
đời bậc nhất thế giới này.
Thấy rõ nguy cơ
của tương lai, đại dân tộc Trung Hoa sẽ
không tránh khỏi phải có quyết định lựa
chọn một lần nữa. Nhưng dù là chọn thế
nào, thì người dân Trung Quốc nhất định
phải tỉnh táo, không nên mơ tưởng Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, mà cần nhận thức
rõ ràng rằng tai nạn
của dân tộc Trung Hoa thì Đảng cộng sản
Trung Quốc không những không giải quyết mà còn gây thêm
tranh chấp, đều làm tình huống trở nên khó
khăn hơn, đều là trợ giúp con quỷ hung ác có
thêm cơ hội chiếm hữu lâu hơn nữa.
Chỉ có cách suy
xét thật tỉnh táo, vứt bỏ tất cả
những ảo ảnh, cương quyết không để
cho thù hận và sự mưu cầu lợi ích cá nhân làm
ảnh hưởng, thì chúng ta mới có thể thoát
khỏi cơn ác mộng trong 50 năm qua dài đăng
đẳng, do con quỷ tà Cộng Sản thêu dệt nên.
Bản thân là một dân tộc tự do, chúng ta có thể
tái lập nền văn minh Trung
Hoa với nền tảng tôn trọng nhân tính và
thiện lương cho tất cả.
Chú Thích
[1]. Cuộc Cải Cách 100 Ngày kéo
dài 103 ngày kể từ ngày 11 tháng sáu cho tới ngày 21 tháng
chín năm 1898. Hoàng Đế Quang Tự (1875-1908) của
nhà Thanh ra lệnh một loạt cải cách về mặt
xã hội và hành chánh mặt dầu bị phản
đối kịch liệt từ nhóm thủ cựu.
Với sự ủng hộ
của Vương Thế Khải, Thái Hậu Từ Hy
đã tạo ra cuộc chính biến vào ngày 21 tháng chín
năm 1898. Bà ta đã đày Quang Tự vào biệt cung và
nắm lấy chính quyền với cương vị
nhiếp-chính. Cuộc Cải Cách 100 Ngày kết thúc bằng
sự phế bỏ hết cả những tân chính của
Quang Tự. Cùng lúc đó, sáu người chủ
trương cuộc cải cách thì bị chặt
đầu.
[2]. Cách
Mạng Tân Hợi, lấy tên từ năm âm lịch Tân
Hợi, là cuộc lật đổ (10/10/1911 – 12/02/1912)
chính quyền nhà Thanh và việc thành lập chế
độ Cộng Hòa Trung Quốc.
[3]. Phong
Trào Ngày Bốn Tháng Năm là cuộc biểu tình
đại qui mô đầu tiên trong lịch sử Trung
Quốc hiện đại và bắt đầu vào ngày 4
tháng 5 năm 1919.
[4]. Từ http://eserver.org/marx/1848-communist.manifesto/cm4.txt
[5]. Lá thư của Mao Trạch
Đông gởi cho vợ là Giang Thanh (1966).
[6]. Tài liệu từ http://www.debates.org/pages/trans2004a.html.
]7]. Siêu cơ cấu trong nội
dung của lý thuyết xã hội Mác Xít đề cập
tới đường lối giao tiếp giữa sự
chủ quan của con người và thể vật chất
của xã hội.
[8]. Từ chương 25 trong
Đạo Đức Kinh, một tác phẩm quan trọng
nhất của đạo Lão, được viết
bởi Lão Tử.
[9]. Từ http://eserver.org/marx/1848-communist.manifesto/cm4.txt.
Copyright © 2004
DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUANBÀI BÌNH LUẬN SỐ 2
Đảng Cộng Sản Trung Quốc lập nghiệp như thế nào?
Lời mở đầu
Một người đàn ông Trung Hoa nhìn bức vẽ lãnh tụ Cộng Sản Trung Quốc Mao trạch Đông đang tuyên cáo sự thành lập Nước Cộng Hòa Nhân Dân tại cửa Cấm Thành năm 1949. Cho dù Đảng Cộng Sản Trung Quốc tự nhận như vậy, thì trái lại lịch sử của ĐCSTQ là đầy máu của kẻ vô tội và bị lường gạt (Ảnh: Goh Chai Hin/AFP/Getty Images) |
Theo
sách "Thuyết Văn
Giải Tự" [1] từ văn bản của Xu
Shen (147 AD đời nhà Đông Hán), thì chữ Hán
“Đảng” có nghĩa là “bè” hay là “bọn”; theo mẫu
tự truyền thống là ghép từ chữ
“thượng” ở trên (
thuộc về bộ Tiểu và có nghĩa là 'ưa
chuộng') với chữ "hắc" (thuộc về
bộ Hắc là bộ gốc nằm ở dưới và
có nghĩa là 'đen tối' ).
Ghép hai chữ ấy lại thành chữ 'Đảng'
có nghĩa là “ưa chuộng cái đen tối”. “Đảng” hay “đảng viên”
(ý là “bè” hay “bè lũ”) mang một ý nghĩa mà ngài Khổng
Tử đã từng giảng: "Ngô văn quân tử
bất đảng" ( tạm dịch “người quân
tử nổi tiếng, ta cũng không a dua theo ai mà kéo bè
kết đảng”). Trong
"Luận Ngữ"
của ngài giảng rằng: "Tương trợ
nặc phi viết đảng", ( tạm dịch “giúp
đỡ lẫn nhau che đậy hành vi bất chánh thì
chính là bè đảng)[2]. Trong
lịch sử Trung Quốc, các tập đoàn chính trị
nhỏ thường thường bị xem là ‘bè
đảng’, mà theo văn hóa truyền thống Trung Hoa, thì
là kéo bè kết bọn làm điều xấu; nếu đem
so với câu 'hồ bè cẩu đảng' thì cũng là cùng
một nghĩa.
Vậy
thì tại sao Đảng Cộng Sản lại xuất
hiện, trưởng thành và thậm chí còn chiếm
đoạt chính quyền hiện tại ở Trung
Quốc? Từ xưa
đến nay Đảng Sộng Sản Trung Quốc liên
tục dỉ tai người ta rằng lịch sử
chọn Đảng Cộng Sản Trung Quốc, rằng
nhân dân Trung Quốc đã lựa chọn Đảng Cộng
Sản, rằng “không có Đảng Cộng Sản thì không
có một Trung Quốc mới.”
Vậy có phải người dân
Trung Quốc đã chủ động chọn Đảng
Cộng Sản hay không? Hay là
chính Đảng Cộng Sản đã tụ tập bè
đảng để cưỡng ép nhân dân Trung Quốc
phải chấp nhận chúng?
Chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời
này từ lịch sử.
Từ
cuối đời Mãn Thanh (1644-1911) cho đến
đầu thời kỳ Dân Quốc (1911–1949); Trung Quốc
đã trải qua bao nhiêu chấn động từ bên ngoài
và phải trải qua bao nhiêu cải cách ở bên trong. Xã hội Trung Hoa rối loạn
thảm thương.
Nhiều phần tử trí thức và sĩ phu ái
quốc muốn cứu nước cứu dân. Tuy nhiên giữa lúc quốc gia suy
yếu và hỗn loạn, ý thức ưu tư lo lắng
của họ khởi lên càng nhiều, đưa
đến trước hết là thất vọng và sau
đó là hoàn toàn tuyệt vọng.
Cũng giống như một người bệnh
đi tìm bất cứ bác sĩ nào, họ tìm cách giải
quyết từ bên ngoài Trung Quốc. Từ Anh Quốc cho đến Pháp Quốc,
phương cách nào cũng thất bại, sau đó họ
đổi sang cách của nước Nga. Họ không ngần ngại
đưa ra một liều thuốc điều trị
cực kỳ mãnh liệt với hy vọng rằng Trung
Quốc sẽ nhanh chóng phục hồi.
Cuộc
vận động ngày 4 tháng 5 vào năm 1919 là phản
ảnh rõ rệt nỗi tuyệt vọng này. Một số người
chủ trương chủ nghĩa Vô Chính Phủ. Một số người
đề xuất lật đổ học thuyết Nho
Giáo, lại có một số người đề nghị
du nhập văn hoá nước ngoài. Tóm lại, thái độ của họ là phủ
nhận văn hoá truyền thống Trung Quốc và phản
đối đạo lý Trung Dung của Nho Giáo. Vì nóng lòng muốn dùng biện pháp
tắt nhanh hơn, những gì thuộc về truyền
thống thì họ chủ trương lật đổ
tất cả. Các phần
tử cấp tiến này (với quan điểm cực
đoan), một mặt không tìm ra phương sách cứu
quốc gia, nhưng mặt khác họ lại tin
tưởng chắc chắn vào lý tưởng và ý chí
của chính mình. Họ cho rằng thế giới này
thực ra không còn thuốc gì để cứu chữa
nữa, và tin rằng chỉ có chính mình mới tìm ra
giải pháp thích hợp cho sự phát triển tương
lai của Trung Quốc. Do
đó họ theo cách mạng và bạo lực với
đầy nhiệt tình to lớn.
Kinh
nghiệm khác nhau giữa các nhóm trí sĩ yêu nước khác
nhau đã dẫn đến lý luận, học thuyết và
đường lối khác nhau.
Cuối cùng một nhóm người đã gặp
người liên lạc của Đảng Cộng Sản
từ Liên Xô. Tư
tưởng “chiếm đoạt chính quyền bằng cách
mạng bạo lực.” của Marx và Lenin đã
được nghênh đón với lòng nôn nóng của
họ, và cũng phù hợp với nguyện vọng
cứu nước cứu dân của họ. Lập tức họ thành lập
một liên minh. Thế là,
chủ nghĩa Cộng Sản, một tư tưởng
nước ngoài hoàn toàn xa lạ, được đem vào
nước Trung Hoa cổ xưa.
Tổng cộng là có 13 đại biểu tham dự
Đại Hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đầu tiên. Sau đó,
một số thì chết, một số bỏ đi,
một số phản bội Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, hoặc chạy theo cơ hội mà làm
việc cho quân Nhật đang chiếm đóng và trở
thành Hán gian, hoặc là ly khai khỏi Đảng Cộng
Sản Trung Quốc và gia nhập Quốc Dân Đảng.
Đến năm 1949, khi Đảng Cộng Sản Trung
Quốc chiếm được quyền hành của Trung
Quốc, chỉ có Mao Trạch Đông và Đổng Tất
Vũ là còn lại trong số 13 đảng viên lúc khởi
đầu. Không rõ là những
người thành lập Đảng Cộng Sản Trung
Quốc lúc đó có biết rằng “thần linh” mà họ
rước về từ Liên Xô tức là một "tà linh”
hay không, và không rõ là họ có biết “linh dược” mà
họ mang về để làm quốc gia cường
mạnh kỳ thực là một “thuốc độc”
giết người hay không?
Đảng
Cộng Sản Nga (Bolshevik, sau này được xem là
Đảng Cộng Sản Liên Sô), ngay sau khi thành công trong
cách mạng, đã có dã tâm dòm ngó Trung Quốc. Năm 1920, Liên Xô thành lập
văn phòng Bí thư Viễn Đông tại Tây Bá Lợi Á,
là một chi nhánh của Cộng Sản Quốc Tế
Đệ Tam, với nhiệm vụ thành lập và quản
lý Đảng Cộng Sản tại Trung Quốc và các
quốc gia khác. Sumiltsky là trưởng phòng, và Grigori Voitinsky
là phụ tá. Họ cùng
với Trần Độc Tú và một số người
khác bắt đầu chuẩn bị để thành
lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đề nghị
được đưa lên văn phòng Bí thư Viễn
Đông vào tháng 6 năm 1921 ở Tây Bá Lợi Á với
kế hoạch thành lập một chi nhánh Trung Quốc
của Cộng Sản Quốc Tế Đệ Tam, đã
chứng nhận rằng Đảng Cộng Sản Trung
Quốc là một chi bộ của Cộng Sản Quốc
Tế Đệ Tam. Vào ngày 23
tháng bảy năm 1921, dưới sự trợ giúp
của Nikolsky và Maring của văn phòng Bí Thư Viễn
Đông, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chính
thức được thành lập.
Từ
đó cuộc vận động chủ nghĩa Cộng
Sản đã bị đưa vào Trung Quốc như là
một thí nghiệm, cũng từ đó sinh mạng
của Đảng được đặt trên tất
cả; nó chinh phục tất cả, và bắt đầu lừa
bịp Trung Quốc vì thế mà liên tục mang đến
vô vàn tai họa cho Trung Quốc.
I. Sự lập nghiệp của Đảng Cộng Sản là một quá trình liên tục tích tụ tà ác
Mang
một thứ “tà linh” ngoại lai, như là Đảng
Cộng Sản, vào Trung Quốc, một quốc gia với
lịch sử 5 ngàn năm văn minh, không phải là
một sự việc dễ dàng, vì nó hoàn toàn không hợp
với truyền thống của người Trung Hoa. Với "tư tưởng
đại đồng của chủ nghĩa Cộng
Sản”, toàn dân và những nhà trí thức yêu nước,
những người muốn phục vụ quốc gia,
đã bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc
lừa bịp. Thêm vào đó,
Đảng còn bóp méo những lý luận của chủ
nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa mà
trước đây đã bị Lenin bóp méo một cách nghiêm
trọng rồi, để dựng nên một lý luận
căn bản cho việc tận diệt tất cả
những tư tưởng, nguyên tắc đạo
đức cổ truyền.
Ngoài ra, sự bóp méo lý luận của chủ nghĩa
Cộng Sản chính là dùng
để tiêu diệt bất cứ những gì làm bất
lợi cho sự thống trị của Đảng
Cộng Sản, và để tiêu diệt tất cả giai
cấp xã hội và bất cứ nhân sĩ nào mà có thể
đe dọa đến sự thống trị của chúng. Đảng Cộng Sản Trung
Quốc áp dụng sự tiêu diệt tín ngưỡng qua
Cách Mạng Công Nghiệp , cũng như áp dụng
triệt để hơn học thuyết Vô Thần
của chủ nghĩa Cộng Sản . Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn
thừa kế sự phủ nhận quyền tư hữu
trong chủ nghĩa Cộng Sản , và chúng áp dụng cách
mạng bạo lực theo lý thuyết của Lenin. Đồng thời Đảng
Cộng Sản Trung Quốc lại còn thừa kế và phát
triển phần tệ hại nhất trong chế
độ quân chủ của người Trung Hoa.
Lịch
sử của Đảng Cộng Sản Trung Quốc là
một quá trình dần dần thu nhập bất cứ
đường lối tàn bạo, tà ác nào, từ trong và
ngoài nước. Trong quá trình này, Đảng Cộng
Sản Trung Quốc đã làm hoàn hảo chín cái nhân di
truyền mà "đặc sắc Trung Quốc" là: Tà
ác, lường gạt, xúi giục, lưu manh, gián
điệp, cướp đoạt, đấu tranh, tiêu
diệt, khống chế.
Những cái nhân di truyền này được thừa
truyền liên tục, và qua mỗi lần nguy cơ
khủng hoảng, thì chúng lại càng tiến đến
một bước mà thủ đoạn và trình độ
tà ác của Đảng Cộng Sản càng mạnh mẽ
và phát triển hơn.
1. Nhân di truyền thứ nhất: Tà ác--- Khoác lên tấm áo choàng tà ác của chủ nghĩa Marx-Lenin
Điều
đầu tiên Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) thấy hấp dẫn ở chủ nghĩa Marx chính
là: “Dùng cách mạng bạo lực để đập tan
chế độ cũ, tạo dựng chính quyền chuyên
chính của giai cấp vô sản”. Đó chính là cội
rễ tà ác trong chủ nghĩa Marxít-Lêninít.
Lý luận trong
chủ nghĩa duy vật của Karl Marx (Các-Mác) là khái
niệm về kinh tế rất chật hẹp nông cạn
dựa trên sức sản xuất, quan hệ sản
xuất, và giá trị thặng dư. Vào thời kỳ
đầu của giai đoạn chủ nghĩa tư bản
chưa phát triển, Karl Marx đã dự đoán thiển
cận rằng chủ nghĩa Tư bản sẽ sớm
diệt vong, rằng giai cấp vô sản sẽ thắng
lợi. Trên thực tế, lịch sử đã phủ
nhận điều ấy. Cách mạng bạo lực và
sự chuyên chính của giai cấp vô sản trong chủ
nghĩa Marxít-Lêninít chủ trương áp đặt
nền chính trị cường quyền, độc tài
với giai cấp vô sản làm chủ. Bản Tuyên ngôn
của Cộng sản đã lấy sự đối
lập giai cấp và đấu tranh giai cấp để
trình bày quan điểm lịch sử và quan điểm
triết học của Đảng cộng sản. Mục
đích đấu tranh của bọn vô sản là
để đả phá mọi đạo đức
truyền thống và quan hệ xã hội, và cướp
đoạt chính quyền. Ngay từ khi xuất hiện,
chủ nghĩa Cộng Sản đã đối chọi
với tất cả những gì truyền thống.
Thiên tính tự
nhiên của con người thông thường là tẩy chay
bạo lực. Con người trong bạo lực biến
đổi thành bạo ngược. Học thuyết bạo
lực của Đảng cộng sản đều
bị nhân loại, trên bản tánh, phủ nhận, từ
chối ở khắp nơi. Tất cả các hệ tư
tưởng, triết học, truyền thống trong quá
khứ đều không có chủ trương nào như
thế cả. Hệ thống khủng bố của
cộng sản đúng là từ trên không rơi xuống trái
đất.
Loại quan niệm tà ác này có
tiền đề là “nhân định thắng thiên”, con
người cải tạo lại thế giới.
Những lý tưởng như “giải phóng toàn nhân
loại”, “thế giới đại đồng”[3] mà
Đảng cộng sản dùng để lường
gạt, đã thu hút được không ít người,
đặc biệt là những người quan tâm
đến tình trạng của con người, hoặc khao
khát lập sự nghiệp trong xã hội. Bọn họ
quên rằng ở trên còn có Trời. Những lời dối
trá rất đẹp đẽ như xây dựng “thiên
đường tại nhân gian" đã khiến họ
miệt thị truyền thống, coi thường sinh
mạng người khác, mà thực ra là làm cho sinh mạng
của chính mình còn nhẹ hơn lông hồng..
“Chủ nghĩa Cộng Sản
thế giới” được con người chế
tạo ra để phụng thờ như chân lý, kích
động nhiệt tình của người ta
để “sục sôi
nhiệt huyết trong tim, quyết phen này sống chết,
…” [4]. Đảng cộng sản sử dụng ý niệm
hoang đường, tuyệt đối như thế
để cắt đứt quan hệ giữa con
người và Trời ở trên, cắt đứt chính
họ với tổ tông, với huyết mạch truyền
thống của dân tộc. Từ đó khiến
người ta hiến thân cho chủ nghĩa Cộng
Sản hoang đường, và gia trì năng lượng
tàn sát, bạo ngược của Đảng Cộng
Sản.
2. Nhân di tryền thứ hai: Lường gạt-- ma quỷ muốn giả dạng thần linh thì phải lường gạt.
Kẻ tà chắc
chắn phải lường gạt. Để lợi
dụng công nhân, Đảng Cộng Sản tán dương
họ thành “giai cấp tiên tiến nhất”, “đại
công vô tư”, “giai cấp lãnh đạo”, “đội quân
tiên phong của giai cấp cách mạng vô sản”…
Để lợi dụng nông dân, Mao Trạch Đông
vuốt ve “không có bần nông thì không có cách mạng,
đả kích nông dân chính là đả kích cách mạng”[5]
rồi hứa hẹn “người cày có ruộng”…
Đến lúc cần giai cấp tư sản ủng
hộ, Đảng cộng sản thổi phồng họ
lên thành “bạn đồng hành của cách mạng vô
sản” rồi hứa hẹn một chế độ “dân
chủ cộng hoà”. Khi Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) gặp nguy cơ suýt bị Quốc Dân
Đảng tiêu diệt, bèn hô hào “người Trung Quốc
không hại người Trung Quốc”, và hứa hẹn
sẽ phục tùng sự lãnh đạo của Quốc Dân
Đảng. Kết quả là gì? Kháng chiến Trung-Nhật
vừa kết thúc(1937-1945), ĐCSTQ gom toàn lực lật
đổ chính quyền Quốc Dân Đảng. Sau khi
chiếm đoạt chính quyền không lâu, ĐCSTQ lập tức tiêu diệt giai cấp
tư sản, và biến công nhân và nông dân thành giai cấp vô
sản triệt để, chẳng còn một chút sở
hữu gì.
‘Thống
nhất chiến tuyến’ là thủ đoạn
lường gạt điển hình của Đảng
Cộng Sản. Để giành thắng lợi trong
cuộc nội chiến giữa Đảng cộng
sản và Quốc Dân Đảng, Đảng cộng
sản Trung Quốc đã thay đổi kế sách
trước đó vốn coi địa chủ phú nông là
giai cấp thù địch phải giết bỏ, mà thay
bằng “chính sách thống nhất chiến tuyến lâm
thời”. Ngày 20 tháng 7 năm 1947, Mao Trạch Đông ra
chỉ thị: “ngoài một số ít những phần
tử phản cách mạng, thì phải có thái độ hoà
hoãn, nới lỏng với giai cấp địa chủ…
giảm bớt kẻ thù”. Nhưng sau khi ĐCSTQ chiếm
được chính quyền, địa chủ phú nông vẫn
không thoát khỏi vận mạng của ‘quần thể
bị tiêu diệt triệt để'.
Nói một
đằng làm một nẻo là điều bình
thường đối với Đảng cộng
sản. Khi Đảng Cộng Sản cần lợi
dụng đảng phái dân
chủ, liền kêu gọi “sống chung lâu bền, giúp nhau
quản lý, thành thật với nhau, vinh nhục có nhau, v.
v.”.. Bất cứ ai không đồng ý hay từ chối
theo tư tưởng, hành xử, và tổ chức của
Đảng đều bị tiêu diệt. Marx, Lenin, và các
lãnh tụ Đảng cộng sản đều từng
tuyên bố thẳng rằng, quyền lực chính trị
của Đảng Cộng Sản không chia xẻ với bất
cứ ai hay tổ chức nào khác. Ngay từ đầu,
độc tài chuyên chế đã là nhân di truyền bất
di bất dịch của chủ nghĩa cộng sản.
Đảng cộng sản Trung Quốc là bạo
ngược và độc tài. Nó chưa bao giờ cùng sinh
sống thành thực với bất cứ đảng phái
chính trị hay tập đoàn nào cả, bất kể là
trong thời kỳ cướp được chính
quyền hay nắm chính quyền, kể cả vào những
thời kỳ “nới lỏng” nhất.
Bài học
lịch sử dạy rằng không thể tin vào bất
cứ hứa hẹn nào của Đảng Cộng
Sản, đừng mong tưởng Đảng Cộng
Sản thực hiện sự cam kết. Ai tin lời
Đảng Cộng Sản vào bất cứ vấn
đề gì, rồi sẽ có ngày phải trả giá
bằng tính mạng của chính mình.
3. Nhân di truyền thứ ba: Xúi bẩy--- gây hận thù trong nhân dân, phân nhóm đấu nhau
Lường
gạt là để kích động thù hận. Đấu
tranh thì phải dựa vào thù hận. Đâu không có thù
hận, thì Đảng Cộng Sản xúi bẩy, tạo ra
thù hận.
Loại hình
thức chế độ dòng tộc và sở hữu
đất đai đã ăn sâu vào nông thôn Trung Quốc.
Đó là chướng ngại lớn trên con
đường thiết lập chính quyền của
Đảng Cộng Sản. Xã hội nông thôn vốn là hài
hoà. Quan hệ giữa địa chủ có sở hữu
đất đai và nông dân được thuê dùng không
phải là quan hệ đối lập tuyệt
đối. Địa chủ cho nông dân thuê đất canh
tác, còn nông dân dựa vào đó để sinh sống và
nộp tiền thuê hay thóc lúa cho địa chủ.
Địa chủ và nông dân dựa vào nhau mà sống qua hàng
bao nhiêu thế hệ như thế.
Quan hệ
‘dựa vào nhau để sinh tồn’ ở một mức
độ nào đó đã bị Đảng Cộng Sản
bóp méo thành quan hệ của giai cấp bóc lột, giai
cấp đối nghịch. Nó biến đổi bè
bạn thành cừu địch, biến hài hoà thành chống
đối, làm thành thù hận, làm thành đấu tranh,
biến hợp lý thành vô lý, biến trật tự thành
hỗn loạn, biến đổi cộng hoà thành chuyên
chế. Đảng Cộng Sản chủ trương
cướp đoạt tài sản, vừa cướp
của giết người, giết bản thân
người địa chủ phú nông đó, giết
người nhà của địa chủ phú nông, rồi
giết đến cả gia tộc của địa
chủ phú nông. Có nhiều người nông dân không đành
lòng theo kẻ cường bạo nên ban ngày thì cướp
nhưng đến đêm lại quay lại trả
đồ cho gia chủ; rồi bị đội công tác
biết được và bị chỉ trích là “giác ngộ
về giai cấp” không cao.
Bạch mao
nữ
[6]vốn là một câu chuyện xưa về tiên
nữ, không có liên quan gì đến đấu tranh giai
cấp hay áp bức bóc lột. Nhưng đội văn
công đã sửa đổi biên soạn thành kịch nói, ca
kịch, rồi cả kịch múa ballet, và dùng để xúi
bẩy, kích động thù hận giai cấp.
Vào Thế
Chiến Thứ Hai, khi Nhật Bản xâm lược Trung
Quốc, Đảng cộng sản đã không đánh
Nhật, mà còn công kích chính phủ Quốc Dân Đảng là
bán nước vì không đánh Nhật, thậm chí ngay lúc
quốc gia lâm nguy, nó còn xúi bẩy người dân chống
lại Quốc Dân Đảng.
Xúi bẩy thù
hận giữa một nhóm người dân này với
một nhóm người dân khác là một thủ đoạn
rập khuôn cho các cuộc vận động của
Đảng Cộng Sản. Công thức phân chia giai cấp
dân chúng ‘95:5’ cũng từ đó mà ra. Đảng Cộng
Sản sau này đều dùng nó trong các phong trào chính trị,
cho đến nay đã không ngừng phát triển thành
một thủ đoạn nhuần nhuyễn. Đảng
cộng sản chia dân chúng thành hai phần, 95% và 5%, trong
đó nếu rơi vào phần 95% thì an toàn vô sự, còn
rơi vào phần 5% thì bị coi như kẻ thù phải
bị thanh trừng đấu tố. Vì sợ hãi và
muốn an toàn, bảo hộ cho chính mình mà người dân
phải tranh đấu để chuyển sang phần 95%.
Hậu quả là họ hãm hại lẫn nhau, tạo thù
hận sâu sắc giữa mọi người.
4. Nhân di truyền thứ tư: Lưu manh, côn đồ ---Lấy lưu manh, cặn bã xã hội lập thành đội ngũ cơ bản.
Lưu manh, côn
đồ là cơ sở của tà ác, muốn tà thì phải
dùng bọn lưu manh, côn đồ, cặn bã của xã
hội. Những cuộc cách mạng thường
thường đều xuất phát từ những
phần tử lưu manh, cặn bã trong xã hội nổi
loạn lên mà thành. Ví dụ điển hình là cách mạng
của ‘Công xã Pa-ri (the Paris commune)', mà thực sự bao
gồm đốt phá, giết người, bạo
ngược được dẫn đầu bởi
bọn lưu manh, cặn bã xã hội. Ngay Karl Marx cũng
khinh rẻ giai cấp vô sản lưu manh này [7], trong
bản Tuyên ngôn của Cộng sản [8], Marx viết rằng “Cái
‘giai cấp nguy hiểm’, cặn bã xã hội, mà là thành
phần thối nát tiêu cực bị vứt đi bởi
tầng lớp hạ cấp nhất trong xã hội cũ,
thì có thể ở chỗ này chỗ nọ được
cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào, nhưng
điều kiện sinh hoạt của họ lại
khiến họ sẵn sàng bán mình cho những mưu
đồ của phe phản động.” Còn nông dân, trên
phương diện khác, theo Karl Marx và Engels,
được coi là có tính phân tán và tính ngu muội nên “không
xứng đáng là một giai cấp”.
Đảng
cộng sản Trung Quốc còn phát triển xa hơn
những thứ trong tư tưởng Karl Marx về
phương diện tà ác. Mao Trạch Đông nói: “lưu
manh, côn đồ, cặn bã xã hội là tầng lớp
vứt đi của xã hội, nhưng trong cách mạng nông
thôn, thì họ là dũng cảm nhất, triệt để
nhất, kiên quyết nhất” [9]. Bọn lưu manh vô
sản là đội ngũ gia tăng bạo lực và duy
trì chính quyền ở nông thôn cho Đảng Cộng
sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
vào thời kỳ đầu. Danh từ ‘cách mạng’ trong
tiếng Trung Hoa có nghĩa là ‘cắt đứt sinh
mạng’ (= giết), trên thực tế nó diễn ra đúng
như vậy. Đối với người dân
lương thiện, nó thật kinh khủng và khiếp hãi.
Ban đầu Đảng Cộng Sản tự nhận là
‘vô sản lưu manh’, nhưng đến thời Cách
mạng Văn hoá, bọn chúng cảm thấy danh từ
‘lưu manh’ như thế không tốt, khó lọt tai, nên
bỏ nó đi, và tự nhận là người ‘vô sản’.
Bọn lưu
manh, côn đồ thường có biểu hiện vô lại
một cách ngu xuẩn. Có lần bị chỉ trích là
độc tài, viên chức Đảng cộng sản
đã biểu lộ khuynh hướng côn đồ, vô liêm
sỉ mà chẳng ngượng miệng trả lời
trắng ra rằng: “anh nói đúng, chúng tôi chính là như
vậy. Qua tất cả những kinh nghiệm mà
người Trung Quốc trải qua mấy chục năm
nay, đòi hỏi chúng tôi phải thực hành “nhân dân dân
chủ chuyên chính”. Chúng tôi gọi đó là “nhân dân dân chủ độc tài”.
5. Nhân di truyền thứ năm: Gián điệp - thâm nhập, ly gián , mua chuộc, phá tan, thay thế
Lừa dối,
kíck động bạo lực, sử dụng bọn
lưu manh, cặn bã xã hội còn chưa đủ,
những kỹ thuật gián điệp và gây chia rẽ
cũng được Đảng Cộng Sản sử
dụng thành thạo. Nằm vùng là sở trường
của Đảng Cộng Sản. Mấy thập niên
trước đây có ba gián điệp ‘xuất sắc
đứng đầu’— Tiền Tráng Phi, Lý Khắc Nông và
Hồ Bắc Phong — đều ở dưới sự
chỉ huy của Trần Canh, trưởng khoa số 2
Trường Đặc vụ Trung ương của
Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tiền
Tráng Phi là thư ký đặc vụ và là tuỳ tùng thân tín
của Từ Ân Tăng, chủ nhiệm Ban Điều Tra
Trung Ương của chính phủ Quốc Dân Đảng,
Tiền Tráng Phi đã bí mật gởi tin tức tình báo về
điều quân chiến lược lần một và hai
của Quốc Dân Đảng trong việc bao vây
Đảng cộng sản ở tỉnh Giang Tây, rồi
dùng hệ thống nội bộ chuyển thư của
Trung Ương Quốc Dân Đảng mà gởi hai lần
tới Lý Khắc Nông để hắn mang tay đến
cho Chu Ân Lai [10]. Tháng 4 năm 1930, một nhóm đặc
vụ hai-mặt do Ban Điều tra Trung ương
Quốc Dân Đảng tổ chức và chu cấp chi phí
đã được thành lập ở đông bắc Trung
Quốc. Trên bề mặt, đó là của Quốc Dân
Đảng do Tiền Tráng Phi chỉ huy, nhưng thực
chất là của Đảng cộng sản dưới
sự chỉ huy của Trần Canh.
Lý Khắc Nông ban
đầu gia nhập Bộ Tổng tư lệnh Hải
Lục Không quân Quốc Dân Đảng với chức
vụ dịch giải mật mã. Chính Lý Khắc Nông đã giải
mật mã tin khẩn cấp về việc bắt giữ
và tạo phản của Cố Thuận Chương [11],
một chỉ huy trưởng phòng An Ninh của
Đảng cộng sản. Tiền Tráng Phi đã lập
tức chuyển bức điện đã giải mã cho Chu
Ân Lai, vì vậy một số lớn gián điệp
của Đảng cộng sản mới thoát khỏi
lưới.
Dương
Đăng Doanh, một đặc vụ thân Cộng làm
ở Ban Điều tra Trung Ương Quốc Dân
Đảng, biệt phái ở Thượng Hải. Khi
Đảng cộng sản thấy đảng viên nào không
đáng tin nữa, liền ra lệnh cho Dương đi
bắt họ và đem đi hành quyết. Một cán bộ
lão thành của Đảng cộng sản ở Hà Nam, do làm
mích lòng một đảng viên khác, vì thế liền bị
phe của họ Dương giựt dây bầy mưu
để tống giam ông ta vào nhà ngục của Quốc
Dân Đảng trong nhiều năm.
Vào thời
chiến tranh Giải Phóng [12] tình báo của Đảng
cộng sản Trung Quốc đã cài được
một tên nằm vùng là người rất thân cận
với Tưởng Giới Thạch [13], đó là Lưu
Phỉ, trung tướng và là thứ trưởng Bộ
quốc phòng, và cũng là người nắm quyền
điều động quân đội của Quốc Dân
Đảng. Khi quân lính Quốc Dân Đảng còn chưa
nhận được lệnh điều binh, thì tin tình
báo đã lọt sang Diên An, tổng hành dinh của
Đảng cộng sản. Quân Quốc Dân Đảng
chưa đến thì Đảng cộng sản đã có
kế hoạch phòng bị rồi. Có một lần Hùng
Hướng Huy, bí thư và là tuỳ tùng thân tín của
Hồ Tôn Nam [14] đã tiết lộ kế hoạch hành
quân đánh Diên An cho Chu Ân Lai. Kết quả, khi Hồ Tôn
Nam mang quân đến, chỉ thấy Diên An là cái thành
trống không. Chu Ân Lai đã từng nói: “Mệnh lệnh
tác chiến của Tưởng Giới Thạch còn chưa
đến các Tư Lệnh Bộ Binh của họ
Tưởng, mà Mao chủ tịch đã thấy
được rồi”.
6. Nhân di truyền thứ sáu: Trấn lột - Trấn lột bằng thủ đoạn hoặc bạo lực, rồi thiết lập ‘trật tự mới’
Tất cả
những gì Đảng cộng sản đạt
được là từ cướp bóc mà ra. Khi Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dựng lập
Hồng Quân để cai trị bằng quân sự, thì chúng
cần phải có tiền cho võ khí đạn dược,
lương thực, và quần áo. Do đó, Đảng
cộng sản phải ‘gây quỹ’ qua hình thức là dùng
thủ đoạn trấn lột nhà giàu địa
phương hoặc cướp ngân hàng, hành tung giống
hệt băng đảng đi cướp bóc. Ví dụ Lý
Tiên Niệm [15], một lãnh đạo cao cấp trong quân
đội Hồng Quân, có nhiệm vụ là điều hành
Hồng Quân đi bắt cóc những người nhà giàu
trong vùng Ngạn Tây tỉnh Hồ Bắc. Chúng không
những chỉ bắt một người, mà còn chọn
ra mỗi dòng tộc giàu có, bắt cóc lấy một
người. Người bị bắt vẫn
được sống để chúng dùng họ mà tống
tiền nhiều lần gia đình nạn nhân để
lấy tiền phục vụ cho Hồng Quân. Chỉ
đến chừng nào Hồng Quân thỏa mãn đòi
hỏi hoặc gia đình nạn nhân đã cạn kiệt
tiền tài, chúng mới thả người ra, phần
nhiều là lúc họ sắp chết. Có những
trường hợp do bị khủng bố và tra tấn
quá nhiều, nên chưa về đến nhà thì họ đã
chết.
Dưới chiêu
bài “đả đảo địa chủ để
lấy ruộng”, Đảng Cộng Sản triển khai
rộng rãi thủ đoạn trấn lột ra toàn xã
hội, thay thế truyền thống với ‘trật
tự mới’ của Đảng. Đảng Cộng
Sản làm đủ điều ác, to có nhỏ có, và không
làm được điều gì tốt cả. Nó thường
dùng những món lợi nhỏ dụ dỗ người ta
để xúi bẩy một số người đi
tố cáo một số người khác. Kết quả là
thiện lương và đạo đức trong xã hội
bị hoàn toàn biến mất, và được thay thế
bởi đấu tranh và giết chóc. “Cộng sản
đại đồng” thực tế chính là đồng
nghĩa với công khai trấn lột, cướp
đoạt bằng bạo lực.
7. Nhân di truyền thứ bẩy: Đấu tranh — Tiêu hủy trật tự truyền thống và chế độ quốc gia
Lường
gạt, xúi bẩy, lưu manh, thâm nhập nằm vùng
đều là để cướp đoạt và
đấu tranh. Triết lý của Đảng cộng
sản là triết lý đấu tranh. Cách mạng của
Cộng sản quyết không phải chỉ có đấu
tranh, và cướp bóc vô tổ chức. Mao nói rằng: “
Mục tiêu chủ yếu trong sự công kích của nông dân
là nhắm vào cường hào địa chủ, nhưng qua
đó cũng đả phá sạch luôn tất cả các
chế độ và các loại tư tưởng về gia
pháp tổ tông, thanh lý tham quan ô lại, cũng như
tập quán cũ của xóm làng.” [16]. Mao rõ ràng đã ra lệnh tiêu huỷ tất
cả chế độ truyền thống và tập quán
của nông thôn.
Đấu tranh
của Đảng cộng sản còn bao gồm cả
đấu tranh võ trang. “Cách mạng không phải là mở
tiệc đãi khách, không phải là ngâm thơ làm văn,
không phải là vẽ tranh thêu thùa; nó không phải là một
thứ trang nhã kiểu cách, êm đềm thư thả,
nhẹ nhàng nho nhã, khiêm cung ôn hoà. Cách mạng là bạo
lực, là giai cấp này dùng bạo lực lật
đổ giai cấp kia”[17]. Khi cướp đoạt
chính quyền, tất phải dùng tranh đấu bạo
lực. Chỉ mấy chục năm sau, nhân di truyền
về đấu tranh như vậy lại được
Đảng cộng sản dùng để ‘giáo dục’
thế hệ kế tiếp trong Cách mạng Văn hoá.
8. Nhân di truyền thứ tám: Diệt - Chế tạo một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về diệt tuyệt quần thể
Đảng
Cộng Sản làm rất nhiều việc gian ác, tuyệt
tình nghĩa: hứa hẹn ‘thiên đường ở nhân
gian’ cho trí thức, sau đó xếp họ vào ‘cánh Hữu’,
rồi vào hàng thứ chín [18] của giai cấp thù
địch và phải bị tiêu diệt cùng với
địa chủ và các phần tử phản cách mạng.
Nó còn làm những việc như cướp đoạt gia
tài của các nhà tư bản và địa chủ, tiêu
diệt địa chủ và phú nông, phá bỏ trật
tự ở thôn quê, đảo lộn và cướp
đoạt chính quyền địa phương, bắt
cóc tống tiền phú nông, tẩy não tù binh, cải tạo
giai cấp công thương và tư bản, cài gián
điệp và ly gián Quốc Dân Đảng, ly khai khỏi
Cộng sản quốc tế rồi sau đó phản bội
Cộng sản quốc tế, trừ sạch phần
tử đối lập qua nhiều cuộc vận
động chính trị liên tiếp kể từ khi
cướp được chính quyền năm 1949, đe
doạ những đảng viên của mình, v.v., tất
cả các việc làm đều rất tuyệt tình
nghĩa.
Tất cả
những sự việc kể trên đều dựa trên
nền tảng lý luận của Đảng Cộng
Sản về diệt tuyệt quần thể. Mỗi
một cuộc vận động chính trị trong lịch
sử Đảng cộng sản đều là một
chiến dịch khủng bố với ý định
diệt sạch một quần thể dân chúng. Ngay từ
đầu, Đảng cộng sản đã bắt đầu
chế tạo liên tục một hệ thống lý luận
hoàn chỉnh về diệt tuyệt quần thể, mà
đến từ những lý luận của Đảng
cộng sản như — giai cấp luận, cách mạng
luận, đấu tranh luận, bạo lực luận,
chính quyền chuyên chế luận, vận động
luận, đảng phái chính trị luận,… — toàn là
tổng hợp của các kinh nghiệm thực tiễn
đủ loại đủ kiểu về diệt
tuyệt quần thể.
Điểm
đặc sắc nhất trong việc diệt tuyệt
quần thể của
Đảng Cộng Sản là nó diệt tuyệt
lương tri và nhân tính từ trên tư tưởng.
Điều này phù hợp với phương pháp thống
trị bằng bạo lực, khủng bố để
phục vụ các lợi ích căn bản của tập
đoàn. Nó phải tiêu diệt bạn vì bạn phản
đối nó; nhưng cũng có thể phải tiêu diệt
bạn chính vì bạn ủng hộ nó. Khi nó nhận
thấy rằng cần phải tiêu diệt ai, thì nó
phải tìm cách tiêu diệt. Vì vậy ai cũng cảm
thấy nguy cơ bên mình, và đều sợ hãi
Đảng cộng sản.
9. Nhân di truyền thứ chín: Khống chế - Dùng Đảng tính để khống chế toàn đảng, rồi giáo dục lại toàn dân và toàn xã hội.
Tất cả
những nhân di truyền kể trên đều dẫn
đến cùng một mục đích: khống chế
với áp lực của sợ hãi khủng bố. Sự tà
ác của Đảng Cộng Sản đã khiến cho nó
trở thành kẻ thù tự nhiên của mọi lực
lượng xã hội. Ngay từ ngày thành lập,
Đảng Cộng Sản đã giãy giụa trong từng
cơn nguy cơ liên tiếp lần này rồi lần khác,
mà nguy cơ lớn nhất luôn luôn là sự sống còn của
nó. Nó tồn tại trong sợ hãi, vĩnh viễn có
cảm giác nguy cơ. Thế nhưng, trong nguy cơ, sự
sợ hãi đã trở thành lợi ích cao nhất cho
Đảng cộng sản, đó là duy trì sự tồn
tại và quyền lực của tập đoàn
Đảng cộng sản qua những đợt khó
khăn. Để bù đắp cho sự suy yếu lực
lượng, Đảng Cộng Sản phải
thường xuyên bổ xung những điều tệ
hại hơn ở bề mặt. Lợi ích của
Đảng không phải là lợi ích cá nhân của bất
cứ đảng viên nào, cũng không phải là tổng
hợp các lợi ích cá nhân của đảng viên; mà là
lợi ích của tập đoàn Đảng Cộng
Sản, nó được đặt cao hơn tất
cả những gì của cá nhân.
‘Đảng tính’
là một bản chất lợi hại nhất của con
quỷ tà linh này. Nó có thể mở rộng vô hạn,
nuốt trửng ‘nhân tính’, và biến người ta thành
một năng lực bắt buộc phải phi nhân tính. Ví
dụ Chu Ân Lai và Tôn Bính Văn đã từng là đồng
chí. Sau khi Tôn Bính Văn qua đời, Chu Ân Lai đã
nhận con gái của Tôn Bính Văn là Tôn Duy Thế làm con
nuôi. Trong thời Cách mạng Văn hoá, Tôn Duy Thế bị
đấu tố, và sau đó chết trong tù do một cái
đinh dài được đóng vào đầu. Lệnh
bắt Tôn Duy Thế chính là do cha nuôi của cô là Chu Ân Lai ký.
Một trong
những người lãnh đạo thời kỳ
đầu của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) vào thời chiến tranh Trung–Nhật là Nhậm
Bật Thời được Đảng giao nhiệm
vụ buôn bán nha phiến (ma tuý). Mà nha phiến là dấu
hiệu của ngoại bang xâm lược Trung Quốc vào
thời đó, bởi vì Anh Quốc đã dùng nha phiến
xuất cảng sang Trung Quốc để làm kiệt
quệ kinh tế Trung Hoa và khiến cho dân Trung Quốc
bị nghiện ma tuý. Bất chấp sự chống
đối nha phiến trên toàn quốc, Nhậm Bật
Thời đã dám trồng nha phiến trên một vùng
rộng lớn, chẳng kể đến nguy cơ bị
dân tộc kết tội, thật ra là cần phải có
chút ‘đảng tính’. Bởi
vì tính chất bất hợp pháp và nhạy cảm của
‘nha phiến’, nên bấy giờ ĐCSTQ nói trại thành ‘xà
phòng’. Khi buôn bán nha phiến với các quốc qia lân
cận, lợi nhuận thu vào được dùng cho sự
tồn tại của Đảng Cộng Sản.
Đến kỷ niệm 100 năm sinh nhật của
Nhậm Bật Thời, một lãnh đạo thế
hệ sau của ĐCSTQ đã phát biểu ca ngợi công
lao của Nhậm Bật Thời: “Nhậm Bật Thời
có phẩm giá cao, và là một đảng viên cộng
sản gương mẫu. Ông ta tin tưởng kiên trì vào
Đảng, và trung thành vô hạn với sự nghiệp
của Đảng”.[19]
Trương
Tư Đức cũng là một gương mẫu cho
Đảng tính. ĐCSTQ nói rằng anh ta hy sinh do lò gạch
sập đột ngột, còn người ta nói rằng anh
ta chết khi đang chế biến nha phiến. Vì
Trương Tư Đức là một người ít nói
trong Đoàn cảnh vệ Trung Ương, không bao giờ
đòi hỏi thăng chức, nên khi anh chết, mới nói
rằng cái chết của anh “nặng tựa Thái Sơn”
[20], có nghĩa là ám chỉ cuộc đời của anh ta
rất quan trọng.
Sau này còn có
một mẫu hình nữa là Lôi Phong, nổi tiếng
với danh hiệu là “chiếc ốc vít không bao giờ han
rỉ trong guồng máy cách mạng”. Trong một thời gian dài, cả Lôi Phong và
Trương Tư Đức đều được
dùng để giáo dục người dân Trung Quốc trung
thành với Đảng Cộng Sản. Mao Trạch Đông
có nói “ Sức mạnh của gương mẫu là vô biên”.
Ngoài ra cũng có nhiều anh hùng khác của Đảng
cộng sản được dùng để tuyên truyền
“ý chí sắt thép và nguyên tắc của Đảng tính”.
Sau khi chiếm
đoạt chính quyền, Đảng cộng sản càng
phát triển rộng cái nhân di truyền về khống
chế tư tưởng con người để chế
tạo những “ốc vít” mới và ‘công cụ’ mới cho
Đảng trong những thế hệ kế tiếp.
Đảng tính được nhấn mạnh lên
để trở thành một lối suy nghĩ nhất
định, một mẫu hình cho các hành vi rập khuôn. Ban
đầu, các khuôn mẫu cho hành vi Đảng tính chỉ
dùng trong nội bộ Đảng, nhưng ngay sau đó
đã mở rộng quy mô đến toàn dân toàn quốc.
Dưới cái vỏ dân tộc, lối suy nghĩ và hành vi
như thế được dùng để tẩy não
người dân phải phục tùng theo cơ chế tà ác
của Đảng cộng sản.
II. Lịch sử dựng nghiệp một cách bẩn thỉu của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Đảng
cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) mô tả lịch
sử của mình là một lịch sử vẻ vang “liên
tiếp đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác”. Khi cố gắng tự tô vẽ
bộ mặt của mình trước công chúng chính là
để hợp thức hoá sự cướp đoạt
quyền lực của Đảng Cộng Sản.
Thực ra, lịch sử của Đảng Cộng
Sản không có gì vẻ vang cả. Chỉ bằng cách áp
dụng 9 cái nhân di truyền là: tà ác, lường gạt,
xúi bẩy, lưu manh, gián điệp, trấn lột,
đấu tranh, diệt tuyệt, khống chế thì chúng mới có thể gây
dựng và duy trì chính quyền .
1.Thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc — Lớn lên nhờ uống sữa Liên Xô
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bảo với
người dân rằng: “Cách mạng tháng Mười
nổ phát pháo đầu tiên, đưa chủ nghĩa
Marxism-Leninism đến với chúng ta”[21]. Tuy nhiên
Đảng cộng sản Trung Quốc khi mới thành
lập, là một chi bộ Á châu của Đảng
cộng sản Liên Xô, mà ngay từ đầu nó là một
đảng phái chính trị bán nước.
Trong thời
kỳ mới thành lập, ĐCSTQ không có tiền, không có lý
luận, không có kinh nghiệm thực tiễn nào cả,
lại càng không có cơ sở chủ yếu, gia nhập
Đảng Cộng Sản Quốc Tế chỉ là
muốn tham dự và nương tựa vào cách mạng
bạo lực của Cộng sản quốc tế. Cách
mạng bạo lực của Đảng Cộng Sản
tại Trung Quốc chỉ là một cái mạch tiếp
nối theo cách mạng bạo lực từ giai
đoạn của Marx và Lenin. Đảng Cộng Sản
Quốc Tế chính là bộ tổng chỉ huy cho sự
đảo chánh chính quyền của các quốc gia trên toàn
cầu, ĐCSTQ lúc đó chỉ là một chi bộ Đông
Phương của Cộng sản Quốc Tế, và
chấp hành theo đường lối chủ nghĩa
Đế Quốc của Hồng Quân Liên Xô. ĐCSTQ
phải dựa vào Đảng Cộng Sản Liên Xô
để trưởng thành kinh nghiệm trong sự
cướp đoạt chính quyền bằng bạo
lực và áp dụng chế độ độc tài chuyên
chính của giai cấp vô sản. Đường lối
chính trị, đường lối tư tưởng, và
đường lối tổ chức đều phải
tuân theo chỉ thị của Đảng Cộng Sản Liên
Xô. ĐCSTQ cũng bắt chước đường
lối bí mật và ngoài vòng pháp luật của các tổ
chức phi pháp để tạo nên một phương
thức tồn tại, áp dụng sự theo dõi và khống
chế thật chặt chẽ. Đảng Cộng Sản
Liên Xô không những là xương sống chính của
Đảng cộng sản Trung Quốc, mà còn hỗ
trợ cho nó.
Tại
Đại hội đại biểu lần thứ
nhất của Trung Cộng, Đảng chương
của Đảng cộng sản Trung Quốc
được thông qua chính là do Cộng sản Quốc
tế soạn ra, bản Tuyên
ngôn cũng được
soạn theo chủ nghĩa Mác-Lê, đấu tranh giai
cấp, chính quyền chuyên chế của giai cấp vô
sản, học thuyết lập Đảng, đều
căn cứ theo cương lĩnh của Đảng
cộng sản Liên Xô. Linh hồn của Đảng
cộng sản Trung Quốc là phẩm vật ngoại lai
theo thể thức Đảng Cộng Sản Liên Xô.
Trần Độc Tú, một lãnh đạo của
ĐCSTQ, đã từng có lần bất đồng ý
kiến với đại biểu Ma-ring của Cộng
sản quốc tế. Ma-ring gởi một phong thư cho
Trần Độc Tú, nói rằng nếu ông Trần là
đảng viên thật sự của Đảng Cộng
Sản, thì ông phải tuân theo mệnh lệnh từ
Đảng Cộng sản quốc tế. Dù Trần
Độc Tú là một trong những người sáng
lập ĐCSTQ, ông ta không làm được gì hơn là tuân
theo mệnh lệnh của Cộng sản Quốc tế.
Kỳ thực, ông ta và Đảng là chỉ lệ thuộc
và hèn hạ khuất phục Đảng cộng sản
Liên Xô.
Năm 1923,
Trần Độc Tú đã công khai thừa nhận tại
Đại hội đại biểu Đảng Cộng
Sản Trung Quốc lần thứ ba, rằng hầu
hết các chi phí của Đảng là hoàn toàn do Cộng
sản Quốc tế chu cấp. Trong một năm,
Cộng sản Quốc tế đã cung cấp khoảng
200 ngàn đồng yuan cho Đảng cộng sản Trung
Quốc, nhưng kết quả thu được không hài
lòng mấy, và Cộng sản Quốc tế trách các
đồng chí Trung Quốc đã không nỗ lực
đủ.
Theo một
văn kiện đã giải mật của Đảng
cộng sản Trung Quốc với thống kê chưa
đầy đủ, từ tháng 10 năm 1921 đến
tháng 6 năm 1922, Đảng cộng sản Trung Quốc
đã nhận 16.655 đồng yuan. Năm 1924 nhận 1.500
đô-la Mỹ và 31.927,71 đồng yuan; năm 1927 nhận
187.674 đồng yuan; mỗi tháng Cộng sản Quốc
tế chu cấp khoảng 20 ngàn đồng yuan. Những
mánh khoé mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc
thường dùng ngày nay —móc nối, đi cổng sau, mua
chuộc, đút lót, thậm chí uy hiếp,… — đều
đã được dùng từ thời bấy giờ.
Đảng Cộng sản Quốc tế từng phê bình
nghiêm khắc các mánh khóe chạy chọt mà Đảng
Cộng Sản Trung Quốc hay dùng để xin tiền.
“Họ thường lợi
dụng các nguồn chi phí khác nhau (ban liên lạc Quốc
tế, các đại biểu của Cộng sản
quốc tế, các tổ chức quân sự,…) để xin
cùng một ngân khoản, bởi vì nguồn chi phí này có
thể không biết rõ nguồn chi phí kia đã chi khoản
đó hay chưa… Điều tức cười là các
đồng chí Trung Quốc không những đã biết
được tâm lý của các đồng chí Liên Xô chúng ta,
mà quan trọng hơn là họ còn biết cách đối
xử khác biệt với từng đồng chí có trách
nhiệm phê chuẩn cho từng ngân khoản. Một khi các
đồng chí Trung Quốc hiểu rằng, ngân khoản
sẽ không được chính thức thông qua, họ
liền bắt đầu trì hoãn các buổi họp. Sau
đó thậm chí có những thủ đoạn xảo trá
như phao tin đồn kiểu như "nhân viên công tác
địa phương có mâu thuẫn với Liên Xô, nên
số tiền đó đã không cấp cho Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, mà cấp cho quân phiệt”.[22]
2. Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất — Phụ thể ăn bám đào khoét tận đến tâm, và phá hoại Bắc phạt [23]
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc vẫn luôn bảo người
dân rằng Tưởng Giới Thạch đã phản
bội Cách mạng Quốc Dân [24] khiến Đảng
cộng sản đi vào cái thế bắt buộc phải
khởi nghĩa võ trang.
Trên thực
tế, Đảng Cộng Sản trong sự hợp tác
Quốc-Cộng lần thứ nhất, là giống như
một phụ thể bám chặt, ăn bám vào Cách mạng
Quốc Dân để phát triển chính mình. Hơn nữa nó
còn hăng hái phát động cuộc cách mạng do Liên Xô
hậu thuẫn để chiếm đoạt quyền
lực, nhưng cái tham vọng nắm quyền của nó,
thực ra đã phá hoại và phản bội Cách Mạng
Quốc Dân.
Tháng 7 năm 1922
trong Đại hội Đại biểu lần thứ
nhì của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, bởi
vì các đảng viên nôn nóng muốn giành chính quyền ngay,
cho nên những người phản đối liên minh
với Quốc Dân Đảng chiếm
đại đa số trong Đại hội. Tuy nhiên khi
nghị quyết được đưa lên quốc
hội thì ‘thái thượng hoàng’ Cộng sản Quốc
tế đã gạt bỏ quyết nghị và chỉ
thị Đảng cộng sản phải gia nhập
Quốc Dân Đảng.
Trong giai
đoạn Quốc-Cộng hợp tác lần thứ
nhất, tháng 1 năm 1925, Đảng cộng sản Trung
Quốc cử hành Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ tư tại Thượng
Hải. Bấy giờ toàn thể Đảng cộng
sản Trung Quốc mới có 994 đảng viên, nhưng
Đảng Cộng Sản đã đề xuất vấn
đề lãnh đạo chính quyền Trung Quốc trước
khi Tôn Dật Tiên [25] tạ thế vào ngày 12 tháng 3 năm
1925. Nếu Tôn Dật Tiên chưa tạ thế, thì chính ông
ta, chứ không phải là Tưởng Giới Thạch,
mới là nhân vật bị nhắm vào trong việc
chiếm đoạt quyền hành của Đảng
cộng sản Trung Quốc.
Được
Liên Xô nâng đỡ, Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ)
cứ mặc ý nắm quyền, và đã chiếm các vị
trí lớn tại Quốc Dân Đảng trong thời gian
Quốc-Cộng hợp tác: Đàm Bình Sơn (1886-1956, một
trong những lãnh đạo ban đầu của ĐCSTQ
ở tỉnh Quảng Đông)
làm bộ trưởng Bộ Tổ chức Cán bộ
Trung ương Quốc Dân Đảng, Phùng Cúc Pha (1899-1954,
một trong những lãnh đạo ban đầu của
ĐCSTQ) làm bí thư Bộ Công Nhân toàn quyền xử lý các
sự vụ, Lâm Tổ Hàm (1886-1960, một trong những
lãnh đạo đầu tiên nhất của ĐCSTQ) làm
bộ trưởng Bộ Nông Dân cùng Bành Bái (1896-1929 một
trong những lãnh đạo của ĐCSTQ) làm bí thư
Bộ Nông Dân, Mao Trạch Đông làm quyền bộ
trưởng Bộ Tuyên Truyền của Quốc Dân
Đảng. Trường quân sự và chỉ huy quân
đội luôn luôn là mục tiêu của Đảng cộng
sản: Chu Ân Lai làm chủ nhiệm khoa Chính trị của
trường quân sự Hoàng Phố, và Trương Thân
Phủ ( 1893-1986 một trong những người sáng
lập ĐCSTQ và là người giới thiệu Chu Ân Lai
gia nhập ĐCSTQ) làm phó chủ nhiệm. Chu Ân Lai cũng
kiêm nhiệm Trưởng Ban Quân pháp, và cài những cố
vấn quân sự của Liên Xô vào các nơi. Có nhiều
người của Đảng cộng sản
được đưa vào làm giáo viên chính trị và giáo
chức trong các trường quân sự của Quốc Dân
Đảng, và làm đại biểu các cấp bậc khác
nhau trong quân đội của Cách mạng Quốc Dân [26].
Chúng quy định rằng quân lệnh nào nếu không có
đại diện của Đảng Cộng sản ký thì
mệnh lệnh đó không công hiệu. Nhờ vào việc
phụ thể bám chặt và luồn lách vào Cách mạng
Quốc Dân này mà kết quả là số đảng viên
Đảng cộng sản Trung Quốc đã tăng nhanh,
từ dưới 1.000 người năm 1925 lên
đến 30.000 người năm 1928.
Cách mạng
Bắc phạt bắt đầu tháng 2 năm 1926. Nhưng
từ tháng 10 năm 1926 cho đến tháng 3 năm 1927,
Đảng cộng sản Trung Quốc đã tổ
chức ba cuộc bạo động võ trang tại
Thượng Hải, sau đó tấn công vào trung
ương quân Bắc phiệt, nhưng đã bị quân
Bắc phiệt đánh bại, giải trừ võ trang. Các
cuộc đình công tại Quảng Đông đã gây
đụng độ võ trang với cảnh sát hàng ngày.
Những tranh đấu đó đã dẫn đến
quyết định đại thanh trừ Đảng
Cộng Sản 'ngày 12 tháng 4' năm 1927 của Quốc Dân
Đảng [27].
Tháng 8 năm 1927,
các đảng viên Cộng sản trong Quân đội Cách
mạng Quốc Dân đã phát động bạo lực
tại Nam Xương, nhưng bị đàn áp ngay lập
tức. Đến tháng 9, Đảng cộng sản
lại phát động cuộc khởi nghĩa Mùa
thu hoạch tại Trường Sa, và cũng bị
đàn áp luôn. Bấy giờ Đảng cộng sản
Trung Quốc bắt đầu thực hành hệ thống
khống chế trong quân đội theo kiểu “chi bộ
Đảng là phải thành lập từ cấp đại
đội trong quân đội”, và rút chạy về
địa khu núi Cương
Sơn tỉnh Giang Tây [28] và thiết lập chính quyền
cục bộ nông thôn ở đó.
3. Bạo động nông dân tại Hồ Nam — Phát động bọn vô lại xã hội tạo phản.
Trong cuộc
Bắc phạt, lúc quân Cách mạng Quốc Dân đang lâm
chiến với quân phiệt, thì Đảng cộng
sản xúi giục tạo phản ở nông thôn để
cướp đoạt quyền lực.
Cuộc vận
động nổi dậy của nông dân tại Hồ Nam
năm 1927, là bạo loạn của bọn lưu manh,
cặn bã của xã hội, cũng giống như cuộc
nổi dậy tiếng tăm của Công Xã Pa-ri năm 1871
(khởi nghĩa Cộng Sản đầu tiên). Nhân dân Pháp
và người ngoại quốc tại Pa-ri đã chứng
kiến Công xã Pa-ri chính là bạo loạn của một
đám quân vô lại, mang tính phá hoại và không có lý
tưởng gì. Chúng ở những lâu đài xa hoa, tiêu xài
hoang phí, chơi bời khoái lạc, hưởng thụ
nhất thời, chứ không lo nghĩ đến
tương lai. Trong thời
kỳ bạo loạn của Công xã Pa-ri, chúng cấm báo chí.
Chúng bắt Georges Darboy (người thuyết giáo cho nhà vua)
làm con tin và sau đó bắn chết ông ta. Chúng tiêu khiển
bằng cách giết hại tàn độc 64 giáo sĩ,
đốt cung điện, đập phá dinh thự
của quan chức, nhà cửa của dân chúng, cũng
như tượng đài và cột khắc. Trước
đó Pháp là quốc gia giàu có nhất nhì ở Âu Châu, nguy nga
cũng vào bậc nhất. Tuy nhiên trong cuộc nổi
dậy của Công xã Pa-ri, điện đài bị
đốt thành tro, dân chúng bị tàn sát thành xương khô.
Tai họa thảm khốc tàn ác như thế, lịch
sử xưa nay thật hiếm có.
Mao Trạch
Đông thừa nhận: “Nông dân đúng là có phần ‘làm
loạn’ làng thôn. Nông hội có quyền lực cực cao,
khộng cho phép địa chủ mở miệng, mà còn
tước đoạt quyền tự do đó.
Điều này cũng bằng như đã đánh
địa chủ gục xuống đất, rồi còn
dẫm đạp lên nữa. Nông dân đe doạ: ‘ bọn
tao sẽ cho mày vào danh sách bọn phản động!’
Người giàu bị phạt tiền, bị bắt
đóng góp, ghế kiệu cũng bị đập bể
nát. Gia đình nào có người phản đối Nông
hội, thì đội nông dân xông thẳng vào nhà họ
giết heo lấy thóc lúa, còn dẫm đạp, nhổ
nước bọt lên giường khảm ngà của
tiểu thư con nhà giàu. Ai mà hé miệng một chút
liền bị chụp mũ giấy cao trên đầu
rồi trói lôi đi khắp làng, và mắng chửi họ
rằng: ‘Thằng địa chủ bần tiện kia! Hôm
nay mày đã biết chúng ta là ai chưa!’ Chúng muốn sao làm
vậy, đảo lộn tất cả mọi thứ bình
thường, và chúng đã tạo nên một loại
hiện tượng khủng bố như thế ở
thôn quê.” (Mao 1927)
Và Mao còn tán
dương: “Nói trắng ra. Nông thôn chỗ nào cũng
cần phải trải qua một thời kỳ khủng
bố như vậy. Nếu không thì không cách nào dẹp yên
bọn phản cách mạng ở nông thôn, lại càng không
thể lật đổ quyền lực của bọn nhà
giàu. Phải đẩy con người ta đến cùng
cực thì uốn nắn cái sai tất phải đúng,
nếu không thì sai không bao giờ thành đúng
được… Trong thời cách mạng, tưởng
như đó là những hành xử ‘thái quá’, nhưng thực
ra đó là những gì mà cách mạng cần.” (Mao 1927)
Cách mạng
của Cộng Sản đã dựng lập một hệ
thống khủng bố.
4. Đánh Nhật phía bắc — Thất bại trốn chạy
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc vẫn tuyên truyền rằng
cuộc trường chinh
của mình là cuộc chiến chống Nhật. Nó thổi
phồng cho đó là thần thoại cách mạng của
Trung Quốc, là ‘bản Tuyên
ngôn’, là ‘đội tuyên truyền’, là ‘ guồng máy gieo
mầm', là bước ngoặc đưa Đảng
Cộng Sản đến thắng lợi và đưa
kẻ thù đến thất bại.
Đó là tuyên
truyền bậy bạ quá trắng trợn. Cuộc
‘bắc tiến kháng Nhật’ là che đậy cho sự
thất bại thảm hại của Đảng Cộng
Sản. Từ tháng 10 năm 1933 đến tháng 1 năm
1934, Đảng Cộng Sản liên tiếp chịu thua
trận hoàn toàn. Trong cuộc tấn công lần thứ
năm của Quốc Dân Đảng nhằm bao vây và tiêu
diệt Đảng Cộng Sản, thì Đảng Cộng
Sản đã lần lượt mất các căn cứ
nông thôn cái này tới cái khác. Hồng Quân của Đảng
Cộng Sản buộc phải trốn chạy. Đó chính
là gốc thực sự của cuộc trường chinh.
Cuộc trường chinh thực ra là
nhắm vào việc phá vỡ vòng vây, chạy sang vùng
Ngoại Mông Cổ để cùng với quân Liên Xô làm thành
một vòng cung từ Tây sang Đông. Như vậy với
phía tây giáp Ngoại Mông Cổ, nếu không thủ
được sẽ rút lui về Liên Xô ở phía bắc.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã gặp
rất nhiều khó khăn trong cuộc hành quân đến
địa khu Ngoại Mông Cổ. Họ chọn con
đường đi qua Sơn Tây và Tuy Viễn, một
mặt có thể che đậy nói rằng họ lên vùng phía
bắc kháng Nhật để lấy lòng người dân,
một mặt vừa an toàn vì ở đó không có quân
Nhật. Bấy giờ quân Nhật chiếm giải
Vạn Lý Trường Thành lập thành chiến tuyến.
Sau một năm, khi quân trường chinh của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc thoát đến
Thiểm Bắc thì Hồng Quân chủ lực giảm
từ 800 ngàn xuống còn khoảng 6 ngàn.
5. Biến cố Tây An — Quỷ kế của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, quay lại ăn bám một lần nữa
Tháng 12 năm 1936,
Trương Học Lương và Dương Hổ Thành
(hai tướng của Quốc Dân Đảng) bắt cóc
Tưởng Giới Thạch ở Tây An. Sự kiện này
sau được gọi là biến
cố Tây An .
Theo sách giáo khoa mà
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) viết
cho dân chúng, thì biến cố Tây An là do hai tướng
Trương, Dương muốn ‘can gián bằng quân
lực’nên mang tối hậu thư sống hay chết cho
Tưởng Giới Thạch, bắt ép Tưởng
Giới Thạch phải chọn con đường
chống bọn Nhật xâm lăng, đồng thời
mời đại biểu của Đảng Cộng
Sản là Chu Ân Lai sang thương lượng một
giải pháp hòa bình. Dưới sự trung gian của các
nhóm khác nhau trong toàn quốc, biến cố này đã
giải quyết hoà bình, và nhờ vậy kết thúc 10
năm nội chiến, Đảng Cộng Sản và
Quốc Dân Đảng lại hợp tác thành một liên
minh quốc gia chống Nhật. Sách lịch sử của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc viết rằng
biến cố này là then chốt chuyển Trung Quốc ra
khỏi sự nguy cơ. Đảng cộng sản đã
tự tô vẽ mình như một đảng phái yêu
nước, và chúng thực thi vì lợi ích quốc gia
Thực ra càng
ngày càng có nhiều tài liệu vạch trần sự
kiện này. Trước ngày biến cố Tây An, ĐCSTQ
đã tụ tập rất nhiều gián điệp quanh
Dương Hổ Thành và Trương Học Lương.
Ví dụ: Lưu Đỉnh một đảng viên nằm
vùng của Đảng Cộng Sản do Tống Khánh Linh,
(vợ của Tôn Dật Tiên, chị của bà Tưởng
và là một đảng viên của Đảng Cộng
Sản) giới thiệu trở thành người thân tín
của Trương Học Lương, và đã có công trong
biến cố Tây An. Sau này khi luận công trạng, Mao
Trạch Đông biểu dương: “Biến cố Tây An,
Lưu Đỉnh có công lớn”. Phu nhân Tạ Bảo Chân,
vợ của Dương Hổ Thành, là đảng viên
Đảng Cộng Sản, và làm việc trong Ban chính
trị quân đội của Dương Hổ Thành. Cô ta
đã được Đảng Cộng Sản phê
chuẩn kết hôn với Dương Hổ Thành vào tháng 1
năm 1928. Đảng viên Vương Bình Nam, sau này trở
thành Thứ trưởng bộ Ngoại giao ĐCSTQ,
bấy giờ là thượng khách gia đình họ
Dương. Chính những người cộng sản thân
tín này ở chung quanh hai tướng Trương,
Dương đã trực tiếp xúi dục họ làm
phản trong cuộc binh biến này.
Trước khi
xảy ra biến cố, ban lãnh đạo Đảng
Cộng Sản Trung Quốc đều muốn ám sát
Tưởng Giới Thạch để trả thù. Lúc
ấy quân Đảng Cộng Sản đóng tại
Thiểm Bắc quá ít ỏi, lâm vào cảnh khốn cùng, có
thể bị tiêu diệt chỉ trong một trận. Do
đó ĐCSTQ dở mánh khoé lừa dối gian manh xúi
dục hai tướng Trương, Dương làm
phản. Nhưng Liên Xô lại muốn cầm chân quân
Nhật, không muốn quân Nhật dễ bề tấn công
Liên Xô từ phía nam, nên Stalin đã tự viết thư cho
trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, là
không được giết Tưởng Giới Thạch,
mà phải quay lại hợp tác với Quốc Dân
Đảng lần thứ hai. Mao Trạch Đông và Chu Ân
Lai cũng nhận định rằng, với quân lực
Đảng Cộng Sản Trung Quốc quá yếu, họ
không thể nào thắng được Quốc Dân
Đảng, cho dù có ám sát Tưởng Giới Thạch
được, thì khi quân Quốc Dân Đảng
đến báo thù, Đảng Cộng Sản Trung Quốc
sẽ bị tiêu diệt mất. Do vậy, Đảng
Cộng Sản thay đổi kế hoạch, lấy
hợp tác đánh Nhật làm danh nghĩa, bắt ép
Tưởng Giới Thạch đồng ý hợp tác
Quốc-Cộng lần thứ hai.
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc ban đầu sách động
binh biến nhằm ám toán Tưởng Giới Thạch,
nhưng sau lại xoay lại, đóng vai người hùng
trên sân khấu, bắt Tưởng Giới Thạch
phải chấp nhận Đảng Cộng Sản lần
thứ hai. Đảng Cộng Sản không những thoát
được nguy cơ diệt vong, mà còn được
thêm một cơ hội ăn bám lần thứ hai vào chính
phủ Quốc Dân Đảng. Không lâu sau đó, Hồng
Quân trở thành đoàn Bộ Binh số 8, lại có cơ
hội phát triển lớn mạnh hơn xưa. Sự gian giảo, dối trá
của Đảng cộng sản Trung Quốc, thật là
xứng danh cao thủ.
6. Chiến tranh kháng Nhật — Mượn dao giết người, để bành trướng bản thân
Trong sách giáo khoa
của Đảng Cộng Sản Trung Cộng viết là,
Đảng cộng sản lãnh đạo chiến tranh
kháng Nhật đến thắng lợi.
Thực ra khi
chiến tranh đánh Nhật bùng nổ, Quốc Dân
Đảng có hơn 1.7 triệu quân võ trang, chiến
hạm có sức bài nước 110 ngàn tấn, và khoảng
600 phi cơ chiến đấu các loại. Trong khi đó
tổng số quân của Đảng Cộng Sản,
kể cả Bộ Binh Tân Tứ thành lập vào tháng 11
năm 1937, không quá 70 ngàn người, đã thế còn
bị chia năm xẻ bảy vì tranh quyền chính trị
trong nội bộ. Nó yếu đến nỗi chỉ
cần một trận chiến là có thể bị tiêu
diệt hoàn toàn. ĐCSTQ biết rõ nếu thật sự
xuất quân đánh Nhật, thì sẽ nắm chắc
phần thua và mất binh quyền. Trong mắt của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc, vấn đề
“thống nhất chiến tuyến” với Quốc Dân
Đảng, là để chiếm đoạt quyền lãnh
đạo, chứ không phải vì sự tồn vong của
dân tộc Trung Hoa, do đó phương châm cho kế
hoạch của Đảng Cộng Sản là: “trong quá trình
hợp tác, nhất định phải đấu tranh
để tranh thủ các vị trí lãnh đạo, nhưng
chỉ nói điều này trong nội bộ Đảng”.
Sau biến
cố 18 tháng 9 năm 1931, quân Nhật chiếm đóng thành
phố Thẩm Dương, từ đó làm chủ một
vùng rộng lớn ở đông bắc Trung Quốc.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chiến
đấu sát vai với quân xâm lược Nhật Bản
để đánh bại quân Quốc Dân Đảng. Trong
'tuyên ngôn biến cố Mãn Châu', viết để đáp
ứng sự xâm lăng của quân Nhật, Đảng
Cộng Sản Trung Quốc kêu gọi nhân dân toàn quốc
lật đổ chính phủ Dân Quốc: “Ở khu vực
Quốc Dân Đảng thống trị, thì công nhân phải
bãi công, nông dân bạo động, học sinh bãi khoá, dân
nghèo bỏ việc, quân sỹ tạo phản”.
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc tay vẫy cao lá cờ kháng
Nhật, nhưng bên trong đang gom góp quân địa
phương cùng du kích và di chuyển đại đa
số quân binh khỏi chiến tuyến, chỉ để
lại rất ít quân đánh Nhật. Ngoại trừ vài
trận, trong đó có trận Bình Hình Quan, Đảng
Cộng Sản không đóng góp gì trong cuộc chiến
chống Nhật. Thay vào đó, nó tập trung năng
lực vào việc mở rộng địa bàn hoạt
động. Khi quân Nhật đầu hàng, Đảng
Cộng Sản thâu nạp hàng binh vào lực lượng
của nó, rồi thổi phồng mà tuyên bố rằng
quân đội Cộng Sản có hơn 900 ngàn quân chính quy
cộng với 2 triệu dân quân. Thực tế chỉ có
quân Quốc Dân Đảng đã ra chiến trường
đánh Nhật, bị chết hơn 200 viên tướng trong trận
chiến này, trong khi đó, Đảng Cộng Sản
hầu như không mất một viên tướng nào. Tuy
nhiên, Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn luôn
luôn tuyên truyền với dân
chúng rằng Quốc Dân Đảng không đánh Nhật, mà
là Đảng cộng sản Trung Quốc đã dẫn
dắt nhân dân đến thắng lợi lớn lao.
7. Chỉnh phong tại Diên An — Chế tạo một phương pháp đàn áp tàn bạo khủng khiếp
Chiêu bài ‘kháng
Nhật’ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đã thu hút được vô số thanh niên yêu nước
đến Diên An, nhưng cũng chính tại ‘cái nôi cách
mạng’ này, Đảng cộng sản Trung Quốc đã
thi triển cuộc ‘chỉnh phong’ (chỉnh đốn
nội bộ), đàn áp hàng ngàn hàng vạn thanh niên cách
mạng. Sau khi chiếm được chính quyền toàn
quốc, ĐCSTQ vẫn miêu tả Diên An là “thánh
địa” cách mạng, nhưng họ dấu nhẹm
tội ác về cuộc chỉnh phong này.
Cuộc vận
động ‘chỉnh phong’ Diên An là trò biểu diễn
quyền lực khủng bố nhất, hắc ám nhất,
tàn bạo nhất trong lịch sử con người. Lấy
danh nghĩa dọn sạch những độc hại
của giai cấp tiểu tư sản, ĐCSTQ đã
loại trừ hết tất cả những giá trị
của con người như văn minh, độc lập,
tự do, dung nhẫn, tôn nghiêm. Bước một của
cuộc chỉnh phong là lập hồ sơ nhân sự cho
từng đồng chí, gồm có (1) lý lịch tự
thuật, (2) niên phổ văn hoá chính trị mà ghi chép toàn
bộ quá trình chính trị và đào tạo, (3) quan hệ gia
đình và quan hệ xã hội, (4) tự thuật của cá
nhân về quá trình biến đổi tư tưởng, (5)
kiểm thảo Đảng tính.
Như vậy
mỗi hồ sơ nhân sự có đủ các thứ
như: những ai mà cá nhân đó đã từng có tiếp
xúc trong đời, những việc xảy đến trong
đời kèm theo thời gian, địa điểm.
Đương sự được yêu cầu khai đi
khai lại nhiều lần, nếu Đảng thấy có
chỗ không thống nhất lập tức đặt
vấn đề nghi vấn. Phải ghi tất cả những
hoạt động xã hội và quan hệ cá nhân, nhất là
những ai liên quan đến việc gia nhập
Đảng. Phải khai kỹ nhận thức cá nhân
về các hoạt động xã hội này. Quan trọng nhất
là bản kiểm thảo Đảng tính, cá nhân phải thú
tội nếu có bất cứ tư tưởng, hoặc
hành vi chống Đảng trong tư duy, lời nói, thái
độ công tác, sinh hoạt hàng ngày, cho đến mọi
giao tiếp xã hội. Tìm tòi kiểm tra xem sau khi vào
Đảng hoặc nhập ngũ rồi có theo
đuổi lợi ích cá nhân gì không, có lợi dụng công
tác cho lợi ích riêng hay không, có dao động nghi ngờ
tương lai của cách mạng hay không, có sợ chết
khi ra trận không, cho đến nhớ nhà nhớ
người thân hay không. Bởi vì không có một tiêu
chuẩn khách quan để đánh giá, nên một khi xoi mói
ra, thì hầu như ai cũng bị phát hiện là có
vấn đề.
Khi điều
tra cán bộ, Đảng Cộng Sản xử dụng các
thủ đoạn để bắt buộc họ ‘cung
khai’, rồi dùng để thanh lý ‘gian tế nội
bộ’, tất nhiên phải sinh ra vô số bản án oan
ức, giả tạo, sai lầm, rất nhiều cán
bộ bị hành quyết. Thời chỉnh phong, Diên An
được coi là một “nhà ngục tẩy sạch nhân
tính”. Một tổ công tác thẩm sát vào đóng trong
trường đại học Quân Chính để thẩm
tra cán bộ, gây một cuộc khủng bố Đỏ
đẫm máu suốt hai tháng. Đủ các thủ
đoạn vô nhân tính: cá nhân tự khai, tự khai
trước mặt người khác, nhóm khuyến cáo,
năm phút khuyến cáo, nói chuyện riêng, mở hội báo
cáo, truy tìm củ cải (ám chỉ cán bộ nào ngoài
đỏ trong trắng, ngoài miệng theo cộng sản
còn bên trong thì không), ‘ghi hình’ (đưa một nhóm lên trên
khán đài để người khác quan sát, hễ ai có gì
bất thường, lập
tức đặt vấn đề nghi vấn và cho đi
điều tra).
Ngay cả
những đại biểu từ Cộng sản Quốc
tế cũng chịu không nổi, nói rằng tình hình Diên An
đầy tang khí. Người ta không ai dám giao tiếp với
ai, ai cũng bụng đầy quỷ kế. Ai cũng
căng thẳng và lo sợ, thậm chí thấy bạn
bị phỉ báng chịu oan cũng không dám hé miệng nói
một lời, chỉ lo bảo vệ tính mạng của
mình thôi. Kẻ lưu manh côn đồ— a dua nịnh hót,
nhục mạ người khác, lươn lẹo lừa
dối —thì lại được trọng dụng.
Sống ở Diên An thật là tủi nhục. Con
người bị áp lực gần như phát điên,
chỉ biết lo cho tính mạng và bát cơm của mình,
quên cả liêm sỉ, quên cả bạn bè, không còn dám hé
răng nói gì khác ngoài tụng đi tụng lại những
bài viết của lãnh tụ Đảng.
Sau này khi
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đoạt
được chính quyền trong tay, đã chiếu theo
kiểu đàn áp này trong tất cả các vận
động chính trị.
8. Ba năm nội chiến Quốc-Cộng — Bán nước để đoạt quyền
Cách mạng giai
cấp tư sản tháng 2 năm 1917 tại Nga là một
cách mạng ôn hoà. Sa Hoàng xem trọng quốc gia dân tộc,
chỉ thoái vị chứ không phản kháng đến cùng.
Lê-Nin đã vội vàng từ Đức quay trở về
Nga, phát động cuộc thay đổi chính trị
một lần nữa, trong danh nghĩa cách mạng mà sát
hại những người giai cấp tư sản
vừa mới lật đổ Sa Hoàng, vì vậy đã bóp
chết cách mạng Tư sản ở nước Nga.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng theo cách
của Lenin, cướp trắng thành quả của
Quốc Dân Đảng. Ngay sau khi quân Nhật bại
trận, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã phát
động cuộc chiến tranh “giải phóng”(1946-1949)
để lật đổ
chính phủ Quốc Dân Đảng, mang tai họa chiến
tranh cho Trung Quốc một lần nữa.
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc nổi tiếng với lối
đánh biển người, thí quân chịu đạn. Các
trận đánh với quân Quốc Dân Đảng tại Liêu
Tây - Thẩm Dương, Bắc Kinh - Thiên Tân, cũng
như tại Hoài Hải[31], đã dùng chiến thuật
lấy thịt người làm bia đỡ đạn,
một chiến thuật nguyên thuỷ nhất, dã man và vô
nhân đạo nhất. Khi vây hãm Trường Xuân ở
đông bắc Trung Quốc, để cắt đứt
mọi nguồn cung ứng lương thực, Quân
đội Giải Phóng được lệnh cấm không
cho một người dân thường nào rời thành
phố. Kết quả là sau khi bị vây hãm trong hai tháng,
những người bị chết đói chết rét
gần 200 ngàn người. Nhưng quân giải phóng của
Đảng Cộng Sản vẫn không cho dân thường
ra vào. Tuy nhiên sau khi trận chiến chấm dứt ,
Đảng Cộng Sản Trung Quốc không một chút
hổ thẹn mà vẫn tuyên truyền rằng “giải
phóng Trường Xuân không phí một viên đạn”.
Từ năm 1947
đến năm 1948, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đã ký với Liên Xô “Hiệp định Cáp
Nhĩ Tân”, và “Hiệp định Mạc Tư Khoa” giao
nộp quyền lợi và tài nguyên quốc gia tại vùng
đông bắc Trung Quốc, để đổi lấy
ủng hộ toàn diện về ngoại giao và quân sự
từ Liên Xô. Trong những hiệp định song
phương này, Liên Xô cung cấp 50 phi cơ cho Đảng
Cộng Sản Trung Quốc; tất cả võ khí Liên Xô
cướp được từ quân Nhật đã
đầu hàng sẽ được bàn giao cho Đảng
Cộng Sản Trung Quốc làm hai đợt, và Liên Xô
sẽ bán với giá rẻ đạn dược và quân
dụng mà Liên Xô quản lý ở vùng đông bắc. Nếu
Quốc Dân Đảng dùng Lục quân, Không quân tấn công
lên vùng đông bắc, thì Liên Xô sẽ bí mật phối
hợp với Đảng Cộng Sản Trung Quốc tác
chiến. Ngoài ra Liên Xô còn hỗ trợ Đảng Cộng
Sản Trung Quốc đoạt chính quyền tại Tân
Cương thuộc tây bắc Trung Quốc; xây dựng
lực lượng không quân liên hợp Nga-Trung, cung cấp
quân trang cho 11 sư đoàn Đảng Cộng Sản Trung
Quốc, chuyển một phần ba võ khí Mỹ viện
trợ cho Liên Xô đến đông bắc Trung Quốc
(trị giá khoảng 13 tỉ Mỹ kim).
Để có
hỗ trợ từ Liên Xô, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc cam kết cho Liên Xô có đặc quyền giao thông
bằng đường bộ và đường không ở
vùng đông bắc; cung cấp cho Liên Xô các tin tình báo về
hoạt động quân sự của Quốc Dân
Đảng và Mỹ Quốc; cung cấp sản phẩm
chiến lược của vùng đông bắc (bông gòn,
đậu) và quân dụng cho Liên Xô, để đổi lấy
võ khí tối tân. Liên Xô được quyền ưu tiên
khai thác khoáng sản Trung Quốc, được quyền
đóng quân tại Tân Cương, và mở Cục tình báo
Viễn đông tại Trung Quốc. Nếu chiến tranh Âu
Châu bùng nổ, thì Đảng Cộng Sản Trung Quốc
sẽ phái 100 ngàn quân viễn chinh và 2 triệu người
lao động để hỗ trợ Liên Xô. Ngoài ra
Đảng Cộng Sản
Trung Quốc cam kết sẽ chuyển một số
đặc khu tỉnh Liêu Ninh, và tỉnh An Đông sang
nhập vào Đại Hàn.
III. Biểu hiện những nhân di truyền tà ác của Đảng Cộng Sản
1. Đặc trưng của lịch sử Đảng Cộng Sản — cảm giác lo sợ bất tận
Cảm giác
vĩnh viễn sợ hãi là đặc trưng lớn
nhất của Đảng cộng sản Trung Quốc
trong lịch sử Đảng, đã khiến vấn
đề sinh tồn trở thành lợi ích tối cao
của Đảng Cộng sản. Lợi ích đó đã
được sử dụng để vượt qua
nỗi lo sợ về sinh tồn mà ẩn dấu
dưới cái vỏ bề ngoài không ngừng biến
đổi của nó. Đảng Cộng Sản giống
như các tế bào ung thư ác tính, phân tán và thâm nhập
mỗi một bộ phận trong thân thể, giết
hại các tế bào tốt, phát triển độc tố
mà không thể kiềm chế nổi. Trong chu kỳ
lịch sử của chúng ta, xã hội chưa thể
giải quyết cái nhân biến dị như là Đảng
cộng sản và không có cách nào khác hơn là để nó lan
tràn tự do. Cái nhân di truyền biến dị này mạnh
mẽ hung hăng đến độ không có gì trong vòng
phát triển của nó mà có thể làm ngưng nó lại,
kết quả khiến xã hội càng ngày càng trở nên ô
nhiễm, chủ nghĩa Cộng Sản hoặc các nhân di
truyền của Cộng Sản càng ngày càng lan tràn tới
những vùng rộng lớn hơn. Những nhân di
truyền độc hại đó đã không ngừng
được Đảng cộng sản lợi dụng
và tăng cường, khiến xã hội nhân loại cùng
với đạo đức và giá trị nhân văn căn
bản ngày càng tệ hại.
Đảng
Cộng Sản không có đức tin, và phủ nhận
niềm tin vào nguyên tắc đạo nghĩa mà con
người xưa nay vẫn nhìn nhận. Tất cả
những nguyên tắc của Đảng hoàn toàn áp dụng
để phục vụ cho lợi ích tuyệt đối
của tập đoàn này. Căn bản của Đảng
Cộng Sản là ích kỷ, không có một nguyên tắc nào
có thể kiềm chế hoặc khống chế dục
vọng của nó. Dựa trên nguyên tắc của chính nó,
Đảng Cộng Sản cần liên tục thay
đổi cái vỏ bề ngoài, bằng cách khoác lên các
bộ áo mới. Trong giai đoạn đầu khi sự
sinh tồn của nó còn mong manh, Đảng Cộng Sản
Trung Quốc lúc ăn bám Đảng Cộng Sản Liên Xô,
lúc ăn bám Quốc Dân Đảng, ăn bám chính
phủ Quốc dân, ăn bám cuộc Cách mạng Quốc
Dân. Sau khi cướp đoạt chính quyền, Đảng
Cộng Sản lại tiếp tục gắn nó vào các
loại chủ nghĩa cơ hội khác nhau, gắn vào dân
ý dân tình, gắn vào các loại cơ chế xã hội và
thủ đoạn, gắn vào mọi thứ để
trục lợi. Mỗi lần lâm nguy, đối với
Đảng Cộng Sản, là một cơ hội thi
triển thủ đoạn các loại để gom thâu
quyền lực và làm mạnh mẽ các thủ đoạn
khống chế.
2. Những ‘bửu bối’ tà ác để lập Đảng của Đảng Cộng Sản.
Đảng
Cộng Sản tuyên bố rằng thắng lợi cách
mạng có được là nhờ vào ba ‘bửu bối’: thống
nhất chiến tuyến, đấu tranh võ trang,
và kiến thiết của Đảng. Qua Quốc Dân
Đảng, Đảng Cộng Sản thu thập thêm bài
học với hai điều mới: tuyên truyền và
gián điệp. Những đại ‘bửu bối’
ấy của Đảng Cộng Sản đều xuyên
suốt trong đó với chín yếu tố di truyền
của Đảng: tà ác, lừa dối, xúi bẩy, lưu
manh, gián điệp, trấn lột, đấu tranh,
diệt tuyệt, khống chế.
Chủ nghĩa
Marxism-Leninism là tà ác trong bản chất. Oái ăm thay,
đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc
thực ra không hiểu chủ nghĩa Marxism-Leninism là gì. Lâm
Bưu [32] từng nói: chẳng có mấy đảng viên
thực sự đọc tác phẩm của Karl Marx và Lenin.
Một đảng viên được công chúng coi là nhà
tư tưởng như Cù Thu Bạch [33] cũng thú
thật rằng bản thân ông mới đọc một
phần rất nhỏ các tác phẩm của Marx và Lenin.
Tư tưởng Mao Trạch Đông là cải biên của
chủ nghĩa Mác-Lê khi ứng dụng vào nông thôn, với
chủ trương kích động nông dân tạo phản.
Lý luận của Đặng Tiểu Bình là thuộc giai
đoạn sơ khởi của chủ nghĩa xã hội
và gắn thêm cái tên chủ nghĩa tư bản vào. Còn
thuyết “tam đại biểu” [34] của Giang Trạch
Dân thì chẳng có gì trong đó. Đảng Cộng Sản
Trung Quốc chưa bao giờ thực sự hiểu
chủ nghĩa Marxism-Leninism là gì, mà chỉ kế thừa
đặc tính tà ác của nó, hơn nữa Đảng
Cộng Sản Trung Quốc còn nhét thêm vào đó những
thứ tà ác hơn.
Đặc
biệt là bửu bối ‘thống nhất chiến
tuyến’ do Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đề xuất, chính là thủ đoạn lừa
dối và mua chuộc nhằm lợi dụng nhất
thời. Nhờ ‘thống nhất chiến tuyến’,
Đảng cộng sản Trung Quốc đã từ tình
trạng độc thân mà trở thành một băng
đảng lớn mạnh, mà thay đổi tỉ số
bạn bè của nó thành tỉ số kẻ thù của nó.
Thống nhất thì cần phải phân biệt: nhận rõ
ai là bạn và ai là kẻ thù, ai thuộc phe Tả, ai
thuộc cánh Hữu và ai ở giữa; ai cần thân
thiện và làm thân khi nào, ai phải tấn công và vào lúc nào.
Nó cũng dễ dàng xem kẻ thù khi trước trở
thành bè bạn, nhưng sau đó lại coi như kẻ thù.
Ví dụ, thời kỳ cách mạng Dân Chủ, Đảng
Cộng Sản Trung Quốc đoàn kết với giai
cấp tư sản, đến thời cách mạng Xã
hội chủ nghĩa thì tiêu diệt giai cấp tư
sản. Một ví dụ nữa là, lãnh đạo của
những đảng phái dân chủ như Chương Bá
Quân [35], La Long Cơ [36], đều được xem là các
ủng hộ viên cho Đảng Cộng Sản Trung
Quốc trong thời kỳ chiếm đoạt chính
quyền, nhưng sau đó nó lại khép họ theo ‘cánh
Hữu’ để tiêu diệt họ.
3. Đảng Cộng Sản là lưu manh chuyên nghiệp.
Đảng
Cộng Sản thành thạo món công phu hai mặt nhuyễn
công và, ngạnh công. Nhuyễn công (mềm) bao gồm:
tuyên truyền, thống nhất chiến tuyến, ly gián,
đặc vụ, phản gián, dao hai lưỡi, vuốt
ve lòng người, tẩy não, vu khống, lừa dối,
bưng bít sự thật, khủng bố tâm lý, đe
dọa tinh thần. Khi sử dụng các thủ
đoạn này, Đảng Cộng Sản đã tạo ra
triệu chứng của bệnh sợ hãi trong lòng
người dân mà đẩy họ đến cùng tột
để quên đi dễ dàng các sai lầm của
Đảng Cộng Sản. Đòn nhuyễn công chủ
yếu là để tiêu diệt nhân tính, khuyếch trương
ác tính. Ngạnh công (cứng) gồm có: bạo lực,
đấu tranh võ trang, trấn áp, vận động chính
trị (chỉnh phong, cách mạng văn hoá,…), sát nhân
diệt khẩu, bắt cóc, thanh trừ bất đồng
ý kiến, võ đấu, đàn áp có tính cách chu kỳ,…
Đòn ngạnh công giúp Đảng Cộng Sản chế
tạo và duy trì khủng bố.
Nhuyễn công và
ngạnh công kết hợp thành thạo: khi lỏng khi
chặt, có khi nới lỏng bề ngoài nhưng thắt
chặt bên trong. Lúc ‘nới lỏng’, Đảng Cộng
Sản khích lệ mọi người bày tỏ ý kiến
khác nhau, nhưng khi dụ rắn ra khỏi hang rồi, thì
khi ‘xiết chặt’ sau đó là lúc thanh trừng họ.
Đảng cộng sản Trung Quốc lúc nào cũng
lấy chiêu bài “dân chủ” để thách thức Quốc
Dân Đảng, nhưng các phần tử trí thức
tại khu vực Đảng Cộng Sản khống
chế mà không đồng ý kiến với Đảng thì
họ sẽ bị tra tấn hoặc ngay cả bị
chặt đầu. Điển hình là “sự kiện hoa
bách hợp dại” (hoa li-li dại): trong đó nhà trí
thức Vương Thực Vị (1906- 1947) người
đã viết bàí văn “Hoa bách hợp dại” để
bày tỏ lý tưởng của ông ta về công bằng, dân
chủ và chủ nghĩa nhân đạo liền bị kiểm
điểm và ngược đãi trong cuộc vận
động chỉnh phong Diên An, rồi sau bị
Đảng Cộng Sản Trung Quốc chém bằng rìu cho
đến chết năm 1947.
Theo hồi
ức một cán bộ kỳ cựu, trước đã
từng sống qua cuộc vận động chỉnh
phong Diên An, kể rằng bấy giờ bị lôi đi
thẩm vấn, rồi bị cưỡng ép mạnh
mẽ để cung khai, điều duy nhất anh ta có
thể làm là phản bội lương tri của chính mình
và nói dối. Sau đó quá đau khổ vì đã làm liên
luỵ đến đồng chí, và thấy rằng không
thể tự tha thứ cho mình được, nên muốn
tìm đến cái chết. Trùng hợp thay, lúc quẫn trí
ấy, thấy một khẩu súng đặt ngay trên bàn,
anh ta bèn chụp lấy, tự dí súng vào đầu và bóp cò.
Súng không có đạn! Cán bộ thẩm tra anh ta
bước vào phòng, nói: “Làm sai mà thừa nhận là tốt
rồi. Chính sách của Đảng là khoan hồng. Như
vậy, qua sự việc này Đảng biết anh đã
đến chỗ cùng cực rồi, biết anh thật
lòng “trung thành” với Đảng. Vậy là vượt qua
thử thách rồi”.
Đảng Cộng Sản nói chung thường
đặt người ta vào tử địa lúc
đầu rồi sau đó thích thú nhìn sự đau đớn
và sỉ nhục của họ. Khi người ta đã
tới giới hạn và chỉ mong được
chết cho hết đau đớn, thì Đảng
Cộng Sản lại “tử tế” thò mặt ra
để chỉ cho họ một con đường
sống. Có câu “ thà sống hèn hạ còn hơn là chết
như anh hùng”. Họ sẽ
biết ơn Đảng như là một vị cứu tinh.
Nhiều năm sau, người cán bộ này ở
Hương Cảng đã biết đến Pháp Luân Công,
một môn khí công tu luyện mà khởi đầu ở
Trung Quốc, và thấy rằng học Pháp Luân Công tốt
lắm. Tuy nhiên khi sự
đàn áp Pháp Luân Công bắt đầu năm 1999, hồi
ức khủng khiếp kia quay trở lại ám ảnh, và ông
ta không dám nói Pháp Luân Công tốt nữa.
Hoàng đế
cuối cùng của Trung Quốc, Phổ Nghi [37] cũng
trải qua tình trạng tương tự. Khi bị
Đảng Cộng Sản Trung Quốc giam giữ, vì liên
tục chứng kiến cái chết của những
người bị tử hình, nên ông ta nghĩ rằng mình
cũng sẽ sớm bị xử trảm. Xuất phát
từ bản năng sinh tồn, ông ta đã tự
động chịu nhận tẩy não, và phục tùng
bọn cai tù. Sau đó ông đã viết tự truyện
“Nửa đời trước của tôi” mà
được Đảng Cộng Sản dùng như
một ví dụ thành công về ‘cải tạo tư tưởng’.
Theo một nghiên
cứu của Y học hiện đại, được
biết với cái tên là triệu chứng Stockholm, sau
một thời gian bị khủng bố kèm theo sự xa rời
khỏi xã hội, nạn nhân hình thành một tâm lý dị
thường, một quan hệ ‘tuỳ thuộc’ một
cách vô ý thức vào kẻ khủng bố, đến
mức vui buồn sướng khổ đều phụ
thuộc vào kẻ khủng bố. Khi nạn nhân bị
bẫy vào tâm lý dị thường ấy, gặp lúc
kẻ khủng bố nương nhẹ, có khi còn cảm
thấy biết ơn, thậm chí ‘yêu mến’ kẻ
khủng bố. Hiện tượng tâm lý học này đã
được Đảng Cộng Sản vận dụng
từ lâu một cách thành công để khống chế tinh
thần, cải tạo, và tẩy não đối với
kẻ thù và với cả người dân.
4. Đảng là tà ác nhất.
Mười
người tổng bí thư đầu tiên của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
đều có kết cục trở thành ‘phần tử
phản Đảng’ và bị triệt hạ không một
ngoại lệ. Rõ ràng Đảng Cộng Sản có
đời sống riêng của nó, với một thân
thể độc lập, và Đảng quyết
định vận mệnh của người lãnh
đạo chứ không phải người lãnh đạo
quyết định vận mệnh của Đảng
Cộng Sản. Tại “biệt khu Sô Viết” ở
tỉnh Giang Tây, khi bị quân đội chính phủ
Quốc Dân Đảng bao vây rất khó mà sống sót ,
thế mà ĐCSTQ vẫn thanh
trừng nội bộ với danh nghĩa dọn sạch
phần tử “phản
lại Bolshevich” (Phần Tử AB hay Anti-Bolshevik) [38], và đã xử tử rất
nhiều quân lính của mình vào ban đêm hoặc thậm chí
lấy đá đập chết để tiết kiệm
đạn. Tại Thiểm Bắc, khi bị chèn giữa
quân Nhật và quân Quốc Dân Đảng, phải
đối mặt sinh tử, mà vẫn lấy danh nghĩa
chỉnh phong Diên An để tiến hành thanh trừng
nội bộ, giết người vô số. Những
cuộc tàn sát các phần tử ‘phản Đảng’ trong
nội bộ mà lặp đi lặp lại có tính cách
đại quy mô như thế cũng không ngăn cản
được việc khuyếch trương quyền
lực của Đảng Cộng Sản, để
cuối cùng là thống trị toàn Trung Quốc. Đảng
Cộng Sản Trung Quốc đã bành trướng thủ
đoạn thanh trừng nội bộ và giết lẫn
nhau từ khu vực Sô Viết nhỏ cho đến toàn
quốc.
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc giống như một cái
bướu ác tính: trong quá trình bành trướng nhanh chóng
của nó, trung tâm khối u đã chết, nhưng nó
vẫn liên tục lan rộng tới những tế bào bình
thường ở vòng bên ngoài. Sau khi các bộ phận trong
thân thể đã bị thâm nhập, thì một khối ung
nhọt mới mọc lên. Bất luận một con
người kia ban đầu là tốt hay xấu
đến đâu, một khi gia nhập Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, liền bị biến thành
một phần tử của lực lượng phá
hoại. Ai càng chân chánh thì càng tin tưởng thật
sự, và tánh phá hoại càng mạnh. Không nghi ngờ gì
nữa, cái bướu Cộng Sản sẽ tiếp
tục tăng trưởng cho tới khi cơ thể
bị triệt để hủy hoại thì khi đó là
thời kỳ tử vong của nó rồi. Cái bướu
nhất định phải chết
Sáng lập viên
Đảng cộng sản Trung Quốc và cũng là một
phần tử trí thức lãnh đạo cuộc vận
động văn hóa ngày 4 tháng 5 năm 1919, Trần Độc
Tú, vốn không ưa bạo lực, đã cảnh cáo các
đảng viên cộng sản rằng nếu tìm cách ép
buộc Quốc Dân Đảng đi theo ý thức cộng
sản, hoặc quá chạy theo giành giật quyền lãnh
đạo, thì sẽ dẫn đến quan hệ căng
thẳng trong nội bộ. Tuy rất quyết liệt
trong cuộc vận động 4 tháng 5 nhưng ông là
người có lòng khoan dung. Tuy vậy Trần Độc Tú
vẫn không tránh khỏi là một trong những
người đầu tiên bị chụp mũ là phần
tử của “chủ nghĩa cơ hội thuộc cánh
Hữu”.
Một lãnh
đạo khác trong Đảng Cộng Sản Trung
Quốc, Cù Thu Bạch, luôn tin tưởng rằng đã là
người cộng sản thì phải dấn thân chinh
chiến, dấy động binh đao, tổ chức
bạo động, phá bỏ tất cả các cấp chính
quyền, dùng các biện pháp cực đoan để khôi
phục trật tự cho xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên,
trước lúc lìa đời, Cù Thu Bạch đã thú
nhận rằng “ Tôi thực không có ý nguyện làm liệt
sĩ mà chết. Tôi, trên thực chất đã ra khỏi
đội ngũ của các bạn từ lâu. Hỡi
trời xanh! Lịch sử trêu tôi, lôi kéo tôi từ một
‘văn nhân’ bị cưỡng bách vào võ đài chính trị
bao năm trường. Tôi, cho tới phút chót vẫn không
thể khắc phục được ý thức thân sĩ
của chính mình. Rốt cuộc tôi vẫn không thể
trở thành người chiến sĩ của giai cấp
vô sản”.[39]
Vương Minh,
một lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, tuân theo lệnh Cộng sản Quốc
Tế, đã chủ trương hợp tác
Quốc-Cộng để kháng Nhật, chứ không mở
rộng địa bàn hoạt động cho Đảng
Cộng Sản. Tại đại hội Đảng, Mao
Trạch Đông và Trương Văn Thiên [40] không thể
thuyết phục đồng chí Vương Minh, và cũng
cực kỳ khó xử vì không dám tiết lộ rằng
lực lượng Hồng Quân của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc bấy giờ không đủ sức
đương đầu với dù chỉ một sư
đoàn quân Nhật. Nếu theo cái lý thông thường, và
Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất binh, thì
lịch sử Trung Quốc sẽ không thành ra như ngày nay.
Bị ép theo văn hoá truyền thống của
người chủ dẫn là “quên mình giữ nghĩa”, Mao
Trạch Đông chỉ còn cách im lặng. Sau này Vương
Minh bị hất cẳng, đầu tiên là vì lệch sang
‘Tả khuynh’, rồi sau đó bị gắn tội là
phần tử của ‘cơ hội chủ nghĩa
thuộc cánh Hữu’.
Hồ Diệu
Bang, một Tổng Bí Thư Đảng khác, đã bị bức bách từ
chức tháng 1 năm 1987 vì đã từng chủ
trương ‘sửa sai’ và trả lại công lý cho những
ai bị xử oan trong cuộc vận động chính
trị trước đó là Cách mạng Văn hoá. Hồ
Diệu Bang muốn cải thiện cho Đảng Cộng
Sản bằng lương tâm của một công dân,
kết quả vẫn bị đánh hạ xuống.
Triệu Tử
Dương [41], Tổng Bí Thư Đảng Cộng
Sản Trung Quốc bị hạ bệ gần đây
nhất, muốn cải cách để cứu vãn
Đảng cộng sản, nhưng hành động của
ông chỉ mang lại kết quả bi đát cho mình.
Như vậy,
mỗi lãnh đạo mới của Đảng Cộng
Sản có thể làm được gì đây? Nếu
thật sự phải cải cách Đảng cộng
sản, thì Đảng cộng sản sẽ diệt vong.
Do đó, những lãnh tụ chủ trương cải cách
Đảng Cộng Sản sẽ thấy quyền lực
hợp pháp của mình bị Đảng lấy đi ngay
lập tức. Những thứ mà đảng viên muốn
tự mình cải biến cơ chế của Đảng
Cộng Sản là cũng có giới hạn. Do đó,
mọi cố gắng cải cách bản thân của
Đảng Cộng Sản đều không thể thành công.
Tất cả
lãnh đạo trong Đảng cộng sản đều
là xấu xa, vậy tại sao cách mạng không những
vẫn tiến hành mà còn mở rộng? Nhiều khi vào lúc
tà ác nhất, thì người lãnh đạo cao nhất
của Đảng Cộng Sản bị hạ bệ,
bởi vì tà ác trong họ không đạt đủ tiêu
chuẩn của Đảng, chỉ những ai tà ác
nhất mới được Đảng Cộng Sản
chọn lựa. Những người lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản thường có kết
thúc bi thảm, còn bản thân Đảng vẫn ngoan cố
sống sót. Những lãnh đạo trụ vững
được không phải là những người có
thể thao túng Đảng, mà trái lại hiểu thấu
Đảng, thuận theo ý định tà ác của
Đảng, có thể gia trì năng lượng cho
Đảng, có thể giúp đỡ Đảng qua khỏi
cơn nguy. Không lạ gì, đảng viên của
Đảng Cộng Sản dám đấu với trời,
đấu với đất, đấu với
người, nhưng không dám đấu với Đảng.
Họ là những công cụ thuần phục của
Đảng, đến rốt cùng thì đó chính là sự
lợi dụng lẫn nhau.
Lưu manh du côn
vẫn là nhân di truyền có một không hai của Đảng
Cộng Sản cho đến tận ngày nay. Mọi sai
lầm của Đảng đều do cá nhân đảng
viên lãnh đạo làm thành, như là do Trương Quốc
Đảo [42], hoặc là do bè lũ bốn tên (Tứ Nhân
Bang) [43],… Đảng xét Mao Trạch Đông có 7 phần công
3 phần sai lầm. Đặng Tiểu Bình tự xét mình
có 6 phần công 4 phần sai lầm. Bản thân Đảng
không bao giờ sai. Mà dẫu Đảng có sai lầm
rồi, thì Đảng sẽ tự sửa lại cho
đúng. Đảng bắt các đảng viên luôn phải “
nhìn hướng trước”, chứ không “bận rộn
về những chuyện cũ xưa”. Mọi thứ có
thể thay đổi, như: Thiên đường nhân gian
của chủ nghĩa Cộng Sản đều bị
rơi xuống mà biến thành no ấm của chủ
nghĩa Xã Hội. Chủ nghĩa Marxism-Leninism
được chuyển thành chỉ lệnh của “Tam
đại biểu”. Người ta không nên ngạc nhiên
nếu thấy Đảng cộng sản hô hào dân chủ,
mở cửa cho tự do tôn giáo, hoặc sau một đêm
hất cẳng Giang Trạch Dân, ‘sửa sai’ cuộc đàn
áp Pháp Luân Công. Nhưng có những thứ mà không cải
biến được, đó chính là mục tiêu của
tập đoàn Đảng Cộng Sản, sự sinh tồn của tập
đoàn, và tôn chỉ cho quyền lực của tập
đoàn không đổi, sự duy trì quyền lực và
thống trị của Đảng Cộng Sản là không
đổi.
Đảng cộng sản
lấy bạo lực, khủng bố và tuyên truyền cao
độ làm cương lĩnh lý luận cho Đảng,
hoá thành Đảng tính, và nguyên tắc tối cao của
Đảng, hoá thành linh hồn của người lãnh
đạo, hoá thành chuẩn mực quy tắc cho mọi
cơ chế vận hành trong Đảng cũng như cho
hành vi của tất cả đảng viên. Đảng
cộng sản là Đảng cứng rắn, kỷ
luật sắt đá, ý chí thống nhất, và hành
động của đảng viên trong toàn đảng
bắt buộc phải nhất trí.
Lời kết
Lực
lượng nào trong lịch sử đã lựa chọn
Đảng cộng sản? Tại sao không chọn khác
đi mà lại chọn Đảng Cộng Sản Trung
Quốc? Chúng ta đều biết rằng trên thế
giới tồn tại hai loại thế lực, hai
loại lựa chọn. Một loại là thế lực
cũ tà ác, chúng muốn làm điều ác, lựa chọn
những gì thuộc phương diện Âm. Còn thế
lực kia là chân chính, là tốt, muốn chọn
điều tốt, lựa chọn phương diện
Thiện. Đảng cộng sản là lựa chọn
của thế lực cũ. Chọn Đảng Cộng
Sản chính là vì Đảng Cộng Sản hội tụ
đầy đủ mọi tà ác khắp trên thế
giới từ xưa đến nay, là đại biểu
tập trung cho tà ác nhất. Bấy giờ, nó đã lợi
dụng và chà đạp lên bản tính lương thiện
của con người, rồi từng bước,
từng bước một trở thành một lực
lượng phá hoại của hôm nay.
Đảng
Cộng Sản luôn luôn tuyên truyền “không có Đảng
Cộng Sản thì không có Trung Quốc mới” là ý nghĩa
gì? Từ khi thành lập
năm 1921 cho đến khi Đảng Cộng Sản
chiếm đoạt chính quyền năm 1949, sự
thật chứng minh rằng nếu không có máu tanh và giảo
hoạt dối trá thì Đảng cộng sản cũng
không có thiên hạ của nó. Đảng Cộng Sản
Trung Quốc không giống với bất kỳ đoàn
thể nào khác trong lịch sử, bởi vì nó chiếu theo
tư tưởng của Karl Marx và Lenin để chế
ra lý luận, nó tuỳ theo dục vọng mà làm càn, nó có
thể chế tạo lý luận để hợp thức
hoá những hành động tà ác của mình, khiến
phần đông dân chúng bị lừa dối. Nó vừa
bưng bít thông tin, vừa tuyên truyền đủ loại
mỗi ngày, mỗi lúc choàng lên đủ thứ chính sách,
sách lược và lý luận để người ta
tưởng rằng nó luôn luôn đúng.
Sự dựng
nghiệp của Đảng Cộng Sản Trung Quốc là
một quá trình hoàn toàn tích tụ tà ác không có chút xíu vẻ
vang nào mà có thể nói được. Lịch sử dựng
nghiệp của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
chỉ rõ rằng chính quyền của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc không hề có tính cách hợp pháp. Nhân dân
Trung Quốc không hề lựa chọn Đảng cộng
sản, mà chính là Đảng cộng sản — một
thứ tà linh ngoại lai — đã cưỡng chế
để chui vào nhân dân Trung Quốc bằng cách áp dụng
đủ loại nhân di truyền mà nó kế thừa
từ Đảng Cộng Sản là: tà ác, lừa dối,
xúi bẩy, lưu manh, gián điệp, trấn lột,
đấu tranh, tiêu diệt, khống chế.
Chú thích:
[1] Thuyết văn giải tự,
cuốn sách giải nghĩa của chữ Hán , năm 147
sau công nguyên.
[2] Zhu xi, Luận Ngữ Chú Thích Sưu
Tập.
Xem http://www.confucius2000.com/confucius/lunyujzh7.htm
(bằng tiếng Hán)
[3] Xem http://www.epochtimes.com/gb/2/4/5/n181606.htm
(bằng tiếng Hán)
[4] Lời bài hát Quốc
tế ca của cộng sản: “Vùng lên hỡi các nô
lệ ở thế gian…”
[5] Mao Trạch
Đông, Bản Báo Cáo Về
Cuộc Điều Tra Về Phong Trào Nông Dân Ở Hồ
Nam (1927)
[6] Trong huyền
thoại dân gian Trung Quốc, Bạch Mao Nữ là
một câu chuyện về một tiên nữ sống trong
một hang động có các khả năng siêu
thường có thể thưởng cho những
người làm việc tốt và phạt những kẻ
làm điều ác, ủng hộ chính nghĩa và trấn áp tà
ác. Tuy nhiên, trong các vở kịch, opera và ballet ở Trung
Quốc hiện đại, cô bị mô tả như
một cô gái buộc phải chạy trốn đến
một cái hang sau khi cha cô bị đánh đến chết
vì từ chối không gả cô cho một người
địa chủ già. Cô bị bạc tóc vì thiếu dinh
dưỡng. Dưới ngòi bút của các nhà văn theo
ĐCSTQ, huyền thoại này đã bị biến thành
một trong những vở kịch “hiện đại”
nổi tiếng nhất ở Trung Quốc nhằm
để kích động lòng hận thù giai cấp
đối với những người địa chủ.
[7] Vô sản
lưu manh: chỉ những phần tử vô sản
sống ngoài pháp luật (ăn xin, đĩ điếm,
móc túi, trộm cắp, lừa đảo, cướp
giật,…) quần tụ ở một số khu ổ chuột
của thành phố công nghiệp, thường là hậu
quả của đào thải nhân công, và họ trở nên
thối nát. Đây là thuật ngữ do Karl Marx đưa ra
trong Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848–1850.
[8] Karl Marx and Frederick Engels, Bản tuyên ngôn
Cộng sản (1848).
[9] Mao
Trạch Đông (1927)
[10] Chu Ân Lai
(5/3/1898–8/1/1976): lãnh tụ số hai ngay sau Mao Trạch
Đông trong Đảng cộng sản Trung Quốc,
giữ chức Thủ tướng ĐCSTQ từ 1949 cho
đến hết đời.
[11] Cố
Thuận Chương ban đầu là một trong
những đặc vụ hàng đầu của ĐCSTQ.
Năm 1931 bị Quốc Dân Đảng bắt và đã giúp
Quốc Dân Đảng phát hiện một số bí mật
của ĐCSTQ. Sau này cả gia đình 8 người
của Cố Thuận Chương đều bị
bức tử. Xem Lịch sử ám sát của ĐCSTQ
(http://english.epochtimes.com/news/4-7-14/22421.html).
[12] Nội
chiến giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và
Quốc Dân Đảng từ tháng 6 năm 1946. Trải qua
ba chiến dịch lớn, chính quyền Quốc Dân Đảng
bị lật đổ, và Đảng cộng sản Trung
Quốc lập ra nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vào 1
tháng 10 năm 1949.
[13] Tưởng
Giới Thạch: lãnh tụ Quốc Dân Đảng, sau
khi thất trận đã lưu vong và trở thành lãnh
tụ Đài Loan.
[14] Hồ Tôn Nam
(1896-1962), nguyên quán ở quận Tiểu Phong, tỉnh
Quế Giang. Ông ta đã từng là Phó Tư Lệnh, Tư Lệnh
Uỷ Nhiệm và là Tổng Tham Mưu Trưởng của
quân đội Quốc Dân Đảng vùng Tây Bắc và các
bộ chỉ huy hành chánh.
[15] Lý Tiên
Niệm (1902 – 1992), cựu chủ tịch Trung Quốc
(1983-1988) và chủ tịch Hội nghị Cố vấn
Chính trị Nhân dân Trung Quốc (1988-1992). Ông ta đã đóng
một vai trò quan
trọng trong việc trợ giúp Đặng Tiểu Bình
dành lại quyền hành vào lúc cuối của cuộc Cách
Mạng Văn Hóa vào tháng 10 năm 1976.
[16] Mao Trạch
Đông (1927)
[17] Mao Trạch
Đông (1927)
[18] Khi bắt
đầu Cải cách ruộng đất, ĐCSTQ phân tách
nhân dân thành các giai cấp. Trong những giai cấp thù
địch thì trí thức đứng ở hàng thứ 9 bên
cạnh địa chủ, Hán gian, phản quốc,…
[19] Hồ
Cảnh Đào. Bài diễn
văn trong đại hội kỷ niệm 100 năm ngày
sinh nhật của Mhậm Bật Thời (30 tháng tư
năm 2004)
[20] Trích từ
một bài thơ của Tư Mã Thiên ( khoảng 140-87
trước Tây Lịch), một Sử Gia và là một
Học Giả vào thời Tây Hán. Bài thơ nổi tiếng
của ông ta nói: “Mọi người đều phải
chết; có người xem cái chết nhẹ như lông
hồng hay nặng hơn núi Thái Sơn.” Núi Thái Sơn là
một trong những ngọn núi chính ở Trung Quốc.
[21] Mao Trạch Đông, Chế độ
Độc Tài Dân chủ Nhân dân (1949).
[22]Yang
Kuisong (30 tháng sáu năm 2004). Một
yếu lược về sự ủng hộ tài chánh
Mạc Tư Khoa đã cung cấp cho ĐCSTQ từ
thập niên 1920 cho đến thập niên 1940.
http://www.cuhk.edu.hk/ics/21c/supplem/essay/040313a.htm (bằng tiếng Hán)
[23] Bắc
phạt: Chiến dịch quân sự do Quốc Dân
Đảng lãnh đạo với mục đích thống
nhất Trung Quốc dưới quyền Quốc Dân
Đảng, kết thúc giai đoạn làm chủ của
quân phiệt lãnh chúa.
[24] Cách mạng
Quốc dân: Cách mạng thời liên minh Quốc-Cộng,
đánh dấu bởi chiến dịch Bắc phạt.
[25] Tôn Dật
Tiên (Tôn Trung Sơn): Lãnh tụ sáng lập ra Trung Quốc
hiện đại.
[26] Quân Cách
mạng Quốc dân: tức là quân đội nước
Trung Hoa Dân Quốc, do Quốc Dân Đảng lãnh
đạo, trong thời liên minh Quốc-Cộng, cũng có
đảng viên cộng sản tham gia.
[27] Đại
thanh trừ 12 tháng 4: Quốc Dân Đảng do
Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, ngày 12 tháng 4
năm 1927 đã khởi binh triệt hạ Đảng
cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải và
một số thành phố khác. Khoảng 5.000 đến
6.000 đảng viên cộng sản đã bị bắt và
nhiều người bị chết trong khoảng thời
gian từ 12 tháng 4 cho đến hết năm 1927.
[28] Vùng núi
Jinggangshan được coi là căn cứ cách mạng thôn
quê đầu tiên của ĐCSTQ và còn được
gọi là “cái nôi của Hồng Quân”.
[29] Mao Trạch
Đông (1927)
[30] Mao Trạch
Đông (1927)
[31] Liễu
Tây-Thẩm Dương, Bắc Kinh-Thiên Tân, và Hoài-Hải là
ba chiến trường chính mà ĐCSTQ đã đánh
với Quốc Dân Đảng từ tháng chín 1948 cho tới
tháng giêng 1949 và đã tiêu diệt rất nhiều bộ
đội Quốc Dân Đảng. Hàng triệu sinh mạng
đã bị hủy diệt trong ba chiến trường
này.
[32] Lâm Bưu
(1907-1971), một lãnh tụ cao cấp trong Đảng
Cộng sản, dưới thời Mao Trạch Đông,
đã là uỷ viên Bộ Chính trị, là Phó Chủ tịch
nhà nước (1958), và Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng (1959). Lâm Bưu được coi là kiến trúc sư
của Cách mạng Văn hoá. Lâm Bưu từng
được chọn là người kế nhiệm Mao
Trạch Đông năm 1966 nhưng sau đó bị thất
sủng vào năm 1970. Thấy bị xuống dốc, Lâm
Bưu (theo một số báo cáo) đã định làm
một vụ tầy đình và định đào tẩu
sang Liên Xô sau khi âm mưu bại lộ. Khi chạy trốn
khỏi trừng phạt, máy bay đã nổ tại Mông Cô,
kết thúc cuộc đời Lâm Bưu.
[33] Cù Thu
Bạch (1899-1935): một trong những đảng viên
từ hồi ĐCSTQ còn non trẻ và là cây bút cánh Tả
lừng danh; bị Quốc Dân Đảng bắt ngày 23
tháng 2 năm 1935, và chết ngày 18 tháng 6 năm ấy.
[34] Học
thuyết tam đại biểu của Giang Trạch
Dân được nhắc đến lần đầu
trong bài phát biểu của Giang tháng 2 năm 2000, đại
ý là Đảng cộng sản Trung Quốc phải luôn luôn
(1) đại biểu cho quyền lợi dân tộc Trung
Hoa, (2) đại biểu cho sự phát triển hiện
đại, (3) đại biểu cho nền văn hoá tiên
tiến của Trung Quốc.
[35] Trương
Bá Quân (1895-1969) là một trong những người sáng
lập ra Trung Quốc Dân Chủ Hội, một
đảng phái dân chủ ở Trung Quốc. Ông ta bị
Mao Trạch Đông xếp vào người cánh hữu số
một năm 1957 và là một trong số ít người cánh
hữu không được khôi phục lại sau Cách
Mạng Văn Hóa.
[36] La Long Cơ
(1898-1965) là một trong những người sáng lập ra
Trung Quốc Dân Chủ
Hội. Ông ta bị Mao Trạch Đông xếp vào
người cánh hữu năm 1958 và là một trong số ít người cánh hữu không
được khôi phục lại sau Cách Mạng Văn Hóa
[37] Phổ Nghi
(1906–1967): Hoàng đế cuối cùng (1908–1912) của Trung
Hoa. Sau khi ông thoái vị, chính quyền Dân quốc cho ông
một khoản hưu trí rất lớn và để ông
ngụ tại Cấm Thành, Bắc Kinh đến năm 1924.
Sau 1925, ông sống tại Thiên Tân do quân Nhật tiếp
quản. Năm 1934 ông trở thành vua của chính quyền bù
nhìn Mãn Châu Quốc do quân Nhật dựng lên. Sau đó, ông
bị quân Nga bắt làm tù binh năm 1945. Năm 1946, tại
toà án tội phạm chiến tranh ở Tô-ky-ô, ông tuyên
bố rằng mình đã bị quân Nhật cưỡng ép
trở thành công cụ cho chúng, chứ không phải là công
cụ của chính quyền Mãn Châu Quốc. Ông bị trao
trả cho ĐCSTQ năm 1950 và bị giam tại Thẩm
Dương cho đến năm 1959. Sau đó Mao Trạch
Đông ân xá trả tự do cho ông.
[38] Đây là
một biến cố về sự đấu tranh nội
bộ của ĐCSTQ vào năm 1930 khi Mao Trạch Đông
hạ lệnh giết chết hàng ngàn đảng viên
cũng như lính của Hồng Quân và những
người dân vô tội ở tỉnh Giang Tây với
mục đích để củng cố quyền hành
của Mao trong những vùng kiểm soát bởi ĐCSTQ.
Muốn thêm chi tiết xin xem http://kanzhonggua.com/news/articles/4/4/27/64064.htm
(bằng tiếng Hán).
[39] Cù Thu Bạch,
Một Vài Chữ Nữa (23
tháng 5 năm 1935). Tác phẩm này được viết
trước khi ông ta chết ( ngày 18 tháng 6 năm 1935).
[40] Trương
Văn Thiên (1900-1976) là một lãnh tụ quan trọng
của ĐCSTQ từ thập niên 1930. Ông ta đã từng
là Phó Tổng Trưởng Ngoại Giao của Trung Quốc
từ năm 1954-1960. Ông ta bị xử tội chết
năm 1976 trong thời Cách Mạng Văn Hóa. Hồ sơ
của ông ta được phục hồi vào tháng tám 1979.
[41] Triệu Tử
Dương: người cuối cùng trong 10 Tổng Bí
Thư ĐCSTQ bị hạ bệ. Ông bị khai trừ vì
bất đồng ý kiến với Đảng trong vụ
dùng bạo lực thảm sát biểu tình đòi dân chủ
của sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn
năm 4 tháng 6 năm 1989.
[42] Trương
Quốc Đảo (1897-1979) là một trong những
người sáng lập ĐCSTQ. Ông ta bị loại
trừ ra khỏi ĐCSTQ vào tháng tư năm 1938. Ông ta
trốn qua Đài Loan vào tháng 11 năm1948, rồi qua Hồng
Kông năm 1949. Ông ta di trú vào Canada vào năm 1968.
[43] Bè lũ
bốn tên: gồm vợ Mao Trạch Đông là Giang Thanh
(1913-1991), viên chức Ban Tuyên giáo Thượng Hải
Trương Xuân Kiều (1917-1991), nhà phê bình văn học
Diệu Văn Nguyên (1931-), và cảnh vệ Thượng
Hải Vương Hồng Văn (1935-1992). Họ thâu
đoạt quyền hành thời Cách mạng Văn hoá
(1966-1976) và lũng đoạn chính trị Trung Quốc
đầu những năm thập kỷ 1970.
Copyright © 2004
DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
BÀI BÌNH LUẬN SỐ III.
Chính Quyền Bạo Lực của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Lời mở đầu
Bạo
chính bị bắt quả tang trong hình chụp:
Cảnh sát Trung
Quốc đồng phục và thường phục
bắt giam các học viên Pháp Luân Công đến kháng cáo ôn
hòa tại quảng trường Thiên An Môn để
chấm dứt sự đàn áp, Tháng 7, 2001 (Clearwisdom)
|
Nói về “bạo chính”,
hầu hết những người Trung Hoa sẽ liên
tưởng đến Tần Thủy Hoàng (259-210 B.C.),
hoàng đế đầu tiên của triều đại
nhà Tần, người đã ra lệnh đốt sách và
chôn sống nho sĩ. Chính sách hà khắc bạo
ngược của Tần Thủy Hoàng đối với
dân chúng là: “dùng tất cả tài nguyên trong thiên hạ
để phụng sự cho sự cai trị của vua”
[1]. Chính sách này bao gồm bốn phương diện:
đánh thuế thật nặng; lạm dụng nhân lực
cho các dự án để tuyên dương hoàng đế; dùng
luật lệ tàn bạo tra tấn tội nhân và trừng
phạt ngay cả thân nhân và láng giềng của họ;
kiềm chế tư tưởng và áp bức bằng cách
đốt sách và ngay cả chôn sống nho sĩ. Dưới sự thống
trị của Tần Thủy Hoàng, dân số của Trung
Quốc có khoảng mười triệu; nhưng triều
đình nhà Tần đã bắt hơn hai triệu
người làm nô lệ.
Tần Thủy Hoàng cũng áp dụng chính sách hà
khắc tàn bạo này cho giới trí thức, bằng cách
cấm tự do tư tưởng trên mọi lãnh
vực. Dưới sự cai
trị của Tần Thủy Hoàng, hàng ngàn nho sĩ và các
quan lại mà phê phán triều đình đều bị
giết chết.
Ngày nay, so với triều
đại hổ lang của Tần Thủy Hoàng, sự
bạo ngược của Đảng Cộng Sản còn
mãnh liệt hơn rất nhiều. Triết lý của Đảng Cộng Sản là
"đấu tranh”, và sự thống trị của
Đảng Cộng Sản
xây dựng trên một loạt đấu tranh:
“đấu tranh giai cấp”, “đấu tranh
đường lối”, “đấu tranh tư
tưởng” ở trong Trung Quốc và ở các quốc gia
khác. Mao Trạch Đông, lãnh
tụ Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đầu tiên
của Cộng hòa Nhân Dân Trung Quốc, huỵch toẹt
tuyên bố rằng, “Tần Thủy Hoàng đáng kể
gì? Ông ta chỉ giết có 460
nho sĩ, còn chúng ta thì thủ tiêu đến 46 ngàn tên trí
thức. Có người cho
chúng ta là kẻ độc tài thống trị, giống
như Tần Thủy Hoàng, chúng ta thừa nhận tất
cả. Nó phù hợp với
thực tế. Tiếc thay
họ nói thế còn chưa đủ, cho nên chúng ta cần
phải gia tăng để bổ sung.” [2]
Chúng ta hãy nhìn lại 55 năm khốn khổ
của Trung Quốc dưới sự thống trị
của Đảng Cộng Sản. Vì lý luận nền tảng
của Đảng cộng sản là “đấu tranh giai
cấp”, cho nên Đảng Cộng Sản Trung Quốc
từ khi nắm chính quyền đã thẳng tay diệt
tuyệt từng giai cấp, và chúng đã lấy học
thuyết cách mạng bạo lực mà thực hành chính
trị khủng bố.
Giết người và tẩy não đã
được sử dụng đi đôi với nhau
để đàn áp bất cứ tín ngưỡng nào khác,
ngoại trừ lý thuyết của Đảng cộng
sản. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đưa
ra vận động này đến vận động khác
để tạo hình ảnh thần thánh cho chúng. Theo sau lý
luận của đấu tranh giai cấp và cách mạng
bạo lực, Đảng Cộng Sản Trung Quốc
không ngừng tiêu diệt những phần tử không
giống mình ở trong quần chúng và những người
không cùng phạm vi. Đồng thời dùng các thủ
đoạn lừa dối đã gia tăng trong đấu
tranh để cưỡng ép tất cả người dân
Trung Quốc trở thành những tên đầy tớ trung
thành ngoan ngoãn dưới sự thống trị bạo
ngược của chúng.
I. Cải Cách Ruộng Đất — "Tiêu Diệt Giai Cấp Địa Chủ"
Chưa được ba
tháng sau khi thành lập Trung Quốc cộng sản,
Đảng Cộng Sản hô hào tiêu diệt giai cấp
địa chủ, như một trong những dẫn đầu
cho chương trình cải cách ruộng đất trên toàn
quốc. Khẩu hiệu
của Đảng là “dân cày có ruộng”, đã nuôi
dưỡng cái tâm ích kỷ của tá điền,
khuyến khích họ đấu tranh với địa
chủ bằng bất cứ phương kế nào và
bất chấp hành động của họ có đạo
đức hay không. Chiến
dịch cải cách ruộng đất qui định rõ
ràng: tiêu diệt giai cấp địa chủ, phân loại
dân chúng ở vùng nông thôn thành các nhóm xã hội khác nhau. Hai mươi triệu dân ở
vùng nông thôn trên toàn quốc đã bị gắn nhãn là
“địa chủ, phú nông, phản cách mạng, hay là
phần tử xấu”.
Những người thuộc loại này, bị khinh
miệt, bị làm nhục, bị mất tất cả
quyền lợi công dân. Khi
chiến dịch cải cách ruộng đất lan rộng
ra đến các vùng xa xôi hẻo lánh và làng mạc của
dân tộc thiểu số, thì các tổ chức Đảng
của Đảng Cộng Sản cũng phát triển
rất nhanh. Các chi bộ làng xã của Đảng phát
triển khắp nơi trên Trung Quốc. Các chi bộ địa
phương là miệng lưỡi để truyền
chỉ thị từ Ban Trung Ương của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc và cũng là tuyến đầu
của đấu tranh giai cấp, đã kích động tá
điền vùng lên chống lại địa chủ. Gần 100 ngàn địa chủ đã
bị giết chết trong chiến dịch này. Trong
một số vùng, Đảng Cộng Sản và tá
điền đã giết toàn bộ gia đình của các
địa chủ, bất kể già hay trẻ, coi như là
cách thức để hoàn toàn nhổ tận gốc giai
cấp địa chủ.
Cùng lúc ấy, Đảng
Cộng Sản Trung Quốc phát động làn sóng tuyên
truyền đầu tiên của chúng, tuyên bố rằng
“Chủ tịch Mao là cứu tinh vĩ đại của
nhân dân” và rằng “chỉ có Đảng Cộng Sản
mới có thể cứu được Trung Quốc”. Trong giai đoạn cải cách
đất đai, qua chính sách cưỡng đoạt
của Đảng Cộng Sản, tá điền
đạt được những gì họ muốn mà không
cần phải lao động, họ cướp bóc
bằng bất cứ cách nào.
Nông dân nghèo mang ơn Đảng Cộng Sản đã
cải thiện đời sống cho họ và vì vậy
chấp nhận tuyên truyền của Đảng Cộng
Sản rằng Ðảng phục vụ lợi ích của
nhân dân.
Đối với chủ
nhân mới của đất chiếm được,
những ngày tươi đẹp của “dân cày có
ruộng” cũng ngắn ngủi. Trong vòng hai năm,
Đảng Cộng Sản bắt đầu áp dụng
một số chính sách ép buộc nông dân gia nhập các
tổ chức như tổ hỗ trợ, hợp tác xã
sơ cấp, hợp tác xã cao cấp, và công xã nhân dân. Dùng khẩu hiệu mà đả
kích “phụ nữ bó bàn chân” — là những người theo
chậm — Đảng Cộng Sản Trung Quốc, từ
năm này đến năm khác, điều động và
thúc đẩy nông dân “xông vào” chủ nghĩa xã hội. Với thóc lúa, bông, và dầu
nấu ăn được đặt dưới một
hệ thống thu mua thống nhất trên toàn quốc, các
sản phẩm nông nghiệp chính không được trao
đổi trên thị trường. Thêm vào đó
Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn thiết lập
một hệ thống đăng ký cư trú (hộ
khẩu), ngăn chận không cho nông dân ra thành thị
để tìm việc hay cư trú.
Những ai đăng ký ở nông thôn thì không
được phép mua thóc lúa tại các cửa hàng quốc
doanh và con cái của họ bị cấm không
được đi học ở thành phố. Con cái của nông dân chỉ là nông
dân, như vậy đã biến 360 triệu dân nông thôn vào
đầu thập niên 50 trở thành những công dân
hạng nhì.
Bắt đầu vào năm
1978, trong 5 năm đầu sau khi chuyển từ hệ
thống làm việc tập thể sang hệ thống khoán
hộ, một số người trong 900 triệu nông dân có
tình trạng khá hơn, lợi tức thu hoạch khá hơn
và địa vị xã hội tương đối
cũng khá hơn. Tuy nhiên
lợi ích nhỏ nhoi đó mấy chốc cũng mất
luôn bởi vì cơ cấu giá cả ưu đãi hàng hóa công
nghiệp hơn là hàng nông nghiệp; một lần nữa
các nông dân lại phải lâm vào cảnh bần cùng. Lợi
tức giữa dân thành phố và dân nông thôn cách nhau rất
xa, sự chênh lệch về kinh tế càng ngày càng lan
rộng ra. Các địa
chủ và phú nông mới đã xuất hiện trở
lại trong các vùng nông thôn. Tài
liệu từ Tân Hoa Xã,
miệng lưỡi của Ðảng Cộng Sản Trung
Quốc, cho thấy rằng từ năm 1997, thu hoạch
từ các vùng sản xuất thóc lúa chính và lợi tức
của hầu hết các gia đình nông thôn vẫn giữ
nguyên, thậm chí trong một số trường hợp
lại còn giảm đi. Nói
cách khác, thu hoạch của nông dân từ sản xuất
nông nghiệp kỳ thực không tăng. Tỷ lệ
lợi tức giữa thành phố và nông thôn tăng lên
từ 1.8 / 1 vào giữa thập niên 80 cho đến ngày nay
là 3.1 / 1.
II. Cải tạo công nghiệp và thương mại — Tiêu diệt giai cấp tư sản
Một giai cấp khác mà
Đảng Cộng Sản muốn tiêu diệt là giai
cấp tư sản trong nước, là những
người có tài sản ở các đô thị và các
thị trấn nông thôn. Trong
khi cải cách công nghiệp và thương mại ở
Trung Quốc, Đảng Cộng Sản cho rằng bản
nguyên của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân
là khác nhau: giai cấp thứ nhất là giai cấp bóc
lột, trong khi giai cấp thứ hai là giai cấp không bóc
lột và chống bóc lột.
Theo cái lô-gic này, giai cấp tư sản đã
được tạo ra để bóc lột và sẽ không
ngừng bóc lột cho đến khi bị diệt vong; nên
phải bị tiêu diệt chứ không cải tạo
được. Với cái
tiền đề ấy, Đảng Cộng Sản dùng
cả hai cách, giết và tẩy não, để cải
tạo các nhà tư bản và thương gia. Đảng Cộng Sản
sử dụng phương pháp đã được
kiểm nghiệm lâu dài của nó: thuận theo thì sống,
nghịch thì bị tiêu diệt.
Nếu ai cống hiến tài sản cho quốc gia và
ủng hộ Đảng Cộng Sản, thì chỉ coi là
mâu thuẫn nội bộ của nhân dân. Trái lại, nếu bất đồng
ý kiến hay phàn nàn về chính sách của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, thì bị liệt vào phần
tử phản cách mạng và sẽ thành đối
tượng của chính quyền độc tài tàn bạo
của Đảng Cộng Sản.
Trong giai đoạn gió tanh
mưa máu của các cuộc cải tạo này, các nhà tư
bản và chủ doanh nghiệp đều dâng nạp tài
sản của họ. Nhiều người trong bọn
họ tự tử vì không chịu được sự
sỉ nhục. Trần
Nghị, lúc đó là thị trưởng của
Thượng Hải, đã hỏi mỗi ngày rằng, “Hôm
nay có bao nhiêu người nhảy dù?”, nghĩa là hỏi
số người trong nhóm tư bản tự tử
bằng cách nhảy xuống từ nóc tòa nhà trong ngày
đó. Chỉ có vài năm, mà
Đảng Cộng Sản đã hoàn toàn tiêu diệt chế
độ tư hữu ở Trung Quốc.
Trong khi thực hiện các
chương trình cải cách đất đai và cải
tạo công thương, Đảng Cộng Sản cũng
phát động nhiều cuộc vận động qui mô
để đàn áp người dân Trung Quốc. Những cuộc vận
động này gồm có: đàn áp “phản cách mạng”,
chiến dịch cải tạo tư tưởng, trừ
sạch tập đoàn chống Đảng do Cao
Cương và Nhiêu Sấu Thạch[3] cầm đầu, và
thanh trừ nhóm “phản cách mạng” Hồ Phong [4],
chiến dịch Tam Phản, Ngũ Phản, và trừ
sạch hơn nữa các phần tử phản cách
mạng. Đảng Công
Sản dùng những cuộc vận động này
để nhắm vào và đàn áp tàn nhẫn vô số
người dân vô tội.
Trong mỗi cuộc vận động chính trị,
Đảng Cộng Sản cùng với với các
đảng ủy, tổng chi, chi bộ, tận dụng
toàn bộ sự khống chế tài nguyên của chính
phủ. Cứ ba đảng
viên là hình thành một nhóm chiến đấu nhỏ, thâm
nhập các làng xóm và các nẻo đường. Các nhóm chiến đấu này
ở đâu cũng có, không việc gì là không quản lý đến. Trong những năm chiến tranh, kết cấu
khống chế kiểu mạch lưới đan xéo
chặt của Đảng là từ mạng lưới
“chi bộ Đảng đặt trong quân đội”
của Ðảng Cộng Sản, đã đóng một vai trò
then chốt trong các cuộc vận động chính trị
sau này.
III. Đàn Áp Tôn Giáo và Cấm chỉ các Môn phái Đạo
Đảng Cộng Sản
còn phạm một điều gian ác nữa trong cuộc
đàn áp tôn giáo tàn bạo và cấm chỉ hoàn toàn các
Đạo môn cội rễ sau khi thành lập Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc. Vào năm
1950, Đảng Cộng Sản Trung Quốc ra lệnh cho
chính quyền địa phương phải cấm
ngặt tất cả các Đạo môn và bang hội nào
không chánh thức. Đảng
Cộng Sản tuyên bố rằng các tổ chức “phong
kiến” bí mật này chỉ là công cụ trong tay của các
địa chủ, phú nông, phần tử phản cách
mạng, và đặc vụ của Quốc Dân
Đảng. Trong chiến dịnh thẳng tay đàn áp trên
toàn quốc, chính phủ động viên các giai cấp mà
chúng tin cậy để nhận diện và đàn áp
hội viên của các môn phái Đạo. Chính quyền trong các cấp khác nhau trực
tiếp giải tán các nhóm gọi là “nhóm mê tín” như là nhóm
Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo, Đạo Giáo
(đặc biệt những người tin tưởng
Nhất Quán Ðạo), và Phật Giáo. Chúng ra lệnh cho tất cả các thành viên của
nhà thờ, chùa, và các môn phái phải đăng ký với
chính quyền và phải hối lỗi vì đã tham dự
các hoạt động này.
Không đăng ký thì sẽ bị trừng phạt
nặng nề. Vào năm 1951,
chính quyền [của Ðảng] chính thức ban hành luật
cấm: những ai tiếp tục hoạt động trong
các môn phái không chính thức sẽ bị tù chung thân hay
bị tử hình.
Cuộc vận động
này đã đàn áp một số đông tín đồ tin
tưởng Thượng Ðế, Thần linh, là những
người lương thiện và tuân theo luật pháp.
Thống kê chưa đầy đủ, cho thấy
rằng trong thập niên 50 Đảng Cộng Sản đã
đàn áp ít nhất 3 triệu tín đồ tôn giáo và hội
viên của các bang hội bí mật, một số trong nhóm
người này đã bị giết chết. Đảng Cộng Sản Trung
Quốc khám xét hầu hết mỗi một gia đình trên
toàn quốc và thẩm vấn mọi người trong gia
đình, thậm chí còn đập nát các tượng thờ
ông Táo, ông Địa mà các nông dân Trung Quốc theo truyền
thống vẫn thờ cúng.
Đồng thời việc giết người
lại càng củng cố thông điệp của
Đảng Cộng Sản rằng chỉ có thể hệ
tư tưởng của Đảng cộng sản
mới là thể hệ tư tưởng hợp pháp duy
nhất, và chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
là tín ngưỡng hợp pháp duy nhất. Vì vậy có những người
mà gọi là tín đồ “ái quốc” xuất hiện ngay
sau đó. Hiến pháp quốc
gia chỉ bảo vệ các tín đồ “ái quốc”. Trên
thực tế, cho dù tin vào bất cứ tín ngưỡng
nào mọi người chỉ có một tiêu chuẩn:
mọi hành vi phải tuân theo sự chỉ huy của
Đảng Cộng Sản, và phải thừa nhận
rằng Đảng Cộng Sản là trên hết, trên
tất cả các giáo hội.
Nếu là một tín đồ Cơ Ðốc Giáo, thì
Đảng Cộng Sản là Thượng đế
của Thượng đế trong Cơ Ðốc Giáo. Nếu là một Phật tử,
Đảng Cộng Sản là Phật Tổ của
Phật Tổ. Nếu ở trong Hồi Giáo, thì
Đảng Cộng Sản là Allah của Allah. Còn đối với Phật
sống trong Phật Giáo Tây Tạng, thì Đảng Cộng
Sản sẽ xen vào, và Ðảng sẽ chọn ai làm vị
Phật sống này. Hễ Đảng cần người
ta nói cái gì thì người ta phải nói cái đó, và hễ
Đảng cần người ta làm cái gì thì họ
phải làm cái đó. Tất
cả tín đồ bị bắt phải thực thi
mục tiêu của Đảng Cộng Sản, trong khi tín
ngưỡng của họ thì chỉ là trên danh nghĩa mà
thôi. Nếu không làm như vậy thì sẽ là đối
tượng để đả kích của Ðảng
Cộng Sản độc tài .
Theo báo cáo ngày 22 tháng 2 năm
2002 của báo Nhân Loại và Nhân Quyền trên Internet, 20 ngàn tín
đồ Cơ Ðốc Giáo thực hiện một cuộc
kiểm kê với 560 ngàn tín đồ Cơ đốc Giáo
thuộc các giáo hội gia đình trong 207 thành phố
thuộc 22 tỉnh ở Trung Quốc. Cuộc kiểm kê cho thấy rằng trong số
các tín đồ của giáo hội gia đình, 130 ngàn
người đã bị chính quyền theo dõi. Trong quyển
sách Đảng Cộng Sản Trung Quốc Ðàn Áp Tín
Ðồ Cơ Ðốc Giáo như thế nào (1958)[5] đã
viết rằng đến năm 1957, Đảng Cộng
Sản Trung Quốc đã giết chết hơn 11 ngàn tín
đồ tôn giáo và ngang nhiên giam giữ và tống tiền nhiều
người hơn nữa.
Bằng cách tiêu diệt giai
cấp địa chủ và giai cấp tư sản, và
bằng cách đàn áp quảng đại quần chúng là các
tín đồ tôn giáo và những người tôn trọng
luật pháp, Đảng Cộng Sản đã dọn
đường cho chủ nghĩa Cộng Sản trở
thành một giáo phái bao trùm mọi người ở Trung
Quốc.
IV. Vận Động Chống Cánh Hữu — Tẩy Não Toàn Quốc để mà Thâu Dùng
Vào năm 1956, một nhóm trí
thức Hungary thành lập câu lạc bộ Vòng Petofi, để tổ chức hội
thảo và tranh luận về
chính phủ Hungary. Nhóm
người này đã khích động một cuộc cách
mạng toàn quốc ở Hungary, nhưng sau đó thì bị
lính của Liên Sô dẹp tắt.
Mao Trạch Đông đã lấy “Sự kiện
Hungary” này làm một bài học.
Vào năm 1957, Mao kêu gọi các phần tử trí
thức và dân chúng ở Trung Quốc “giúp Đảng
Cộng Sản chấn chỉnh”.
Cuộc vận động này, vắn tắt là
“Vận Ðộng Trăm Hoa”, mang khẩu hiệu “trăm hoa đua nở, trăm
phái tranh hót”. Mục
đích của Mao là để dụ dỗ, lừa bịp
mà lôi ra các “phần tử chống Đảng” trong dân
chúng. Trong bức thư
gửi cho các lãnh đạo Đảng cấp tỉnh vào
năm 1957, Mao Trạch Đông nói ra ý định “dụ
rắn ra khỏi hang” của mình bằng cách để cho
họ tự do phô bày quan điểm của họ
dưới danh nghĩa tự do tư tưởng và
chỉnh đốn Đảng cộng sản.
Vào thời đó, Ðảng hô
hào khuyến khích dân chúng bày tỏ quan điểm và hứa
hẹn không trả thù — Đảng sẽ không túm tóc, không
lấy gậy đập, không chụp mũ, và quyết
không thanh toán sau khi mọi chuyện đã qua — ý rằng
Ðảng sẽ không tìm lỗi, tấn công, vu khống, hay
trả đũa. Nhưng sau
đó không lâu, Đảng Cộng Sản bắt
đầu một cuộc vận động “chống cánh
Hữu”, tuyên bố rằng 540 ngàn người dám bày
tỏ quan điểm như là “ thuộc cánh Hữu”. Trong số này có 270 ngàn
người đã bị mất việc và 230 ngàn
người đã bị gán nhãn là “phần tử trung
Hữu”, hay là “phần tử chống Đảng,
chống chủ nghĩa xã hội”. Sau đó có người tổng kết chiến
lược chính trị của Đảng cộng sản
cho sự đàn áp, thành 4 loại: “dụ rắn ra khỏi
hang"; "bịa đặt tội trạng, đột
nhiên tập kích, trừng phạt với một lời
buộc tội"; "tấn công không thương xót
dưới danh nghĩa cứu dân"; "ép người
phải tự phê phán mình, rồi gán cho nhãn hiệu xấu
xa nhất”.
Như vậy cái gọi là
“ngôn luận phản động” lúc đó, đã khiến
cho rất nhiều người trong cánh Hữu và những
phần tử chống Đảng cộng sản phải
bị đi đày gần 30 năm ở những nơi vô
cùng xa xôi hẻo lánh trong nước. Lúc đó Đảng
sử dụng " vạn mũi tên cùng bắn ra"
để phê phán chặt chẽ đối với
những người cánh Hữu. Ba lý luận chính về
cách mạng mà gọi là “Ba lý luận đại phản
động”, là mục tiêu công kích chung, mạnh mẽ vào
thời đó bao gồm vài bài diễn văn của La Long
Cơ, Chương Bá Quân và Chư An Bình. Nhưng xét kỹ
hơn thì điều mà họ nêu ra và đề nghị cho
thấy rằng mong ước của họ cũng không
hại gì cả.
La Long Cơ đề
nghị thành lập một ủy ban liên hợp
Đảng cộng sản và các đảng “dân chủ”
đủ loại để kiểm tra những
điều sai lệch trong công tác của chiến dịch
“Tam Phản”, “Ngũ Phản” và các cuộc vận
động thanh trừ phản cách mạng. Thông
thường Hội Đồng Quốc Gia cũng
đệ trình những văn thư lên Ban Cố Vấn
Chính Trị và Quốc Hội Nhân Dân để xem xét và bình
luận, cho nên Chương Bá Quân đã đề nghị
Hội Ðồng Cố Vấn Chính Trị và Quốc Hội
Nhân Dân nên tham gia vào các quá trình hình thành chính sách.
Chư An Bình đề
nghị rằng, bởi vì những người không
phải là đảng viên cũng có ý kiến hay, tự
trọng, có trách nhiệm đối với quốc gia, do
đó trên toàn quốc không cần phải giao cho
đảng viên phụ trách lãnh đạo các đơn
vị, dù to hay nhỏ, hoặc ngay cả các đội
trong mỗi đơn vị. Cũng không cần thiết
là mọi việc, dù to hay nhỏ, phải được
thực hiện theo cách mà Đảng viên đề
nghị. Cả ba đã bày
tỏ ý định sẵn lòng đi theo Đảng
cộng sản, và không một đề nghị nào của
họ vượt quá phạm vi đã định, như là
lời của nhà văn và nhà phê bình Lỗ Tấn [6].
“Thưa lão gia, áo choàng của ông đã bị bẩn. Xin
cởi ra để con giặt cho ông.”. Giống như
Lỗ Tấn, những người “cánh Hữu” này đã
thể hiện sự ngoan ngoãn, phục tùng và kính trọng.
Không ai trong số những
người bị kết tội thuộc “cánh Hữu”
đã đề nghị rằng Đảng Cộng
Sản nên bị lật đổ; tất cả những
gì mà họ đề nghị đều là phê bình xây
dựng. Nhưng chính vì những đề nghị này, mà
hàng chục ngàn người dân mất tự do, hàng
triệu gia đình đau khổ. Tiếp theo đó là các
cuộc vận động như là “giao phó cho Đảng
”, nhổ cờ trắng tức là lôi ra những
người có lập trường kiên định,
chiến dịch mới “Tân Tam Phản”, đẩy
giới trí thức ra các vùng nông thôn làm lao động
nặng nhọc, lùng bắt các phần tử cánh Hữu mà
bị sót lại trong lần đầu. Hễ ai phản đối
người lãnh đạo trong đơn vị, nhất
là bí thư Đảng, thì sẽ bị gán nhãn hiệu là
phản Đảng. Thông
thường là bắt họ phải chịu những phê
phán liên tục, hoặc gửi họ vào các trại lao
động để cưỡng ép cải tạo. Đôi khi Đảng còn
chuyển cả gia đình của họ đến các vùng
nông thôn, cấm không cho con em của họ vào đại
học hay gia nhập quân đội. Họ cũng không
thể xin việc làm ở thành phố hoặc tỉnh, và
mất luôn quyền lợi về y tế công cộng. Họ trở thành những
người thấp kém trong hạng nông dân và bị
ruồng bỏ, ngay cả ở giữa đám công dân
hạng nhì.
Sau cuộc đàn áp giới
trí thức, một số học giả đã hình thành
loại nhân cách hai mặt, và ngả theo chiều gió. Họ theo sát “Mặt trời
Đỏ” và trở thành “phần tử trí thức ngự
dụng”(là trí thức được toà chỉ
định) của Đảng Cộng Sản, thi hành
hoặc nói bất cứ điều gì Đảng
muốn. Còn một số
phần tử thanh cao khác trở nên xa vời, tách mình ra
khỏi vấn đề chính sách, và câm như hến. Các
phần tử trí thức Trung Quốc, mà có ý thức trách
nhiệm với quốc gia theo truyền thống, lúc đó
cũng giống như Từ Thứ đã bị nhốt
vào ngục của Tào Doanh, lại càng câm lặng hơn
từ đó.
V. Đại Nhảy Vọt — Tạo Sai Lầm để Thử Lòng Trung Thành
Sau cuộc vận
động Chống Cánh Hữu,
Trung Quốc tiến vào trạng thái sợ hãi sự
thật. Mọi người đều tham gia vào nghe
những lời giả dối, kể lại chuyện
bịa đặt, nói dối, trốn tránh và che dấu
sự thật bằng dối trá và tin đồn. Đại
Nhảy Vọt là một lần bùng nổ của bài
thực hành tập thể về dối trá, lừa bịp
trên toàn quốc. Người
dân trên toàn quốc, dưới sự lãnh đạo
của tà linh Đảng Cộng Sản làm rất
nhiều điều ngu xuẩn.
Từ kẻ nói dối đến những
người bị lừa dối cả hai đều
lừa dối mình và lừa dối người như nhau.
Trong chiến dịch dối trá và hành động ngu
đần này, Đảng Cộng Sản đã khắc sâu
cái tà khí bạo ngược của chúng vào trong cảnh
giới tinh thần của toàn dân Trung Quốc. Có lúc, nhiều người
lại còn cao giọng hát những bài ca tụng Đại Nhảy Vọt
như “Tôi là Ngọc Hoàng, tôi là Long Vương. Tôi ra
lệnh cho tam sơn ngũ núi mở đường, tôi
đến đây!”[7]. Các chính sách như là “đạt
sản lượng thóc lúa 75 tấn trên mỗi héc-ta”,
“gấp đôi sản lượng thép”, và “vượt qua
Anh quốc trong 10 năm và đuổi kịp Mỹ trong 15
năm” đã diễn ra từ năm này đến năm
khác. Các chính sách này dẫn tới
vụ Đại mất mùa làm thành nạn đói khủng
khiếp trên toàn quốc, trầm trọng cướp
đi hàng triệu sinh mạng.
Trong phiên họp toàn thể
lần thứ Tám của Hội Nghị ban Trung Ương
Đảng Cộng Sản ở Lư Sơn vào năm
1959, có ai trong những người tham dự đã không
đồng ý với quan điểm của tướng
Bành Đức Hoài [8] rằng Đại
Nhảy Vọt do Mao Trạch Đông đề ra là ngu
xuẩn? Tuy nhiên, ủng
hộ chính sách của Mao hay không đã biểu hiện
giữa trung thành và phản bội, hoặc là vạch
một ranh giới giữa sống và chết. Trong một câu chuyện từ
lịch sử Trung Quốc, khi Triệu Cao[9] tuyên bố
rằng con nai là con ngựa, ông ta thừa biết sự
khác biệt giữa nai và ngựa, nhưng ông cố ý
gọi con nai là con ngựa vì để kiểm soát dư
luận, kiểm soát tranh cãi ngầm, và mở rộng
quyền lực của ông ta.
Kết quả của phiên họp toàn thể Lư
Sơn là ngay cả Bành Đức Hoài cũng bị bắt
buộc phải ký một nghị quyết tự kết
tội và bị đào thải khỏi chính quyền trung
ương. Tương
tự như thế, trong thời kỳ sau của
Đại Cách Mạng Văn
Hóa, Đặng Tiểu Bình cũng bị bắt buộc
phải hứa rằng ông ta sẽ không bao giờ
"lật lại bản án” mà chống lại quyết
định của chính quyền đã cách chức ông.
Xã hội của nhân loại
phải dựa trên những kinh nghiệm đã có
để hiểu biết thế giới và phát triển
phạm vi kiến thức. Tuy nhiên Đảng Cộng
Sản đã khiến cho người ta mất đi cơ
hội học hỏi từ các bài học và kinh nghiệm
trong lịch sử. Thêm vào đó, các cơ quan kiểm
duyệt truyền thông chỉ giúp cho càng ngày càng hạ
thấp khả năng nhận định tốt hay
xấu của người dân. Sau mỗi cuộc vận
động chính trị, thế hệ trẻ chỉ
được biết những báo cáo đã bị sửa
đổi của Ðảng, và bị tước
đoạt những phân tích, lý tưởng, và kinh
nghiệm sâu sắc từ các thế hệ
trước. Kết quả
là người dân chỉ thu thập được các tin
tức rải rác làm nền tảng để hiểu
biết lịch sử và phán đoán những sự
kiện mới, họ nghĩ rằng mình đã thấy
chính xác nhưng kỳ thực đã chệch khỏi
sự thật hằng ngàn dặm. Như thế chính sách
làm cho dân ngu dốt của Đảng Cộng Sản
đã dựa vào loại phương thức này mà thực
hành rộng rãi và có hệ thống.
VI. Đại Cách Mạng Văn Hóa — Tà Linh Phụ Thể, Đảo Ngược Càn Khôn
Nói đến chính quyền
bạo ngược thì không thể nào không nói đến
Đại Cách Mạng Văn Hóa, là một cuộc biểu
diễn to lớn của tà linh cộng sản khi nó
chiếm hữu toàn bộ Trung Quốc. Năm 1966, một trào lưu ngông cuồng
bạo ngược mới tràn vào Trung Quốc đại
lục, cuồng phong gầm thét của khủng bố
Đỏ, như một con rồng yêu nghiệt điên
loạn đã thoát khỏi dây xích trói, làm chấn động
núi non và đóng băng sông ngòi.
Nhà văn Tần Mục miêu tả Đại Cách
Mạng Văn Hóa trong những lời ảm đạm
như sau:
“Đây thực sự là
một trường tai kiếp chưa từng xảy ra.
Biết bao nhiêu triệu người bị tống giam vì
có liên hệ với một người trong gia đình [là
đối tượng phải diệt trừ của
Đảng], biết bao nhiêu triệu người đã ôm
hận kết thúc cuộc sống, hơn nữa biết
bao gia đình bị tan vỡ, biến trẻ em thành lưu
manh ác độc, bao nhiêu sách bị đốt, đập
phá các ngôi nhà cổ xưa, tàn phá mộ phần của các
bậc tiền hiền, dựa vào danh nghĩa cách mạng
mà phạm đủ loại tội ác.”[10]
Theo thống kê bảo
thủ, số người chết mờ ám ở Trung
Quốc trong cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa là 7.73
triệu.
Người ta thường
hiểu lầm rằng bạo lực và tàn sát trong
Đại Cách Mạng Văn Hóa hầu hết xảy ra
dưới trạng thái vô chính phủ, do các cuộc
vận động tạo phản và Hồng Vệ Binh[11]
tham gia trong việc giết người. Tuy nhiên, hàng ngàn tư liệu
được xuất bản chính thức hàng năm
tại các huyện ở Trung Quốc chứng tỏ
rằng cao điểm của những cái chết mờ ám
trong thời kỳ Đại Cách Mạng Văn Hóa không
phải là vào năm 1966, khi Hồng Vệ Binh nắm
giữ hầu hết các văn phòng chính phủ, cũng không
phải vào năm 1967 khi những bọn tạo phản
đấu tranh với các nhóm khác bằng võ trang, mà là vào
năm 1968 khi Mao Trạch Ðông nắm quyền thống
trị trên toàn quốc. Các hung thủ chém giết
đẫm máu tanh trong những trường hợp ô
nhục nhất, hầu hết là các sĩ quan quân
đội và binh lính, lực lượng dân quân, và các
đảng viên của Ðảng Cộng Sản thuộc
mọi cấp của chính quyền.
Trong các ví dụ sau đây
chúng ta có thể thấy các hành vi bạo ngược
xảy ra trong thời kỳ Đại Cách Mạng Văn
Hóa là từ chính sách của Đảng Cộng Sản và
chính quyền địa phương, chứ không phải
là hành vi quá khích của Hồng Vệ Binh và phe tạo
phản. Đảng Cộng
Sản đã che đậy chủ mưu trực tiếp
và che đậy sự liên hệ trong cuộc tàn sát bạo
ngược của các đảng viên lãnh đạo và các
viên chức chính phủ.
Vào tháng tám năm 1966,
Hồng Vệ Binh trục xuất các dân cư trú ở
Bắc Kinh, là những người bị phân loại trong
các cuộc vận động quá khứ là “địa chủ,
phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu, và cánh
Hữu”, và bắt họ phải về nông thôn. Các thống kê chính thức
nhưng chưa đầy đủ cho thấy rằng
33.695 ngôi nhà đã bị lục soát và 85.196 dân cư tại
Bắc Kinh bị trục xuất ra khỏi thành phố và
đuổi về nguyên quán của cha mẹ họ.
Hồng Vệ Binh trên toàn quốc cũng theo cùng một
chính sách, trục xuất trên 400 ngàn dân cư ở thành
thị về nông thôn. Ngay
cả các viên chức cao cấp, những người mà cha
mẹ là địa chủ, cũng không tránh khỏi bị
đày ải về nông thôn.
Trên thực tế
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã sắp
đặt sẵn cho chiến dịch 'đuổi về
nông thôn' này, ngay cả trước khi Cách Mạng Văn Hóa
bắt đầu. Bành Chân,
cựu thị trưởng Bắc Kinh, tuyên bố rằng
dân cư ở Bắc Kinh phải là thành phần trong
sạch như các “tấm thủy tinh, đá pha lê”, tức
là tất cả dân cư không tốt thuộc thành phần
giàu có phải bị trục xuất khỏi thành
phố. Vào tháng 5 năm 1966, Mao
Trạch Ðông đã ra lệnh cho thuộc hạ “bảo
vệ thủ đô”. Một
tổ công tác thủ đô được thành lập, do
Diệp Kiếm Anh, Dương Thành Vũ và Tạ Phú
Trị chỉ huy. Một
nhiệm vụ của tổ công tác này là dùng công an trục
xuất những dân cư Bắc Kinh thuộc về thành
phần giàu có không tốt.
Lịch sử này giúp làm sáng
tỏ vấn đề vì sao chính phủ và các sở công an
đã không can thiệp, mà còn hỗ trợ Hồng Vệ
Binh lục soát nhà cửa và trục xuất cả hơn 2%
dân cư Bắc Kinh. Bộ
trưởng Bộ Công An, Tạ Phú Trị, ra lệnh cho
công an không được can thiệp vào các hành động
của Hồng Vệ Binh, và còn phải cố vấn và
cung cấp tin tức cho bọn chúng. Hồng Vệ Binh chẳng qua chỉ là một
quân cờ cho Đảng cộng sản dùng để thi
hành kế hoạch đã sắp đặt, rồi sau
đó, vào cuối năm 1966, bọn Hồng Vệ Binh này đã
bị Đảng Cộng Sản vứt bỏ; hơn
nữa nhiều người trong bọn đã bị gán
tội là phản cách mạng và còn bị bỏ tù, một
số khác bị đuổi về nông thôn, cùng với các
thanh niên thành thị khác, để lao động và cải
tạo tư tưởng. Tổ chức Tây Thành của
Hồng Vệ Binh, mà dẫn đầu cuộc trục
xuất dân cư thành phố lúc đó, đã
được thành lập dưới sự "quan tâm
thương mến” của các lãnh đạo Đảng
Cộng Sản. Lệnh buộc tội bọn Hồng
Vệ Binh này cũng được phát ra sau khi
được Bí thư trưởng của Hội
Đồng Nhà Nước lúc đó duyệt lại.
Theo sau cuộc trục
xuất dân cư Bắc Kinh mà bị cho là thuộc thành
phần giàu không tốt, các vùng nông thôn lại bắt
đầu một cuộc đàn áp khác tới các thành
phần giàu không tốt. Vào ngày 26 tháng 8 năm 1966, một
bài nói chuyện của Tạ Phú Trị đã
được chuyển xuống phiên họp của
Cục Công An Ðại Hưng.
Tạ Phú Trị ra lệnh cho công an hỗ trợ
Hồng Vệ Binh lục soát nhà cửa của các gia
đình thuộc“năm giai
cấp đen” (địa chủ, phú nông, phản cách
mạng, phần tử xấu, và cánh Hữu) bằng cách
cố vấn và cung cấp tin tức để đột
kích. Cuộc Tàn Sát Đại
Hưng[12] ô nhục xảy ra là kết quả của
mệnh lệnh trực tiếp từ Cục Công An
huyện; những người tổ chức là giám
đốc và bí thư Đảng ủy của Cục Công
An huyện, và bọn giết người đa số là
dân quân, ngay cả trẻ em chúng cũng không tha.
Trong cách mạng, rất nhiều
người vì các “biểu hiện tốt” trong những
cuộc tàn sát tương tự, mà được kết
nạp vào Ðảng Cộng Sản.
Theo thống kê chưa hoàn toàn của tỉnh Quảng
Tây, khoảng 50 ngàn Ðảng viên đã tham dự giết
người. Trong số
đó có hơn 9 ngàn người được kết
nạp vào Đảng sau khi sát nhân; hơn 20 ngàn
người sau khi gia nhập Ðảng thì tham dự giết
người, và hơn 19 ngàn Đảng viên khác đã tham
dự vào việc giết người bằng cách này hay
cách khác.
Trong thời Cách Mạng
Văn Hóa, "đánh đập người ta"
cũng phải phân tích theo giai cấp: "Người
tốt đánh người xấu là đích đáng. Người xấu đánh
người xấu là vinh dự.
Người tốt đánh người tốt là vì
hiểu lầm.” Câu nói này
của Mao Trạch Ðông đã được truyền
rộng ra trong các cuộc vận động tạo
phản. Nếu quả nhiên bạo lực đối
với giai cấp kẻ thù là bởi vì bọn họ
"đáng kiếp", như vậy bạo lực và tàn
sát bừa bãi sẽ lan rộng ra.
Từ ngày 13 tháng 8
đến ngày 7 tháng 10 năm 1967, dân quân ở huyện
Đạo, thuộc tỉnh Hồ Nam đã tàn sát các thành
viên của tổ chức “Tương Giang Phong Lôi”, và những
người thuộc “năm giai cấp đen”. Cuộc tàn sát kéo dài 66 ngày; hơn
4.519 người trong 2.778 gia đình đã bị giết
chết thuộc 468 đại đội nằm trong 36
công xã trong 10 khu. Trong tổng
số 9.093 người đã bị giết chết
thuộc 10 huyện của địa khu, có 38% dân là
thuộc vào “năm giai cấp đen” và 44% là con cái của
họ. Người già
nhất bị giết là 78 tuổi, người trẻ
nhất tuổi chỉ có 10 ngày.
Đây mới chỉ là
một sự kiện của một vùng nhỏ trong Cách
Mạng Văn Hóa bạo hành.
Ở Nội Mông, sau khi thiết lập “ủy ban cách
mạng” vào đầu năm 1968, cuộc thanh trừ
hạng giai cấp và diệt trừ “Đảng Nhân Dân
Nội Mông” dưới danh nghĩa chế tạo là thanh
tra, đã giết hơn 350 ngàn người. Vào năm 1968, hàng chục ngàn dân
cư ở tỉnh Quảng Tây tham dự vào một
cuộc Đại tàn sát đã được hóa trang
để tiêu diệt một tập thể quần chúng
của “4.22”, đã giết hơn 110 ngàn người.
Những sự kiện này
đã cho thấy rằng tất cả hành động tàn
bạo giết người chủ yếu trong thời Cách
Mạng Văn Hóa là ở dưới sự xúi giục và
điều khiển trực tiếp của các lãnh
đạo của Ðảng cộng sản, họ đã dung
túng và lợi dụng bạo lực để đàn áp và
tàn sát dân chúng. Những kẻ
giết người tham dự trực tiếp vào việc
chỉ huy và tàn sát hầu hết là quân đội, cảnh
sát, dân quân võ trang, và các đoàn viên, đảng viên cốt
cán của Ðảng cộng sản.
Nếu nói rằng, trong sự
Cải cách Ruộng đất, Đảng Cộng Sản đã
lợi dụng nông dân đạp đổ địa
chủ mà cướp đất; trong sự Cải tạo Công nghiệp và
Thương mại,
Đảng Cộng Sản đã lợi dụng giai
cấp công nhân đạp đổ các nhà tư bản
để cướp đoạt tài sản, và trong
cuộc Vận động
Chống cánh Hữu,
Đảng Cộng Sản đã loại trừ tất
cả giới trí thức mà có tư tưởng
đối lập, khiến cho các phần tử trí
thức phải câm miệng, vậy thì mục đích
giết người trong thời Cách Mạng Văn Hóa là
gì? Đảng Cộng
Sản sử dụng nhóm này để giết nhóm khác, và
không một giai cấp nào được tin cậy. Ngay
cả những ai thuộc giai cấp công nhân và nông dân, hai
giai cấp mà Đảng tin cậy trong quá khứ, nếu
quan điểm của họ mà khác với quan điểm
của Đảng, thì mạng sống sẽ bị
hiểm nguy. Như vậy mục đích chủ yếu
rốt cuộc là gì?
Mục đích là tạo
dựng hình thế to lớn cho Đảng Cộng Sản
trở thành một tôn giáo duy nhất thống trị thiên
hạ, không những thống trị quốc gia mà còn
phải thống trị cả tư tưởng của
mỗi một người dân.
Cách Mạng Văn Hóa
đẩy Đảng Cộng Sản và cuộc vận
động "thần thánh hóa" cá nhân Mao Trạch
Đông lên đến tột đỉnh. Lý luận
độc tài của Mao Trạch Ðông nhất định
phải được sử dụng cho tất cả
mọi thứ, và phải sắp đặt cho lý
tưởng của một cá nhân (của Mao)
được in sâu vào đầu óc của hàng chục
triệu người. Cách
Mạng Văn Hóa, trong một cách chưa từng xảy ra
và không bao giờ so sánh được, đã không quy
định những sự tình gì mà không thể làm. Thay vào
đó Đảng nhấn mạnh “sự việc gì có
thể làm, và phải làm như thế nào". Còn những gì khác thì không thể
làm, cũng không được nghĩ tới.
Trong thời Cách Mạng
Văn Hóa, mọi người trên toàn quốc thực hành
nghi lễ giống như tôn giáo là: “sáng nghe chỉ thị
của Đảng, chiều báo cáo với Đảng”, chúc
Mao Chủ Tịch được sống lâu mãi mãi
nhiều lần trong ngày, tổ chức hai buổi cầu
nguyện chính trị sáng chiều mỗi ngày. Hầu hết mỗi cá nhân
biết đọc, biết viết đều có kinh
nghiệm viết các bài tự phê bình mình và bài báo cáo tư
tưởng. Trích dẫn
lời của Mao Trạch Ðông được ngâm nga
thường xuyên, chẳng hạn như : “chống
trả mãnh liệt bất cứ ý niệm ích kỷ nào
thoáng qua”, hoặc “hiểu thì phải chấp hành, không
hiểu cũng phải chấp hành, trong khi chấp hành
sẽ tăng thêm sự hiểu biết”.
Trong cách mạng, chỉ có
một vị " Thần linh"(Mao) được phép
sùng bái; chỉ được ngâm và đọc một
bản kinh sách duy nhất--ngữ lục của Mao chủ
tịch. Không bao lâu quá trình
“tạo Thần” đã phát triển đến mức
độ mà người dân không được mua thức
ăn ở các căng tin nếu không ngâm lời của Mao
hoặc chúc mừng Mao Chủ Tịch. Khi mua hàng, đi xe
buýt, ngay cả lúc gọi điện thoại, người
ta cũng phải đọc lên lời của Mao chủ
tịch, cả những lúc hoàn toàn không thích hợp cũng
phải đọc. Trong các
nghi thức sùng bái này, người ta hoặc là cuồng nhiệt
phấn khởi, hoặc là tê liệt, chai cứng như
gỗ, đều đã bị tà linh Đảng cộng
sản bao trùm lại. Chế
tạo lời dối trá, dung túng chịu đựng
sự dối trá, và nhờ dựa vào nghề dối trá
đã trở thành cách thức sinh hoạt của
người dân Trung Quốc.
VII. Cải Cách và Khai Phá — “Bạo Ngược” không đổi mà còn tiến triển theo thời gian
Cách Mạng Văn Hóa là
một thời đại đẫm máu, giết chóc, oan
hồn bất hạnh oán trách, mất hết lương
tri, trắng đen điên đảo. Sau thời Cách Mạng Văn Hóa, chính quyền
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đã
thường xuyên thay đổi biểu ngữ của nó,
tương ứng với sự thay đổi 6
người lãnh đạo trong vòng 20 năm. Chế
độ tư hữu lại trở lại ở Trung
Quốc, sự chêch lệch mức sống giữa thành
thị và nông thôn đã mở rộng thêm, các vùng sa mạc
nhanh chóng mở rộng, sông hồ khô cạn dần, ma túy
mãi dâm gia tăng. Tất
cả “tội ác” mà Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đã từng chống lại thì bây giờ lại
được phép xảy ra lần nữa.
Tâm địa sài lang man
rợ, bản tính lươn lẹo rắn rết, hành
động quỷ quái tà ác, khả năng mang tai họa
cho quốc gia của Đảng cộng sản chỉ có
tăng chứ không giảm. Trong cuộc Tàn Sát Thiên An Môn vào
năm 1989, Đảng đã điều động quân
đội và xe tăng giết chết các sinh viên đang
kháng cáo tại Quảng Trường Thiên An Môn. Cuộc
bức hại tàn bạo nhắm vào những người
tu luyện Pháp Luân Công còn tồi tệ hơn nữa, không
lời nào có thể diễn tả được. Vào tháng
10 năm 2004, để chiếm đất của nông dân,
chính quyền thành phố Du Lâm tỉnh Thiểm Tây đã
điều động hơn 1600 cảnh sát chống
bạo loạn để bắt và bắn hơn 50 nông dân.
Hiện nay sự thống trị nền chính trị
của Trung Quốc vẫn tiếp tục dựa trên
triết học đấu tranh và sùng bái bạo lực
của Đảng Cộng Sản. So với quá khứ, điểm khác biệt duy
nhất là Đảng càng tăng thêm tính dối trá,
lường gạt hơn nữa.
Làm Luật Pháp: Đảng Cộng Sản
chưa bao giờ ngưng chế tạo xung đột
giữa người dân.
Bọn chúng đã đàn áp một số lớn dân
chúng với tội danh gán cho như là phản cách mạng,
chống chủ nghĩa xã hội, phần tử xấu,
hoặc theo tà giáo. Tập
đoàn chuyên chế độc tài của Đảng
Cộng Sản vẫn tiếp tục xung đột
với tất cả các nhóm và đoàn thể nhân dân. Dưới danh nghĩa “duy trì
trật tự và ổn định xã hội”, Đảng
cộng sản liên tục thay đổi hiến pháp, luật
lệ và điều khoản, và đàn áp bất cứ
người nào không đồng ý với chính quyền
như là những kẻ phản cách mạng.
Vào tháng 7 năm 1999, chống
lại ý muốn của đa số các thành viên trong Bộ
Chính Trị, Giang Trạch Dân đã tự mình quyết
định loại trừ Pháp Luân Công trong vòng ba tháng;
lời vu khống và tin đồn nhảm nhí nhanh chóng lan
truyền ra toàn quốc. Sau
khi Giang Trạch Dân tự ý lên án Pháp Luân Công là “tà giáo” trong một
cuộc phỏng vấn với tờ báo Pháp La Figaro, tuyên truyền chính
thức của Trung Quốc theo sau bằng cách nhanh chóng
xuất bản những bài báo làm áp lực cho mọi
người dân trên toàn quốc chống lại Pháp Luân
Công. Đại hội Đại
Biểu Nhân Dân bị ép buộc phải thông qua một
“quyết định” vô luân và không thuộc loại nào
để đối phó với tà giáo này; ngay sau đó
Tối Cao Pháp Viện và Viện Kiểm Sát Tối Cao
đã cùng phát hành một văn kiện “giải thích”
về “quyết định” này.
Vào ngày 22 tháng 7 năm 1999, Tân
Hoa Xã xuất bản các bài diễn văn của lãnh
đạo trong Bộ Tổ Chức Trung Ương và
Bộ Tuyên Truyền Trung Ương của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc, công khai ủng hộ cuộc đàn áp
Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân. Người dân Trung
Quốc vì vậy bị vướng vào một cuộc
đàn áp mà người và Thần linh đều phẫn
nộ, chỉ vì nó là quyết định của " Trung
Ương Đảng".
Họ chỉ có thể tuân theo mệnh lệnh, và
không dám đưa ra bất cứ phản đối nào.
Cả hơn 5 năm qua,
chính quyền đã dùng một phần tư tài chính
quốc gia để đàn áp Pháp Luân Công. Mọi người trên toàn
quốc phải trải qua một cuộc khảo
nghiệm; hầu hết những người thừa
nhận rằng họ tu luyện Pháp Luân Công và từ
chối không bỏ thì bị mất việc; một số
bị kết án đi lao động cưỡng bách.
Những học viên Pháp Luân Công không vi phạm luật lệ
nào cả, cũng không phản bội quốc gia, hoặc
chống đối chính quyền; họ chỉ tin
tưởng vào “Chân, Thiện, Nhẫn”. Nhưng hàng trăm ngàn người đã bị
bỏ tù. Trong khi Đảng
Cộng Sản Trung Quốc cố gắng phong tỏa tin
tức rất chặt chẽ, cả hơn 1143
người[13] đã được gia đình của
họ xác nhận là bị tra tấn đến chết.
Số người chết thực sự là cao hơn nhiều.
Báo cáo tin tức: Vào ngày 15 tháng 10 năm 2004,
tờ báo Hồng Kông Văn Hối Báo tường
trình rằng vệ tinh thứ 20 của Trung Quốc đã
bay trở về trái đất, rơi xuống và phá
hủy căn nhà của Hoắc Tích Ngọc ở thị
trấn Bồng Lai thuộc huyện Đại Anh tỉnh
Tứ Xuyên. Bài tường
trình đã trích dẫn lời của Ngải Dụ Khánh
giám đốc văn phòng chính phủ huyện Đại
Anh xác nhận cái “cục đen” đó là vệ tinh.
Ngải Dụ Khánh là phó Tổng chỉ huy hiện trường
dự án thu hồi vệ tinh.
Tuy nhiên, Tân Hoa Xã chỉ báo cáo về thời gian
phục hồi vệ tinh này, còn nhấn mạnh rằng
đây là vệ tinh thí nghiệm kỹ thuật và khoa
học thứ 20 được Trung Quốc thu hồi
lại. Tân Hoa Xã không hề
đề cập một lời nào việc vệ tinh phá
hủy một căn nhà.
Đây là một ví dụ điển hình về hệ
thống thông tin mà thực hành nhất trí của Trung
Quốc, là chỉ tường thuật tin tức tốt
và che đậy tin tức xấu, như đã
được Đảng chỉ dẫn.
Báo chí và tin tức truyền
hình tuyên truyền những lời dối trá và vu khống,
trợ giúp rất nhiều cho việc thực thi chính sách
của Ðảng Cộng Sản trong tất cả các
cuộc vận động chính trị trong quá khứ.
Chỉ thị của Đảng cộng sản
được các hệ thống truyền tin thực hành
ngay lập tức trên toàn quốc. Khi Đảng muốn
bắt đầu cuộc “Vận Ðộng Chống Cánh
Hữu”, tất cả hệ
thống thông tin trên toàn Trung Quốc liền tường
thuật cùng một giọng điệu, những tội
ác của các phần tử cánh Hữu. Khi Đảng muốn thành lập công xã nhân dân,
tất cả báo chí trong nước bắt đầu tán
dương các ưu điểm của công xã nhân dân. Trong
tháng đầu tiên của cuộc đàn áp Pháp Luân Công,
tất cả các đài truyền hình và phát thanh, trong
giờ chánh yếu thông tin, đã liên tục vu khống Pháp
Luân Công để tẩy não người dân. Từ đó Giang Trạch Dân
đã liên tục huy động toàn bộ hệ thống
truyền thông để chế tạo và tuyên truyền
những lời dối trá vu khống về Pháp Luân Công,
khiến cho dân chúng thù ghét Pháp Luân Công, bằng cách
tường thuật các tin tức giả tạo về
những người tu luyện Pháp Luân Công đang phạm
tội giết người và tự tử. Một ví dụ về những
tường thuật giả dối như vậy là sự
kiện dàn dựng “Tự Thiêu ở Thiên An Môn", mà
đã bị Tổ Chức Phát Triển Giáo Dục Quốc
Tế NGO chỉ trích đó là hành động của chính
quyền dàn dựng lên để lừa dối
người dân. Trong 5 năm qua, không một báo chí hay
một đài truyền hình nào ở Trung Hoa Lục Ðịa
đã tường thuật tình huống chân thật về
Pháp Luân Công.
Người dân Trung Quốc
đã quen với các tường thuật tin tức bịa
đặt. Một ký giả
tư, lão thành của Tân Hoa Xã có lần tuyên bố rằng:
“Làm sao mà tin tưởng Tân Hoa Xã được?” Dân gian
thậm chí còn hình dung các cơ quan báo chí Trung Quốc như
những con chó của Đảng cộng sản. Có bài dân
ca rằng: “Nó là con chó Đảng nuôi, giữ cổng cho
Đảng. Ðảng kêu nó cắn ai là nó cắn
người đó, Ðảng muốn nó cắn bao nhiêu
lần là nó cắn bấy nhiêu lần”.
Giáo dục: Ở Trung Quốc, giáo
dục đã trở thành một cái gông xiềng khác dùng
để thống trị người dân. Mục đích nguyên thủy
của giáo dục là đào tạo các phần tử trí
thức. Mà trí thức là do hai phần "tri" (hiểu biết) và "thức"( suy xét) hợp thành. "Tri" là nói
về hiểu biết tin tức, tư liệu, và sự
kiện lịch sử; "Thức" là nói về
những thứ đã biết mà tiến hành phân tích, nghiên
cứu, phê phán và tái sáng tạo, tức là một quá trình
phát triển về tinh thần.
Những ai có "tri" mà không có "thức" thì
được xem như là mọt sách, không phải là
người trí thức thực sự có lương tâm xã
hội. Ðây là nguyên nhân tại
sao trong lịch sử Trung Quốc người ta
đặt nhiều kính trọng đối với các
học giả có thức, là
có khả năng suy xét chân chánh, chứ không phải là các
học giả chỉ có tri ( biết) mà thôi. Tuy nhiên, dưới sự
thống trị của Đảng Cộng Sản, các
phần tử trí thức
Trung Quốc là những người có tri(biết) mà không có thức
(khả năng suy xét), những người có tri mà không dám rèn luyện thức. Giáo dục trong trường học chỉ
tập trung vào việc dạy học sinh không làm những
gì mà Đảng không muốn chúng làm. Những năm gần
đây, tất cả các trường học đã bắt
đầu dạy về chính trị và lịch sử
của Đảng Cộng Sản bằng sách giáo khoa
thống nhất. Giáo viên dù
không tin vào nội dung của sách, nhưng bởi “kỷ
luật” của Đảng, họ bắt buộc phải
căn cứ vào đó mà dạy dù trái với tâm của
họ. Các học sinh dù không
tin vào sách vở hoặc thầy cô của chúng, nhưng
chúng phải nhớ tất cả những gì trong sách
để thi đậu.
Gần đây, những câu hỏi về Pháp Luân Công
được bỏ vào trong các bài thi học kỳ và các
bài thi để vào trường trung học và đại
học. Những học sinh
nào không biết các câu trả lời mẫu thì không
được điểm cao để vào được
các trường trung học hay đại học tốt.
Nếu học sinh nào dám nói lên sự thật, thì sẽ
bị trục xuất khỏi trường ngay lập
tức, và mất bất cứ cơ hội
được giáo dục một cách chính thức.
Trong hệ thống giáo dục
công cộng, vì ảnh hưởng báo chí và tài liệu
của chính quyền, nhiều câu nói nổi tiếng đã
được truyền ra như là chân lý, như là lời
của Mao Trạch Ðông “Chúng ta nên ủng hộ những gì
mà kẻ thù chống đối và chống lại những
gì kẻ thù ủng hộ”.
Hậu quả không tốt lan rộng: nó đã
đầu độc lòng dân, thay thế lòng hướng
thiện, và phá hủy luân lý đạo đức
để sống hòa bình và hòa đồng.
Vào năm 2004, Trung Tâm Thông Tin
Trung Quốc đã phân tích một cuộc kiểm kê do
Mạng Internet Sina Trung Quốc thực hiện, kết
quả cho thấy rằng 82.6% thanh niên Trung Quốc đã
đồng ý rằng trong thời chiến người ta
có thể ngược đãi phụ nữ, trẻ em và tù
nhân. Kết quả này gây ra
một chấn động; nhưng nó đã phản
ảnh tâm ý của dân chúng
Trung Quốc, đặc biệt là của thế hệ
trẻ, là những người không có hiểu biết
căn bản về chính quyền nhân từ trong văn hóa
truyền thống hoặc không có khái niệm tối
thiểu về nhân tính căn bản.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2004,
một người đàn ông điên cuồng dùng dao chém 28
đứa trẻ ở thành phố Tô Châu. Vào ngày 20 cùng tháng, một
người đàn ông ở tỉnh Sơn Đông dùng dao
chém 25 em học sinh tiểu học bị thương. Một số giáo viên tiểu
học bắt ép học sinh nắn tay làm pháo để gây
quỹ cho trường, kết quả gây ra một vụ
nổ làm chết một số học sinh.
Thực thi chính sách: Lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản thường thường hăm dọa và ép buộc
người dân để bảo đảm rằng chính
sách của chúng được thực thi. Một trong những thủ
đoạn mà chúng dùng là biểu ngữ chính trị. Trong
một thời gian dài, chính quyền Đảng Cộng Sản
đã trưng lên một số biểu ngữ làm tiêu chuẩn để đánh
giá thành tích chính trị của một cá nhân. Trong thời kỳ Cách Mạng
Văn Hóa, chỉ qua một đêm Bắc Kinh đã trở
thành “biển đỏ”, với biểu ngữ giăng
đầy khắp mọi nơi “Đả đảo phe
cầm quyền theo chủ nghĩa tư bản trong
Đảng”. Ở nông thôn thì
trớ trêu thay, các biểu ngữ được viết
ngắn gọn là “Đả đảo bọn cầm
quyền”.
Gần đây để tuyên
truyền "Luật rừng rậm", Cục Lâm
Nghiệp Quốc Gia và tất cả các trạm và văn
phòng bảo vệ rừng nghiêm khắc ra lệnh rằng
một số biểu ngữ phải được treo
lên theo đúng chỉ tiêu.
Không đạt đúng chỉ tiêu thì xem như không
hoàn thành công tác. Kết quả là các văn phòng chính
quyền địa phương treo lên một số lượng
lớn biểu ngữ, như là “Ai đốt núi sẽ
bị tù”. Trong việc
kiểm soát sinh đẻ những năm gần đây, có
các biểu ngữ còn rùng rợn hơn nữa, như là
“Một người phạm luật đẻ, cả làng
sẽ bị cột (không cho đẻ)”, hoặc “Thà thêm
một ngôi mộ còn hơn thêm một đứa con”, hay là
“Phải cột mà không cột (ống dẫn tinh) thì nhà anh
sẽ bị đập phá; Phải phá mà không phá thai thì bò
và ruộng lúa của chị sẽ bị tịch thu”. Có
rất nhiều biểu ngữ vi phạm nhân quyền và
Hiến pháp, như là “không đóng thuế hôm nay, ngày mai
sẽ ngủ trong tù”.
Trên căn bản biểu
ngữ là cách thức để truyền bá, nhưng trong
tính cách quan sát trực tiếp và lặp đi lặp
lại. Vì thế chính quyền Trung Quốc thường
dùng biểu ngữ để tuyên truyền quan điểm
chính trị, ý chí và địa vị. Biểu ngữ chính
trị cũng được xem như là những lời
mà chính quyền nói với người dân. Tuy nhiên trong các biểu ngữ
tuyên truyền chính sách của Ðảng Cộng Sản,
cũng không khó để người ta nhìn ra khuynh
hướng bạo lực với máu tanh khí tức ở
đằng sau.
******************
VIII. Tẩy Não Toàn Quốc và Vòng Đất lại Làm “Nhà Tù”
Vũ khí hiệu quả
nhất mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc dùng
để duy trì sự thống trị của nó là hệ
thống (hình thức võng lưới) khống chế
của nó. Đảng
Cộng Sản Trung Quốc dựa trên lý luận "chó
vâng lời chủ" mà sử dụng hình thức của
các tổ chức Đảng để bắt buộc
mỗi một người dân phải tuân phục mệnh
lệnh của chúng. Cho dù Ðảng có trước-sau mâu
thuẫn hoặc liên tục thay đổi chính sách thì
cũng không thành vấn đề, miễn là Ðảng
phải dùng các tổ chức Đảng để
cướp đoạt quyền lợi làm người mà
mỗi người đều sanh ra cùng. Các vòi tiếp xúc thám thính chính
trị của chính quyền ở khắp mọi
nơi. Bất kể là ở
thành thị hay nông thôn, người dân đều bị
quản lý bởi cái gọi là Ủy ban Đường
phố hoặc Ủy hội Nông thôn. Đến tận
gần đây, lập gia đình, ly dị, sinh con, tất
cả đều phải thông qua sự đồng ý
của các ủy ban này. Hình
thái ý thức của Đảng, cách suy nghĩ, phương
thức tổ chức, cấu trúc xã hội, hệ
thống tuyên truyền và hệ thống quản lý chỉ
là để phục vụ sự thống trị
độc tài, cường quyền của Đảng.
Đảng cộng sản, phải thông qua hệ thống
chính quyền, khống chế lối suy nghĩ của
mỗi một người dân cho đến hành
động của mỗi một cá nhân.
Sự tàn khốc trong cách
khống chế của Đảng Cộng Sản không
chỉ giới hạn ở chỗ tra tấn và hành hạ
thân thể, mà Đảng còn bắt ép người ta
biến đổi trở thành không còn khả năng suy xét
một cách độc lập, tức là làm cho họ
khiếp sợ, khiến cho họ nhát gan co rúm không dám nói
lên sự thật. Mục
đích thống trị của Đảng Cộng Sản,
trong sự tẩy não từng người, là khiến cho
người ta phải nghĩ những gì Đảng
cộng sản nghĩ, nói những gì mà Ðảng Cộng
Sản nói, và phải làm bất cứ sự việc gì mà
Đảng cộng sản đề xướng.
Có câu nói rằng, “Chính sách
của Đảng giống như mặt trăng: ngày
rằm và mồng một thì không giống nhau”. Nhưng
bất kể Đảng cộng sản có thay đổi chính
sách thường xuyên như thế nào, mọi người
dân trên toàn quốc phải tuân theo một cách chặt
chẽ. Khi một cá nhân
bị dùng như một công cụ để công kích
người khác, thì cá nhân ấy phải cám ơn Ðảng
vì Ðảng cộng sản hiểu biết giá trị
của cá nhân ấy; khi bị đả kích, thì phải cám
ơn Đảng Cộng Sản đã “dạy cho một
bài học”; khi nhầm lẫn bị kết tội,
rồi sau đó Đảng khôi phục lại thanh danh thì phải cám ơn Đảng
Cộng Sản đã khoan dung, cởi mở và có khả
năng sửa sai. Chính sách bạo ngược của
Ðảng Cộng Sản là được thực thi trong
sự không ngừng đả kích với sửa sai.
Sau 55 năm thống trị
bạo ngược, tư tưởng của người
dân trên toàn quốc đã bị Đảng Cộng Sản
vẽ lối cho theo, vào một nhà tù, và nhốt nó bên trong
phạm vi tư tưởng mà Đảng Cộng Sản
cho phép. Hễ ai có ý tưởng ngoài phạm vi này thì
bị tội phải chết .
Qua nhiều lần đấu tranh lặp đi
lặp lại, ngu đần được đề cao
là trí tuệ; nhát gan được xem là cách để sinh
tồn. Trong xã hội
hiện đại với mạng lưới thông tin
Internet là phương tiện chủ yếu để trao
đổi tin tức, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc thậm chí còn đòi hỏi người dân
phải thực hành tự kỷ luật, và không
đọc tin tức từ bên ngoài, hay là xem, tìm kiếm các
mạng lưới website với những danh từ như
là “nhân quyền” và “dân chủ”.
Cuộc vận động
tẩy não người dân của Đảng Cộng
Sản như là hoang đường, tàn bạo, hèn hạ,
ở khắp mọi nơi. Chúng đã thay đổi giá
trị giữ được từ luân lý đạo
đức của xã hội Trung Quốc, hoàn toàn
đặt lại chuẩn mực hành vi cư xử và
lối sinh hoạt của dân tộc Trung Hoa. Đảng Cộng Sản liên
tục sử dụng sự tra tấn thể xác và tinh
thần của người dân để gia tăng
quyền hành tuyệt đối của một giáo phái
Đảng Cộng Sản mà thống trị thiên hạ.
Lời Kết
Tại sao Đảng
Cộng Sản phải đấu tranh không ngừng
để giữ quyền lực của nó? Năm nào
cũng đấu tranh, tháng nào cũng đấu tranh, ngày
nào cũng đấu tranh. Tại sao Đảng cộng
sản tin rằng chừng nào đời sống tồn
tại thì đấu tranh vẫn không bao giờ hết? Để
đạt được mục đích của nó,
Đảng cộng sản không do dự khi giết
người hoặc phá hủy môi trường sinh thái,
cũng như không quan tâm rằng đa số nông dân và dân
thành thị đang sống trong cảnh bần cùng.
Điều này
có phải vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng
sản chăng? Câu trả lời là “Không”. Một trong những nguyên tắc của
Đảng Cộng Sản là loại trừ tất cả
chế độ tư hữu, bởi vì Đảng
cộng sản cho rằng chế độ sở hữu
tư nhân là nguồn gốc gây ra tất cả tội ác.
Đảng cộng sản, sau khi chiếm đoạt chính
quyền, đã cố gắng loại trừ chế
độ tư hữu trên mọi phương diện. Tuy
nhiên, sau cải cách kinh tế vào thập niên 1980, sở
hữu tư nhân lại một lần nữa
được phép tồn tại ở Trung Quốc Hiến pháp cũng quy
định bảo vệ tài sản tư hữu. Xuyên qua
những lời nói dối của Đảng cộng
sản, người ta đã
thấy rõ ràng trong 55 năm cầm quyền, sự
thống trị của Đảng cộng sản
chẳng qua chỉ là đạo diễn một màn kịch
phân phối lại tài sản. Sau nhiều lần phân
phối như vậy, rốt cuộc Đảng cộng
sản chuyển tài sản của người khác thành tài
sản riêng tư của chính nó.
Đảng cộng sản
tự tuyên bố nó là “người tiên phong của giai
cấp công nhân”. Nhiệm vụ của nó là tiêu diệt giai
cấp tư sản. Tuy nhiên, bây giờ trong Đảng
chương của Đảng cộng sản rõ ràng quy
định là những nhà tư bản có thể gia
nhập Đảng. Không còn người nào trong nội
bộ của Đảng cộng sản tin vào Đảng
cộng sản và Chủ nghĩa Cộng sản nữa.
" Danh bất chính, thì ngôn bất thuận". Những
gì còn lại của Đảng Cộng Sản chỉ là
cái vỏ bề ngoài mà rỗng ruột, có thể nói
rằng tự nó là vô thực chất.
Vậy thì, đấu tranh trường kỳ
như thế sẽ giữ cho các thành viên Đảng
cộng sản thanh liêm, không bị thối nát chăng? Không phải. Trong 55 năm
Đảng cộng sản nắm chính quyền, những
sự việc tham ô, thối nát, hối lộ, làm xằng
bậy không theo pháp luật, và những hành động phá
hoại đất nước và nhân dân vẫn lan rộng
trong các cán bộ của Đảng cộng sản trên toàn
quốc. Trong những năm gần đây, trong tổng
số gần 20 triệu viên chức Đảng cộng
sản ở Trung Quốc, 8 triệu viên chức thối
nát đã bị trừng trị vì những tội ác liên
quan đến tham ô. Mỗi năm, khoảng 1 triệu
người tố cáo với các cấp chính quyền cao
hơn về những viên chức thối nát chưa bị
điều tra. Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2004,
Cục Quản lý Ngoại hối Trung Quốc đã
điều tra các trường hợp thanh toán trao
đổi tiền bất hợp pháp trong 35 ngân hàng và 41 xí
nghiệp, và đã tìm thấy 120 triệu đô la Mỹ
trong các giao dịch bất hợp pháp. Theo thống kê
những năm gần đây, không ít hơn 4.000 cán bộ
trong chính quyền Đảng cộng sản đã trốn
ra khỏi Trung Quốc cùng với tiền biển thủ,
và tiền của trộm cắp từ quốc gia đã
lên tới hàng chục tỉ đô la Mỹ.
Vậy thì, đấu tranh
như thế là nhằm mục đích nâng cao tố
chất và giác ngộ của dân và để cho mọi
người quan tâm tới các việc quốc gia đại
sự chăng? Câu trả lời cũng là một chữ “Không” vang rền khác. Ở
Trung Quốc ngày nay, sự kiện theo đuổi vật
chất đang bành trướng, và người ta đang
mất đi đức hạnh truyền thống của
lòng chân thật. Một tính phổ biến của mọi
người là lừa dối người thân thuộc và
bịp bợm bạn bè. Nhiều người Trung Quốc
hoặc không quan tâm hoặc từ chối không nói
đến nhiều vấn đề quan trọng như
nhân quyền hoặc cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Giữ
lại nhận thức cho riêng mình, và lựa chọn không
nói sự thật đã trở thành một phương
thức sinh tồn cơ bản ở Trung Quốc. Trong lúc
đó, Đảng cộng sản liên tục kích
động tình cảm quần chúng về chủ
nghĩa dân tộc khi có cơ hội. Đảng
cộng sản Trung Quốc có thể, ví dụ như,
tổ chức cho người dân Trung Quốc ném đá vào
tòa đại sứ Hoa Kỳ và đốt cờ Mỹ.
Người dân Trung Quốc có thể được
đối xử như là "dân phục tùng" hoặc
là "dân bạo lực", nhưng không bao giờ là
những công dân mà có nhân quyền được bảo
đảm. Tu dưỡng văn hóa là nâng cao căn bản tố chất. Trong hàng ngàn
năm các kỷ cương về đạo đức
của Khổng Tử và Mạnh Tử đã thiết
lập các tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo
đức. “Nếu tất cả những nguyên tắc
[đạo đức] này bị bỏ đi, thì lúc đó
con người đều là vô chủ (không có luật cho
dân noi theo), và dân không nhận
thức được tốt và xấu. Họ sẽ
lạc hướng… là Đạo đại loạn” [14]
Mục đích đấu
tranh giai cấp của Đảng cộng sản là liên
tục tạo ra đại loạn, qua đó nó có thể
vững vàng tự xây dựng mình trở thành địa
vị giáo chủ của "một và chỉ một
Đảng" thống trị thiên hạ ở Trung Quốc,
sử dụng tư tưởng chính trị của
độc (một) Đảng để khống chế
toàn dân Trung Quốc. Các cơ cấu chính phủ, quân
đội và các phương tiện thông tin là tất
cả các công cụ được sử dụng bởi
Đảng cộng sản để thực hành nền
chuyên chính bạo lực của nó. Đảng cộng sản,
mang các bệnh tật không thể chữa được
tới Trung Quốc, chính nó đang đứng trên bờ
diệt vong, và sự sụp đổ của nó là không
thể tránh khỏi.
Có người cho rằng
đất nước sẽ hỗn loạn nếu
Đảng cộng sản tan rã. Ai có thể thay thế vai
trò của Đảng cộng sản để lãnh
đạo Trung Quốc? Trong 5.000 năm lịch sử
của Trung Quốc, chỉ 55 năm bị thống
trị bởi Đảng cộng sản ngắn như là
đám mây lướt nhanh. Tuy nhiên, bất hạnh thay, trong
khoảng thời gian 55 năm ngắn ngủi này,
Đảng cộng sản đã làm tiêu tan các tín
ngưỡng và tiêu chuẩn truyền thống; phá hủy các
nguyên tắc đạo đức truyền thống và
cấu trúc xã hội; biến đổi sự quan tâm và yêu
thương giữa con người thành đấu tranh và
hận thù; và đã thay thế sự kính ngưỡng
Trời, Đất và Tự Nhiên bằng sự ngông
cuồng, xem Trời bằng vung, như là “nhân định
thắng thiên”. Với hành động phá hủy hết cái
này đến cái khác Đảng đã tàn phá các hệ
thống sinh thái, và hệ thống đạo đức xã
hội, để lại một quốc gia Trung Hoa chìm sâu
trong nguy cơ.
Trong lịch sử Trung
Quốc, các triều đại có chính quyền nhân
đức đều xem yêu thương, nuôi dưỡng
và giáo dục dân chúng là trách nhiệm của chính phủ.
Bản năng của con người là hướng
Thiện, và vai trò của chính phủ là hỗ trợ
người dân thực
hiện bản năng này. Mạnh Tử đã nói, “Đây
là đạo của dân: có kế lâu bền thì sẽ
bền lòng, không có kế lâu bền thì sẽ không bền
lòng”. (dân chi vi đạo dã, hữu hằng sản giả
hữu hằng tâm, vô hằng sản giả vô hằng tâm).
Giáo dục mà không có thịnh vượng thì không có hiệu
quả tốt; những kẻ lãnh đạo hung tàn,
bạo ngược, không có tình thương dân mà lại
giết những người vô tội, những kẻ lãnh
đạo đó đáng bị nhân dân Trung Quốc khinh
miệt.
Trong 5.000 năm lịch
sử Trung Quốc, có nhiều nhà lãnh đạo nhân
đức, như là vua Nghiêu vua Thuấn vào thời cổ,
triều nhà Chu có vua Vũ, triều nhà Hán có hoàng đế
Văn và hoàng đế Cảnh, hoàng đế
Đường Thái Tông triều nhà Đường, hoàng
đế Khang Hy và hoàng đế Càn Long triều nhà Thanh.
Sự thịnh vượng trong những triều
đại này tất cả đều là kết quả mà
những nhà lãnh đạo đã thực thi theo đạo
Trời, theo học thuyết Trung Dung, và phấn
đấu cho hòa bình và ổn định. Đặc
điểm của một nhà lãnh đạo nhân từ là
chiêu dùng người có Đức và có Tài, lắng nghe và suy
xét những ý kiến khác nhau, đề cao công lý và hòa bình,
và cho dân những gì người dân cần. Theo cách này, dân
chúng sẽ tuân theo luật pháp, giữ gìn lễ nghĩa, an
cư lạc nghiệp.
Quan sát các vấn đề
của thế giới, chúng ta thường hỏi ai
quyết định một nước thịnh
vượng hay suy vong, mặc dù chúng ta biết rằng
sự thăng hay trầm của một quốc gia có
những lý do của nó. Khi Đảng cộng sản
biến mất, chúng ta có thể hy vọng hòa bình và hòa khí
sẽ trở lại với Trung Quốc. Dân gian sẽ
lại chân thành, thiện lương, khiêm tốn, khoan dung,
và quốc gia sẽ một lần nữa quan tâm
đến các nhu cầu căn bản của người
dân, và mọi nghề nghiệp đều sẽ thịnh
vượng.
Chú
thích:
[1] Từ “Biên niên sử
về thực phẩm và hàng hóa” trong cuốn Hán Sử.
[2] Qian Bocheng, Văn hóa
Phương Đông, ấn bản thứ tư, 2000.
[3] Cao Cương và Nhiêu
Sấu Thạch đều là các thành viên của Ban Trung
Ương. Sau thất bại tranh giành quyền lực vào
năm 1954, họ bị buộc tội âm mưu chia rẽ
Đảng và sau đó bị khai trừ khỏi
Đảng.
[4] Hồ Phong, học
giả và phê bình văn học, đã chống lại chính
sách văn chưong cằn cỗi của ĐCSTQ. Ông
bị khai trừ khỏi Đảng năm 1954 và bị
kết án 14 năm tù. Từ năm 1951 đến 1952,
ĐCSTQ khởi xướng các chiến dịch “Tam
Phản” và “Ngũ Phản”, các cuộc vận động
có mục tiêu được nói rõ là loại bỏ tham ô,
lãng phí và quan liêu trong Đảng, chính phủ, quân
đội và các tổ chức lớn.
[5] Những Cách Đảng Cộng Sản Trung Quốc
dùng để đàn áp tín đồ Thiên Chúa Giáo (1958)
(bằng chữ Hán)
[6] Lỗ Tấn
(25/9/1881 –19/10/1936) thường được coi là
người sáng lập ra văn học Trung Quốc
bản xứ hiện đại. Ông cũng là một
dịch giả nổi tiếng. Là một nhà văn cánh
tả, Lỗ đóng một vai trò quan trọng trong
lịch sử văn học Trung Quốc. Sách của ông
đã ảnh hưởng lớn lên nhiều thanh niên Trung
Quốc. Trở lại Trung Quốc sau khi học y ở
Sendai, Nhật bản vào năm 1909, ông đã trở thành
một giảng viên tại Đại Học Bắc Kinh và
bắt đầu viết từ đó. Sách của ông
đã ảnh hưởng đến rất nhiều
người trẻ Trung Quốc hiện đại.
[7] Ngọc Hoàng và Long
Vương cả hai đều là nhân vật thần
thoại. Ngọc Hoàng, còn được mệnh danh là
Ngọc Nhân Tháng Tám cũng như được
người thường và trẻ em gọi là ông trời,
là vua ở thiên đình và là một trong những bậc
thần tiên quan trọng nhất của Đạo Giáo. Long
Vương là vua của bốn biển. Mỗi biển
định theo bốn hướng (đông, tây, nam,
bắc) đều có một Long Vương. Long
Vương sống ở trong lâu đài bằng pha lê canh
gác bởi các tướng cua và lính tôm. Ngoài việc trị
vì các hải vật, Long Vương còn làm ra mây mưa.
Đông Hải Long Vương được nói rằng là
có lãnh thổ to nhất.
[8] Bành Đức Hoài
(1898-1974): Nhà lãnh đạo chính trị và tướng
cộng sản Trung Quốc. Bành là tổng tư lệnh
trong chiến tranh Triều Tiên, phó chủ tịch Hội
đồng nhà nước, ủy viên Bộ Chính Trị,
Bộ trưởng Bộ quốc phòng từ 1954-1959. Ông
đã bị phế truất khỏi vị trí của mình
sau bất đồng với các giải pháp cánh tả
của Mao tại phiên họp toàn thể Lư Sơn
của ĐCSTQ năm 1959.
[9] Triệu Cao (? - 210
trước CN): Tổng thái giám trong triều đại nhà
Tần. Vào năm 210 trước CN, sau khi Hoàng Đế
Tần Thủy Hoàng chết, Triệu Cao, thừa
tướng Lý Tư và con thứ hai của Hoàng Đế
là Hồ Hợi đã làm giả chúc thư của Hoàng
Đế, đưa Hồ Hợi lên làm Hoàng Đế
mới và ra lệnh cho hoàng thái tử Phù Tô phải tự tử.
Sau đó xung đột xảy ra giữa Triệu Cao và
Hồ Hợi (Nhị Thế Hoàng Đế), Cao đã mang
vào hoàng cung một con nai và nói nó là một con ngựa.
Chỉ một số ít quan lại dám không đồng
ý và nói nó là một con nai. Triệu Cao tin rằng những
viên quan gọi con vật là nai chống lại mình và tìm cách
bãi chức của họ.
[10] Dịch từ http://www.boxum.com/hero/dings/39_1.shtml.
[11] Vệ Binh Đỏ là
những người dân sự đã thực thi chính sách
của Cách Mạng Văn Hóa ở các địa
phương.
[12] Cuộc Tàn Sát
Đại Hưng xảy ra vào tháng 8 năm 1966 trong khi
thay đổi lãnh đạo Đảng ở Bắc Kinh.
Vào lúc đó Tạ Phú Trì, bộ trưởng Bộ Công an,
đã có một bài diễn văn tại một cuộc
họp Cục Công an tại Bắc Kinh, đã khuyến
khích không can thiệp vào các hành động của Hồng
Vệ binh chống lại “năm giai cấp đen”. Bài
diễn văn này chẳng mấy chốc được
chuyển tới cuộc họp Ủy Ban Lâm Thời
của Cục Công an Đại Hưng. Sau cuộc họp,
Cục Công An Đại Hưng ngay lập tức đã
hành động là lên kế hoạch kích động
những đám đông ở huyện Đại Hưng
giết “năm giai cấp đen”.
[13] Thuộc về ngày 19
tháng 12 năm 2004.
[14] Từ Kang Youwei, Tuyển
tập các bài viết chính trị (1981). Zhonghua Zhuju. Kang
Youwei (1858-1927) là một nhà tư tưởng cải cách
quan trọng vào cuối đờiThanh.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
Đảng Cộng Sản là lực lượng phản vũ trụ
Lời mở đầu
Bảng hiệu khuyến khích Hồng Vệ Binh đánh đập dân chúng, tiêu hủy tài sản, và cướp bóc nhà cửa. Khẩu hiệu trong hình này là "Đả phá thế giới cũ, sáng lập thế giới mới". |
Người Trung Hoa
rất trọng “Đạo”. Thời xưa một vị hoàng
đế mà hung bạo thì bị gọi là “hôn quân vô
đạo.” Bất kể
hành vi nào không phù hợp với tiêu chuẩn đạo
đức thì được xem là "không có đạo
đức", thể theo hai chữ Hán ngữ là
“Đạo” và “Đức”.
Đến cả nông dân khi nổi dậy, họ
cũng giương cao khẩu hiệu rằng họ “thế thiên hành Đạo”. Ngài Lão Tử [1] giảng
rằng, “Có cái gì huyền bí và nguyên vẹn tồn tại
trước khi khai thiên lập địa: Tĩnh mịch,
vô hình, vắng vẻ và độc lập. Trường tồn khắp
nơi trong tuyệt mỹ, là mẹ của vạn sự
vạn vật. Ta không
biết tên chi. Ta gọi
đó là Đạo.” Ý nói rằng thế giới
được hình thành từ “Đạo”.
Hơn trăm năm vừa qua, hồn
ma Cộng Sản thình lình xâm chiếm khiến tạo thành
một luồng trái với Tự nhiên, một lực
lượng trái với nhân tính, gây ra vô vàn thống khổ
và bi thảm. Chúng đã đẩy văn minh nhân loại
đến bên bờ hủy diệt. Hành động bạo tàn chống lại "Đạo",
tự nhiên cũng là phản thiên nghịch địa ,
rồi từ đó mà trở thành một lực cực
kỳ tà ác và phản vũ trụ.
“Người thuận theo Đất,
Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo
Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên.” [2]. Người Trung Quốc từ
xưa đến nay, tin tưởng và giữ đúng điều
'Trời với người hợp nhất'; con
người và trời đất hòa hợp, dựa nhau mà
sinh tồn. Đạo
Trời không biến đổi,
tuần hoàn vận hành thuận theo Đạo một
cách trật tự.
Đất thuận theo thiên thời, vì thế mà có
bốn mùa phân biệt rõ ràng.
Thuận theo trời đất, nhân loại
được hưởng cuộc sống hài hòa hạnh
phúc. Điều này phản
ảnh qua thành ngữ “thiên
thời, địa lợi, nhân hòa" [3]. Người Trung Hoa nghĩ
rằng, thiên văn, địa lý, hệ thống lịch,
y học, văn học, đến cả cấu trúc xã
hội, tất cả đều thể theo quy luật này.
Nhưng chỉ có
Đảng Cộng Sản thì lại cổ võ “nhân định thắng thiên” và
“triết lý đấu tranh”, coi thường Trời, Đất
và Tự Nhiên. Mao Trạch
Đông nói rằng, “đấu với Trời là vui vô cùng,
đấu với Đất là vui vô cùng, đấu
với Người là vui vô cùng”.
Có lẽ từ các đấu tranh này mà Đảng
Cộng Sản đạt được niềm vui
thực sự, nhưng người dân đã phải
trả cái giá cực kỳ thảm thương.
I. Đấu với Người, diệt tuyệt nhân tính
1. Thiện Ác điên đảo -- mất hẳn nhân tính
Con người trước hết là
người của tự nhiên, sau đó là người
của xã hội. “Nhân chi
sơ tính bổn thiện” [4], “ Người nào cũng có
thể động lòng trắc ẩn” [5] là những nguyên
lý chỉ đạo mà con người sẵn có khi chào
đời, các nguyên lý chỉ đạo này giúp họ phân
biệt được đúng hay sai, thiện hay ác. Tuy nhiên, đối với
Đảng Cộng Sản, con người là thú vật,
thậm chí còn như là máy móc.
Thể theo Đảng Cộng Sản, thì không kể
là giai cấp tư sản hay giai cấp vô sản, tất
cả cũng chỉ là lực lượng vật chất
mà thôi.
Mục đích của Đảng
Cộng Sản là kiềm chế thao túng người ta và
dần dần biến họ thành bọn hung tợn,
tạo phản của cách mạng. Karl Marx cho rằng, “Chỉ có lực
lượng vật chất mới có thể phá tan
được lực lượng vật chất; mà lý luận
một khi đã nắm được quần chúng,
cũng sẽ biến thành một lực lượng
vật chất.” [6] Ông ta tin
rằng toàn bộ lịch sử của nhân loại không gì
khác hơn là sự tiến hóa liên tục của nhân tính,
rằng trên thực tế nhân tính chính là giai cấp tính,
rằng không có gì là cố hữu, bẩm sinh mà tất
cả đều là sản phẩm của môi trường
mà thôi. Ông ta lý luận
rằng con người là một “người của xã
hội”, và không đồng ý với khái niệm
“người của tự nhiên” mà Feuerbach [Phơ-bách]
thừa nhận. Lenin tin
rằng chủ nghĩa Marxism không thể tự nhiên mà
tạo ra trong thành phần giai cấp vô sản, mà phải
từ bên ngoài mà đưa vào.
Lenin [Lê-nin] cố gắng nỗ lực hết sức
nhưng vẫn không làm cho công nhân chuyển từ
đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị
để chiếm đoạt quyền lực. Cho nên ông đặt hy vọng vào
Thuyết Phản Xạ Có Điều Kiện của
Ivan Petrovich Pavlov, người đã từng đoạt
giải Nobel. Lenin cho rằng lý thuyết này “có ý nghĩa
quan trọng đối với thành phần giai cấp vô
sản trên toàn thế giới.” Trotsky [7] còn tự phụ
rằng Thuyết Phản Xạ Có Điều Kiện
không những chỉ thay đổi con người về
mặt tâm lý, mà còn thay đổi con người về
mặt vật chất.
Cũng giống như một con chó chảy
nước miếng mỗi khi nghe tiếng chuông gọi
bữa ăn trưa reo lên, quân lính nghe súng nổ mà dũng
cảm xông lên và hiến dâng mạng sống cho Đảng
Cộng Sản.
Từ cổ xưa, người ta tin
tưởng rằng thành quả có được từ
nỗ lực và lao động.
Bằng cách lao động chăm chỉ người
ta có được cuộc sống thịnh
vượng. Biếng nhác là
bị khinh thường và hưởng lợi mà không lao động
là trái với đạo đức. Sau khi Đảng Cộng Sản lan tràn vào Trung
Quốc như một bệnh dịch, chúng hô hào cặn bã
xã hội và những kẻ ăn không ngồi rồi đi
chia đất, cướp đoạt tài sản riêng
tư, áp bức mọi người, công khai làm như
thế dưới danh nghĩa pháp luật.
Ai cũng hiểu rằng kính trọng
người lớn tuổi, chăm lo trẻ em là tốt;
không kính trọng người lớn tuổi và thầy giáo
là xấu. Nền giáo dục
theo Khổng Tử khi xưa có hai phần: Tiểu Học và Đại Học. Giáo dục
của Tiểu học
là dạy cho trẻ em dưới 15 tuổi, chủ
yếu là tập trung vào quy tắc về vệ sinh, giao
tiếp xã hội, nghi thức (có nghĩa là giáo dục
vệ sinh, cách đối xử xã hội, lời nói
v..v). Giáo dục Đại Học nhấn
mạnh về Đức
tính và tiếp thụ Đạo
Lý [8]. Trong các chiến
dịch của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
để chỉ trích Lâm Bưu [9], phê phán Khổng Tử
và bãi bỏ không kính trọng thầy, Đảng đã xóa
tan tất cả chuẩn mực đạo đức
trong tâm hồn của thế hệ trẻ.
Có một câu nói từ cổ xưa
thế này, ‘Một ngày làm thầy của ta, thì trọn
đời ta phải kính trọng người đó như
là cha của mình.’
Ngày 5 tháng 8 năm 1966, Biện Trọng
Vân, một cô giáo của Trường Trung học Nữ
thuộc Đại Học Sư Phạm Bắc Kinh,
bị các nữ sinh của cô bắt diễn hành trên
phố, đội một chiếc mũ lừa cao,
quần áo dính đầy mực đen, quàng một cái
bảng đen sỉ nhục trên cổ, đi giữa
đám học sinh trong khi chúng đang đánh trống
bằng thùng rác. Cô bị
bắt phải quỳ trên mặt đất, bị
đánh bằng một cái gậy gỗ có đóng đinh
lởm chởm, và bị đổ nước sôi lên
người. Cô ta đã
bị tra tấn đến chết đi.
Một nữ hiệu trưởng
trường Trung học của Đại học Bắc
Kinh bị học sinh bắt phải gõ lên một cái
chậu rửa đã vỡ và la lớn rằng “Tôi là
một phần tử xấu”.
Để làm nhục bà ta, tóc bà đã bị cắt
xén một cách bừa bãi. Bà
bị đánh vào đầu cho đến khi máu phun ra, trong
khi đó thì bị bắt buộc phải quỳ xuống
và bò trên mặt đất.
Ai cũng nghĩ rằng sạch là
tốt, bẩn là xấu.
Vậy mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc
lại hô hào “phủ bùn khắp người và làm chai
đầy bàn tay”, lại còn khen rằng “tay lem luốc và
chân dính phân bò” [10] là hay.
Những người như thế được xem
là những phần tử cách mạng nhất, có thể
đi học đại học, được gia nhập
Đảng, được thăng chức, cuối cùng
trở thành lãnh đạo của Đảng.
Tiến bộ của nhân loại là
tiến bộ về kiến thức, nhưng dưới
sự thống trị của Đảng Cộng Sản,
kiến thức bị xem là những thứ không
tốt. Các phần tử trí
thức thì bị xếp loại thành 'loại hôi thối
hạng chín' — là tệ nhất trên tỉ lệ từ
một đến chín.
Người trí thức phải học hỏi từ
dân mù chữ, phải bị nông dân nghèo giáo dục lại
để họ được cải tạo và bắt
đầu một cuộc sống mới. Trong việc cải tạo
lại thành phần trí thức, các giáo sư từ
Đại học Thanh Hoa bị đày đến
đảo Như Châu ở Nam Xương, tỉnh Giang
Tây. Bệnh sán máng [11] là
một bệnh rất phổ biến ở khu vực này,
thậm chí một trại lao động cải tạo
trước kia ở chỗ này cũng phải dời
đi nơi khác. Vừa khi
đụng vào nước sông, các giáo sư này đã bị
nhiễm trùng và bị bệnh sơ gan, vì thế mà mất
đi khả năng làm việc và sống.
Dưới sự chủ mưu
của cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai,
Đảng Cộng sản Căm-pu-chia (Khờ-me
Đỏ) đã tiến hành cuộc đàn áp dã man nhất
nhắm vào thành phần trí thức. Những người có tư tưởng
độc lập trở thành đối tượng
bị cải tạo và bị tiêu diệt về tinh
thần lẫn thể xác.
Từ năm 1975 đến 1978, một phần tư
dân số của Căm-pu-chia đã bị ám sát, một
số người chỉ vì có cái dấu đeo mắt kính
trên mặt mà bị giết chết.
Sau khi Đảng Cộng Sản
Căm-pu-chia chiến thắng vào năm 1975, Pol Pot
[Pôn-pốt] vội vàng bắt đầu thành lập
chủ nghĩa xã hội — gọi là “một thiên đàng
của xã hội nhân loại”, một xã hội không có
sự khác biệt về giai cấp, không phân biệt thành
thị nông thôn, không có tiền tệ hay thương
mại. Cuối cùng thì các gia
đình bị tan nát và được thay thế bởi
những đội lao động nam và những
đội lao động nữ.
Tất cả bị bắt phải làm việc và
ăn chung với nhau, mặc đồng phục cách
mạng màu đen hay quân phục.
Vợ chồng chỉ được phép gặp nhau
mỗi tuần một lần.
Đảng Cộng Sản tuyên bố
rằng không sợ Trời, không sợ Đất và ngông
cuồng đòi cải tạo lại trời đất.
Thật ra là chúng hoàn toàn chối bỏ hết thảy các
nhân tố và lực lượng chân chính trong vũ
trụ. Khi còn là sinh viên ở
Hồ Nam, Mao Trạch Đông đã từng nói rằng:
“Trong những thế kỷ, các dân
tộc đã từng trải qua những cuộc cách
mạng lớn lao. Thường thường cái cũ thì
bị rửa trôi đi và tất cả được
nhuộm lại với cái mới; biến đổi to
lớn xảy ra, có thể bao gồm sống và chết,
thành công và hủy diệt.
Cũng giống như sự hủy diệt của
vũ trụ. Mà hủy diệt của vũ trụ
chắc chắn không phải là sự hủy diệt
cuối cùng, và cũng không hẳn hủy diệt ở
nơi này thì sẽ là sáng tạo ở nơi kia. Con người chúng ta ai cũng
có phần trong sự hủy diệt như thế, bởi
vì trong việc hủy diệt vũ trụ cũ, chúng ta
sẽ đem lại vũ trụ mới. Chẳng phải nó tốt hơn
vũ trụ cũ hay sao!"
Tình cảm đối với
người thân thuộc là điều tự nhiên của
con người. Tình cảm
thân mến giữa vợ chồng, con cái, cha mẹ,
bạn bè nói chung là bình thường trong xã hội loài
người. Qua các cuộc
vận động chính trị liên tiếp, Đảng
Cộng Sản Trung Quốc đã thay đổi con người
thành chó sói, thậm chí biến thành thú vật hung tợn
hơn cả chó sói nữa.
Ngay cả những con hổ hung dữ nhất
cũng không ăn thịt con của nó; nhưng dưới
quyền thống trị của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc, cha mẹ và con cái đấu tố
nhau, vợ chồng tố cáo nhau, đều là chuyện
thường; quan hệ gia đình thân thuộc
thường thường không được chấp
nhận.
Vào giữa thập niên 1960, một
nữ giáo viên ở một trường tiểu học
tại Bắc Kinh vô tình viết hai chữ ‘chủ nghĩa
xã hội’ và ‘sụp đổ’ chung với nhau, lúc cô
tập cho các học sinh viết chữ Hán. Các học sinh liền báo cáo
cô. Sau đó, hằng ngày cô ta
bị phê bình chỉ trích và bị các nam học sinh tát
mặt. Con gái của cô ta
đã cắt đứt tình mẹ con với cô. Khi tranh cãi dữ dội trong các
buổi sinh hoạt chính trị, con gái cô ta đã chỉ
trích thái độ của mẹ mình trong “chiều
hướng mới của đấu tranh giai cấp”. Tiếp theo sự bất
hạnh này, vài năm sau, cô giáo viên đó thường ngày
không làm chi khác hơn mà chỉ quét dọn trường và
dọn dẹp nhà vệ sinh.
Ai đã từng sống trong thời
Cách Mạng Văn Hóa sẽ không bao giờ quên cô
Trương Chí Tân, bị cầm tù vì phê phán Mao Trạch
Đông bị thất bại trong chiến dịch Đại Nhẩy Vọt. Rất nhiều lần cai
ngục cởi hết quần áo của cô ta, còng tay cô
về phía sau và quẳng cô vào xà-lim của đàn ông
để cho các tù nhân nam hãm hiếp tập thể. Cuối cùng cô ta đã bị
điên loạn. Trước khi bị giết chết, cai
ngục sợ rằng cô ta sẽ hô to những khẩu
hiệu phản đối, nên bọn chúng đè đầu
cô ta trên một phiến đá và cắt cuống họng cô
mà không dùng một chút thuốc tê.
Trong cuộc đàn áp bức hại
Pháp Luân Công những năm gần đây, Đảng
Cộng Sản Trung Quốc vẫn liên tục sử
dụng thủ đoạn cũ đó để kích
động căm thù và xúi giục bạo lực.
Đảng Cộng Sản tiêu diệt
bản tính thiện lương của con người,
chúng xúi giục, dung túng và lợi dụng phần ác trong
nhân tính của con người để củng cố quyền
thống trị của chúng.
Từ cuộc vận động này đến
cuộc vận động khác, người có lương
tâm vì kinh sợ bạo lực mà ép buộc phải im
lặng. Đảng Cộng
Sản đã tiêu diệt chuẩn mực đạo
đức trong vũ trụ một cách có hệ thống;
mục đích là để hoàn toàn phá hủy khái niệm
đạo đức, phá hủy khái niệm Thiện và Ác
mà nhân loại đã duy trì hàng ngàn năm qua.
2. Tà ác đến độ đã vượt qua quy luật tương sinh tương khắc
Ngài Lão
Tử giảng rằng: “Dưới gầm trời,
tất cả nhận thấy cái đẹp là đẹp
bởi vì có cái xấu.
Biết được cái thiện là thiện bởi
vì có tà ác. Cho nên 'có và không' sinh
cùng với nhau. Khó khăn và
dễ dàng phối hợp với nhau. Dài và ngắn so với nhau, cao và thấp nghiêng
vào nhau, tiếng nói và âm thanh hòa hợp nhau; trước và
sau đi theo nhau.” [12]
Nói một cách đơn giản, quy
luật tương sinh tương khắc tồn tại
ở thế gian của con người. Không chỉ có người ta
được phân chia thành người tốt và
người xấu, mà thiện và ác cũng cùng tồn
tại trong bản thân của mỗi một người.
Đạo Chích, một nhân vật
điển hình của bọn cướp ở Trung
Quốc thời xưa, nói với đám lâu la rằng
“Ăn cướp cũng phải có Đạo.” Hắn tiếp tục nói
rằng tên cướp cũng phải có tài cao, dũng
cảm, ân nghĩa, trí tuệ và nhân từ. Đó là nói rằng, ngay cả
một tên cướp cũng không thể muốn làm gì làm,
mà còn có các qui củ phải tuân theo.
Nhìn lại lịch sử của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc, có thể nói là tràn
đầy thủ đoạn xảo quyệt và phản
bội, không có qui củ bó buộc. Ví dụ, bọn cướp tôn trọng nhất
là “nghĩa”. Đến
cả nơi mà chúng chia của cải cướp
đoạt cũng được gọi là “ Tụ nghĩa phân sảnh đường" (Sảnh
đường để phân chia đồ tụ
nghĩa). Vậy mà khi khủng hoảng xảy ra giữa
các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Trung
Quốc, thì họ tố cáo và buộc tội lẫn nhau,
thậm chí còn bịa đặt tội danh giả
để hại nhau, chà xát thêm muối vào vết
thương.
Lấy Tướng Bành Đức Hoài
làm ví dụ. Mao Trạch Đông xuất thân từ một
gia đình nông dân, đương nhiên thừa biết
rằng một mẫu đất không thể nào sản
xuất ra 130 ngàn cân gạo [13] và cũng thừa biết
rằng điều mà Tướng Bành nói tất cả là
đúng. Mao cũng biết rõ
rằng Bành không có ý định cướp đoạt
quyền hành của Mao, chưa kể đến việc
Bành đã cứu mạng Mao nhiều lần khi Bành chỉ có
20 ngàn quân mà chiến đấu với 200 ngàn quân lính
của Hồ Tông Nam trong cuộc nội chiến giữa
Đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng ở
Trung Quốc. Vậy mà khi Bành
vừa phát biểu ý kiến bất đồng với Mao,
lập tức Mao phát cơn thịnh nộ, ném vào thùng rác
một bài thơ mà Mao đã viết ca ngợi về
Bành—“Ai dám rút kiếm cưỡi ngựa tiến lên,
chỉ có tướng Bành chúng ta!”— Mao nhất quyết
xử tử Bành, không đếm xỉa gì đến sự
cao thượng và tình đồng chí ân nhân cứu mạng
của Bành đối với mình, có thể nói là ân
đoạn nghĩa tuyệt.
Đảng Cộng Sản giết
người một cách tàn bạo thay vì cai trị với
lòng nhân từ; chúng đàn áp bức hại đảng viên,
không kể đến tình đồng chí và không nói
đến nghĩa khí; chúng bán rẻ đất của
Trung Quốc, hành động hèn nhát; tự chúng làm cho mình
trở thành kẻ thù của lòng tin chân chính, chúng thiếu
trí tuệ; chúng đề cao các cuộc vận động
quần chúng, chà đạp đường lối trị
quốc của các bậc thánh nhân.
Tóm lại, Đảng Cộng Sản đã đi quá xa, đến cả
một chút chuẩn mực đạo đức tối
thiểu ấy như là “Ăn cướp cũng phải
có Đạo.” mà chúng cũng vứt đi. Sự tà ác của chúng đã
vượt hẳn đạo lý tương sinh
tương khắc trong vũ trụ. Đảng Cộng Sản triệt để
lật đổ nhân tính và tự nhiên, mục đích là
chúng muốn lật đổ tiêu chuẩn Thiện và Ác,
lật đổ quy luật của vũ trụ. Khi những cuồng vọng
đi đến tột cùng, thì tự nhiên chúng khó mà
chạy trốn khỏi cái kết cục phải bị
tiêu diệt.
II. Đấu với Đất, làm trái với tự nhiên, gây tai họa vô cùng
1. Mở rộng đấu tranh giai cấp đến sự Tự Nhiên
Kim Huấn Hoa, một học sinh
tốt nghiệp trung học vào năm 1968 của
trường Trung học Ngô Tùng số 2 của
Thượng Hải và cũng là một thành viên của
Ủy Ban Thường Trực Hồng Vệ Binh Trung
Học ở Thượng Hải, được
đưa đến vùng quê của tỉnh Hắc Long Giang
vào tháng Ba năm 1969. Vào ngày 15
tháng 8, năm 1969, những cơn lũ dữ dội từ
trên núi đổ xuống và làm ngập nhanh chóng hết
cả các khu vực xung quanh sông Song Hà. Kim nhảy vào trong dòng nước đang
chảy xiết để kéo lên hai cột dây điện
cho đội sản xuất của anh ta nên đã bị
chết đuối.
Sau đây là hai đoạn văn trong
nhật ký [14] của Kim viết trước khi chết.
Ngày 4 tháng Bảy:
Tôi bắt đầu cảm thấy sự nghiêm trọng và ác liệt của đấu tranh giai cấp ở nông thôn. Là một Hồng vệ binh của Mao Chủ Tịch, với tư tưởng bất chiến bại của Mao Trạch Đông làm vũ khí, tôi hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu chống lại lực lượng phản động. Dù phải hy sinh mạng sống, tôi vẫn sẵn sàng chiến đấu. Tôi sẽ chiến đấu! chiến đấu! và chiến đấu với tất cả khả năng của tôi để củng cố giai cấp vô sản chuyên chính .
Tôi bắt đầu cảm thấy sự nghiêm trọng và ác liệt của đấu tranh giai cấp ở nông thôn. Là một Hồng vệ binh của Mao Chủ Tịch, với tư tưởng bất chiến bại của Mao Trạch Đông làm vũ khí, tôi hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu chống lại lực lượng phản động. Dù phải hy sinh mạng sống, tôi vẫn sẵn sàng chiến đấu. Tôi sẽ chiến đấu! chiến đấu! và chiến đấu với tất cả khả năng của tôi để củng cố giai cấp vô sản chuyên chính .
Ngày19 tháng Bảy:
Kẻ thù giai cấp trong đội sản xuất đó vẫn còn kiêu ngạo. Thanh thiếu niên trí thức về vùng quê chính là để tham gia vào ba cuộc đấu tranh cách mạng lớn lao ở vùng quê. Trước tiên là tham gia đấu tranh giai cấp. Chúng ta nên dựa vào giai cấp nông dân nghèo và thấp dưới trung bình, vận động quần chúng và tiêu diệt tính kiêu ngạo của kẻ thù .Chúng ta là thanh thiếu niên đã hiểu biết phải luôn luôn nâng cao khẩu hiệu vĩ đại của Tư Tưởng Mao Trạch Đông, đừng quên đấu tranh giai cấp, và đừng quên đấu tranh giai cấp vô sản chuyên chính.
Kẻ thù giai cấp trong đội sản xuất đó vẫn còn kiêu ngạo. Thanh thiếu niên trí thức về vùng quê chính là để tham gia vào ba cuộc đấu tranh cách mạng lớn lao ở vùng quê. Trước tiên là tham gia đấu tranh giai cấp. Chúng ta nên dựa vào giai cấp nông dân nghèo và thấp dưới trung bình, vận động quần chúng và tiêu diệt tính kiêu ngạo của kẻ thù .Chúng ta là thanh thiếu niên đã hiểu biết phải luôn luôn nâng cao khẩu hiệu vĩ đại của Tư Tưởng Mao Trạch Đông, đừng quên đấu tranh giai cấp, và đừng quên đấu tranh giai cấp vô sản chuyên chính.
Kim về vùng quê với tư
tưởng đấu với Trời, đấu với Đất và cải tạo lý
tưởng của nhân loại.
Quyển nhật ký của anh đã thể hiện tâm
của anh đầy “chiến đấu”. Anh mở rộng ý tưởng
“đấu tranh với con người” với mục
đích là đấu với Trời, đấu với
Đất, vì tư tưởng đó mà mất đi mạng
sống của cá nhân mình. Kim
là một trường hợp điển hình của
triết lý đấu tranh, đồng thời rõ ràng
cũng trở thành nạn nhân của nó.
Engels đã từng cho rằng “Tự
do là sự nhận thức những điều tất
nhiên”. Mao Trạch Đông thêm
vào đó một câu “và là sự cải tạo thế
giới.” Phần cuối
của câu này hoàn toàn nêu rõ ra thái độ của
Đảng Cộng Sản về Tự Nhiên, đó chính là
cải tạo sự Tự Nhiên.
Đối với nhận thức của Đảng
cộng sản, “tất nhiên” là những thứ mù quáng, và
là những “qui luật” mà chúng không cách nào hiểu nổi
nguồn gốc. Chúng tin
rằng Tự Nhiên và nhân loại có thể “chinh phục” được
bằng cách vận động ý thức chủ quan con
người để diễn giải quy luật khách
quan. Trong nỗ lực
cải tạo sự Tự Nhiên, Đảng cộng sản
đã gây hỗn loạn cho cả Nga và Trung Quốc, đây
là hai nơi thí nghiệm của chúng.
Các bài hát dân ca trong thời Đại Nhẩy Vọt
đã thể hiện cái tâm cuồng vọng và ngu xuẩn
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc: “Hãy cho núi
cao phải cúi đầu, hãy cho sông biển phải
nhường bước”; “Không Ngọc Hoàng Thượng
Đế trên trời, không Long Vương dưới
đất. Chính ta là Ngọc
Hoàng Thượng Đế và chính ta là Long Vương. Dưới mệnh lệnh
của ta ba núi năm đèo cũng phải dẹp đi,
nhìn xem ta đến đây!” [15]
Đảng Cộng Sản đã
đến! Chúng đã phá
hoại sự quân bình tự nhiên và phá hoại thế
giới từ nguyên thủy vốn đã hài hòa.
2. Phá hoại sự Tự Nhiên, phải tự nhận lãnh hậu quả
Dưới chính sách nông nghiệp mà dùng
thóc lúa làm chủ yếu, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc cố ý biến đổi các vùng đồi núi
lớn rộng và đồng
cỏ không canh tác được thành vùng nông nghiệp, và
lấp các sông hồ ở Trung Quốc để cải
biến thành các vùng đất nông nghiệp. Kết quả thế nào? Đảng Cộng Sản Trung
Quốc tuyên bố rằng mức sản xuất lúa
gạo vào năm 1952 đã vượt trên mức sản
xuất vào thời Quốc Dân Đảng, nhưng
Đảng Cộng Sản Trung Quốc không tiết lộ
ra là, mãi cho đến năm 1972 thì tổng số
lượng sản xuất thóc lúa ở Trung Quốc
vẫn chưa bằng lượng sản xuất thời
thái bình thịnh vượng của Vua Càn Long đời
nhà Thanh. Thậm chí cho
đến ngày nay, số lượng sản xuất lúa
gạo của Trung Quốc tính theo đầu người,
vẫn còn thấp hơn số lượng sản
xuất của đời nhà Thanh, và cũng chỉ
bằng một phần ba số lượng sản
xuất của thời nhà Tống, đó là thời kỳ
mà sản xuất nông nghiệp đạt đến
mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Kết
quả của sự đốn cây, và san lấp sông hồ
bừa bãi, đã phá hoại trầm trọng cho hệ sinh
thái Tự nhiên của Trung Quốc. Ngày nay hệ sinh thái ở Trung Quốc đang
trên đà suy sụp. Sự khô cạn của sông Hải Hà
và sông Hoàng Hà và độ ô nhiễm của Sông Hoài và Sông
Dương Tử (Trường Giang) đã cắt
đứt con đường sinh tồn mà Trung Quốc
dựa vào để sinh sống.
Đồng cỏ ở các vùng Cam Túc, Thanh Hải, khu
Nội Mông, và Tân Cương biến mất, những
trận bão cát đã có lối để thổi vào khu
vực trung tâm của đồng bằng.
Vào thập niên 1950, dưới sự
chỉ dẫn của các
chuyên gia Sô-viết, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc cho xây nhà máy thủy điện Tam Môn Hạp trên
sông Hoàng Hà. Cho đến ngày
nay, nhà máy điện này chỉ mang lại một công
suất phát điện bằng sức của một con
sông trung bình sản xuất thôi, dù rằng sông Hoàng Hà là sông
lớn thứ nhì ở Trung Quốc. Còn tệ hại hơn nữa , dự án này
đã tạo ra sự tích tụ các chất bùn và cát ở
phía thượng nguồn dòng sông, khiến cho đáy sông
dâng cao lên. Vì lý do này, ngay
cả một trận bão lụt trung bình thôi cũng
đủ gây thiệt hại to lớn cho mạng sống
và đất đai tài sản của người dân
sống ở hai bên bờ sông.
Trong trận bão lụt vào năm 2003 trên sông Vị, khi
ở điểm cao nhất, mực nước chảy
nhanh là 3.700 mét khối mỗi giây, hiện tượng này
chỉ có khoảng 3 đến 5 năm mới xảy ra
một lần. Tuy nhiên
trận bão lụt này đã gây thiệt hại chưa
từng thấy (so với những trận bão lụt
đã xảy ra) trong 50 năm qua.
Có nhiều bể chứa nước
cỡ lớn được xây cất ở vùng
địa phương của Trú Mã Điếm, tỉnh
Hồ Nam. Vào năm 1975, các
đập thủy điện của những bể
chứa nước này đã sụp đổ từ cái này
đến cái khác. Chỉ
trong khoảng hai tiếng đồng hồ, 60 ngàn
người bị chết đuối. Tổng số người chết lên
đến 200 ngàn người.
Đảng Cộng Sản Trung
Quốc vẫn ngang nhiên hành
động phá hủy đất đai của Trung
quốc. Đập thủy
điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử và Dự Án Chuyển Nước
Từ Nam Đến Bắc là ý đồ của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhằm cải
biến hệ sinh thái Tự Nhiên, với số tiền
đầu tư vào dự án lên đến hàng trăm tỷ
đô-la Mỹ; chưa kể đến những dự án
nhỏ hoặc trung bình để “đấu với
Đất”. Thêm vào đó,
nội bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đã có lần đưa ra đề nghị phải dùng
bom nguyên tử cho nổ để mở đường
nối liền với vùng cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng
để cải biến môi trường Tự Nhiên ở
miền Tây Trung Quốc.
Mặc dù sự cuồng vọng và xúc phạm
đất đai của Đảng cộng sản Trung Quốc
đã làm chấn động thế giới, nhưng
đây không có gì là ngạc nhiên cả.
Trong Bát Quái của kinh Dịch, tổ
tiên Trung Quốc xem Trời là Càn hay tạo hoá, và kính
trọng Đạo Trời.
Họ xem Đất là
Khôn hay là mẹ, kính trọng và lĩnh hội Đức
của Khôn.
Khôn là hình tượng
(quẻ) kế tiếp theo Càn
được tả trong kinh Dịch rằng: “Địa
thế Khôn, quân tử
dĩ hậu đức tải vật.” –(tạm hiểu
" hình thế sức mạnh của Đất là Khôn,
noi theo bản tính của Đất người quân tử
lấy Đức dầy mà chở muôn vật").
Ngài Khổng tử ghi chú trong kinh Dịch rằng [16], “Chí
tai khôn nguyên, vạn vật tư sinh.” – (tạm hiểu
" đến cái chức năng đứng đầu,
cao nhất của Khôn
thì chính là sinh ra tất cả vạn vật.]
Và giảng tiếp về bản
chất của Khôn: “Khôn
là mềm mại nhất, nhưng khi vận động thì
lại cứng rắn. Là
tĩnh lặng nhất, nhưng Đức bao quát khắp
phương. Uyển chuyển,nhu mì, thuận theo Trời
mà trường tồn mãi. Khôn
bao gồm vạn vật và biến đổi rạng
rỡ. Khôn là thế,
ngoan ngoãn biết bao, đón nhận mệnh Trời và
chuyển động với thời gian.”
Hiển nhiên rằng chỉ trong vòng
khuôn đạo đức của mẹ Đất (là
Đức của Khôn), mà còn nhu mì, tĩnh lặng, bền
bỉ, và nhẫn nại để thuận theo Trời thì mới có thể lấy
'Đức dầy mà chở vật' , vạn vật
từ đó mà sinh ra. Đồng thời, mới
đề cao được thái độ của nhân
loại đối với Đạo của Càn và
Đức của Khôn, tức là phải vâng mệnh
Trời, thuận theo Đất, tôn trọng sự Tự
Nhiên.
Tuy nhiên Đảng Cộng Sản Trung
Quốc lại vi phạm Càn Khôn, chủ
trương “chiến Trời, đấu Đất”. Chúng tùy tiện cướp
đoạt tài nguyên của quả địa cầu. Cuối cùng chắc chắn chúng
sẽ bị trời, đất và qui luật tự nhiên
trừng phạt.
III. Đấu với Trời -- đàn áp tín ngưỡng, bác bỏ chánh tín của con người đối với Thần (Thượng đế)
1. Làm sao sinh mạng hữu hạn có thể hiểu được thời gian-không gian vô hạn?
Con trai của Einstein là Edward, có một lần
hỏi Einstein rằng sao ông nổi danh như thế. Einstein
chỉ vào một con bọ mù ở trên một quả
banh da trả lời rằng, nó không biết con
đường mà nó đang bò là cong, nhưng “Einstein
biết”. Kỳ thực câu
trả lời của Einstein có hàm nghĩa sâu xa.
Người Trung Quốc cũng có câu có ý nghĩa
tương tự, “Ta không thấy được bộ
mặt thật của núi Lư Sơn, chính vì ta đang
ở trong núi đó.” Muốn
hiểu một hệ thống, thì cần phải
bước ra khỏi hệ thống đó để mà
quan sát. Tuy nhiên, dùng sinh mạng có giới hạn của con
người để quan sát thời gian-không gian vô hạn
của vũ trụ, nhân loại sẽ không bao giờ
hiểu được toàn bộ cấu trúc của vũ
trụ, vì thế vĩnh viễn vũ trụ sẽ là
một ẩn đố đối với nhân loại.
Chướng ngại mà khoa học không
cách gì vượt qua nổi là thuộc về cảnh
giới tâm linh hay trừu tượng, mà tự nhiên
thuộc về phạm trù của “tín ngưỡng”.
Tín nguỡng, loại hoạt
động thuộc về thế giới nội tâm
của con người, bao gồm kinh nghiệm và hiểu
biết về sinh mạng, thời gian-không gian và vũ
trụ, không phải là phạm trù nằm trong vòng kiềm
chế của bất cứ một đảng phái chính
trị nào. “Hãy trả lại
cho Caesar (hoàng đế La mã) những gì của Caesar, và hoàn
trả lại Thượng Đế những gì của
Thượng Đế.” [17].
Tuy nhiên dựa vào sự hiểu biết đáng
tội nghiệp và đáng tức cười về vũ
trụ và sinh mạng, Đảng Cộng Sản gọi
tất cả những gì vượt khỏi lý luận
của chúng đều là “mê tín”, và những ai tin vào
Trời Phật Thượng Đế là sẽ bị
tẩy não và bị cải tạo. Những ai không thay
đổi đức tin thì bị sỉ nhục hay
thậm chí còn bị giết chết.
Các khoa học gia chân chính, đều có
một cái nhìn khoáng đạt về vũ trụ. Dù
với tri thức có giới hạn của chính mình, họ
cũng không phủ nhận những thứ “chưa
biết” mà vô giới hạn.
Khoa học gia nổi tiếng Newton trong quyển sách
đầu tiên của ông "Nguyên
Lý Toán Học" ấn hành vào năm 1678,
diễn giải chi tiết các nguyên lý về lực
học, giải thích thủy triều, sự vận
động của các hành tinh, và phương thức
vận chuyển của Thái Dương hệ. Newton, một nhân tài thành công
như thế, vẫn liên tục nhắc nhở rằng
quyển sách của ông chỉ mô tả các hiện
tượng bề mặt, rằng tuyệt đối ông
không dám đề cập đến ý nghĩa chân chính
của Thượng Đế tối cao trong việc sáng
tạo ra vũ trụ. Trong
lần tái bản quyển sách "Nguyên Lý Toán Học", để bày tỏ
đức tin của mình, Newton viết rằng, “ Một
hệ thống to lớn hết sức thiện
lương và mỹ diệu bao gồm mặt trời, các
hành tinh, các vì sao chổi chỉ được xuất phát
từ dưới bàn tay toàn năng của Thượng
Đế … chúng ta cũng giống như một
người mù không có khái niệm về màu sắc, nên không
hiểu được cách lý giải của Thượng
Đế về vạn sự vạn vật.”
Chúng ta hãy để qua một bên
những câu hỏi: có thế giới thiên đàng mà siêu
vượt khỏi thời gian-không gian này hay không?, và
những người tu luyện có thể quay trở
về cội nguồn thiêng liêng và chân ngã hay không?. Một điều mà tất
cả chúng ta đều có thể đồng ý là: Những
ai có đức tin chân chính đều tin tưởng vào
nguyên lý của quan hệ nhân quả, rằng Thiện và Ác
có báo ứng. Niềm tin chân
chính đóng giữ một vai trò rất quan trọng là duy
trì đạo đức nhân loại ở một chuẩn
mực nhất định.
Từ Aristotle cho đến Einstein, rất nhiều
người tin rằng, trong vũ trụ có một qui
luật phổ biến tồn tại. Bằng đủ
mọi cách nhân loại không ngừng đi tìm chân lý của
vũ trụ. Như vậy ngoài thám hiểm khoa học ra,
thì tại sao tôn giáo, đức tin và tu luyện không
thể là những phương thức khác để tìm ra
chân lý của vũ trụ?
2. Đảng Cộng Sản Trung Quốc phá tan đức tin chân chính của nhân loại
Trong lịch sử, mỗi một dân
tộc trên thế giới đều tin vào Thần
linh. Chính là đối với
tín ngưỡng về thần linh, mà tin tưởng
rằng có Thiện và Ác báo ứng, thì con người
mới tự kiềm chế chính mình và duy trì chuẩn
mực đạo đức của xã hội. Trong tất cả thời gian và
trên toàn thế giới, các tôn giáo chính thống ở Tây
Phương, Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo ở
Đông Phương tất cả đều dạy con
người: hạnh phúc thực sự là từ
đức tin vào Thượng Đế mà có, tôn kính
trời, có lòng từ tâm, quý trọng những gì mình có,
biết ơn khi được phúc lành, đền đáp
lại lòng tốt của người khác đối
với mình.
Tư tưởng chỉ dẫn trong
trung tâm của chủ nghĩa cộng sản là vô Thần, không Phật, không
Đạo, không đời trước, không thế hệ
sau, không có nhân quả báo ứng.
Vì thế Đảng cộng sản của mọi
quốc gia đều bảo người nghèo và bọn vô
sản lưu manh [18] rằng họ không cần tin
tưởng vào Thần linh; không cần phải trả
nghiệp lực mà họ gây ra; không cần tôn trọng
luật pháp và không cần tự kiềm chế cá nhân
mình. Ngược lại là
phải dùng thủ đoạn gian trá và bạo lực
để cướp đoạt của cải.
Ở Trung Quốc cổ xưa, hoàng
đế được xem là bậc tối thượng
cao quý, mà vẫn tự đặt chính mình ở
dưới Trời, tự gọi mình là Thiên Tử (con
của Trời). Dưới
sự cai quản và ràng buộc của “ý Trời”, có lúc
họ còn ra sắc lệnh để ăn năn hối lỗi
với Trời. Tuy nhiên
Đảng cộng sản lại thay thế "ý
Trời" bằng chính bọn chúng . Không sợ luật pháp hay đạo Trời ràng
buộc, chúng ngênh ngang muốn làm gì thì làm. Kết quả là chúng đã
tạo ra địa ngục nhân gian này đến
địa ngục nhân gian khác.
Karl Marx,
ông tổ của Đảng Cộng Sản, tin rằng tôn
giáo là thuốc phiện tinh thần cho người dân. Marx sợ rằng người ta
tin tưởng vào Thần linh và Thượng Đế thì
sẽ không tin vào chủ nghĩa Cộng Sản của ông
ta. Chương đầu
tiên của quyển sách Phép Biện Chứng của
Tự Nhiên của Engels đã chứa đựng
lời chỉ trích đối với Mendeleyev và các nghiên
cứu của nhóm ông ta về thuyết "linh
học".
Engels [Ăng-ghen] cho rằng: " Trong
cuộc phán xét 'tính lý luận' của nhân loại thì
tất cả những gì đã có ở trong và trước
thế kỷ Trung Cổ đều phải biện hộ
cho cái lý do tồn tại trước đây của chính
nó." Trong lúc Engels tuyên
bố câu này, hắn tự xem mình và Marx là quan tòa trong
cuộc phán xét này. Mikhail Bakunin, người theo chủ
nghĩa vô chính phủ, bạn của Marx, đã bình
luận về Marx như thế này: “Ông ta nghiễm nhiên là
Thượng Đế của người ta; ông ta không
thể chịu đựng người nào khác là
Thượng Đế ngoại trừ chính cá nhân mình;
muốn dân chúng tôn sùng mình như là tôn sùng Thần linh và
muốn được tôn kính như thần
tượng. Nếu không ông
ta sẽ mạ nhục họ hoặc sẽ đàn áp
họ.”
Mà chánh tín truyền thống đã
tạo thành chướng ngại thiên nhiên cho ý đồ
của bè lũ Đảng cộng sản.
Đảng Cộng Sản Trung
Quốc không còn bình tĩnh, điên cuồng đàn áp tôn
giáo. Trong thời Cách Mạng
Văn Hóa, bao nhiêu chùa chiền và nhà thờ của Hồi
giáo đã bị phá vỡ, các tu sĩ bị sỉ nhục
phải đi diễn hành trên đường phố. Ở Tây Tạng, 90% phần
trăm chùa chiền đã bị phá hoại. Đến tận ngày nay,
Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn còn tiếp
tục đàn áp bức hại tôn giáo, giam giữ trong tù
hàng chục ngàn người theo đạo Cơ
đốc tại gia. Cung
Phẩm Mai, một linh mục Công Giáo ở Thượng
Hải, bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc giam
trong tù cả hơn 30 năm.
Ông sang Mỹ vào thập niên 1980. Lúc hơn 90 tuổi, trước khi từ
trần, ông đã để lại di chúc rằng, “Hãy
chuyển ngôi mộ của tôi trở về Thượng
Hải khi Đảng Cộng Sản không còn thống
trị Trung Quốc nữa”.
Qua cả hơn 30 năm bị biệt giam vì tín ngưỡng
của chính mình, đã nhiều lần Đảng Cộng
Sản Trung Quốc ép ông từ bỏ đức tin
của ông và để đổi lấy tự do ông
phải chấp nhận quyền lãnh đạo của
“Ủy Ban Ái Quốc Tam-Tự” của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc[19]. Những năm gần đây,
cuộc đàn áp của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đối với những người tu luyện Pháp Luân
Công tin tưởng vào Chân Thiện Nhẫn, chính là đã
mở rộng chủ nghĩa “đấu với Trời”
của chúng, và cũng là một kết quả tất nhiên
trong sự việc chúng bắt ép người dân đi
ngược lại ý muốn của họ.
Đảng cộng sản vô Thần
cố gắng lãnh đạo và khống chế đức
tin vào Thần linh của người ta; chúng tìm niềm vui
trong sự “đấu với Trời”. Sự ngu xuẩn của chúng không diễn tả
được bằng lời; ngay cả những chữ
như 'ngông cuồng, xấc xược', cũng không
thể diễn tả được một phần nhỏ.
Lời kết
Trên thực tế là chủ nghĩa
Cộng Sản đã hoàn toàn thất bại trên toàn thế
giới. Giang Trạch Dân,
cựu lãnh đạo của một quốc gia Cộng Sản
to lớn cuối cùng trên thế giới, đã đàm
thoại với một phóng viên của tờ báo The
Washington Post vào tháng Ba 2001 rằng, “Khi còn trẻ tôi tin
rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ phát triển
rất nhanh, nhưng bây giờ tôi không còn cảm thấy
như vậy nữa.” [20].
Hiện nay con số người thật sự tin vào
chủ nghĩa Cộng Sản rất ít và không còn bao nhiêu
nữa.
Các cuộc vận động cho
chủ nghĩa Cộng Sản đã tiến đến thất
bại bởi vì chúng vi phạm quy luật của vũ
trụ và chúng chống lại đạo Trời. Một lực lượng
phản vũ trụ như thế, chắc chắn sẽ
bị ý Trời và các đấng Thần linh trừng
phạt.
Qua bao nhiêu cơn khủng hoảng,
mặc dù Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã
thoát khỏi và vẫn còn bám theo thủ đoạn cuối
cùng không còn hy vọng của chúng, thể hiện rõ ràng
trước toàn thế giới ngày tàn của chúng đã
đến rồi. Từng
cái một, cái mặt nạ lừa đảo của chúng
đang bị lột ra, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đang lộ ra bản tính thật của chúng:
tham lam, tàn bạo, vô liêm sỉ, lưu manh, phản vũ
trụ. Nhưng chúng vẫn
còn tiếp tục khống chế tư tưởng con
người, bóp méo luân lý đạo đức của nhân
loại, và vì thế tàn phá văn minh đạo đức
của nhân loại, tàn phá hòa bình và tiến bộ của
nhân loại.
Vũ trụ bao la mang đầy thiên ý
mà không cách gì kháng cự được, nhưng thiên ý còn
được gọi là ý chí của đấng Thần
linh, hoặc là quy luật của Tự Nhiên , hoặc là lực
lượng to lớn của Tự Nhiên. Trọng thiên ý, thuận theo
tự nhiên, tôn trọng quy luật của vũ trụ, yêu
thương tất cả chúng sinh ở dưới
Trời, thì nhân loại mới có thể có tương lai
của chính mình.
Chú Thích
[1] Lão Tử, triết gia Trung Quốc, sống
vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Ông ta
được coi là tác giả của quyển sách Đạo
Đức Kinh (Tao-Te Ching), quyển sách căn bản
của Đạo giáo.
[2] Đạo Đức Kinh, chương 25.
[3] Trích từ Mạnh Tử, Quyển 2.
[4] Tam tự kinh, sách giáo khoa tiểu học
cổ truyền Trung Quốc.
[5] Mạnh Tử, Quyển 6.
[6] Karl Marx, “Một
đóng góp cho việc phê bình Triết lý của Quyền
của Hegel” (A Contribution to the Critique of Hegel's Philosophy of
Right.”)
[7] Leon Trotsky (1879-1940), một nhà lý luận, nhà sử
học, và lãnh đạo quân đội của cộng
sản Nga, người sáng lập Hồng quân Nga. Ông ta
bị mật vụ của Stalin ám sát ở thành phố
Mexico city ngày 22/8/1940.
[8] Theo Zhu Xi hay Chu Hsi (1130-1200), còn được
gọi là Zhu-zi hay Chu-tzu, một nhà Nho hiện đại
dưới triều đại nhà Tống, Tiểu học
dạy cách ứng xử lễ phép còn Đại học
giảng sâu về những nguyên lý cơ bản
đằng sau những phép ứng xử đó. Nguồn:
Các buổi nói chuyện được phân loại của
Sư Phụ Zhu (Zhu Zi Yu Lei), Quyển 7 (Học 1).
[9] Lâm Bưu(1907-1971), một trong những
người lãnh đạo cao cấp của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, dưới thời Mao
Trạch Đông là một Ủy viên Bộ Chính trị Trung
Quốc, Phó Chủ tịch (1958) và Bộ trưởng Quốc
phòng (1959). Lâm được coi là kiến trúc sư của
Đại Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Lâm
được chỉ định là người kế
nhiệm Mao năm 1966 nhưng bị thất sủng
năm 1970. Cảm nhận được sự thất
sủng này, Lâm nghe nói có liên quan đến một cuộc
đảo chính và cố trốn thoát sang Liên-xô sau khi âm
mưu đảo chính bị bại lộ. Trong lúc chạy
trốn để khỏi bị truy tố, máy bay của
ông ta bị rơi ở Mông Cổ, làm ông ta bị chết.
[10] Trích từ “Buổi
nói chuyện tại diễn đàn Diên An về Văn
học và Nghệ thuật” của Mao (1942).
[11] Bệnh sán máng là một căn bệnh do
những con sán sống ký sinh gây ra. Sự nhiễm bệnh
xảy ra khi tiếp xúc với nước lã bị
nhiễm sán. Các triệu chứng thông thường bao
gồm sốt, ớn lạnh, ho và đau cơ.
Trường hợp nặng hơn, bệnh có thể làm
hại gan, ruột, phổi và bàng quang, và trong các
trường hợp hiếm hoi, bị lên cơn, tê
liệt, hoặc viêm tủy sống.
[12] Đạo Đức Kinh, Chương 2.
[13] “cân” là một đơn vị đo khối
lượng của Trung Quốc, một cân ta bằng
nửa cân tây (kg); “mẫu” là đơn vị đo
diện tích đất của Trung Quốc, 1 mẫu = 0,165
mẫu Anh.
[14] Dịch bởi dịch giả.
[15] Ngọc Hoàng và Long Vương là hai nhân
vật thần thoại của Trung Quốc. Ngọc Hoàng,
hay Ngọc Hoàng Đại Đế (Thượng
Đế) và được các con và thần dân gọi thân
mật là Ông Trời, là người trị vì trên Thiên
quốc và là một trong những vị thần quan
trọng nhất của các vị thần của Trung
Quốc. Long Vương là vị thần trị vì bốn
biển. Mỗi biển, tương ứng với một
trong các phương chính (Đông Tây Nam Bắc – dịch
giả) được trị vì bởi một Long
Vương. Các Long Vương sống trong các lâu đài pha
lê, có các lính tôm và tướng cua canh gác. Ngoài việc
trị vì các biển, các Long Vương còn điều
khiển mây và mưa. Long Vương của Biển
Đông nghe nói có lãnh thổ rộng lớn nhất.
[16] The Complete I Ching, do Alfred Huang dịch. Rochester,
VT: Inner Traditions (1998).
[17] Kinh Thánh, Matthew, 22:21.
[13] Vô sản lưu manh, dịch nôm na là công nhân
nghèo đói. Danh từ này dùng để chỉ giai cấp
bao gồm các phần tử vô gia cư, suy đồi
hoặc xã hội đen là một bộ phận dân cư
ở các trung tâm công nghiệp. Nó bao gồm những
người ăn xin, gái điếm, kẻ cướp,
những kẻ tống tiền, những kẻ lừa
đảo, những tên trộm vặt, những kẻ du
thủ du thực, những người thất nghiệp
thường xuyên hoặc không thể có việc làm,
những người bị các ngành công nghiệp sa
thải, và đủ các loại phần tử thoái hóa, suy
đồi và hạ lưu. Từ này do Mác đưa ra trong
“Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, 1848-1850.
[14] Ủy ban Yêu nước Tam tự (hay Nhà
thờ yêu nước Tam tự) là một “sáng kiến”
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tam tự nghĩa là “tự
trị, tự cung và tự phổ biến”. Ủy ban yêu
nước Tam tự đòi hỏi những người
Công giáo Trung Quốc cắt đứt liên hệ với
những người Công giáo ở ngoài Trung Quốc. Nó
kiểm soát tất cả những nhà thờ chính thức
ở Trung Quốc. Những nhà thờ nào không gia nhập
Ủy ban này đều bị buộc phải đóng
cửa. Những người lãnh đạo và tín
đồ của những nhà thờ độc lập
bị đàn áp và thường bị xử tù.
[20] John Pomfret. “Giang cảnh cáo Mỹ –
Lãnh đạo Trung Quốc nói việc Mỹ bán vũ khí
cho Đài Loan sẽ thúc đẩy chạy đua vũ
trang.” Tờ báo Washington Post, 24/3/2001.
No comments:
Post a Comment