Monday, June 9, 2014
Những Ngày Mới Tới
Là người tị nạn, có lẽ không ai quên được những ngày đầu tiên đặt chân lên xứ người...
Hình
chụp ở cầu Jetty vài ngày trước khi rời đảo Pulau Bidong tháng 4 năm
1980. Từ con nít tới người lớn, ai cũng đăm chiêu tư lự trước tương lai
mịt mờ
Sau sáu tháng dài đăng đẳng
“holiday” ở trại tị nạn Pulau Bidong, sau sáu tháng trời "Phiền Lo Bi Đát" và hai chục ngày tắm nắng ở trại chuyển tiếp
Sungei Beise, thứ nắng như thiêu như đốt của mùa hè xứ Mã Lai khiến
ai cũng đen thui như Miên như mọi, gia đình thầy Thanh gồm hai vợ chồng, một
đứa con gái nhỏ mới lên bốn và thằng em vợ 12 tuổi đã đuợc chính thức đi định
cư ở Úc trên chiếc boeing 747 rộng lớn, sang trọng, mở màn cho một cảnh đời mới
tươi sáng, tràn trề hy vọng tương lai sau hơn bốn năm trời sống ngột ngạt, hồi
hộp, căng thẳng trong trại tù khổng lồ tập thể của bọn cộng sản vô nhân
luật rừng.
Rời Mã Lai chiều 19/5/80, hừng
sáng hôm sau gia đình thầy Thanh tới Úc
đại lợi. Trước khi phi cơ hạ cánh, một phụ nữ trung niên người Úc có nét mặt phúc
hậu đi cùng chuyến bay ngồi bên cạnh chỉ
ra cảnh vật bên ngòai nói với thầy Thanh:
- Anh hãy nhìn kìa, bên dưới là Sydney, thành phố chính của
tiểu bang New South Wales. Nước Úc là một đất nước giàu có, rộng lớn mênh mông,
nhiều tài nguyên, lại là một xứ sở thanh bình, người dân rất hiếu khách, cởi mở,
tốt bụng. Anh chọn nơi này để định cư thật đúng nơi đúng chỗ, như người Jew khi
xưa đã chọn Israel làm đất hứa, là một may mắn lớn trong đời cho anh. Chúc gia
đình anh mọi sự tốt đẹp may mắn trên quê hương thứ hai này.
Thầy Thanh bắt tay nói cám ơn
bà người Úc rồi cùng gia đình theo nhóm người tị nạn xuống sân bay. Tương lai
thì chưa biết ra sao nhưng qua cuộc sơ ngộ với một người bản xứ đầy thiện cảm nhân hậu này, thầy Thanh đã có
một dấu ấn thật đẹp về người Úc, về một xứ sở mà rồi đây mình sẽ nhận là nhà.
Bao nhiêu hoang mang lo lắng từ lúc lên phi cơ bỗng chốc tiêu tan nhường cho
một sự phấn chấn, một niềm tin yêu hy vọng rộn lên trong lòng.
Theo sự hướng dẫn của nhân
viên Bộ xã hội, đòan người tị nạn được một chiếc xe bus đưa đến bệnh viện Lidcomb để khám sức khỏe tổng quát.
Thuở ấy, vào đầu thập niên 80, dân cư nhà cửa còn rất thưa thớt hoang vu, nhứt
là mới hừng đông rạng sáng, đường sá im lìm vắng tanh, thỉnh thỏang mới gặp một
chiếc xe chạy ngược chiều, còn người thì không một mảy may một bóng dáng. Từ
phi trường Mascot đi tới Lidcomb, chiếc xe bus như một người còn ngái ngủ, chạy
cà rịch cà tang mất cả tiếng đồng hồ,
trên xe ai nấy đều mệt mõi, nét mặt người nào cũng trĩu nặng nỗi ưu tư về một viễn ảnh tương lai thật
mơ hồ.
Xuống xe bus rồi, mọi người
mới cảm nhận ra cái lạnh thấu xương của thời tiết sắp lập đông ở xứ bốn mùa. Từ
Việt Nam sang Mã Lai, ở một xứ nóng quanh năm, ai ai cũng chỉ mặc phong phanh
một chiếc áo cánh, một chiếc quần mỏng, dép thì hở gót hở đầu. Thình lình vù một
cái qua tới Úc, khí hậu trái ngược hòan tòan như hai thái cực khiến người nào
người nấy như muốn đóng băng, chân tay tê cóng không biết dấu vào đâu, nhấc
chân đi không muốn nổi.
Đòan người lần lượt đi vào bên
trong. Gia đình thầy Thanh đi sau cùng. Bỗng đâu một người đàn ông ăn vận lịch lãm bước
đến bên cạnh thầy Thanh chìa tay ra bắt tay thầy gợi chuyện:
- Chào anh, anh khỏe không? Anh đi một mình hay với gia
đình? Chắc anh là người Việt Nam?
Thầy Thanh cung kính đáp:
- Dạ, cám ơn ông hỏi thăm. Tôi đi với vợ con và thằng em
vợ. Chúng tôi là thuyền nhân chạy nạn cộng sản, trốn từ Việt Nam sang Mã Lai tị
nạn và được phái đòan Úc nhận cho định cư .
Người đàn ông gật gù bảo:
- Hoan nghênh anh
tới Úc. Đây là một đất nước tự do, qua tới đây rồi anh đừng lo lắng gì nữa cả.
Mọi sự sẽ có người hướng dẫn dìu dắt lúc ban đầu. Trông anh rất đạo mạo, xin
lỗi tôi hơi mạo muội, anh có thể cho tôi biết tên và nghề nghiệp của anh không?
Thầy Thanh từ tốn đáp:
- Dạ, tôi là giáo chức, dạy sinh ngữ Pháp và Anh.
Tôi tên thánh Pierre, nhưng nói theo tiếng Anh là Peter. Từ khi miền nam
chúng
tôi mất vào tay cộng sản thì thành phần học thức là thành phần ngoan cố
đáng sợ đối với bọn chúng. Chúng tôi không còn tòan quyền thực thi thiên
chức nhà giáo như xưa. Mỗi giờ dạy chúng tôi đều bị giám sát gắt gao và
báo cáo. Người dân không
còn một chút tự do nhân quyền, cuộc sống trở thành địa ngục nên ai cũng
tìm cách thóat thân với hy vọng có thể làm lại cuộc đời, nhứt là cho
tương lai con cái.
Ông nở một nụ cười như hài lòng về sự nhận xét không
sai của mình:
- Thảo nào, nhìn anh có vẻ trí thức. Tôi là bác sĩ giám đốc
y tế phụ trách vùng phía tây Sydney (Regional Health Director of the Western metropolitan
area of Sydney). Hôm nay nhân đến đây thanh tra bệnh viện, tình cờ gặp được anh,
coi như ý Chúa. Anh cứ xem tôi là người bạn đầu tiên trên đất nước xa lạ mới mẻ
này nhé. Trước lạ sau quen, rồi một ngày anh cũng sẽ trở thành công dân Úc như
tôi thôi.
Rút tấm danh thiếp trong ví
ra, ông nói tiếp:
- Đây là danh thiếp của tôi, Tôi tên Chris, từ nay có
chuyện gì cần tôi giúp, anh cứ phone cho tôi. Thôi xin tạm biệt anh. Anh vào trong
khám sức khỏe với mọi người đi . Hẹn gặp lại anh một dịp khác.
Thầy Thanh cầm lấy tấm danh
thiếp nói cám ơn mà trong lòng nửa cảm kích, nửa ngỡ ngàng. Nhìn ông ta rồi
nhìn lại vợ chồng con cái mình, đứa nào đứa nấy xác xơ tái mét, ăn mặc thì xốc
xếch ống thấp ống cao, chân cẳng tím lịm không vớ không giày. Vậy mà một người
có địa vị cao sang như ông ta lại chịu ghé mắt ân cần hỏi han. Dân Úc này quả
thật có lòng nhân đạo hào khóang lắm thay, chẳng những không kỳ thị chủng tộc,
lại còn không phân chia giai cấp sang hèn, biết cúi xuống với người lỡ vận
không may.
Sau
thủ tục khám sức khỏe,
nhóm người tị nạn được đưa về một hostel, nơi tạm cư ăn ở miễn phí cho
những
người di dân và dân tị nạn từ khắp nơi trên thế giới trong lúc chờ học
tiếng Anh,
chờ tìm việc hay mướn nhà họặc chờ thân nhân sắp xếp đón về. Những ai
thuộc
diện “mồ côi” thì chờ giáo hội bảo lảnh. Sau hai ngày lưu trú ở đó, gia
đình
thầy Thanh và ba gia đình khác nữa được thông báo là tuần sau sẽ rời
hostel để
đi về một vùng quê nơi có một nhóm giáo hội sẵn sàng bảo trợ. Biết được
số phận
của gia đình, sực nhớ đến ông bác sĩ đã gặp ngày đầu tiên, thầy Thanh
muốn báo
tin và nói lời từ giã với ông ta nhưng trong túi không có một cắc bạc
nào (lúc
đó muốn gọi phone công cộng chỉ cần bỏ 10 cents). Lúc ở trại tị nạn Mã
Lai, thầy
chỉ biết làm thông dịch viên cho các phái đòan nói tiếng Anh và Pháp
giúp đồng
bào khi được gọi phỏng vấn, vả lại dân thầy giáo như thầy đầu óc thẳng
băng, có
biết làm cách gì ra tiền hơn ngòai nghề dạy học ở xứ mình. Có chiếc nhẫn
cưới
và đôi bông tai của vợ thầy thì đã bán mất để mua rau tươi ăn mỗi ngày
chớ ăn
đồ hộp mỗi ngày thành khô đét. Thế nên khi đi định cư, gia đình thầy chỉ
xách võn
vẹn một túi hành trang nhẹ hững nhẹ tưng được may bằng bao nylon đựng
đường trong đó mỗi đứa chỉ
có một bộ đồ mỏng dánh. Bất đắc dĩ, thầy phải mượn 10 cents của một
người trong
nhóm để phone cho ông bác sĩ. Tưởng rằng chỉ từ giã ông Chris rồi thôi,
nào dè
ông hẹn chiều đó sau giờ làm việc ông sẽ tới hostel đón về nhà ông chơi
và dùng
cơm tối. Đối với một gia đình tị nạn vừa mới đặt chân lên xứ người vài
ba hôm thì chuyện đó quả là một nỗi vui mừng khôn xiết và là một vinh
hạnh lớn lao bất ngờ.
Buổi chiều, khi ông Chris đến
rước thì trước khi đưa về nhà, ông chở cho đi một vòng ra city tới Botanical garden
đứng bên này nhìn qua bên kia Opera House xem phong cảnh. Nhưng lúc đó có đứa
nào trong bọn biết đâu là đâu và trời trăng ở hướng nào. Văn phòng ông thì ở
Parramatta, từ đó ông chạy lại Villawood rước gia đình thầy Thanh chở ra city.
Rồi từ city đưa về nhà ông ở Chastwood. Ăn tối xong sẽ từ Chastwood chở về trả
lại hostel. Sau này khi đã rành rẽ đường đi nước bước và các khu vực đông tây
nam bắc, nghĩ lại thấy ông thật quá tử
tế, đầy nhân bản. Gia đình thầy Thanh đâu mắc mớ gì với ông, đã không cùng
chủng tộc, khác màu da ngôn ngữ, lại xa lạ hòan tòan mà ông vẫn bỏ công sức
thời giờ để đem niềm vui đến cho họ.
Về đến nhà ông, phu nhân của
ông nghe bấm chuông vội chạy ra mở cửa và Welcome từng người bằng cái hôn thân
mật làm gia đình thầy Thanh ai cũng cảm thấy ngại ngùng. Bà có đứa con gái
bằng tuổi con gái thầy nên bảo cô bé mang đồ chơi ra để hai đứa chơi chung. Ông
Chris sau khi thay đồ ra, ông vào bếp chòang cái apron đứng làm bếp. Ông nói
ông có ở Trung quốc vài tháng nên cũng biết xào nấu theo kiểu Á châu. Bà đã
nướng sẵn honey chicken. Ông làm thêm món thịt bò xào nấm đông cô xắt sợi chung
với giá và cần tây. Đặc biệt, giá là do bà tự làm lấy ở nhà. Sau mấy ngày ăn đồ
hostel ớn tới cổ, hôm nay gia đình thầy Thanh mới tìm lại được một chút hương
vị cơm gia đình Á châu.
Trong buổi ăn, thầy Thanh kể
chuyện mất nước, chuyện cộng sản, chuyện vượt biên. Hai ông bà bác sĩ tỏ ra rất
xúc động thương cảm cho thân phận đen đủi của người Việt Nam và sự bất hạnh của
một đất nước triền miên chinh chiến . Khi ra về, ông bà còn biếu cho hai trăm
dollars để phòng thân trong lúc chờ tiền phúc lợi của chính phủ. Thầy Thnah cố
từ chối nhưng ông Chris nói khéo là coi như ông cho mượn trước rồi sau này trả
lại. Vì từ này về sau, nơi đây là quê hương thứ hai của thầy, trước sau gì thầy
cũng phải lập nghiệp ở đây vĩnh viễn, ông không sợ thầy chạy đi đâu cả.
Thế là không nhận không được,
bất đắc dĩ thầy Thanh phải cầm
lấy. Đưa ra cửa, bà bác sĩ còn trao cho cô Thanh và con gái cô mỗi người một chiếc áo ấm mặc dầu cô nói là giáo hội Vincent de Paul đã có phát cho mọi người trong ngày đầu khi tới hostel. Khi đưa gia đình thầy Thanh về tới hostel, ông bác sĩ dặn dò nhớ liên lạc cho biết tin tức và nếu có dịp trở lại Sydney thì hãy đến thăm ông. Gia đình thầy Thanh vô cùng cảm kích trước lòng tốt của ông bác sĩ nhưng biết làm gì hơn là nói tiếng cám ơn trong niềm xúc động sâu xa tận đáy lòng. Thầy Thanh nhìn theo ông với cái nhìn của một Benhur lúc sa cơ, trên đường bị giải đi làm tù binh súyt chết khát đã được Chúa nâng đầu lên đổ vào miệng cho gáo nước cứu tỉnh. Số mệnh con người quả là kỳ diệu, một khi đã tới thời gặp quý nhân thì dù muốn tránh cũng không tránh được, không muốn mang ơn cũng phải thọ ơn.
lấy. Đưa ra cửa, bà bác sĩ còn trao cho cô Thanh và con gái cô mỗi người một chiếc áo ấm mặc dầu cô nói là giáo hội Vincent de Paul đã có phát cho mọi người trong ngày đầu khi tới hostel. Khi đưa gia đình thầy Thanh về tới hostel, ông bác sĩ dặn dò nhớ liên lạc cho biết tin tức và nếu có dịp trở lại Sydney thì hãy đến thăm ông. Gia đình thầy Thanh vô cùng cảm kích trước lòng tốt của ông bác sĩ nhưng biết làm gì hơn là nói tiếng cám ơn trong niềm xúc động sâu xa tận đáy lòng. Thầy Thanh nhìn theo ông với cái nhìn của một Benhur lúc sa cơ, trên đường bị giải đi làm tù binh súyt chết khát đã được Chúa nâng đầu lên đổ vào miệng cho gáo nước cứu tỉnh. Số mệnh con người quả là kỳ diệu, một khi đã tới thời gặp quý nhân thì dù muốn tránh cũng không tránh được, không muốn mang ơn cũng phải thọ ơn.
Cuối tuần đó, gia đình thầy Thanh và những người bạn đồng cảnh được đưa về một vùng quê cách thành phố Sydney về
phía Bắc 500 km. Khi máy bay đáp xuống phi trường Port Macquarie thì đã có một
nhóm khỏang ba chục người trong hội bảo
trợ đang quây quần đứng đón. Và cạnh bên họ còn có phóng viên nhà báo địa
phương với chiếc máy ảnh trên tay. Những người bảo trợ niềm nở trao cho mỗi gia
đình một bó hoa đón mừng và những vòng tay thân ái . Ông phóng viên vội vàng làm
nhiệm vụ, chụp ảnh từng gia đình để mai này đăng lên báo nhà với đề tài Wellcome
the first refugees to Wauchope. Nghĩ thấy thật tức cười. Dân cố cựu ở đây cả
đời chưa chắc có ai đã được lên báo, tự nhiên một đám tị nạn da màu lạ huơ lạ
hoắc từ đâu lưu lạc tới lại được đón
rước linh đình như đại sứ, con rồng cháu tiên quả thật có khác, vừa oai mà cũng
vừa… quê quê làm sao!.
Sau đó họ chở mọi người trên
những chiếc xe riêng của họ đi về quận hạt Wauchope, một timbertown cách Port
Macquarie 21 km, chỉ có 4000 cư dân mà đa số là người lớn tuổi và những người
trẻ còn trong lứa tuổi đến trường. Về đến nhà thì đã 3giờ rưởi chiều. Họ đã
chuẩn bị sẵn một tiệc trà với bánh ngọt, sandwiches và cà phê. Họ mướn hai căn
nhà lớn cho bốn gia đình chia nhau ở, mỗi căn bốn phòng với đầy đủ tiện nghi
căn bản. Sau một hồi chào hỏi giới thiệu lẫn nhau, họ dẫn đi chung quanh nhà
chỉ phòng này phòng nọ. Đến nhà bếp, một bà mở tủ lạnh chỉ thức ăn tươi để sẵn
trong tủ cho buổi cơm chiều, một con cá snapper thật to, một dĩa ức gà, một bụi
cần tây, nửa bắp cải, vài trái cà chua, mấy cái củ hành, hai hộp trứng, cheese
và sữa v.v. Họ còn khoe rằng họ biết người Việt Nam thích ăn cơm nên cũng chuẩn
bị sẵn một ít gạo. Cô Thanh thắc mắc hỏi vậy chớ gạo để ở đâu vì cô cứ đinh
ninh rằng gạo là phải được chứa trong một cái khạp hay thùng gì ít nhứt cũng
khỏang chục ký, đã bảo là biết người Việt phải ăn cơm mà sao không thấy lu gạo
đâu hết. Ai ngờ bà bảo trợ chỉ lên một cái hộp cở hai lít trên kệ cao nói gạo
để trong đó. Cô Thanh với tính thật thà chân chất nghĩ ngay trong đầu một ý
nghĩ ngộ nghĩnh nhưng rất thực tế rằng nếu gạo mà để trên đó thì chắc ăn chiều
nay là ngày mai phải lo “chạy gạo” nữa rồi. Ở xứ mình dân khổ nhứt là chạy gạo, khổ cực
biết bao mới qua được tới đây lại phải chạy gạo nữa sao trời!
Nhưng
may thay sự lo lắng của
cô Thanh không phải kéo dài lâu vì nhóm người bảo trợ trước khi ra về,
họ hẹn
ngày hôm sau sẽ trợ lại hướng dẫn thủ tục xin trợ cấp và đưa mọi người
đi shop coi cần mua sắm gì thì họ sẽ ứng trước.
Vậy là yên chí lớn. Chiều đó cô Thanh thái con cá ra lấy thịt xào rau
cần và
chiên mấy quả trứng với hành tây, còn mấy miếng thịt gà đem nấu nồi canh
cải
bắp. Hơn sáu tháng trời ở Bidong ăn tòan đồ hộp của Cao ủy phát, qua tới
Úc ở
hostel một tuần thì ngày nào cũng nghe mùi thịt trừu và ăn cơm sống, đứa
nào
cũng mất hai ba kilos. Hôm nay mới chính thức được ăn lại bữa cơm đúng
khẩu vị thuần
túy của mình do chính mình nấu nên cô Thanh rất hăm hở lên tinh thần.
Cũng
may trước khi rời Sydney, những người Việt Nam ở hostel đã bày cho thầy
Thanh mua hai chai nước mắm mực mang theo chớ không thôi bây giờ nấu ăn
chỉ có muối
không làm sao ngon cho được.
Sáng hôm sau và những ngày hôm
sau nữa, liên tiếp hai tuần lễ, mỗi ngày những người bảo trợ đều đến để chỉ dẫn
giúp đỡ bất cứ chuyện gì.Trước tiên thì đưa cả đám đến phòng thất nghiệp làm hồ
sơ xin trợ cấp trong lúc chưa có việc làm, kế đến đi ngân hàng mở sổ bank để
chính phủ gởi tiền vào đó. Và họ thay phiên mỗi người một ngày dạy Anh ngữ đàm
thọai cho người lớn. Còn trẻ em thì họ ghi danh sắp xếp cho vào các trung, tiểu
học tùy lứa tuổi. Cuối tuần họ chở
đi Port Macquarie picnic họặc du ngoạn ở những vùng lân cận.
Sau một tháng trời ăn ở không
đi lỏng nhỏng, mọi người đều thấy “ngứa tay ngứa chân” sẵn sàng săn tay áo để
làm việc nhưng ở một vùng nông thôn sàng dã, đời sống nhàn hạ không cần giành
giựt bon chen thì làm gì có việc cho làm. Hảng xưởng không có, công sở thì le
hoe, đâu đó đã đủ nhân viên. Riêng thầy Thanh, sau một buổi được một trường
trung học mời thuyết trình cho lớp 11 và
12 về nguyên nhân đi tị nạn của dân tộc thầy, ông hiệu trưởng đã nhiệt tình
khuyên thầy nên đem gia đình trở lại Sydney vì Wauchope này không có cơ hội cho
những người muốn khởi sự làm lại cuộc đời, lại càng không có tương lai cho con
cái.
Và sau đó, ông hiệu trưởng
liên lạc với giáo hội tin lành ở Sydney giới thiệu thầy Thanh với họ và hẹn
ngày cho thầy Thanh gặp họ ở Sydney. Trước tiên, thầy Thanh trở lại Sydney
một mình để gặp gỡ và trình bày hòan cảnh của mình với một người đại diện trong
hội. Có nơi ăn chốn ở xong xuôi thầy mới về Wauchope tạ ơn hội bảo trợ, xin từ
giã họ và rước gia đình về thành. Thầy Thanh tiên phong đi trước để rồi những
người bạn cùng hội cùng thuyền sau đó cũng nối gót gia đình thầy lần lượt giã
từ timbertown dọn đi nơi khác lập nghiệp. Nếu Việt Nam là quê mẹ ruột thì
Wauchope là quê mẹ nuôi để về sau, mỗi khi có cơ hội, đàn con tị nạn lại trở về
thăm viếng như một hình thức nhớ ơn nơi đã cưu mang họ những ngày đầu trên bước
đường định cư.
Vạn sự khởi đầu nan, cuộc đời
ai cũng phải trải qua những chặng bắt đầu. Có gặp gian khó thì mới ló được cái
khôn. Khổ nhứt là cô Thanh vì từ nhỏ tới lớn cô quen được bảo bọc trong vòng
tay cha mẹ. Khi lấy chồng thì gặp được người chồng tốt rất mực chăm sóc gia
đình nên cô không từng biết bôn ba. Bây giờ lưu lạc đất khách quê người, cô
phải phụ giúp chồng lo sinh kế, như một người không biết lội rớt xuống sông cô
thật chới với, không biết bám vào đâu, chỉ biết cậy trông nơi đấng thiêng
liêng, Đức Mẹ hằng cứu giúp.
Nhớ
thuở ban sơ mới tới bờ
Vai
tựa chồng tay dắt con thơ
Lẻo đẻo
theo sau thằng em nhỏ
Nắm
chặt nhau sợ lạc bất ngờ
Thuở
nhỏ quen sống cha mẹ lo
Đến
khi xuất giá được chồng phò
Tới ngày
mất nước đi tị nạn
Một
mình bốn mạng mới biết lo
Ở xứ người, nghề chọn người
chớ người không thể chọn nghề nên lúc bắt đầu ai cũng như ai, đụng đâu làm đó chẳng
câu nệ gì. Có chút tiền dằn túi trước rồi muốn gì mới tính sau. Thế nên, sĩ nông công
thương, thầy hay thợ, quân tử hay tiểu nhân, cùng đinh hay trí thức, những tâm
hồn lớn hay nhỏ gì cũng có thể ngồi chung một chuyến thuyền, cùng chung một mục
đích là kiếm tiền. Có lâm vào hòan cảnh thất sở thân sơ trôi nổi quê người như
vậy mới thấy rằng thiên tử cũng đồng hạng với thứ dân. Tay làm thì hàm mới
nhai. Có no ấm bản thân rồi mới nghĩ đến thù nhà nợ nước, ngồi bên tây đánh
giặc bên tàu không mỏi miệng. Nhưng dẫu sao, ở một đất nước tự do chan chứa tình
người như nước Úc này thì dù khổ cực bao nhiêu cũng chẳng thấm thía gì so với
mấy chục triệu đồng bào còn kẹt lại nơi quê nhà đang ngày ngày sống vất vưởng đọa
đày trong địa ngục cộng sản không biết đến bao giờ mới được giải thóat đầu
thai...
Người
Phương Nam
No comments:
Post a Comment