Một hôm, Thịnh “con” ở tiểu đoàn một đã liều mò tới
đấy và giữa tro tàn của ngôi làng cậu ta đã bắn chết một con vượn rất
to, phải bốn người kéo ra mới khiêng nổi con thú về chỗ lán của đội
trinh sát. Nhưng, lạy Chúa tôi, đến khi ngả nó ra, cạo sạch được bộ lông
thì ôi giời đất ôi, con vật hiện nguyên hình một mụ đàn bà béo xệ, da
sùi lở nửa xám nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược. Cả lũ bọn Kiên thất
kinh, rú lên, ù té quẳng tiệt nồi niêu dao thớt. Ở trung đoàn chẳng ai
người ta tin chuyện đó, nhưng chuyện đó là có thật. Bọn Kiên đã chôn
cất, đắp điếm tử tế mồ mả cho “người ấy”, nhưng sự báo oán vẫn chẳng
tránh được. Một thời gian sau, Thịnh “con” bị giết. Và lần lượt, kế tiếp
nhau hầu hết trung đội đã bỏ mình. Còn sót lại có mình Kiên, như vậy
đấy…
Thời ấy… thực ra thì mới chỉ năm ngoái đó thôi.
Mùa
mưa, trước ngày hành quân xuống cánh Nam Tiến đánh Buôn Ma Thuột, trung
đoàn 3 của Kiên hiện đã có gần cả hai tháng trời thả neo ở đây. So với
hồi đó cảnh vật bây giờ chưa chắc có gì thay đổi, số cây trong rừng chưa
thể kịp ít đi hay là nhiều hơn lên, và các lối mòn mà bọn anh từng hàng
ngày qua lại vẫn chưa hoàn toàn bị cỏ dại của đáy rừng nuốt chửng. Hồi
đó trinh sát chọn chỗ dựng lán ở ngay trên bờ con suối này nhưng dịch
sâu vào trong rừng kia chừng mười phút nữa, nơi triền suối đụng phải
chân núi, tẽ đôi, chảy dốc xuống theo hai lòng khe. Bây giờ chưa chừng
tại cái ngã ba suối ấy cái “am cỏ” của bọn anh vẫn còn, lúp xúp mái
gianh bên bờ nước giữa những vạt lau ướt lướt thướt. Hồi đó từ các cửa
xanh, trung đoàn thu quân về hậu cứ để chỉnh huấn. Liên miên chính trị.
Chính trị sáng, chính trị chiều, tối lại cũng chính trị… Ta thắng địch
thua, miền Bắc được mùa, thế giới chia làm ba phe rõ rệt… Tuy nhiên cánh
trinh sát con cưng bao giờ cũng được nể vì, ít bị ốp học nên cũng có
khối thì giờ để chơi bời, tranh thủ xả hơi trước khi trở lại vùng chiến.
Đi săn, đặt bẫy, tổ chức dốc cá và tối tối thì chơi bài. Cả đời Kiên
chưa khi nào máu mê cờ bạc như là hồi đó ở đây. Bài bạc lu bù. Thường là
cứ chập tối cơm xong bắt đầu ngả chiếu bạc. Trong bầu không khí ẩm
rượt, nồng ngạt mùi mồ hôi và khét lẹt khói xông muỗi, các con bạc châu
quanh cỗ bài, tơi bời đỏ đen.
Tiền đặt cửa thường
là những tàu thuốc “đồng bào” hôi mù, cay cú hơn thì thuốc lào, đá lửa
hoặc sợi hồng ma một thứ tiền ma túy - hoặc là lương khô và ảnh nữa, ảnh
con gái các loại, bất kể gái tây hay gái ta, xấu hay đẹp, người yêu hay
người dưng, dùng tuốt, dốc hết ra mà sát phạt. Chẳng còn gì ăn thua nữa
thì quệt muội đèn, chơi trò bôi râu. Người đánh kẻ chầu rìa, vui vẻ, om
sòm nhiều hôm thâu đêm. Tuồng như là một thời kỳ sung sướng, bình yên,
nhàn cư, vô tư lự lắm vậy. Mà quả là cũng sung sướng thật, những ngày ấy
trong gần suốt mùa mưa chẳng phải đánh đấm gì, cả trung đội mười ba
đứa, vẫn còn đủ mặt. Kể cả Thịnh “con” cũng phải sống ở đây đến hơn một
tháng rồi mới bị giết. Can chưa đào ngũ. Rồi Vĩnh, Thịnh “nhớn”, và Cừ,
Oanh rồi Tạc “voi” nữa còn sống cả. Vậy mà bây giờ ngoài một cỗ bài sờn
nát, quăn queo, lem nhem dấu tay của những người đã chết, Kiên chẳng còn
có thêm một kỷ vật nào nữa về trung đội mình.
- Chín - Mười - Zi này!
- Qui - Ka - Át này!
Thỉnh
thoảng anh vẫn mơ thấy chúng, những con bài ấy. Xướng lên và một mình
đỏ đen với mình. “Con cơ này, con rô này, và đây con chuồn…”. Bản hành
khúc trung đoàn ca được lính tráng hát chệch lời đi - “…đằng nào rồi
cũng phăng teo, mạnh tay mạnh tay ta quật, vui chơi xả láng cóc cần…”.
Cỗ bài được trang lần cuối, Kiên nhớ, khi trung đội chỉ còn lại bốn
mống: Từ, Thanh, Vân và Kiên.
Ấy là buổi tinh mơ
mờ đất, nửa giờ trước khi pháo cấp tập mở màn chiến dịch công phá Sài
Gòn. Bên kia cánh đồng hoang ngập đầy cỏ Mỹ là tuyến phòng thủ Củ Chi.
Bọn ngụy đang khởi động, cắc đoành nã cối và quờ quạng khua đại liên.
Dưới các ngách hào và hố cá nhân bộ binh vẫn đang cố tận hưởng những hớp
cuối cùng của giấc ngủ. Nhưng bốn tay trinh sát trung đoàn sắp sửa dẫn
đầu phân đội mũi nhọn xung phong thì lại đang mải miết “tiến lên”.
- Chơi tà tà nhé, - Kiên đề nghị - nếu dở ván thì trời để cho cả bốn thằng sống qua trận này, để còn chơi tiếp.
-
Khôn lỏi thế, - Thành nhăn răng cười - Trời có phải thằng ngốc đâu mà
bịp. Cố tình đánh dở ván lão sẽ cho cả bốn thằng “chui xuống dưới đó” mà
vặt lông nhau.
- Xuống cả làm gì bốn thằng, - Từ
bảo - một mình tao ôm cỗ bài xuống là được. Sẽ đánh xì, hoặc sẽ tổ chức
bói bài tây cho bọn quỉ sứ gác vạc dầu. Vui chán!
Sương
mù như đột nhiên loãng tuệch ra. Pháo hiệu vụt lên không. Bộ binh rầm
rập thức giấc. Xe tăng tiến ra tuyến xuất kích, tháp pháo lắc lư, xích
nghiến nảy đất rung chuyển làn gió mai.
- Thôi,
dẹp? - Kiên quăng bài xuống, và không nén nổi anh thốt lên dằn dỗi - đã
bảo cố chơi chầm chậm cầu may, mà thằng quái nào cũng háu ăn thua?
-
Ơ mà này? - Vân còm vỗ đùi la, vẻ hứng chí - Thế đếch nào mà mãi tới
giờ tớ mới thấy khoái cái trò xì át cạc tê này chứ lị. Phải tập chơi cho
ra trò mới được. Tao chết chúng mày nhớ liệng xuống hố cho nhau một cỗ
bài nhé?
- Có mỗi một bộ mà nó đòi cả, gớm thật
là lỏi quá đấy? - Thanh kêu lên giọng chìm đi trong tiếng đề pa của hàng
chục họng tầm xa vừa đồng loạt gầm.
Sau đấy
chừng nửa giờ Vân chết cháy cùng với chiếc T54 đầu đàn. Thân xác ra tro
nên chẳng cần huyệt mộ. Còn Thanh thì chết ở Cầu Bông, và cũng bị thiêu
trong quan tài thép cùng với tổ lái. Chỉ có Từ là đã cùng Kiên đánh đến
cửa số 5 sân bay Tân Sơn Nhất rồi mới hy sinh.
Đêm 29 rạng ngày 30, khi hai thằng gặp nhau lần chót trên nóc nhà phở Tàu bay, Từ móc cỗ bài dưới đáy bồng ra trao cho Kiên.
-
Thế nào tớ cũng ngỏm trận này. Vậy cậu giữ lấy. Còn sống trở về thì
dùng nó mà đánh bạc với đời… Các quân hai, quân ba, quân bốn này chứa
hồn thiêng của cả trung đội đấy, bọn tớ sẽ phù hộ cho cậu trăm trận trăm
thắng…
Kiên lặng đi nhớ lại. Đêm nay hồn ai gọi
hồn ai. Tiếng hú cất lên từ đâu đó trong rừng thẳm, âm u truyền dọc theo
những gờ núi lạnh lẽo của truông Gọi Hồn. Cô đơn. Lạc lõng. Núi vẫn
thế, rừng vẫn thế, suối sông cũng vẫn thế thôi, bởi có là bao một năm
trời. Chỉ có điều hồi đó đang chiến tranh còn bây giờ trái lại, đã hòa
bình rồi.
Cùng là một trang cuộc đời nhưng mà là hai thế giới, hai thời đại…
Hồi
đó, vào độ cuối tháng Tám, ven các cánh rừng dọc theo triền suối này
hoa hồng ma nở rộ trong mưa, đâm bông trắng xóa, thở hương thơm ngát.
Nhất là về đêm hương hoa như thể được cô đậm, ngọt, ngào ngạt, thẩm thấu
vào giấc ngủ làm thành bao nhiêu là giấc ngủ mơ kỳ lạ gây những ám ảnh
khoái lạc mê mẩn. Buổi sáng thức dậy hương hoa dẫu nhạt nhiều rồi song
ai nấy vẫn cảm thấy âm ỉ trong lòng một nỗi đắm đuối bí ẩn, vừa thích
vừa rợn. Nhưng cũng phải khá lâu sau mới khám phá được rằng nguyên nhân
của những ảo giác đêm khuya ở vùng này là hương thơm của hồng ma, cái
thứ hoa quỉ hoa ma này Kiên đã gặp ở các cánh rừng trên sườn tây Ngọc
Linh và cả xa xăm trong miền Tà Rệt bên Miên nữa, nhưng không ở đâu mọc
nhiều như ở đây. Bông hồng ma nom từa tựa tầm xuân nhưng nhỏ hơn, nở dày
hơn, cây hoa thường mọc tràn sát các mép suối. Loài cá mõm trâu ở vùng
này vì thường xuyên rỉa rê hồng ma nên thịt rất ngon nhưng dễ gây say
thậm chí có thể làm chết người. Chúng gây độc còn có thể hơn cả loài cá
ráu chuyên ăn mã tiền, người ta còn bảo hồng ma thường đặc biệt mọc dày ở
những vạt đất từng có nhiều người thiệt mạng, tử khí tụ lại nhiều. Có
nghĩa hồng ma là loại hoa ưa máu, tuy nhiên thật khó tin vì nó thơm như
thế cơ mà. Về sau chính đám trinh sát bọn Kiên ngồi rỗi rồi bày trò phơi
sấy, thái nhỏ hoa, lá và rễ hồng ma trộn với sợi thuốc rê. Thật là đã
hết sức đã. Chỉ sau vài hơi rất mạnh là đã lặng lẽ xiêu lịm đi như tà
khói mong manh trước gió. Nhờ khói hồng ma người ta có thể tự chế ra các
ảo giác tùy sở thích, có thể định hướng được mộng mị và hòa trộn các
giấc mơ vào nhau như thể pha cốc- tai. Có thể nhờ khói hồng ma mà quên
mọi nông nỗi đời lính, quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày mai. Bản
thân Kiên cứ mỗi bận thưởng thức thứ bả độc này thì lại thêm được một
lần nhập thân tràn ngập vào thế giới của những giấc mơ bí ẩn và tráng lệ
mà lúc bình thường tâm hồn chẳng thể với tới. Trong những cơn mưa đổ
đốn ấy, không gian tưởng tượng thật trong lành, bầu trời cao vọi, mây
nắng tuyệt vời gần như là tầng trời của những giấc chiêm bao thời thơ
ấu. Và dưới vòm trời sán lạn ấy, Kiên lại được thấy Hà Nội của anh, Hồ
Tây, chiều hạ, hàng phượng vĩ ven hồ, tiếng ve sầu ran lên khi hoàng hôn
xuống anh cũng nghe thấy, và cảm thấy gió hồ lộng thổi, cảm thấy sóng
vỗ mạn thuyền. Anh mơ thấy Phương đang cùng ở trên thuyền thoi với anh,
tóc vờn trước gió, trẻ trung xinh đẹp, không một nét sầu thương. Đồng
đội của anh thì cũng mỗi người mỗi kiểu say sưa mơ màng trong khói hồng
ma. Mỗi người mỗi lối đi lạc khỏi thực cảnh chung. Như là Cừ thì rượu
sắn hay hồng ma đều chỉ khuấy lên độc một cảnh tượng ủy mị, khó tin của
ngày trở về với những sum họp đoàn tụ dễ chịu đến nỗi nghe Cừ tả lại ai
cũng phải rớt nước mắt với hắn. Còn Vĩnh thì chỉ rặt mơ thấy đàn bà, và
hắn thường xuyên khoái trá tả thực cho anh em nghe về những cuộc làm
tình tưởng tượng vô cùng tham lam, phức tạp rất ngóc ngách, đầy kỳ thú
và sống sượng với chị em huyền thoại của hắn. Còn Tạo “voi” lại đặc biệt
hay mơ sự ăn uống. Không chỉ mơ dược ăn no, Tạo còn vẽ ra trong đầu
những mâm cỗ ăm ắp các món ăn béo bở do tâm thần mộng mị của hắn bịa tạc
nên. Trạng thái mụ mẫm do khói hồng ma đã từ lán trinh sát lây lan khắp
trung đoàn. Đến nỗi khi có lệnh của chính ủy nghiêm cấm sử dụng hồng ma
thì khắp Gọi Hồn loài hoa này đã bị lính ta săn lùng, đào xới, nhổ hái
tới tiệt giống. Cùng với thời kỳ bài bạc và hút xách ấy là thời kỳ mà
trung đoàn đầy rẫy những lời đồn đại, những sấm truyền và những điều
được tiên tri. Có thể là bởi những cơn mê lú hồng ma chăng mà lính ta đã
nhìn thấy tận mắt vô khối sự hão huyền. Người ta đã trông thấy nhiều
quái vật lông lá có cả cánh lẫn vú với cái đuôi kỳ nhông kéo lết và họ
ngửi thấy mùi tanh máu từ chúng, nghe thấy chúng gào rú và ca hát trong
các hang động tối om ở chân đèo Thăng Thiên bên kia truông Gọi Hồn.
Nhiều người đã chính mắt nom thấy những toán lính da đen không đầu chơi
trò rước đèn ở ven rừng. Song đặc biệt rùng rợn là những tiếng rú man
dại thường cất lên vào những buổi tinh mơ mờ mịt mưa giăng làm tái sạm
mặt mày những ai chẳng may mà nghe phải. Người ta ngờ rằng ấy là tiếng
hú gọi đàn của bầy vượn người thái cổ cuối cùng trên hành tinh mà sự tồn
tại của các tổ tiên này ở Tây Nguyên đã từng được đồn đại từ nhiều năm
trước. Và tất nhiên tất cả những sự tai nghe mắt thấy đó đều được quy
thành điềm trời cảnh báo một thời tai họa, thảm khốc và đẫm máu, có thể
đẫm máu hơn cả hồi Mậu Thân, đang kề tới với mỗi nhân mạng trên chiến
trường này. Những tay sính chuyện hoang đường và những tay am tường tử
vi lén lút mách bảo số phận cho bạn bè. Bấy giờ ở khắp trung đoàn, trong
lán của các tiểu đội đều có bàn thờ cúng tế vong linh đồng đội. Trong
khói hương bài cay nồng, lính tráng rập đầu khấn khứa “… Sống khổ chết
đau, tử sinh đành nhẽ chung phận lính… xin hồn thiêng phù hộ anh em vượt
vòng binh lửa đánh trận rửa thù…”.
Trong trời
thì cứ mưa, ngày này qua ngày khác. Cuộc chiến có vẻ như bị vùi lấp
trong biển mênh mông mù mịt mùa mưa, thế nhưng nếu cứ để tâm lắng nghe
mãi tiếng mưa rơi trên mái rừng và ngước nhìn mãi bầu trời thâm xám,
thấp và tối như vòm hang thì người ta chỉ có thể nghĩ tới chỉ duy nhất
nó mà thôi: chiến tranh, chiến tranh. Bốn bề mìn mịt chỉ một màu mưa
trĩu lòng, một màu núi màu rừng ảm đạm và đói khổ. Khắp Tây Nguyên, từ
miền non cao Cánh Bắc tới Cánh Trung, Cánh Nam thảo nguyên bao la vô
định nơi thì im lìm chết lặng nơi thì rền vang tiếng súng. Cuộc đời của
bộ binh B3 thời hiệp định vẫn đằng đẵng chuỗi ngày cùng cực. Sau những
tháng ròng liên miên rút lui là những đợt đại phản công dữ dội, rồi lại
phải khiêng nhau mở đường máu chạy. Rồi lại phản công… Hết trận thắng
này đến trận thắng khác nhưng đường chiến tranh vẫn hun hút mịt mù,
tuyệt vọng vô phương.
Trong mưa đại bác vang rền
nặng nề thúc dội ra ngoài trăm dặm điềm báo trước một mùa khô hung gở
đang áp tới bên trời. Con Rốc. Măng Đen. Rồi Măng Bút. Vào tháng Chín ấy
quân ta húc mạnh ở vành đai phòng thủ thị xã Công Tum. Chiến sự lớn lao
làm chuyển rung như muốn lay bật từng thước vuông miền Cánh Bắc. Tại
trung đoàn 3 lúc bấy giờ vẫn đang náu ở Gọi Hồn này, ai nấy nơm nớp một
lệnh hành quân ứng chiến, cấp tập quăng mình vào cõi một sống một chết.
“Chân trời chết chóc mở ra mênh mang, vô tận những nấm mồ bộ đội mọc lên
nhấp nhô tựa sóng cồn…” bên bếp lửa đàn ghi ta bập bùng, quân lính thời
74 hát, lời ca khốc liệt làm ớn lạnh những đêm trường, “ôi chiến trận
không bến không bờ… ngày mai hay hôm nay, hôm nay hay ngày mai, nói đi
số mệnh ơi, bao giờ tôi sẽ…”.
Cuối buổi chiều hôm
Can bỏ trốn, một buổi chiều mùa thu mưa dầm chán ngấy, Kiên đang ở bên
suối ngồi câu. Mưa chiều hôm ấy không to mà đều đều, âm âm, buồn thảm.
Dòng lũ căng nhức sôi réo lên, ầm ầm lao chảy như chực cuốn văng đi cả
đôi bờ. Nhưng ngay tại chỗ Kiên ngồi buông câu nước ngoạm sâu vào vách
đất làm trơ rễ những cây roi suối và tạo thành vũng lặng. Kiên thu mình
trong tấm tơi lá, bó gối nhìn làn nước cuồn cuộn, không muốn gì và không
nghĩ ngợi gì cả.
Dạo này hồng ma tiệt nọc rồi,
tâm hồn chẳng còn víu vào đâu được nữa, cứ như từ từ trôi lạc đi và hàng
ngày Kiên có thể ngồi im lìm bên suối hàng giờ, ảm đạm buông mình theo
dòng ưu tư buồn ngủ. Mùa thu não nề, lê thê, mùa mưa ê ẩm. Khẩu phần
lương thực đang sụt xuống nhanh như thể nước trong cái bình bị đập vỡ
đáy. Khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết cả máu, vì áo quần
bục nát tả tơi và vì những lở loét cùng người như phong hủi, cả trung
đội chẳng còn ai trông ra hồn thằng trinh sát nữa. Mặt mày ai nấy như
lên rêu. Ủ dột. Yếm thế. Đời sống mục ra. Đôi khi để gượng lên, Kiên ép
mình vào một suy nghĩ nào đó. Anh cố khơi dòng ký ức, cố nhớ, cố hồi
tưởng để tâm trí mình lên. Nhưng uổng công. Toàn bộ cuộc đời, từ đầu, từ
thủa thiếu thời đến giờ cơ hồ đã tách khỏi anh, trôi dạt, xa lắc xa lơ
trong miền vô cảm. Có lẽ chưa bao giờ cái biệt hiệu Thần Sầu phải mang
từ hồi mới nhập ngũ lại chí lý với hình ảnh con người Kiên như vào những
ngày mưa sầu thảm sống ở Gọi Hồn này. Lãnh đạm và ơ hờ với mọi người,
với mọi sự xung quanh, anh như đang âm thầm vĩnh biệt chính mình.
Anh
đón đợi cái chết, nhưng ngay cả nó, cái chết cũng tầm thường và vô vị.
Kiên thản nhiên nhìn nhận nó với đôi chút ưu sầu, và đôi khi với cả niềm
mỉa mai, kỳ cục như thế đấy. Tuần trước, khi đụng độ với bọn thám báo ở
bên kia núi, Kiên đã thực sự vờn mặt tử thần. Trong khi tất cả ta và
địch đang nhanh chóng tản khai, nhào núp vào sau các thân cây và bắn
loạn xạ thì Kiên cứ lừng lững tiến thẳng lên. Khẩu AK của tên địch núp
sau gốc cây trước mặt dồn dập nã. Kiên chẳng buồn khom người xuống,
thong thả đi tới, vẻ khinh thị đầy uể oải. Tên ngụy hấp tấp bắn. Hắn
cuống. Đạn nổ inh tai. Song cả ba chục viên đạn quạt căng rát kỳ thay
không một viên gãi vào Kiên. Anh không bắn trả, chỉ còn cách con mồi vài
bước nữa, vẫn không bắn. Tuồng như anh muốn ban cho tên ngụy cơ hội để
sống còn: kịp thay băng, ngắm kỹ mà bắn gục anh. Nhưng chính sự chán
chường táo tợn của Kiên đã làm xiêu lạc hồn phách hắn. Run bần bật, hắn
đánh rớt khẩu tiểu liên.
- Đồ cứt đái? Kiên chửi gằn và xiết cò.
Điểm xạ AK bắn gần đến nỗi tên ngụy bật khỏi gốc cây như bị búng đi.
-
Má… á á… - Kẻ bị giết a á rú lên thất thanh. Kiên rùng mình nhảy xổ
tới. Đạn từ các gốc cây quạt châu lại. Mặc, Kiên nghiến răng, đứng phơi
ra chúc họng súng xuống, điên cuồng nã từng phát, từng phát đóng đanh
lên cái thân xác còn nóng hổi sức sống đang oằn oại đau đớn trong cơn
rùng giật giãy chết. Máu phọt tóe lên ướt ống quần Kiên. Rồi, hai bàn
chân in dấu đỏ lòm lên cỏ, anh lại từ từ đi thẳng đến những tên thám báo
khác đang núp bắn, súng kẹp bên sườn một cách hờ hững, ngực áo phanh
rộng. Không sợ hãi, không nổi hung lên. Mệt mỏi âm thầm, vậy đấy…
Vậy
mà trưa hôm nay người ta lại triệu Kiên lên ban quân lực trung đoàn để
thông báo anh được xếp vào danh sách đi học dài hạn. Trường sĩ quan lục
quân và hiện chỉ chờ quyết định của sư đoàn nữa là sẽ lên đường ra Bắc.
-
Đánh nhau còn xơi, chả biết đến bao giờ mới mãn cuộc, trưởng ban quân
lực rầu rĩ nói khàn khàn - Phải giữ giống không thì tiệt. Sau vụ thu
hoạch thất bát dù có đói nhăn vẫn phải chọn những hạt thóc tốt nhất cho
mùa sau… Khi các cậu học xong trở về thì bọn tớ, lớp cán bộ chỉ huy hiện
nay chả chắc còn sót mống nào. Trung đoàn và nói chung chiến tranh là
do chính các cậu xoay vần.
Kiên làm thinh. Vài
năm trước có lẽ anh đã lấy làm hãnh diện và vui mừng coi đây là một hạnh
vận nhưng bây giờ thì không, bây giờ thì xin đủ. Chẳng những không muốn
mà chắc chắn chẳng bao giờ đi học, chịu trở thành hạt giống cho những
vụ mùa chiến tranh liên miên. Anh chỉ muốn được yên thân, chết một cách
yên thân, yên với số phận con sâu cái kiến của chiến tranh. Anh chỉ có
thể sống và chỉ có thể vui lòng chết trong hàng ngũ những người lính
thường mà một trong những đặc trưng góp phần tạo lên sức mạnh vô địch
của họ ở mọi chiến trường là tính chất nghĩa quân nông dân giản dị, dịu
hiền có cách nhìn đời nhân hậu và rõ ràng sẵn sàng chịu mọi tai họa của
chiến tranh tuy nhiên không bao giờ là những người chủ chiến…
Đằng
sau có tiếng chân ai đó đang đi tới, nhưng Kiên không ngoảnh lại. Người
nọ bước đến bên anh, lặng lẽ ngồi xuống. Lúc này ở rừng tre bên kia
suối bóng tối dường như đã ken dày. Hoàng hôn nhòa mịt. Ngày mưa ngắn
ngủi lụt chìm.
- Ngồi câu đấy à? - Người nọ lên tiếng.
- Ừ! - Nhạt nhẽo, Kiên nhìn sang. Ấy là Can, A trưởng A2, một anh chàng bé nhỏ, còm nhom, quê ở “cầu tõm”. Can cầu tõm.
- Dùng mồi gì thế?
- Giun, với nước bọt - Kiên đáp uể oải, nhổ chắt qua kẽ răng - thấy bảo đang sốt cơ mà, mò ra dầm mưa làm gì vậy?
- Chưa được con nào à?
-
Ờ, câu để mà câu ấy mà - Kiên lầm bầm. Quỉ thật, anh nghĩ. Y hẳn lại
chực tâm sự chi đây. Anh chúa ghét nghe ai bộc bạch sự tình riêng tư
ngóc ngách. Nếu cả trung đội vào những ngày toàn sự cực khổ này đều đến
tìm anh để bày tỏ nỗi nọ niềm kia thì chắc chắn anh phải đâm đầu xuống
thác thôi.
- Ngoài Bắc cũng đang mưa to lắm, -
Can gợi chuyện giọng ủ ê - Đài họ loan thế, bảo là to chưa từng thấy.
Quê tôi lại lụt mất. Kiên ậm ừ. Mưa mau hơn. Không khí se lạnh. Sắp tối
hẳn tới nơi rồi.
- Nghe nói anh sắp được ra Bắc học phải không? - Can hỏi.
- Ừ, - Kiên đáp, sa sầm - mà sao?
- Không. Hỏi thế thôi. Mừng cho anh.
- Mừng à? Kiên cười gằn, và rành rọt văng một câu rõ tục.
-
Không, đừng nghĩ là tôi tỵ Kiên. Thành thật đấy. Anh không ưa tôi,
nhưng chẳng lẽ không hiểu lòng dạ tôi chút nào sao? Ai trong anh em mình
được sống, ra Bắc cũng là đáng mừng cả. Cứ ra đi rồi tính sau. Kệ. Miễn
là không ngỏm trong mùa khô tới. Trời cho thì cứ nhận. Anh đã chịu đựng
nhiều. Với lại anh là con nhà trí thức, không đáng phải chết. Với lại,
nói thực chẳng ai muốn chết, đúng không?
- Ai mà
muốn chết, thực thế. Nhưng chẳng tự ý trách nó được, càng không thể trút
nó lên vai người khác. Tớ chả đi đâu mà cậu phải mừng hộ tớ.
-
Còn tôi thì bấy lâu vẫn ngóng một cơ hội. Thú thực là tôi vẫn mơ đợt
học sĩ quan này. Chứ sao, tôi ít tuổi hơn anh. Đã tốt nghiệp 10. Huân
chương chiến công. Tôi rất gắng tu dưỡng, chính anh cũng biết đấy. Tôi
hoàn thành nhiệm vụ, không cãi cấp trên, không rượu, không hồng ma,
không đánh bài, xúc gái, văng tục cũng không. Hóa ra công cốc. Thành
thật là không tỵ, chỉ buồn. Thành thật là tôi rất muốn sống. Đã sống gì
đâu. Nhưng tôi sẵn sàng mất tuốt chỉ để có một tuần ở ngoài Bắc.
- Nếu thế để tớ bảo quân lực họ sang tên - Kiên mỉa mai - Chứ đừng kêu càm ràm nữa. Về lán mà nằm đi!
-
Không, đừng nói vậy, Kiên? Tôi nói vậy là nói thực tình chứ có ý gì
đâu. Tôi sẽ tự cứu lấy mình. Chỉ thế thôi. Tôi không sợ chết, nhưng cứ
bắn mãi giết mãi thế này thì chết hoại tình người. Dạo này đêm nào tôi
cũng mộng thấy mình chết và tôi bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà
rồng đi hút máu người. Anh còn nhớ trận Plây-cần năm 72 không. Có nhớ
cảnh thây người la liệt trong khu gia binh không? Máu tới bụng chân, lội
lõm bõm… Tôi vẫn tự nhủ là tránh giết người bằng dao và lê, nhưng mà
quen tay mất rồi. Thế mà hồi nhỏ tôi đã suýt thi đỗ vào trường dòng đấy.
Kiên
tò mò nhìn Can. Trong quân ngũ thỉnh thoảng lại thấy tòi ra vài tay dị
giáo kiểu này. Tâm hồn bấn loạn, ngôn ngữ độc thoại rối mù, họ bị thực
cảnh chiến tranh đầy ải tàn nhẫn, làm cho suy sụp sâu sắc cả thể xác lẫn
tinh thần. Nhưng lạ lùng là bao nhiêu năm chiến đấu bên nhau, Kiên chưa
thấy Can dài dòng triết lý, chỉ thấy ở Can một bản chất con nhà nông
thích hợp tuyệt đối với cảnh địa ngục chiến hào. Đã mang thân làm thằng
lính B3 mà lại hay kêu rên và mau nước mắt thì khốn nạn càng thêm khốn
nạn Can ạ. Kiểu này, cậu phải ra khỏi làng trinh sát thôi.
-
Tôi thường tự hỏi, - Can lại tiếp tục dòng tâm sự não nề - Mình vào đây
làm gì khi để mẹ già ở nhà cơ cực không nơi nương tựa, ngày đêm than
khóc nhớ con… Hồi tôi vào lính, làng đang lụt, vất vả lắm tôi mới dìu
được mẹ tôi lên đê. Mẹ tôi cứ van tôi tìm cách mà trốn đừng để người ta
triệu tập. Nhưng lủi sao nổi cơ chứ. Anh tôi đã đi rồi, đáng lẽ tôi được
miễn coi như con độc, mà ở xã họ không chịu. Bao thằng khốn nạn ung
dung hưởng lộc chiến tranh chỉ con cái nông dân là phải dứt lòng ra đi
bỏ lại đằng sau cảnh mẹ già màn trời chiếu đất… cho nên, Kiên ạ, cho
nên…
Bất đồ Can òa khóc, gục mặt xứng đầu gối, bả
vai và mảng lưng trần gầy guộc, ướt loáng bần bật run. Kiên thu cần
câu, đứng dậy, cau mày nhìn xuống Can, nói:
- Cậu
ngửi truyền đơn của nó hơi nhiều đấy. Vô phúc mà có kẻ báo lên trên thì
rồi đời. Tớ đang nghĩ, hay là cậu đang rắp ranh “tút”?
Không ngẩng lên, Can nói, giọng bị nuốt đi trong tiếng mưa và tiếng suối:
- Thì thế chứ sao. Tôi đi… Tôi biết anh là người tốt, sẽ hiểu, nên tôi tìm anh để qua anh xin có lời từ biệt anh em…
-
Mày điên rồi, Can! Một là mày không có quyền làm thế, hai là tút làm
sao nổi. Sẽ bị tóm. Rồi tòa án binh, ăn đạn, càng vô phúc hơn. Nghe tao,
bình tâm đi. Tao sẽ kín miệng, sẽ không ai biết.
- Ba lô tôi ém sẵn trong rừng rồi.
- Tao không để mày đi dâu. Về lán ngay, cố chịu đựng một thời gian nữa. Chẳng chóng thì chày cũng phải hết chiến tranh chứ?
-
Không. Tôi đi. Thắng hay thua, kết thúc mau hay kết thúc chậm, với tôi
chẳng nghĩa lý gì nữa. Để cho tôi đi! - Can nấc lên - Đời tôi tàn rồi,
nhưng dù thế nào tôi cũng phải gặp lại mẹ, phải nhìn thấy làng tôi… Anh
sẽ không cản đâu, có phải không? Lẽ nào anh sẽ cản?
- Hãy nghe tao, Can! Đi thế này là tự sát và nhục nhã lắm.
- Sát, thì tôi đã sát quá nhiều rồi, có tự sát thì cũng chẳng biết ghê tay đâu. Thành thật đấy. Còn nhục?
Can từ từ đứng dậy, đối diện, nhìn thẳng mắt Kiên.
-
Cả đời đi đánh nhau, thú nhật, tôi chả thấy cái trò này là có gì vinh.
Nhưng do hy vọng nên vẫn còn chịu đựng. Về quê, càng khốn nạn, tôi biết.
Người ta chẳng để cho sống đâu. Nhưng mấy đêm vừa rồi tôi toàn mê thấy
mẹ tôi gọi tôi… Có nhẽ anh tôi đã chết mà mẹ tôi thì khổ não lâm bệnh
rồi chăng. Không thể nấn ná, vì suất học sĩ quan là của anh… Tôi phải
lần về quê. Chỉ mong anh em trong trung đội thương tình, thông cảm. Sẽ
chẳng ai tóm nổi tôi lại nếu như chính anh em trinh sát không truy đuổi.
Nhất là anh, Kiên ạ, anh thả cho tôi đi thì tôi sẽ đi được… Tôi đành
mang tội lỗi với anh em… Quê tôi thì anh biết rồi đấy… Hà Nam, Bình Lục…
mai sau mà có dịp…
Trong bóng tối, Can đưa bàn
tay lạnh ngắt, móp nước nắm cổ tay Kiên. Hồi lâu, Kiên gạt tay Can ra và
quay lưng bỏ đi không nói một lời. Can đứng ở lại bờ suối. Về gần tới
lán, Kiên như sực tỉnh, sững lại, vụt bỏ cần câu giỏ cá anh lao người
chạy trở lui.
- Can… an… an? - Kiên gọi, lắng nghe, rồi lại gọi gào lên - Can ơi? ơi ơi ơi..
Đợi với… ới… ới?
Suối
lũ rền rĩ. Mưa tầm tã trong bóng đêm. Tối tăm, ẩm ướt, hoang rợn, đất
trời như bị bưng kín, bị đè nghẹt. Kiên bật khóc. Anh không hiểu nổi
lòng mình, không tự chủ được, nước mắt cứ ứa ra mãi. Bấy giờ, mặc dù nạn
đào ngũ lan rộng khắp trung đoàn, chẳng khác nào những cơn ói mửa làm
ruỗng nhiều trung đội, không thể chắn giữ, ngăn bắt nổi, nhưng riêng
trường hợp Can trên vẫn truy lùng ráo riết. Người ta sợ rằng Can sẽ trốn
sang vùng địch mang theo những bí mật về hướng hành quân của toàn đoàn.
Sau nhiều ngày lội rừng sục sạo, vệ binh trung đoàn đã tìm thấy kẻ đào
tẩu. Chẳng ở đâu xa, họ tìm thấy Can ở hẻm Tò Vò, cách cụm lán của trung
đội trinh sát không đầy hai giờ băng rừng. Từ đấy về được Bình Lục còn
xa lắm, vời vợi cách trở…
Đến cuối tháng Chín,
vài ngày trước khi trung đoàn nhổ neo rời Gọi Hồn, lính tráng nhận được
thư nhà, đợt thư từ duy nhất của suốt cả mùa mưa. Riêng đội trinh sát
chỉ được độc một lá. Lại là gửi cho Can. Thư của bà mẹ. “…
cả xóm Gò hôm nay chung vui cùng mẹ may mắn bắt được thư con, mẹ liền
biên ngay thư này mong các bác quân bưu thương tình chuyển chóng tới con
để con hay rằng lẽ ra thì mẹ chết rồi mà nay còn sống là nhờ nhận được
thư con đấy con ơi - Bà mẹ viết - Con ơi, từ ngày phải giấy của đơn vị
anh con báo tử về rồi xã làm truy điệu rồi giao bằng Tổ quốc, con ơi, mẹ
ngày đêm sản xuất tăng gia cày cấy, ngày đêm cẩu trời khấn phật, cầu
ông bà tổ tiên, cầu thầy, anh con phù hộ độ trì cho con ở nơi linh lửa
được cùng anh em tất cả bình an…”.
Kiên đọc
đi đọc lại. Tờ thư run lật phật, nhòa trong mắt anh. Can chết rồi còn
đâu. Bữa đó vệ binh chỉ lượm được cái xác. Cái xác lở loét, ốm o như xác
nhái bị dòng lũ xô tấp lên một bãi lau lầy lụa. Mặt của xác chết quạ
rỉa, miệng nhét đầy bùn và lá mục, nom cực kỳ tởm. Và thối quá thể là
thối, cái thằng bê quay (đảo ngũ) chết tiệt ấy, người lính vệ binh đã tự
tay chôn Can kể lại với đám trinh sát. “Hai cái hố mắt của nó trông như
hai cái tăng xê ( hố cá nhân, hố tránh bom), mà chưa chó gì đã mọc rêu
xanh lè, rõ ghê?”, nói rồi hắn nhổ toẹt.
Từ đó
chẳng ai nhắc tới Can nữa, chẳng ai tìm hiểu vì sao Can chết: bị giết
hay bị kiệt sức giữa luồng nước lũ, hay là tự sát, mà cũng không ai thèm
kết tội Can làm gì nữa. Tên tuổi, hình hài một con người đã từng vào
sinh ra tử không kém cạnh ai và vốn hoàn toàn không phải đồ tồi đã đột
ngột chìm nghỉm đi. Chỉ riêng Kiên là không sao gột hẳn được Can ra khỏi
tâm trí. Đêm đêm anh nghe thấy Can trở về thì thào ngay bên võng, lặp
đi lặp lại cuộc chuyện trò nhạt nhẽo ở bờ suối chiều hôm nào. Tiếng thì
thào chuyển dần thành tiếng nức nở, thành tiếng nấc nghẹn y như là tiếng
nước sặc lên trong họng kẻ sắp sửa chết chìm.
“Hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng…”
Kiên
rùng mình nhớ lại lời Can. Và cứ mỗi lần quỳ xuống trước bàn thờ các
liệt sĩ của trung đội giấu mọi người, Kiên thầm thào khấn gọi linh hồn
Can, người anh em khốn khổ, bạc phước ra đi trong nhục nhã chẳng được ai
đoái hoài, hiểu đỡ cho chút ít nỗi niềm, kể cả anh…
Trong
suốt nhiều tháng trời qua, cùng anh em ở đội thu nhặt hài cốt tử sĩ
Kiên đã đi qua hầu suất miền Cánh Bắc, lần lượt trở về với vô vàn những
trận đánh lớn nhỏ và các anh đã lặng lẽ tìm thấy biết bao thành viên bị
quên lãng của đại gia đình những người tử trận. Dưới lòng sâu đất ấm của
đại ngàn họ chung nhau một số phận. Không có người vinh kẻ nhục không
người hùng kẻ nhát, không có người đáng sống và kẻ đáng chết. Chỉ người
tên tuổi còn đó, người thì thời gian đã xóa mất rồi, và người thì còn
chút xương, người chỉ đọng chút bùn lỏng. Sau những nhát xẻng, đáy huyệt
tối tăm lộ ra và lan hơi thở cuối cùng của người đã khuất phủ lên, nhập
vào Kiên. Theo dần năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại
trong lòng anh, hòa vào tiềm thức trở thành bóng tối của tâm hồn anh.
Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết,
lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn chiến tranh.
Đêm,
thật lạ lùng, một đêm có lẽ là kỳ ảo nhất trong hằng hà bao nhiêu đêm
tối của đời anh. Gần như toàn bộ cuộc đời chiến đấu với cả một đạo quân
những người đã chết mà anh từng gặp gỡ trong chiến trận đã trở về với
anh qua những cánh cửa vòm cuốn mờ tối của giấc mơ dài không dứt. Âm
vang của ngày tháng đã qua như những chuỗi sấm nguồn xa tắp làm tâm hồn
anh từng lúc một hoặc sôi sục, hoặc nhói đau, hoặc ngưng lặng đi.
Gần
sáng, rùng mình Kiên chợt tỉnh và anh nghe thấy từ đáy giấc chiêm bao
vừa tắt một tiếng hú dài, buồn đau, ghê rợn khoan xoay qua anh, ngân
vọng lên như tiếng vọng truyền giữa hai bờ núi. Định nhỏm dậy, nhưng lập
tức kìm mình, nằm yên trên võng, Kiên nhắm mắt cố đưa tâm trí hút theo
tiếng hú ấy…
Chuyện xảy ra cũng ở Gọi Hồn này,
bên suối này cũng vào mùa mưa năm ngoái, mùa mưa cuối cùng của cuộc
chiến tranh. Tiếng hú cất lên từ thung lũng bên kia núi nhưng dội sang
tận bên này. Tiếng hú của loài ma núi, người ta bảo thế, nhưng Kiên thì
Kiên biết ấy là tiếng gọi của tình yêu. Hồi đó, phải, chính là ở đây,
trong mưa rơi buồn thảm, trung đội trinh sát “nông trường 3” đã sống một
thuở yêu đương say đắm lạ lùng.
Mối cuồng si bí
ẩn, đầy tội lỗi và có một không hai bắt đầu ra sao, nhen lên từ ai, đã
ôm cuốn lấy những ai vào vòng tay của nó, Kiên hầu như không biết. Chẳng
may anh đã ở vào số một vài người bị cuộc tình ấy xa lánh. Kiên nhớ:
đơn vị về dựng lán ở ngã ba suối dưới chân núi được một đêm, hai đêm,
đêm thứ ba thì đã linh cảm thấy có sự khác thường lẩn lút diễn ra trong
phân đội. Thực ra không phải là linh cảm mà là Kiên đã nghe thấy, và
thoáng nhìn thấy. Đêm ấy như thường tình, tháng tám, mưa to, và chốc ánh
chớp lại phá thinh không tăm tối và dữ dội dựng đứng rừng lên trong
khoảng khắc. Sau ba ngày li bì sốt đến tối hôm ấy Kiên dứt cơn, mệt
nhọc, bải hoải và suốt đêm mất ngủ. Bứt rứt trong lòng, gần sáng anh mặc
áo tơi, xách súng đi kiểm tra một lượt các lán. Đất rừng lầy lội, phù
thũng. Kiên co người lại trong tấm áo tơi lá, súng đeo thõng, bước dò
dẫm.
Đến gần lán tiểu đội một, Kiên chững lại.
Tiếng cười. Rõ ràng là anh vừa nghe thấy ai đó cười, tiếng cười khanh
khách. Ai ở trung đội có thể cười kiểu ấy cơ chứ? Không chừng thằng nào
động hớn mà bắt chước giọng đàn bà cũng nên, nghe ma quái quá, anh nghĩ
và hấp tấp anh bước vội tới cửa lán. Hội cờ bạc đã tan từ lâu. Bên trong
tối mò. Nhưng không có tiếng ngáy. Im lặng đáng ngờ. Không nén được
Kiên sẵng giọng hỏi chõ vào:
- Ai trong ấy vừa cười đấy?
- Gì đấy, Kiên? - Giọng Thanh tỉnh khô ngay lập tức cất lên - Ai cười đâu? Hay là trời cười?
- Rõ ràng mà lại. Đừng ỡm ờ. Con khỉ! - Kiên gắt - tao không vì sốt mà ù tai đâu Thanh nhé.
- Thì đấy, trung đội trưởng vào kiểm tra xem đứa nào cười?
Mẹ
kiếp, chẳng lẽ ở Gọi Hồn này lại có ma thật? Kiên cáu sườn bỏ đi. Tuy
nhiên tiếng cười lúc nãy nghe rất thật tiếng, lanh lảnh, trong vắt.
Tiếng cười con gái hẳn hoi. Không phải ma, không phải ai mê sảng. Thình
lình, Kiên cứng người, dừng phắt lại. Trong một giây, tim ngừng đập.
Dưới làn chớp làm quắc sáng cả đám lau bà ven suối, Kiên nhìn thấy lồ lộ
trong nháy mắt một người con gái đang đi chếch qua trước mặt anh. Cô ta
ở trần, Kiên nhớ rõ như thế, da dẻ loáng sáng lên như nước sông, mái
tóc xõa, quấn vào lưng vào đùi.
- Ai, đứng lại? -
Kiên thét và bước né sang bên, lên súng - Năm? Không có tiếng trả lời.
Mưa to át tiếng chân bước. Đúng lúc này sấm sét câm tịt và bao nhiêu làn
chớp đều tắt lịm.
- Đứng lại không tao bắn? - Kiên điên tiết - Năm?
- Cộng bốn. Tôi, Thịnh đây, anh Kiên?
- Cái gì? Kiên sững sờ - Sao lại Thịnh?
- Phiên tôi gác mà - Rành rành giọng Thịnh “con” - có chuyện gì?
- Mày vừa đi với đứa nào? Kiên sừng sộ.
- Không… Ai cơ?
- Thế vừa nãy không thấy gì à?
- Không… Mà sao thế? Anh làm sao thế?
Kiên
chửi. Chó thật, anh nghiến răng. Như trêu ngươi. Vòm trời lại liên tiếp
bùng chớp. Chỉ có mưa chăng, chỉ có dòng suối cuồn cuộn, chỉ có cây cối
rũ rượi. Rừng lầm lì cau có. Thịnh cởi trần, vận quần đùi, co ro ướt át
đứng trước mặt Kiên.
- Khốn khổ rồi, khốn khổ rồi đây…! - Kiên rên lên - Chẳng biết là cái họa gì đây?
Kiên
lê bước trở về lán, nằm vật lên võng. Linh cảm về một tai họa khôn
lường đang đến với cuộc đời trung đội nặng nề bóp nghẹt trái tim anh.
Không, anh không nhìn nhầm, nghe nhầm, nhưng đấy là ma hay là người?
Sáng hôm sau, cả Thịnh cả Thanh chả đả động gì đến chuyện hồi đêm. Những
người khác thì càng có vẻ như không hay biết có sự bất thường nào hết.
Nhưng Kiên cảm thấy rõ ràng một sự bí ẩn đồng lõa giữa họ với nhau. Anh
không tức, chỉ buồn. Lần đầu tiên anh bị đồng đội cho ra rìa. Tuy nhiên
anh im lặng, tuyệt đối không đả động gì tới điều bí ẩn ấy của anh em.
Trong mọi cuộc họp hành kiểm điểm anh chẳng một lần nhắc nhở chuyện đó.
Thế nhưng tội lỗi vẫn tái diễn, Kiên biết. Chỉ có điều từ khi anh bị
phát hiện, những bóng ma đàn bà không lẻn tới chỗ trung đội nữa mà chính
cánh trinh sát mò đến động của họ. Về đêm… nửa đêm… lặng lẽ có những
cái bóng đen trườn khỏi võng, nhón bước ra khỏi lán, kín đáo đánh tiếng
thông đồng với người khác, rồi lẹ làng theo nhau mất hút trên con đường
mòn không dấu vết chạy men một dòng suối nhánh dẫn sâu vào lòng núi tối
tăm đắm dưới mùa mưa như thác đổ. Và đêm nào cũng thế, vào lúc mấy cái
bóng nọ nhỏm dậy khỏi võng rục rịch với nhau ở ngoài suối chuẩn bị lên
đường là Kiên lại một lần chợt tỉnh giấc. Anh nằm im. Tiếng thì thào…
tiếng chân giẫm lụp búp trên bùn… Giọng nói của người gác… một ai đó
trượt chân ngã… tiếng cười cố nén… Có đêm những cái bóng ở lán bên cạnh,
song có đêm là từ lán của anh, từ chiếc võng mắc sát anh. Có đêm mưa
nặng nề xối dội, có đêm vội vã từng cơn rào rào, mà cũng chẳng đêm nào
là đêm chuyện đó chẳng diễn ra. Ướt át lầy lội nhơn khổ… Và nhiều giờ
sau khi các gã trai lần về, thở hổn hển, be bét bùn và run rẩy trong cái
mát lạnh của trận mưa phùn ban mai thì Kiên cũng đã thức dậy, nhưng vẫn
thế anh nằm im lặng nghe ngóng đếm từng bước chân rón rén, để rốt cuộc
được trút một hơi thở phào mừng rằng may thay cả bọn đã bình yên trở về.
Chính vào những lúc đó Kiên nghe thấy tiếng hú mà người ta bảo là của
loài ma núi. Nghe thật buồn, thê thảm, nhưng Kiên biết đấy là tiếng
lòng, người nam người nữ gọi truyền theo vách núi để tạm biệt nhau và để
hẹn ước. Dĩ nhiên Kiên biết không phải là cả phân đội, cả mười ba
người, song anh thừa biết không phải chỉ có ba cái bóng nhất định nào
đấy trong bấy nhiêu đêm đã thường xuyên đi và về trên con đường hiểm trở
dẫn sang bên kia núi, mặc dù ở bên đó, Kiên biết, dưới cái lũng âm u,
hoang vắng nọ, trong khu trại tăng gia của huyện đội 67 đã nhiều năm bị
bỏ quên trên bờ thác nước ấy chỉ có mỗi ba cô gái, chỉ ba cô mà thôi
đang sống và đang hàng đêm chờ đợi, mong ngóng bước chân người lai vãng.
Biết hết, và vì thế, lý ra là chỉ huy, anh cần ngăn chặn hiện tượng vô
kỷ luật quá quẩn này, cần phải, như người ta thường nói, uốn nắn, chấn
chỉnh, lập lại nề nếp khuôn khổ, đạo đức tác phong, cần phải thẳng tay
kéo đội viên của mình thoát khỏi tình trạng mê mẩn chẳng khác nào bị
chài ếm, cần phải… Song trái tim, trái tim của anh, trái tim thực thụ
của người lính chiến không đời nào cho phép anh ra tay hành động như
vậy. Không những nó năn nỉ anh mà trái tim anh nó buộc anh phải im lặng,
buộc anh phải hết lòng cảm thông. Chứ còn biết làm thế nào khác được,
thực thể trước tiếng gọi man sơ, hoang dã ấy của tuổi thanh xuân?
Hồi
đó chỉ trừ anh và Can, còn cả đội trinh sát đều ở dưới tuổi đôi mươi,
cho nên thử hỏi rằng… thực thể thử hỏi rằng… Vả chăng, chỉ anh về đêm…
khi ngủ… những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng và ngọt lịm như mật
ứa ra trào lên lấp đầy cõi mộng mị. Trong những đêm mưa ấy, từ giữa miền
không gian xa xanh sâu thẳm khuất chìm sâu sương mù ký ức, người con
gái của thành phố quê hương lại hiện lên và bước tới với anh trong bóng
hình tiên nữ mờ ảo. Cả người gai lên, xương thịt chờn rợn, run rẩy, rung
động trong nỗi khát khao thèm muốn được hưởng tới độ tột cùng cảm giác
xúc tiếp êm ái, choáng ngợp, đáng kinh hãi với cái hình hài yêu dấu,
mong manh, mềm mại như cánh hồng ấy. “Hai đứa mình có khi chết đi vẫn
còn trong trắng… Vậy mà chúng mình yêu nhau biết là dường nào…”, những
lời ấy của Phương văng vẳng làm tim anh thắt đau. Mới mười bảy tuổi,
thuở đó cả hai đứa còn biết chừng nào là vụng dại. Giá như… “Nhưng hãy
nghĩ nhanh đến một cái gì khác đi, hãy nghĩ đến một cái gì khác?” - Tâm
tưởng anh thổn thức kêu lên. Lúc anh tỉnh giấc và nghe tiếng chân của
các bạn mình từ bên kia núi trở về thì ngoài vòm rừng trời đã ửng sáng.
Trong lán của bọn anh, ngoài mùi thơm của hồng ma còn thoang thoảng, là
lạ một làn hương ngây ngây, dìu dịu, không có thật và không đàn ông,
không lính tráng một chút nào, vương vấn mơ hồ, u uẩn trên tóc, trên áo,
trong gió…
Giấc mơ lay thức tâm hồn Kiên. Thì
ra, anh, Kiên cũng có một thời trẻ trung cái thời mà giờ đây khó lòng
mường tượng lại được nữa, cái thời mà toàn bộ con người anh, nhân tính
và nhân dạng, còn chưa bị bạo lực tàn bạo của chiến tranh hủy hoại, cái
thời anh cũng ngập lòng ham muốn, cũng biết say sưa, si mê, cùng trải
những cơn bồng bột, và cũng ngốc nghếch ngẩn ngơ, cũng từng tan nát cả
cõi lòng vì tình yêu thương đau khổ, vì ghen tuông tủi hờn và cũng đáng
được ưu ái như các bạn anh bây giờ. Chao ôi! Chiến tranh là cõi không
nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không
đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng
khiếp nhất của dòng giống con người! Anh đã hoàn toàn không có cơ may
thoát khỏi sự hư hại của tâm hồn thì đồng đội trẻ tuổi của anh phải
thoát, phải vượt ra khỏi sự ràng buộc và câu thúc của thói thường mà
hưởng lấy những giọt cuối cùng còn sót lại của tình người. Để đến ngày
mai thì chẳng còn gì.
Song le, tính phi lý và tội
lỗi quá đậm trong mối duyên tình chung đụng, dan díu san sẻ của những
người con gái, con trai mà nay tất cả đều đã khuất rồi ấy, hồi đó thực
ra vẫn làm Kiên đau đớn, vừa xót thương, vừa giận, tủi, ngờ vực và lo
sợ. Một nỗi kinh hãi thường trực ngấm ngầm nung lửa trong ruột gan anh.
Có lẽ bởi vì bấy giờ là thời buổi chiến tranh thời buổi ngược đời, cho
nên những chuyện được coi như là lớn lao, những mối nguy to tát đều là
sự thường nhật, còn những gì nhỏ nhoi, cỏn con nhưng niềm vui nỗi buồn
hàng ngày của kiếp người thì lại rất trái lẽ và họa hoằn lắm, hãn hữu
lắm mới có nổi. Hãn hữu tới độ chúng trở nên gần như điềm gở. Mà quả
thực thế. Giờ đây, nhắm mắt dọi nhìn vào hồi ức, Kiên lại lặng lẽ thấy
lại mình, dường như vừa mới buổi trưa ngày hôm qua đó thôi, đang đứng
đấy, dưới làn mưa trên mảnh sân loang nước giữa khu trại nhỏ bé, ướt át
mọc lên cô lẻ ở rìa thung lũng bên kia núi… áo quần sũng nước, tóc, mặt
ướt đầm, khẩu tiểu liên đeo bên vai như chực rớt. Mưa rơi rào rào. Bụi
nước tan thành những vồng hơi dập dềnh trên mái nhà, mái kho. Mặc dù mưa
to bầu trời giữa trưa vẫn sáng hẳn lên. Vòm mây trên thung lũng có phần
thưa loãng ra và trong thinh không như chập chờn một chút nắng.
-
Hơ bia… ia - Kiên không kịp ngăn, đằng sau anh, Thịnh “con” đã cất
tiếng hú gọi. Và ngay lập tức, bàng hoàng, cả tốp trinh sát đi cùng Kiên
tới đây, đang đứng tản mát khắp khu trại đã đồng thanh kêu hú vang lên
tên ba cô gái:
- Hơ bia… Mây… Thơm… ơi ơi ơi…?
Không
có cả tiếng vọng dội đáp lại. Từ cái thác cao lừng lững trên vách núi
trước mặt khối nước khổng lồ trắng xóa ầm ầm lao thẳng đứng xuống đường
đáy khe của thung lũng tạo thành làn gió vĩnh cửu từng đợt, từng đợt phả
vào khu trại với tiếng rền động trầm trầm không dứt.
Tiếng
gió, tiếng mưa, tiếng thác rền ào lấp lên một bầu không khí lặng lờ gần
giống như sự bình yên… Trong nhà, căn nhà nhỏ ba gian xinh xắn, mái lồ
ô, thơm ngát hương huê rừng, đồ đạc vẫn nguyên vẹn, ngăn nắp… Bộ bàn ghế
mây. Lọ hoa. Ấm tách. Một cuốn sách đọc dở… Giường chiếu. Gối chăn.
Gương lược. Ngoài chái, quần áo giăng trên dây phơi cái đã gần khô, cái
vẫn ướt nguyên… Trong dãy sạp kho chạy dài bên kia sân, thóc, gạo, ngô,
sắn ăm ắp. Và mùi măng sấy, mùi mộc nhĩ, nấm hương, mùi mật ong nữa vẫn
vít vào nhau hăng ngầy ngậy… Dưới bếp mâm cơm bày trên chõng như vừa
được bưng ra, còn đậy lồng bàn. Ba cái bát. Ba đôi đũa. Đĩa rau giền
luộc. Muối riêng. Cá khô. Niêu cơm ghế trên chưa dỡ. Tro bếp còn ấm… Sau
bếp là sào vườn trồng lạc, trồng cà và rau giền. Rồi đám dong riêng.
Khóm chuối. Hàng dâm bụt. Bên ngoài cánh cửa khép hờ là dốc bờ suối. Một
lối đi nhỏ xẻ bậc. Một cây cầu tre lắt lẻo nối khu trại với rừng giang
bên kia suối. Đằng xa, phía sau rừng lờ mờ hai mỏm cao của quả đồi độc
lập đánh dấu chính tâm thung lũng…
Mặc dù mưa
ngày mưa đêm, các nữ chủ nhân của khu trại vẫn dùng nước suối. Nước
trong giếng lọc trong vắt. Miệng giếng có đậy nắp và quanh giếng có đào
rãnh để ngăn nước suối chưa được lọc dềnh vào. Nhà tắm mái tôn ẩn trong
lùm tre đằng ngà kề bên mép suối. Đường từ giếng lọc tới nhà tắm được
rẫy sạch cỏ và trải sỏi.
Lúc đầu chỉ mình Kiên
lần xuống suối. Anh đứng ở bờ giếng lọc và đưa mắt nhìn ra phía lùm tre.
Cửa buồng tắm mở toang, và… trong một phản ứng tức thời Kiên ngồi thụp
xuống, giật súng ra khỏi vai. Có người! - Anh nghĩ nhanh nhưng…
Giờ
đây tất cả còn cận cảnh rõ mồn một trong tâm trí Kiên. Cửa buồng tắm
không phải đang mở mà là bị giật tung khỏi bản lề, nằm vật úp dưới đất.
Bên trong, ở góc có hai xô nhựa còn lưng nước, cái gáo dừa để trong thau
nhôm, đôi dép đúc, hộp xà phòng. Một bộ quân phục nữ bằng vải phin cùng
một tấm khăn tắm thêu hoa vắt trên dây. Một bộ khác ẩm ướt, lấm bùn
quàng lên tấm vách cạnh một cái áo mưa vải bạt màu lá cây.
Trên
nền sỏi ướt, Kiên thấy, nằm rớt đấy từ bao giờ một manh áo lót phụ nữ
trắng muốt rợn lên trong vũng sáng lờ mờ… như một bông hoa lạ, to, hai
cánh mỏng tang duỗi ra mềm mại, nõn nà y như một lượt da người. Trên một
cánh của bông hoa ấy in nguyên một vết bùn máu hằn rõ những khấc hình
răng khế của gót giầy cao su giẫm đi lên. Kiên rùng mình, choáng rợn như
bất thần bị làn roi vút thẳng vào tim. Và trong giây lát trước mắt anh
hiện hình những bóng ma màu lục, lướt đi không tiếng động, di chuyển êm
ru dưới tán rừng, lẳng lặng vượt qua suối, xuất kỳ bất ý ập vào khu
trại… Cả ba cô gái, người trên nhà, người dưới bếp, người đang tắm,
chẳng ai kịp trở tay. Không một tiếng kêu, có lẽ thế, và không một phát
súng.
- Bọn thám báo… Bọn thám báo…, đúng chúng rồi anh Kiên ơi… - Thịnh bước tới bên Kiên thì thầm nói, giọng run và khản đi.
Trên đầu họ mái tôn rền rĩ, bần bật rung, những cánh tre đằng ngà cào vào vách liếp. Kiên nặng nề thở dốc, môi mím chặt.
- Sáng nay các cậu nghe thấy gì không?
- Không, có nghe thấy gì đâu!
Thế
nhưng, chuyện gì đã xảy ra? Và bằng cách nào mà hồi sáng các bạn anh
lại cảm thấy được tín hiệu của một tai họa xảy ra âm thầm ở tận bên này
núi? Hoàn toàn không có triệu chứng nguy hiểm, tuyệt nhiên không một
điềm gở. Đêm qua các bạn anh đã vui thú ở đây. Vả chăng làm thế nào mà
lường nổi. Bởi vì dù sao cũng là giữa vùng hậu cứ xa cách tiền duyên
hàng ngày đường, dù sao cũng là nhà các cô gái, và dù sao cũng là năm
1974, chứ phải đâu còn là thời xa xưa tăm tối của chiến trường, thời sau
Mậu Thân, những năm 68, 69 ấy nữa?
- Sao biết là thám báo?
- Có dấu giày ở khu sau nhà kho. Và đầu mẩu Ruổi.
- Hồi sáng các cậu bị điều gì đánh động?
- Chả có gì. Nhưng vì tự dưng tất cả đều nóng ruột không chịu được.
- Mãi đến giờ các cậu mới hở chuyện cho tớ. Thật là các chiến hữu quý hóa. Thế ai đã sục tìm ngoài rẫy chưa?
- Rồi. Chả thấy tăm dạng gì.
- Tăm dạng đây này! - Kiên nói, chỉ xuống nền nhà tắm.
Thịnh bước nhích lên phía trước Kiên và nặng nề chậm chạp sụp gối, quỳ xuống. Khẩu AK rơi thịch trên nền sỏi.
-
Của Hơ bia… áo của Hơ bia đây mà… Thịnh lí nhí trong họng, và hai tay
run rẩy anh nâng cái áo lót lụa rơi dính dưới đất lên, áp vào mặt.
-
Em… Em ơi, Hơ bia… Chúng nó bắt đưa em đi đâu rồi? Em? Sao thế này. Sao
bỗng dưng lại thế này… làm thế nào bây giờ… Em, Em Em ơi? - Thịnh nấc
lên một cách kỳ quặc, rền rĩ, van vỉ, cầu khẩn vô nghĩa bằng một giọng
thều thào nghẹt thở.
Về sau, rất nhiều năm về
sau, khi đã là một người cầm bút đứng tuổi, đã dấn thân khá sâu vào văn
nghiệp, viết đã nhiều truyện ngắn, truyện vừa về chiến tranh, đã lục
lọi, đảo xới hầu như toàn bộ cuộc đời lính của mình lên để nạp vào trang
bản thảo, một ngày nọ rất bất ngờ, nhờ vào phép liên tưởng nhiệm màu
của hồi ức, khi đang xem một nghệ sĩ kịch câm uốn lượn thân mình một
cách quằn quại, gào thét một cách âm thầm thống thiết nỗi đời tuyệt
vọng, Kiên như choàng tỉnh, chợt nhớ lại một cách rành rọt và không đúng
lúc nhưng sáng rõ như có đèn rọi câu chuyện tình bi thảm và mông muội
giữa các đội viên trinh sát của anh với ba cô gái bị chiến tranh cầm tù
giữa rừng sâu núi thẳm năm xưa. Ngồi lặng đi mà lòng rung lên bởi quá
mừng vui và quá đau buồn, Kiên như muốn áp chặt vào tim kỷ niệm vừa đột
ngột sống lại ấy, một kỷ niệm sâu sắc đến thế mà chẳng hiểu vì sao đã bị
trí nhớ điêu luyện của anh lược đi mất trong suốt bao nhiêu năm trời.
Một cốt chuyện tình tuyệt vời, Kiên nghĩ và anh hiểu đây sẽ là truyện
ngắn dành cho cả đời văn của anh…
Anh nhớ lại
rằng, hôm ấy mãi chiều tối bọn anh mới lùng trúng ổ của toán thám báo.
Chúng không hạ sát ba cô gái ngay trong khu trại mà điệu xa vào rừng sâu
giữa lũng.
Mưa đã tẩy hết dấu vết. Hoàn toàn do
tình cờ mà bọn anh đã chạm trán với chúng ở dưới chân quả đồi độc lập.
Bảy tên lính viễn thám. Ba tên bị hạ khi đọ súng. Bốn tên bị bắt sống.
Thịnh “con” hy sinh trong trận chiến, đạn trúng tim, không kịp một tiếng
kêu, ngã sấp.
- Đâu rồi? Họ đâu, ba cô gái ấy? -
Kiên hỏi, giọng cực kỳ ôn tồn. Bốn tên tù binh không phải trói, bị đánh
nhừ tử, áo quần rách bươm, be bét bùn và máu, đứng lặng, làm thinh.
Chúng uể oải đổi chân.
- Nào, họ đâu rồi? Họ còn
thì chúng mày còn. Tên nom to con nhất bọn, mắt trái bị báng súng dộng
lòi ra, máu hòa nước mưa nhuộm đỏ nửa mặt, đưa con mắt nhìn Kiên, cười
khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ớn.
- Ba nhỏ đó trình quí anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi… mấy nhỏ la khóc quá trời…
Cả tốp trinh sát soạt soạt rút dao găm. Kiên vội ngăn:
- Đừng! ấy chớ… Bọn này chắc cũng muốn được la khóc đã rồi mới chết. Chết ngay thì chúng không thích đâu.
-
Đ. má! Giết thì giết đi - Một thằng rống lên - ăn thịt tụi tao đi. Giết
liền đi? Tay tao nè, đỏ lòm máu ba con nhỏ của tụi mày đó?
-
Câm đi - Kiên nhẹ nhàng - Sẽ chiều mày thôi. Nhưng tao hỏi mày: Tụi mày
tới vùng này là để theo gót chúng tao, quân chủ lực cơ mà, hả? Vậy vì
sao lại tấn công họ? Cớ gì tụi mày giết hại người ta tàn bạo thế? Vì sao
mà tụi mày lại căm thù chúng tao hả?
Chính Kiên
cũng chẳng hiểu vì lẽ gì mà mình lại chịu mất thì giờ và lại giữ một
giọng trò chuyện nhẹ nhàng như thế với chúng, một giọng tuồng như là
trách móc chúng vậy. Bốn thằng đào chung một hố. Chúng đào tất bật, hăm
hở hì hục như thể thợ đấu làm khoán.
- Không cần
sâu lắm đâu. Nằm chứ có đứng đâu mà lo, - Kiên khuyên - cốt rộng cho đủ
chỗ không lại thòi chân thòi tay ra. Và khẩn trương, tối rồi!
Mỗi
thằng một xẻng. Những cái xẻng biệt kích nhiều tác dụng, gấp lại được,
sắc lẻm. Thằng nào nom cũng vâm, thân xác rắn chắc, cuộn thịt và thằng
nào trông cũng lì. Chúng hùng hục đào bới, xúc, hắt. Hố rộng hoác ra và
đã khá sâu, đỏ lòm, õng nước.
- Đẹp rồi, lên…-
Kiên ra lệnh và giải thích thêm - Chúng mày phải lên để lẳng xác ba
thằng kia xuống trước đã chứ ai dọn hộ chúng mày, để đó cho thối rừng ra
à?
Bọn chúng xin phép được rửa ráy và hút thuốc. Kiên gật.
- Hoặc giải chúng về, hoặc tặng mỗi thằng một kẹo, dây dưa làm gì thế anh Kiên ơi?
- Giải đi đâu? - Kiên phẩy tay - Nhưng tớ không chịu nổi bốn thằng khốn nạn này. Chúng nó phải thành loài chó khi chết.
Bốn thằng ra mép suối, kỹ lưỡng rửa sạch tay chân, và cẩn thận gột hết những mảng bùn trộn máu rây trên quân phục.
-
Dạ, kính quí anh xơi thuốc? - Tên trông trẻ nhất bọn, mặt tròn, trắng
trẻo, giọng Bắc ngọt xớt, lễ phép nâng bao ruổi lên bằng cả hai tay, mời
Kiên.
- Giữ lấy? - Kiên xua tay - lát nữa xuống đó mà mời nhau.
Tên ngụy thở dài. Hắn uốn éo cặp vai, nhìn Kiên thiết tha, rồi thấp giọng xuống:
- Thưa anh, cái thằng vừa nói hỗn khi rồi là chỉ huy. Dạ, trung úy ạ.
- Thế à? Ôi dào, trung úy hay trung tướng xuống đó cũng ngang cấp với binh nhì thôi, không chỉ huy được mày nữa đâu mà lo.
-
Xin anh tha cho em - Thằng ngụy lầm rầm - Em không hề dự vào hiếp các
cô đó, em không đụng tới người, không đâm một dao nào. Em là người có
đạo. Em xin thề?
- Mày không phải thề với tao? Lui về chỗ. Thằng lính ngụy cao lớn quỳ xụp dưới chân Kiên nước mắt tuôn ròng:
- Anh thương tình em, anh! Em còn trẻ quá mà anh? Em còn mẹ già… em sắp cưới vợ… chúng em thương nhau… xin anh!
Hắn
lập cập moi trong ngực áo ra một tấm ảnh màu, nâng lên, giúi vào tay
Kiên. Kiên cầm ảnh, nhìn. Một thiếu nữ vận đồ tắm màu đen, mái tóc uốn
ôm lấy bờ vai, đứng xây lưng lại với biển xanh, cười rất tươi, một tay
cầm que kem, một tay đưa lên yểu điệu vẫy. Thân hình cô cân đối mĩ miều
có thể nhìn không chán. Kiên phủi những hạt mưa rây lên ảnh và đưa trả.
- Đẹp. Chụp khá đấy, - Anh khen - Cất đi không có ướt.
Thằng ngụy thở rốc, mồm há hốc, mắt sáng trưng:
- Nghĩa là… Anh cho em sống? Anh cho chứ ạ, ôi thiên thần…
- Về bên hố - Kiên quát - Đồ con chó? Châm thuốc mà hút đi, không hết giờ.
Bọn kia nữa, hút chóng lên!
Bọn
thám báo ngồi xệp trên thành hố mới đào, chân thõng xuống đung đưa trên
ba cái xác đồng bọn đang quắp nhau nằm dưới đáy bùn. Khói thuốc xanh
nhạt, nồng ngậy, chầm chậm tan vào bụi mưa. Bốn bề thung lũng bọc kín
núi non. Bóng tối cuồn cuộn trườn trên các sườn dốc. Dòng suối trầm trầm
rên rỉ.
- Nào? Kiên giật AK khỏi vai, hất hàm - Một hàng ngang!
Bốn bộ mặt tái ngoét vụt ngửng lên. Bốn cái nhìn trân trân ngây cứng.
- Đứng dậy, xếp hàng ngang - Kiên uể oải nhắc lại, và dùng ngón tay cái ấn chất hãm vào nấc liên thanh - Nào?
- Anh ơi, làm ơn cho hút xong điếu thuốc đã nào, anh? - Tên giọng Bắc kêu.
- Đứng dậy! - Kiên nạt.
- Thì cứ để cho chúng hút đã đi đã, anh Kiên! - Một trinh sát viên hoang mang thều thào vào tai Kiên.
Bốn
tên sắp bị hành quyết đứng lên, tựa vào nhau, lảo đảo, xiêu đổ hầu như
không còn trọng lượng. Nhưng cái chết đã xua đi nỗi sợ hãi. Mặt chúng
rắn lại. Lòng căm thù bóp méo nhân dạng. Câm nín, chúng nghiến răng.
Kiên điên tiết. Một ý chí phũ phàng, mạnh hơn bản thân anh không cho anh
tỉnh lại.
- Chúng mày muốn chết, tao chiều. Tao
sẽ lần lượt gọi thần chết cho từng thằng chúng mày! Chúng mày sẽ được
nhìn máu lần cuối cho đã thèm? - Anh nói, cười gằn lùi chốt hãm về nấc
phát một. Đột nhiên tên giọng Bắc rống to và vùng dứt khỏi đồng bọn,
nhào xô tới quỳ xụp, ghé mặt xuống chân Kiên ư ừ rên lên, và ằng ặc nấc
lên, hắn quằn quại không thốt ra lời.
- Mày tình nguyện đi tiên phong à? - Kiên chọc mũi súng vào trán hắn.
-
Ối giời ơi? Con van ông, con van các ông… cho con sống! cắn rơm cắn cỏ
con lạy. Lạy các ông… ông ơi… Tiếng tru tréo như xóc vào óc Kiên. Anh
thúc một báng súng tống ngược tên ngụy ngã ngửa ra. Cú đánh như làm hắn
bừng tỉnh, ngừng bặt kêu la. Hắn nhổm dậy, vẫn quỳ, lờ đờ nhìn Kiên, tay
hướng tới anh. Từ vết thương ở trán một dòng máu nhóng nhánh chạy dọc
xuống sống mũi.
- Em xin tình nguyện lấp huyệt.
Các anh khỏi nhọc sức. Và em xin được tình nguyện được khai nhiều tin
với cấp chỉ huy của các anh. Chính sách của Đảng ta, đánh kẻ chạy đi,
tha người chạy lại. Các anh không có quyền giết em… Không có quyền! Ối
giời ơi, em lạy các anh rồi mà!
Lại có ai đó phía sau kéo kéo khuỷu tay Kiên, nói lào thào giọng run rẩy:
- Kiên ơi, hay là tạm tha cho chúng… đưa về cho trên xử trí…
Kiên ngoắt lại. Một nỗi điên giận hung tàn nóng như thiêu ngút dậy trong lòng, đất cháy anh, xé anh ra.
-
Câm? - Anh gầm lên, và thô bạo gí họng tiểu liên vào sát miệng Cừ -
Muốn tỏ tình với chúng thì đứng vào một hàng với chúng. Tao sẽ hạ luôn
cả mày. Cả mày… đấy?
- Kiên! Kiên ơi! Đếch gì mà
la kinh thế - Bàn tay nặng trịch của người lái xe thò vào bọc võng đập
đập lên vai Kiên - Dậy, dậy mau rồi còn phới, mau!
Kiên
mở mắt. Nỗi mệt nhọc buông hết sức nặng giằn lên anh và cảm giác đau
đớn của giấc mơ vẫn đang đều đều nện trên thái dương. Mãi anh mới vực
người dậy nổi. Chậm chạp rời khỏi võng, anh nặng nề leo qua thành xe
xuống đất. Nhìn Kiên trệu trạo ăn, người lái xe thở dài bảo:
- Tại anh ngủ trên thùng xe đấy. Nằm chung chỗ với non năm chục bộ xương chứ ít à. Mơ mộng kinh hãi lắm hả?
- Ừ. Mê mệt. Quái gở. Mụ cả đầu. Từ dạo về đội hài cốt này đêm nào cũng loạn hoảng vì mộng nhưng chưa bao giờ như đêm vừa rồi.
Truông
Gọi Hồn mà lỵ. Trông hoang vu thế thôi chứ dưới đất kia người nằm đã
đông chật cả rồi. Mà nói chung ở cả cái B3 này đâu chả nhiều ma quỷ. Tôi
lái cho đoàn gom xương nhặt cốt này từ hồi đầu 73 tới giờ mà đã quen
nổi với đám hành khách từ trong mồ hiện ra kia đâu. Chẳng đêm nào mà họ
không lay mình dậy để chuyện gẫu. Phát khiếp lên được. Đủ loại. Lính cũ.
Lính mới. Lính sư 10, sư 2, quân tỉnh đội, quân cơ động 320, đoàn 559.
Thỉnh thoảng có các “mộng” tóc dài… Đôi khi chen vào vài anh ngụy.
- Có bao giờ gặp người quen không?
- Sao không. Bạn cùng đơn vị. Những người đồng hương. Có đận còn gặp cả ông anh họ hy sinh từ hồi cuối 65 kia.
- Thế trò chuyện gì được không?
-
Thì phải trò chuyện chứ, con chú con bác kia mà. Cơ mà nói theo kiểu
dưới âm. Vô thanh. Không lời. Khó tả lắm, rồi bao giờ mơ thấy anh sẽ
hiểu.
- Hay nhỉ!
- Hay
đếch gì? Buồn lắm. Thương lắm. Ai oán. Dưới mồ sâu người đâu còn là
người. Nhìn nhau. Hiểu nhau mà không làm gì được cho nhau.
- Giá có cách gì thông tin cho họ biết là đã thắng lợi rồi cho họ an lòng nhỉ?
-
Ôi giời Có nói được thì cũng nói làm gì cơ. Dưới âm ty người ta chẳng
nhớ chiến tranh là cái trò gì nữa đâu. Chém giết là sự nghiệp của những
thằng đang sống.
- Nhưng dù sao thì cũng đã hòa bình. Giá mà giờ phút hòa bình là giờ phút phục sinh tất cả những người đã chết trận nhỉ.
-
Hừ, hòa-bình! Mẹ kiếp, hòa-bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu
thịt bao anh em mình, để chừa lại chút xương. Mà những người được phân
công nằm lại gác rừng le là những người đáng sống nhất.
-
Nói ghê thế. Người tốt còn khối. Và người tốt sẽ còn được sinh ra ở các
thế hệ sau. Còn những thằng sống sót thì phải gắng sống tử tế, sống cho
ra sống. Chứ không thì chiến đấu làm gì? Hòa bình làm gì?
-
Thế à! Ờ, thì cũng phải hy vọng thôi, tất nhiên. Nhưng chẳng biết tới
khi mô con cháu ta mới đủ khôn. Với lại chúng sẽ lớn khôn theo kiểu gì,
ai mà biết. Chỉ biết bao nhiêu cái tốt đẹp đã bị giết. Còn sót chút nào
thì chúng mang đi đổi chác nốt rồi. Đấy, cứ nhìn cảnh chợ giời xô bồ
“miền Nam nhận họ miền Bắc nhận hàng” ở các thành phố thằng nào chẳng
nản. Rồi lại nhìn xương cốt mồ mả anh em mình đây, tủi hận lắm ông ạ.
- Nhưng hòa bình không là điều tốt hơn à?
-
Nền hòa bình này… Hừ tôi thấy hình như các mặt nạ người ta đeo trong
những năm trước rơi hết. Mặt thật bầy ra gớm chết. Bao nhiêu xương máu
đã đổ ra… Mẹ khỉ. ăn nói gì lạ thế Sơn?
- Lạ chó
gì mà lạ. Cái loại lính như ông ấy mà còn là vỡ mộng đau đớn với đời.
Nhưng ông ơi, thời đại của cánh ta hết rồi. Mà nói thật chứ sau chiến
thắng oai hùng này những thằng lính chiến đấu như ông ấy mà ông Kiên,
chả trở lại thành người bình thường được nữa đâu. Ngay cả giọng người,
mẹ kiếp, xin nói là còn chán mới hòng có lại để giao tiếp với đời.
- Anh triết lý kinh thật. Và đến là bi.
-
Tôi là Trần Sơn, người lính, và vì thế tôi là triết nhân. Chẳng nhẽ ông
không thế chẳng lẽ ông thấy lòng phơi phới lắm sao? Đêm rồi những người
chết tiên đoán điều gì với ông.
Chiếc JIN chuyển
bánh gần như phải nhích dần từng nửa vòng bánh. Đường sá lầy sụt, tồi
tệ. Xe toàn phải cài số một, gầm gào muốn vỡ máy, Kiên nhìn ra cửa xe,
cố xua đi những ý nghĩ nặng nề. Trời tạnh mưa. Không khí vẫn ủ dột, ám
màu chì. Truông Gọi Hồn chầm chậm lùi xa. Khu rừng, dãy núi triền suối
đã khuất rồi. Thế nhưng từ phía đó vẫn có một cái gì đấy dường như cố
rướn lên nhìn theo anh. Phải chăng đó là đoạn kết của giấc mơ đẫm máu mà
sáng sớm này anh đã để sót?
- Kiên này, - Để át tiếng máy, Sơn nói như quát - Chở xong chuyến xương này là anh vù luôn hả?
- Cũng chưa biết. Còn phải làm khối thủ tục.
- Về sẽ làm nghề gì?
- Định sẽ đi học nốt phổ thông. Tức là bổ túc rồi thi đại học. Chứ chả có nghề gì ngoài nghề nã tiểu liên.
- Còn anh vẫn cầm lái chứ?
Xe đã bám vào được đoạn núi tương đối khô ráo.
CHƯƠNG II
CHƯƠNG II
No comments:
Post a Comment