Nói với những ai sợ buông Trung Quốc
Cập nhật: 14:29 GMT - thứ năm, 22 tháng 5, 2014
Nghe nhiều người cho
rằng buông Trung Quốc thì xí nghiệp vốn đầu tư FDI của họ sẽ rút ra, hậu
quả là kinh tế Việt Nam mình sẽ có thể phá sản.
Tôi khẳng định: chuyện này là không thể có được, tuy Việt Nam sẽ phải đối mặt với những khó khăn ngắn hạn.Với đối tác Trung Quốc, Việt Nam xuất khẩu khoảng 13 tỉ, nhập khẩu 37 tỉ, chủ yếu nhập nguyên vật liệu và hàng phụ trợ - phụ tùng công nghiệp, tiền tuồn sang Trung Quốc như vậy là xấp xỉ 24 tỉ USD.
Khoảng 18% lưu lượng thương mại (volume of trade) Việt Nam là giao thương với Trung Quốc. Về đầu tư vốn nước ngoài (FDI), hàng đầu là Nhật với 4.8 tỉ, sau là Singapore, Hàn Quốc, và thứ mới tới Trung Quốc (đâu chỉ 1-2% trên tổng số), tổng cộng được 24.5% tổng đầu tư cả nước.
Năm 2011, vốn giải ngân FDI là 11 tỉ USD nhưng sản lượng chiếm khoảng khoảng 46% của số tổng sản phẩm (total output).
Giả sử Trung Quốc có rút hết đầu tư về, đình trệ hoặc ngưng sản xuất, giảm xuất khẩu nguyên vật liệu... thì tác động gây suy giảm tổng sản phẩm của Việt Nam được bao nhiêu?
"Nhưng 'vắng mợ thì chợ vẫn đông'’, không Trung Quốc thì còn những đối tác khác, và nếu kinh doanh sản xuất ở Việt Nam có lợi thì họ sẽ vào trám chỗ."
Nhà văn Nam Dao
Dĩ nhiên, đây là ở ngắn hạn, và tác động của việc Trung Quốc rút đầu tư nhằm đình trệ tình trạng sản xuất ở Việt Nam có thể kéo dài một thời gian 2, 3 năm.
Nhưng "vắng mợ thì chợ vẫn đông", không Trung Quốc thì còn những đối tác khác, và nếu kinh doanh sản xuất ở Việt Nam có lợi thì họ sẽ vào trám chỗ.
Và nói theo tích 'Tái ông mất ngựa', biết đâu đây lại chẳng là một dịp may cho nền kinh tế Việt Nam.
Một vận may
Tại sao lại một dịp may? Mới nghe thì như nghịch lý, nhưng không phải vậy nếu ta quay sang vấn đề định tính.Ở đây, nhắc là tuy đầu tư FDI ít nhưng những năm sau này Trung Quốc trúng thầu đến 90%, và chỉ nghe họ đấu thầu thì phần lớn những công ty thuộc những quốc gia khác te tua "chạy".
Nhà thầu Trung Quốc bỏ giá rẻ, sẳn sàng tìm nguồn vay vốn ở Trung Quốc cho Việt Nam, và hẳn là trong cơ chế TW cho phép các tỉnh và thành phố trực tiếp quản lý kinh tế ‘’đối ngoại’’, chuyện lì xì ‘’ nỉ hảo’’ không cần nói ai cũng hiểu ngay.
Chính thế mà sau khi trúng thầu, tiến độ thi công chậm, thiết bị thường cũ kỹ kạc hậu, đến những công đoạn cần kỹ thuật cao thì họ bỏ vấy, tìm cách đội vốn.
Việt Nam nợ cứ phải trả nhưng về trách nhiệm thì chủ thầu đổ tội cho ban Giám đốc thi công, đám này thì đổ tội cho hành chính địa phương, và một trăm thứ lý do lắt léo khác.
"Nhà thầu Trung Quốc đang tham gia nhiều dự án
trọng điểm về hạ tầng, năng lượng của Việt Nam, trong đó nhiều trường
hợp chậm trễ, đội vốn và gây rất nhiều tranh cãi."
"Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15
công trình được phía Trung Quốc làm tổng thầu. Với xi măng, tuy không
nêu cụ thể nhưng đối với các dự án do Trung Quốc làm tổng thầu (trong
tổng số 24 dự án), tỷ lệ nội địa hóa cơ bản được xác định là không có gì
hết, tức 0%."
"Số liệu của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc
hội công bố trước đây cũng cho thấy, tính đến năm 2010, có đến 90% các
dự án tổng thầu EPC (tư vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận
hành; hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khoá
trao tay) của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm, trong đó chủ
yếu là dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim.
Trong số này, các doanh nghiệp đến từ bên kia
biên giới thực hiện tới 30 dự án trọng điểm quốc gia, trong đó có nhiều
dự án “tỷ đô” của ngành điện’’.
"...Và họ làm tới để 'dạy Việt Nam (thêm) một bài học' thì biết đâu họ đang tạo thời cơ cho ta vuột khỏi vòng kìm kẹp của họ."
Nhà văn Nam Dao
Mặc dầu nắm những khâu sản xuất cơ bản, nhà thầu
Trung Quốc không đáp ứng được trình độ kỹ thuật hiện đại, biến XN Việt
Nam thành nơi nhập nguyên vật liệu sản xuất. Mặt khác, theo những thông
tin đáng tin cậy, FDI Trung Quốc không đóng góp xây dựng công nghệ phụ
trợ khiến Việt Nam lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc.
Ngoài ra, ta cũng ghi nhận sự kiện những Chủ
thầu thu nhận ào ạt người Trung Quốc không có phép nhập cảnh và lao động
ở Việt Nam. Hội Liên Hiệp Lao Động Việt Nam báo rằng họ phần lớn là lao
động không chuyên môn, chiếm mất công việc lẽ ra phải giành cho công
nhân Việt Nam.
Theo bộ Lao Động-Thương binh- Xã hội, số lao
động bất hợp pháp này lên đến 80 ngàn người, chốt ở những vùng đất chiến
lược trên phương diện quân sự, như Hà Tĩnh, Quảng Trị, Phú Yên, Tây
Nguyên... và nắm khả năng cắt Việt Nam thành ba mảnh khó liên hợp tác
chiến. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã từng băn khoăn về vấn đề chiến lược
này khi ông khuyến cáo nhà nước Việt Nam phải thận trọng trong dự án
khai thác bôxít ở Tây Nguyên.
Những vấn đề vừa đưa ra để cùng suy nghĩ ở trên
cho phép chúng ta chẳng có gì phải lo ngại nếu Trung Quốc dùng sức ép
kinh tế bằng cách rút những xí nghiệp họ hiện có ở Việt Nam. Tác động
có, nhưng nhỏ thôi, và chỉ ở ngắn hạn.
Cứ để họ 'phá hợp đồng'’, và ta nhân lấy đó làm
thời cơ để thay đổi một nền công - thương nghiệp ngày càng nhiều bất
cập. Và họ làm tới để 'dạy Việt Nam (thêm) một bài học' thì biết đâu họ
đang tạo thời cơ cho ta vuột khỏi vòng kìm kẹp của họ.
"Thoát Trung" là tất yếu
Trung Quốc tăng áp lực quân sự trên biển và trên
bộ, tạo áp lực kinh tế bằng cách đóng cửa cơ xuởng xí nghiệp, di tản
công nhân viên, và cuối cùng lệnh cho đám sai nha đàn áp người Việt Nam
định biểu tình ôn hòa nói lên ước vọng toàn vẹn lãnh thổ nước mình.
Cán cân lực lượng có vẻ nghiêng hẳn về phía phe
nhóm theo Trung Quốc để giữ Đảng nhưng lại mất nước theo cách nói nay
khá phổ biến!
Cán cân nếu thật nghiêng thỉ chỉ chốc lát, vì
cán cân bên kia là hàng triệu người Việt Nam yêu nước, trong đó có nhiều
người chống Tàu. Những người này biết muốn toàn vẹn lãnh thổ và dứt
khoát tiến hành những cải tổ nhằm hiện đại hóa xã hội Việt Nam thì phải
đi ra khỏi quĩ đạo Trung Quốc, nghĩa là phải Thoát Trung, như một tất
yếu.
"Quyền lực mềm của Đặng Tiểu Bình đang 'cứng dần' trong tay Tập Cận Bình nên nếu ta không phản ứng dứt khoát thì cái bàn tay Phương Bắc chẳng còn nể nang tình nghĩa gì mà không vặn cho gãy cổ kẻ còn yếu đuối ở phương Nam."
Nhà văn Nam Dao
Cụ thể Việt Nam cần phải:
- Chính thức đưa ngay sự vụ xâm phạm lãnh hải Việt Nam qua cài đặt giàn khoan HD 981 ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
- Đâm đơn kiện Trung Quốc vi phạm Luật Biển 1982 ( UNCLOS)
- Thúc đẩy tiến trình liên minh với Nhật Bản và Phi Luật Tân trong vấn đề biển đảo liên quan đến mọi bên.
- Tăng cường quan hệ với Mỹ trên mọi mặt hầu có được sự hỗ trợ cần thiết
- Lập một diển đàn quốc tế về vấn đề biển đảo để thông tin trung thực đến mọi quốc gia trong cộng đồng thế giới.
Vụ việc xâm phạm lãnh hải Việt Nam với giàn
khoan Hải Dương 981 tạo thời cơ cho sách lược Thoát Trung. Về lâu dài,
đó là phương cách duy nhất cho phép Việt Nam tồn tại trong cái thế địa
chính trị của mình, chẳng mới đây mà cả ngàn năm trước đã núi liền núi
sông liền sông.
Láng giềng gần là răng, ta là môi, thì răng cắn
môi là chuyện tất nhiên trong cái mộng bành trướng từ xưa đang hóa tinh
thành giấc mơ bá chủ ngày nay. Quyền lực mềm của Đặng Tiểu Bình đang
'cứng dần' trong tay Tập Cận Bình nên nếu ta không phản ứng dứt khoát
thì cái bàn tay Phương Bắc chẳng còn nể nang tình nghĩa gì mà không vặn
cho gãy cổ kẻ còn yếu đuối ở phương Nam.
Trung Quốc không bao giờ muốn Việt Nam mạnh lên:
hãy nhớ họ đã phản bội khi thúc đẩy chia cắt đất nước ta với Hiệp Định
Genève năm 1954.
Đừng quên họ đã 'đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối
cùng' nhưng thò ra bắt tay Nixon- Kissinger, và ngay sau Hiệp Định
Paris năm 1973 họ chụp thời cơ Việt Nam rối rắm mang hải quân tiến chiếm
Hoàng Sa năm 1974.
Thoát Trung là một tất yếu. Không nắm lấy vận
hội này, Việt Nam sẽ tiếp tục chông chênh trên quĩ đạo Trung Quốc, và
rơi rụng như một vì sao tàn.
Nắm lấy, tức ta đoạt thời cơ đẩy đất nước vào
vòng xoay của những quốc gia hiện đại, tôn trọng những giá trị toàn cầu
và thể chế chính trị dân chủ pháp trị.
Hiện nay, đã xuất hiện những chính khách trẻ, có
đào tạo, có bản lĩnh, nắm những chức vụ tầm cỡ trong chính quyền và
trong doanh-thương nghiệp.
Nếu họ thành một khối đoàn kết với tầm nhìn tiến
bộ thì là đại hồng phúc cho dân tộc. Và chắc chắn họ sẽ được triệu
triệu đồng bào đồng tâm đồng lòng.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của
nhà văn Nam Dao tức giáo sư kinh tế Nguyễn Mạnh Hùng, từng làm
việc ở Đại học Laval, Quebec, Canada.
No comments:
Post a Comment