Tư liệu: Cựu Tổng Bí thư Lê Duẩn nói về Trung Quốc và cảnh báo âm mưu của TQ
Lời giới thiệu: Tài liệu dưới
đây được dịch từ cuốn Đằng sau tấm màn tre – Trung Quốc, Việt Nam và
Thế giới ngoài châu Á (Behind the Bamboo Curtain – China, Vietnam, and
the World beyond Asia), do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow
Wilson và Đại học Stanford xuất bản, 2006. Phần III chương 14 của cuốn
sách có tiêu đề “Lê Duẩn và sự đoạn tuyệt với Trung Quốc”. Phần này gồm
bài giới thiệu khá dài (14 trang, từ trang 453 đến 467) của Tiến sĩ
Stein Tønnesson và bản dịch tài liệu này ra tiếng Anh của Christopher E.
Goscha (20 trang, 467-486).
Tiến sĩ Stein Tønnesson là học giả nghiên
cứu về thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong đó có mối quan hệ giữa Việt Nam
với các cường quốc Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc trong giai đoạn này. Ông hiện
đang là Giám đốc Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế, Oslo, Na uy và cũng
là tác giả cuốnViệt Nam 1946: Chiến tranh đã bắt đầu ra sao, mà anh Vũ Tường đã giới thiệu trong bài điểm sách đăng trên talawas blog.
Christopher E. Goscha hiện đang giảng dạy môn Lịch sử tại American
University và Trường Quốc tế ở Paris. Ông là đồng Giám đốc Nhóm nghiên
cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Gần đây ông có
tác phẩm đã in “Mậu dịch vùng biên giới Việt Nam với Hoa Nam thời đầu
chiến tranh” (Asian Survey, 2000) và đã trình luận án về đề tài Bối cảnh
châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc
Viện Đại học Sorbonne.
Bài giới thiệu của Stein Tønnesson
có khá nhiều nhận định sắc sảo và chính xác. Rất tiếc là không đủ thời
gian để dịch ra giới thiệu với các bạn, nhưng các bạn có thể tham khảo
bản tiếng Anh tại địa chỉ sau:http://www.wilsoncenter.org/topics/pubs/New_Ev_CWAsia.pdf (trang 273-288).
Lẽ ra tài liệu từ tiếng Việt, đã
được dịch sang tiếng Anh, thế thì còn dịch lại ra tiếng Việt làm gì. Vấn
đề là ở chỗ, như Stein Tønnesson đã nhận xét: “Cho đến giờ, rất ít tài
liệu thuộc loại này được phía Việt Nam cho phép các học giả tiếp cận.”
Vậy thì trong khi chờ đợi tài liệu được bạch hóa, ta dịch ra để cùng
đọc, tuy không thể chính xác bằng bản gốc, nhưng cũng có thể cung cấp
cho ta một số thông tin nhất định. (...) Stein Tønnesson cũng đã chỉ ra:
“Chúng ta được biết, Lê Duẩn rất ít khi tự mình chấp bút và tài liệu
mang phong cách khẩu ngữ (khiến cho việc dịch cực kỳ khó khăn). Rất có
thể đây là bản thảo Lê Duẩn đọc cho thư ký ghi, hoặc những đoạn chi tiết
do một cán bộ cấp cao dự buổi nói chuyện này ghi lại.”
Xin lưu ý:
– Dấu ngoặc vuông [ ] là của Christopher E. Goscha.
– Chúng tôi vẫn giữ nguyên những con số của ghi chú cho phù hợp với trong sách.
TBT Lê Duẩn
***
Đồng chí B nói về âm mưu chống Việt Nam của bè lũ phản động Trung Quốc
Nói chung, sau khi ta đã thắng Mỹ
thì không còn tên đế quốc nào dám đánh ta nữa. Chỉ có những kẻ nghĩ
rằng, họ có thể đánh và dám đánh chúng ta, là bọn phản động Trung Quốc.
Nhưng nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn như vậy. Tôi không rõ bọn
phản động Trung Quốc này còn tồn tại bao lâu nữa. Dẫu sao, chừng nào
bọn chúng còn đó thì chúng sẽ tấn công ta như chúng vừa làm gần đây [vào
đầu năm 1979]. Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc thì các tỉnh [Bắc
Trung bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành căn cứ cho cả nước.
Đó là những căn cứ vững chắc nhất, tốt nhất và mạnh nhất không gì so
sánh được.
Vì nếu như vùng đồng bằng [Bắc bộ] vẫn liên tục căng thẳng
như vậy thì tình hình sẽ hết sức phức tạp. Hoàn toàn không phải là
chuyện đơn giản. Nếu không có nhân dân Việt Nam thì sẽ chẳng có ai dám
đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam đang đánh Mỹ thì cả thế giới còn lại sợ
Mỹ…(25) Mặc dầu Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên, nhưng đó chỉ vì mục
đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ mà thôi. Sau khi chiến tranh chấm dứt
[ở Triều Tiên] và áp lực chuyển sang Việt Nam, ông ta [có lẽ ám chỉ Chu
Ân Lai như những đoạn tiếp theo sẽ gợi ý] nói rằng, nếu như Việt Nam
tiếp tục chiến đấu thì họ sẽ phải tự lo liệu lấy. Ông ta sẽ không giúp
nữa và đã gây sức ép buộc chúng ta phải ngừng đấu tranh.
Khi ta ký Hiệp định Giơ ne vơ, chính
Chu Ân Lai là người đã chia cắt nước ta ra làm hai [phần]. Sau khi nước
ta bị chia thành hai miền Bắc và Nam như vậy, cũng chính ông ấy lại ép
chúng ta không được đụng chạm gì đến miền Nam. Họ cấm ta vùng lên [chống
lại Việt Nam Cộng hòa được Mỹ ủng hộ]. [Nhưng] họ đã không làm chúng ta
sờn lòng. Khi tôi vẫn còn đang ở trong Nam và đã chuẩn bị phát động
chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Giơ ne vơ, Mao Trạch Đông
đã nói với Đảng ta rằng, chúng ta cần ép các đồng chí Lào chuyển giao
ngay hai tỉnh đã giải phóng cho chính phủ Viên Chăn (26). Nếu không Mỹ
sẽ tiêu diệt họ, một tình huống hết sức nguy hiểm [theo quan điểm Trung
Quốc]. Việt Nam lại phải làm việc ngay lập tức với phía Mỹ [về vấn đề
này]. Mao đã bắt ta phải làm như vậy và chúng ta cũng đành phải làm như
vậy (27).
Rồi sau khi hai tỉnh giải phóng của
Lào đã được bàn giao cho Viên Chăn, bọn phản động Lào ngay lập tức bắt
Hoàng thân Su-pha-nu-vông. Phía các đồng chí Lào có hai tiểu đoàn lúc ấy
đang bị bao vây. Hơn nữa họ chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó một tiểu
đoàn đã vượt thoát [khỏi vòng vây]. Khi đó tôi đưa ra ý kiến là phải
chấp nhận cho các bạn Lào phát động chiến tranh du kích. Tôi mời phía
Trung Quốc đến để thảo luận việc này với ta. Tôi nói: “Các đồng chí, nếu
các anh tiếp tục gây sức ép với Lào như thế thì lực lượng của họ sẽ tan
rã hoàn toàn. Bây giờ họ phải được phép tiến hành đánh du kích”.
Trương Văn Thiên (28), người trước
kia đã từng là Tổng Bí thư [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và có bí danh là
Lạc Phủ, đã trả lời: “Vâng, thưa các đồng chí, điều các đồng chí nói là
đúng. Chúng ta hãy cho phép Tiểu đoàn Lào ấy được đánh du kích”.
Tôi hỏi Trương Văn Thiên ngay lập
tức: “Các đồng chí, nếu các đồng chí đã cho phép Lào tiến hành chiến
tranh du kích, thì đâu có gì đáng sợ nếu phát động chiến tranh du kích ở
miền Nam Việt Nam. Điều gì đã làm cho các đồng chí phải sợ hãi đến nỗi
các đồng chí lại ngăn cản chúng tôi?”
Ông ấy [Trương Văn Thiên] trả lời: “Không có gì phải sợ cả!”
Đó là điều Trương Văn Thiên đã nói.
Tuy nhiên Hà Vĩ, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam khi ấy, [và] có mặt lúc
đó cũng nghe thấy những điều vừa nói.
Ông ta đã đánh điện về Trung Quốc
[báo cáo những gì đã trao đổi giữa Lê Duẩn và Trương Văn Thiên]. Mao trả
lời ngay lập tức: “Việt Nam không thể làm như vậy được [phát động chiến
tranh du kích ở miền Nam]. Việt Nam nhất định phải trường kỳ mai phục!”
Chúng ta quá nghèo. Làm sao ta có thể đánh Mỹ nếu như chúng ta không có
Trung Quốc là hậu phương vững chắc? [Do đó], chúng ta đành nghe theo
họ, có phải không? (29)
Dẫu sao thì chúng ta vẫn không nhất
trí. Ta bí mật tiến hành phát triển lực lượng của ta. Khi [Ngô Đình]
Diệm kéo lê máy chém đi khắp các tỉnh miền Nam, ta đã ra lệnh tổ chức
lực lượng quần chúng để chống chế độ này và giành lại chính quyền [từ
tay chính phủ Diệm]. Chúng ta không cần để ý đến họ [Trung Quốc]. Khi
cuộc đồng khởi giành chính quyền đã bắt đầu, chúng tôi sang Trung Quốc
gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình nói với tôi: “Các đồng
chí, bây giờ sai lầm của các anh thành việc đã rồi, các anh chỉ nên đánh
ở mức độ trung đội trở xuống.” Đấy là một kiểu ràng buộc mà họ muốn áp
đặt lên ta.
Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng,
vâng! Tôi sẽ thực hiện như vậy. Tôi sẽ chỉ đánh ở mức trung đội trở
xuống”. Sau khi chúng ta đánh và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta đã
chiến đấu có hiệu quả, Mao đột ngột có đường lối mới. Ông ta nói rằng
trong khi Mỹ đánh nhau với ta, ông ấy sẽ mang quân đội [Trung Quốc] vào
giúp ta làm đường. Mục đích chính của ông ấy là tìm hiểu tình hình Việt
Nam để sau này có thể đánh ta và từ đó bành trướng xuống Đông Nam Á.
Không còn lý do nào khác. Chúng ta biết vậy nhưng phải chấp nhận [việc
đưa quân Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam]. Chuyện này thì cũng được. Họ
quyết định đưa quân vào. Tôi chỉ yêu cầu là họ đưa người không thôi,
nhưng quân đội họ vào mang cả súng ống, đạn dược. Tôi lại đành phải đồng
ý.
Sau đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt
ta tiếp nhận hai vạn quân, đến để làm đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam. Tôi từ
chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng tôi không thay đổi ý kiến. Họ bắt
tôi phải cho họ vào nhưng tôi không chấp nhận. Họ tiếp tục gây áp lực
nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng chí, tôi đưa ra những ví dụ này để
các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài của họ là muốn cướp nước ta, và âm
mưu của họ xấu xa tới chừng nào.
Sau khi Mỹ đưa vài trăm ngàn quân
vào miền Nam, chúng ta đã tiến hành Tổng tiến công Mậu Thân 1968, buộc
chúng phải xuống thang. Để đánh bại đế quốc Mỹ ta phải biết cách kéo
địch xuống thang dần dần. Đó là chiến lược của ta. Chúng ta chiến đấu
chống lại một kẻ địch lớn, có dân số hơn hai trăm triệu người và họ từng
thống trị thế giới. Nếu ta không thể bắt họ xuống thang dần từng bước,
thì ta sẽ lúng túng và không thể tiêu diệt kẻ thù được. Ta phải đánh cho
chúng tê liệt ý chí để buộc chúng đến bàn đàm phán và không cho phép
chúng đưa thêm quân vào.
Khi đã đến lúc họ muốn đàm phán với
chúng ta, Hà Vĩ viết thư cho ta nói: “Các anh không thể ngồi xuống đàm
phán với Mỹ được. Các anh phải kéo quân Mỹ vào miền Bắc mà đánh chúng”.
Ông ta đã gây sức ép bằng cách đó, khiến chúng ta hết sức bối rối. Đó
hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Thật là mệt mỏi mỗi khi những
tình huống tương tự [với Trung Quốc] lại xảy ra.
Chúng ta đã quyết định rằng không
thể làm theo cách đó được [về ý kiến của Hà Vĩ không nên đàm phán với
Mỹ]. Ta đã ngồi xuống ở Paris. Ta đã kéo Mỹ xuống thang để đánh bại
chúng. Trong khi đó Trung Quốc lại tuyên bố [với Mỹ]: “Nếu người không
đụng đến ta thì ta cũng không đụng đến người. Muốn mang bao nhiêu quân
vào Việt Nam, điều đó tùy theo các anh”. Trung Quốc, theo ý của họ, đã
làm như vậy và ép ta làm theo.
Họ đã tích cực đổi chác với Mỹ và
dùng ta làm con bài để mặc cả như thế đấy. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ
đã thua, ngay lập tức họ sử dụng Trung Quốc để xúc tiến việc rút quân ở
miền Nam sao cho thuận lợi. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo
luận việc này.
Trước khi Nixon đến Trung Quốc, [mục
tiêu chuyến đi này của ông ta] nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam theo
chiều hướng có lợi cho Mỹ và giảm thiểu đến tối đa sự thất bại của họ,
đồng thời cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc gần hơn về phía Mỹ, Chu Ân
Lai đã đến gặp tôi. Châu nói với tôi: “Vào lúc này, Nixon sắp đến gặp
tôi, chủ yếu là để thảo luận vấn đề Việt Nam, do đó tôi nhất định phải
đến gặp đồng chí để bàn bạc.”
Tôi trả lời: “Thưa đồng chí, đồng
chí có thể nói bất kỳ điều gì đồng chí muốn, nhưng tôi vẫn không hiểu.
Đồng chí là người Trung Quốc; tôi là người Việt Nam. Việt Nam là đất
nước của [chúng] tôi, hoàn toàn không phải là của các đồng chí. Đồng chí
không có quyền phát biểu [về công việc của Việt Nam], và đồng chí không
có quyền thảo luận [những chuyện đó với Mỹ] (30). Hôm nay, thưa đồng
chí, tôi nói riêng với đồng chí một điều, mà thậm chí tôi chưa từng nói
với Bộ Chính trị của chúng tôi, rằng các đồng chí đã đặt ra một vấn đề
nghiêm trọng và vì vậy tôi cần phải nói:
Năm 1954, khi Việt Nam chiến thắng ở
Điện Biên Phủ, tôi đang ở Hậu Nghĩa. Bác Hồ đánh điện cho tôi, nói rằng
tôi cần phải đi Nam để tổ chức lại [các lực lượng ở đó] và nói chuyện
với đồng bào miền Nam [về việc này] (31). Tôi đi xe thổ mộ xuôi Nam. Dọc
đường đồng bào đổ ra chào đón tôi vì họ nghĩ chúng tôi đã chiến thắng.
Thật đau lòng xiết bao! Nhìn đồng bào miền Nam tôi đã khóc. Bởi vì sau
đó Mỹ sẽ nhảy vào miền Nam và tàn sát đồng bào tôi một cách dã man.
Vào tới nơi, tôi lập tức đánh điện
cho bác Hồ yêu cầu được ở lại và không tập kết ra Bắc, để có thể tiếp
tục chiến đấu mười năm nữa hoặc lâu hơn. [Tôi nói với Chu Ân Lai]: “Thưa
đồng chí, đồng chí đã gây ra những khó khăn cho chúng tôi như vậy đấy
[muốn nói đến vai trò của ông ta trong việc chia cắt Việt Nam tại hội
nghị Giơ ne vơ năm 1954]. Đồng chí có biết thế không?”
Chu Ân Lai đáp: “Tôi xin lỗi các
đồng chí. Tôi đã sai. Tôi đã sai trong chuyện này [ám chỉ việc chia cắt
Việt Nam tại Giơ ne vơ] (32). Sau khi Nixon đã đi thăm Trung Quốc, ông
ta [Châu] lại sang Việt Nam một lần nữa để hỏi tôi về một số vấn đề liên
quan đến cuộc chiến đấu trong Nam.
Tuy nhiên tôi cũng nói ngay với Chu
Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí. Chẳng bao lâu nữa họ [Mỹ] sẽ tấn
công chúng tôi mạnh hơn”. Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai bên [Mỹ và
Trung Quốc] đã thỏa thuận với nhau nhằm đánh ta mạnh hơn. Ông ấy [Châu]
đã không phản đối quan điểm này là không có cơ sở, và chỉ nói rằng: “Tôi
sẽ gửi thêm súng ống đạn dược cho các đồng chí”. Rồi ông ta nói [về sự e
ngại một âm mưu bí mật giữa Mỹ và Trung Quốc]: “Không có chuyện đó
đâu”. Dẫu sao họ cũng đã thảo luận đánh ta mạnh hơn như thế nào, kể cả
ném bom bằng B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Vấn đề rõ ràng là như
vậy.
Nếu Liên Xô và Trung Quốc không bất
đồng với nhau thì Mỹ không thể đánh chúng ta một cách tàn bạo như chúng
đã làm. Chừng nào hai nước [Trung Quốc và Liên Xô] còn xung đột thì
người Mỹ sẽ không bị ngăn trở [vì sự phản đối của khối Xã hội chủ nghĩa
thống nhất]. Mặc dầu Việt Nam đã có thể đoàn kết với cả hai nước Trung
Quốc và Liên Xô, nhưng để làm việc này là hết sức khó khăn vì lúc đó
chúng ta phải dựa vào Trung Quốc rất nhiều. Thời gian đó Trung Quốc hàng
năm viện trợ cho ta nửa triệu tấn lương thực, cũng như súng ống, đạn
dược, tiền bạc, chưa nói đến cả đô la nữa. Liên Xô cũng giúp ta tương tự
như vậy. Nếu chúng ta không làm được điều đó [giữ gìn sự thống nhất và
đoàn kết với họ] thì mọi chuyện có thể hết sức nguy hiểm. Hàng năm tôi
phải sang Trung Quốc hai lần để trình bày với họ [ban lãnh đạo Trung
Quốc] về các diễn biến ở trong Nam. Còn với Liên Xô, tôi không cần phải
nói gì cả [về tình hình miền Nam]. Tôi chỉ nói chung chung. Khi làm việc
với phía Trung Quốc, tôi phải nói rằng cả hai chúng ta đang cùng đánh
Mỹ. Tôi đã đi (sang đấy) một mình. Tôi phải tham dự vào những chuyện đó.
Tôi phải sang Trung Quốc và bàn bạc với họ nhiều lần như vậy với mục
đích chính là thắt chặt quan hệ song phương [Trung Quốc và Việt Nam].
Chính vào lúc đó Trung Quốc ép chúng ta phải tách xa khỏi Liên Xô, cấm
ta không được đi cùng với Liên Xô nữa (33).
Họ làm rất căng thẳng chuyện này.
Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh (34), đến nói với tôi: “Đồng chí,
chúng tôi sẽ giúp các anh vài tỷ (Nhân dân tệ) một năm. Các anh không
được nhận gì từ Liên Xô nữa.”
Tôi không chấp nhận như vậy. Tôi
nói: “Không, chúng tôi nhất định phải đoàn kết và thống nhất với toàn
phe Xã hội chủ nghĩa.” (35)
Năm 1963, khi Nikita Khơrútxốp có
sai lầm, Trung Quốc lập tức ra Cương lĩnh 25 điểm và mời Đảng ta đến và
góp ý kiến. Anh Trường Chinh và tôi cùng đi với một số anh em khác.
Trong khi bàn bạc, họ [Trung Quốc] lắng nghe ta chừng mười điểm gì đó,
nhưng khi tới ý kiến “không xa rời phe Xã hội chủ nghĩa” (37) thì họ
không nghe nữa… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về văn bản của
chính tôi. Tôi xin ý kiến các đồng chí nhưng tôi không chấp nhận điểm
này của các đồng chí.”
Trước khi đoàn ta về nước, Mao có
tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi trò chuyện cùng chúng tôi và đến
cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn các đồng chí
biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của 500 triệu bần nông và tôi sẽ mang
một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” (38) Đặng Tiểu Bình cũng ngồi đó và
nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông của chúng tôi đang ở trong một
hoàn cảnh hết sức khó khăn!”
Khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi nói
với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu cướp nước ta và cả Đông
Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.” Họ dám ngang nhiên tuyên bố như
vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ ràng là không một phút nào họ không
nghĩ tới việc đánh Việt Nam!
Tôi sẽ nói thêm để các đồng chí có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng quân sự của việc này. Mao hỏi tôi:
- Lào có bao nhiêu cây số vuông?
Tôi trả lời:
- Khoảng 200 nghìn [cây số vuông].
- Dân số của họ là bao nhiêu? [Mao hỏi]
- [Tôi đáp:] Gần ba triệu.
- [Mao nói:] Thế thì cũng không nhiều lắm! Tôi sẽ mang người của chúng tôi xuống đấy!
- [Mao hỏi:] Thái Lan thì có bao nhiêu cây số vuông?
- [Tôi trả lời:] Khoảng 500 nghìn.
- Và có bao nhiêu người? [Mao hỏi]
- Gần 40 triệu! [Tôi đáp]
- Trời ơi! [Mao nói], tỉnh Tứ Xuyên
của Trung Quốc có 500 nghìn cây số vuông mà có tới 90 triệu dân. Tôi sẽ
lấy thêm một ít người của chúng tôi đi xuống đấy nữa [Thái Lan]!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói
thẳng về việc di dân như vậy. Tuy nhiên, ông ta [Mao] nói với tôi: “Các
đồng chí, có thật người Việt Nam đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên
không?” Tôi nói: “Đúng.” “Thế có thật là các anh cũng đánh bại cả quân
Thanh nữa phải không?” Tôi đáp: “Đúng.” Ông ta lại hỏi: “Và cả quân Minh
nữa, đúng không?” Tôi trả lời: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh
bại cả các ông. (39) Ông có biết thế không?” Tôi đã nói với Mao như vậy
đó. Ông ấy nói: “Đúng! Đúng!” Mao muốn chiếm Lào, cả nước Thái Lan… cũng
như muốn chiếm toàn vùng Đông Nam Á. Mang người đến ở đó. Thật là phức
tạp.
Trong những năm trước [về các vấn đề
có thể nảy sinh từ mối đe dọa của Trung Quốc trong những thời kỳ đó],
chúng ta đã có sự chuẩn bị tích cực chứ không phải chúng ta không chuẩn
bị gì. Nếu chúng ta không chuẩn bị thì tình hình vừa qua đã có thể rất
nguy. Đó không phải là chuyện đơn giản. Mười năm trước tôi đã có mời anh
em bên quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ đang có
mâu thuẫn với nhau. Còn Trung Quốc, họ lại bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong
tình hình căng thẳng như vậy các anh phải lập tức nghiên cứu vấn đề
này. Tôi sợ bên quân đội anh em chưa hiểu nên tôi nói thêm rằng không có
cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ phát biểu rằng chuyện này
rất khó hiểu. Đúng là không dễ dàng chút nào. Nhưng tôi không thể nói
cách khác được. Và tôi cũng không cho phép ai căn vặn mình. (40)
Khi tôi đi Liên Xô, họ cũng rất cứng
rắn với tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một hội nghị 80 đảng
[Cộng sản] để ủng hộ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị
này, vì [hội nghị] không chỉ nhằm giúp đỡ Việt Nam mà còn dự định lên án
Trung Quốc. Do đó Việt Nam đã không đi. Phía Liên Xô hỏi: “Các anh đã
từ bỏ chủ nghĩa quốc tế rồi hay sao? Tại sao các anh lại làm như vậy?”
Tôi đáp: “Tôi hoàn toàn không từ bỏ chủ nghĩa quốc tế. Tôi chưa hề làm
như vậy. Tuy nhiên, muốn là người theo chủ nghĩa quốc tế thì trước hết
phải đánh bại đế quốc Mỹ. Và nếu người ta muốn đánh Mỹ thì phải thống
nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đi dự hội nghị này thì Trung
Quốc sẽ gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho chúng tôi. Xin các đồng
chí hiểu cho.”
Ở Trung Quốc có rất nhiều ý kiến
khác nhau và đang tranh cãi. Chu Ân Lai đồng ý xây dựng cùng Liên Xô một
mặt trận chống Mỹ. Một lần tôi đến Liên Xô dự lễ Quốc khánh, tôi có
được đọc một bức điện của Trung Quốc gửi Liên Xô nói rằng “nếu Liên Xô
bị tấn công thì Trung Quốc sẽ kề vai sát cánh cùng Liên bang Xô
viết.”(41) Đó là nhờ Hiệp ước hữu nghị Xô – Trung được ký kết trước đây
[tháng 2-1950]. Ngồi cạnh Chu Ân Lai tôi hỏi ông ấy: “Trong bức điện mới
đây gửi Liên Xô, các đồng chí đã đồng ý cùng với Liên Xô thành lập một
mặt trận, nhưng tại sao các đồng chí lại không thành lập một mặt trận
chống Mỹ?” Chu Ân Lai đáp: “Chúng tôi có thể. Tôi đồng tình với quan
điểm của đồng chí. Tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [về
Việt Nam]. Bành Chân (42) cũng đang ngồi đó, nói thêm: “Ý kiến này cực
kỳ đúng đắn!” Nhưng khi vấn đề được đưa ra thảo luận ở Thượng Hải, Mao
nói rằng không thể được và gạt bỏ ý kiến này. Các đồng chí đã thấy vấn
đề phức tạp ra sao.
Mặc dầu Chu Ân Lai có bảo lưu một số
ý kiến, dẫu sao ông cũng đã đồng ý thành lập một mặt trận và đã giúp đỡ
Việt Nam rất nhiều. Chính nhờ ông mà tôi hiểu [nhiều chuyện đang diễn
ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì có thể rất nguy hiểm. Có lần ông ấy nói
với tôi: “Tôi phải làm hết sức mình để sống sót ở đây, dùng Lý Cường
(43) để tích lũy và cung cấp viện trợ cho các đồng chí.” Và thế đấy [ám
chỉ Châu đã có thể dùng Lý Cường vào việc giúp đỡ Việt Nam]. Tôi hiểu
rằng nếu không có Chu Ân Lai thì không thể có được sự viện trợ như vậy.
Tôi thật biết ơn ông ta.
Tuy nhiên cũng không đúng, nếu nói
rằng những người khác trong ban lãnh đạo Trung Quốc có cùng quan điểm
với Chu Ân Lai. Họ khác nhau trên nhiều phương diện. Nhưng có thể nói
rằng người kiên trì nhất, người có đầu óc đại Hán và người muốn chiếm cả
vùng Đông Nam Á, chính là Mao. Tất cả mọi chính sách [của Trung Quốc]
đều nằm trong tay Mao.
Cũng có thể nói như vậy về các nhà
lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc. Chúng ta không biết trong tương lai
mọi chuyện sẽ ra sao, nhưng dẫu sao [sự thực là] họ đã tấn công ta.
Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng làm hai việc mà giờ đây lại lật ngược
hẳn lại. Đó là, khi ta thắng lợi ở miền Nam, nhiều nhà lãnh đạo Trung
Quốc không hài lòng. Tuy nhiên Đặng Tiểu Bình cũng vẫn cứ chúc mừng ta.
Kết quả là ông ta lập tức bị những người khác coi là phần tử xét lại.
Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối cùng
(44), tôi là trưởng đoàn, và tôi đã gặp đoàn đại biểu Trung Quốc do Đặng
Tiểu Bình dẫn đầu. Khi nói tới vấn đề lãnh thổ, gồm cả thảo luận về một
số hòn đảo, tôi có nói: “Hai nước chúng ta nằm cạnh nhau. Có một số khu
vực trên lãnh thổ chúng tôi chưa được phân định rõ ràng. Cả hai phía
chúng ta cần phải thành lập một ủy ban để xem xét vấn đề này. Thưa các
đồng chí, xin hãy nhất trí với tôi [về chuyện này]. Ông ấy [Đặng] đã
đồng ý, nhưng vì vậy mà sau đó ông ta lại bị các nhóm lãnh đạo khác chụp
mũ xét lại tức thời.
Nhưng bây giờ thì ông ấy [Đặng] điên
thật rồi. Bởi vì ông ta muốn tỏ ra mình không phải là xét lại nên ông
ta đã đánh Việt Nam mạnh hơn. Ông ta đã bật đèn xanh cho họ tấn công
Việt Nam.
Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng
ta vẫn giữ một đạo quân hơn một triệu người. Một số lãnh đạo Liên Xô đã
hỏi ta: “Các đồng chí còn định đánh nhau với ai nữa mà lại vẫn duy trì
một đội quân [thường trực] lớn như vậy?” Tôi đáp: “Sau này các đồng chí
sẽ hiểu.” Lý do duy nhất khiến chúng ta giữ một đạo quân thường trực như
vậy chính là vì Trung Quốc [mối đe dọa của họ đối với Việt Nam]. Nếu
như không có [sự đe dọa đó] thì đội quân [thường trực lớn] này sẽ không
còn cần thiết nữa. Đã bị tấn công gần đây trên cả hai mặt trận, [chúng
ta có thể thấy rõ rằng] sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta không duy trì một
đội quân lớn.
(B) [Ý nghĩa của chữ B này trong bản
gốc không được rõ] – Từ cuối Đại chiến thế giới thứ hai, tất cả đều cho
rằng đế quốc Mỹ chính là tên sen đầm quốc tế. Chúng có thể xâm chiếm và
đe dọa các nước khác trên thế giới. Mọi người, kể cả các cường quốc,
đều sợ Mỹ. Duy chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ mà thôi.
Tôi hiểu được điều này nhờ cuộc đời
hoạt động của mình đã dạy tôi như vậy. Người đầu tiên sợ [Mỹ] chính là
Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, cả Việt Nam và Lào, rằng: “Các anh
phải lập tức chuyển giao ngay hai tỉnh giải phóng của Lào cho chính
quyền Viên Chăn. Nếu không thì Mỹ sẽ lấy cớ để tấn công. Thế thì hết sức
nguy hiểm.” Về phía Việt Nam, chúng ta nói: “Chúng tôi sẽ đánh Mỹ để
giải phóng miền Nam.” Ông ta [Mao] nói: “Các anh không được làm như vậy.
Miền Nam Việt Nam cần phải trường kỳ mai phục, có thể một đời người,
năm đến mười đời, thậm chí hai mươi đời nữa. Các anh không thể đánh Mỹ.
Đánh nhau với Mỹ là một việc nguy hiểm.” Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến như
vậy…
Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã
tiến lên và chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam sẽ không
được giải phóng. Một nước chưa được giải phóng thì vẫn cứ là một nước
phụ thuộc. Không có nước nào được độc lập nếu chỉ có một nửa nước được
tự do. Đó là tình hình cho đến năm 1975, khi đất nước ta cuối cùng đã
giành được hoàn toàn độc lập. Có độc lập thì sẽ có tự do. Tự do phải là
thứ tự do cho cả nước Việt Nam…
Ăng ghen đã từng nói về chiến tranh
nhân dân. Sau đó Liên Xô, rồi Trung Quốc và cả ta nữa cũng nói [về vấn
đề này]. Tuy nhiên, ba nước khác nhau rất nhiều về nội dung [của chiến
tranh nhân dân]. Sẽ là không đúng nếu chỉ vì anh có hàng triệu người mà
anh muốn làm gì thì làm. Trung Quốc cũng nói về chiến tranh nhân dân
nhưng [họ chủ trương] “địch tiến ta lùi”. Nói cách khác, phòng ngự là
chủ yếu, và chiến tranh chia làm ba giai đoạn, lấy nông thôn bao vây
thành thị, trong khi [chủ lực] vẫn lẩn trốn trong vùng rừng núi… Trung
Quốc đã thiên về phòng ngự và rất yếu [trong Đại chiến Thế giới thứ
hai]. Thậm chí, với 400 triệu dân chống lại quân đội Nhật chỉ có khoảng
300 đến 400 ngàn người, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại Nhật. (45)
Tôi phải nhắc lại như vậy vì trước
kia Trung Quốc đã gửi cố vấn sang ta nên một số anh em [ta] không hiểu.
Họ nghĩ rằng Trung Quốc rất là tài giỏi. Nhưng họ cũng không tài giỏi
lắm đâu, và vì thế ta cũng không làm theo [sự cố vấn của Trung Quốc].
(46)
Năm 1952 tôi rời miền Bắc sang Trung
Quốc chữa bệnh. Đấy là lần đầu tiên tôi ra nước ngoài. (47) Tôi đã đánh
dấu hỏi về họ [Trung Quốc] và thấy rất nhiều chuyện lạ. Những vùng [đã
từng] bị quân Nhật chiếm đóng có dân cư là 50 triệu người, nhưng không
có thậm chí một người du kích…
Khi tôi từ Trung Quốc về, tôi gặp bác [Hồ]. Bác hỏi:
- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài có phải không?
- Vâng, tôi ra nước ngoài lần đầu tiên.
- Chú thấy những gì?
- Tôi thấy hai chuyện: Việt Nam rất dũng cảm và họ [Trung Quốc] hoàn toàn không.
Tôi hiểu điều đó từ bấy giờ. Chúng
ta [người Việt Nam] khác hẳn họ. Lòng dũng cảm là đặc tính cố hữu trong
từng con người Việt Nam, và do vậy chúng ta chưa từng có chiến lược
thiên về phòng ngự. Mỗi người dân là một chiến sĩ.
Gần đây, họ [Trung Quốc] đem vài
trăm ngàn quân xâm lấn nước ta. Trên phần lớn mặt trận, ta mới sử dụng
dân quân du kích và bộ đội địa phương để đánh trả. Chúng ta không thiên
về phòng ngự, và do vậy họ đã thất bại. Họ không thể tiêu diệt gọn một
trung đội nào của Việt Nam, còn ta diệt gọn vài trung đoàn và vài chục
tiểu đoàn của họ. Đạt được điều đó vì ta có chiến lược nghiêng về tấn
công.
Đế quốc Mỹ đã đánh nhau với ta trong
một cuộc chiến dài lâu. Họ hết sức mạnh mà vẫn thua. Nhưng ở đây có một
yếu tố đặc biệt, đó là sự mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô.
[Vì thế], họ đã đánh ta ác liệt như vậy.
Việt Nam chống Mỹ và đánh chúng
quyết liệt, nhưng chúng ta cũng biết rằng Mỹ là một nước rất lớn, có khả
năng huy động một đội quân mười triệu người và dùng tất cả những vũ khí
tối tân nhất để đánh ta. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu một thời gian
dài để kéo chúng xuống thang. Chúng ta là người có thể làm được như vậy;
Trung Quốc thì không. Khi quân Mỹ tấn công Quảng Trị, Bộ Chính trị đã
ra lệnh đưa bộ đội vào ứng chiến ngay lập tức. Chúng ta không sợ. Sau đó
tôi có sang Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Nó [cuộc
chiến đấu ở Quảng Trị] có lẽ là độc nhất vô nhị, chưa từng có. Đời
người chỉ có một [cơ hội], không hai. Không ai dám làm việc mà các đồng
chí đã làm”.
… Chu Ân Lai đã từng là Tổng Tham
mưu trưởng. Ông dám nói và ông cũng thẳng thắn hơn. Ông nói với tôi:
“Nếu tôi được biết trước cách đánh mà các đồng chí đã sử dụng thì có lẽ
chúng tôi không cần đến cuộc Trường chinh.” Vạn lý Trường chinh để làm
gì? Vào lúc bắt đầu cuộc Trường chinh họ có một đội quân 300 nghìn
người; và khi kết thúc họ chỉ còn lại có 30 nghìn. 270 nghìn đã bị tiêu
hao. Đó quả thật là ngu ngốc nếu làm theo cách ấy… [Tôi] nói như vậy để
các đồng chí hiểu, chúng ta đã tiến xa hơn bao nhiêu. Sắp tới, nếu ta
lại phải chiến đấu chống Trung Quốc, chúng ta nhất định thắng lợi… Dẫu
sao, một sự thực là nếu như một nước khác [không phải Việt Nam] phải
đánh nhau với Trung Quốc, thì chưa chắc họ có thể thắng như vậy [giống
Việt Nam] được.
… Nếu Trung Quốc và Liên Xô nhất trí
với nhau, thì cũng chưa chắc là Mỹ sẽ dám đánh ta. Nếu như hai nước
đoàn kết và cùng giúp ta, thì cũng chưa chắc rằng Mỹ sẽ dám đánh ta theo
cách như chúng đã làm. Họ có thể chùn bước ngay từ đầu. Họ có thể bỏ
cuộc như trong thời Tổng thống Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô
tất cả cùng giúp Lào và Mỹ tức thời ký hiệp ước với Lào. Họ không dám
gửi quân sang Lào, họ chấp nhận cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham
gia vào chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.
Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và
Trung Quốc] có mâu thuẫn với nhau, phía Mỹ lại được [Trung Quốc] thông
báo rằng họ có thể tiếp tục đánh Việt Nam mà không sợ gì cả. Đừng sợ
[Trung Quốc trả đũa]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông nói với Mỹ: “Nếu
người không đụng đến ta thì ta sẽ không đụng đến người. Các anh có thể
đưa bao nhiêu quân vào miền Nam Việt Nam cũng được. Điều đó tùy theo các
anh.” (48)
… Chúng ta [hiện nay] tiếp giáp với
một quốc gia lớn, một nước có những ý đồ bành trướng, mà nếu được thực
hiện thì sẽ bắt đầu với cuộc xâm lăng Việt Nam. Như vậy, ta phải gánh
vác một vai trò lịch sử nữa, khác trước. Dẫu sao, chúng ta không bao giờ
thoái thác nhiệm vụ lịch sử của mình. Trước đây, Việt Nam đã hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử của mình và lần này Việt Nam quyết tâm không cho chúng
bành trướng. Việt Nam bảo vệ nền độc lập của chính mình và đồng thời
cũng là bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam quyết không
để cho Trung Quốc thực hiện mưu đồ bành trướng của họ. Cuộc chiến gần
đây [với Trung Quốc] mới chỉ là một hiệp. Hiện nay họ vẫn đang ráo riết
chuẩn bị trên nhiều chiến trường. Dù sao đi nữa, mặc họ chuẩn bị đến mức
nào, Việt Nam cũng vẫn sẽ thắng…
Tiến hành chiến tranh không phải là
một cuộc dạo chơi trong rừng. Dùng một triệu quân để tiến hành chiến
tranh chống nước khác kéo theo vô vàn khó khăn. Chỉ mới đây thôi, họ đem
500 đến 600 ngàn quân đánh chúng ta, mà họ không có đủ phương tiện vận
tải để chuyên chở lương thực cho quân đội họ. Trung Quốc hiện nay có một
đội quân ba triệu rưỡi người, nhưng họ phải để lại một nửa trên biên
giới [Trung-Xô] nhằm phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ có mang một
hoặc hai triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả.
Chúng ta chỉ có 600 ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải
đánh với hai triệu quân, thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không
sợ.
Chúng ta không sợ vì chúng ta đã
biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt
được chân ở phía Bắc. Càng đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng châu
thổ, và vào Hà Nội hoặc thậm chí vào sâu hơn nữa thì sẽ càng khó khăn.
Các đồng chí, các đồng chí đã biết, bè lũ Hitler đã tấn công ác liệt như
thế nào, mà khi tiến đến Leningrad chúng cũng không thể nào vào nổi.
(Phải đối mặt) với những (làng mạc,) thành phố, nhân dân và công tác
phòng ngự, không ai có thể thực hiện một cuộc tấn công hiệu quả chống
lại từng người cư dân. Thậm chí có đánh nhau hai, ba hoặc bốn năm chúng
cũng không thể nào tiến vào được. Mỗi làng xóm của chúng ta [trên biên
giới phía Bắc] là như vậy. Chủ trương của ta là: Mỗi huyện là một pháo
đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và chúng sẽ
không thể nào xâm nhập được.
Tuy nhiên, sẽ không đầy đủ nếu chỉ
nói đến đánh giặc ngoài tiền tuyến. Ngưới ta cũng cần phải có một đội
quân hậu tập trực tiếp, hùng mạnh. Sau khi cuộc chiến vừa qua chấm dứt,
chúng ta đã nhận định rằng, sắp tới, ta cần đưa thêm vài triệu người lên
(các tỉnh) mặt trận phía Bắc. Nếu giặc đến từ phương Bắc, hậu phương
trực tiếp của cả nước sẽ là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Hậu phương trực
tiếp để bảo vệ Thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ
người. Ta sẽ đánh bằng nhiều cách… Ta có thể dùng hai hoặc ba quân đoàn
giáng cho địch một đòn quyết liệt khiến chúng choáng váng, trong khi
tiếp tục bảo vệ lãnh thổ của ta. Để làm được như vậy, mỗi người lính
phải là một người lính thực sự, mỗi tiểu đội phải là một tiểu đội thực
sự.
Vừa trải qua một trận chiến, chúng
ta không được chủ quan. Chủ quan khinh địch là không đúng, nhưng thiếu
tự tin thì cũng sai. Ta không chủ quan khinh địch nhưng ta cũng đồng
thời tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của chúng ta. Ta cần phải có cả
hai yếu tố đó.
Trung Quốc hiện đang có âm mưu tấn
công ta nhằm bành trướng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay
người ta không thể làm gì mà che đậy giấu giếm được. Trung Quốc vừa mới
gây hấn với Việt Nam có vài ngày, cả thế giới đã đồng thanh hô lớn:
“Không được đụng đến Việt Nam!” Thời nay không còn giống như thời xưa
nữa. Ngày xưa chỉ có ta (đối mặt) với họ [Trung Quốc]. Ngày nay cả thế
giới sát cánh chặt chẽ bên nhau. Nhân loại hoàn toàn chưa bước vào giai
đoạn Xã hội chủ nghĩa; thay vì thế bây giờ lại là thời mà mọi người đều
mong muốn độc lập và tự do. [Thậm chí] trên những hòn đảo nhỏ, nhân dân ở
đó cũng mong muốn độc lập tự do. Cả loài người hiện nay là như vậy.
Điều đó rất khác với thời xưa. Khi ấy mọi người còn chưa biết rõ về
những khái niệm này. Lời Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” là
tư tưởng của thời đại ngày nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại
và xâm phạm đến độc lập tự do… Việt Nam là quốc gia tượng trưng cho độc
lập và tự do.
Khi bàn đánh Mỹ, anh em ta trong Bộ
Chính trị đã cùng thảo luận chuyện này để cân nhắc xem ta có dám đánh Mỹ
hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã biểu thị quyết tâm
của mình: Để đánh Mỹ chúng ta nhất định phải không sợ Mỹ. Tất cả đã đồng
lòng. Trong khi tất cả đều nhất trí đánh Mỹ, để không sợ Mỹ chúng ta
cũng phải không sợ Liên Xô. Mọi người đều đồng ý. Chúng ta cũng cần
không sợ Trung Quốc. Mọi người đều tán thành. Nếu chúng ta không sợ ba
cái (nước lớn) đó, ta có thể đánh Mỹ. Đấy là chúng tôi đã làm việc như
thế nào ở Bộ Chính trị trong thời gian đó.
Mặc dầu Bộ Chính trị đã họp và thảo
luận như vậy và mọi người đều nhất trí đồng lòng, sau đó lại có người đã
nói lại với một đồng chí những điều tôi nói. Người đồng chí đó lại chất
vấn Bộ Chính trị, hỏi rằng tại sao anh Ba (49) lại nói rằng nếu chúng
ta muốn đánh Mỹ thì chúng ta phải không sợ cả Trung Quốc? Tại sao anh ấy
lại đặt vấn đề như vậy? (50)
Lúc đó anh Nguyễn Chí Thanh, một
người thường được cho rằng là có cảm tình với Trung Quốc, đứng dậy nói:
“Thưa các đồng chí trong Bộ Chính trị và Bác Hồ kính mến, lời phát biểu
của anh Ba là đúng. Cần phải nói như vậy [về việc cần phải không sợ
Trung Quốc], bởi vì họ [Trung Quốc] đã gây khó khăn cho chúng ta trong
nhiều vấn đề. Họ ngăn cản chúng ta ở đây, rồi trói tay ta ở kia. Họ
không cho ta đánh…” (51)
Trong khi ta đang chiến đấu trong
Nam, Đặng Tiểu Bình đã quy định rằng tôi chỉ nên đánh từ mức trung đội
trở xuống, và không được đánh ở mức độ lớn hơn. Ông ta [Đặng] nói: “Ở
miền Nam, do các anh đã phạm sai lầm là đã phát động cuộc chiến, các anh
chỉ được đánh từ cấp trung đội trở xuống, chứ không được đánh lớn hơn”.
Đó là họ đã ép ta như thế nào.
Chúng ta không sợ ai cả. Ta không sợ
bởi vì ta có chính nghĩa. Chúng ta không sợ thậm chí các nước đàn anh.
Ta cũng không sợ bạn bè ta. (52) Tất nhiên, chúng ta không sợ quân thù.
Ta đã đánh chúng. Chúng ta là những con người; chúng ta không phải sợ
bất kỳ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết rằng ta độc lập.
Chúng ta phải có một quân đội mạnh,
bởi vì nước ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt… Không thể nào khác được.
Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm vì ta là một nước nghèo.
Ta có một đội quân mạnh, nhưng việc
đó không làm chúng ta yếu đi chút nào. Đối với ta Trung Quốc có một số
chủ trương: Xâm lược và chiếm đóng nước ta; làm ta suy yếu về kinh tế và
làm cho đời sống của nhân dân ta khó khăn hơn. Vì những lý do đó, để
chống Trung Quốc chúng ta phải, trước hết, không chỉ chiến đấu, mà còn
phải tự làm cho mình mạnh lên. Để đạt được điều đó, theo quan điểm của
tôi, quân đội ta không thể là một đội quân chỉ dựa vào nguồn cung cấp
của nhà nước, mà còn phải là một đội quân sản xuất giỏi. Khi giặc đến họ
sẽ cầm chắc tay súng. Khi không có giặc họ sẽ sản xuất mạnh mẽ. Họ sẽ
là biểu tượng cao nhất và tốt nhất trong sản xuất, sẽ làm ra nhiều (của
cải vật chất) hơn bất cứ ai. Tất nhiên, đấy không phải là chuyện mới lạ.
(53)
Hiện nay, quân đội ta đang gánh vác
một sứ mệnh lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của đất nước, đồng thời bảo
vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng
của bè lũ phản cách mạng Trung Quốc không thể thực hiện được thì đó
chính là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm được. Việt Nam đã
có năm chục triệu người. Việt Nam có Lào và Căm bốt là bạn và có địa thế
hiểm trở. Việt Nam có cả phe (Xã hội chủ nghĩa) ta và cả nhân loại đứng
về phiá mình. Rõ ràng là chúng ta có thể làm được việc đó.
… Các đồng chí có thấy ai ở trong
Đảng ta, trong nhân dân ta mà hoài nghi rằng ta sẽ thua Trung Quốc
không? Không có ai, tất nhiên rồi. Nhưng chúng ta phải duy trì những
quan hệ thân hữu của mình. Chúng ta không muốn sự hằn thù dân tộc. Tôi
nhắc lại: Tôi nói như vậy vì không bao giờ tôi mang lòng hận thù đối với
Trung Quốc. Tôi không có thứ tình cảm như vậy, dù chính họ là người đã
đánh ta. Hôm nay tôi muốn các đồng chí biết rằng trên đời này người đã
từng bảo vệ Trung Quốc lại chính là tôi! Đúng như vậy đó. Tại sao thế?
Bởi vì trong hội nghị ở Bucharest tháng 6 năm 1960, sáu mươi đảng đã
phản đối Trung Quốc nhưng chỉ có mình tôi là người đã bênh vực Trung
Quốc. (54) Nhân dân Việt Nam ta là như vậy. Tôi sẽ tiếp tục nhắc lại
rằng: Dù họ có đối xử tồi tệ đến đâu chăng nữa, chúng ta biết rằng nhân
dân Trung Quốc là bạn ta. Về phía chúng ta, ta không mang những mặc cảm
xấu xa đối với Trung Quốc. Còn về ý đồ của một số lãnh đạo [Trung Quốc]
thì là chuyện khác. Chúng ta nhắc tới họ chỉ như một bè lũ mà thôi.
Chúng ta không ám chỉ cả nước họ. Ta không nói nhân dân Trung Quốc xấu
với ta. Ta nói rằng chỉ có bè lũ phản cách mạng Bắc Kinh là như thế. Tôi
nhắc lại lần nữa ta phải tuân thủ nghiêm nhặt như vậy.
Tóm lại, hãy giữ cho tình hình trong
vòng kiểm soát chặt chẽ, sẵn sàng chiến đấu và không bao giờ lơi là
cảnh giác. Đối với Trung Quốc ta cũng làm như vậy. Tôi tin chắc rằng
trong vòng năm mươi năm nữa, hoặc thậm chí có thể một trăm năm, chủ
nghĩa xã hội sẽ thành công; và khi đó thì ta sẽ không còn vấn đề gì nữa.
Nhưng nó đòi hỏi thời gian. Bởi vậy chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng
trên mọi phương diện.
Bây giờ không ai còn hoài nghi gì
nữa. Nhưng 5 năm trước tôi biết chắc rằng không có đồng chí nào lại nghĩ
là Trung Quốc có thể đánh ta. Vậy mà có đấy. Đó là trường hợp vì các
đồng chí ấy không có hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. (55) Nhưng đó không
phải là trường hợp xảy ra với chúng ta [Lê Duẩn và ban lãnh đạo]. (56)
Chúng ta biết rằng họ sẽ đánh ta trong khoảng mười năm hoặc hơn. Do đó
chúng ta không bị bất ngờ [vì cuộc tấn công tháng giêng 1979 của Trung
Quốc].
Ghi chú của Christopher E. Goscha: 24-56
24. Tài liệu này được dịch từ bản
sao một số trích đoạn trong bản gốc. Nó được chép lại từ bản gốc lưu trữ
trong Thư viện Quân đội, Hà Nội. Christopher E. Goscha, người dịch tài
liệu này (ra tiếng Anh) đã được phép hoàn toàn đầy đủ để làm việc đó.
Văn bản là bài nói chuyện được cho là của “đồng chí B”. Nó có thể do
chính đồng chí B viết, nhưng có nhiều khả năng hơn nó là bản đánh máy
của một người nào đó dự buổi nói chuyện của “đồng chí B” (một cán bộ cao
cấp hoặc một thư ký đánh máy). Trong văn bản, đồng chí B có đề cập
rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính trị ông ta được gọi là anh Ba.
Đó là bí danh mà chúng ta được biết là của Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã dùng
trong Đảng Lao động Việt Nam (từ 1976 là “Đảng Cộng sản Việt Nam”). Mặc
dầu tài liệu không đề ngày tháng, nhưng rõ ràng văn bản được viết trong
năm 1979, sau cuộc tấn công Việt Nam của Trung Quốc.
Nó được củng cố
thêm bằng một tài liệu khác mang tính cáo buộc mạnh mẽ, xuất bản năm
1979 theo chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó đã liệt kê tuần
tự sự phản bội của Trung Quốc và, không hoàn toàn bất ngờ, cùng đề cập
đến nhiều sự kiện mà Lê Duẩn đã kể lại trong tài liệu này. Xem: Bộ Ngoại
giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
trong 30 năm qua (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1979). Trong phần Ghi
chú này có cho thêm số trang trong bản tiếng Pháp của cùng văn kiện:
Ministère des Affaires Étrangères, La vérité sur les relations vietnamo-
chinoises durant les trente dernière années.Dịch giả xin cám ơn Thomas
Engelbert, Stein Tønnesson, Nguyen Hong Thach, và hơn cả là một độc giả
Việt Nam ẩn danh, đã sửa chữa và đóng góp cho nhiều ý kiến quý báu. Dịch
giả xin chịu trách nhiệm về những sai sót trong bản dịch này.
25. Những dấu tỉnh lược (…) như vậy
là nguyên văn trong bản gốc; những dấu tỉnh lược và nhận xét của dịch
giả được đặt trong dấu ngoặc vuông: […].
26. Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 đã
cho Pathet Lao, đồng minh gần gũi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một khu
vực tập kết tạm thời ở hai tỉnh (Bắc Lào) Phong xa lỳ và Sầm Nưa. Không
có một nhượng địa tương tự cho Khơ me It xa la, đồng minh của Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
27. Cuốn sách Sự thật về quan hệ
Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm quacho biết cuộc hội đàm cấp cao về
Lào diễn ra vào tháng 8 – 1961 (La vérité sur les relations vietnamo-
chinoises durant les trente dernière années, trang 34).
28. Trương Văn Thiên là một trong
những thành viên của Đoàn đại biểu Trung Quốc, người đã có mặt khi Lê
Duẩn phát biểu những nhận xét này. Ông còn là Thứ trưởng Ngoại giao nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là Ủy viên lâu năm trong Bộ Chính trị Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Trong những năm 1950 ông ta là Ủy viên dự khuyết
Bộ Chính trị giữ trách nhiệm về liên lạc đối ngoại với các nước Xã hội
chủ nghĩa.
29. Sách Sự thật về quan hệ Việt Nam
– Trung Quốc trong 30 năm qua đã miêu tả cuộc gặp gỡ như sau: “Trong
một cuộc trao đổi ý kiến với những người lãnh đạo Việt Nam, Ủy viên
trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trương
Văn Thiên cho rằng ở miền Nam Việt Nam có thể tiến hành đánh du kích.
Nhưng sau đó Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của Bắc Kinh, đã
thông báo với phía Việt Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc mà chỉ là ý kiến cá nhân. The Truth…, trang
40. (La vérité…, trang 31.)
30. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, trang 60. (La vérité…, trang 47.)
31. Lê Duẩn muốn nói đến nhiệm vụ
giải thích việc tập kết cán bộ miền Nam ra Bắc. Lê Duẩn cũng cố tình
lảng tránh không đề cập đến việc Trung Quốc đã giúp Việt Nam chiến thắng
ở Điện Biên Phủ năm 1954.
32. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc trong 30 năm qua trang 60, đoạn phía Việt Nam đã nói với
Trung Quốc tháng 11-1972: “Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không
được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam. Các đồng chí đã nhận sai lầm năm
1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”. (La vérité…, trang
47.)
33. Một trong những thư ký của Lê
Duẩn, Trần Quỳnh, gần đây đã cho lưu hành ở Việt Nam cuốn Hồi ức của ông
ta, trong đó có nhiều chi tiết lý thú về đường lối của Lê Duẩn đối với
sự phân liệt Trung Xô và sự chia rẽ trong (hàng ngũ cán bộ cao cấp của)
Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề này trong những năm 1960. Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn, không in ngày tháng, tự xuất bản, dịch giả
hiện có một bản.
34. Khang Sinh (1903-1975), một
trong những chuyên viên hàng đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về an
ninh quốc gia. Ông ta được Bộ Nội vụ (NKVD) Liên Xô đào tạo trong những
năm 1930, và trở thành cố vấn thân cận nhất cho Mao trong việc cắt nghĩa
những chính sách của Liên Xô. Khang Sinh cũng từng là Bí thư Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1962, và Ủy viên Bộ Chính
trị từ 1969; giữa 1973 và 1975 ông ta là Ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính
trị.
35. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc trong 30 năm qua trang 43, trong đó Việt Nam tuyên bố là
Đặng Tiểu Bình đã hứa sẽ coi Việt Nam là ưu tiên số một trong vấn đề
viện trợ cho nước ngoài để đổi lấy việc Việt Nam sẽ khước từ mọi viện
trợ của Liên Xô. (La vérité…, trang 33.)
36. Xem “Sự thật về quan hệ Việt Nam
– Trung Quốc trong 30 năm qua” trang 43. (La vérité…, trang 33) và cả
Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
37. Tháng 11-1966, Liên Xô lên án
Trung Quốc đã từ bỏ đường lối Cộng sản thế giới đã được thông qua tại
các Hội nghị Mascơva 1957 và 1960. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về
Lê Duẩn.
38. Bộ Ngoại giao, Sự thật về quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua cho biết Mao đã phát biểu như
vậy với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963. Trong
sách đã trích dẫn lời Mao nói: “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông
đưa quân xuống Đông Nam châu Á.” (La vérité…, trang 9).
39. Đoạn này có thể dịch (sang tiếng Anh) là “và tôi sẽ đánh bại cả các anh nữa” hoặc “tôi có thể đánh bại cả các anh”.
40. Đối với dịch giả (Christopher E.
Goscha), chỗ này không được rõ là Lê Duẩn muốn nói tới ai khi dùng chữ
“quân sự”. (Ngược lại, đối với người dịch ra tiếng Việt thì rõ ràng
trong ngôn cảnh này ông nói là tôi mời một số anh em bên quân đội…, một
cách nói thân mật, thường dùng thời đó nhưng tất nhiên hàm chỉ một số
tướng tá cao cấp).
41. Đây có lẽ dựa vào lời Đại sứ
Trung Quốc tại Máscơva chuyển cho phía Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 15 năm
ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Đồng minh và Tương trợ Trung-Xô. Đại sứ
Trung Quốc Phan Tự lực đã nói với Liên Xô: “Nếu bọn đế quốc dám tấn công
Liên Xô, nhân dân Trung Quốc không hề ngần ngại, sẽ thực hiện nghĩa vụ
của mình theo Hiệp ước và cùng với nhân dân Liên Xô vĩ đại… sẽ kề vai
sát cánh chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.” Trích từ Donald S.
Zagoria, Mạc tư khoa, Bắc Kinh, Hà nội (New York: Pegasus, 1967), trang
139-140.
42. Bành Chân là Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc từ 1951 đến 1969.
43. Lý Cường là Phó Chủ tịch Ủy ban
liên lạc kinh tế đối ngoại của Quốc vụ viện từ 1965 đến 1967. Giữa 1968
và 1973, ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, và từ 1973 là Bộ trưởng
Ngoại thương Trung Quốc.
44. Đây muốn nói tới chuyến đi của Lê Duẩn vào tháng 11-1977.
45. Lê Duẩn quên rằng cho đến tháng
3-1945, thậm chí chỉ với số người ít hơn, Pháp đã có thể cai trị Việt
Nam mà không gặp quá nhiều khó khăn.
46. Về cố vấn Trung Quốc, xin xem
Qiang Zhai, Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 (Chapel Hill:
Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina, 2000), và Christopher E.
Goscha, “Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt” luận án trình bày tại
Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne, Paris, 2000,
phần Trung Quốc.
47. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Lê Duẩn thường xuyên ra miền Bắc, nhưng ông thường được cho là vẫn ở lại
miền Nam thời kỳ này trong cương vị Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, mà sau này đổi
thành Trung ương cục miền Nam vào đầu năm 1950. Dịch giả cũng hoài nghi
việc Lê Duẩn đi Trung Quốc năm 1952. Hồ Chí Minh thì có, nhưng Lê Duẩn
thì không.
48. Về chi tiết này, xin xem chương 6 của cuốn sách này.
49. Điều này khẳng định Đồng chí B
cũng chính là “Anh Ba”. Ta biết rằng Anh Ba là bí danh của Lê Duẩn, từ
đó suy ra Đồng chí B cũng là Lê Duẩn. Từ những sự kiện được nói đến
trong văn bản thì điều này là chắc chắn, và cuốn Trần Quỳnh, Những kỷ
niệm về Lê Duẩn, cũng khẳng định điều này.
50. Ở đây có thể ám chỉ Hoàng Văn
Hoan. (Để có cái nhìn toàn cảnh hơn) về một quan điểm cần tranh luận,
xin tham khảo thêm cuốn Giọt nước trong biển cả (Hồi ức về một cuộc cách
mạng) (Bắc Kinh: Nhà xuất bản Tin Việt Nam, 1986).
51. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
52. Đây có lẽ muốn nói bóng gió tới Liên Xô (và khối Đông Âu).
53. Hình thức chiến tranh này đã từng có ở Trung Quốc và những nơi khác trong hoàn cảnh chiến tranh du kích.
54. Điều này đã diễn ra vào tháng
6-1960. Để biết thêm về lập trường của Lê Duẩn trong vấn đề này xin xem
Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. Sau đại hội Đảng Cộng sản Ru ma ni
tháng 6-1960, Liên Xô đã tổ chức một cuộc họp tại chỗ các trưởng đoàn
đại biểu những nước có mặt. Trong buổi họp đó Khơ rút xốp đã phê phán
Trung Quốc nặng nề, đặc biệt là Mao, người mà ông ta cho là “giáo điều”
vì những quan điểm của Mao về vấn đề chung sống hòa bình. Xem Adam B.
Ulam, The Communists: The Story of Power and Lost Illusions 1948-1991
(New York: Macmillan, 1992), trang 211.
55. Dường như đây là một cái tát vào mặt Hoàng Văn Hoan mà không phải ai khác.
56. Đây có lẽ muốn nói tới những nhà
lãnh đạo khác đang có mặt nghe Lê Duẩn nói chuyện, và có thể là một chỉ
hiệu rằng người đồng chí thân Trung Quốc đã nói ở trên không có mặt
trong buổi nói chuyện này. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê
Duẩn.
Nguồn: Thư viện Quân đội, Hà Nội.
Tài liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm
nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris.
Christopher
E. Goscha đã phát hiện tài liệu này trong Thư viện Quân đội ở Hà Nội,
chép tay lại và dịch ra tiếng Anh. Cũng theo Stein Tønnesson: “Văn bản
không đề ngày tháng, và tên tác giả chỉ cho biết là “đồng chí B”. Dù
sao, nội dung tài liệu cho ta thấy, nó được viết năm 1979, có lẽ vào
quãng thời gian giữa cuộc tấn công của Trung Quốc vào Bắc Việt Nam tháng
2-1979 và thời điểm phát hành cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt
Nam về mối quan hệ Việt – Trung ngày mồng 4 tháng 10 cùng năm. Dường như
văn bản được soạn chỉ ít lâu sau quyết định ngày 15 tháng 3-1979 của
Đặng Tiểu Bình ngừng cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam và rút quân về
nước, nhưng trước khi Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc tháng
7-1979.”
Nếu tên tác giả chỉ ghi là “đồng chí
B” thì sao lại dám khẳng định là Lê Duẩn? Bài nói chuyện của “đồng chí
B” có cho ta biết rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính trị Đảng Lao
động Việt Nam, ông ta được gọi là anh Ba, một bí danh mà mọi người đều
biết là của Lê Duẩn. Tài liệu cũng nói nhiều đến những cuộc họp cấp cao
với phía Trung Quốc trong đó có cả Mao, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, khi
đó nhân vật B này thường xưng tôi và đại diện cho phía Việt Nam một cách
đầy quyền uy như thế, hẳn chỉ có rất ít người.
Một nhận xét khác của Stein
Tønnesson là “những điều Lê Duẩn nói ra (trong năm 1979) rõ ràng mang
sắc thái tức giận”, nhưng về thái độ của Lê Duẩn thì “một nét ấn tượng
của tài liệu này là sự thẳng thắn, bộc trực và cách tác giả đưa vấn đề
ra như là một cá nhân.” Ta đều biết vai trò và vị trí của ông trong Đảng
cũng như trong các sự kiện từ khi được cử làm Bí thư thứ nhất Đảng Lao
động Việt Nam rồi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Stein Tønnesson cũng cho rằng khi Lê
Duẩn xưng tôi với Hồ Chí Minh thì đó là thái độ có phần xấc xược, nhưng
người dịch không nghĩ như vậy. Nếu bạn đã đi nhiều vùng trên đất nước
ta, hoặc được tiếp xúc với nhiều người từ những địa phương khác nhau
tới, bạn sẽ thấy đó chỉ là một tập quán ngữ dụng của một số nơi chứ
không phải là hỗn hào hay xấc xược. Hoặc cũng có đoạn, khi nói chuyện
với Mao, Lê Duẩn cũng dám “ăn miếng trả miếng”, nhưng người dịch hoài
nghi chuyện này, chúng ta cần phối kiểm với những tài liệu khác nữa.
So với cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại
giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
trong 30 năm qua, công bố ngày mồng 4 tháng 10-1979, tài liệu này cũng
không có nhiều điểm khác biệt, trừ một số tình tiết về cách suy nghĩ và
ứng phó của phía Việt Nam. Dẫu sao, theo thiển ý của tôi, thì đây cũng
là một tài liệu quý. Nó cho ta thấy việc ra đời của cuốn Sách trắng đã
được chỉ đạo từ cấp cao nhất.
Vì thời gian có hạn, lại dịch ngược
lại từ tiếng Anh ra Việt trong khi ngôn ngữ nguồn đã là tiếng Việt, chắc
chắn bản dịch còn nhiều thiếu sót. Người dịch cũng chỉ mong muốn một
chữ “tín”, mà chưa dám nghĩ đến “đạt, nhã”. Mong các bạn thông cảm và
đóng góp ý kiến cho. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ.
Nguồn : Blog Nguyễn Xuân Hưng -Theo talawas ( http://dailyvnews.wordpress.com)
No comments:
Post a Comment