Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 4 June 2014

CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

  Cần dùng công hàm phủ định công hàm Phạm Văn Ðồng 1958

Tàu Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương ở Biển Ðông.
Tàu Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương ở Biển Ðông.
CỠ CHỮ
Ngày 23/5/2014 Việt Nam đã tổ chức họp báo có đại diện của quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao, để giải thích về Công hàm (công thư) Phạm Văn Đồng năm 1958.

Khó khăn của chính quyền Việt Nam hiện nay khi giải thích về Công hàm PVĐ 1958 là làm sao có thể giải thích khác đi được về nội dung công hàm đã viết rành rọt có lợi cho TQ và bất lợi cho VN về vấn đề toàn vẹn lãnh thổ trong đó có biển đảo. Giải thích đó là công hàm chỉ là sự ủng hộ “chung chung” cho nước đồng minh là TQ của VNDCCH khi cùng chung chiến hào đánh Mỹ, Ngụy vào thời điểm 1958 dễ làm cho người dân thất vọng. Công hàm ra đời vì lúc đó chờ đợi hai năm chờ tuyển cử nhưng cả hai phía VNCH và VNDCCH đều đổ lỗi cho nhau là lờ đi việc Tổng tuyển cử và chính quyền Miền Bắc do vậy cần viện trợ của Trung Quốc để đổ quân vào miền Nam nhằm thống nhất đất nước Việt Nam bằng vũ lực nên đành phải lấy lòng TQ một cách thiển cận. Công hàm do Thủ tướng Phạm văn Đồng chắc là có sự đồng ý của Bộ Chính trị và ông Hồ Chí Minh vì không thể một mình ông Đồng chịu trách nhiệm do nguyên tắc tập thể lãnh đạo của đảng CSVN lúc bấy giờ. Do vậy về mặt đối nội, giải thích thế nào cũng làm cho đảng CSVN ngày nay mất đi hình ảnh tốt đẹp mà họ đã xây dựng trong hàng chục năm qua.
Người dân trong nước thì “ngậm đắng nuốt cay” mà than thở hay lên án là công hàm đã được giới lãnh đạo ở Bắc Việt do “không nhìn xa trông rộng” tưởng rằng Công hàm PVĐ 1958 chỉ ủng hộ chung chung nhưng nào ngờ bị ông bạn vàng TQ diễn dịch công hàm coi như là một sự công nhận cho ông bạn vàng rằng HS, TS đã thuộc về TQ từ khi đó. Cho nên nay không thể nói ngược được vì nguyên tắc Estoppel được dùng trong quốc tế công pháp. Các học giả TQ đã dùng nguyên tắc Estoppel này để lập luận buộc VN không được giải thích khác với những gì mà VN đã xác nhận qua Công hàm PVĐ 1958. Còn về đối ngoại giải thích khác đi đối với cộng đồng người Việt hải ngoại là điều dễ được thông cảm dù rằng họ cũng cay đắng phê phán Công hàm PVĐ 1958 là công hàm “hại cho đất nước”, mà hậu quả là TQ hiện nay đang rêu rao với dư luận quốc tế,diễn dịch sai lạc nội dung và tinh thần của công hàm đó rằng VN đã công nhận chủ quyền TS,HS là của Trung quốc.Còn dư luận quốc tế dù có thiện cảm với VN và biết là TQ đang ngụy biện để cướp đảo của VN nhưng do TQ là nước lớn, quốc gia của họ đang có làm ăn kinh doanh lớn với TQ nên họ cũng chẳng muốn động chạm gì với TQ mà căng mắt chờ cuộc đấu của hai nước cùng ý thức hệ là bạn vàng, đồng minh của nhau trong hàng chục năm qua.

Lập luận nêu trên đã bị học giả nghiên cứu độc lập về biển Đông, ông Trương Nhân Tuấn, đả kích vì như thế VN sẽ “sa lầy “trong việc kiện TQ nếu dùng các” luận cứ của cuộc họp báo 23/5”. Ông tóm tắt và đề xuất trong thư ngỏ gửi Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng là hãy nhanh chóng nói ngược lại các luận điểm nguy hiểm của VN đã trình bày trong cuộc họp báo ngày 23/5- nguy hiểm như thế nào thì như đã phân tách trong phần đầu bài viết này. Ông đề xuất rằng chỉ cần tuyên bố “Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị”.

Lập luận của ông Trương Nhân Tuấn là ĐÚNG nhưng không ĐỦ thuyết phục dư luận và nó sẽ vấp phải nguyên tắc Estoppel mà các học giả TQ đang dùng để buộc VN không thể nói ngược được. Do vậy không nên nói rằng Công hàm PVĐ1958 là khúc xương mà VN phải nuốt trọn do “bút sa gà chết”mà phải lý giải thật tỏ tường như sau.

Các việc cần phải làm để vô hiệu hòa công hàm Phạm Văn Ðồng 1958:

1.Về mặt nội dung, một công hàm mà Chính phủ CHXHCNVN phải chuẩn bị cần có nội dung như sau :

 
Công hàm của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai vào năm 1958Công hàm của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai vào năm 1958

Cần xác định rõ ràng là vào thời điểm 1958, sau Hiệp định Geneve thì trong Hiệp định nêu rõ VN là một nước thống nhất nhưng phải chia cắt làm hai và trở thành hai thực thể chính trị nhưng không phải là hai quốc gia theo đúng nghĩa, phải là thành viên được LHQ công nhận – do không quốc gia nào là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Chính quyền ở Miền Bắc xưng là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn miền Nam cũng có chính quyền là Việt Nam Cộng Hòa. Sau 2 năm chờ thống nhất không được tổ chức nên hai nước tổ chức bộ máy chính quyền như hai đất nước, mỗi bên có những quan hệ với các quốc gia khác và quan hệ đồng minh với Trung Quốc của VNDCCH là điều ai cũng biết. Việc mỗi nước nhận là đại diện cho dân tộc Việt Nam hay Đất nước VN là điều mà mội bên đã làm nhưng riêng đối với vấn đề lãnh thổ thì sự toàn vẹn và thống nhất là vấn đề cốt lõi mà ý chí của một bên đơn phương làm việc gì với một nước thứ ba không thể nào làm tổn hại, ngược lại nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.Do vậy Công hàm PVĐ 1958 công nhận ý đồ của Trung Quốc về lãnh thổ tiếp theo tuyên bố của Thủ tướng Chu ân Lai đã làm phương hại đến lợi ích của nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ của VN” đã được ghi trong Hiệp Định Geneve 1954 mà Trung Quốc là một bên đã ký. Do vậy vấn đề là chính phủ VNCH có biết là Hà nội đã gửi công hàm đó cho Trung cộng hay không? Và nếu biết có phản đối Hà nội hay không? Về điều này thì chính phủ của VNCH vào thời điểm năm 1958 hoàn toàn không được biết nên không thể lên tiếng phủ định Công hàm PVĐ 1958. Nhưng vào năm 1974, khi xảy ra việc dựa vào Công hàm PVĐ 1958, và việc Trung Cộng bắt tay với Hoa Kỳ, nên Trung Quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (xin nhấn mạnh là xâm chiếm Hoàng Sa của nước Việt Nam chứ không phải chỉ là của VNCH) thì chính quyền VNCH, qua tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19/01/1974 đã nêu rõ như sau:

Nghĩa vụ cao cả của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Chính phủ VNCH cương quyết làm tròn nghĩa vụ ấy, bất luận gặp phải những khó khăn trở ngại có thể gặp phải và bất chấp sự phản đối không căn cứ dầu xuất phát ở đâu. Chừng nào còn một hòn đảo thuộc phần lãnh thổ ấy của VNCH bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy chính phủ và nhân dân nước VNCH còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình. Trong dịp này, chính phủ VNCH cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của VNCH trên những hòn đảo nằm ở ngoài khơi bãi biển Trung phần và bãi biển Nam phần Việt Nam từ trước tới nay vẫn được coi là phần lãnh thổ của VNCH căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý và thực tế không thể chối cãi được. Trung thành với chính sách hòa bình cố hữu của mình, chính phủ VNCH sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy nhưng nhất định không vì thế mà từ bỏ chủ quyền của VNCH trên những phần đất ấy.(tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH đã được báo Thanh Niên đăng trang trọng tại trang nhất ngày 09/01/2014).

Như vậy dù có chậm trễ, đối với vấn đề lãnh thổ biên cương hải đảo của nước VN, Chính quyền nước VNCH đã thể hiện ý chí hoàn toàn khác với Công hàm PVĐ 1958 và điều đó đã mặc nhiên phủ định Công hàm PVĐ 1958 ngay từ thời điểm năm 1974 khi Trung Cộng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa do VNCH cai quản.

Chính phủ VN ngày hôm nay có thể lý giải với dư luận rằng: Do chờ đợi sau hai năm không có tổng tuyển cử nên Hà Nội đã có công hàm gửi TQ, lúc đó cũng là đất nước bị chia cắt chưa thống nhất vì lúc đó Trung Hoa Dân Quốc (Đài loan) là đại diện cho nước Trung Quốc, là một trong 5 thành viên trong Hội đồng Bảo an LHQ. Do hoàn cảnh khách quan vào năm 1958, Hoa kỳ và Đài Loan và Trung quốc xung đột ở biển đảo, do Trung quốc và VN là hai nước đồng minh nên việc tuyên bố có lợi cho “nước bạn” về vấn đề hải phận của TQ là điều mà Công hàm PVĐ 1958 đã làm. 
Nhưng công hàm này không thể có hiệu lực pháp lý vì một phần đất đai và lãnh thổ của một đất nước được giao cho một nước khác không thể thể hiện trong một công hàm được vì căn cứ theo Quốc tế Công pháp nói một cách tổng quát, việc chuyển giao một phần lãnh thổ của một quốc gia cho một quốc gia không thể thể hiện chỉ qua một công hàm ngắn gọn mà phải là là dưới một hình thức hiệp định để có thể chuyển giao một phần đất đai cho nước ngoài được; sau đó hiệp định này còn phải được hai nước phê chuẩn theo đúng Hiến pháp của hai nước. Do vậy giá trị pháp lý của công hàm không phải là hiệp định nên phía TQ không thể tùy tiện giải thích Công hàm PVĐ 1958 giữa hai quốc gia theo cách thô thiển mà họ ong muốn. Hơn nữa CHXHCNVN đã liên tục ra nhiều tuyên bố tuyên cáo với quốc dân đổng bào và cho toàn thế giới biết sau năm 1975 là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là phần đất đai, thuộc nước CHXHCNVN.

2. Về mặt hình thức, do Công hàm PVĐ 1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai nên nay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cần phải gửi cho người đồng cấp là Thủ tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc một công hàm để phủ định Công hàm PVĐ 1958 với cách giải thích nêu trên để nói rõ cho Trung Quốc biết họ không thể giải thích công hàm đó một cách tùy tiện và đã gây ra rất nhiều trở ngại trong quan hệ hai nước mà cao điểm là hành vi đặt giàn khoan vừa qua trong lãnh hải của nước Việt Nam ảnh hưởng đến an ninh hàng hải quốc tế tại Biển Đông.

Với việc nêu rõ quan điểm của Chính phủ Việt Nam qua đề xuất nói trên sẽ làm cho lập trường của VN trở nên minh bạch và sáng ngời. Dư luận và người dân trong nước sẽ không còn áy náy và hồ nghi gì về Công hàm PVĐ 1958 do ra đời trong hoàn cảnh khách quan và chủ quan đặc biệt như đã giải thích. Còn giá trị pháp lý của Công hàm PVĐ 1958 sẽ bị vô hiệu hóa hoàn toàn do đã không được phía VNCH biểu thị ý chí vào năm 1958. Ý chí đó đã được thể hiện rất rõ nét trong trận chiến năm 1974 và chính quyền VNCH cũng như nhân dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, phản đối hành động của Trung Quốc trước Liên Hiệp Quốc, yêu cầu các quốc gia đồng minh đưa vấn đề Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc.

Không còn chần chừ gì nữa chính quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cần nhanh chóng thực hiện các việc trên trước khi đưa vấn đề giàn khoan của TQ xâm lấn vào thềm lục địa của nước VN ra trước Tòa án Công lý Quốc tế.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

 Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-04
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc
Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc
RFA file


Trước khả năng chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về vụ giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng biển Việt Nam, nhiều ý kiến từ giới học giả trí thức cho rằng nhà nước phải nhanh chóng  hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958 về việc công nhận lãnh hải Trung Quốc.

Khúc xương mắc nghẹn

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 từng được coi là một khúc xương mắc nghẹn của Việt Nam. Lúc đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đất liền, kể cả các hải đảo như Tây Sa và Nam Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ngày 14/9/1958, ông Phạm Văn Đồng Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã gởi công hàm ngoại giao tán thành tuyên bố đó của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Sau này Phía Trung Quốc đã sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng như một lợi thế trong mọi tranh chấp chủ quyền biển đảo với Việt Nam.
Qua vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 bất hợp pháp xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi, hôm 23/5/2014 lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo chính thức ở Hà Nội để biện giải công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị. Công luận Việt Nam đưa ra rất nhiều ý kiến tranh cãi phản biện về nội dung công hàm Phạm Văn Đồng và về cách thức làm thế nào để vô hiệu hóa giá trị của nó.
Chúng tôi ghi nhận ý kiến mới nhất của học giả Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu biển Đông hiện sống và làm việc ở Sài Gòn. Ông nói:
Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.
-Thạc sĩ Hoàng Việt
“Dù là người phát ngôn Bộ Ngoại giao hay là Thứ trưởng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì đều không có giá trị, phải có một Nghị quyết của Quốc hội phủ nhận hoàn toàn công hàm Phạm Văn Đồng thì mới có thể đấu lại Trung Quốc. Còn công hàm Phạm Văn Đồng đúng hay sai thì kiện ra tòa các nhà luật học sẽ chứng minh công hàm đó đúng hay sai ở mức độ nào trong từng thời điểm của lịch sử. Tôi nghĩ rằng tôi không bênh Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhưng như tôi đã thường nói cái ý thức hệ đồng chí anh em nó đã khiến cho những người lãnh đạo Việt Nam đã phải ký cái công hàm này thì đó là cái giá phải trả rất lớn mà đến ngày hôm nay không rút được kinh nghiệm thì Việt Nam sẽ còn trả những cái giá lớn hơn mất trọn biển Đông.”
Một trong các luận điểm được nhiều học giả Việt Nam và nay cũng là luận điểm của giới chức chính phủ Việt Nam để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958.  Đó là miền Bắc vào thời điểm 1954-1975 không có thẩm quyền gì đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do miền Nam tức quốc gia Việt Nam Cộng Hòa quản lý và không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được. Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên luật quốc tế Đại học Luật TP.HCM, thành viên Quỹ nghiên cứu biển Đông đã kiên trì với lập luận của mình:
“Không có ông nào ở miền Bắc lúc đó có quyền nói về công nhận Hoàng Sa Trường Sa được cả. Bởi vì lúc đó theo Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.”

Đề nghị vô hiệu hóa công hàm PVĐ

Untitled-2.jpg
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958

Ngày 26/5/2014 ông Trương Nhân Tuấn, một người Việt Nam cư trú ở Pháp đã gởi thư không niêm cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh để góp ý là, các luận cứ của giới chức chính phủ và nhiều học giả khác có thể bất lợi và khó thuyết phục về việc công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị. Ông Tuấn viện dẫn Hiệp định Geneve 1954 xác nhận Việt Nam là nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất và được tái xác nhận theo Hiệp định Paris 1973. Theo Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam là một quốc gia nhưng tạm thời bị phân chia, trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Từ quan điểm này, ông Trương Nhân Tuấn đề nghị vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.
Trong dịp trả lời Gia Minh đài ACTD, ông Trương Nhân Tuấn phát biểu:
“Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.”
Rất khác biệt với ý kiến của ông Trương Nhân Tuấn, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một nhà hoạt động xã hội dân sự từ Đà Nẵng nhận định:
“Lẽ ra mình phải làm ngay chuyện này trước, tức là hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng. Thứ hai là phải thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa để chúng ta có tuyên bố chủ quyền liên tục từ 1954 tới 1975 vì chủ quyền Hoàng Sa từ 1954 tới 1975 Việt Nam Dân Chủ Công Hòa ở phía Bắc không có tuyên bố chủ quyền. Cho nên hai điều quan trọng nhất là phải hóa giải cho được công hàm Phạm Văn Đồng, tức là phải tuyên bố rõ với thế giới là công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị, thứ nhất là không được Quốc hội thông qua. Thứ hai là trong hoàn cảnh VNDCCH phía Bắc đã không sở hữu quần đảo Hoàng Sa này. Và thứ ba để có một tuyên bố chủ quyền liên tục, để tiến tới kiện thì phải có tuyên bố với thế giới, có văn bản thừa nhận chính quyền VNCH. Phải có những tiền đề rồi sau đó cùng với các nước ASEAN, cụ thể là những nước có tranh chấp như Philippines, Malaysia, Indonesia. Những chuyện về các hòn đảo thì mình bàn trước đi để thống nhất tạo một cái luật chơi.”
Công luận Việt Nam, từ báo chí chính thức đến các diễn đàn xã hội đều cho thấy nhà nước Việt Nam phải đặt ưu tiên số một về việc hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng, còn làm thế nào để vô hiệu hóa nó thì sự tranh cãi vẫn đang tiếp tục. Liệu Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc hay không trước khi thực sự hóa giải được công hàm Phạm Văn Đồng 1958.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-dispel-1958-diplo-note-before-against-cn-nn-06042014152740.html

Trung Quốc đã lý giải về lai lịch đường lưỡi bò

Pgs, Ts. Ngô Văn Minh
Từ sự thôi thúc bởi bản năng sở hữu sơ khai của một cá nhân

Nhiều ý kiến cho rằng, thời điểm ra đời của tấm bản đồ đường lưỡi bò do Trung Quốc tự vẽ ra là do một người có tên Lâm Tuân của chính quyền Tưởng Giới Thạch chỉ huy chiến hạm mang tên Thái Bình đi tuần sát ở vùng biển phía nam của Trung Quốc để xem có còn tàn quân Nhật ở trên các đảo hay không, khi trở về căn cứ đã cùng thuộc hạ là mấy chuyên viên quan trắc, hoạ đồ xúm lại vẽ ra một tấm bản đồ gọi là Nam Hải chư đảo vị trí đồ (Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải) rồi chuyển cho Ti Phương vực Bộ Nội Chính của Trung Hoa Dân quốc đem in xuất bản vào tháng 10-1947.

Tuy nhiên, theo một khảo cứu có tên là Tùng vãn Thanh đáo Dân quốc đích địa đồ khang Nam hải quy thuộc (Quá trình quy thuộc Nam hải qua một số bản đồ từ cuối đời nhà Thanh đến thời kỳ Trung Hoa dân quốc) của một tác giả người Trung Quốc có tên và bút danh là Ni Bá Long Căn - Oa Đằng thì vào năm 1940 bản đồ Trung Hoa Dân quốc phân tỉnh minh tế đồ đã thể hiện đường phân giới nhiều chấm liền nhau vẽ chiếu theo đường bờ biển của các quốc gia ở Biển Đông với hình dáng giống như hiện nay. 
Tác giả Peter Kien-Hong Yu, Giáo sư đại học Ming Chuan, trường Sau Đại học về Ngoại giao ở Đài Loan trong bài viết Đường chữ U (đứt khúc) trên biển Nam Trung Hoa lại cho rằng căn nguyên của đường chữ U, được Hu Jinjie, một người chuyên vẽ bản đồ người Trung Quốc, vẽ lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1914, sau khi nước Cộng hòa Dân Quốc giành lại nhóm đảo Dongsha (hay Pratas) từ đế quốc Nhật vào tháng 10 năm 1909 (theo lịch âm Trung Quốc). Các bản đồ của Trung Quốc xuất bản từ giai đoạn những năm 1920 và 1930 sau đó đều dựa trên bản vẽ của Hu về vùng biển này.
 Đến tháng 12/1947 thì đường chữ U trên biển Nam Trung Hoa này được chính thức vẽ bởi Bai Meichu, một viên chức thuộc nhà nước Cộng hòa Dân Quốc vào tháng 12 năm 1947. Các vùng phía bên trong đường này được coi là các vùng nước lịch sử (historic waters). Peter Kien-Hong Yu cũng nói là không rõ khi vẽ nên các vạch như vậy liệu Bai Meichu có đủ kiến thức về luật hàng hải quốc tế trong thời điểm ông vẽ hay không, nhưng chắc “có nhiều khả năng là ông này chủ yếu bị thôi thúc bởi bản năng sở hữu sơ khai (nghĩa là như người ta thường nói quan điểm là 9 phần 10 của luật pháp)”.
Đến lối hành xử bá quyền, bành trướng của Nhà nước Trung Quốc

Chỉ từ tấm bản đồ do một cá nhân vẽ bởi bản năng sở hữu sơ khai như vậy, đến năm 1949 nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời lại cho in thành sách và dạy cho trẻ con, khiến cho từ đó “Đường lưỡi bò” thấm vào các thế hệ người Trung Quốc, coi đó là lãnh thổ của người Trung Quốc và đang bị các nước khác gặm nhấm, cướp mất. Và rồi sau một thời gian dài không hề công bố với quốc tế, đến ngày 7/5/2009 chính phủ nước này mới chính thức yêu cầu Liên Hiệp quốc lưu truyền trong cộng đồng các nước thành viên, xem đây là vùng nước lịch sử của Trung Quốc, để yêu sách hơn 75% diện tích mặt nước của Biển Đông, chỉ còn lại khoảng 25% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Indonesia và Việt Nam, tức mỗi nước chỉ được trung bình 5%. 
Trong 1 tháng qua Trung Quốc đang tìm cách hiện thực hóa nó bằng bước đi đầu tiên là hạ đặt giàn khoan nước sâu HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Việc làm đó khiến không chỉ Việt Nam mà cả cộng đồng quốc tế kịch liệt phản ứng, bởi nó được vẽ ra không căn cứ một cơ sở pháp lý nào; không có tọa độ rõ ràng; cả một thời gian dài không tuyên bố cho thế giới biết, không duy trì trên cái gọi là “vùng nước lịch sử” đó sự tồn tại của một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà Trung Quốc đã giành được tôn trọng; lại bất nhất lúc đầu thì 11 vạch, về sau còn 9 vạch, nay lại thêm 1 vạch nữa, thành 10 vạch, mà không hề giải thích vì sao có sự thêm bớt như vậy!

Cái lối tư duy, hành xử đầy tính bá quyền, bành trướng của Chính phủ Trung Quốc như vậy khiến cho không chỉ quốc tế phản ứng mà ngay cả các học giả Trung Quốc có lương tri cũng phải lên tiếng. Giáo sư Hà Quang Hộ giảng dạy tại Học viện Triết học thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc phê phán: "Là con người phải biết giữ nhân tình. Chúng ta đều là người, không phải là dã thú sống trong rừng rậm. Trong quan hệ giữa người với người, không chỉ biết yêu bản thân mà nhất định phải tính cả đến lợi ích của người khác... Nếu ý nghĩa của cái gọi là đường chín đoạn là đường biên giới quốc gia được vẽ sát vào bờ biển Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei như thế, tôi không tin những quốc gia đó có thể chấp nhận. Nếu Nam Hải (tức Biển Đông) được vẽ thành "biển nhà" của Trung Quốc như vậy, các nước khác có nhu cầu vận tải trên biển cũng không thể chấp nhận, và như thế sẽ trở thành tranh chấp mãi mãi. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà mọi người dựa vào nhau để tồn tại. Chúng ta muốn sống thì cũng phải để người khác sống chứ"!
Thế giới lên tiếng và Trung Quốc đã trả lời!

Ngay cả Mỹ, mặc dù tuyên bố không đứng về bên nào trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông, nhưng thời gian gần đây, chỉ trong 3 tháng của năm 2014, Washington đã 2 lần yêu cầu chính phủ Đài Loan làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn, mà họ vẽ ra năm 1947 và đang được Trung Quốc sử dụng với tên gọi “đường lưỡi bò 9 đoạn” để khẳng định yêu sách chủ quyền gần như toàn bộ diện tích ở Biển Đông. Tại buổi điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện ngày 5/2/2014 Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương Danny Russel nói rõ: "Việc Trung Quốc sử dụng ‘đường chín đoạn’ nhằm đòi hỏi các quyền lãnh hải mà không dựa trên các cấu trúc trên đất liền được tuyên bố sẽ không phù hợp với luật pháp quốc tế. Cộng đồng quốc tế sẽ hoan nghênh Trung Quốc làm rõ hoặc điều chỉnh đòi hỏi về ‘đường chín đoạn’ của mình nhằm làm cho nó phù hợp với luật biển quốc tế”.

Thật ra thì Trung Quốc đã lý giải rất rõ ràng về lai lịch của đường lưỡi bò trước đây 2 năm rồi. Ấy là vào lúc 0g46’ ngày 23/3/2012 trên chuyên mục Luận đàm, Thời báo Hoàn Cầu (tên trên phiên bản tiếng Anh là Global Times, được quản lý bởi Nhân dân nhật báo là cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc) đã nói lên sự thật:
 “Năm 1930, chính vào 10 năm hoàng kim của Chính phủ quốc dân, một nhóm chuyên gia bắt đầu sử dụng thủ thuật tự vẽ “đường lãnh hải như một vòng tròn lớn hoa lệ ở biển Đông” để mở rộng lợi ích dân tộc. Một nhóm các chuyên gia du học từ nước ngoài trở về, trong tay cầm các bản đồ hàng hải của các nước Anh, Pháp, Mỹ. Rồi sau đó họ tìm kiếm các đảo khắp trên bản đồ, chỉ cần có lợi cho Trung Quốc là khoanh vào đấy một đường tròn. Còn một nhóm người trong nước, tuy không đi du học nhưng cũng có cách làm của mình. Họ lật giở hàng đống sách sử để tìm tài liệu. Tìm từ triều Thanh đến triều Minh, triều Minh rồi lại triều Nguyên, rồi lại chuyển sang tận đời Tống, Đường, tìm trong chính sử rồi lại tìm trong dã sử, lần theo con đường hàng hải thái giám Tam bảo” để rồi chỉ cần thấy “lão tổ tông (cha ông) đã đi qua nơi này, thấy rõ bãi cát nầy, nên đã vẽ lên trong sách nét bút nầy”. Thế rồi, Bắc Kinh đã “rất thẳng thắn kế thừa truyền thống của dân quốc, cũng ngay lập tức vẽ đường biên giới đến tận cửa nhà người khác, cho rằng “dải đất này đều là của chúng ta”.

Đường lưỡi bò đại bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông ra đời như vậy đó. Thế nên các nhà nghiên cứu mới gọi đấy là “lãnh hải chủ trương”, nghĩa là lãnh hải tôi chủ trương nó của tôi thì tất nó phải là của tôi! Chính vì vậy nên tại một hội thảo diễn ra ở Washington (Mỹ) do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế của Hoa Kỳ (CSIS) tổ chức với sự tham dự của hơn 150 học giả, nhà nghiên cứu, nhà báo đến từ nhiều nước, một học giả Trung Quốc tự đặt câu hỏi rồi tự trả lời rằng: “Nếu bây giờ mà Chính phủ Trung Quốc bỏ đàm phán song phương, chấp nhận đàm phán đa phương về vấn đề chủ quyền biển Đông thì rất khó bởi lẽ chủ quyền tính theo “đường lưỡi bò” đã ăn sâu vào tiềm thức người Trung Quốc. Bây giờ biết làm thế nào?”./.


No comments:

Post a Comment