Một trời mực đậm son tươi
Một trời Đại Học, một trời Văn Khoa.
Đông Hồ Lâm Tấn Phác
Sáng
ngày 19.10.2019, khi nhận được tin vui về một cựu sinh viên ở
trong nước, tôi bồi hồi nhớ lại quãng thời gian giảng dạy ngắn
ngủi tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn (1972-1975) với thật nhiều
kỷ niệm.
Trước
hết, chuyện tôi từ trung học lên dạy đại học là hoàn toàn
nhờ giáo sư Nguyễn Thế Anh. Nguyên khi tôi dạy tại trung học
Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho thì ghi danh Cao Học và hoàn tất tiểu
luận dưới sự bảo trợ của giáo sư Anh.
Bấy
giờ gs Nguyễn Thế Anh nguyên là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế từ miền
Trung vào Sài Gòn làm Trưởng Ban Sử Học, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Gs
Anh nổi tiếng khó tính. Sinh viên kính và sợ mà không dám thân gần,
nhưng ai ai cũng tâm phục khả năng phân tích và tổng hợp của Ông. Vì
thế, khi tôi muốn nhờ Ông làm giáo sư bảo trợ tiểu luận thì tôi phải nói
“khích.” Một hôm, tôi đón Ông ra về ở cổng trường đường Cường Để. Tôi
chào thầy, và ngỏ ý xin Ông bảo trợ Cao Học vì chỉ có Ông thì tôi mới
học được chuyên môn trong nghề. Ông cười và nói, nguyên văn: “Vậy hôm
nào anh đến nhà tôi.”
Về đề tài, tôi suy nghĩ và theo gương Ông. Luận án Tiến sĩ Sorbonne của Ông là Bibliographie critique sur les relations entre le Viet-Nam et l’ Occident (Ouvrages et articles en langues occidentales) nên tôi xin làm đề tài Thư mục chú giải lịch sử Việt Nam qua các tạp chí Pháp ngữ 1865-1970.
Thế
là hàng tuần, sau khi dạy học ở Mỹ Tho về, tôi vào thư viện của hội
Société des Études Indochinoises tại Viện Bảo Tàng trong Thảo Cầm Viên
để đọc Bulletin du Comité agricole et industriel de la Cochinchine (BCAIC, 1865-1881), Excursions et Reconnaissances (ER, 1879-1890), Bulletin de la Société des Études Indochinoises (BSEI, 1883-1970), Revue Indochinoise (RI, 1893-1925), Bulletin de l’ École Francaise d’ Extrême-Orient (BEFEO, 1901-1970), Cahiers de l’ École Francaise d’ Extrême-Orient (CEFEO, 1934-1948), France Asie (FA, 1946-1970)... Riêng tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH,
1914-1941) thì tôi không khai thác vì trước tôi, linh mục Léopold
Cadière, vị sáng lập Tạp Chí, đã thực hiện hai thư tịch năm 1925 và
1942, phân tích và chú giải tất cả những bài viết trong BAVH rồi.
Tôi
rất phục giáo sư Nguyễn Thế Anh khi, một hôm, tôi đến nhà Giáo Sư ở
đường Công Lý Sài Gòn và trình Ông những phiếu tôi đã ghi chú để xin Ông
cho ý kiến. Ông chọn xem vài phiếu, rồi thản nhiên nói, nguyên văn: “Anh làm thế này là hơn tôi rồi, đâu cần sửa chữa gì nữa?!” Ý là Ông chưa đọc bài viết trong các chuyên san, còn tôi thì đọc rồi!
Giáo sư Nguyễn Thế Anh hiện nghỉ hưu tại Pháp.
Tiểu
luận được chấm đậu “Ưu hạng” năm 1972 là thứ hạng lần thứ hai
được cấp phát trong Ban Sử Học tại ĐHVK Sài Gòn. Người đầu tiên
đỗ hạng “Ưu” năm 1964 là giáo sư Phạm Cao Dương hiện hưu trí
tại miền Nam California. Lúc đậu Ưu Hạng, gs Dương đang dạy tại Đại
Học Sư Phạm Sài Gòn và trong Ban Giám Khảo có giáo sư Lâm Thanh Liêm là
bạn cùng Khóa 1 Ban Sử Địa với Ông tại Đại Học Sư Phạm. Còn tôi chỉ là
sinh viên thuần túy.
Vì
khai thác tài nguyên của Thư Viện hội Société des Études Indochinoises
mà sau đó tôi được gs Nguyễn Thế Anh giới thiệu vào Hội Đồng Quản Trị
của Hội và giữ vai trò Bibliothécaire. Vai trò này tôi dịch là Thư Viện
Trưởng mà không dịch là Quản Thủ Thư Viện vì tôi không học về Thư Viện
Học nên dịch ra Quản Thủ thì không chỉnh. Được giáo sư Anh giới thiệu,
nhưng qua vài buổi họp Hội Đồng Quản Trị SEI mới bầu tôi làm thành viên
mới. Lý do là vì vị Chủ Tịch Ban Quản Trị, một cụ già người Pháp tóc bạc
trắng tên Joseph Bocquet, Quản Trị Viên của Ngân Hàng Pháp Á (France
Asie), sợ tôi trẻ quá và làm chính trị. Lại có một chi tiết đáng nhớ
nữa, là hồi ấy tôi là sinh viên đến đọc sách rồi nghiễm nhiên thành
bibliothécaire trông coi một thư viện chuyên ngành quý giá nhất nhì Đông
Nam Á thời bấy giờ mà tài nguyên bắt đầu bằng bản gốc bộ tự điển Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum của
Alexandre de Rhodes xuất bản tại Rome năm 1651, hay toàn bộ tác phẩm
của Pétrus Trương Vĩnh Ký và đơn từ viết tay của học giả họ Trương cùng
văn thư đánh máy từ Phủ Thống Đốc Nam Kỳ, nhiều nhất là văn thư và lời
phê của một Inspecteur des Affaires Indigenes (Thanh Tra Bản Xứ Vụ) tên
Paul Vidal, nên một hôm tôi nghe lóm hai nhân viên phụ tá nói chuyện với
nhau. Chị nữ nhân viên thắc mắc không hiểu sao tôi được mời vào Ban
Quản Trị thì anh nam nhân viên nói, tôi còn nhớ nguyên văn cách nói miền
Nam: “Thì thằng chả đọc hết sách ở đây rồi!” Họ
không biết tôi đã có mặt trong Thư Viện, và đang thơ thẩn khuất trong
khu chuyên san hàng trăm loại về vùng Viễn Đông. Tôi phớt lờ, chỉ nghĩ
thầm, là nếu tôi chỉ cần đọc 1/10 tài nguyên của Thư Viện SEI thì tôi đã
trở thành một bác học rồi!
Giáo
sư Phạm Cao Dương muốn giúp tôi về dạy cùng trường với Ông tại
Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Tôi rất cảm động về hảo ý của gs
Dương. Tuy nhiên, khi giáo sư bảo trợ ngỏ ý nhận tôi vào dạy Ban
Sử tại ĐHVK, tôi cám ơn ngay.
Lý
do là vì tuy vào nghề Thầy, tôi lại là người phóng khoáng
không để ý đến hình thức, và làm việc tài tử: thích thì làm
việc miệt mài không kể ngày đêm, nhưng có khi đang viết lại lăng
ba vi bộ suốt ngày ở các sạp sách báo cũ trên vỉa hè Sài
Gòn hay giang hồ vặt, có khi mất nhiều tháng trời. Đó là may
không vướng vào “cái lăng nhăng” thứ ba của Tú Xương.
Kỷ
niệm giang hồ là một ngày đầu tháng ngay sau khi lãnh lương,
tôi ra bến xe Miền Tây ở Phú Lâm lên xe đò đi Long Xuyên thăm một
người bạn thân là giáo sư Trần Đức Tường -hiện ở Nam
California- đang dạy trung học Thoại Ngọc Hầu. Xuống đến Long
Xuyên, việc đầu tiên là tôi ra chợ mua bàn chải, kem đáng răng,
khăn mặt, quần áo… và trái cây làm quà cho gia đình bạn. Đó
là lúc tôi biết một chục cam ở Long Xuyên có tới 14 quả.
Một
kỷ niệm khác là tôi thường ăn mặc giản dị quần tây áo sơ-mi
khi đi dạy. Vì thế một hôm tại giảng đường lớn nhất của ĐHVK
là Giảng Đường I, sinh viên ngồi chật như nêm, một nam sinh chận
không cho tôi đi vào. Tôi chỉ đứng cười tại chỗ rồi ai đó nói
“Thầy Tuấn, thầy Tuấn…” thì tôi mới được mở lối đi lên bàn
giáo sư. Đến bàn, tôi nhìn xuống thì, Trời ơi, ba nữ sinh viên mặc áo dài trắng bó gối thu lu mỗi người một góc dưới gầm bàn. Chuyện
xảy ra ngày hôm ấy khiến tôi càng tin tưởng vào thiên chức của
mình, và từ đó cũng không quên đeo cravate khi có giờ dạy.
Về
Văn Khoa, tôi dạy ba buổi sáng môn Phương Pháp Sử cho Năm Thứ
Nhất vì sĩ số sinh viên lên đến hơn 3,000 người và hai buổi chiều
môn Cổ Sử Nhật Bản và Bình Giảng Sử Liệu cho chứng chỉ Lịch
Sử Thế Giới Thời Cổ, sĩ số khoảng 15 sinh viên. Soạn bài thì tôi
bỏ rất nhiều thì giờ vì trọng nghề Thầy và vì khi soạn bài
là khi tôi cũng học thêm.
Thành
phần giáo sư Ban Sử khi ấy gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất là
giáo sư cơ hữu, tức chính thức của Ban, gồm có bốn vị là gs
Nguyễn Thế Anh (Thạc sĩ Sử và Tiến sĩ Đệ Tam Cấp tại Paris,
Pháp), gs Châu Long (Tiến sĩ đại học, Pháp), gs Đỗ Phan Hạnh
(Cao Học Sử, ĐHVK Sài Gòn), và tôi.
Tuy
đều là những giáo sư dạy lớp, nhưng ng̣ach trật -cũng có
nghĩa là lương bổng- hoàn toàn khác nhau. Giáo sư Nguyễn Thế
Anh và Châu Long thuộc ngạch Giáo sư Diễn Giảng (chỉ số lương
1,100-1,200?) dù ông Châu Long chỉ là tiến sĩ đại học Pháp
(docteur d’université). Gs Đỗ Phan Hạnh thuộc ngạch Giảng Sư (chỉ
số lương 750-800?) và tôi thuộc ngạch Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị
Cấp (chỉ số lương 470) tuy gs Hạnh và tôi đều có Cao Học.
Giấy Biên Nhận của Ban Sử Học có chữ ký và
ghi rõ chức vụ của tôi: “G.S. Trần Anh Tuấn.”
Cao
Học mà được đặc cách vào ngạch Giảng Sư -là ngạch căn bản
phải có văn bằng tiến sĩ- là một vết nhơ của giáo dục Đại
Học thời VNCH.
Cao
Học chỉ là ngạch Phụ Khảo. Nhưng bấy giờ một bộ trưởng Phủ
Thủ Tướng có người em làm Phụ Khảo ở Đại Học Sư Phạm Sài
Gòn nên ký một nghị định đặc cách cho các Phụ Khảo được cải
ngạch thành Giảng Sư. Nghị định lại đặc biệt chỉ giới hạn
những Phụ Khảo trong thời điểm phù hợp với tình trạng của em
ông ta, sau thời điểm đó thì dù đang ở ngạch Phụ Khảo còn
phải thi tuyển. Thế là Hội Đồng Khoa -tức là Ban Giám Đốc-
của Trường Văn Khoa tổ chức một kỳ thi cho những Phụ Khảo hiện
hữu không những không được cải ngạch Giảng Sư mà còn phải thi
vào ngạch Phụ Khảo. Hôm thi, các đại giáo sư Văn Khoa đều lánh
mặt, đùn cho một giáo sư ngoại quốc hiền lành là gs Philippe
Langlet làm Giám Thị. Tội nghiệp, Ông chỉ biết ngồi trên bàn
như phỗng đá! Nhưng tất cả các Phụ Khảo hiện hữu -dĩ nhiên kể cả
tôi- phản đối không ai làm bài thi.
Và
chuyện ngạch trật cũng qua đi như một cơn gió chướng, thời
buổi nhiễu nhương vô đạo đức ai hưởng được cái gì cứ hưởng!
Sự
việc vô lý và bất công ấy khiến tôi thấm thía lời của Lê
Duẩn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, khi ông ta nhận định,
nguyên văn: “Bọn
tư bản chúng nó làm luật để bảo vệ quyền lợi của chúng nó.
Nay ta phải làm luật để bảo vệ quyền lợi của giai cấp chúng
ta.”
Buổi
ấy tôi đâu thiết tha gì đến quyền lợi vật chất. Từ năm 1967
cho đến năm 1975, tôi vẫn hưởng lương GSTHĐ2C hạng Tư với chỉ số 470
là hạng đầu tiên khi ra trường ĐHSP Sài Gòn năm 67 cũng chẳng
sao! Chẳng có cấp trên nào theo luật lệ phải cải ngạch cho tôi,
tôi cũng không để ý. Nhưng gian dối đến độ phải đạo văn người
khác, hay giúp người khác đứng tên công trình của mình, và nhất
là ỷ quyền cậy thế ký giấy đưa nhau lên ngạch thêm lương… mà tôi biết
từng người từng chi tiết chỉ làm tôi xem thường!
Chứng Minh Thư của Đại Học Văn Khoa
Sài Gòn năm 1973 ghi rõ “Giáo sư THĐ2C.”
Nhóm
thứ hai là quý vị giáo sư dạy giờ, gồm gs Philippe Langlet
(Thạc sĩ Sử và Tiến sĩ Đệ Tam Cấp tại Paris, Pháp, thuộc
Phái Bộ Văn Hoá Pháp), gs Nghiêm Thẩm (Tốt nghiệp Bảo Tàng
Học, Viện Louvre, Pháp, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Sài Gòn), gs
Thọ Xuân Lê Văn Phúc (Giáo viên hồi hưu), và gs Phạm Cao Dương
(Giáo sư Đại Học Sư Phạm Sài Gòn).
Trong
biến cố 30.4.1975 thì gs Nguyễn Thế Anh, gs Đỗ Phan Hạnh và gs
Phạm Cao Dương lần lượt chạy được sang Pháp, Canada và Mỹ. Còn
lại trong nước là gs Châu Long, gs Thọ Xuân Lê Văn Phúc, gs Nghiêm
Thẩm và tôi.
Những
người còn lại nổi trôi theo vận nước. Gs Châu Long được cấp
phát một biệt thự 18 phòng ở Phú Nhuận vì ông “nằm vùng,”
tức là hoạt động nội thành cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam. Gs Thọ Xuân Lê Văn Phúc gặp lại nhóm bạn giáo viên
ngày xưa, nay đã là những cán bộ văn hóa cao cấp của chính
quyền mới. Gs Nghiêm Thẩm bị thảm sát không rõ lý do, hoặc là
vì cán bộ văn hoá cao cấp nào đó thèm muốn kho sách quý giá
của Ông, hoặc là lụy vì tình. Còn tôi thì bị tù tập trung
trong các Trại Trảng Lớn, Kà Tum, Đồng Ban, và Xuân Lộc trong ba
năm vì thời VNCH, tôi bị động viên khóa 2/68.
Thuở
ấy tôi toàn tâm toàn ý với Sử Học -bây giờ vẫn thế-. Lý
tưởng của người giáo sư trẻ từ thập niên 1960-70 không phải là
tiền bạc hay quyền thế địa vị. Đơn thuần chỉ là đọc và viết
Sử theo phương châm tất cả sự thật và không gì ngoài sự thật cùng nhận định chết là cùng!
Sau
ngày 30.4.1975, cái nhận định ấy đã được tôi áp dụng tại
Trại Tập Trung Trảng Lớn, Tây Ninh mà đội trưởng cùng bị cầm
tù là bác sĩ Nguyễn Tường Vân một hôm sau khi đi họp “giao ban”
với cán bộ về, lo lắng nói riêng với tôi là anh trung úy cán
bộ quản giáo nói, nguyên văn, “Anh Tuấn khinh chúng tôi.” Lúc ấy
tôi chỉ thản nhiên cười mà không giải thích với anh Vân là tôi
đang vui trong lòng.
Vui
vì mình thế nào họ mới nói là “khinh,” chứ họ coi thường
thì sẽ nói “hỗn,” hay “láo” chứ! Anh Vân, bây giờ anh ở đâu?
Nếu còn hiện diện trên Trái Đất này, tuổi anh cũng đã trên 80
và cầu mong anh được an khang trường thọ.
Nguyên
nhân cán bộ quản giáo trách tôi là vì trong dịp kỷ niệm Cách Mạng Tháng
Tám năm 1975, tôi được/bị cắt cử đại diện trại (L3T3 thì phải?) lên hội
trường nói về Cách Mạng Mùa Thu. Hôm ấy, tôi cứ nói như đang giảng bài ở
Văn Khoa mà quên thân phận đang bị cầm tù. Tôi đã nghĩ trong lòng, là
phải giữ tư cách của một giáo sư đại học miền Nam nên cứ thẳng thắn
trình bầy những sự kiện lịch sử mà mình biết, xoáy vào ý niệm “cướp
chính quyền” chứ không phải “cách mạng.” Tuy vậy, tôi cũng đã “thủ” chứ
không phải cắm đầu vào xe lửa đang chạy trên đường rầy. Thủ về nghĩa của
chữ “cướp.” Tôi nghĩ đến chuyện chúc mừng của người xưa khi bạn sinh
con trai với câu:
Mong cho chóng lớn đi ăn cướp…
(Ngừng cho thơ ngấm vào bạn và mọi người chung quanh. Rồi mới hạ câu:
…Cướp lấy khôi nguyên kẻo nữa hoài!
Còn nếu cán bộ trại không phản ứng thì tốt thôi, cướp vẫn hoàn cướp!
Tính
cách đó đã từng biểu lộ qua các giảng đường Đại Học Văn Khoa
đường Cường Để những năm 1972-75 chắc phần nào nhận được sự
cảm thông của hơn 3,000 sinh viên Ban Sử. Trong số sinh viên hay
tìm gặp tôi sau giờ học, tôi nhớ có một nhóm chủng sinh đại
chủng viện đang học Năm Thứ Nhất và sáng nay, tôi tình cờ biết
được tin mừng làm tôi rất vui và hãnh diện, về một người trong
nhóm đó.
Niềm
vui được trọn vẹn, không như niềm vui bàng hoàng khi một cựu
sinh viên khác giữ vai trò quan trọng trong guồng máy nhà nước
Cộng Sản.
TRẦN ANH TUẤN
10.2019-cập nhật 15.4.2020
Hồi tưởng Văn Khoa Sài Gòn
Một trời mực đậm son tươi
Một trời Đại Học, một trời Văn Khoa.
Đông Hồ LÂM TẤN PHÁC
Sáng
ngày 19.10.2019, khi nhận được tin vui về một cựu sinh viên ở
trong nước, tôi bồi hồi nhớ lại quãng thời gian giảng dạy ngắn
ngủi tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn (1972-1975) với thật nhiều
kỷ niệm.
Trước
hết, chuyện tôi từ trung học lên dạy đại học là hoàn toàn
nhờ giáo sư Nguyễn Thế Anh. Nguyên khi tôi dạy tại trung học
Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho thì ghi danh Cao Học và hoàn tất tiểu
luận dưới sự bảo trợ của giáo sư Anh.
Bấy
giờ gs Nguyễn Thế Anh nguyên là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế từ miền
Trung vào Sài Gòn làm Trưởng Ban Sử Học, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Gs
Anh nổi tiếng khó tính. Sinh viên kính và sợ mà không dám thân gần,
nhưng ai ai cũng tâm phục khả năng phân tích và tổng hợp của Ông. Vì
thế, khi tôi muốn nhờ Ông làm giáo sư bảo trợ tiểu luận thì tôi phải nói
“khích.” Một hôm, tôi đón Ông ra về ở cổng trường đường Cường Để. Tôi
chào thầy, và ngỏ ý xin Ông bảo trợ Cao Học vì chỉ có Ông thì tôi mới
học được chuyên môn trong nghề. Ông cười và nói, nguyên văn: “Vậy hôm
nào anh đến nhà tôi.”
Về đề tài, tôi suy nghĩ và theo gương Ông. Luận án Tiến sĩ Sorbonne của Ông là Bibliographie critique sur les relations entre le Viet-Nam et l’ Occident (Ouvrages et articles en langues occidentales) nên tôi xin làm đề tài Thư mục chú giải lịch sử Việt Nam qua các tạp chí Pháp ngữ 1865-1970.
Thế
là hàng tuần, sau khi dạy học ở Mỹ Tho về, tôi vào thư viện của hội
Société des Études Indochinoises tại Viện Bảo Tàng trong Thảo Cầm Viên
để đọc Bulletin du Comité agricole et industriel de la Cochinchine (BCAIC, 1865-1881), Excursions et Reconnaissances (ER, 1879-1890), Bulletin de la Société des Études Indochinoises (BSEI, 1883-1970), Revue Indochinoise (RI, 1893-1925), Bulletin de l’ École Francaise d’ Extrême-Orient (BEFEO, 1901-1970), Cahiers de l’ École Francaise d’ Extrême-Orient (CEFEO, 1934-1948), France Asie (FA, 1946-1970)... Riêng tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH,
1914-1941) thì tôi không khai thác vì trước tôi, linh mục Léopold
Cadière, vị sáng lập Tạp Chí, đã thực hiện hai thư tịch năm 1925 và
1942, phân tích và chú giải tất cả những bài viết trong BAVH rồi.
Tôi
rất phục giáo sư Nguyễn Thế Anh khi, một hôm, tôi đến nhà Giáo Sư ở
đường Công Lý Sài Gòn và trình Ông những phiếu tôi đã ghi chú để xin Ông
cho ý kiến. Ông chọn xem vài phiếu, rồi thản nhiên nói, nguyên văn: “Anh làm thế này là hơn tôi rồi, đâu cần sửa chữa gì nữa?!” Ý là Ông chưa đọc bài viết trong các chuyên san, còn tôi thì đọc rồi!
Giáo sư Nguyễn Thế Anh hiện nghỉ hưu tại Pháp.
Tiểu
luận được chấm đậu “Ưu hạng” năm 1972 là thứ hạng lần thứ hai
được cấp phát trong Ban Sử Học tại ĐHVK Sài Gòn. Người đầu tiên
đỗ hạng “Ưu” năm 1964 là giáo sư Phạm Cao Dương hiện hưu trí
tại miền Nam California. Lúc đậu Ưu Hạng, gs Dương đang dạy tại Đại
Học Sư Phạm Sài Gòn và trong Ban Giám Khảo có giáo sư Lâm Thanh Liêm là
bạn cùng Khóa 1 Ban Sử Địa với Ông tại Đại Học Sư Phạm. Còn tôi chỉ là
sinh viên thuần túy.
Vì
khai thác tài nguyên của Thư Viện hội Société des Études Indochinoises
mà sau đó tôi được gs Nguyễn Thế Anh giới thiệu vào Hội Đồng Quản Trị
của Hội và giữ vai trò Bibliothécaire. Vai trò này tôi dịch là Thư Viện
Trưởng mà không dịch là Quản Thủ Thư Viện vì tôi không học về Thư Viện
Học nên dịch ra Quản Thủ thì không chỉnh. Được giáo sư Anh giới thiệu,
nhưng qua vài buổi họp Hội Đồng Quản Trị SEI mới bầu tôi làm thành viên
mới. Lý do là vì vị Chủ Tịch Ban Quản Trị, một cụ già người Pháp tóc bạc
trắng tên Joseph Bocquet, Quản Trị Viên của Ngân Hàng Pháp Á (France
Asie), sợ tôi trẻ quá và làm chính trị. Lại có một chi tiết đáng nhớ
nữa, là hồi ấy tôi là sinh viên đến đọc sách rồi nghiễm nhiên thành
bibliothécaire trông coi một thư viện chuyên ngành quý giá nhất nhì Đông
Nam Á thời bấy giờ mà tài nguyên bắt đầu bằng bản gốc bộ tự điển Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum của
Alexandre de Rhodes xuất bản tại Rome năm 1651, hay toàn bộ tác phẩm
của Pétrus Trương Vĩnh Ký và đơn từ viết tay của học giả họ Trương cùng
văn thư đánh máy từ Phủ Thống Đốc Nam Kỳ, nhiều nhất là văn thư và lời
phê của một Inspecteur des Affaires Indigenes (Thanh Tra Bản Xứ Vụ) tên
Paul Vidal, nên một hôm tôi nghe lóm hai nhân viên phụ tá nói chuyện với
nhau. Chị nữ nhân viên thắc mắc không hiểu sao tôi được mời vào Ban
Quản Trị thì anh nam nhân viên nói, tôi còn nhớ nguyên văn cách nói miền
Nam: “Thì thằng chả đọc hết sách ở đây rồi!” Họ
không biết tôi đã có mặt trong Thư Viện, và đang thơ thẩn khuất trong
khu chuyên san hàng trăm loại về vùng Viễn Đông. Tôi phớt lờ, chỉ nghĩ
thầm, là nếu tôi chỉ cần đọc 1/10 tài nguyên của Thư Viện SEI thì tôi đã
trở thành một bác học rồi!
Giáo
sư Phạm Cao Dương muốn giúp tôi về dạy cùng trường với Ông tại
Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Tôi rất cảm động về hảo ý của gs
Dương. Tuy nhiên, khi giáo sư bảo trợ ngỏ ý nhận tôi vào dạy Ban
Sử tại ĐHVK, tôi cám ơn ngay.
Lý
do là vì tuy vào nghề Thầy, tôi lại là người phóng khoáng
không để ý đến hình thức, và làm việc tài tử: thích thì làm
việc miệt mài không kể ngày đêm, nhưng có khi đang viết lại lăng
ba vi bộ suốt ngày ở các sạp sách báo cũ trên vỉa hè Sài
Gòn hay giang hồ vặt, có khi mất nhiều tháng trời. Đó là may
không vướng vào “cái lăng nhăng” thứ ba của Tú Xương.
Kỷ
niệm giang hồ là một ngày đầu tháng ngay sau khi lãnh lương,
tôi ra bến xe Miền Tây ở Phú Lâm lên xe đò đi Long Xuyên thăm một
người bạn thân là giáo sư Trần Đức Tường -hiện ở Nam
California- đang dạy trung học Thoại Ngọc Hầu. Xuống đến Long
Xuyên, việc đầu tiên là tôi ra chợ mua bàn chải, kem đáng răng,
khăn mặt, quần áo… và trái cây làm quà cho gia đình bạn. Đó
là lúc tôi biết một chục cam ở Long Xuyên có tới 14 quả.
Một
kỷ niệm khác là tôi thường ăn mặc giản dị quần tây áo sơ-mi
khi đi dạy. Vì thế một hôm tại giảng đường lớn nhất của ĐHVK
là Giảng Đường I, sinh viên ngồi chật như nêm, một nam sinh chận
không cho tôi đi vào. Tôi chỉ đứng cười tại chỗ rồi ai đó nói
“Thầy Tuấn, thầy Tuấn…” thì tôi mới được mở lối đi lên bàn
giáo sư. Đến bàn, tôi nhìn xuống thì, Trời ơi, ba nữ sinh viên mặc áo dài trắng bó gối thu lu mỗi người một góc dưới gầm bàn. Chuyện
xảy ra ngày hôm ấy khiến tôi càng tin tưởng vào thiên chức của
mình, và từ đó cũng không quên đeo cravate khi có giờ dạy.
Về
Văn Khoa, tôi dạy ba buổi sáng môn Phương Pháp Sử cho Năm Thứ
Nhất vì sĩ số sinh viên lên đến hơn 3,000 người và hai buổi chiều
môn Cổ Sử Nhật Bản và Bình Giảng Sử Liệu cho chứng chỉ Lịch
Sử Thế Giới Thời Cổ, sĩ số khoảng 15 sinh viên. Soạn bài thì tôi
bỏ rất nhiều thì giờ vì trọng nghề Thầy và vì khi soạn bài
là khi tôi cũng học thêm.
Thành
phần giáo sư Ban Sử khi ấy gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất là
giáo sư cơ hữu, tức chính thức của Ban, gồm có bốn vị là gs
Nguyễn Thế Anh (Thạc sĩ Sử và Tiến sĩ Đệ Tam Cấp tại Paris,
Pháp), gs Châu Long (Tiến sĩ đại học, Pháp), gs Đỗ Phan Hạnh
(Cao Học Sử, ĐHVK Sài Gòn), và tôi.
Tuy
đều là những giáo sư dạy lớp, nhưng ng̣ach trật -cũng có
nghĩa là lương bổng- hoàn toàn khác nhau. Giáo sư Nguyễn Thế
Anh và Châu Long thuộc ngạch Giáo sư Diễn Giảng (chỉ số lương
1,100-1,200?) dù ông Châu Long chỉ là tiến sĩ đại học Pháp
(docteur d’université). Gs Đỗ Phan Hạnh thuộc ngạch Giảng Sư (chỉ
số lương 750-800?) và tôi thuộc ngạch Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị
Cấp (chỉ số lương 470) tuy gs Hạnh và tôi đều có Cao Học.
Giấy Biên Nhận của Ban Sử Học có chữ ký và
ghi rõ chức vụ của tôi: “G.S. Trần Anh Tuấn.”
Cao
Học mà được đặc cách vào ngạch Giảng Sư -là ngạch căn bản
phải có văn bằng tiến sĩ- là một vết nhơ của giáo dục Đại
Học thời VNCH.
Cao
Học chỉ là ngạch Phụ Khảo. Nhưng bấy giờ một bộ trưởng Phủ
Thủ Tướng (không biết học thức đến đâu!) có người em làm Phụ
Khảo ở Đại Học Sư Phạm Sài Gòn nên ký một nghị định đặc
cách cho các Phụ Khảo được cải ngạch thành Giảng Sư. Nghị
định lại đặc biệt chỉ giới hạn những Phụ Khảo trong thời
điểm phù hợp với tình trạng của em ông ta, sau thời điểm đó
thì dù đang ở ngạch Phụ Khảo còn phải thi tuyển. Thế là Hội
Đồng Khoa -tức là Ban Giám Đốc- của Trường Văn Khoa tổ chức
một kỳ thi cho những Phụ Khảo hiện hữu không những không được
cải ngạch Giảng Sư mà còn phải thi vào ngạch Phụ Khảo. Hôm
thi, các đại giáo sư Văn Khoa đều lánh mặt, đùn cho một giáo sư
ngoại quốc hiền lành là gs Philippe Langlet làm Giám Thị. Tội
nghiệp, Ông chỉ biết ngồi trên bàn như phỗng đá! Nhưng tất cả
các Phụ Khảo hiện hữu -dĩ nhiên kể cả tôi- phản đối không ai làm
bài thi.
Và
chuyện ngạch trật cũng qua đi như một cơn gió chướng, thời
buổi nhiễu nhương vô đạo đức ai hưởng được cái gì cứ hưởng!
Sự
việc vô lý và bất công ấy khiến tôi thấm thía lời của Lê
Duẩn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, khi ông ta nhận định,
nguyên văn: “Bọn
tư bản chúng nó làm luật để bảo vệ quyền lợi của chúng nó.
Nay ta phải làm luật để bảo vệ quyền lợi của giai cấp chúng
ta.”
Buổi
ấy tôi đâu thiết tha gì đến quyền lợi vật chất. Từ năm 1967
cho đến năm 1975, tôi vẫn hưởng lương GSTHĐ2C hạng Tư với chỉ số 470
là hạng đầu tiên khi ra trường ĐHSP Sài Gòn năm 67 cũng chẳng
sao! Chẳng có cấp trên nào theo luật lệ phải cải ngạch cho tôi,
tôi cũng không để ý. Nhưng gian dối đến độ phải đạo văn người
khác, hay giúp người khác đứng tên công trình của mình, và nhất
là ỷ quyền cậy thế ký giấy đưa nhau lên ngạch thêm lương… mà tôi biết
từng người từng chi tiết chỉ làm tôi xem thường!
Chứng Minh Thư của Đại Học Văn Khoa
Sài Gòn năm 1973 ghi rõ “Giáo sư THĐ2C.”
Nhóm
thứ hai là quý vị giáo sư dạy giờ, gồm gs Philippe Langlet
(Thạc sĩ Sử và Tiến sĩ Đệ Tam Cấp tại Paris, Pháp, thuộc
Phái Bộ Văn Hoá Pháp), gs Nghiêm Thẩm (Tốt nghiệp Bảo Tàng
Học, Viện Louvre, Pháp, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Sài Gòn), gs
Thọ Xuân Lê Văn Phúc (Giáo viên hồi hưu), và gs Phạm Cao Dương
(Giáo sư Đại Học Sư Phạm Sài Gòn).
Trong
biến cố 30.4.1975 thì gs Nguyễn Thế Anh, gs Đỗ Phan Hạnh và gs
Phạm Cao Dương lần lượt chạy được sang Pháp, Canada và Mỹ. Còn
lại trong nước là gs Châu Long, gs Thọ Xuân Lê Văn Phúc, gs Nghiêm
Thẩm và tôi.
Những
người còn lại nổi trôi theo vận nước. Gs Châu Long được cấp
phát một biệt thự 18 phòng ở Phú Nhuận vì ông “nằm vùng,”
tức là hoạt động nội thành cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam. Gs Thọ Xuân Lê Văn Phúc gặp lại nhóm bạn giáo viên
ngày xưa, nay đã là những cán bộ văn hóa cao cấp của chính
quyền mới. Gs Nghiêm Thẩm bị thảm sát không rõ lý do, hoặc là
vì cán bộ văn hoá cao cấp nào đó thèm muốn kho sách quý giá
của Ông, hoặc là lụy vì tình. Còn tôi thì bị tù tập trung
trong các Trại Trảng Lớn, Kà Tum, Đồng Ban, và Xuân Lộc trong ba
năm vì thời VNCH, tôi bị động viên khóa 2/68.
Thuở
ấy tôi toàn tâm toàn ý với Sử Học -bây giờ vẫn thế-. Lý
tưởng của người giáo sư trẻ từ thập niên 1960-70 không phải là
tiền bạc hay quyền thế địa vị. Đơn thuần chỉ là đọc và viết
Sử theo phương châm tất cả sự thật và không gì ngoài sự thật cùng nhận định chết là cùng!
Sau
ngày 30.4.1975, cái nhận định ấy đã được tôi áp dụng tại
Trại Tập Trung Trảng Lớn, Tây Ninh mà đội trưởng cùng bị cầm
tù là bác sĩ Nguyễn Tường Vân một hôm sau khi đi họp “giao ban”
với cán bộ về, lo lắng nói riêng với tôi là anh trung úy cán
bộ quản giáo nói, nguyên văn, “Anh Tuấn khinh chúng tôi.” Lúc ấy
tôi chỉ thản nhiên cười mà không giải thích với anh Vân là tôi
đang vui trong lòng.
Vui
vì mình thế nào họ mới nói là “khinh,” chứ họ coi thường
thì sẽ nói “hỗn,” hay “láo” chứ! Anh Vân, bây giờ anh ở đâu?
Nếu còn hiện diện trên Trái Đất này, tuổi anh cũng đã trên 80
và cầu mong anh được an khang trường thọ.
Nguyên
nhân cán bộ quản giáo trách tôi là vì trong dịp kỷ niệm Cách Mạng Tháng
Tám năm 1975, tôi được/bị cắt cử đại diện trại (L3T3 thì phải?) lên hội
trường nói về Cách Mạng Mùa Thu. Hôm ấy, tôi cứ nói như đang giảng bài ở
Văn Khoa mà quên thân phận đang bị cầm tù. Tôi đã nghĩ trong lòng, là
phải giữ tư cách của một giáo sư đại học miền Nam nên cứ thẳng thắn
trình bầy những sự kiện lịch sử mà mình biết, xoáy vào ý niệm “cướp
chính quyền” chứ không phải “cách mạng.” Tuy vậy, tôi cũng đã “thủ” chứ
không phải cắm đầu vào xe lửa đang chạy trên đường rầy. Thủ về nghĩa của
chữ “cướp.” Tôi nghĩ đến chuyện chúc mừng của người xưa khi bạn sinh
con trai với câu:
Mong cho chóng lớn đi ăn cướp…
(Ngừng cho thơ ngấm vào bạn và mọi người chung quanh. Rồi mới hạ câu:
…Cướp lấy khôi nguyên kẻo nữa hoài!
Còn nếu cán bộ trại không phản ứng thì tốt thôi, cướp vẫn hoàn cướp!
Tính
cách đó đã từng biểu lộ qua các giảng đường Đại Học Văn Khoa
đường Cường Để những năm 1972-75 chắc phần nào nhận được sự
cảm thông của hơn 3,000 sinh viên Ban Sử. Trong số sinh viên hay
tìm gặp tôi sau giờ học, tôi nhớ có một nhóm chủng sinh đại
chủng viện đang học Năm Thứ Nhất và sáng nay, tôi tình cờ biết
được tin mừng làm tôi rất vui và hãnh diện, về một người trong
nhóm đó.
Niềm
vui được trọn vẹn, không như niềm vui bàng hoàng khi một cựu
sinh viên khác giữ vai trò quan trọng trong guồng máy nhà nước
Cộng Sản.
TRẦN ANH TUẤN
10.2019-cập nhật 15.4.2020
No comments:
Post a Comment