CHUONG V
PHẢI VIẾT THÔI? KIÊN THƯỜNG TỰ NHỦ MỘT cách nghiêm
trang và quả quyết, một cách thôi thúc và nôn nóng như thế, như thể thầm
hô lên một khẩu hiệu để giục lòng mình, những khi anh một mình đi trên
đường phố ban đêm. Những đêm âm u buồn thảm đầu óc tối sầm tuyệt vọng,
như đêm nay, như nhiều đêm.
Phải viết thôi. Đời
anh từ bấy lâu nay còn gì hơn là viết, mặc dù là viết khổ viết sở, như
đập đầu vào đá, như là tự tay tước vụn trái tim mình, như là tự lộn trái
con người mình ra. Nhưng ấy thực là tồn duy nhất, là phần còn lại của
tâm hồn đã bao lâu rồi ngợp đi trong buồn thương và tủi nhục. Viết cho
đến khi không còn được nữa. Cho tới khi ngay cả phần còn lại cũng bị
nhận chìm đi thì xin thề là sẽ biết đường mà tự xử. Còn bây giờ, những
lúc lờ mờ cảm thấy sự vô nghĩa lý của những giờ dằng dặc triền miên cặm
cụi bên bàn viết thì Kiên ra đường, ra với thành phố đêm khuya của anh.
Nhất là những đêm không điện, từng mảng rộng của Hà Nội bị nuốt đi trong
đêm. Đêm tối đen, hoang vu như đêm đồng nội. Và thêm nữa mưa gió rét
mướt. Trong cái buồn của đêm đen thành phố anh như thấy được cảm thông,
nỗi buồn riêng dường như dịu đi.
Đôi khi lò mò đi
trong những ngõ hẻm câm lặng như hang sâu, lòng anh lại chợt bừng lên
cảm giác ngọt ngào nao nức như thể đang đứng trước một khoảng trời rộng
mở. Một ý tưởng lơ vơ có thể được làn gió lùa dọc phố bốc mạnh lên như
một cánh buồm.
Phải viết thôi. Viết để quên đi,
viết để nhớ lại. Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi, để mà chịu
đựng, để giữ lòng tin, để mà còn muốn sống. Cần phải viết về những người
thân yêu cũng như về những con người xa lạ hàng ngày nườm nượp qua
đường vô tình trở thành những chứng nhân của cuộc đời nhau. Viết về
những khoảng trời khác nhau, tương phản nhau trong đời sống và trong tâm
hồn, về những mái nhà, những tổ ấm, về thành phố mẹ đẻ… có biết bao số
phận, biết bao nhiêu nông nỗi đời người thấp thoáng trong bóng tối đêm
mưa, dưới những mái hiên, lướt ngang những cột đèn góc phố.
Tiếng
chân người bước trong vắng tối phố dài nghe như âm vang của im ắng, như
tiếng bước chân của suy nghĩ. Một chiếc xích lô phủ bạt bóng loáng nước
mưa đạp qua không tiếng động. Một cặp ôm nhau trong cái bốt của cảnh
sát điều khiển giao thông. Tiếng gà gáy mơ hồ trong góc phố. Một quãng
đường tối câm đột nhiên có điện trở lại, đèn bật sáng, bừng lên từng đợt
như bị gió thổi bạt đi. Lá bàng rụng xuống một tiếng khô giòn. Còn lá
sấu mặc dù ướt át vẫn đuổi nhau vùn vụt trên vỉa hè. Kiên cảm thấy mình
đang đi trong quãng lặng của bản nhạc lớn lao và trong đêm tối phố
phường anh cảm thấy rõ mình đang sống. Sống một cánh thôi thúc, một cách
đầy giục giã, bất chấp cuộc đời tham lam không trí nhớ, bất chấp sự trì
trệ của đời sống thị dân không ký ức, không ước mơ. Phải viết thôi,
phải viết thôi.
Ở góc phố nọ, Kiên dừng lại trước
một cửa hiệu bày bán một mình giữa canh khuya. Vừa mải mê vừa lơ đễnh,
anh ngắm những mặt hàng lụa bày trong tủ kính. Rất nhiều màu sắc và tất
thảy đều dịu nhẹ gợi cảm giác êm ái, tinh khiết và trang nhã lạ thường.
-
Chọn mua đi chú ơi? Một giọng trẻ măng tinh nghịch mời chào, và Kiên
nom thấy sau quầy gương mặt thanh tú phơn phớt phấn hồng của cô bé chủ
tiệm - phụ nữ bọn cháu ấy mà, ở mọi lứa tuổi chẳng ai là không thích mê
khi được làm quà bằng thứ hàng này.
Kiên mỉm
cười, nhưng mà anh hơi thẹn vì đã nhận ra đây là quầy bán toàn đồ của
phụ nữ. Thật không ngờ lại đẹp đến thế, tinh xảo đến như vậy. Hẳn là vẻ
mặt anh lúc này, nom phải đặc biệt tỉnh lẻ. Cô bé khúc khích cười tán:
- Tuyệt, đúng không chú? Có thể ví như những lượt da trời buổi sớm ý…
Trên
vỉa hè, trong bóng tối đẫm hơi mưa, Kiên rảo bước, và hồi lâu trước mắt
anh thú thực cứ phấp phới dập dờn những món đồ lụa mặc bên trong đẹp
không thể nào ngờ được ấy của người phụ nữ thời đại mới. Tự nhiên anh
nhớ tới mấy cô giao liên người Miên ở vùng Tây đắc-rệt, họ xài coóc-xê
như đồ trang sức: mặc ra bên ngoài áo cánh. Mà nói gì tận xứ đó, ở Quảng
Bình hồi bọn anh hành quân qua, trong ba lô tay nào có trữ loại phụ
tùng ấy của phái đẹp thì hầu như muốn gì được nấy, các cô thanh niên
xung phong chiều hết. Phải, các cô gái thời bọn anh quả là thua kém thời
nay. Và, ôi chao như hồi năm 73, thật tức cười, tiểu đoàn anh nhận lầm
phải một đợt quân trang nữ, áo ngắn cũn, quần lại xẻ bên hông, song kỳ
khôi nhất là mỗi bộ thế đều có kèm cả “xích líp phụ tùng”. Lính tráng
gọi đùa là đồ gia giảm. Cứng ngang mo cau, thật sự là giáp che ngực, và
lục thẫm, lục nhạt hệt như những con cánh cam. Đấy là chuyện hài song
cũng có những chuyện kinh khủng. Bao giờ cũng thế, từ sự nhỏ nhặt nhất
trong đời sống con người thời đó cũng có những chuyện đau đớn kèm theo.
Những chuyện không thể quên, nhưng không dám nhớ tới…
Kiên
bước qua đường. Dưới cột đèn trước cửa một hiệu ăn, anh thấy một người
ăn mày đang đứng co ro, tay giấu trong nách, rạp xuống ngẩng lên vái
người qua đường và cất giọng ống bơ rỉ kêu van một cách tự tin:
- Xin hãy để mắt quan tâm đến tình cảnh người khác một phút đồng chí ơi! Xin hãy nhớ tới những miền đang lụt lội, đồng chí.
-
Ăn mày mà lập trường gang thép gớm chưa? Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà
mình chỉ giỏi chống ngoại xâm chứ đến ăn xin cũng chẳng biết đường - một
ông bệ vệ diện bành tô quắp một ả áo lông đi từ trong quán ra, lên
giọng - Ê, hạ lập trường xuống, thì cho.
Ả áo
lông cười rú lên như bị cù. Kể cũng buồn cười thật. Một lúc nào đó mình
sẽ dùng đến cảnh này, tự nhiên Kiên nghĩ thế. Có thể sẽ viết rằng thằng
cha bệ vệ kia và người ăn xin là bạn cũ của nhau. Thậm chí là đồng đội.
Mà cũng có thể… Nhưng, vớ vẩn chưa kìa.
Kiên nghĩ
sao lại lạc sang nghĩ đến chuyện này? Mọi ý bị xáo trộn lên, không còn
mạch lạc gì, mọi tình cảm và suy tư như cố hòa vào nhau để làm mờ nhòa
cái điều chủ yếu đang ám ảnh, giày vò tâm trạng. Tuy nhiên, anh cũng
biết, chính những ý nghĩ đứt đoạn, thiếu ăn nhập không đầu, không đuôi,
thấy gì nghĩ nấy này đã luôn giúp anh sao lãng khỏi những đau đớn quá
sức tưởng tượng của tâm hồn.
Trong đêm, những
cảnh tượng của mê cung thành phố lướt loáng thoáng qua tâm trí Kiên như
những con tính nhẩm rời rạc, chẳng mấy ý nghĩa nhưng chắp nối tình cờ
với nhau thành chuỗi số vô tận. Nhiều hôm những con tính nhẩm nhặt nhặt
trên đường đã dẫn dụ anh đi lang thang cả đêm. Dần dần cũng thành ra như
một nhu cầu, nó tạo cho anh cảm giác tò mò êm ái đối với đời sống
thường nhật tối tăm, bơ phờ và chán ngấy. Anh có thể kiên nhẫn uể oải đi
theo một bộ hành nhìn thấy tình cờ phía trước, lòng vòng qua hết phố
này đến phố khác hàng giờ cho đến khi y khuất vào sau khung cửa một ngôi
nhà. Anh cố hình dung tướng mạo và sắc diện cuộc đời một con người chỉ
qua tấm lưng, anh hình dung mình nhập thân vào cuộc đời của họ, những
con người sống quay lưng lại với tất cả.
Ngày
trước, trai đất thánh gặp nhau trong rừng, mắc võng nằm cạnh nhau, nhiều
khi suốt đêm sa đà vào toàn những chuyện phố xá. Phố này ở đâu, phố kia
ở đâu, phố nào chỉ độc một số nhà, phố nào có nhiều số nhà nhất, phố
nào dài nhất, ngắn nhất, cổ nhất, vì sao lại gọi là chợ Đuổi, dân nào ở
Hà Nội chuyên làm chả nhái, quán cà phê nào đáng vào nhất… Năm 72, Kiên,
cùng A trinh sát với Thắng “đầu bò” - ba đời đạp xích lô kiếm cơm ở
Hàng Cỏ - Vậy mà “đầu bò phải chịu Kiên là thông thạo Hà Nội hơn hắn”.
Không một tên lính Thăng Long nào rành rẽ những chi tiết thị thành lặt
vặt nhất bằng Kiên. Anh có thể miêu tả không sai một nhánh nhỏ nào trong
khối chằng chịt các phố Hàng. Ai có thể biết được bằng Kiên rằng Hà Nội
có bao nhiêu hồ to hồ nhỏ, đường Khâm Thiên có bao nhiêu ngõ, con gái
phố nào đẹp nhất, rạp Thái Bình Dương thường chiếu phim cấm vào những
tối nào, bằng cách nào sắm được vé. Chẳng ai ngờ rằng những tri thức phố
xá ấy của Kiên là do nhặt nhạnh được trong chiến tranh, do anh trải qua
nhiều đơn vị, gặp nhiều lính gốc Hà Nội, chứ bản thân anh trước khi đi
bộ đội chỉ là một thằng bé học trò, ít chơi bời bát phố. Cuộc đời quân
ngũ và những năm tháng mịt mù nơi rừng sâu núi đỏ đã làm cho anh yêu tha
thiết thành phố mẹ đẻ của mình.
Thế nhưng giờ
đây niềm đam mê quang cảnh thị thành đã phai lạt đi nhiều. Có lẽ, quả
thật, càng ngày anh càng khó nhận ra Hà Nội của mình, không phải vì
thành phố đã thay đổi gì nhiều mà vì trong lòng anh, phía sau đôi mắt,
đã có quá nhiều biến động. Anh gắn bó với đường phố chủ yếu là nhờ những
kỷ niệm. Dường như cuộc sống ngày hôm nay anh thấy đang diễn ra xung
quanh chỉ có tác dụng duy trì trong anh một thế năng không mất đi đối
với quá khứ.
Cái cảm giác hòa nhập, cảm giác đồng
điệu ngày mới quân ngũ trở về anh thường cảm thấy khi đi trong phố xá
giữa mọi người giờ đây không còn nữa. Ám ảnh cô đơn luôn bám gót Kiên,
nỗi cô đơn không của riêng anh mà của cả đám đông. Nỗi cô đơn của cả một
dòng người. Sự cô đơn của nghèo nàn và đơn lẻ lồ lộ phơi bày trong các
số phận đồng loạt, lầm lũi đi bên nhau nối nhau thành dòng nước quẩn.
Niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ đều cùn mòn, nhạt nhẽo và vô
ích, lập lòe tối sáng như những chùm đèn xanh đỏ nhấp nháy trước các cửa
hiệu. Cho nên, đi trên đường phố như để tìm một nguồn quên lãng mà rốt
cuộc lại rơi vào với nỗi buồn. Luôn luôn Kiên nhận thấy rằng, tất cả, cả
anh, cả mọi người đang để trôi đi uổng phí những giây phút bồi hồi,
những khoảnh khắc xao xuyến tình người nhất trong một đêm và trong một
cuộc đời. Luôn luôn, khi đi trên đường phố, trong đầu anh thường bất
chợt lóe lên một ý nghĩ. “Phải đi khỏi đấy thôi”. Bóng tối đen kịt. Gió
hú trên cao… “Đi thôi”.
Bất giác anh hình dung
thấy Đồi Mơ trong cái vắng lặng của buổi chiều tà tháng năm, cái tươi
mát mới lạ, cái xưa cũ xa vời và trong cảm giác êm đềm tuyệt diệu của
làn gió từ bìa rừng và mặt sông, của vườn cây đằng sau nhà mẹ Lành. Sao
Hôm lấp lánh trên nền trời ngả tím. Nỗi khát khao được về náu thân ở xó
rừng buồn thảm, tươi đẹp ấy của đất Nhã Nam làm trái tim Kiên tan nát đi
vì tuyệt vọng và vì hạnh phúc. Khi đời anh đã hết thì vẫn còn một nơi,
vẫn còn một người chờ anh tại chính chốn mà từ đó anh ra đi lập nghiệp…
Rồi
anh lại nhớ tới những ngày xuân, khi toàn quân B3 từ vùng duyên hải
Phan Rang hành quân ngược lên đèo Ngoạn Mục, qua thủy điện Đa Nhim, qua
Đơn Dương, Đức Trọng, xuống Di Linh để ra đường 14 đi xuống Lộc Ninh,
quặt trở lại để đánh vào Tây Sài Gòn kết thúc chiến tranh. Cuộc hành
quân muôn một trong đời lính bộ binh, vùn vụt tiến quân bằng xe cơ giới
xuyên qua đất trời vô tận của thảo nguyên… Khi bình minh đến trên đồng
cỏ, quân lính tỉnh dậy trên xe, mặt bạc đi vì gió và vì sương, hỏi nhau
đêm qua đã vượt qua được những vùng đất nào, bây giờ đang ở đâu đây…
Sung sướng tự hào vì tốc độ của chiến thắng. Hạnh phúc. Ngỡ ngàng. Ngây ngất.
Phải
đi thôi? Phải đi thôi… Tới một góc tối ở xế Bờ Hồ, Kiên tạt vào “Caffé
de la Hiên”, một quán đêm bí ẩn nép mình rất kín đáo ở đầu một ngõ hẻm.
Đã đi phất phơ ban đêm thì bao giờ anh cũng ghé vào đây. Ở đây anh có
những kỷ niệm. Và nếu cần có thể dễ dàng thu lượm thêm nhiều những kỷ
niệm nữa. Với lại ở đây người ta không nhạc nhọt làm ầm ĩ lên, cũng
không màu mè chuyện văn chương thơ phú như ở các quán quanh hồ Thuyền
Quang đầy rẫy các ông bà thi sĩ. “Hê lô, bộ binh?” - Tay chủ quán mập ú
mũi cà chua hằn rõ ba múi toét cười chào Kiên. Y bưng đến bàn Kiên một
tách cà phê, đĩa hạt hướng dương Tàu và nửa chai…
- Người lính có thích bạn cùng bàn không? - Y trịnh trọng.
- Không. Nhưng thế nào, dạo này thêm cả món ấy nữa à?
- Hì, hì… tư duy mới.
Trong
không khí chật chội đầy hơi ẩm và khói thuốc, Kiên ngồi nhâm nhi tách
cà phê và lười nhác ngẫm nghĩ. Ở các bàn khác người ta thầm lặng chơi
“ba cây”, rầm rĩ chuyện mánh mung và hút thứ gì đó lờ mờ mùi vị cần sa.
Xa xa, trên mặt hồ hiện lên một ngôi sao xanh mờ có vẻ huyền ảo. Chắc là
một ngọn đèn ở đầu cầu Thê Húc.
Hồi đầu hòa
bình, tay chủ tiệm không béo mà gầy như cái xe điếu. Y cũng là lính giải
ngũ, mò đâu từ bên Lào về với cái mặt sốt rét cơn thâm xịt. Y mở quán.
Và dạo đó người ta gọi đây là câu lạc bộ Cựu chiến binh. Khách khứa toàn
là quân sĩ về “hoàn kiếm”, phần lớn chưa công ăn việc làm, chưa định
hình cuộc sống mới, và như người ta nói, là còn chưa lại hồn. Người này
mách người kia, dần dần tụ lại với nhau ở đây, cùng nhau nướng sạch vào
túi trung sĩ chủ tiệm những đồng bạc “cửa rừng”.
Ở
đây, bên cốc rượu, họ lớn tiếng kể về những bước đi chập chững vào đời
dân sự. Những chuyện bây giờ thì đã nhàm tai nhưng hồi đó thì thật không
sao tin nổi, lại được kể bằng giọng lính, làm cho ai nghe cũng phải cay
đắng cười đến rũ rượi và điên cuồng nốc rượu. Ở đây cũng có thể nhận
được những chỉ dẫn và mách bảo tận tình về nơi có thể kiếm việc làm, về
cách lo lót bọn nha lại để xin nhập tịch, xin trợ cấp thương tật, xin
vào học lại ở trường đại học, xin trở về xí nghiệp cũ…
Nhưng
nói chung đây là nơi tụ tập giải sầu, gặp gỡ hàn huyên, nói chung là
những sự cố kết ủy mị. Tại chỗ Kiên đang ngồi dạo trước là “chốt” cố
định của Vượng tồ, một cựu binh thiết giáp, nhà ở sau ga, “đã từng bốn
năm trời lái T54 hoành hành ở Miền Đông!” Có lẽ Vượng là nhân vật đầu
tiên thuộc loại người mà về sau Kiên gặp rất nhiều, loại người không tài
nào nhấc chân ra khỏi miệng hố chiến tranh, loại người bị những ức ký
quá kinh khủng đè bẹp và làm cho suy đốn. Hồi mới theo bạn bè tới quán
này, Vượng uống không nhiều, lành và rụt rè lại to con quá khổ nên trông
quá tồ.
- Em đang nhờ anh em chạy lo cho một
chân lái xe - Anh chàng khoe với Kiên - Xe tải, xe con, xe khách đều
được, Tàu lu cũng được. Cốt là em được nắm tay lái, được chuyển động
trên mặt đường thôi. Em chẳng uống. Ngồi vui với các anh thôi.
Bẵng
đi một thời gian, lính tráng kinh hoàng thấy Vượng lù lù xuất hiện ở
cửa quán, râu ria lồm xồm, mắt đỏ ké, bước khật khưỡng, môi nở nụ cười
ngơ ngác, “tôi bỏ lái rồi các chiến hữu ạ. Bây giờ là rượu lái tôi”. Và
bắt đầu từ đó, Vượng như ngồi lì ở đờ la Hiên một góc riêng, luôn luôn
một chai với ba thứ đồ nhắm.
Thỉnh thoảng hứng chí, Vượng lại gào lên một khúc quân ca hoặc một bài hát tục tĩu nào đấy của đời lính.
-
Cạn với tớ một li, chàng bộ binh - Hắn ồm ồm gọi - Không thích tớ à?
Hay sợ tớ hết xèng? - Đừng lo, cạn đi? Không có chúng tớ làm đếch gì mà
các cậu trở thành “bộ binh giỏi nhất thế giới” như các vị tướng tá nhà
ta khoe? Hãy uống mừng đòn đột phá của chiến xa đi!
Thật
không ngờ một tráng sĩ hùng dũng như thế thuở nào lại trở chứng, biến
mình thành mớ giẻ rách như vậy. Người ta bảo hắn mắc chứng “ngợp mặt
đường” nhưng đúng ra thì còn tồi tệ hơn: Vượng không chịu nổi xóc?
Xóc
mạnh ổ gà, ổ trâu, chồm nẩy lên thì còn chịu được - Vượng kể - chứ mà
những đoạn nhún nhảy, êm êm, mềm mềm, nhũn nhũn là tớ ọe liền, nôn chóng
mặt đến buông cả tay lái. Đêm về không ngủ được. Ngủ lại gào lên như bị
cắt tiết. Thế là tửu. Mà tửu vào thì còn lái chó gì được nữa. Mà tớ còn
bị cái thói căm ghét kẻ bộ hành và xe đạp… Cứ thấy người láng cháng
trước đầu xe là hết kiên nhẫn. Phải cố sức kìm mới khỏi dận ga thúc ba
đờ xốc vào họ. Các cậu hẳn thấy cảnh tăng cán người rồi chứ? Nặng thế mà
thân xe vẫn bị xương thịt con người mềm mại đội kích lên một chút. Ngồi
trong xe, ở tay lái thì càng nhạy cảm hơn với cái sự hơi rướn lên ấy.
Biết rất rõ xe đang lướt trên những thân người chứ không phải mô đất,
gộc cây hay là cục gạch. Như cái túi đẫy nước thẳng người vỡ đánh bép
một cái và đẩy nhẹ băng xích lên. Ối giời ơi? - Vượng rên lên, mặt méo
đi - Những cảnh như thế cán cả vào tôi khi ngủ. Các cậu không hiểu như
thế là thế nào đâu… Hồi bọn tớ tràn qua Xuân Lộc đuổi đánh bọn lính sư
đoàn 18, ở các rãnh xích đầy những thịt với tóc. Giòi lúc nhúc. Thối
khẳn. Xe chạy tới đâu ruồi bâu tới đấy… cái chủ yếu là… thoát khỏi ngủ
mê…
Vượng đã uống cho tới ngày đổ bệnh, quỵ hẳn.
Những người khác có lẽ cũng chẳng hơn gì. Câu lạc bộ rã đám dần. Các
thân phận tơi tả tan tác. Trong số những nhân vật bộ tịch mờ ám ngồi
trong quán lúc này khối tay là thành viên hội cựu chiến binh thuở ấy
nhưng làm sao mà nhận ra nổi họ nữa. Cũng như Kiên thôi, anh còn gì
giống với bản thân mình. Và tay chủ quán kia nữa. Kiên rót rượu. Một ả
tóc xù, bận áo Na-tô cồm cộm những túi với phecmơtuya, sặc mùi nước hoa
Tàu, lướt sát qua bàn. Gặp mắt Kiên, ả lượn vòng lại, ngồi thả người
xuống bên cạnh anh.
- Đừng ám lâu nhé! - Kiên giao hẹn.
- Không thích em à?
- Sao không kiếm một chỗ khác?
- Còn một chỗ khác à?
Ả “bớp” bật cười. Răng sứt, lợi đen sì. Không cười nom còn tạm. Của này tuổi làm gì đã được hai mươi.
- Rét quá, - Ả than - Anh uống một mình à? Mà giời ơi, định mời em thứ độc dược này à? Ê, anh béo đúp Ma-xim?
- Rượu chè không tốt cho các cô bé đâu.
- Có anh là bé con ấy!
Ả đưa tay xuống gầm bàn lần đùi Kiên. Ờ? - Ả thốt lên rụt tay lại, khẽ cười. Kiên nhếch mép.
-
Ôi, chán phè ông anh? Em không phải là một con ngốc. Em là một con bớp
có bằng cấp đấy thưa anh. Xin ông anh biết cho là đang đối tửu với nữ
sinh viên đấy ạ. Anh đừng lỡm em. Em chả say đâu… ối giời, chán phè anh
giai. Thôi, uống đi?
Cả đời Kiên uống nhiều nhưng
chỉ vài lần say đáng sợ. Một lần trong cái bar của Air France trong Tân
Sơn Nhất đêm ba mươi tháng Tư. Một lần chính ở cái tiệm này đây. Cách
đây gần chục năm rồi. Một ngày đen tối. Tay chủ tiệm chắc vẫn còn nhớ.
Hồi đó hắn chưa béo ú ra như thế này. Cô nhóc này dạo đó có lẽ còn ở
tuổi đứng mút kem ở tiệm Hồng Vân. Một ngày đen tối. Anh đã đánh thành
thương tật một con người.
Không, thực ra hôm đó
Kiên không hề say. Hồi đó anh đâu có uống nhiều. Anh chỉ đến đây để uống
cà phê, rồi vài ba ly cùng anh em đồng ngũ. Uống gọi là thôi. Anh là
người lính giải ngũ có nhiều may mắn. Có nhà cửa. Thi đỗ vào đại học. Là
một sinh viên. Anh sắp tốt nghiệp. Và sẽ lấy vợ, một người đàn bà tuyệt
đẹp đã chờ anh qua suốt cuộc chiến tranh và bây giờ vẫn chờ đợi. Anh
không cải chính những điều người ta nói về anh như thế. Anh chưa đưa
Phương tới đây bao giờ, nhưng nhiều người lính khách quen ở quán này đã
đến thăm anh và đã được anh giới thiệu với Phương. Thật là một ngày đen
tối, cái ngày không may ấy. Tay cảnh sát đã giữ anh sau vụ xô xát cho
rằng bọn lính tráng các người ngứa tay ngứa chân, nhưng quả tình là anh
không ngứa ngáy một cái gì. Và tuy có vẻ là tình cờ nhưng là tình cờ tất
yếu của thời mạt vận. Thời kỳ mà từ đấy bắt đầu địa ngục đời thường,
địa ngục của thời thái bình an lạc. Và địa ngục tình yêu nữa. Một mối
tình dị tính, một mối tình quái ác, đầy tổn thương, làm khô cong trái
tim anh, làm anh ngấm đau từng ngày. Thực chất anh là kẻ nốc ao chứ
không phải là hắn. Hôm đó anh ngồi khá khuya, nhâm nhi cốc cà phê thứ
hai. Các bạn ngồi cùng bàn đã về hết. Chỉ còn Vượng tồ say khướt đang
ngồi rền rĩ hát. Trung sĩ chủ quán đang ngồi trong quầy tính toán sổ
sách. Kiên ngồi ở chiếc bàn gần quầy để tránh dây dưa chuyện trò với
Vượng. Bọn họ đi cúp tới. Dựng xe, không khóa, có lẽ cũng chỉ định tạt
vào uống cà phê thôi. Ba bốn người gì đó. Anh không nhìn kỹ. Họ ăn mặc
diện, trông không có gì dữ tợn, thậm chí thoáng tưởng như là các ca sĩ
của băng nhạc nhẹ, nhưng là loại người mà ta chẳng nên dây. Đó là những
tên ác ôn kín đáo, trác táng và nguy hiểm, đặc biệt là khi chúng ở vào
cùng cỡ tuổi ba mươi như Kiên khi ấy. Những tên như thế thường có vũ
khí, không súng thì dao, và dẫu không vũ khí, chúng cũng là những con
thú. Kiên biết. Tuy nhiên bọn họ vào đây để uống cà phê, nói chuyện rì
rầm gì đó với nhau.
Nhưng tiếng hát ầm ĩ của
Vượng làm họ khó chịu. Họ có quyền phản đối với chủ quán, họ có quyền
quát bảo kẻ say hãy im miệng. Song tên ngồi gần Kiên nhất, một tên mặt
bẹt, đầu bé hình củ cải bận áo da đen lại đưa ra một nhận xét:
-
Đồ rác rưởi, một thằng cha đầy lòng tự hào chiến thắng đấy. Thật đúng
là thắng lợi của bọn dã man, bọn ăn lông ở lỗ, bọn nhà quê An Nam mít
đối với văn minh và tiến hóa. Đồ rác rưởi?
- Tôi
cho rằng: Anh mới là đồ rác rưởi khi nói như vậy - Kiên bảo hắn thế một
cách từ tốn. Tên áo đen đứng bật dậy. Kiên nhìn hắn. Một vẻ ngạc nhiên
lướt rất nhanh trên khuôn mặt hắn. Môi nhếch lên như suýt bật cười. Hắn
huýt một tiếng sáo và nheo mắt lại. Chủ quán bước vội ra lên tiếng can.
Và đám bạn tên áo đen kéo hắn ngồi xuống. Họ không có ý định đến đây để
đánh nhau. Nhưng ngồi xuống một lát tên áo da đen nhổm dậy, bước tới,
kéo chiếc ghế ở bàn Kiên, và ngồi xuống đối diện với anh.
Hắn nói:
-
Anh bảo tôi là đồ rác rưởi? Cứ cho là như thế. Còn anh. Rất có thể anh
là một nhân vật đáng kính. Hôm thứ bảy tôi được vinh hạnh nom thấy anh ở
rạp Tháng Tám. Anh bạn nhớ lại mà xem, có lúc nào người đẹp của anh bối
rối khi vào rạp? Đấy là vì nàng thấy tôi nhìn anh chị. Anh có thể không
là đồ rác rưởi, nhưng cô tiên sánh đôi với anh hôm đó thì cho phép được
nói thật: Đó là…
Kiên nhấp một ngụm cà phê, anh
để điếu thuốc hút dở xuống gạt tàn. Anh nghĩ rằng mình nên kìm chế.
Nhưng anh thấy rõ là tim mình đã đập gấp và miệng khô đắng.
-
Nếu anh cho tôi là thằng bịp bợm, ngày mai đúng tám giờ tối tôi sẽ đưa
thằng đã ngủ hầu nàng lượt sau cùng trước khi nàng đến với anh để trình
anh mọi chi tiết. Tôi nghĩ là tôi tử tế và thân tình mặc dù vô cớ bị anh
làm nhục. Xin nói để anh biết rằng tôi chẳng những là lính mà còn từng
là cán bộ chỉ huy cơ đấy. Cái thằng Vượng kia tôi còn lạ gì. Thế nào,
tám giờ sáng mai nhé? Còn nó, xin nói để anh biết: Những con đàn bà mắt
hơi hiếng hiếng lại đong đưa tất tật đều là phường trụy lạc nhất đời, dù
cũng chẳng có cái giống gì đáng yêu hơn chúng… Nhưng đến cỡ như con
Phương thì…
Kiên hất cốc cà phê nóng vào mặt hắn. Thằng cha không cựa quậy. Cả tiệm, trừ Vượng đang ngáy, đều sững sờ lặng phức.
- Tao đợi mày ở chỗ vòi phun! - Kiên bảo - Chẳng cần tới mai đâu, đồ súc vật hôi hám?
-
Được được. Tên áo đen lau cà phê trên mặt, đứng dậy - Tao là Hưng. Mày
cứ về hỏi con Phương về tao. Nó biết đấy. Tao đã dạy nó thanh nhạc hiện
đại và dạy nó bùm chung…
Thành ra Kiên không đợi
hắn ở chỗ vòi phun nữa mà nện ngay ở cửa tiệm. Không ai dám can thiệp
cả, kể cả mấy tên trong hội. Hết đấm lại đá rồi ghế phang vào đầu, như
điên, như cuồng. Kiên kéo thân hình tả tơi bê bết máu của ca sĩ Hưng ra
vỉa hè, giúi cái mặt bị đánh vỡ của hắn xuống cống. Lúc cảnh sát tới,
Kiên định đấm lại họ. Anh hoàn toàn mất trí… Sáng hôm sau anh được thả
ra. Công an không muốn làm dữ. Về nhà, Phương sang với anh ngay. Nàng đã
biết mọi chuyện. Kiên im lặng một lúc rồi nói rằng, thật khó hiểu vì
sao Phương lại biết tin mau như vậy. Phương thản nhiên một cách cố ý,
trả lời:
- Vì bạn của Hưng tạt qua nhà báo cho em hay.
Phải
đến vài ba năm Kiên mới trở lại tiệm này. Tay chủ tiệm nhận ra anh
ngay, tỏ ra rất vui. Hắn nói đã đọc truyện ngắn của anh đăng trên báo và
mừng rằng trong đám bạn cựu binh ngày xưa có một người nổi tiếng như
anh, thành đạt như anh…
Ngọn đèn xanh mờ ở đầu
cầu Thê Húc đã lặn mất. Mưa dày hơn. Cô bạn cùng bàn đã ngủ gục xuống.
Kiên đứng dậy, trả tiền rồi đi ra cửa. Anh nhìn đồng hồ. Đồng hồ chết.
Có lẽ gần sáng rồi vì có tiếng leng keng tàu điện.
Ở
mé đường vòng Hàng Gai - Hàng Đào, một cái tàu điện chạy nhô ra, bánh
nghiến kèn kẹt, ầm ầm rung rít, va đập loảng xoảng như một cái bao chứa
đầy sắt vụn, đổ chuông trước khi vào bến đỗ ở ven hồ. Lửa tóe rèn rét
trên dây. Ngọn đèn màu vàng ủng như gắn ở ngay bụng người lái tàu già
vận áo bông. Chiếc tàu thảm hại, hôi nồng, sặc mùi rỉ sắt. Ông Huynh,
chủ căn hộ ở ngay bên trên buồng Kiên làm nghề lái tàu điện. Giờ làm
việc của ông thất thường. Có hôm ông đi rất sớm, lúc trời chưa sáng. Có
hôm ông bước xuống cầu thang vào sau bữa cơm trưa, xách trên tay chiếc
cặp lồng đựng bữa tối. Ông không cao gì lắm nhưng vì quá gầy nên trông
lênh khênh. Cổ lộ hầu, vai hẹp, lưng lòng khòng, luôn nhìn xuống như sợ
giẫm phải bóng của mình. Ba người con của ông đều nằm lại trong chiến
tranh. Anh con thứ là Toàn. Hy sinh gần như trước mắt Kiên. Ông Huynh
không biết chuyện đó. Vợ ông bị liệt khi báo tử đến người con cuối cùng.
Vợ chồng ông sống nghèo khổ, câm nín, trống rỗng suốt bao năm trời. Ông
Huynh vẫn ngày ngày đi lái tàu điện. Đôi khi ông trò chuyện với Kiên.
Có lần ông bảo với Kiên rằng, giả tỷ như con ông, thằng Toàn còn sống
thì Phương đã là con dâu của vợ chồng ông. Từ lúc chúng mày còn nhỏ, bác
gái mẹ thằng Toàn đã nhắm sẵn thế, con bé thật đáng yêu, ông Huynh bảo
vậy.
Hồi xưa, bọn trẻ con trong chung cư thỉnh
thoảng vẫn được ông Huynh cho đi rong một tua tàu điện. Tàu toa dạo đó
còn tươm chứ chưa quá tã như bây giờ. Cả lũ thường xúm ở đầu toa xem ông
lái tàu. Lắm khi ông cho chúng quay tay phanh và đạp chuông. Tàu dong
qua bao nhiêu phố rồi rời khỏi nội thành. Đường ray ngập dần trong cỏ và
rác, chầm chậm trôi qua những vùng tẻ ngắt và bụi bặm của ngoại ô.
Năm
ấy, Kiên cùng Phương, Toàn và Sinh học cùng một lớp, một tổ, thân nhau
lắm. Bến Cầu Giấy tối om, yên ắng. Tiếng ve sầu râm ran và tiếng ếch
nhái như sôi lên trong tối hè oi ả. Ông Huynh và mấy anh - “xơ vơ” ngồi
uống nước ở quán ven đường đợi khách. Trên khúc đường ray phụ có một toa
tàu hỏng bị bỏ chơ vơ trong bóng tối. Tụi nhỏ tranh thủ chơi trò ú tim.
Phương nắm tay Kiên kéo chạy xéo sang toa tàu bỏ không đó. Cả hai đứa
đều run, không dám biết rằng điều gì sẽ đến. Phương nhảy thoắt lên bậc,
co mạnh Kiên nhảy theo, rồi lập tức lách vào giữa toa tối đen. Kiên lạnh
toát người, thở, tim loạn xạ đập. Hai cánh tay trần của cô bé quàng lên
cổ thằng bạn trai cùng tuổi mười ba, và tới tấp cô hôn lên má, lên môi,
lên mắt bạn trong nỗi cuồng khấu trẻ thơ nhưng ngây ngất tột cùng.
- Chúng mày đi đâu vừa nãy? - Toàn chặn hai đứa lại ở cửa toa.
- Đi trốn chứ đi đâu? - Phương leo lẻo.
- Nói dối! - Mắt trợn trừng, giọng Toàn vỡ ra, ngụt ngạt - Chúng mày làm gì, tao thấy, tao biết, tao…
- Đừng làm ầm lên Toàn? - Phương thì thào vội vã - từ rày sẽ chơi vợ chồng, mày muốn chơi thì không được mách.
- Làm gì có vợ chồng ba người?
- Đồ ngốc, thế mà cũng đòi. Hai táo ông với một táo bà thì sao? Tao cấm mày hớt lẻo đấy.
Lúc quay về phố, Phương kéo Kiên lảng vào ngồi trong toa. Toàn vẫn đứng gần chỗ bố. Chợt Kiên nghe ông Huynh hỏi gắt:
- Sao thế? Chúng mày vừa đánh nhau hả?
- Không ạ - Toàn đáp lí nhí.
- Thế thì sao mày lại khóc?
Kiên
sợ, nhìn sang Phương. Cô bé nhìn tránh đi, mặt hơi tái, nói nhỏ: “Kệ,
đừng sợ?”, và như người lớn, cô buông một tiếng thở dài. Kiên rùng mình.
Gợn hồi ức tí hon và xa vời không đâu ấy cứa vào lòng làm anh đau đớn
nhăn mặt. Đờ đẫn, anh cúi đầu và day mạnh hai bên thái dương, như thể
muốn dùng tay cắt ngang dòng ký ức, không để cho nó cuốn mình trượt xa
thêm nữa. Nếu không kịp ngưng thì chỉ lát giây nữa là anh đã phải nhớ
lại cái chết của Toàn vào buổi sáng đẫm máu ấy, trước cửa số 5 sân bay
Tân Sơn Nhất. Hai đứa tình cờ nom thấy nhau ở gần Lăng Cha Cả. Toàn là
xạ thủ 12 ly 7 trên chiếc K63 chạy sau. Còn Kiên trinh sát bộ binh, bám
trên chiếc T54 đầu đàn. Song chỉ mười lăm phút sau khi nhác thấy nhau,
gọi tên nhau… phát ĐK của bọn dù trượt khỏi tăng đầu đàn, trúng bụng
chiếc thiết giáp chạy chếch phía sau…
Nhưng, đúng
là không thể quên được gì hết, bởi vì đau buồn là một thể nguyên khối
suốt cuộc đời, liền một mạch từ thuở thơ ấu, qua chiến tranh đến bây
giờ. Và có lẽ để nhận lấy đau khổ, mà người ta được sinh ra ở trên đời
này, cũng vì đau khổ mà người ta phải sống, phải mưu cầu hạnh phúc, phải
đến với tình yêu, với nghệ thuật, phải tận hưởng phải chịu đựng đến
cùng cuộc sống…
Gần sáng, Kiên lần về được tới
nhà, ngôi nhà cũ kỹ trên góc đường Nguyễn Du đầy mưa gió. Anh ngước nhìn
ô cửa sổ hồng hồng trong màn mưa và buông kín rèm mà ở sau đó là căn
phòng không người, không còn nàng nữa. Nàng đã bỏ đi vội vã. Vội vã như
thế đấy. Đơn giản như thế đấy.
- Phương, anh yêu em… Em có biết rằng anh yêu em tới độ nào không?
Vịn
tay vào bờ tường, anh âm thầm thốt lên như bao lần đã thốt lên như thế,
mắt mờ lệ và bất ngờ cảm thấy nghẹt thở nỗi lòng tái tê rạn vỡ. Khóc
được thì sẽ dịu lòng người, người ta bảo thế. Song cũng từng khóc rồi.
Dấm dứt, ngốc nghếch. Có ích gì? Nhiều buổi tối, đứng bên cửa sổ nghe
tiếng ồn ào của cuộc vui bên buồng nàng, lòng dạ bị trí tưởng tượng ghen
tuông hành hạ, Kiên tự hỏi có nên lần sang đấm gục, đấm bất kỳ ai trong
dám khách khứa rồi thì đập tan cái đàn của nàng ra. Nhưng cả uống say
mèm, cả dẫu có đánh lộn cũng sẽ không thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Nỗi đau
ngày xưa làm sao mà nhổ nổi. Cái miệng vết thương lòng kinh tởm ấy lúc
nào cũng định banh miệng. Những cay đắng tủi hổ, những hồi ức trần trụi
đè bẹp ý chí của anh. Đè bẹp mãi mãi… Giờ đây dù có ra đi mỗi người mỗi
rìa thế giới thì trong tâm tưởng anh, Phương vẫn là toàn bộ cuộc sống
tinh thần. Và nào chỉ là tinh thần. Hằng đêm, anh miệt mài mê mẩn, chìm
trong cái vuốt ve vô tận của mộng mị. Ngay cả khi bên cạnh có một cô gái
đang trở mình áp sát vào anh trong giấc ngủ thì nhắm mắt lại anh vẫn
khắc khoải nhớ tới Phương, nhớ tới tấm thân đẹp đẽ trắng ngần, nhớ hương
thơm ngây ngất quyến rũ của làn da, nhớ cặp môi mọng ngọt như trái
chín, nhớ quầng thâm mệt mỏi quanh đôi mắt nâu những đêm nàng âm thầm
bải hoải. Mọi cuộc dan díu đều không thể làm vơi nàng. Mùi da thịt phụ
nữ chín rũ chỉ làm anh khao khát một mình nàng. Tình dục vốn đã ngủ say
và những nồng cháy của xác thịt tưởng đã bị dập tắt hẳn từ lâu lại như
bắt lửa bừng rực lên với hình bóng nàng nhập vào anh hằng đêm giữa những
giấc mơ. Tất cả những nhân vật nữ mà anh mê say trong sáng tác của mình
rút cuộc vẫn chỉ là những giấc mơ về Phương.
Trong
mơ, trí nhớ khuấy đảo, lật tung lên tất cả, lần tìm trong đổ nát niềm
đam mê đau buốt, vô hạn độ, vô bờ bến của anh đối với nàng từ tận những
thuở hồng hoang xa tít mù tắp thời trai trẻ. Những hồi ức đê mê choáng
ngợp nhục cảm ấy làm xiêu đảo hồn phách những giấc mơ của anh. Và mặc dù
chỉ là trong mơ thôi, nhưng chính ái lực của lòng đắm say không đổi đối
với nàng đã duy trì cho anh ngọn lửa của tình yêu cuộc sống. Ký ức tình
yêu và ký ức chiến tranh kết thành sinh lực và thành thi hứng, giúp anh
thoát khỏi cái tầm thường bi đát của số phận anh sau chiến tranh.
Nhưng
đúng là chỉ hoàn toàn trong mơ chỉ trong mơ mà thôi. Khi đã một bước
rời khỏi cõi chiêm bao thì thế là thôi hết tất cả, lập tức lại nỗi cô
đơn rã rời tan tác, tất cả lại trôi trượt ra xa; và con người anh lại
phải trở về với hình hài một gã đàn ông tật nguyền dị mọ, đã luống tuổi
và đã hết thời, trống rỗng và đại bại.
Quả thực là giá mà ngay sau chiến tranh số phận chịu cho trước một lời mách bảo.
“Giá
mà chúng mình xa được nhau!” - Đấy hầu như là câu cửa miệng của duyên
nợ hai người những năm gần đây. Và: “Giá mà chúng mình mãi mãi chỉ là
bạn.”
Tất nhiên, đã muộn rồi. Mối tình đã trở
thành một cái gì vô phương cứu vãn trong đời. Cho nên nếu đã ước như thế
thì phải nói là giá mà không lớn lên ở bên nhau, giá mà không có tình
cảm mến thương âu yếm của tuổi học trò, không cùng nhau một thời thơ ấu,
một lứa bạn bè. Có biết bao nhiêu cánh cửa như thế mà lẽ ra nếu kịp
khép lại thì những bước đi vu vơ của tuổi trẻ đã không thể đưa số phận
mối tình trôi xa, cuốn nó tới vực thẳm này. Chẳng hạn nếu mà hồi ấy, khi
nhập ngũ rồi anh không gặp lại Phương nữa. Anh cứ một mạch tuốt vào
Nam, còn Phương thì đằng thẳng vào đại học…
Hồi
ấy, sau ba tháng luyện quân ở Nhã Nam, tiểu đoàn 36 tân binh nhận lệnh
lên đường vào B ngay mà không theo thông lệ mười ngày phép cho bộ đội,
không có cả thời gian an dưỡng. Để bù lại lính tráng sẽ ngồi tàu hỏa vào
tận Vinh. Bấy giờ, Giôn-xơn tạm ngừng ném bom để rền dừ, quân ta thừa
cơ tiến binh. Từ Yên Thế tiểu đoàn hành quân như gió cuốn, khi về tới ga
Văn Điển thì hóa ra còn dôi ra ba giờ đồng hồ để chờ tàu quân sự. Cả D
có mỗi chục thằng lính Hà Nội mặt đứa nào đứa nấy… Lưỡng lự mãi rồi tiểu
đoàn trưởng cũng cho mấy thằng ở nội thành và Thanh Trì được hưởng hồng
phúc. Lúc bấy giờ là bốn giờ chiều hạn tới sáu rưỡi phải có mặt để lên
tàu. Chậm một phút coi như đào ngũ. Có thằng rú lên vì sướng quá. Kiên
chạy lao ra đường cùng mấy đứa bạn bám đuôi ô tô tải. Qua ga, ô tô chưa
kịp giảm tốc, nhảy đại xuống, ngã trẹo chân. Thế là phải khập khà khập
khiễng. Thật đúng là chẳng có bút lực nào tả nổi tâm trạng của Kiên trên
đường phi về phố nhà, song cũng chẳng bút nào tả xiết cảm giác thất
vọng, đất sụt dưới chân, khi anh vào tới trong sân. Đi sơ tán cả rồi.
Với những cửa sổ đóng chặt lại bằng gỗ ván, ngôi nhà mù lòa nhìn anh.
Khoảnh sân trước nhà chiều nào cũng đầy trẻ con và góc sân nơi máy nước
thì các bà các chị, giờ đây trống rỗng, vắng ngắt, và lạnh lùng biết
bao. Trên dây phơi và trên cặp xà lệch lòng thòng những mảnh giẻ rách
như cố ý chào đón anh bằng sự thảm thương.
Chỉ có
vài gia đình có người ở lại Hà Nội. Hầu hết các phòng đều khóa trái.
Những hàng chữ viết trên cửa. Vợ chồng, con cái, mỗi người mỗi phương
dặn dò nhau, nhắn nhe nhau trên hòm thư ngỏ ấy. Ba tháng trời anh không
được một lá thư nào của Phương, giờ đây, trên cánh cửa sơn xanh, im ỉm
khóa bằng một khóa đồng to tướng anh cũng chẳng thấy một dòng nào để
lại. Phòng anh thì Phương giữ chìa. Anh đi lên gác ba. Không một bóng
người. Hành lang tối om. Bụi bặm. Mạng nhện. Sự tàn phá âm thầm của cô
tịch. Anh muốn viết lại cho Phương mấy dòng. Nhưng không giấy bút. Cầu
thang kêu răng rắc. Anh xuống tầng trệt. Ánh hoàng hôn huy hoàng màu
hồng nhạt đã tắt rồi.
- Trông ai về kia! - Một giọng đàn ông đĩnh đạc vang lên - Chào người chiến sĩ?
Đó
là Huấn, anh trai của Sinh, thợ điện ở Yên Phụ. Họ bắt tay nhau. Kiên
nói thì giờ gấp quá không vào thăm anh chị được. Huấn nói Sinh đã vào
đại học. Kiên hỏi thăm các gia đình khác. An toàn cả, nhưng bắt đầu gian
truân rồi, các gia đình chia năm xẻ bảy.
- Không hiểu nó có dám ném bom Hà Nội không?
Huấn
hỏi Kiên. Không nghe ra Huấn hỏi gì. Anh im lặng. Anh chợt hiểu, lòng
mình đã hoàn toàn thờ ơ với tất cả những gì không thuộc về nàng, không
thuộc về tình yêu mênh mang choáng ngợp cuộc đời anh. Anh chào, chia tay
với Huấn một cách lãnh đạm và không nhắn một lời nào với ai. Không nói
với Huấn rằng mình đi B. Anh đi, không ngoái nhìn ngôi nhà. Chợt anh
nghe tiếng chân Huấn đằng xa.
- Này, - Huấn đuổi
theo, đặt tay lên vai Kiên, nói - Sao lừ đừ thế, chú em? Suýt thì anh
quên là mày với cái Phương gắn nhau. Mày buồn vì không gặp nó hả?
- Vâng, cũng buồn thật, thôi thì nhờ anh…
-
Ôi dào không phải nhờ, mày ra ngoài ga ấy. Nó nhận giấy gọi vào đại học
trước thằng Sinh em tao nhưng vì bà Đức, mẹ nó mất… ô, mày không biết
gì à? Bà ấy xuất huyết não, - Huấn dài dòng - Tao vừa thấy nó ba lô rời
khỏi nhà một giờ trước với một thằng bạn nom lạ hoắc…
- Ra ga à anh?
- Thì chắc thế. Mày bảo còn đi đâu với cái ba lô. Nó chỉ bảo: anh nom nhà hộ nhé, em lên trường đi học đây.
- Trường nào hả anh? Mà đi tàu nào? Ngộ nhỡ đi xe hàng?
-
Ờ tao cũng chả biết, chả hỏi. Hỏi ai bây giờ. Thằng Toàn, thằng Sinh
đều lên trường chúng nó rồi. Nếu nó đi ô tô thì chịu. Nhưng mà đi tàu
hỏa thì… cứ liều ra ga Hàng Cỏ mà tìm Kiên ạ. May ra, để anh đèo mày.
- Thôi. Cảm ơn anh! - Kiên kêu to - Tạm biệt! Tạm biệt mọi người hộ em…
Kiên
xồng xộc đâm bổ ra ga. Hùng hục lấn chen để vào được trong sân ke. Tàu
đến, tàu đi. Mà đã 5 giờ hơn rồi. Thật là cả một cuộc rối loạn tơi bời
như vỡ chợ, như động đất. Các toa tàu muốn bể vì sức lèn của khối người.
Mỗi cửa toa dường như có tới một trăm cái mặt người dính sát vào nhau.
Người ta bám kín trên nóc toa. Ngồi cả trên tăm ông. Cửa lên xuống thì
không thể nào lên xuống được nữa rồi, thiên hạ tranh nhau lao lên và lao
xuống ở cửa sổ. Sân ke cũng đầy ặc người, hàng hóa. Nào biết Phương có
ra ga không? Mà ra ga thì tàu nào: Thái Nguyên, Lào Cai hay tàu đường 5?
Và dù biết rõ cả tàu, thậm chí cả toa, liệu có nhìn thấy nổi một ngón
tay của Phương không trong sóng trào chen lấn này?
Tìm
tìm, ngó ngó, gọi bừa tên Phương lên. Chẳng ích gì Kiên cũng chẳng buồn
nhìn nữa. Chán nản tột độ, anh cảm thấy như bị bỏ rơi giữa dòng thác lũ
này. Đoàn tàu Thái Nguyên đậu ở ray số 1 sắp chuyển bánh. Kiên đi dọc
theo nó về phía cuối. Đoàn tàu như con trăn bị đàn kiến rừng chôn vùi.
Biển người như muốn níu giữ không cho tàu chuyển bánh. Tiếng ầm a của
khối người át cả tiếng còi. Một người nào đó huých vào Kiên. Một bà chạy
vượt qua, đòn gánh suýt quệt vào mặt anh. Kiên đi sát vào thành toa.
-
Mau, Mau lên! Tàu chạy rồi, mau lên. Liệng ba lô lên, kìa! - Một gã
trai chồm lên thành cửa sổ, hé qua đầu Kiên - Dào ôi! Mất chỗ tốt bây
giờ, Phương? Còn nhìn ai nữa thế, hả Phương?
Kiên
hững hờ đưa mắt nhìn sang trái rồi sang phải và “Phương”, anh bật thốt
lên, đau nhói trong lồng ngực. Sân ga điên đảo đột nhiên chỉ còn lại một
người đang đứng cách Kiên mấy bước, mắt mở to nhìn anh - “Phương!” -
Kiên thì thầm lặp lại.
Đoàn tàu giật mình, bị
thúc lùi lại rồi rướn lên, từ từ miễn cưỡng chuyển bánh. Phương vẫn đứng
yên, ba lô trễ một bên vai, tay buông thõng, những sợi tóc mai rủ xuống
má bay bay nhè nhẹ. Từ cửa sổ một người bổ nhào xuống chộp lấy cổ tay
Phương “- Điên à?”. Anh ta hét. Phương giằng ra, bước lùi lại, lắc nhẹ
vai, tái mặt đi, nhưng mỉm cười, nói nhanh:
- Em ở lại mấy hôm. Anh lên trước đi! Nhớ lấy hộ em cái xe đạp? Thôi…?
Chàng
trẻ tuổi chết sững mấy giây. Thình lình anh ta ngoắt lại, miệng méo
xệch, mắt loáng ánh điên khùng. Tưởng rằng sẽ nhảy bổ vào Kiên, song
chàng sinh viên vươn tay chụp lấy tay vịn ở cửa toa khách cuối cùng chạy
chạy theo rồi đu vọt người lên.
Dường như để chờ cho đoàn tàu chạy khuất rồi Phương mới bước tới, nhẹ nhàng đặt tay lên vai Kiên, nói khẽ:
- Chúng mình ra ngoài đi. May thật. Chỉ chút nữa là không gặp được nhau.
Lạ
lùng là trái tim Kiên trấn tĩnh được rất nhanh. Nỗi xúc động đột ngột
như là vội vã lắng ngay xuống, Phương đã mất một chuyến tàu: lỡ một
người bạn có lẽ là rất tận tình, còn anh thì sắp sửa bỏ mặc nàng một
mình ở sân ga. Kiên hoang mang cười, nụ cười nhợt nhạt. Phương lại hỏi
gì đấy nhưng anh không nghe ra. Anh đỡ lấy chiếc ba lô của Phương và hai
đứa dắt nhau lách qua đám đông.
- Về nhà mau. Ăn
cơm mau. Đi chơi nhá. Tối nay không mất điện với không báo động đâu, -
Phương liến thoắng - Nom anh mặc đồ bộ đội hay thật. Hiền hẳn, nhưng hơi
quê… Cơ mà sao thế?
- Số là, nghĩa là, Phương ạ… - Kiên giải thích một hồi. Lúng túng muốn tìm lời nhưng lưỡi va vấp. Và giọng anh lạc đi.
Cho
đến lúc này ý nghĩa thật sự của sự chia lìa, của cả việc vượt hàng trăm
cây số, có lẽ hàng ngàn nữa, để vào Nam mới thực sự cắt cho anh một
nhát vào lòng. Sự bất lực và nhỏ bé của thân phận, của nỗi niềm riêng tư
của một hai con người giữa biển đời này, có lẽ cũng là lần đầu tiên anh
nhận thấu được vào tận tim. Kiên nói đứt đoạn. Nói không ra hơi. Song,
Phương cũng hiểu.
- Đành vậy. Giá mà về thắp được
nén hương trước bàn thờ cha. Và bàn thờ mẹ em nữa… Mà đừng lo, Kiên.
Kệ. Sáu rưỡi thì chả kịp rồi nhưng bảy giờ tàu mới chạy. Ta đi xích lô.
- Thôi. Mình chạy maratông còn hơn. Ai lại đi ngồi xích lô.
- Thế còn em? Anh cũng bắt em chạy à?
- Không… Nhưng.
Phương gọi xích lô. Mặc cả rất nhanh. Hai mươi phút. Sớm được phút nào thêm hai hào cho phút ấy.
- Lên anh! Ngượng gì. Sĩ quan em thấy họ còn ngồi nóc toa nữa là.
Nhưng
qua Vọng thì báo động. Kiên nóng ruột như cào. Anh có thể chạy bộ.
Nhưng không đời nào. Nóng ruột và lo sợ vô cùng, song một phút bên
Phương lúc này đáng để đổi cả thế giới. Trong khi người đạp xích lô hớt
hải chạy biến đi tìm hầm, anh giữ Phương ngồi lại trên xe. Phố xá tối
câm. Thời gian nhích từng phút quá chậm nhưng cũng quá nhanh.
- Hay tối nay về nhà đã, Kiên… - Phương thì thầm - Đằng nào cũng lỡ rồi. Kiểu này còn chán mới báo yên.
- Về đi? Nhá?
Kiên im lặng lắc đầu. Thở dài. Phương ngồi thẳng lên, gỡ mình khỏi vòng tay Kiên, nói khẽ:
- Nếu anh quyết thế thì chẳng chờ được đâu. Phải mượn tạm cái xe này mà đi ngay thôi.
- Nhưng…
-
Anh cứ đạp biến đi cho em, xá gì. Mà cũng nên cho cái anh chàng xích lô
nhát như cáy này một bài học quân sự. Với lại, như các áp phích vẫn
viết: tất cả cho tiền tuyến kia mà!
Kiên bật
cười. Ừ, phải. Len lén, anh nhảy lên yên, lẳng lặng đạp đi. Vừa khỏi
Đuôi Cá thì trong thành phố báo yên. Chắc là hình dung ra vẻ mặt lúc này
của tay chủ xe, Phương cười rũ. Bây giờ nhớ lại cái cuốc xích lô ấy kể
cũng vui vui: mặc dù kỳ thực nó cũng buồn như mọi kỷ niệm khác giữa hai
đứa thôi.
Tối ấy, rốt cuộc, đến Văn Điển trễ mất
mấy phút. Đoàn tàu đã chuyển bánh. Tiểu đoàn đã xuất phát. Sân ga tối
om, vắng ngắt. Bàng hoàng Kiên sững người đứng lặng. Nhân viên nhà ga
bảo rằng: Chuyến tàu có thể sẽ dừng chốc lát ở Đồng Văn hoặc Phủ Lý gì
đó. Hành trình thì không biết, có biết cũng không được tiết lộ. Tàu quân
sự. Họ bảo thế.
- Một đều - Phương đùa, nhưng thấy vẻ thất thần của Kiên, nàng khẽ khàng an ủi:
-
Đừng vội thất vọng, anh. Ta vẫy xe đi nhờ các ga sau, đón đầu đoàn tàu
vậy. Thời chiến mà, thiếu gì cách xử trí mà lo, Kiên. Bây giờ hẵng đi
kiếm cái gì lót dạ đã. Em đói lắm, mà anh nom cũng mệt lả ra rồi.
Tiểu
đoàn 36 tân binh, tiểu đoàn mà Kiên đã bị tụt lại hôm ấy ở ga Văn Điển
hành quân bằng tàu hỏa đến ga Văn Trai thì bị bom. Thương vong nặng nề.
Tiểu đoàn trưởng cũng bị giết trong trận không tập ấy. Chuyển sang hành
quân đường bộ. Vào đến Cự Nầm lại bị B52 chần. Ca-nô chìm, chết vãn cả
đội hình. Đáng lẽ đi B dài: vào sâu trong B tiểu đoàn đã cạn sức chiến
đấu - phải phân tán ra làm quân bổ sung cho mặt trận đường 9. Mấy chục
con người tung vào con lộ lửa ấy thật là như gió lùa nhà trống… Mãi đến
hòa bình trên chuyến tàu Thống nhất trở ra Bắc, Kiên mới biết về số phận
của tiểu đoàn nhờ tình cờ cùng toa với Huy, tiểu đội phó của anh hồi
tân binh. Huy bị mù, mặt đầy vết sẹo bỏng nhưng chẳng hiểu sao Kiên nhận
ra ngay và nhớ cả tên nữa. Huy thì tất nhiên đã quên Kiên. Đã mười năm
rồi. Mười năm dằng dặc còn dài hơn cả một đời người.
-
Trong cái rủi có cái may Kiên ạ, - Sau một hồi hàn huyên, Huy bảo - Nếu
không bị tụt lại tối ấy ở Văn Điển, không chừng cậu chết rồi cũng nên.
Cậu biết không, cả tiểu đội đều chết ở Văn Trai, ngay loạt bom đầu.
Riêng tớ còn sống là do tình cờ đang ở một toa khác. Tàu chạy suốt đêm.
Đến sáng vẫn gắng chạy. Người ta tưởng bọn Mỹ còn hai ngày nữa mới đánh
trở lại. Ai ngờ… Hồi ấy cậu có đào ngũ thì rồi cũng chẳng ai biết. Mà
không chừng người ta báo tử cậu rồi cũng nên, Kiên ạ. Thế, còn cậu bị
tụt lại, rồi sao nữa?
Còn Kiên…
Tối
hôm ấy, khi hai đứa ngồi với nhau trong quán ăn ven đường. Kiên đã nghĩ
hay là: thôi tối nay hai đứa về nhà. Về với nhau. Chứ đi nhờ ô tô tải
tới một ga nào đó để đón đầu tàu hú họa thế để làm gì? Nhưng cũng chỉ là
thoáng nghĩ vậy. Phương rủ thì anh lại lắc đầu. Vẫy mãi ô tô mà chẳng
được. Không xe nào buồn ngó tới Kiên. Vẫy chán tay chỉ hứng được bụi và
khói xả.
- Để em phanh lại cho, - Phương nãy giờ
ngồi lặng im trong một cái lều quán ở vệ đường, bước ra, tới bên Kiên
bảo - Em vẫy chắc được, luật giao thông thời chiến ưu tiên phụ nữ lắm…
Nhưng thế này nhé: Cả xe ra xe vào em đều vẫy. Chiếc đầu tiên dừng lại,
bất kể vào hay ra gì mình cũng lên, đồng ý không?
- Nhưng…
-
Lúc nào cũng nhưng. Anh sợ phải trở về Hà Nội với em đến thế à? Thật
là… Xét cho cùng, anh ngại gì. Có phải lỗi anh đâu. Tại đế quốc Mỹ đấy
chứ và… tại em em mà. Thôi được?
Từ xa ánh đèn
pha hình nón như khoan vào bóng tối đặc sệt bụi mở lối cho cỗ xe tải đen
ngòm xầm xầm tới. Một chiếc I-pha cao lênh khênh. Đang ấm chân ga
phóng, tưởng rằng sẽ không dừng. Vậy mà nó phanh gật đầu lết bánh khét
lẹt trên mặt đường.
- Xe xuôi về Nam?
Một giọng oang oang từ buồng lái không đèn tối om quát xuống:
- Đi đâu? Đi hóng mát à, hả!
- Vào tuyến lửa, chứ mát mẻ gì! - Phương hét lên như quát giả, rồi lại lập tức dịu giọng - Cho bọn em đi nhờ vào Phủ Lý với anh!
- Xe tớ không vào tới Phủ Lý. Chỉ Đồng Văn thôi, đi không?
- Cũng được!
- Vòng qua cửa bên kia. Mau lên?
Phương
nắm tay Kiên kéo anh nhảy vòng qua đầu xe sang bên phải buồng lái. Tài
xế mở cửa xe và nhoài người ra, đưa tay xuống nhiệt tình:
- Xe cao đấy. Bậc hỏng rồi. Để anh kéo lên, nào.
Kiên sửng sốt, sừng sờ, không kịp hiểu gì hết thì Phương đã ở trên buồng lái.
- Nhưng… kìa Phương!
- Lên đi, anh. Lại nhưng… lên đi?
Huýt
khẽ một tiếng sáo, anh tài kéo cần số. Xe chuyển bánh. Kiên đập mạnh
cửa ca bin. Anh ngồi ngây và cứ lặng đi như thế, anh ngồi im.
- Cám ơn anh, anh tốt quá - Phương lên tiếng.
- Ồ, lại khách khí tiểu tư sản rồi.
- Thì đúng là như vậy mà.
- Ra thế… Này, em vào tuyến lửa thật đấy à?
- Em nghĩ là thế.
- Hoài của?
- Anh nói sao?
-
À, thì nói thế. Nếu quả thật là em vào đó thì rồi em sẽ hiểu. Nhưng sao
lại chỉ đến Đồng Văn? Đồng Văn và cả Phủ Lý nữa, còn xơi mới đến tuyến
lửa cô tư sản ạ?
- À không, đấy là bọn em đuổi
theo tàu đấy. Lên được tàu rồi mới thực sự thẳng tiến… Nhưng liệu xe anh
có vượt trước được đoàn tàu không? Tàu rời Văn Điển lúc bảy giờ.
- Được. Sẽ tới Đồng Văn trước bọn lái tàu của em.
- Liệu tàu có đỗ ga ấy không anh nhỉ?
- Có chứ, em chờ mà nó dám lướt à? Cái phanh nón của em đáng giá đấy.
- Cái anh này trò chuyện vui nhỉ! Đường chiến tranh mà cứ phơi phới.
-
À, thì họ nhà xế mà. Lại xế quốc doanh. Bảo đảm mọi thứ chứ không chỉ
ăn nói đều ăn đứt các chàng tiểu tư sản của em. Rồi em sẽ được thấy
thôi. Chiến tranh này, tuyến lửa này vui lắm. Sung sướng lắm, lãng mạn
lắm!
Ca bin tối om, rực nóng nơi đầu máy. Động cơ
rú rít vật vã. Người lái xe tắt đèn pha chuyển sang đi đèn gầm nhưng
vẫn cho xe lao rất nhanh. Bóng đêm cuồn cuộn rẽ dạt ra. Kiên không còn
hiểu nổi ý nghĩ của mình nữa. Anh ngạc nhiên thấy mình dường như đang
vui sướng: đang âm ỉ mừng rỡ, không phải vì sắp theo kịp đơn vị mà đơn
giản bởi vẫn còn Phương bên cạnh. Và ra sao thì ra. Tuy nhiên lòng anh
thắt lại. Một nỗi lo sợ chưa định hướng được day dứt tâm trạng. Đường
đêm tăm tối, tốc độ cao của xe buộc người lái phải căng thẳng thu mình
vào vô lăng. Anh ta không huýt sáo, không trò chuyện, chỉ thỉnh thoảng
rít lên văng tục, chửi rủa một cái gì đó. Và trong lòng Kiên nỗi lo lớn
lên, giằn nặng. Hình như vì anh mà Phương đang dấn thân vào một tình thế
bất trắc khôn lường. Song, Phương có vẻ khá bình thản. Dưới ánh xanh mờ
của đồng hồ vận tốc, gương mặt nàng như của người đang mơ ngủ hoặc là
đang nghĩ ngợi đâu đâu. Trong những cái xóc chồm chồm, Phương ngồi không
vững, xiêu ngả giữa hai người đàn ông. Đôi khi nàng như vội vã áp đầu
vào vai Kiên, rồi vào vai người lái xe, một cách mệt mỏi và hờ hững. Màn
đêm đột nhiên như được cơi rộng ra. Trăng ló khỏi mây, vạch một vệt
sáng lóng lánh lên khung kính chắn gió.
- Thế là kịp rồi nhé, - Người lái xe chợt nói - Đoàn tàu của các bạn kia kìa! Cũng may ta sẽ đến ga Đồng Văn trước nó mấy phút!
Theo
cái hất hàm của người lái, Kiên nhìn sang bên trái. Theo nền đường sắt
nổi cao lên như một con đê giữa đồng trống mờ mờ ánh trăng nhấp nhô rùng
rùng đoàn tàu đang rồng rắn uốn mình. Nhưng đám tàn lửa từ đầu tàu như
đàn đom đóm đỏ bay tỏa vào đêm tối.
- Mẹ kiếp,
nom lộ liễu ghê cả người! - Gã tài bình luận - Chả cần pháo sáng thằng
phi công có mù nó cũng thấy. Thật là một chuyến tàu liều mạng. Nói chung
lên đường đi đánh Mỹ mà đi tàu hỏa thì không chết trước cũng chết sau?
Phương
phì cười. Và nhẹ nhàng nàng luồn tay vào dưới cánh tay Kiên nắm lấy bàn
tay anh. Họ đan ngón tay vào nhau. Ô tô hãm dần tốc độ rồi đỗ tạt vào
mép đường, nổ máy tại chỗ. Người lái bảo:
- Hết
tiền rồi đấy, xuống đi? Cứ dọc theo ray mà vào ga chứ đừng vào lối cổng…
Mà này, phanh nón của em không phanh được bọn lái tàu, thì hai tiếng
nữa ra chỗ này đợi anh, anh sẽ đưa về Hà Nội nhá! Bây giờ thì chào.
Kiên cảm ơn, rồi bắt tay anh ta và xách ba lô nhảy xuống. Anh đợi để đỡ Phương. Phải gần một phút nàng mới rời đệm xe.
-
Hai tiếng nữa nhớ nhé, nhớ nhé - Gã tài gào lên át tiếng máy, nghe khá
tuyệt vọng - ôi trời ơi, em thơm thịt và co quắp quá! Đừng đâm đầu vào
đất trời điên đảo trong ấy em nhé? Hoài của lắm? Hai tiếng nữa, em nhớ
đấy nhé. Trời ơi.
Một cách tiếc nuối, chiếc xe
tải ư ứ sang số, rời chỗ. Xa xa còi tàu ngân dài vọng tới. Nền đường sắt
rung lên đều đều. Phương dắt tay Kiên chạy lẩn vào trong sân ga. Những
bóng người thấp thoáng. Vừng trăng bị mây nuốt. Kiên bước đi lệt xệt như
bị tụt mất gót. Tràn ngập lòng một khối mịt mù bấn loạn. Anh hoang mang
và rối bời. Nghĩa là rốt cuộc, vẫn từ biệt, vẫn từ biệt, vẫn chia ly.
Nghĩa là…
Nặng nề, anh ôm ghì lấy Phương, hôn lên
má, lên môi, lên vai. Cay đắng tuyệt vọng và nóng rực nước mắt ứa trào.
Một tiếng sấm kéo dài âm vang. Bóng tối của đoàn tàu đổ ập lên, choán
hết bóng tối trên ga. Đầu máy thở phì phì, ầm ầm hãm lại trong đám hơi
mù tỏa ra nóng hổi.
- Ôi hay là em… hay là em… - Phương nức nở.
Tiếng
nàng bị át đi, Kiên dứt mình khỏi nàng. Đoàn tàu đã đỗ hẳn lại. Nhưng
trong những tiếng xì xì ken két của sắt thép và hơi nước không nghe
tiếng ồn ào ầm ĩ của những giọng người. Kiên và Phương đi lần lần dọc
tàu. Một toa sàn, lại một toa sàn nữa. Những kiện hàng chất cao phủ bạt.
Toa nữa, vẫn toa sàn với mấy cỗ pháo. Toa sau là toa đen có mui nhưng
cửa khóa. Ghé nhìn qua kẽ hở thành toa. Chắc chắn là không có người ở
trong.
- Tàu hàng? - Cả hai cùng thốt lên.
Một nhân viên hỏa xa tay xách đèn bão đi ngang qua: Kiên quáng quàng bước tới nắm lấy khuỷu tay người ấy, lập bà lập bập hỏi:
- Anh… anh ơi… tàu quân sự… Đây không phải tàu chở quân hả anh… từ Hà Nội… tàu…
Người kia giơ cao chiếc đèn soi vào mặt Kiên rồi hạ xuống, xẵng giọng nói:
- Anh điên à? Muốn vào tù hay muốn ăn đạn. Hả. Xéo đi? Xéo ngay, không tôi báo công an đấy!
Anh
ta bỏ đi. Phương giữ lấy khuỷu tay Kiên nói nhỏ: “Để yên, em hỏi cho”,
và rảo nhanh. Nàng đuổi theo người xách đèn. Lát sau Phương quay lại.
-
Không may rồi Kiên ạ. Anh ta bảo đoàn tàu chở quân đã qua đây cách 20
phút rồi… Còn tàu này là tàu hàng. Cũng vào Vinh, nhưng vậy đấy, đơn vị
anh đã bứt lên trên rồi…
Kiên buột một tiếng rên
từ lồng ngực, như chóng mặt anh bám lấy cánh tay Phương. Phía xa còi tàu
rúc lên. Các toa dồn nhau rầm rầm. Người ta tăng cường thêm một đầu máy
nữa cho đoàn tàu.
- Hay cứ lên tàu này? - Phương
nói - Cũng vào Vinh. Mà sau tàu kia có hai mươi phút. Đúng đấy. Đi xem
có toa nào hé cửa thì lên không thì bám vào toa sàn cũng được, Kiên ạ.
Đi được thôi. Đừng lo. Đến Vinh, anh sẽ gặp được đồng đội thôi mà.
Lần đến giữa đoàn tàu, hai đứa tìm được một toa đen cửa mở hé.
- Lên toa này? - Phương thì thầm và đẩy mạnh cánh cửa. Đường rãnh kẹt đầy đất. Cánh cửa nặng nề rít lên.
-
Cậu nào đấy. Lách lên chứ sao lại đẩy rộng cửa thế - một giọng khàn
khàn từ ngưỡng cửa quát xuống - Họ đuổi mẹ cả lũ xuống bây giờ. Lên thì
lên đi, đưa tay đây!
- Không cần, anh tránh ra - Phương đáp, đẩy rộng cánh cửa ra rồi leo phắt lên.
- Ái già? Một cô nàng? - Người có giọng khàn khàn như thể nấc lên.
- Phải, anh tránh ra cho người khác lên với chứ? - Phương gắt.
Hai
đầu tàu cùng rúc lên những hồi còi dài, nóng nảy giận dữ. Các phanh hơi
nhả xì xì. Kiên ngớ ngẩn cả người bàng hoàng, lẩy bẩy nhảy lên sàn toa.
- Tàu sắp chạy rồi, xuống đi em! - Anh nói quờ quạng trong bóng tối.
-
Anh muốn bỏ em ở lại một mình đây hay sao - Phương nắm nhẹ cổ tay Kiên,
những ngón tay lạnh và run - Em đi với anh một chặng nữa?
- Không, không được? - Kiên giật mình - Đùa gì vậy, Phương!
Phương bóp mạnh tay anh, lắc lắc:
- Đừng ầm, anh. Em có đùa gì đâu.
Tàu
chuyển bánh, giật mạnh, Phương ngã áp vào Kiên. Cửa toa kèn kẹt đóng
lại. Tối đen, nghẹt thở. Kiên mụ mị chẳng biết nói gì, làm gì bây giờ.
Các đầu dập nối toa rền rền va đập. Tiếng nồi hơi ở đầu máy phì phò thở.
Đoàn tàu đang nâng dần tốc độ.
- Vào trong góc
ấy còn chỗ đấy? - Cái giọng khàn ban nãy lại cất lên - Yên tâm. Cứ ôm
nhau mà ngủ cho đã cuộc đời. Giôn-xơn còn đang nghỉ phép, không quấy đảo
gì đêm nay đâu?
Men theo khoảng trống hẹp giữa
thành toa và những hòm, những bó chất cao tới sát nóc, hai đứa lần mò
vào trong góc. Những cái cẳng chân, cẳng tay nghều ngào thu lại. Tiếng
ngáy; tiếng càu nhàu. “Dịch vào, dịch vào!” - Một ai đấy lè nhè nói -
nhường chỗ cho một chị em, các tướng?
Kiên đỡ
Phương ngồi xuống. Phương ôm lấy anh hôn lên má, ra ý vỗ về. Tóm lại,
nghĩa là sao: Tàu đang chạy và Phương vẫn bên anh, vào Vinh? Trong giây
lát, Kiên nghi ngờ sự tỉnh táo của mình. Toa tàu cũ kỹ, nóc cao, chạy
trên ba đôi bánh xe. Cửa và thành toa rung lên, kêu răng rắc, sàn nảy
lên ở những chỗ nối ray. Gió lùa qua các kẽ ván làm nhạt bóng tối trong
toa. Gương mặt Phương hiện lên trắng trắng. Bờ vai, mái tóc. Cái cổ cao,
mảnh dẻ. Anh đặt môi lên vai nàng. Hôn qua lần vải mỏng. Phương lùa
ngón tay vào tóc Kiên, thì thào:
- Sao anh, sao anh… anh không muốn em đi cùng với anh sao?
Kiên
trào nước mắt. Toàn thân anh trĩu xuống bởi tình yêu, lòng biết ơn, bởi
nỗi lo âu và bởi một hạnh phúc lớn quá sức chịu đựng của tâm hồn. Ngay
sát dưới chân anh sàn toa vỡ rộng, một mình nhìn xuống có thể thoáng
thoáng trông thấy trục bánh, đường ray, tà vẹt. Thành toa cũng hở huếch.
Gió tràn ngang đoàn tàu mát rượi hắc nồng hơi nóng. Mùi đất. Mùi các
đầm nước. Mùi khói và bụi than khô khét. Chuyện xảy ra như tự nó đến,
ngoài ý muốn ngoài lý trí.
- Chúng mình ở bên nhau như thế này đêm nay kể cũng lạ lùng thật nhưng không thể nào khác được phải không, Kiên?
Tiếng
bánh sắt lăn trên đường ray dồn dập. Những cột đèn hiệu. Các nhà ga
xép. Những đám cây cối trôi qua lươn lướt. Và thỉnh thoảng là tiếng rền
vang như sấm của một đoạn cầu ngắn ngủn. Đêm tối chiến tranh mênh mông
bao phủ miền châu thổ. Những ý nghĩ và tình cảm rồ dại bật dậy trong
lòng Kiên: Thôi thì vứt bỏ tất, không có đại đội, không có tiểu đoàn,
không có chiến tranh nào hết, cứ mãi mãi bên nhau thế này, mãi mãi không
rời xa nhau?
[Bảo Ninh] Nỗi buồn chiến tranh – Hành trình đi tìm sự sống trong ký ức ám ảnh
Nỗi buồn chiến tranh – Khúc ca đau thương của những điều đã chết nhưng còn tồn tại và tiếp diễn.
Xuyên suốt Nỗi buồn chiến tranh
là hành trình tìm lại quá khứ, tìm lại cuộc sống đã trôi qua, tìm về
chính sự ám ảnh với chiến tranh, chết chóc. Cuốn sách là “Thì quá khứ
tiếp diễn” nỗi buồn chiến tranh trong thời bình, là sự ám ảnh dữ dội,
đau đớn của nhân vật Kiên những ngày sau giải phóng
- Luật Im Lặng của Mario Puzo
- [Paulo Coelho] Nhà giả kim – hành trình phiêu lưu định mệnh của cậu bé chăn cừu
- Chuyến phiêu lưu diệu kỳ của Edward Tulane: Tình yêu là Giờ học dài một đời người
Tác phẩm
tái hiện lại cuộc chiến trong tâm tưởng nhân vật Kiên, sự mô phỏng chi
tiết và sống động chiến tranh trong sự tìm về, trong tâm tưởng. Là hành
trình trôi ngược, đi ngược lại sự sống tự nhiên, cuộc sống mà Kiên chỉ
đang tồn tại. Trình tự thời gian đảo lộn, không gian đổ nát, vỡ vụn, trở
thành những mảnh chắp vá, ghép nối theo trí nhớ của Kiên. Từng trận
đánh, từng con người, từng kỷ niệm đẹp đẽ vụt hiện lên rồi vỡ vụn theo
chính sự sụp đổ của nhân vật.
Nỗi buồn
chiến tranh là tiếng gọi của quá khứ, của những người đã nằm sâu dưới
lớp cát bụi chiến tranh, của những miền đất cằn cỗi mà nhân vật chính đã
trải qua. Những điều đã tắt đi nhưng còn sống mãi và tiếp diễn trong
tâm tưởng nhân vật chính.
Tiểu
thuyết còn là sự đấu tranh nội tâm, day dứt, dằn vặt, giằng xé từng ngóc
ngách, từng góc cạnh trong tâm hồn chai sạm bởi cái chết, bởi tình yêu,
bởi tiếc nuối, tội lỗi của Kiên.
Ẩn chứa
phía sau sự chết chóc, hủy diệt, đau thương của chiến tranh là sự tươi
đẹp, sống động, sinh tươi dưới con mắt trải nghiệm của tác giả, được thể
hiện bởi Kiên – chân thực và mờ ảo, xa xăm. Là sự vẫy gọi đầy đê mê,
hấp dẫn vọng lên từ quá khứ mà Kiên không thể lãng quên.
Càng đi
sâu vào quá khứ, hiện tại càng phai nhạt, càng gắn bó với thực tại, càng
lùi sâu vào quá khứ, càng thoát ra lại càng mắc kẹt. Cuộc sống càng
trôi đi, ký ức càng hiện về mạnh mẽ và sống động.
Mưa – Điều đã dẫn Kiên trở lại với chiến trường, đồng đội, về với cuộc sống đã ngủ sâu, kết thúc trong chiến tranh.
Mở đầu
tác phẩm là cơn mưa trong rừng sâu thuộc miền Cánh Bắc, nơi mà Kiên
chằng xa lạ gì. Mưa mang đến những nỗi buồn, mưa mang đến ký ức, mưa đem
Kiên trở lại những trầm tích nằm sâu dưới lớp đất sâu.
Đêm đó
là đêm mưa nặng hạt, Kiên mắc võng nằm ngủ trên thùng một chiếc xe đi
thu lượm hài cốt đồng đội cùng một người tài xế. Đây là điểm khởi nguồn
của quá khứ được tái hiện, khởi nguồn của hiện tại bắt đầu trong quá
khứ, của mọi ngõ ngách phức tạp trong tâm hồn Kiên. Cảnh tượng mắc võng
nằm ngủ cạnh xác chết, trùm áo mưa – một sự giao tiếp ban đầu, mơ hồ với
những điều đã nằm yên ngủ sâu.
Mưa mang
trong mình từng hạt máu, từng linh hồn, từng tiếng gọi của đồng đội đã
nằm lại nơi đây. Mưa vờn trên tán cây, mưa nhỏ xuống ca bin, nhỏ xuống
những bọc hài cốt bên cạnh Kiên. Trong cơn mưa đó, lần đầu tiên trong
tác phẩm Kiên đã quay lại với chiến trường xưa, quay trở lại trận đánh
đẫm máu, tàn ác đã xóa sạch tiểu đoàn của Kiên. Một trận đánh mà toàn bộ
phiên hiệu và những người tham chiến đều bị lãng quên rồi bỗng chốc
sống dậy thật sinh động trong giấc mơ của Kiên đêm nay.
Đó là
cảnh tượng tiểu đoàn của Kiên tháo chạy trên sườn dốc, quá nửa tiểu đoàn
tan tác đã nằm gục xuống Truông Gọi Hồn. Những thân thể còn sống, rách
rưới, nát tươm đang lê lết, tháo chạy trong làn đạn kẻ thù. Tiểu đoàn
trưởng dí sát khẩu súng ngắn vào đầu mình, đúng giây phút hình dạng con
người rời bỏ đồng chí tiểu đoàn trưởng đó, Kiên cũng trúng đạn kẻ thù và
lăn mình xuống suối. Kiên ngất đi rồi tỉnh lại, tỉnh lại rồi lịm đi,
vết thương nhỏ máu, quyện với mồ hôi, nhớp nháp. Thần chết vờn quanh,
trực sẵn để gọi Kiên theo rồi lại buông tha. Từ đó chẳng ai nhắc đến
tiểu đoàn 27 của Kiên nữa mặc dù vô số hồn ma ra đời sau trận Truông Gọi
Hồn đó, vẫn lảng vảng quanh bờ suối chưa chịu về chầu trời. Từng ký ức
trong quá khứ hiện lại trong một giấc mơ dưới cơn mưa rừng nặng hạt.
Từng
hình hài, từng hình dáng thân thương, có tên gọi bị làn đạn kẻ thù xé
toạch, bẻ nát, làm biến dạng. Trận đánh kéo dài một thời gian, có người
máu còn nóng hổi, có người thì hình dạng chỉ còn đọng lại thành chút bùn
lỏng. Sau trận đánh là mưa, mưa xối xả, mưa vội vã như muốn xóa bỏ toàn
bộ dất vết còn sót lại của trận đánh. Cơn mưa từ quá khứ được cảm nhận
sâu sắc trong hiện thực, cơn mưa thấm vào tâm tưởng của Kiên, rửa sạch
tâm tưởng để nhường chỗ cho sự đau thương len lỏi.
Tại nơi
Kiên nằm ngủ đêm nay dưới cơn mưa rừng – Truông Gọi Hồn – Đúng như tên
gọi của địa danh này, dường như sau một thời gian sau chiến tranh, cây
cỏ vẫn chưa hoàn hồn để mọc lại trên nơi đây. Trong tiếng ú ớ mê sảng
giữa cái nhập nhoạng sáng, anh lái xe gọi Kiên dậy và được chứng kiến
trận đánh vừa rồi trong sự thổn thức. Rằng ở đây thương tâm lắm, nhìn
thì vắng vẻ thế kia thôi chứ dưới đất thì chật ních người nằm rồi. Quân
ta có, quân Mỹ có, quân Ngụy có, thi thoảng trong những đêm ngủ rừng,
Kiên và anh lái xe vẫn bắt gặp những người dưới âm đó. Dưới đất kia chắc
chưa biết rằng hòa bình lặp lại trên mặt đất, nhưng chắc dưới đó âm hồn
cũng không còn đánh nhau nữa rồi.
Những
đêm đi thu lượm hài cốt trên chiến trường xưa là mỗi đêm Kiên gặp lại
đồng đội, gặp lại sự sống, gặp lại chính mình năm xưa. Cũng ngay trong
đêm đó, Kiên gặp lại tiểu đội của mình còn nguyên vẹn, lành lặn. Những
người rồi Kiên phải tận mắt chứng kiến thần chết gọi tên từng người,
mang họ rời xa, lấy đi hình hài con người của họ. Những ký ức đầu tiên
về tiểu đội, đẹp đẽ và thơ mộng, liền mạch và thương đau. Sự thảng thốt,
mờ ảo, mơ hồ về cảnh tượng, về mùi hương, về đồng đội và cũng trong
chính mùa mưa năm đó – mùa mưa đã kết thúc từ lâu nhưng còn đọng mãi
trong tâm hồn Kiên.
Những
cảnh tượng tại một con thác nằm sâu trong núi, nơi những Thịnh con,
Thịnh lớn và chính Kiên đã chứng kiến cái đẹp bị giết hại, thương đau và
tiếc nuối. Ba cô gái trong đội giao liên – Ba đồng đội của Kiên trong
một thời gian đã nảy sinh tình cảm giữa thời chiến, giữa núi rừng hoang
vu và cô quạnh. Rồi một toán thám báo ra tay sát hại ba người con gái
nọ, cùng với đó là Thịnh con hy sinh trong khi giao chiến với toán thám
báo. Đó là sự căm hận tột đỉnh, sự tiếc nuối xót xa, sự đấu tranh tận
cùng trong việc có kết liễu toán thám báo hay không và rồi cuối cùng
Kiên quyết định giao chúng cho cấp trên. Những mộ huyệt, những mồ chôn
nơi đồng đội nằm lại, nơi cuộc sống nằm lại nhưng đâu đó, những mộ huyệt
đó chôn chặt trong trính tâm trí Kiên.
Đến khi
tiểu đội của Kiên chạm trán một điều kinh dị, có tính quả báo, thì từ đó
những người tham gia vào sự kiện đó – một cách đau đớn và tàn bạo, rời
bỏ những đồng đội trong trạng thái không chút lành lặn. Đó là việc tiểu
đội của Kiên giết một người phụ nữ trong hình hài một con vượn trắng
hếu, lông bạc phếch, lở loét sần sùi. Mặc dù đã cúng bái, chôn cất người
phụ nữ đó đàng hoàng nhưng sự báo oán oan nghiệt là không tránh khỏi.
Cái chết
tiếp theo mà Kiên chứng kiến, không bị hủy hoại bởi bom đạn hay kẻ thù,
nhưng chính rừng thiêng nước độc đã nuốt trọn sự sống trong con người
đó – một người đào ngũ là Can. Cái chết của Can, nhẹ nhàng nhưng nhục
nhã, yên ả nhưng ám ảnh. Hốc mắt bị quạ, cá rỉa hết, trống hốc, mọc rêu
xanh lè, da dẻ chốc hết, mục rữa bên bờ con suối. Một cái chết mà về sau
cũng chẳng được ai nhắc đến, chẳng ai tưởng nhớ, một kiếp người nằm sâu
dưới đất nhưng bị vùi lấp bởi sự ghẻ lạnh, khinh bỉ, coi thường. Và Can
chết trong cơn mưa rừng ngày đó, lạnh lẽo và âm u.
Mùa mưa
cũng chứng kiến chính Kiên nhiều lần tước đoạt, lấy đi mạng sống kẻ thù,
những cách kết liễu đầy man rợ, đầy thương đau với chính Kiên. Để rồi
đến khi cuộc sống mãi về sau, Kiên vẫn kiếm tìm lại những cái chết do
mình gây ra, tìm kiếm sự an ủi, tha thứ bởi quá khứ. Đó là hình tượng
một tay lính Mỹ bị thấu dao lòi ruột, rồi được úp lên thứ bầy nhầy đó
một cái bát tạm bợ, sưt mẻ. Trong giây phút Kiên đi tìm đồ sơ cứu, người
lính Mỹ kia có lẽ đã chết ngạt trong một hố bom đầy ắp nước mưa. Tâm
trí Kiên giây phút đó cũng ngập nước và sự ân hận với người Lính kia,
trong ánh mắt khẩn thiết van xin và hy vọng của anh lính Mỹ, rằng mình
có cơ hội sống sót và ra khỏi mảnh đất này.
Hay như
cách Kiên hình dung lại hình ảnh mình cầm cây AK xả cả một băng đạn vào
tên lính Mỹ đang hoảng hồn, ú ớ. Hoặc như cách Kiên xả cả băng đạn vào
một nữ cảnh sát Mỹ tại Tân Sơn Nhất trước ngày thống nhất, tiếng đạn AK
ghim xuyến nền đá như đóng đinh vào tâm trí Kiên từ ngày đó.
Mùa mưa
cũng chứng kiến những sự bình lặng, những lạc thú giữa chốn rừng núi Tây
Nguyên, chứng kiến sự vui vẻ bình dị đậm chất lính. Trong làn mưa không
ngớt, mùi hương hoa hồng ma lan tỏa ra từ các căn lều. Những hình ảnh,
câu chuyện kỳ bí và khó tin cũng ra đời trong làn khói hoa hồng ma.
Những tiếng lầm rầm cúng bái, cầu nguyện, mùi hương trầm quyện lẫn mùi
hoa hồng ma, thoát ra từ các lều lính và mất dạng trong mùa mưa. Những
ván bài, cỗ bài cuối cùng giữa Kiên và ba thành viên còn lại. Rằng nếu
dở ván bài thì cả bốn cùng sống, những thỏa thuận của mỗi người về ai
còn sống cuối cùng thì giữ cỗ bài. Hoặc những giây phút đùa giỡn tham
lam rằng chỉ một người chết để cả ba còn sống và người nào chết sẽ được
giữ cỗ bài đó. Cuối cùng cỗ bài đi theo Kiên, đánh bạc với cuộc đời,
đánh bạc với đồng đội từ thế giới bên kia, đánh bạc với quá khứ từ chính
hiện tại.
Mưa
trong tác phẩm mang sự u ám, lặng lẽ, chứng nhân cho cái chết, nhứng
nhân cho tuổi trẻ, sự hăng say, nhiệt huyết của Kiên cùng những đồng đội
nằm lại nơi chiến trường.
Kiên và những người phụ nữ – Tình yêu, sự sống tuổi trẻ của Kiên trong quá khứ – Sự giao thoa, tiếc nuối trong chính hiện tại của Kiên.
Phương – Cô
gái Kiên yêu năm 17 tuổi, năm cả hai còn là học sinh, còn trên ghế nhà
trường, năm mà chiến tranh còn ở rất xa với cuộc đời Kiên. Thời gian mà
tình yêu, hy vọng tuổi trẻ, dự định cho tương lai còn choán hết tâm trí
Kiên. Nhưng đó cũng chính là lúc Kiên nhận ra lý tưởng cao đẹp của cuộc
đời mình đang hướng về chiến trường, mặt trận phía Nam.
Tình
yêu, sự day dứt, đấu tranh, giằng xé, tiếc nuối nhưng đầy dứt khoát,
quyết đoán xuất hiện trong tâm tưởng Kiên. Chiến tranh – cõi vĩ đại
không nhà, không cửa, cuốn con người trai trẻ nhiệt huyết ấy vào, phá
tan mọi thứ – rồi trả về một sản phẩm của chiến tranh khô héo, cộc cằn
như chính hiện tại.
Phương
năm đó – hồn nhiên và trong trắng, tin tưởng vào sự lựa chọn cao cả của
Kiên, tin vào sự lựa chọn của chính mình. Như cha của Kiên từng nói về
Phương, về số phận bạc bẽo của Phương, một cách ám chỉ rằng hai đứa sẽ
không có tương lai hay số phận gì với nhau cả. Đó cũng chính là một
trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho Kiên quyết tâm lên đường
tham gia vào mặt trận B3 lúc này đang rất ác liệt.
Kiên và
Phương trong tác phẩm – luôn quấn quít, hòa quyện, gắn bó, luôn có sự
liên kết, về cả mặt thời gian, không gian, tình cảm. Cho đến khi Kiên và
Phương cùng đi trên một chuyến tàu để rồi chính Kiên chứng kiến cảnh
Phương bị hãm hiếp. Sự kiện bất ngờ đó gần như thay đổi hoàn toàn mối
quan hệ giữa hai người. Sự xấu hổ, nhục nhã, tội lỗi, trách móc dẫn đến
sự xa cách, cuộc chiến và không gian địa lý dần tạo ra sự cách trở của
hai người.
Sau sự
kiện ấy, mỗi đêm trằn trọc, khó ngủ, khi tiếng quạt trần trở thành tiếng
động cơ máy bay, Kiên lại hình dung về những kỷ niệm nhẹ nhàng của mình
với Phương. Cả trong cuộc chiến hay trong cuộc sống thì Phương vẫn là
một sự đau đớn, một miền ký ức cay đắng và cũng là đẹp đẽ nhất. Trong
suốt tác phẩm, giữa hai người luôn có một sợi dây liên kết vô hình.
Trong thời bình thì hai người vẫn ở cùng hành lang trong khu tập thể.
Phương chính là người đầu tiên mà Kiên gặp kể từ khi anh trở về từ cuộc
chiến.
Trong
suốt tác phẩm, Kiên còn gặp và có tình cảm với rất nhiều người phụ nữ
khác. Những tiếp xúc về mặt cơ thể, xác thịt, những sự liên kết với phụ
nữ – dù còn sống hay đã chết đều mang đến những cảm xúc khác lạ, đặc
biệt, riêng nhất.
Đó là
người phụ nữ mà Kiên đã đào hầm giúp năm Kiên 16 tuổi, một giây phút cảm
tưởng như hai người đã có sự giao thoa về mặt thể xác.
Người
phụ nữ Kiên gặp và ôm ấp suốt chuyến tàu trở ra Bắc khi kết thúc chiến
tranh và tiếc nuối khi cô này xuống tàu ở Nam Định.
Cô gái
hành nghề mại dâm bên hồ mà Kiên còn gặp lại tới vài lần về sau, trước
khi đấm gục một dân anh chị ngay trước mặt cô gái.
Cô gái
câm – người chứng kiến gần như toàn bộ sự ám ảnh, sự điên loạn, sự bế
tắc, sự cùng cực của một người lính trở về từ chiến tranh. Người mà Kiên
luôn cho phép bản thân hành hạ, luôn tìm đến khi say và giãi bày những
ước vọng, những dự định trong cơn say. Cô cũng chứng kiến tập bản thảo
Nỗi buồn chiến tranh của Kiên dày lên từng ngày. Chứng kiến cuộc sống
hiện tại của Kiên ngày một lùi sâu vào quá khứ, chứng kiến cuộc chiến
tranh ngày ngày tìm đến Kiên.
Hay như
xác cô gái lõa lồ ở sân bay Tân Sơn Nhất trong ngày giải phóng, nhiều
lần Kiên thấy hình ảnh thi thể đó mặc dù nhiều lần đã xếp gọn vào một
chỗ. Thậm chí Kiên đã lấy những mảnh vải quấn quanh thi thể đó, nhưng
đến một lúc sau, bằng cách nào đó thi thể đó lại lõa lồ ngay trước mặt
anh. Kiên cũng chứng kiến thi thể ấy bị quăng quật, liệng ra ngoài sân
trước sự căm phẫn tột cùng. Từ thi thể đó mà Kiên được nghe thêm những
chia sẻ của một anh lính tăng, rằng dưới xích xe còn vô số mảnh xương
người, tóc dính vào đó. Chính Kiên cũng đã từng dùng xe tăng để nghiền
nát kẻ thù ngay trước mắt mình, nghiền nát những sự nhân đạo cuối cùng
còn sót lại trong tâm tính.
Những
người phụ nữ từng xuất hiện trong suốt cuộc đời Kiên, đều giữ một vai
trò khác nhau với những nét cảm xúc khác nhau cùng tồn tại trong nhân
vật chính. Đó là tình yêu, là những xúc cảm đầu tiên, là đồng đội, là sự
tiếc nuối, chia ly, là tội lỗi, là sự thương xót,… Tác giả xây dựng mỗi
nhân vật riêng đó tạo cho Kiên những con đường, những cách thức khác
nhau để quay lại quá khứ, để kiếm tìm trong ký ức sự dở dang cần hoàn
thiện.
Tất cả
họ, từng người một, tùy thời gian gắn bó dù ngắn hay dài, đều rời bỏ
Kiên, rời bỏ thực tại bế tắc, quanh quẩn của anh. Sự rời bỏ để Kiên được
sống với quá khứ, sống là chính mình, sống để kiếm tìm những điều chính
anh đã lãng quên từ cuộc chiến.
Họ là
cầu nối đưa Kiên trở lại chiến tranh, đưa Kiên trở về với sự vui vẻ,
nhiệt huyết, đưa Kiên trở lại với lý tưởng cao đẹp khi lao vào cuộc
chiến. Đưa Kiên trở lại cuộc sống mà anh đã trải qua và sống lại nó một
lần nữa. Tại đó Kiên lại tìm thấy tình yêu, lại thấy thanh xuân và một
lần nữa tràn trề sức sống.
Diễn biến tâm lý, trạng thái cảm xúc cực kỳ phức tạp, đan xen lẫn lộn của Kiên song song với trình tự thời gian đảo lộn, quay ngược trong tác phẩm.
Kiên
bước ra khỏi cuộc chiến, hòa bình nhưng trong tâm trí anh không hề có sự
bình yên thanh thản. Những miền ký ức dọc theo dấu chân người lính, đảo
lộn trong trí nhớ, lẫn lộn hòa vào không gian vô định, xa xăm vẫn không
ngừng tìm đến Kiên. Giấc ngủ là nơi Kiên gặp lại cơn mưa rừng Cánh Bắc,
nơi một lần nữa chiến trường B3 nuốt chửng mọi thứ. Nơi mà Truông Gọi
Hồn, Ngọc Bơ Rẫy, những cánh rừng không tên vẫy gọi Kiên trở lại với
đồng đội của anh.
Cuộc
sống càng trôi đi, chiến tranh càng ở lại phía sau thì Kiên càng lún sâu
vào chính cuộc chiến mà mình đã bước ra. Thực tại mới chính là cuộc
chiến với Kiên, sự tẻ nhạt, khô khan của cuộc sống cùng những đêm quay
ngược ký ức đang bòn rút từng chút một sinh lực của Kiên. Trong thực tại
Kiên chỉ như một cái xác, tồn tại mòn mỏi, không rõ mục tiêu của cuộc
đời. Còn trong quá khứ, Kiên được là chính mình, được sống và chiến đấu
cùng các đồng đội đã trở nên bất tử. Được tìm thấy tình yêu và khát vọng
thanh xuân trong đó, một cách rõ ràng và chắc chắn.
Sự ám
ảnh tột cùng, sự đau đớn không nguôi, tiếc nuối không giới hạn với chính
cuộc chiến mà toàn bộ dân tộc hướng về. Kiên là một phần của chiến
tranh, cuộc chiến cũng là một phần không thể tách rời của Kiên.
Kiên
sống song song, đồng thời trong hai cuộc sống: Thực và ảo, hiện tại và
quá khứ, đan xen lẫn lộn không tách rời. Thực tại của Kiên mờ nhạt,
không thể hòa nhập với mọi người. Thực tại gắn với khói thuốc, men say,
sự ngột ngạt trong căn phòng khu tập thể. Quá khứ diễn ra trong chính
thực tại, chiếm lĩnh thực tại, chiếm lĩnh tâm trí của Kiên.
Cho đến
khi bắt tay vào viết tập bản thảo Nỗi buồn chiến tranh, Kiên mới nhận ra
thiên mệnh của mình. Đó là vĩnh viễn lùi sâu vào cuộc chiến, tìm kiếm
đồng đội, tìm kiếm những điều bị lãng quên, khiến cho cuộc chiến trở nên
bất tử và không bao giờ kết thúc trong tâm tưởng.
Những
đoàn tàu, những chuyến tàu đưa Kiên trở về hòa bình từ chiến trường,
nhưng đêm đến lại đưa Kiên quay trở lại cuộc chiến, quay trở lại nơi
Kiên đã bắt đầu. Cuộc sống không ngừng trôi đi theo vòng quay thời gian,
còn định mệnh đã chỉ ra thời gian của Kiên sẽ quay ngược, sẽ tìm về quá
khứ.
Mỗi lần
trở lại với cuộc sống đã kết thúc, là một cảm xúc mới của Kiên, hoặc
những cảm xúc, tâm tưởng đã nằm sâu dưới lớp bom đạn. Đó là Kiên với sự
giận giữ, căm thù tột độ, là sự đau khổ khôn nguôi, là sự gan dạ khác
thường,… Mỗi cảm xúc khác nhau gắn với một câu chuyện, con người khác
nhau, hòa trộn vào tổng thể tạo nên nỗi buồn mà Kiên không thể quên.
Hình ảnh
quê nhà nơi Kiên sống hồi nhỏ, hình ảnh một bệnh viện nhỏ trong chiều
hoàng hôn Đà Lạt, hình ảnh khu tập thể, lán trại tiểu đội,… Mọi thứ xuất
hiện đảo lộn theo trình tự thời gian, nhạt nhòa, buồn bã nhưng day dứt
khôn nguôi.
Nỗi buồn chiến tranh – Nỗi buồn của người lính bước ra từ cuộc chiến
Tác phẩm
là sự hoài niệm về chiến tranh, về những gì một người lính cảm nhận và
ám ảnh, là giá trị của hòa bình ngày hôm nay. Là sự thể hiện, tái hiện
những hy sinh, mất mát của dân tộc ta, của con người, của quê hương đất
nước. Là lời nhắn nhủ, cảm ơn gửi tới những người làm công tác thu thập,
tìm kiếm mộ liệt sĩ sau chiến tranh, những người từng là một phần của
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đồng thời là sự lên án mạnh mẽ chiến
tranh, sự tàn phá, hủy diệt không đếm xuể của cuộc chiến tranh tàn bạo,
vô nhân tính.
Hình ảnh
chết chóc, những nhân dạng không còn nguyên vẹn, những cái chết cực kỳ
thảm khốc, dữ dội do bom đạn gây ra,… Sự tiếc thương vô hạn, đau đớn
dành cho những người đã nằm xuống, những người còn nằm lại nơi chiến
trường năm xưa. Cảm giác hoang
mang, tiếc nuối, tuyệt vọng… với những câu hỏi về đời, về người, về lý
tưởng sống mà có lẽ vĩnh viễn, dù con người có cố công tìm kiếm bằng
cách nào, cũng không ra lời đáp.
Thông
qua Kiên, tác giả gửi lời nhắn nhủ đến những người lính bước ra khỏi
cuộc chiến cùng toàn thể dân tộc, đừng bao giờ quên đi những đau thương
dân tộc ta đã trải qua.
Văn học Việt Nam
là một phần của chiến tranh, nhưng trong Nỗi buồn chiến tranh, cuộc
chiến trở thành một phần không thể thiếu của người lính. Cuộc chiến còn
tồn tại, còn tiếp diễn mãi về sau!
No comments:
Post a Comment