Màn kịch độc ác và tàn nhẫn?
Sat, 06/14/2014 - 22:26 — nguyenhuuvinh
Thái độ và hành động đáng ngờ
Trong
con mắt của những người dân Việt Nam mộc mạc vốn thừa mứa lòng tin,
người ta sẽ nghĩ rằng sau cuộc khốc liệt 1979 trên toàn tuyến biên
giới, Việt Nam thấm đòn đau từ anh bạn láng giềng to xác quen ăn hiếp
và bắt nạt thì tưởng như sẽ không bao giờ có thể ngoái đầu quay lại với
những kẻ thù tàn bạo, quay quắt mà chính họ đã nguyền rủa. Thế nhưng
cả dân tộc không ngờ, cả dân tộc đã bị dồn vào một khúc quanh đau đớn
nhất của lịch sử: Giai đoạn nô lệ ngoại bang.
Theo
dõi thái độ và cách hành động của nhà cầm quyền Việt Nam mấy năm nay
với chủ đề lãnh thổ của Tổ Quốc, nhất là thái độ với bọn bá quyền cướp
nước, có lúc thăng, lúc trầm, nhưng tất cả đều nhất quán và không có
mấy thay đổi. Đường lối, cách nghĩ của đảng CS vẫn thế, tất cả đều đi
đúng một định hướng đã vạch sẵn: Lấy thù làm bạn, hèn với giặc, ác với
dân.
Thông
thường, một chính phủ, một nhà nước, một đảng lãnh đạo xã hội, luôn lấy
sự an nguy của quốc gia, an ninh của dân chúng, bảo toàn lãnh thổ của
đất nước làm trọng, mọi nhân tài, vật lực đều được ưu tiên tập trung
cho những nhiệm vụ chính yếu đó. Thế nhưng, riêng ở Việt Nam, mọi điều
đã được thực hiện ngược lại.
Nhà
nước không dùng quân đội để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nhân dân mà người
ta quy định rằng trước hết, quân đội phải bảo vệ Đảng. Rồi mặc cho dân
bị kẻ thù, bị ngoại bang giết chết trên đất nước, quân đội được huy
động đi cướp đất của dân và luyện tập để “chống diễn biến hòa bình”.
Thậm chí, người đứng đầu quân đội luôn miệng gọi kẻ thù là đồng chí, tỏ
rõ sự hàm ơn nặng nề kẻ thù của đất nước, ngay cả khi kẻ thù đã và
đang xâm chiếm lãnh thổ.
Nhà
nước bơm phình lực lượng công an không với mục đích phục vụ nhân dân,
mà họ huỵch toẹt thách thức là “còn đảng, còn mình”. Hẳn nhiên họ không
nhắc lực lượng này rằng người nuôi họ là dân.Lực lượng này được huy
động đàn áp, canh giữ, bắt bớ và gây sự với những người có mầm mống tư
tưởng yêu nước. nhà nước bỏ tù những tiếng nói can đảm, dám thể hiện
lòng yêu nước, thương nòi của mình.
Họ tạo
ra một thế hệ vô cảm với những điều thiêng liêng nhất, ngộ độc thông
tin nặng nề nhất, thậm chí dùng đám hồng vệ binh đó đi đàn áp, khủng
bố những người yêu nước.
Kết quả là lòng yêu nước bị dập tắt, tinh thần yêu nước bị đánh tan tác và hạ xuống đến mức thấp chưa từng có.
Hoảng loạn, lúng túng
Có thể
nói, kể từ khi người Cộng sản Việt Nam cướp quyền lãnh đạo đất nước này
đến nay, cái gọi là “độc lập” đúng nghĩa chưa bao giờ xuất hiện. Việt
Nam luôn kêu gào “độc lập, tự do” nhưng thực tế thì hết đu bám thế lực
này lại sang bám thế lực khác.
Nếu như
sau Tháng 8/1945 trở đi, khối cộng sản nẩy nở, sinh sôi, những người
cộng sản Việt Nam tự nguyện làm một bộ phận “tiền tiêu, tuyến đầu” cho
CNCS để tiến hành cuộc chiến Nam – Bắc đẫm máu vì ý thức hệ. Khi đó,
trừ vài nước “cộng sản anh em”, còn tất cả đều là “bè lũ đế quốc và bọn
phản động, chó săn, sen đầm quốc tế”. Thì đến khi nội bộ khối Cộng sản
lục đục chia rẽ nặng nề, những người Cộng sản Việt Nam nhanh chóng
tách khỏi anh bạn Trung Cộng để tìm đến Liên Xô là “thành trì của
CNXH”. Khi đó, hệ thống truyền thông Việt Nam đã không tiếc bất cứ một
lời lẽ, ngôn từ nào dù bẩn thỉu, xấu xa nhất lên án anh chàng Trung Cộng
Đại hán đã chệch hướng, lạc đườn, phản bội lại “Mác – Lênin chân
chính”.
Thế
rồi, cuộc chiến 1979 trên biên giới Việt – Trung đã thể hiện sự cạn
nghĩa, ráo tình và sự tráo trở của những người cộng sản ra sao. Tưởng
từ nay, cái gọi là “môi hở răng lạnh” sẽ không bao giờ được nhắc tới,
cái gọi là “anh em, hữu nghị, láng giềng” đối với Trung Cộng sẽ vĩnh
viễn biến mất trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội khi vẫn còn người Cộng
sản Việt Nam cai trị đất nước.
Nhưng,
trớ trêu thay, vật đổi sao dời. Những biến động của Đông Âu về sự sụp
đổ hàng loạt khối cộng sản mà không một thế lực nào đỡ nổi như một quy
luật. Cái bức tường, cột trụ mà những người cộng sản Việt Nam tưởng
rằng luôn bền vững, chắc chắn bỗng chốc sụp xuống nhanh chóng không
ngờ. Thế là từ đó, bỗng chốc cái thần thái độc lập, tự chủ và sự tự tin
“bách chiến, bách thắng” của những người Cộng sản Việt Nam nhanh chóng
bay biến.
Và họ hoảng loạn thật sự.
Theo đúng nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lenin thì “giai cấp thống trị không bao giờ để mất quyền thống trị của mình, nếu không có bạo lực cách mạng”. Vì thế, họ đã ra sức để bằng mọi cách củng cố, bám giữ lấy chiếc ghế cai trị của mình.
Một
trong những cách đó là đổi thù thành bạn, tất nhiên chỉ là bạn của
Đảng, còn với cả đất nước này thì kẻ xâm lược truyền kiếp kia chẳng bao
giờ thay đổi bản chất và quan hệ. Rồi Hội nghị Thành Đô, (một hành
động chính trị lén lút mới được bạch hóa gần đây) đã diễn ra trong hoàn
cảnh đó.
Kể từ đó, đất nước ta bước vào một ngã rẽ đầy sự tăm tối, từng bước, từng bước đi vào vòng nô lệ theo “đúng quy trình”.
Hành động có hệ thống và màn diễn đẫm máu
Cho đến
gần đây, nhà nước Việt Nam mới công nhận một số điều mà người dân đã
bàn tán bao năm nay về quan hệ Việt – Trung. Năm 1958, Phạm Văn Đồng
trên cương vị Thủ tướng có công hàm gửi Trung Cộng, công nhận Tuyên bố
về lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trong đó bao gồm cả quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam mà Trung Cộng gọi là Tây Sa và Nam Sa.
Khi bọn bá quyền Trung Cộng dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa, chính phủ Bắc Việt đã không hề mở miệng hé răng.
Năm
1988, bọn bá quyền Trung Cộng dùng quân đội tiếp tục dùng vũ lực chiếm
đóng một phần Quần đảo Trường Sa, hàng loạt chiến sĩ bỏ mạng trên biển,
người dân Việt Nam không được thông tin về sự hy sinh của họ. Việc mất
một số đảo của Tổ Quốc được im lặng như một món quà cho bọn bành
trướng để để đi đến Hội nghị Thành Đô sau đó.
Ngày
3-4/9/1990, Hội nghị Thành Đô bí mật diễn ra, mở đầu một thời kỳ đau đớn
cho đất nước. Những người cộng sản đã mua bán, đổi chác sinh mệnh dân
tộc bằng hội nghị bí mật này.
Năm
1999, Hiệp định Biên giới Việt Trung mờ ám được bí mật ký kết. Tất cả
những ai lưu tâm, tò mò đến bản hiệp định này đều trở thành thế lực thù
địch của Đảng và nhà nước Cộng sản. Nhiều người đã nếm mùi tù đày, lao
lý bởi cái Hiệp định này. Kết quả là hàng loạt vấn đề mất đất, mất
lãnh thổ trên biên giới đã không được giải đáp thỏa đáng.
Từ năm
2000 trở lại đây, Trung Cộng gia tăng các hành động cướp bóc, lấn chiếm
ngang ngược trên biển, Đảng và nhà nước Việt Nam có những hành động
“hèn hạ vĩ đại” trước quân giặc ngày càng hung hăng. Trên đất liền,
những nơi trọng yếu, các công trình trọng điểm đều có mặt người Trung
Quốc.
Đặc
biệt là việc gia tăng bắt bớ, giam cầm, đàn áp trắng trợn những người
yêu nước, thương nòi. Có lẽ trong lịch sử dân tộc ta, chưa có giai đoạn
nào những người yêu nước phải đau đớn như giai đoạn hiện nay.
Dưới sự
lãnh đạo “tuyệt đối, tài tình và sáng suốt” của đảng Cộng sản Việt
Nam, sau 70 năm, đất nước Việt Nam đã và đang dần dần lún sâu vào cơn
khủng hoảng, khốn đốn về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa… Vị thế
của đảng Cộng sản chìm sâu trong những cơn oán thán, trong những câu
chuyện bi, hài của người dân và qua từng hành động khó hiểu, bất nhất,
lời nói ngô nghê của lãnh đạo, của hàng ngũ quan chức. Vị thế của Việt
Nam trên con mắt quốc tế sa sút đến thảm hại.
Đúng lúc đó, anh bạn vàng khổng lồ của Đảng gia tăng những hành động xâm lăng, cướp bóc trắng trợn lãnh thổ Việt Nam.
Máu dân
Việt đã đổ, mạng người dân đã mấ trên chính lãnh thổ mình. Mưu đồ xâm
lược bấy lâu nay đã thêm một bước được thể hiện một cách trắng trợn và
ngang ngược, bất chấp mọi lý lẽ, mọi thứ “tình hữu nghị” được bôi trát
bằng bộ mặt giả nhân giả nghĩa bấy lâu nay. Nhà cầm quyền Trung Cộng đã
từng bước thể hiện bản chất cướp bóc hung bạo là sản phẩm kết hợp giữa
chủ nghĩa bành trướng đầy tham vọng và sự tàn bạo không giới hạn của
Chủ nghĩa Cộng sản trong chiến lược xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam.
Tưởng
như vậy là giới hạn cuối cùng, một đảng luôn tự ca ngợi mình là “thiên
tài, là vô địch là tinh hoa của dân tộc, là đội quân tiên phong của đất
nước” đã bước nốt những bước cuối cùng của sự bi đát và sẽ tỉnh ngộ để
sớm từ bỏ cái tư tưởng hão huyền và hãi hùng Mác - Lênin để trở về
phục vụ nhân dân và đất nước.
Nhưng không.
Sau khi những hành động xâm lược của Trung Cộng bằng giàn khoan và tàu chiến trên biển, người ta thấy gì?
Những
cuộc biểu tình yêu nước trên cả đất nước bừng lên, để rồi bị dẹp tan
với những lý do rất Chí Phèo, người yêu nước lại tiếp tục ngậm ngùi uất
hận.
Tại Philippines ông Thủ tướng nói vài câu mạnh mẽ,
thì lập tức tại Shangri-La Bộ Trưởng Quốc phòng dội ngay một giáo nước
lạnh vào mặt quan khách toàn thế giới và nhất là 90 triệu người dân
Việt Nam, bằng những lập luận ngô nghê khi gửi thông điệp đến kẻ thù
xin “hữu nghị”. Không chỉ là đập thẳng vào miệng Thủ tướng mà thể hiện
thái độ của một đội quân “bách chiến, bách thắng” hiện nay đang sẵn
sàng chiến đấu ở mức độ nào.
Trước
một kẻ thù hung hãn, đầy vũ khí trong tay và sự tàn bạo thể hiện trong
từng hành động trên thực tế, việc một Bộ Trưởng Quốc phòng nêu quyết
tâm “không để xung đột xảy ra’ chỉ có thể coi là hành động bó gối xin
hàng. Ngay cả hàng mấy chục cuộc điện thoại gọi sang Trung Cộng không
thèm trả lời mà đòi “hữu nghị” thì chưa rõ hệ thống thần kinh của quan
chức Việt Nam đã đến tình trạng nào?
Ông
Tổng Bí thư Đảng, người nắm chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương thì lặn
mất tăm, đến mức người dân phải nhắn tin tìm kiếm trên mạng. Trong khi
cả hệ thống cầm quyền, công an luôn miệng rằng “đã có đảng và nhà nước
lo” thì giờ lo đến đâu không ai được biết? Nhưng khi ông xuất hiện thì
chỉ bàn về “Văn hóa”. Thật tiếc, có lẽ cái văn hóa mà ông bàn đến không
có bao gồm vấn đề ứng xử của kẻ có trách nhiệm như thế nào?
Nhưng có những điều lạ xuất hiện hiện nay:
Báo chí
sau bao năm bị cấm ngặt không được đụng tới biển đảo, nay mở hết công
suất về biển đảo, góp tiền, góp gạo cho Trường Sa... hết chương trình
này đến chương trình khác, cứ như xưa nay Việt Nam chưa bao giờ tồn
tại, nay mới xuất hiện thêm biển và đảo vậy.
Quân
đội đã thề nguyền là sẽ không bao giờ động binh với anh bạn vàng của
đảng để giữ tình hữu nghị. Ông Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng chỉ biết lẩm
bẩm: “Anh là ai? Sao vật ngửa thuyền tôi ra” và vẫn là “Tình hữu nghị
Việt - Trung bền vững đời đời”…
Nhưng
trên biển với lúc nhúc súng đạn kẻ thù, tàu chiến nườm nượp, đảng và
nhà nước kêu gọi đẩy công dân tay không ra bám biển, giữ đảo. Thế là
bao mạng người lại nằm xuống biển khơi.
Thật đau đớn và hài hước.
Những
sự tréo ngoe đó đã nói lên điều gì? Tại sao trước một kẻ thù hung hãn
với ý đồ xâm lược rõ ràng, bộ máy CSVN lại hành động khi trống đánh
xuôi thì lập tức có kèn thổi ngược?
Điều đó
chỉ có thể giải thích một điều cần giấu kín. Rằng khi tất cả biển đảo
của Việt Nam đã rơi vào tay giặc theo “đúng qui trình”, thì nhà nước
Việt Nam vẫn vô tội trước mắt người dân, đã “làm hết khả năng mình, đã
phản đối nhưng kẻ thù quá mạnh, quá nguy hiểm nên lực bất tòng tâm”.
Nghĩa là lỗi không nằm ở nhà nước mà nằm trong tay nhân dân và kẻ thù.
Và để an dân, thì nhà nước lại học ông Phó thủ tướng Vũ Đức Đam mà
rằng: "Đời chúng ta chưa đòi được thì đời con đời cháu chúng ta sẽ đòi
cho bằng được".
Và cứ
vậy, người dân cứ phải chấp nhận tính mạng bị đe dọa, Tổ quốc phải chấp
nhận mất biển đảo vào tay giặc, dân tộc chấp nhận một giai đoạn nô lệ
kiểu mới.
Và màn
diễn sẽ kết thúc ở đó còn Đảng thì vẫn quang vinh để kiên định con
đường đi lên CNXH với người anh em 16 chữ vàng và 4 tốt.
Đó là màn diễn quá độc ác và tàn nhẫn đối với nhân dân.
Hà Nội, ngày 15/6/2014
· J.B Nguyễn Hữu Vinh
No comments:
Post a Comment