Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday 4 July 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 472

Thursday, June 15, 2017



PHẠM MẠNH TUẤN * TẬN MIỀN TRĂNG LU




Tận Miền Trăng Lu
Phạm Mạnh Tuấn
 
1. Hai cánh tay trói chặt
Còn đưa lên khỏi đầu
Đòi ôm lấy trời cao
Đòi ôm hết các vì sao…



Đầu tháng 7 năm 1976, tuy đã vào Thu nhưng trời vẫn còn oi bức trong trại cải tạo Cây Cày, vùng Tây Bắc tỉnh Tây Ninh khu sát biên giới Miên - Việt.
Tối hôm đó, như thường lệ, chúng tôi họp tổ để thông báo công tác lao động cho ngày hôm sau. Vì là tổ trưởng - anh em luôn đẩy tôi ra làm tổ trưởng từ ngày nhập trại bên Trảng Lớn, chuyển sang Đồng Ban và rồi đến đây – tôi được dịp thao thao “lên kế hoạch” với anh em:
- "Ngày mai công tác chúng ta vẫn là mỗi người chặt và mang về hai cây tre, dài ít nhất 10 mét, khúc ngọn nhỏ nhất cũng phải bằng một chít tay".

Rút kinh nghiệm hôm nay, ngày mai chúng ta sẽ không làm như những tổ khác, nghĩa là sẽ không dùng thang leo lên khỏi lớp gai rồi mới chặt mỗi người hai cây, nhưng tổ chúng ta sẽ chia làm hai nhóm, mỗi nhóm sáu người, chọn hai bụi tre lớn gần nhau, sau đó áp dụng chiến pháp “công thành triệt mộc”, ta sẽ phá từ ngoài phá vào, gặp gì chặt đấy, không phân biệt tre hay gai. Cách này sáu thằng thay phiên chặt, chỉ ba, bốn tiếng đủ tre để nộp cho hai ngày.

Tôi đưa mắt nhìn một vòng:
- Rồi! Kế hoạch như vậy, có thằng nào ý kiến gì không?

Tổ tôi may mắn gồm toàn những tay trẻ, độc thân, vì chúng tôi luôn tìm cách đứng chụm vào nhau nên sau mấy lần chuyển trại và “biên chế”, phần lớn vẫn còn chung một tổ và xưng hô “mày tao” thân mật.

Trong tổ cũng có vài anh ngoài ba mươi, như nhà tiến sĩ ngôn ngữ học, nói được năm thứ tiếng, mới từ Pháp về, hay anh Bác sĩ Quân Y đã ra trường vài năm, có điều cả hai anh này đều cù lần, chậm chạp, sau một thời gian được kính trọng, giờ đây cũng đã được xếp đồng hạng… “thằng” và xưng hô “mày, tao” tự nhiên. (1)

Hùng, giặc lái L19, to con nhưng rất nhát, rụt rè lên tiếng hỏi:
- Mình “đạt chỉ tiêu”sớm qúa nó bắt mình làm nữa thì sao? Mày không nhớ...

Tôi lắc lắc đầu, chép miệng:
- Không trách tụi nó gọi mày là Hùng khờ! Ai bảo mày chặt được bao nhiêu nộp hết bấy nhiêu. Chỉ nộp mỗi thằng hai cây thôi, số dư dấu dười suối, hôm sau mình cũng làm bộ chặt như người ta nhưng chỉ hai thằng ở ngoài canh bi-đông (bộ đội) thôi, còn tất cả rúc vào bụi, nấu cà phê, châm thuốc lào nghe thằng Phong kể Jack London, thằng Hợp kể Leon Tolstoy hay tao kể Hồng Lâu Mộng. “Nắm bắt” được chưa? Còn thằng nào muốn hỏi nữa?

Hùng lẩm bẩm:
- Thì mày nói sao tao làm vậy, tao nhận chân . . khuôn vác, như tuần trước.

Hùng có sức vóc và rất hiền lành, chân thật. Tuần trước đi cắt tranh, mỗi người phải nộp hai gánh mỗi ngày. Cắt tranh tuy không quá cực nhọc nhưng rất nguy hiểm, ban quản giáo họ lùa chúng tôi vào cắt trong những chỗ vốn từng là mật khu, toàn mìn bẫy. Ngay bữa đầu đã có người mất giò, người bị thương.

Vì là công tác cả B (khoảng đại đội), sau vài ngày, đống tranh đã lên cao như trái đồi nhỏ. Tôi cũng chia tổ ra làm hai, một nửa gánh tranh về nộp, đang lúc chất tranh, chờ nếu thấy không ai để ý, sẽ đưa chân đạp những bó tranh cho lăn vào gần ruộng mì cao rậm bên cạnh.

Một toán khác do tôi hướng dẫn, gồm những tên liều và lì, chờ sẵn kéo tranh đi dấu.
Ngày đầu tiên chúng tôi đã “kiếm” được trên trăm bó, mấy ngày sau việc chính của tổ tôi là tìm chỗ thật kín, thật khuất, cắt vài thằng thay phiên gác còn phần lớn chui vào bụi, nhấp trà hay cà phê, phi thuốc lào, hát nhạc vàng, nghe kể chuyện.

“Hùng khờ” và “tiến sĩ ngôn ngữ” chậm chạp nên tình nguyện gánh tranh về nộp chứ không dám tham dự màn chôm chỉa.

Thấy anh em không ai có ý kiến gì nữa, tôi với bộ bàn đèn (điếu cày chế bằng vỏ bom), tính phi một hơi trước khi giải tán ngủ, bỗng có tiếng chân rập rập trước cửa, anh quản giáo xuất hiện với hai bộ đội, vừa qua cửa anh ta hô lớn:
- Tất cả ngồi nguyên tại chỗ.

Anh quản giáo xăm xăm tới trước mặt tôi, hai người bộ đội chĩa súng đi hai bên, anh quản giáo rút ra tờ giấy dõng dạc đọc:
- Chiếu sắc lệnh số . . ngày . . của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời . . . . Chiếu . . . của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố . . . về chính sách HT CT các sĩ quan ngụy . . . Tên PMT thời gian qua đã không thực tâm học tập để tiến bộ mà còn lén lút chơi và phổ biến nhạc vàng, lọai nhạc phản động, đồi trụy…

Anh quản giáo đọc “án lệnh” xong, tai tôi vẫn còn lùng bùng. Tôi đưa tay ấp úng:
- Quản giáo coi lại xem, tôi đâu có…

Người quản giáo lớn tiếng cắt ngang:
- Anh muốn phản ứng hả?

Hai người bộ đội cùng lên cò súng. Cả tổ im phăng phắc. Tôi thoáng nhận ra, tôi có thể bị bắn bỏ như một con chó hoang. Trong tầm mắt, Phong người bạn thân, khóa 25 Võ Bị, nhìn tôi lắc đầu.

Anh quản giáo lách người đến chỗ nằm của tôi, kéo ra dưới gối một quyển sách, quăng lên bàn trước mặt tôi lớn tiếng:
- Cái gì đây?!

Tôi lặng người, quyển độc tấu tây ban cầm viết bằng Anh ngữ của Segovia Tiến mới gởi vào!.
Tiếng anh quản giáo lại dõng dạc:
- Tôi cho anh một phút, mặc áo vào đi theo chúng tôi.

Tôi chỉ kịp khoác chiếc áo lành nhất, đưa mắt tạm biệt anh em, trước khi lủi thủi đi theo anh quản giáo. Hai người bộ đội chĩa AK-47 phía sau áp giải tôi lên “cây da xà”, chỗ biệt giam của trại Cây Cày.

“Cây da xà”, một căn chòi thấp và dài, trống trải, bệ rạc hơn cả “lán” tôi đang ở, cột kèo, chõng nằm đều bằng tre nguyên cây chưa chuốt vót.

Trời bắt đầu nhá nhem tối nhưng cũng đủ cho tôi thấy nơi biệt giam này hiện đang giữ hai người.
Cách chỗ tôi vài chõng, một người đàn ông đang nằm, chân trong còng, coi quen quen . . À đúng rồi Hoàng Qúy người sáng tác thánh ca nổi tiếng tôi vẫn hằng ngưỡng mộ, dưới đáy vực thẳm thẳm lạnh căm, tôi thấy loé lên vài tia sang ấm.

Dẫy chõng bên kia, nơi gần cuối, hình dáng một cô gái, tóc xổ tung, dáng tiều tụy, nhếch nhác. Trong khi tra chân vào còng để người bộ đội khóa, tôi đưa mắt tò mò hướng về cô gái, dáng cô như qủy dạ xoa, hai mắt toé lửa nhìn trừng trừng về phía hai người bộ đội.

Cô ta bỗng cất tiếng chửi, giọng khàn đặc, chắc vì đã la hét nhiều, lời chửi rất tục tằn, dữ tợn:
- Đồ khốn nạn, gian xảo. Đồ lưu manh côn đồ,…”

Một người bộ đội chỉ mặt cô gái chửi lại, lời lẽ hắn còn tục tĩu hơn:
- Câm ngay, con đĩ chó! Tao đập nát cái mặt L của mày ra bây giờ.

Cô gái vẫn tru tréo:
- Mày giết tao đi. Mày tưởng tao sợ chết hả? Nếu sợ tao đã không trốn trại, đã không dám chửi cha cái thằng Hồ Chí Minh…

Cô ta còn đang chửi, người bộ đội đã đến nơi, anh ta dơ thẳng tay táng vào mặt cô gái. Tiếng “chát” rợn người, máu từ mũi và miệng cô trào ra, cô chỉ phát ra được những tiếng “ư. ử . .”. Người bộ đội xốc lại súng, một tay quấn tóc cô gái rị xuống xạp, tay kia thẳng tay tống vào mặt cô. Cảnh tượng quá dã man, tôi quên hết vị thế của mình, buột miệng:
- Các anh phải tôn trọng…

Chưa dứt câu tên bộ đội đang xiềng chân tôi hét lên:
- Mày nói gì?

Tôi lập lại:
- Các anh…

Một báng súng vung lên hết cỡ đập mạnh vào quai hàm tôi. Ánh chớp lóa lên trước mặt, tiếng “kịch” vang trong đầu, tôi té bật ngửa ra xạp, gáy đập vào sàn tre người rũ ra vô cảm.

Tôi nằm bất động không biết bao lâu, lúc tỉnh lại, cảm giác đầu tiên nhận được là cơn đau nhức khủng khiếp từ cằm và hàm dưới. Lờ mờ tôi nhận ra Hoàng Qúy đang cúi nhìn. Tôi há miệng, định đưa tay sờ cằm, cơn đau nhói bùng lên, máu từ miệng ứa ra, tôi một lần nữa đi vào hôn mê. . . Thượng đế thật kỳ diệu, khi cơn đau trở nên qúa đỗi, Ngài cho giấc ngủ ập xuống, tê liệt mọi thần kinh, tránh bớt cho con người sự chịu đựng đớn đau.

Lần thứ hai tôi tỉnh lại, người vẫn như đang ngồi trên thuyền chao đao, nhưng trí nhớ đã dần hồi phục, tôi biết mình bị đánh một báng súng vào cằm dưới, quai hàm không biết có bị bể không nhưng chắc chắn đã bị trật khớp. Tôi không dám điều khiển hàm dưới vì mỗi lần thử ngậm miệng, cơn đau nhói lại bùng lên.

Thấy tôi mở mắt, H.Q. đứng bên cạnh từ lúc nào thì thầm:
- Tạ ơn Chúa, bạn đã tỉnh lại, bạn mê sảng cả đêm.

Anh ta đến gần tôi hơn, chắc vì tôi bị thương, cả hai chúng tôi đều được mở còng. Anh đưa mảnh vải nâu cũ lên lau máu chung quanh miệng tôi và thiết tha hỏi:
-Bạn bị trật khớp quai hàm, tôi cố nắn lại cho bạn nhá? Cũng khá đau đấy.

Tôi chớp mắt cám ơn và ráng gật đầu. Hoàng Qúy một tay giữ hàm trên một tay nắm chặt hàm dưới bóp mạnh. Tôi đau đớn như bị một báng súng nữa, mặc dù nghĩ trong đầu mình phải “ngon” hơn Quan Công (một tay đánh cờ, một tay đưa ra cho mổ), tôi vẫn giãy giụa. Lần đầu chưa thành công, HQ cố bóp lần hai rồi lần ba, càng những lần sau càng ráng sức hơn. Tôi vùng vẫy trong đau đớn, miệng tuy không hét được thành tiếng chắc cũng kinh khủng như tiếng heo bị chọc tiết.

Người bộ đội gác ngoài cửa thấy vậy cũng phải quát lên:
- Thằng kia! đếch biết làm thì thôi đi. Đ. được việc gì!

HQ thõng tay buồn rầu nhìn tôi, mồ hôi đầy mặt. Nằm im một lúc, tôi ra dấu muốn viết, HQ với tay lấy bút chì và tập giấy trên đầu xạp (dùng để viết kiểm thảo) đưa tôi. Tôi nguệch ngoạc: “Thiên, tổ 11, B2 giúp”. Tôi nghĩ đến anh BS Quân Y cùng tổ. Mãi đến chiều, Thiên đi lao động về mới có thể lên giúp tôi. Hắn mang theo mấy viên thuốc, chắc gom được của anh em dưới lán, hòa vào ly nước lạnh, trút từng muỗng sâu vào họng tôi.

Trong lúc Thiên đưa tay mò vào miệng tôi lấy ra hai, ba chiếc răng gẫy, anh giải thích:
- Tao không có thuốc tê, nhưng những viên thuốc này cũng làm mày bớt đau và ngủ yên đêm nay.

Thiên quay lại HQ giải thích:
- Tuấn nó bị trật hàm chứ may chưa bể, có thể bị nứt nhưng sẽ lành. Muốn bỏ lại khớp mình phải kéo hàm dưới ra, chớ bóp ngang vào, hai xương cấn nhau, không vào được.”

Sau khi Thiên giúp bỏ lại khớp xương, những gân và thần kinh chung quanh miệng như những giây đàn đang căng thẳng nay được buông chùng, cơn đau của tôi giảm đi qúa nửa, chỉ còn ê và miệng còn xưng vù, hết hẳn những cơn đau nhói, tôi đi vào một giấc ngủ sâu.

Trưa hôm sau anh em dưới lán quạy cho tôi một loong Bích Chi đường hột gà. - Dưới lán tôi “tư bản” hơn phần lớn anh em, vẩn còn vài chục gói bột Bích Chi Tiến mới tiếp tế và con gà mái đẻ. Tuy rất đuối sức tôi vẫn có thể tự ăn, nhưng lạ làm sao, người bộ đội gác cho phép cô gái “nhân phẩm” - Tệ đoan xã hội, đi cải tạo để phục hồi nhân phẩm - giúp đút bột cho tôi (2).

Hoàng Qúy vừa lấy gối tre kê vào lưng tôi vừa thì thào:
- Ông được người đẹp chăm sóc chắc sẽ mau lành.

Tôi gượng cười cám ơn ông nhạc sĩ có dáng như thầy tu, đến nước này mà ông còn ráng nói diễu cho tôi vui.
Đưa tay sờ cằm, miệng tôi xưng lớn quá, nửa mặt dưới vẫn tê dại như người vừa ra khỏi phòng Nha Sĩ. Cô gái trước mặt gầy gò đen đủi, mặt cô ta chỗ bầm tím chỗ xưng vù, lúc đưa muỗng bột lên cao tôi mới để ý: áo cô mặc chỉ còn một tay, tôi nhớ đến miếng vải cũ HQ hay dùng lau máu, tôi nhìn cô cảm kích.

Trong hoàn cảnh này, những ý tưởng và phán đoán về danh giá, đẹp xấu hình như không còn nữa, tương quan giữa người và người chỉ còn lại nỗi cảm thương. Đột nhiên người con gái đưa mắt nhìn tôi, ánh mắt cô vừa linh hoạt vừa nhu mì trái hẳn vẻ trợn trừng hằn học ngày hôm qua. Cô im lặng chậm rãi đút từng muỗng bột vào miệng tôi, toát ra vẻ kiên nhẫn cũng khác hẳn nét dữ tợn hôm qua khi cô gào lên những câu chửi dữ tợn, chua ngoa.

Trong tâm trạng đớn đau pha lẫn nỗi sợ hãi và niềm cô đơn tuyệt vọng, khi nhìn ánh mắt hiền dịu của cô, tôi liên tưởng đến mẹ tôi với tình yêu thiết tha, đến những ân tình của nhiều người đã dâng tặng tôi. Tôi nhắm mắt nhủ thầm: “Nguyện cam tâm chịu những thống khổ này để bù lại phần nào ân tình người đã trao ban.” Những kỷ niệm mang nhiều xúc động thoáng hiện về, nước mắt tự nhiên ứa ra, tôi cố lẩm bẩm tự bào chữa cho mình: “Nhưng anh luôn sống thật, chưa hề lừa dối ai”. Có tiếng nấc trước mặt, tôi mở mắt, người con gái đang đút bột cho tôi cũng nước mắt lưng tròng, tay cầm muỗng bột run run. Chúng tôi đăm đăm nhìn nhau chắc cùng thương cho hoàn cảnh và tội cho số phận của nhau.

Tiếng kẻng bỗng vang lên đưa chúng tôi về thực tại. Người bộ đội gác ngoài cửa lớn tiếng:
- Hết giờ ăn, đến lúc ra ngoài.

Hoàng Qúy giải thích:
- Mình được tháo cùm, xuống suối tắm giặt, đi lại một giờ.
----------------------------
(1)Tổ cải tạo chung với tôi tại trại Cây Cày, Đồng Ban gồm 18 người, may mắn qua Mỹ được hơn nửa. Nguyên tại vùng San Jose chúng tôi có dịp gặp lại 6 người. (UTT, UTL, NCH, CS, NTN, NVN).
(2)Khi còn trong các trại tù cải tạo tôi tưởng lầm các cô “nhân phẩm” toàn là chị em ta. Nhưng khi ra tù tôi mới biết, có rất nhiều vợ con của “ngụy quân, ngụy quyền”. Có người bị bắt vì bán chợ trời, người vì phát biểu phản động chống phá cách mạng, v.v...


**********

2. Ngã gục xuống lòng đất
Cố níu vai cuộc đời
Thủy chung với loài người

Một tuần sau tôi bắt đầu bị gọi lên “làm việc” với “khung” và viết kiểm thảo. Sau mấy lần tờ kiểm điểm bị trả lại kèm lời phê: “Chưa thành thật khai báo”, tôi nhận ra họ (những người thẩm vấn) đã biết qúa nhiều, họ rành cả những chuyện “mật” mà chắc nhiều anh em trong tổ cũng không hay.

Không nghi ngờ gì nữa, trong nội bộ đã có đứa làm ăng-ten! Tôi bị kỷ luật và biệt giam không phải chỉ vì nhạc “vàng” mà còn bị gán thêm hai tội nặng: “sỉ nhục chiến sĩ Cách Mạng” và “phá hoại tài sản Xã Hội Chủ Nghĩa”!

Việc “sỉ nhục chiến sĩ” xẩy ra do hôm tổ đi trồng mì gần khu dân cư kinh tế mới, một chú chó nhỏ luẩn quẩn đến chỗ chúng tôi, đuổi cũng không chịu đi. Tới chiều chúng tôi về lại lán, chú chó cũng lẽo đẽo theo sau. Khi lội qua suối, vì không muốn bỏ lại con chó giữa rừng hoang, một anh ôm nó về trại. Tối hôm đó chúng tôi lấy ý kiến đặt tên cho chó. Tôi vừa đề nghị tên “Bi Đông” anh em đã vỗ tay “hồ hởi nhất trí”.

Kể từ đó, tội nghiệp con có nhỏ có bộ mặt dễ thương đã trở thành đối tượng để anh em chỉ trích: “Ê Bi Đông! Nhìn mặt mày là thấy lưu manh, gian ác, chỉ được cái nói như vẹt…”, “Mày vừa ngố vừa khờ mà vỗ ngực xưng ta đây đỉnh cao trí tuệ! phét lác . .”.

Anh cán bộ khi tra vấn tôi và lập lại những câu đó, anh ta đập bàn gằn giọng:
- Như vậy là các anh đã sỉ nhục BĐ, chiến sĩ cách mạng chứ còn gì nữa?!

Tôi lúng túng biện hộ:
- Thưa cán bộ, đúng ngày có con chó là ngày tôi bị mất cái bi-đông đựng nước, tôi đặt tên nó vậy chỉ vì nghĩ đến cái bi-đông mất chứ không có ý gì khác.

Anh ta rít một hơi thuốc lào thở khói mù mịt rồi mới hằn học:
- Còn chuyện ăn cắp gà bộ đội thì sao? Không thấy anh khai ra?

Tôi lắp bắp:
- Gà . . gà nào đâu.

Anh cán bộ lớn tiếng:
- Gà của quản giáo dẫy nhà số hai chứ gà nào, anh tưởng chúng tôi không biết phỏng?”

Thôi chết rồi! Số là trong trại tôi có thằng em kết nghiã tên Dương Hợp, thua tôi một tuổi, khóa cuối Võ Bị Đàlạt ra trường “non”. Hợp rất tư cách, anh em chung tổ từ bên Trảng Lớn. Trưa đó trên sân “Tinh Võ” (sân phơi lúa và khoai mì khô của Cây Cày), Hợp đang lui cui trở thóc, tên “Bộ Đội chó” đến sau lưng quất Hợp một gậy! Sở dĩ gã bộ đội này có bí danh “chó” vì hắn giải ngũ đã lâu nhưng không về quê ngoài Bắc, cứ quanh quẩn trong trại, mỗi dịp tù nhân được thăm nuôi hắn giết chó đèo vào chiếc xe đạp cũ, đạp tới các tổ rao: “Chó chó! Chó chó”.
Chỉ có lúc bán thịt chó hắn mới “dễ thương”, những lúc khác hắn cực kỳ hắc ám.

Mỗi khi thấy quản giáo đang “lên lớp”, bộ đội cờ tây nhà ta dựng xe đạp lại, chống nạnh chửi ké:
- Chúng mày trây lười đã quen, ngồi không ăn bám đã thành nếp, không thấy lao động là vinh quang,..

Rồi hắn ta vung hai cánh tay khẳng khiu lên:
- Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sói đá cũng thành cơm...

Nhiều khi hắn ba hoa quá, quản giáo phải đuổi hắn mới chịu đi. Hắn còn thói xấu rất đáng trách mà cũng vì thói này, sân phơi lúa Cây Cày được mệnh danh “sân Tinh Võ”.

Lúc anh em đang cắm cúi làm việc, hắn đến sau lưng bất ngờ giơ gậy quất. Bữa đó Hợp bị một hèo, tôi tức lắm, nhìn đi chỗ khác tôi chửi đổng: “Đồ hèn!”. Tên “cờ tây” xăm xăm đi lại, cứ hắn tiến thì tôi lùi, luôn giữ khoảng cách xa hơn tầm gậy, tôi lùi vòng vòng trong sân, anh em ngưng làm theo dõi. Mặt bộ đội khuyển tái ngắt, miệng thở phì phò. Mãi đến lúc chính ủy trung đoàn ra đứng chống nạnh, “cờ tây” ta mới chịu lủi vào khu nhà quản giáo.

Buổi chiều tan giờ lao động, tôi ra hiệu cho Hợp biết anh em sẽ về sau cùng. Trên đường về giữa các ruông bắp, tôi nhanh chóng vồ được hai chú cào cào. Trong lúc Hợp canh chừng, tôi cột con cào cào vào sợi chỉ bao cát (vải áo tôi đang mặc). Lúc đi qua nhà quản giáo, tôi liệng chú cào cào vào giữa đàn gà, một con nhào ra mổ. Tôi chỉ việc chậm rãi kéo con gà lại, vì mồi đã mắc trong họng, gà ta ngoan ngoãn đi theo sợi chỉ, đến vừa tầm tay, tôi chụp đầu gà vặn ngược. Quái kê được giải thoát không một tiếng động. Hợp há hốc mồm khâm phục, hắn ngồi thụt xuống, banh cổ áo ra cho tôi nhét gà vào. Tối đó chúng tôi liên hoan món gà luộc, trả thù cho Hợp cú đòn hèn . . .

Nghe người cán bộ thẩm vấn hỏi về “kỳ tích” này tôi khá nao núng nhưng cũng tìm cách chống chế:
- Dạ có gà thật, nhưng đầu đuôi vì bữa đó tôi lao động về mệt quá, lại “tranh thủ” vác khúc củi về cho anh nuôi (bộ phận nấu ăn), chân nam đá chân xiêu, đàn gà lại cứ quẩn vào chân nên tôi có . . dẵm chết một con . . .

Người cán bộ đang “làm việc” bỗng gầm gừ ngắt lời:
- Thôi! Lý do của anh đến trẻ con cũng không tin được… Rồi! Thế còn vụ ăn cắp xa cá?

Tôi giật nảy mình, chết mẹ! vụ này giải thích sao đây? Số là bộ đội có cách bắt cá rất hay, họ đóng một dàn cầu tre ngang suối, phía dưới cầu tre họ đặt dàn lưới tre. Cá theo dòng nước chảy xuống sẽ bị mắc vào lưới. Nhiều lần đi lao động ngang xa cá bộ đội, phe cải tạo thèm nhỏ dãi, những ngày chúng tôi có thịt cá trong năm chắc đếm không hết năm đầu ngón tay.

Bữa đó chúng tôi bốn người - Phạm Minh Lại (giặc lái trực thăng ngoài Pleiku), Nguyễn cửu Hiệp (bộ TL Không quân) và Dương Hợp quyết định “chôm” cá của “bi đông”. Hợp và Hiệp đi trước thám sát, tôi sẽ chôm cá còn Lại quan sát phía sau.

Tôi và Lại cố tình chần chờ, lùi lại cuối đoàn cải tạo đi phá rẫy. Khi đi ngang cổng gác sau, một anh cán binh mặt mày non choẹt đứng lên quát:
- Hai anh kia! Đi nhanh lên! Đi đứng thất thểu như hai thằng chết đói.

Lại với giọng thều não thủng thỉnh trả lời:
- Đói chứ sao không đói.

Anh bộ đội nhí tức mình quát:
- Đói! Lúc nào cũng than đói. Sáng không ăn gì à.

Vẫn giọng nhừa nhựa, Lại nói như rên:
- Có gì đâu mà ăn.

Anh bộ đội lúc đó chắc chợt nghĩ ra: Tù cải tạo đâu có được ăn sáng. Anh ta chửi đổng:
- Chỉ bố lếu bố láo. Chây lười lao động… Đi nhanh lên.

Đến xa cá tôi nhìn phái trước thấy Hợp đứng xa xa ngay chỗ rẽ ra dấu an toàn, quay lại phía sau Lại cũng gật đầu, tôi dòm dẫm leo lên cầu khỉ đi trôm cá. Nhưng xui cho chúng tôi bữa đó chỉ có một con lớn bằng cổ tay. Vì không có đồ đựng, tôi nhét đại cá vào túi quần. Lại đến thấy đuôi cá còn lòi ra ngoài, hắn nghiến răng vừa cắn vừa bẻ đứt đuôi cá vất xuống suối.

Hôm đó tổ đứng thành hàng ngang cuốc đất trồng mì, tôi không có chỗ nào dấu đành cứ để cá trong túi. Sau mấy tiếng làm dưới trời nắng, mùi tanh của cá chết bốc lên lợm giọng…

Bị chất vấn về vụ trộm cá, tôi không biết đường trả lời nên chỉ còn cách chối. Nhất định nói rằng bị báo cáo gian. Mấy lần tra hỏi vặn vẹo không kết quả, anh cán bộ thẩm vấn hậm hực ra lệnh cho người cán binh điệu tôi trở lại phòng biệt giam.
Sau lần “làm việc” thứ tư, bản tự kiềm vẫn bị trả về kèm lời phê “chưa thành thật khai báo”, tôi thấy đấu trí kiểu này không xong. Họ có sở trường ù lì, chờ đợi.

Còn tôi, liệu chịu đựng được bao lâu vớì những cơn đói ngày đêm hành hạ?! Đói luôn ám ảnh tâm trí, trong giấc ngủ tôi thường chỉ mơ thấy ăn, tới những món tầm thường như chén chè, củ khoai. Có lần trên đường xuống suối tắm, chỉ cách họng súng mấy bước, vừa qua khúc quặt, tôi liều ra chiêu “diệu thủ” vặt một bó bo-bo nhét vào bụng. Nhưng than ơi “hoạ vô đơn chí”, trong bo-bo có qúa nhiều kiến lửa, chúng nhào ra cắn phồng da ngực, tôi đành giả bộ đi vệ sinh để nhét nắm bo-bo vào bụi!

Cách mạng muốn tôi viết về những điều họ chưa rõ, tôi lại chỉ dài dòng về những điều “trên” đã quá hay. Khung muốn tôi nói nhiều về người khác, tôi chỉ một mực viết về mình, có nhắc đến anh em cũng chỉ chung chung, cách “vô thưởng vô phạt”. Hôm đó sau khi nhận xấp giấy mới kèm những lời răn đe, tôi quyết định không viết tự kiểm nữa mà viết về . . tình yêu, dưới tiêu đề “Tình Yêu Đích Thực”. Tôi nảy ra ý định này vì nhớ vài ngày trước khi bị kỷ luật, anh quản giáo đến yêu cầu tôi giúp thực hiện tờ báo Tết cho trại.

Tôi sửng sốt rồi xin từ chối với lý do thiếu khả năng, anh ta cười:
- Chúng tôi được báo cáo cả rồi, trong trại huấn luyện sĩ quan ngụy (quân trường), anh từng làm trưởng ban báo chí.

À ra thế! Nay quyết định viết bài, tôi biết mình phải viết làm sao để mấy anh này thấy hay, thấy thích, từ đó họ không bắt tôi viết tự kiểm nữa. Và biết đâu - phải biết đâu, tôi còn được tha về lán. Dưới đề tài tình yêu, tôi mổ xẻ, phê bình các lọai liên hệ tình cảm: tình yêu trai gái; tình yêu giữa cha mẹ và con cái; tình bạn bè, tình họ hàng, . . tất cả những loại tình yêu này đều đáng tôn trọng nhưng đều . . vị kỷ. Con người mới trong một xã hội mới, cần tiến đến tình yêu vị tha, cần vượt ra ngoài biên giới ích kỷ hạn hẹp, đè bẹp những dục vọng đam mê bản thân, để có thể tiếp giáp với tha nhân.

Trong thiên đường Cộng sản, tình yêu nhân quần xã hội thôi thúc con người cùng nắm tay nhau đấu tranh, hủy bỏ xiềng xích bất công, trả tự do cho người bị áp bức. Với tình yêu vị tha được thăng hoa, con người sẽ giúp tha nhân dẹp bỏ mọi gánh nặng, chia cơm sẻ áo cho kẻ đói rách, tiếp rước những người phiêu bạc không nhà. Con người không chỉ biết chăm xóc chính bản thân mình mà còn cảm nhận những nỗi khốn khổ của đồng loại,…

Gần mười trang giấy tôi viết ra những ý tưởng tốt đẹp nhất tôi có thể hình dung được về tính vị tha, về tình yêu cao thượng đối với cả… loài người. Thậm chí tôi không giới hạn “tình yêu” của mình vào phạm vi quốc gia dân tộc, với quan điểm “thế giới đại đồng”, nếu chưa yêu . . toàn thế giới, hết nhân loại, tình yêu đó còn tính “cục bộ”, vẫn “chưa đạt”!...

Anh cán bộ nhận bài viết của tôi thay vì bản tự kiểm, lúc đầu mặt anh ta nghệt ra nhưng đọc một lúc, những thớ thịt trên mặt anh giãn dần. Cuối cùng, người cán bộ nói lấp lửng:
- Được rồi, chúng tôi sẽ làm việc với anh sau.

Ngay chiều hôm đó, tôi được “bố trí” lên làm việc với chính ủy trại. Từ chỗ biệt giam “cây da xà” cuối trại, muốn đi lên “khung” hai người cán binh phải điệu tôi đi băng qua lán. Anh em có toán đã đi làm về, thấy tôi đi giữa hai người bộ đội tay lăm lăm AK, đã nhìn theo với ánh mắt ái ngại, chắc anh em đoán tôi đang bị dẫn đi xử. Riêng tôi thật bình thản, từ thiếu thời tôi đã có niềm tin lạ lùng rằng sau lưng tôi có một quyền lực vô hình khi cần sẽ bảo vệ, giúp tôi vượt thắng gian nguy. Trường hợp tệ nhất, lát nữa đây hồn tôi sẽ theo những đám mây đang lơ lửng trên bầu trời để ngao du, quên hẳn thế gian tục lụy.

Người chính ủy trại giam tiếp tôi sau chiếc bàn gỗ, gói thuốc Sài Gòn Giải Phóng đè trên xấp giấy tái sinh vàng nhạt, bài viết của tôi đã được anh ta đọc, gạch sửa, phê bình bằng mực đỏ như một bài luận học trò.

Với lối phát âm nặng của vùng Nghệ-Tĩnh, anh chính ủy chậm rãi:
- Về mặt tích cực, bài viết của anh đã chứng tỏ việc học tập của anh đã có ít nhiều tiến bộ. Nhưng về mặt tiêu cực, nhận thức của anh còn nhiều chỗ chưa đạt, chưa chuẩn.

Anh ta trao xấp giấy cho tôi và tiếp:
- Anh viết lại, cô đọng trong ba trang thôi, để ý đến những chỗ tôi đề nghị. Bài này sẽ đăng trong báo Xuân của trại.

Tôi đứng dậy, người chính ủy đến vỗ vai nói nửa khuyên nửa đe:
- Vì qúa trình học tập của anh có dấu hiệu tiến bộ, chúng tôi tạm ngưng việc thi hành kỷ luật của anh, nhưng anh phải ra sức phấn đấu, lần sau chúng tôi sẽ không khoan hồng nữa.

Sau đó anh ta đưa cho hai anh vệ binh một mảnh giấy viết sẵn và chỉ thị họ đưa tôi về lán thay vì trở lại chỗ biệt giam. Trên đường về lán, tôi nghĩ mình được thả về với anh em vì “khung” vào thế kẹt. Không lẽ cho đăng bài của một tên đang bị kỷ luật.


**********

3. Người đi trên giao tuyến
Sống chết như đêm ngày
Tim đau hồn ứa máu
Tự do một tiếng thôi

Về gặp lại anh em, những biểu lộ mừng vui chân thành của họ khiến tôi nghẹn lời. Tuy mặt còn xưng, hàm còn ê, tôi như vừa thóat cơn đại nạn.

Hợp khi biết tôi được tha về vì bài viết “Tình yêu đích thực”, hắn ngồi tư lự dáng không vui, nhưng Phong (đàn anh Hợp, khoá 25) sau khi đọc bài tôi viết, hắn phá ra cười:
- Mày viết tình yêu loại này chắc chỉ có trên thiên đàng!”.

Tôi nghiêm mặt:
- Chứ sao, thiên đàng CS, thế giới đại đồng mà lị.

Mặt Hợp, La, Hồng trở nên rạng rỡ. Tôi nghĩ họ nhớ tới những buổi học tập chính trị, nếu có mặt cán bộ quản giáo tôi luôn đưa tay phát biểu, tôi ráng giữ ở mức quản giáo thấy tôi “hăng say phát biểu”, “thành thật khai báo” nhưng vừa đủ để với anh em họ thấy nó “hơi lố”, “hơi sạo” và tôi đang ngầm mang đề tài thảo luận ra… diễu. Nhờ vậy những buổi học tập chính trị đỡ căng thẳng. Có khi tôi chưa kịp nói anh em đã đề nghị tôi phát biểu.

Tối hôm đó quản giáo đến họp với tổ tôi, anh ta giải thích vì học tập có dấu hiệu tiến bộ tôi được tạm ngưng kỷ luật và “đề nghị” tôi vẫn giữ tổ trưởng. Anh em hò reo hưởng ứng. Sau khi cán bộ về, tổ ăn mừng bằng màn nước trà, thuốc lào và hát nhạc… cách mạng. Cả tổ hợp ca “Những bước chân đi tới” và “Tiếng hát những đêm không ngủ”.

Chúng tôi thích hai bản này vì những câu như: “… Đêm nay ta cất cao tiếng hát giữa những trại giam.” hay “… Dù cho máu đổ quyết tâm giữ vững lòng son…” Đến phần điệp khúc anh em phụ họa bằng tiếng vỗ tay, đập bàn, cùng nhau rống lên:
- Dậy mà đi đồng bào ơi! Dậy mà đi đồng ới! Mẹ VN có hay chăng…”

Cả tổ đang gân cổ “cất cao tiếng hát giữa những trại giam”, bỗng anh quản giáo hồng hộc chạy tới:
- Im ngay, im ngay. Các anh không được hát những bài này nữa. Cách mạng đã thành công rồi còn “dậy mà đi”, dậy mà đi làm gì?

Sau khi anh em gỉai tán về sạp, tôi hỏi Phong:
- Sao không thấy ông già Tỏ nhỉ?

Phong hậm hực thấp giọng:
- Ngay sau hôm mày bị kỷ luật, thằng gìa đó được khung điều lên làm đầy tớ, nấu cơm rửa chén rồi!

Tôi buột miệng:
- Không ngờ!

Như vậy rõ ràng người phản thùng, báo cáo tôi cũng là người tôi đã cưu mang gần năm nay.

“Già Tỏ” (tên chúng tôi gọi ông) đã nổi tiếng làm “ăng-ten” từ Trảng Lớn, nghe nói ông ta có hai vợ năm con, người vợ hai còn rất trẻ dọa sẽ bỏ đi lấy bộ đội nếu ông không về sớm. Khi chuyển về Đồng Ban, có lúc ông ta đau đi phải chống gậy. Một ngày cuối năm, nhân dịp ra ngoài cắt tranh, ông “liên hệ” với dân mua được xị đế.

Đúng đêm Ba Mươi năm đó, ông qúa nhớ vợ con, một mình tu hết xị rượu rồi ra giữa sân chửi đổng. Ông chửi từ “đồng chí bí thư” đến anh quản giáo. Sợ liên lụy tôi ra dìu ông vào sạp, mắc mùng và dỗ ông ngủ.

Sau Tết mấy ngày chúng tôi chuyển trại về Cây Cày, anh em không ai muốn cho ông nhập toán, tôi thấy ông già yếu, bệnh hoạn bị mọi người ghét bỏ, nên ráng thuyết phục nhóm thân thiết của tôi cho ông ghép vào. Những ngày đầu ông rất dễ thương, phần công tác của ông chúng tôi gánh hết, bù lại ông đóng vai anh nuôi rất chu đáo. Ông pha trà, cà phê, đi kiếm đọt chùm bao, rau dền dại về nấu với ếch nhái chúng tôi vồ được. Có bữa cao hứng ông còn mở keo muối mè dấu trong bọc, múc cho anh em mỗi người một muỗng.

Vài tháng sau khi chuyển trại, ông trở bệnh nặng, đi đứng khó khăn, tôi thường xuyên phải dìu ông đi vệ sinh. Có lúc vội vàng ông tè cả vào chân tôi, nước tiểu pha máu đỏ lòm. Hằng ngày ông chống gậy lên bệnh xá nơi có hai anh quân y trực, để nhận mấy viên “xuyên tâm liên”. Những thuốc của bồ và gia đình tôi gởi vào từ thuốc bổ đến ký ninh, thuốc lọc nước… đều chuyển cho ông phần lớn.

Mãi khoảng nửa tháng truớc khi tôi lên cây da xà, ông mới tạm bình phục, đi đứng tự nhiên và xin lên làm tạp dịch cho khu nhà quản giáo. Từ đây ông có dịp gặp gỡ cán bộ, báo cáo lập công. Chỉ không ngờ người ông báo cáo đầu tiên lại là tôi, không trách họ biết tất cả từ vụ chơi nhạc vàng đến con chó Bi Đông! (1)
. . . .

Sau đó vài tuần, chúng tôi có công tác đi nhổ mì về cho nhà máy làm bột ngọt Cây Cày - đây có lẽ là nhà máy làm “mì chính” lớn và lời nhất Tây Ninh (vì nhân công toàn là tù khổ sai). Bửa đó trời mưa tầm tã, chúng tôi sáu thằng ngồi vắt vẻo trên chiếc Molotova chất đầy khoai, thằng nào cũng ướt - lạnh tím môi. Mỗi lần đi qua đám dân kinh tế mới chúng tôi hốt một mớ mì liệng xuống, trả thù cho việc “nhà nước” bắt chúng tôi trồng bạt ngàn mấy chục mẫu mì nhưng không bao giờ cho phép chúng tôi ăn một củ.

Xe về đến nhà máy, chúng tôi lo chạy vào lấy giỏ cần xế hốt mì mang vào cho toán gọt vỏ - toàn là đàn bà, các chị “phục hồi nhân phẩm”. Tôi và Hợp khiêng một giỏ cần xế, Hợp không khỏe hơn tôi nhưng hắn cố tình khiêng gần lại để chịu nặng nhiều hơn. Tôi bỗng khựng lại, trước mặt tôi hình ảnh một người con gái quen thuộc, cô ta nhìn nhếch nhác tiều tụy quá sức, có lẽ còn tệ hơn người ăn mày chợ cá!


Tóc cô ta cột bằng sợi dây chuối, quần áo rách rưới vá chằng vá đụp. Cô ngồi chống gối, ống quần te tua tệ hơn miếng ghẻ rách. Cô không xấu lắm nhưng mặt mày xanh lét, môi thâm tím mắt vô hồn. Thân tôi đã bệ rạc nhưng nhìn cô tôi vẫn thấy quá xót xa quá. Cô cũng đã nhận ra tôi nên buột miệng: “Anh Tuấn!”. Tôi gật đầu, tôi ngừng hẳn lại tính nói câu gì đó với cô nhưng Hợp nói nhỏ:
- Chắc cô anh gặp trên cây da xà phải không? … Phải đi anh ơi, có thằng bộ đội nhìn mình nãy giờ.

Tôi đưa mắt chào cô rồi vội vã đi. Trong cải tạo họ kết tội rất nặng nếu đám sĩ quan “ngụy” liên hệ với tù hình sự, nhất là với các chị em “phụ hồi nhân phẩm”.

Trên chuyến xe đi nhổ mì lần sau, thấy tôi ngồi một mình trong góc xe buồn buồn, Hợp đến hỏi:
- Chắc anh thấy tội cho cô trên cây da xà?
- Ừ! Chắc anh sẽ kiếm gói bột Bích Chi hay vài thẻ đường cho cô ta. Anh vẩn mang ơn cô đút cháo cho anh bữa đầu anh bị đánh.

Phong xen vào:
- Trong tù mày biết các bà các cô cần nhất cái gì không? … Băng vệ sinh.

Tôi vội lắc đầu:
- Đi thăm tao là cô bồ và cô em. Không lẽ nói hai người này mang bang lên? Làm sao giải thích làm gì? Cho ai?
Cả bọn đều gật gù đồng ý. Đi tù mà “order” món hàng này coi bộ không ổn.

Lúc mang mì về chuyến nhì, tôi có ý kiếm “cô cây da xà” nhưng không thấy – tôi đến lúc đó vẫn không biết tên cô, còn cô biết tên tôi có lẽ nghe HQ gọi - Mãi đến khi khiêng hết mì vào, đang rửa tay mới nghe một giọng nói gần gần:
- Anh Tuấn lúc về đến kiếm trong bụi chuối.

Tôi nhìn lên, cô “te tua” đang đứng gần, tay cô đang cố che những chỗ áo rách lòi da, mắt cô hướng về bụi chuối kế nhà vệ sinh. Tôi gật đầu tỏ ý hiếu. Sau đó tôi làm bộ đi vệ sinh rồi tạt vào bụi chuối, mò ra được ba củ khoai mì nướng gói trong lá khô.

Chúng tôi sáu thằng vừa đói vừa lạnh chia nhau những củ mì nóng, ngon ơi là ngon. Lạ một điều khoai mì sau khi luộc hay nướng ăn rất ngon và lành nhung khi còn sống lại vô cùng nguy hiểm.

Có lần Muôn - nhà tiến sĩ ngôn ngữ - đói quá cạp đại một củ mì tươi, ăn xong mắt anh trợn trừng, miệng xùi bọt. Từ đó đói mấy chúng tôi cũng không dám ăn mì sống. Thời gian đi nhổ mì khoảng hơn nửa tháng bữa nào chúng tôi cũng được chén mì nướng. Để đền đáp tôi và Phong cũng kiếm được ít gói bột, vài thẻ đường cho lại – Hợp vốn “con bà phước”, chưa bao giờ được thăm nuôi.

Một lần chúng tôi đi lao động, mới ra khỏi nhà thấy một đám đàn bà xa xa đi đến. Một thằng réo:
- Tụi mày ơi! Bồ thằng Tuấn tới.

Đám trong lán nhao nhao chạy ra:
- Đâu đâu? Có phải cô đẹp nhất không?
- Tao thấy ngược lại.
- Không đẹp nhưng mà có duyên.
- Tao không biết có duyên không nhưng rất tốt. Cho mình ăn mì hoài…

Đám đàn bà con gái đi ngang. Một thằng lên giọng diễu:
- Anh Tứng ơi! Anh Tứng. Em nè.

Các cô có vẻ mắc cở líu ríu dạt qua bên kia đường. Cô “cây da xà” vẫn tiều tụy xanh sao, lệt bệt đi gần cuối.
Tôi tự nhiên thấy tức quá nạt tụi bạn:
- Tụi mày câm bớt cái miệng lại. Mình là cái thá gì mà phê bình người ta, đẹp với xấu… Bồ bịch khỉ gì. Trong tận cùng bằng số, còn lại chút tình người đối xứ với nhau…

Bẵng đi cả mấy tháng chúng tôi không có dịp tiếp xúc với phe “phục hồi”. Hôm đó không biết tình cờ hay do linh tính dẫn dắt khiến tôi tự nhiên đến bụi chuối đặc biệt, nơi chúng tôi vẫn dùng để trao đổi. Không có củ khoai mì nướng nào nhưng có một mảnh giấy nhỏ gấp dấu dưới cục đá: “Yến mất hôm qua. Đã chôn sáng nay.”

Tôi bàng hoàng. Lần đầu tiên biết tên cô “cây da xà” cũng là lúc cô không còn ở thế gian. Ôi một kiếp người. Tôi làm dấu Thánh giá, thầm cầu cho cô được Thiên Chúa bù lại những gì cô đã phải chịu đựng ở trần gian.
--------
(1) Bên Mỹ tôi cũng có lần gặp lại “Già Tỏ”. Bữa đi biểu tình chống triển lãm hình HCM trên Oakland. Trong đám biểu tình đứng gần tôi, một ông già nhỏ thó nhưng la “Đả đảo” rất to.

Thấy dáng quen quen tôi nhìn kỹ: A! Đúng cha già dịch. Tôi đến gần hất hàm: “Ê! Sao hồi ở Việt Nam ông không la lớn như vậy giùm tôi?”. Già Tỏ nhận ra tôi nhưng đáp tỉnh bơ: “La để bị chết hả? Bên đây mình biểu tình. đả đảo có cảnh sát gác, sợ gì không la.”

Phạm Mạnh Tuấn

ĐÔNG ĐOÀN * ĐỜI TÔI KHÔNG CÒN GÌ


 
Đời Tôi Không Còn Gì 
ĐÔNG ĐOÀN
 
Bài viết này, xin được coi như một nén hương dâng lên cầu xin cho linh hồn chồng và con gái tôi được yên nghỉ trong Chúa
Tiếng trẻ con la thất thanh làm tôi giật mình tỉnh giấc, thì ra đó là một đoạn trong cuốn phim ma chồng tôi đang xem. Những cảnh trong cuốn phim làm tôi nhớ lại tất cả những gì hãi hùng đã xảy ra trong chuyến vượt biển đó. Cho dù thời gian qua đã lâu, xong tôi không thể nguôi ngoai được. Nỗi niềm đau đớn này tôi không biết tỏ cùng ai nhất là với người chồng hiện tại - Vì người chồng và đứa con gái trước đó của tôi đã chết và mất tích kể từ ngày kinh hoàng đó.

Con thuyền nhỏ bé rời bến Vũng Tàu được hơn một ngày, mọi người thở phào nhẹ nhõm vì nghĩ mình đã thoát nạn. Một số lên boong tầu thở không khí trong lành của biển cả sau bao ngày chui rúc ở dưới khoang chật chội và hôi hám. Con tầu cứ lầm lũi tiến thẳng trong đêm. Ngày hôm sau trời quang đãng, bỗng trở nên u ám. Gió ngày càng thổi mạnh. Rồi những giọt mưa quất ồ ạt xuống mui tầu. Về chiều, gió thổi càng mạnh hơn, con tầu lắc lư muốn bể ra từng mảnh. Trong khoang tầu, tiếng đàn bà, trẻ con la khóc, tiếng người nôn oẹ, tiếng cầu kinh...Mọi âm thanh hỗ tạp đó càng làm tăng thêm sự sợ hãi cho mọi người. Tôi cùng chồng và hai đứa con ngồi ở một góc tầu, hai đứa tay làm dấu thánh và cất giọng đọc bài kinh sám hối. Con tầu vặn mình trong cơn bão, tiếng cọt kẹt của những miếng ván tôi tưởng chừng như chúng vỡ đến nơi.

Ở trên buồng lái, người tài công cố ghìm bánh lái đưa con tầu thoát cơn bão. Mặt trời ló rạng cũng là lúc cơn bão đã qua. Mọi người bơ phờ, mệt mỏi nhưng mừng rỡ vì vừa thoát chết. Con tầu tả tơi rùng mình băng tới trước. Qua ngày thứ ba trên biển khoảng chừng bốn giờ chiều bỗng có tiếng la: " Có tầu phía trước ". Mọi người mừng rỡ leo lên boong tầu, họ cầm tất cả những thứ gì có thể cầm được, quơ lấy quơ để hy vọng chiếc tầu kia nhìn thấy họ và quả thật, chiếc tầu đã nhìn thấy họ. Nó từ từ tiến lại gần chiếc tầu vượt biên nhỏ bé. Khi hai chiếc kề nhau mọi người mới tá hỏa thấy hai ba tên cầm sùng nhảy qua tầu họ. Chúng nói điều gì không ai hiểu, bỗng một tên trong họ cất tiếng, hắn nói tiếng Việt Nam bập bẹ: " Bọn tao là cướp biển, bỏ hết vàng bạc ra, chống cự sẽ bị giết ".

Sau đó cả bọn hơn mười tên ào tới lục soát tất cả mọi người, mọi nơi. Một lát sau không còn gì để lấy, chúng gom lại và xì xào điều gì đó với nhau, tên chỉ huy ra lệnh cho bọn chúng đem tất cả đàn bà, con gái sang bên tầu của chúng. Còn đàn ông, chúng gôm tất cả lại một góc ở trên boong. Tôi cũng là nạn nhân bị đem qua tầu hải tặc. Khi tên hải tặc cầm tay tôi lôi mạnh bắt đi theo hắn, tôi giật lại, cố ôm ghì đứa con trai mới hơn mười tháng tuổi trong đôi tay yếu ớt của mình. Giằng co một hồi thấy không thể kéo một mình tôi hắn đành đẩy tôi đi với cả đứa trẻ. Khi qua tới tầu bọn hải tặc, tôi thấy khoảng mười cô gái, không nói không rằng, cả bọn quẳng súng ống, giáo mác vồ lấy các cô, cô nào chống cự, chúng đánh không thương tiếc.

Các cô gào khóc kêu cha mẹ cứu mình, chồng con cứu mình, còn tôi dùng hết sức mình đạp mạnh vào hạ bộ của tên hải tặc nãy giờ cố đè lên mình tôi. Hắn nhăn nhó đấm thẳng vào mặt tôi, đau đớn tôi ngã vật xuống sàn tầu. Tên này xé toạc tất cả quần áo tôi và tiếp tục hành động thú vật của hắn trong tiếng cười điên loạn. Tôi cố ngước nhìn đứa con trai nãy giờ bị vất nằm trên sàn tầu. Tôi tự nhủ phải cố sống vì con, tôi gồng mình chịu đựng. Sau khi tên này xong việc, hắn ra hiệu cho tên khác chạy đến. Hắn như con thú đói mồi, lao lên mình tôi, hắn vừa hãm hiếp vừa đánh tôi.

Quá đau đớn tôi gọi tên chồng tôi, tôi gào tên con tôi. Chồng tôi đứng bên kia tầu, anh thấy tôi như vậy, anh vùng mạnh đôi tay chạy qua để cứu tôi. Một tên trong bọn chúng rút phăng cây mã tấu chém một nhát ngang cổ anh. Máu tuôn xối xả, anh ngã vật xuống tắt thở trong khi đôi mắt trợn trừng căm hận. Sau đó tên này đẩy xác anh xuống biển. Nằm bên này thấy rõ cảnh đó, tôi ngất đi, sau khi tỉnh lại. Tôi thấy mình và các cô gái khác nằm ở dười gầm tầu. Không biết bao lâu, chúng lại lùa chúng tôi lên để thay nhau hãm hiếp tiếp. Không biết bao lần tôi bị đẩy lên boong như vậy. Tôi muốn cắn lưỡi để tự tử, song nhìn lại đứa con nhỏ của mình tôi đành cắn răng cố sống vì con.

Có thể đó cũng là động lực giúp tôi sống đến ngày hôm nay Ngày qua ngày, bọn hải tặc vẫn tiếp tục hành động bẩn thỉu của chúng. Sau khi chán chê, chúng thả chúng tôi lên một hòn đảo và may mắn thay, vài ngày sau cảnh sát tuần duyên Mã Lai phát hiện và đưa chúng tôi vào bệnh viện. Nhìn lịch, tôi đã thấy hơn nửa tháng từ khi tôi rời Việt Nam. Sau khi lành bệnh, họ đưa chúng tôi vào trại tập trung với những thuyền nhân đã tới trước. Thời gian này tôi cố dò hỏi về chiếc thuyền của chồng và con gái tôi ở trên đó nhưng không ai biết cả. Sau này tôi được một người cho biết chiếc tầu của chồng tôi đã bị bọn hải tặc đâm thủng cho chìm hòng giết người để bịt miệng. Tôi ở đảo được khoảng tám tháng. Sau khi phái đoàn phỏng vấn, tôi được cho đi định cư tại Mỹ - đến miền đất lạ, tôi không bà con, anh em, người bảo trợ cho gia đình tôi lại là người Mỹ - hai phong tục, hai ngôn ngữ khác nhau nên cuối cùng tôi lại trở nên đơn độc.

 Sau khi ở chung khoảng vài tháng tôi dọn ra thuê phòng ở khu chung cư có người Việt Nam, tôi mong được nghe tiếng mẹ đẻ nơi đất khách quê người - Tôi thầm cảm ơn trời, đã cho tôi đến được miền đất hứa. Nhưng mọi việc không suông sẻ như tôi nghĩ. Hằng đêm mỗi khi tôi nhắm mắt thì hình ảnh những tên hải tặc hiện đến, rồi hình ảnh chồng tôi với cái cổ đầy máu và đôi mắt trợn trừng lại về, tôi không thể dỗ giấc ngủ, không một ai chia sẻ nỗi buồn này, rồi tôi ngã bệnh cả tháng trời. Cuối cùng tôi cố trỗi dậy và tự nhủ phải làm một công việc gì để quên đi và để lo cho con trai tôi.

Tôi gởi con rồi lao vào công việc để quên đi hết nỗi bất hạnh ập xuống đời tôi. Hết rửa chén bát đến nhặt rau nhà hàng...Ngày qua ngày, mỗi khi tôi đón con thì thằng bé đã ngủ say. Tôi hôn lên trán con mà nước mắt tuôn rơi. Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi, hết thu sang rồi đông đến. Thấm thoát tôi đã ở Mỹ được 16 năm rồi. Một ngày khi nỗi buồn nguôi ngoai, tôi bước thêm bước nữa. Người chồng này sống với tôi cho đến ngày hôm nay. Tuy vậy tôi chỉ cho anh biết tôi đi vượt biên và chồng cùng con gái đã chết trên biển - Tôi rất sợ nếu nói lên sự thật sẽ làm anh ghê tởm tôi và sẽ mất đi chỗ dựa cuối cùng này. Nhưng tạo hóa trớ trêu lại giáng tai họa xuống đời tôi một lần nữa. Một hôm đang làm việc, bỗng xếp của tôi gọi lên văn phòng và nói cho biết cảnh sát vừa gọi điện thoại cho biết con tôi theo đám bạn nhậu say rồi bắn lộn gây chết người. Hiện nó đang bị giam tại trại giam thành phố.

Tôi thấy mọi thứ như sụp xuống đầu tôi. Đứng chết lặng một hồi, tôi cố lê đôi chân về nhà sắp sếp vài thứ rồi vội vã vào nhà lao thăm con. Khi tôi và chồng tôi tới nơi, mẹ con ôm nhau khóc, chồng tôi sau khi hỏi han, căn dặn con tôi vài thứ anh ra ngoài để mẹ con tôi tiện việc nói chuyện. Nhìn sâu vào mắt con, tôi dùng hết sức mình hỏi nó:"Tại sao con lại làm như vậy?" Tôi muốn hỏi nó thật nhiều và thật rõ nguyên căn sự việc, song chỉ nói tới câu sao con làm như vậy là nước mắt tôi tuôn tràn, cổ họng tôi không thể nói thêm được. Thằng bé bây giờ đã ra vẻ đàn ông trả lời: "Tất cả tại mẹ, mẹ lo công việc suốt cả ngày. Tháng này qua tháng khác, con lớn lên không cha, không mẹ bên cạnh. Khi con gặp khó khăn trong cuộc sống, con không biết hỏi ai, không biết bày tỏ với ai con đành phải đi tìm bạn bè và kết quả như ngày hôm nay, con không ân hận gì hết ". Nghe con nói lòng tôi tan nát, tất cả hết rồi, đời tôi không còn gì nữa. Tôi gục xuống tất cả cho định mệnh.  

Ghi chú: " Câu chuyện này là sự thật 100%, nhưng vì để giữ hạnh phúc cho gia đình sau này, Người viết bài đành phải dấu tên họ. Nên xin quý vị đừng ngạc nhiên khi người kể chuyện là đàn bà mà người ký tên là đàn ông. Xin cảm ơn." Atlanta 1/5/03 ::: Đông Đoàn:::

HIẾU ĐỆ * VƯỜN NHÃN BÁC SĨ NGUYỄN HỮU TRÍ

 Vườn Nhãn
                                                   Bác Sĩ Nguyễn Hữu Trí
            Tôi quen thân với bác sĩ Nguyễn Hữu Trí từ ngày chúng tôi còn mặc đồ lính. Năm 1962 tôi được bổ nhiệm về Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến chăm sóc mấy tờ báo Quân Đội cùng với các nhà văn Mặc Thu và Thanh Nam. Lúc đó, bác sĩ Trí trông coi Phòng khám bệnh của Tiểu Đoàn 50 Cục Tâm Lý Chiến và Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung ương. Thời gian này bác sĩ Trí vừa mới ra trường. Bác còn rất trẻ, khoản chừng trên dưới ba mươi tuổi. Quân đội Pháp đã rút về nước. Bác sĩ người Pháp hầu như cũng không còn làm việc ở Việt Nam. Tình trạng khan hiếm bác sĩ trong nước rất gay go.
Tính từ thời người Pháp thành lập Viện Đại Học đến nay, các bác sĩ chuyên khoa trong nước không quá ba trăm người để phục vụ cho đồng bào toàn quốc. Cũng như anh em trường Mỹ Thuật chúng tôi vừa tốt nghiệp ở Sài Gònvào  năm 1956, số họa sĩ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Bác Trí thường nói với tôi:
- Hiếu Đệ à! Chúng ta còn phải làm việc nhiều hơn nữa. Không lẽ tụi mình phải mặc đồ lính và bị kẹt mãi cả đời trong trại như thế này sao?                                           
Tình hình trong nước mỗi lúc một khó khăn. Cộng sản miền Bắc đánh phá khắp nơi. Phật giáo xuống đường chống lại vụ đàn áp tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm. Qua đến năm sau, quân Mỹ nhảy vào Miền Nam. Chánh phủ Diệm bị quân đội lật đổ. Anh em Nhu Diệm bị giết hại. Bọn binh tôm tướng cá bên quân đội nhảy lên nắm chính quyền. Chúng tôi nhân cơ hội này chạy về phía dân sự, cởi bỏ đồ lính trả lại cho quân đội. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí đắc cử Hội Đồng tỉnh Gia Định. Tôi qua Phủ Thống Nhất nơi đây gặp đám bạn cũ là luật sư Nguyễn Hải Tấn và Phan Tùng Mai. Tôi xin  làm chân Công Cán Ủy Viên Văn Hóa Chính Trị. Rồi từ đó, tôi mới xin về trường Mỹ Thuật trở lại.
Theo chỗ tôi biết thì bác sĩ Nguyễn Hữu Trí sinh ở bên Tàu. Bác về nước lúc lên năm tuổi và lớn lên ở làng Bát Tràng miền Bắc. Ông thân sinh của bác sĩ Trí mang họ Mạc. Lẽ ra bác sĩ Trí là Mạc Hữu Trí nhưng lớn lên gia đình đổi là Nguyẽn Hữu Trí để lên Hà Nội thi vào trường Đại Học. Nguyên trọn cuộc đời bác sống trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước nên bác hằng mơ ước làm sao xây dựng lại thành một nước Việt Nam thanh bình, thoát khỏi sự chi phối của ngoại bang. Bác thực sự là một người yêu nước, yêu dân tộc.                            
Vì ta không lý tưởng
Để lòng ta vấn vương
Quanh quẩn bên yêu đương
Cho thân ta phờ phạc
Cho đời ta tan tác
Hãy tìm ra lối thoát
Cho đời ta sáng hơn
Hãy yêu lấy giang sơn
Cho tình ta rộng lớn
Không ngại nắng hay sương
Quên mình ta sung sướng
Nhân loại là tình thương.
(1958)
Bài thơ này bác làm từ ngày mới ra trường đại học năm 1958. Những năm còn ngồi ghế nhà trường, bác rất say mê chính trị. Bác là người đầu tiên thành lập Tổng Hội Chuyên Việt Nam đánh  thức tuồi trẻ Việt Nam thời đó như tinh thần bài thơ được phổ nhạc thành bài hát kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam ở các trường đại học trong nước:
Chuyên viên Việt Nam vùng lên!
Bồi đắp non sông huy hoàng
Không phân giai cấp, không gieo hận thù
Anh em quyết chuyên một nghề
Tự mình ta sống chẳng nhờ tay ai
Dân ta tự lập
Anh em ơi! Hãy đứng lên
Muôn người như một, hãy sát cánh bên nhau
Ta cười tin tưởng ngày mai huy hoàng
Hiên ngang hãy sống, hãy làm
Ngửng mặt lên. Người dân Việt
Hiên ngang quyết tâm xây dựng
Một thế giới vui tươi hòa bình!
Mang thiên hạ ra khỏi lầm than điêu tàn
Dám nói dám làm
Đã nói phải làm
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Hiên ngang như người
Ngày mai cách mạng lên rổi
Ngày mai chuyển hướng nơi nơi vui mừng
Không ngừng tiến lên, không ngừng tiến lên
Anh em ơi! Anh em ơi!
Không ngừng tiến lên!
(1995) 
Những năm làm Chủ tịch Hội Đồng Tỉnh Gia Định, bác sĩ Trí đã xây dựng được các lớp Bách Khoa Bình Dân dạy các ngành khoa học kỹ thuật, các lớp hướng nghiệp, mở các quán cơm xã hội cho người nghèo. Bác Trí mơ ước làm sao mỗi người dân Việt Nam có một nghề chuyên môn trong tay để đất nước mình thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bác là con người khoa học luôn luôn hướng về cái mới, cải thiện lấy nhân nghĩa để cất cánh bay cao và tiến xa hơn.
Những ngày mang gia đình di tản sang quê hương mới, đặt chân đến Michigan giữa những mùa tuyết lạnh rất khó khăn. Bác đã tranh đấu để đứng vững và vươn lên để xây dựng cho con cái nên người. Phải nói là buổi đầu có sự tiếp tay của người vợ thật rất lớn. Một bà mẹ Việt Nam đã tạo nên một thế hệ bác sĩ thứ hai nối tiếp truyền thống gia đình và sống theo nề nếp của người cha để đi lên bằng chính tài năng thật sự của mình nhằm xây dựng sự giàu mạnh cho gia đình và cho đất nước sau này. Sau hơn ba mươi năm loạn lạc, trái đất vẫn tròn, tôi gặp lại bác sĩ Nguyễn Hữu Trí ở vùng Ngũ Đại Hồ Michigan này. Bác sĩ Trí đã nhiều lần tổ chức hội thảo chính trị mở rộng khối đoàn kết người Việt Nam tự do.
Sau thập niên 80, khối Cộng sản Bắc Âu và Liên bang Sô Viết đã sụp đổ. Bức tường Bá Linh chia cắt nước Đức cũng không còn. Tại Đại hội Y Dược Việt Nam tổ chức ở Ba Lê, Pháp, bác sĩ Trí đã đọc một bài tham luận về sức mạnh dân chủ và tiên đoán khối Cộng sản Việt Nam sẽ bị cuốn trôi theo làn sóng dân chủ của thế giới không tránh khỏi. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí là người đầu tiên đứng ra thành lập Ban Chấp hành Người Việt tại thành phố Grand Rapide và miền Tây Michigan. Trong những nhiệm kỳ đầu, bác sĩ Nguyễn Hữu Trí được cử làm Chủ tịch và người viết làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký. Bác Trí mơ ước cộng đồng người Việt hải ngoại là hậu cứ của những cuộc cách mạng dân chủ trong nước.
Trong đêm tối đã có mặt trời
Trên đất Mỹ đã có chúng tôi
Dù đang sinh sống nổi trôi
Quyết đòi công lý không ngơi
Đồng bào ơi!
Bao năm lam lũ nhọc nhằn
Đói không cơm, rét không áo, đau không thuốc
Khó khăn lâu rồi!
Đứng lên thôi! Đứng lên thôi!
Đồng bào ơi! Đứng lên thôi!
Quyết đòi công lý không ngơi
Dưới ánh mặt trời, soi sáng khắp nơi.
(1995)
Ngày nay theo trật tự toàn cầu hóa, Cộng sản Việt Nam đã gia nhập vào thương mãi thế giới W.T.O. Qua những cuộc nổi dậy của đồng bào trong nước, từ đồng bằng đến cao nguyên, lực lượng dân chủ đã vùng dậy kết nạp thành phần trẻ trong nước. Người dân không còn sợ bạo lực của đảng nữa. Trái lại, đảng đang khiếp sợ trở lại nhân dân. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí tiên đoán một ngày không xa Cộng sản Việt Nam sẽ bị sụp đổ bởi hằng loạt sóng thần trong nước do nhân dân vùng dậy:
Toàn dân bừng tỉnh dậy
Cách mạng như sóng thần
Dâng lên từ lòng dân  
Tràn ngập khắp nơi nơi
Quét sạch loài cỏ dại
Chẳng ngần ngại xót xa
Xây dựng lại cơ đồ
Ông cha đáng mặt người.
(1995)
Người Việt nước ngoài chúng ta không có lãnh thổ nhưng tất cả cùng một lập trường quốc gia. Chúng ta có chung một ngọn cờ vàng đã được các tiểu bang của nước Mỹ công nhận. Bác sĩ Trí gọi đó là một quốc gia Viêu Việt. Chúng ta tranh đấu ở đây có nghĩa là tranh đấu cho tám mươi triệu đồng bào trong nước. Chúng ta vì Đại Nghĩa Dân Tộc chứ không đòi hỏi một quyền lợi nhỏ nhoi nào.
Ai đã tu thân? Ai đã tề gia?
Hãy đứng lên cùng ta lập quốc
Quốc gia Siêu Việt.
Con đường Đại Nghĩa
Giúp nhân loại vui sống tự do ấm no hòa bình
Một đời cho nhân loại thân thương
Cho Việt Nam phú cường.
(03.1996)
Cuộc tranh đấu dân chủ trong nước không phải là cuộc tranh đấu của một người. Cho dầu bác sĩ Trí đã nằm xuống nhưng chúng ta vẫn còn hàng vạn người trẻ đang đi tới. Thế hệ lão niên không còn nữa thì thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tiến lên. Trong cuộc chiến đấu ở Iraq vào những năm trước, trong đạo quân chiến thắng đánh vào chế độ độc tài ở Baghdad có một số thanh niên là con cháu của anh em cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Họ mang trong người truyền thống của cha anh. Chúng ta hy vọng lứa tuổi này sẽ góp bàn tay của mình trong việc gây dựng lại một nước Việt Nam giàu đẹp và dân chủ phú cường trong tương lai.
Kèn Đại Nghĩa đã thổi vang vang
Anh em ơi! Chúng ta cùng nhau lên đàng
Làm trai quyết chí hiên ngang
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên
Dân ta cực khổ triền miên
Nào ai thấy cảnh thấn tiên bao giờ?
Việt Nam! Việt Nam ơi!
Ta yêu đất mẹ tuyệt vời
Ai về ta nhắn mấy lời thân thương
Quê hương! Quê hương ơi!
Có ngày ta trở lại
Tương lai rất gần.
(1996)
Thụy Vi, một thi sĩ của thế hệ đi sau nhưng cũng hưởng ứng tinh thần vì Đại Nghĩa của bác sỉ Nguyễn Hữu Trí:
Cũng muốn thắp đèn trong đêm quá tối
Cười thật tươi trong đời sống ly hương
Dựng lại niềm tin giữa cơn bối rối
Trong tình thương nở rộ khắp mười phương
Cũng muốn phá rừng xới vun đất mới
Gieo giống ươm mầm lên mảnh vườn hoang
Nhựa sống đầy như nụ non mới mọc
Đồng lúa yêu thương nặng trĩu hạt vàng.
Cũng muốn làm chim bay vào nắng sớm
Hành trình xa không mỏi cánh phiêu du
Thu ngắn đường dài bằng đôi chân nhỏ
Sống thênh thang cho bõ kiếp ngục tù.
Cũng muốn hát hò cho người tiếng khóc
Phấn đấu thật nhiều trong kiếp ly hương
Điểm phấn tô hồng cho đời rạng rỡ
Đại Nghĩa mang đến hạnh phúc tình thương.
Cũng muốn xóa đi bao đời nô lệ
Hái nụ xuân hồng ướp thắm hương hoa
Quê hương ta có lắm điều cơ cực
Cuộc sống ưu tư trong chuỗi ngày dài.
Cũng muốn xóa đi bao điều phiền muộn
Bất công, đọa đày, ngu dốt, xấu xa
Tranh sống từng giờ phồn vinh giả tạo
Nước mắt tuôn dòng, lòng vạn xót xa.
Ước mơ dân ta đồng tâm hiệp lực
Cho Việt Nam thật hạnh phúc bình yên
Cho Việt Nam không bao giờ nô lệ
Cho Việt Nam thoát ách triền miên.
Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Tạo hạnh phúc cho nước nhà vĩnh cửu
Mầm non gieo trên thửa đất điêu tàn.
(Thụy Vi kính tặng bác sĩ và bà Nguyễn Hữu Trí).
Cuộc tranh đấu vì Đại Nghĩa, vì lá cờ vàng, mặc dầu chúng ta đang ở nước ngoài vẫn gay go lắm, chứ không phải bình thường. Không tránh khỏi bị người Việt với nhau trong cộng đồng chụp mũ. Bác sĩ Trí không tránh khỏi bị chụp mũ là Cộng sản, là nằm vùng, là thân Cộng. Tờ báo Người Việt Michigan bị đánh phá không cho lấy quảng cáo nữa. Các chợ, các nhà hàng người Việt nào phát hành tờ báo sẽ bị hăm dọa tẩy chay. Tờ báo phải dẹp tiệm thôi. Bác sĩ Trí cũng hay than phiền là khoản tiền bảo hiểm mỗi năm một lên nhất là mỗi khi làm bác sĩ mà vấp phải những vụ kiện tụng. Mỗi vụ kiện như vậy không phải một năm là xong, có khi còn kéo dài đến ba bốn năm, sống lo lắng đến phải đau tim. Bác là bác sĩ sản khoa, giải quyết những ca sinh đẻ cũng hồi hộp lắm.
Hơn nữa tiểu bang Michigan vào mùa tuyết lạnh, mặt trời bị mây mờ che phủ. Cây cối trơ cành. Không có ánh sáng mặt trời, tim bác không được khỏe. Bác dời về thị trấn Naple, tiểu bang Florida để dưỡng bệnh và nghỉ hưu. Nơi đây khí hậu ấm áp như ở Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương Việt Nam. Năm 1997 thị trấn Naple chỉ toàn là rừng, dân cư thưa thớt như nông thôn Việt Nam. Buổi sáng thức dậy nghe tiếng gà gáy, tiếng chim hót líu lo. Cuộc sống ở đây như một ẩn sĩ, không còn ai tranh chấp hơn thua với mình nữa. Khung cảnh rất thanh bình. Chỉ có hai mùa mưa nắng. Có điều hơi xa thủ đô Orlando của tiểu bang Florida, lái xe lên phố phải mất bốn tiếng đồng hồ. Bác sĩ Trí xây ngôi nhà ngói đỏ và bắt đầu vui thú điền viên, xin nhận nơi này làm quê hương. Bác nói làm vườn chẳng phải mua bảo hiểm nữa vì chẳng có cây cỏ nào nó kiện mình hết, khỏe re.
Bác cũng rủ tôi đi làm vườn với bác. Vì đất rừng ở đây rất rẽ chỉ có ngàn đồng một mẫu tây. Tôi nghĩ mình nay cũng có tuổi rồi đâu cần làm anh chàng tarzan ở trong rừng nữa, sống với con cháu được ngày nào hay ngày đó chẳng vui hơn sao? Đám con bác Trí xây cho bác cái nhà thật đẹp, có hồ tắm, có hòn giả sơn, có dòng suối và chiếc cầu bắt ngang.
Trong vườn ngồi ngắm cỏ hoa
Dưới nước cá lội trên cành chim ca
Ngoài kia vẳng tự đàng xa
Nghe tiếng suối đổ reo hòa với thông
Trời xanh mây trắng vẫn hồng
Làm ta lại chạnh đau lòng xa quê
Xa quê mong có ngày về
Mơ sao “Đại Nghĩa Việt Siêu” mau thành
Tuổi ta nay đã sáu tư
Mong con cháu tự theo đường ta đi
Can đảm, yêu thương, đoàn kết
Trai tài, gái sắc, thông minh, hiền hòa
Thế là sống trọn đời ta
Đi từ trái đất tiến vào thiên thai
Chẳng cần ganh tị cùng ai
Chỉ cầu nhân loại vui tươi thái bình.
(1998)
Khu vườn của bác rộng khoản năm mẫu tây. Bác trồng được hơn một ngàn cây nhãn và một số cây ăn trái. Công lao động ở đây thật rẽ, khoản hai ba đồng một giờ. Mình đến chợ người thuê người Cuba hay người Mễ về làm, chiều chở họ về trả lại chợ người. Quanh năm bác trồng rau loại ngắn hạng như rau muống, ngò gai, húng quế, bầu bí. Có nhà thầu đến thu gom cứ mỗi tuần lễ đôi lần. Bác Trí mơ ước nơi đây sẽ là một làng Việt Nam lấy tên là Hùng Vương xã. Nơi đây sẽ trở thành một làng xã như ở Đài Loan. Con người ở Đài Loan họ cũng căm thù cộng sản ở Hoa Lục. Nhưng họ chỉ lo làm ăn. Họ chỉ xây dựng thành một quê hương giàu đẹp làm cho Trung cộng phải lẹt đẹt theo sau đó là điều chắc chắn.
Nguyễn Gia Trang. Làng Việt Nam
Mang tên “Hùng Vương xã”
Tinh thần Hưng Đạo Vương
Đại nghĩa thắng hung tàn
Trí nhân thay cuồng bạo
Mang dòng giống Việt
Sáng ngời năm châu
Dù đang sinh sống nơi đâu
Về đây góp mặt
Xứng danh: con Rồng cháu Tiên
Xây nhà ngói đỏ. Với vườn cây xanh
Sống trong thanh bình. Con cháu noi gương
Tiến lên!
Trong một thế giới. Vui tươi hài hòa
Florida!
Nơi ta lập nghiệp lâu dài ai ơi.
(12.1998)
Tính đến ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2003 cũng đã có hơn hai mươi gia đình người Việt Nam về đây lập nghiệp. Lúc này thị trấn Naple không còn là cánh rừng như hồi bác sĩ Trí mới đến nữa. Đất rừng ở đây người ta không còn bán cho mình với giá một hai ngàn US đô la một mẫu mà đã được nhân lên đến ba mươi ngàn đồng. Thành phố trở thành một nơi nghỉ mát rất đẹp, đã có shoping mall rất tối tân, xa lộ sáu lanes rộng lớn, phi trường mở rộng. Vườn nhãn của bác sĩ Trí xanh mướt trái nhiều, cành quằng xuống đất. Thu hoạch hằng ba bốn trăm ngàn đồng mỗi năm. Bác thường khoe với tôi vườn nhãn của bác rất đẹp như con gái mười tám. Mỗi mùa xuân, mỗi cây nhãn cho bác hơn cả trăm pounds trái nhãn.
Đây mảnh đất hoang vu đầy cỏ
Biến nó thành một chỗ vui chơi
Từ ngàn xưa mảnh đất không người
Nay dân Việt cùng nhau đoàn tụ
Mảnh đất ấy nằm vùng tráng lệ
Chờ bàn tay bồi đắp dân ta
Buổi ban đầu tuy bước không xa
Đặt căn bản cũng là trọng hệ
Dân tộc ta lưu vong bốn bể
Gặp lại đây trên đất hữu tình
Mảnh đất này sẽ có cây xanh
Có trái thắm và bông hồng rực rở
Đất tồn tại với không gian rộng mở
Chỉ tình mình vọng lại quê hương
Đất với người vương vấn tình thương
Hồn dân tộc ấm lòng thế hệ.
(K.T.S. Nguyễn Đình Thi Sarasota - Đầu Xuân 2000)
Tôi biết bác ở một mình trong rừng cũng buồn lắm nên bác thường rủ tôi xuống ở chơi với bác. Nhất là những mùa đông ở trên Michigan chỗ tôi ở mây mù và tuyết lạnh. Bác kêu tôi đi trốn tuyết ở nhà bác một đôi tháng, anh em rủ nhau phơi nắng, tắm biển đến khi Michigan trời hết tuyết rồi hãy về. Có hôm tôi đi chơi ở nhà bác Trí gặp lúc bác đi khám đầu ở nhà thương For Meiyer. Bác bảo tôi mang theo quyển tiểu thuyết ngồi đọc chờ bác đi khám. Khi ra về, bác nói mấy scane khám trong đầu bác thấy có bướu não. Họ bảo tuần sau đi mổ. Tôi lý luận với bác:
- Nếu như ngày xưa chưa có cái máy đo đó thì họ đâu có biết là mình có bướu não. Mình cũng sống được từ năm năm đến bảy năm nữa, có chết cũng chẳng sao. Bây giờ mình thử phớt lờ đi cũng được chứ gì.
Bác Trí cự nự:
- Ông là nghệ sĩ nói sao cũng được. Chứ tôi làm khoa học, thấy bệnh thì phải chữa, phải sống chết vì khoa học, phớt lờ đâu được.
Hôm đó nhân mùa Giỗ Tổ Hùng Vương có giáo sư Nguyễn Văn Canh xuống thăm vườn nhãn của bác sĩ Trí. Tối hôm đó có một buổi họp bạn thân mật có một số anh em trẻ tham dự gồm kiến trúc sư và địa ốc cùng các ngành xây dựng. Họ phác họa chương trình phát triển mở rộng thị trấn du lịch và thương mãi của người Việt Nam ở Naple. Các chuyên viên trẻ dĩ nhiên họ làm ăn mạnh bạo hơn mấy cụ già. Họ có thể vay bạc triệu từ các ngân hàng để xây dựng thành phố. Nhưng dù sao bác sĩ Nguyễn Hữu Trí vẫn là người mở đường đi trước. Qua ngày sau, chúng tôi kéo nhau về Orlando thì nghe tin bác Trí đi giải phẩu bướu não. Bác đi luôn trong ca mổ.  Bác vẫn lạc quan như những phi hành gia trong chiếc phi thuyền Chalenger khi về đến gần trái đất.
Hôm nay làng Hùng Vương lớn mạnh thành một đô thị. Vườn nhãn vẫn đơm bông kết trái, chim vẫn hót, hoa vẫn nở nhưng bác sĩ Trí không còn nữa. Bà vợ của bác sĩ Trí từ nay không dám sống đơn chiếc một mình ở trong rừng. Bà bán vườn nhãn trở về ở với con cháu trên tiểu bang Michigan.
 

Thursday, June 15, 2017



NGUYỄN VĂN SÂM * CA DAO TẬP TÀNG

Ca Dao Tập Tàng

06/06/201717:18:00(Xem: 562)
Nhăn mặt nhịn đau nhích cái chưn sưng bị treo gá ngỡi giữa hai cây giăng mùng, chú Tư Trích chép miệng: “Thiệt tức, ban đầu có chút híu bây giờ tầy huầy như vầy thì cực còn hơn Thủ Huồng bị đọa, muốn trở mình chút đỉnh cho đở mõi mà có được đâu. Nằm lâu, chuyện vệ sinh tắm rửa lần nào cũng trần thân muốn khóc… Giống như dao cùn, dao mẻ chờ giờ bị liệng đi.” Chú bặm môi cố gượng trở mình, nhưng mới nhúc nhích chút đỉnh đã cảm thấy đau thấu mây xanh bèn nằm yên, trí nghĩ bâng quơ về quá khứ.
Có thói quen nếu bảnh mắt dậy mà thấy trời rọi chút yến sáng là Tư Trích tốc mùng đi đếm số bông bí trong vườn. Bữa nào hể đếm được chừng độ bốn năm chục bông là chú mừng quýnh, hí ha hí hửng đi một vòng vườn rồi mới trở vô nhà tiếp tục làm chuyện gì đó đợi tới chừng 8, 9 giờ xách rỗ ra vườn cắt bông bí đem vô khoe với vợ. Vừa cắt, Tư Trích vừa ngâm nga nho nhỏ, thường là bắt đầu bằng câu đã có từ lâu: Mẹ mong gã thiếp về vườn. Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
Ngâm đã rồi chú phụ đề như là có người kế bên. Không có sẵn dưa hường, nấu với dưa chuột tôm khô hay cá diêu hồng cũng hết xẩy vậy bây! Có bữa hứng chí chú ư ử mấy câu tự mình ứng khẩu: Bông bí vàng tươi như đời em thắm. Ăn bông bí nhiều không tắm cũng thơm. Rồi chú liếc mau vô nhà nghĩ thầm: Em không tắm mà da em cũng thơm mùi xà bông Cô Ba là cái chắc! Rực vàng bông bí sau vườn. Thương em không dám leo tường cũng leo. Ờ, mà em chịu đèn thì tội gì không leo qua! Ngu sao! Hay Bông bí vàng lườm trong chùm xanh lá. Anh ngắm em hoài sợ má em la. 
Con gái người ta mà ngắm hoài chết duyên còn gì cha nội! Mấy ý bậy bạ nầy chú bị vợ háy nguýt hoài mà không chịu bỏ, vẫn lẫm nhẫm rồi tủm tỉm cười một mình. Chú giải thích với bà vợ ù ù cạt cạt của mình: “Mình biết không? Phải ăn bông bí nhiều thì người mình mới có hương thơm. Ăn nhiều là yêu bông bí vô vàn, sự yêu thích đó khiến cho mùi hương của bông bí có cơ tỏa ra lại khiến người mình được thơm tho.” Thím Tư chỉ buông tiếng ‘Vậy hả?’ rồi tiếp tục làm công việc của mình, ngại hỏi dần lân láng cháng ổng nổi máu Ca Dao lên thuyết giảng thì chặt hổng đứt, bứt hổng rời, hết buôn hết bán buổi sáng.
Vậy mà buổi sáng đó khi chồm vói vô một sợi dây bí rợ bò hơi xa, chú Tư trợt cẳng vấp vô đâu đó một cái quá mạng. Gần sứt móng ngón chưn cái luôn. Trét vô chút xíu dầu gió xanh, xé lấy miếng giẻ rách cột lại, tưởng vài bữa là yên chuyện. Ai dè!
Ngó qua hàng hiên nhà trước mặt, chất đầy mít, đu đủ trong khi khách hàng lựa lựa người chủ điềm nhiên ngồi chích thuốc thúc chín vô cuống bất cứ trái mít nào còn xanh, chú nói:
“Thằng Dần bên kia biết kiếm tiền ha, tiếc là mấy tháng nay tôi nằm bẹp như người bụng bí đao làm biếng.” Rồi chú ngâm nga: “Bụng dài như trái bí đao. Nằm không ăn mãi ruộng sào cũng bay.”
Chú vừa ngâm vừa đưa tay quạt quạt lia lịa vì thím Tư vừa mới đốt nhang trên một hàng bốn cái trang thờ trong nhà, trang nào thím cũng đốt ba cây thành ra khói mịt mù, chú chảy nước mắt, ngứa mũi, lại khó thở rồi ho sặt sụa. Chú đổ quạu:
“Mình muốn giết tui thì nói đại đi chớ nhang mà đốt như ung khói, nhà lại không mở cửa sổ, kín như hủ nút thì chết người trong nhà chứ chết ai!”

Biết lỗi mình, thím Tư lật đật đi mở banh hết mọi cánh cửa phía trước, phía sau, gắn quạt máy ở gần chỗ chú Tư nằm…
“Không biết sao mà lúc nầy nhang có khói nhiều quá.” Chị vợ nói như để chữa tội mình.”
“Thì lúc nầy họ làm nhang bằng mạt cưa trộn acít nầy acít nọ cho có lời lại tẩm hương liệu bậy bạ nên khói là khói acít, hưởi nó hư phổi hư tim mà hơi vô mắt thì trước sau gì cũng mờ mờ, cườm nước, cườm khô mau mọc lên thôi.”
 Chú dòm lên dãy trang thờ, ra lịnh cho vợ:
“Mình hạ mấy dĩa cam xuống đi, nằm đây ba tháng rồi mà mấy trái cam đó không thúi thì mình biết đó! Cam tẩm ắp lẵm hóa chất mới vậy, dục đi, để trong nhà hơi nó bay ra không tốt đâu mà.”
Thím Tư lại bắt thang lên đem mấy dĩa cam xuống. Thím tiếc của xăm soi từ trái từ trái, ý chừng muốn giữ lại, Tư Trích nhướng mắt thấy bèn lên lớp vợ:
“Tui biểu mình dục là dục, bộ tui không biết tiếc của sao chớ, nhưng mà cam nầy từ Trung Quốc qua, nó tẩm thuốc giữ cho khỏi hư thúi nên độc lắm, ăn vô chẳng biết có bổ béo gì không nhưng chắc chắn là có thêm một chút hóa chất tích tụ vô người mình, về sau không phát bịnh nầy cũng sanh bịnh nọ.”
Thím Tư quày quả đem mấy trái cam ra vườn bỏ gom dưới gốc cây vú sửa để làm phân. Tư Trích dòm theo, biết ý vợ, muốn thuyết thêm nữa, nhưng ngại bị cho là mình nói nhiều nên chép miệng làm thinh nằm nhắm mắt.
Bỗng Tư Trích giựt mình đánh thót gần như muốn ngồi bật dậy khi nghe tiếng ngã rầm tiếp theo là tiếng loãng xoãng của chai lọ bể, tiếng rên nho nhỏ của thím Tư. Thì ra do kê cái thang bất ý sao đó thím bị thang ngã, bể hết mấy cái bình bông quí của chú.
Chú nói như hét:
“Bà làm bể hai cái bình bông quí của tui rồi phải không? Biết mà! Không coi trước coi sau!”
Không nghe tiếng vợ trả lời chỉ nghe tiếng rên nho nhỏ “Đau quá! Đau quá!” chú hơi dịu lòng lại rồi chú nói sau cái chép miệng:
“Vái trời cho bể cái lư hương với mấy cây đèn dầu, không bể hai cái bình bông cổ vật của tôi. Hai cái đó quí lắm, có tiền triệu cũng mua không được đâu!”
Vợ chú làm thinh. Vài phút sau chú thay đổi giọng, nói với vợ bằng lời âu yếm:
“Mình có sao không, tội quá, tôi không ngồi dậy được để đở mình. Mình ngồi xuống đây, tôi kể chuyện nầy cho nghe. Chuyện của tôi hồi nhỏ…”
Cha tôi đau nặng. Ông bị bịnh suyển mấy năm rồi, khó thở, thường ngũ chồm hổm đầu cúi xuống, cong mình như con tôm, nói rằng như vậy hai lá phổi của ông trải ra, dễ thở hơn. Tôi, thằng bé mười tuổi, ham ngủ nhưng thường phải ngồi kế bên cha, ngủ gật gà gật gù mà tay thì cầm cái quạt mo quạt liên tục cho ông có đủ không khí để thở. Thỉnh thoảng cha kêu uống nước, tôi phải để quạt xuống, mò dưới chưn bàn cái vỏ chai nước mắm nhĩ Phú Quốc dùng để đựng nước chín, rót cẩn thận vô tách đưa cho ông. Tánh ông khó, rót nhiều cũng bị la, mà rót ít ông uống không đủ cũng bị rầy. 
Chai đẹp thiệt tình, màu xanh nhè nhẹ, trong suốt, hai hàng chữ trắng Nước Mắm Nhĩ Phú Quốc, Thượng Hạng in khắc chạm mờ mờ thay vì được dán nhản như tất cả loại chai nước mắm rẻ tiền khác. Mắt người cha theo dõi từng cử chỉ của thằng con. Cái chai trở nên thiệt nặng trong tay tôi. Tôi rót run tay vì biết rằng cha mình quí cái chai đó lắm, rớt bể chai chắc no đòn.
Hôm đó, tôi nhớ buổi chiều Thứ Bảy, tan trường, hớn hở cầm tấm Bảng Danh Dự về đưa cha ký tên, tôi được xếp trong năm trò học giỏi nhứt lớp tháng nầy. Cha nhìn tôi bằng ánh mắt thương yêu và hãnh diện, nói: ‘Con phải học giỏi hơn con Liên mới được nha.’ Tôi không hiểu tại sao ông nói hơn con Liên mà không nói hơn những đứa khác trong xóm như con Liễu, thằng Đực, con Bê, con Bưởi, thằng Thìn, thằng Tỵ…. Liên là con bà chủ nợ, nó học một lớp với tôi nhưng chúng tôi không chơi với nhau vì Liên là con gái nhà khá giả, đã biết làm điệu, đã biết phân biệt giàu nghèo. 
Ba nó làm thầy phạm nhe, chuyên môn thích thuốc theo toa bác sĩ, má nó là cô giáo mở trường dạy mẫu giáo trong xóm, bà lại sống phụ thêm bằng nghề cho vay. Cứ hai ba ngày con Liên qua nhà tôi một lần để đòi tiền góp, mỗi lần gặp mặt tôi nó đều giả lơ như không biết tôi, không thấy tôi, chỉ nói chuyện với ba, má tôi mà thôi. Hồi chiều nay nó cầm một tờ giấy biên dài sọc mấy chục hàng số nói rằng má nó cộng lại thấy nhà tôi thiếu tiền góp với tiền hụi ngày hơn tháng nay, nhiều quá rồi, phải kiếm cách trả không thôi má nó sẽ qua nói chuyện phải quấy. Cha tôi nghe tới chữ chuyện phải quấy thì làm mệt, kéo đàm chặn cổ, năn nỉ nó đi về, hứa rằng sẽ kiếm tiền trả dứt dạt khi ông bớt bịnh, rồi ông đưa cho tôi cộng lại bản tiền nợ. 
Tôi khám phá ra sai số mấy trăm đồng, con số thiệt là lớn thời đó. Run run tôi ngồi cộng tới cộng lui thiệt nhiều lần để chắc chắn rằng mình cộng đúng. Cha tôi vui mừng vì sự khám phá đó của tôi, ông nói vậy là con học giỏi hơn con Liên thiệt tình. Nó cộng sai, con đã bắt được lỗi của nó. Cha đưa tay xoa đầu tôi. Cử chỉ hình như lâu rồi không có. Được cha khen, tôi ngồi thẳng lưng trên ghế, chưn đánh đồng xa, mắt sáng rỡ, thoải mái. Chẳng dè chưn đưa quá trớn, đá bể cái chai nước mắm Phú Quốc của ông. Cha tôi nghe tiếng chai bể, ông xuýt xoa: ‘Vái Trời cho bể chai khác, không bể chai nước mắm nhĩ. Chai đó quí lắm! Khó kiếm.’ Tôi run run dọn dẹp, nói sự thật với cha trong tâm trạng chờ đợi sấm sét. Cha tôi chỉ thở dài: ‘Thôi bể rồi thì thôi, con phải rán học giỏi hơn con Liên hoài hoài mới được!’
Đó là một trong rất ít lần tôi làm bể vật gì mà không bị cha đánh đòn. Nhà nghèo mà, mình biết đó, nghèo thường hay tiếc của.
Sau nầy lớn lên mỗi lần thấy chai nước mắm nhĩ tôi đều nhớ đến gương mặt với giọng nói xuýt xoa của cha: ‘Vái Trời cho bể chai khác…’
Ôi nhà nghèo, cái ước mơ nhỏ nhoi sao mà quá lớn!”
Tư Trích ngừng kể, ông thấy giọt nước long lanh trên khóe mắt của vợ.
“Té ra hồi nảy tôi không bị chưởi như tách nứa giống mọi lần vì mình liên tưởng tới câu nói của ba trước đây. Câu nói vái Trời của mình với câu vái Trời của ba mấy chục năm trước sao mà giống!”
Tư Trích cười xẻng lẻng bằng câu ca dao ứng khẩu: “Giống nhau vì bởi chữ nghèo. Cha con đều vái, eo sèo chi em?” Hồi nảy tôi dằn cơn giận xuống, nén cái lòng tiếc của vì thấy mặt nhăn nhó đau đớn của mình, như là hồi xưa ba tôi dằn lại là vì tôi đem tấm Bảng Danh Dự về, và tôi đã cộng sửa lại bớt được số tiền thiếu nợ.”
Thím Tư vói tay rờ rờ cái chưn đau của chồng, cười cười.
 Tư Trích kéo vai vợ ấn ngồi lại thêm với mình khi thấy vợ dợm cẳng đứng dậy:
“Trời còn sớm, mình ngồi nán lại chút nữa để tôi kể chuyện khác cũng có liên quan đến cái nghèo ngày xưa, nhưng chuyện nầy vui hơn nhiều.”
 “....Đứa em gái tôi cả tuần nay bị bịnh nằm thiêm thiếp. Tôi rờ tay em thấy nóng, rờ trán em còn nóng tợn hơn. Cả nhà ai cũng lo. Bà ngoại lui cui nấu cháo thịt bằm cho em nói là ăn cho đổ mồ hôi mau hết bịnh. Em không ăn, chỉ húp nửa muổng cháo lỏng rồi để đó, thiêm thiếp trở lại, tô cháo chơ vơ, bốc khói trên bàn. Ẩn hiện dưới lớp cháo là những miếng thịt bằm trộn tiêu hành, gừng và nước mắm… mời gọi tôi. Thèm quá đổi, nước miếng ứa ra. Bao nhiêu năm rồi đâu được ăn cháo thịt bằm đâu. Ngó tô cháo mà tôi tưởng tượng ra được mùi thơm của tiêu, mùi cay của gừng, mùi béo béo của thịt được bằm với nhiều thịt nạc, chỉ có chút ít mở đưa trơn. Tôi bị tô cháo cuốn hút nên quanh quẩn bên giường em hoài. Nhiều lần em mở mắt ra thấy tôi vẫn lẩn xẩn kế bên, em hỏi giọng yếu ớt: ‘Bộ anh thương vì thấy em bịnh hả?’ Tôi không trả lời, trí óc và cặp mắt bận ngó chăm chăm vô tô cháo, thèm thuồng. Em nói: ‘Anh ăn cháo giùm em đi, em không đói.. .’ 
Tôi chỉ đợi có bao nhiêu đó thôi, kéo tô cháo tới gần, vừa ăn vừa nói: ‘Anh muốn được bịnh để được ăn cháo thịt bằm, bao nhiêu năm nay nhà mình đâu có ăn cháo thịt đâu.’ Em cựa mình nằm nghiêng để nhìn rõ tôi hơn rồi chậm rãi nói:
‘Em sắp chết rồi, anh có thương em khi em chết không. Thầy Năm Chích ba con Liên nói chiều nay chích một mũi nữa mà không hết bịnh thì ngày mai em chết. Em buồn quá vì phải xa ngoại, xa cha mẹ và hai anh.’
Tôi buông muỗng, đẩy tô cháo dở dang ra xa nói không ăn nữa. Em ăn cho có sức mau lành bịnh, đừng tin Thầy Năm Chích nói bậy bạ. Em nài nĩ tôi ăn hết tô cháo giùm, nói rằng anh thèm thì cứ ăn, em thích thấy anh ăn ngon lành như vậy. Em sắp chết rồi đâu cần ăn uống gì nữa, anh ăn đi để Ngoại vô rầy em.
Không đợi biểu tới lần thứ hai, tôi kéo tô cháo về, húp rồn rột ngon lành. Mồ hôi tuôn ra như tắm. Em mỉn cười vui héo hắt miệng méo xệch.
Có tiếng xe máy thắng rít trước nhà, giọng Thầy Năm Chích hớt hơ hớt hãi:
‘Có ai trong nhà không, nhớ là đừng cho con Lùn ăn gì nha, ban cua lưỡi trắng mới lộ tức là thương hàn nhập lý, cho ăn là lủng ruột chết liền đó. Hồi sớm mơi đi gấp quá quên dặn, không biết nhà có cho nó ăn gì chưa. Ăn rồi là kẹt lắm. Chạy thuốc không kịp đâu. Tức quá, hỏng biết sao chuyện quan trọng như vậy tôi lại quên lửng đi…’
Bà Ngoại dưới bếp tất tả đi lên, khi ngó thấy cái tô không trơ vơ bà bù loa trong nước mắt:
‘Tôi nấu tô cháo thịt bằm… Chết cha, nó ăn hết rồi. Tôi giết con Lùn rồi!’
Tôi tủm tỉm nói:
‘Con ăn đó ngoại, tại con Lùn nó hổng ăn chớ bộ.’
Bà Ngoại ngượng ngịu cú đầu tôi, chửi thương:
‘Tổ cha mầy, lại dụ ăn em. Để rồi Ngoại cầm đôi bông mù u của Ngoại nấu cho mầy nguyên một nồi cháo thịt ăn tràn họng hết thèm, bỏ tánh dụ ăn của em.’
Năm đó tôi lên mười một, chưa bao giờ trong nhà thấy được một bữa cơm ngon từ khi tôi biết nhớ!   
Dụ ăn cũng có cái hay. Cứu em khỏi chết, thằng nầy có công. Đó là câu mà sau nầy khi hơi lớn hơn một chút tôi thường đọc lên để đùa với ngoại. Tội nghiệp ngoại nghe tôi đọc như vậy chỉ cười hiền, không nói được lời gì. Mà mình thấy tôi có công không, nếu không dụ ăn của em thì nó đâu sống tới bây giờ.”
Thím Tư thấy chồng vui cũng vui lây, đưa tay rờ rờ lần nữa chỗ cái bàn chưn sưng băng vải của chồng ra điều lo lắng.
“Không biết chừng nào mới hết bịnh đây. Thấy ông nằm hoài cũng tội nghiệp. Thôi để tôi ra vườn coi có miếng rau cỏ nào hái vô nấu bậy một nồi canh.”
Được dịp trúng tủ Tư Trích nói mau:
“Ờ! Bà hái nhiều nhiều nha, rau tập tàng thì ngon, cũng như con tập tàng thì khôn.”
Thím Tư đứng dậy lấy ngón tay xỉa mạnh vô mũi chồng:
“Cũng cái giọng đó không! Hồi đó mỗi lần đi ngang nghe ông nói câu đó là tôi về khóc hết nước mắt. Dấu cha dấu mẹ thì được mà dấu thiên hạ ngoài đường sao khó quá. Mà không hiểu sao hồi đó tôi lại ưng ông để ông biến thằng con tôi thành thằng con tập tàng, bữa nào cũng thêm chưn thêm tay bắt mệt!”
Tư Trích cười xẻng lẻng nhìn gò má già mà còn thẹn thùng của vợ, bỗng chú hít hít mũi đánh hơi rồi la lớn:
“Chết cha! Nghe như mùi hủ rượu thuốc rắn hổ mang của tui bị đổ bể! Mình coi lại coi. Vái Trời cho đổ rượu chút đỉnh mà không bể hủ! Cái dòng rượu thuốc hổ mang ngâm sáu tháng tốt lắm, uống đã hết nhức mình mà trên biểu đâu dưới nghe răm rắp, không cãi.”
Người vợ cười hề hề:
“Bể cha nó rồi còn ở đó vái với cầu. Rắn hổ mang cái khỉ khô họ. Ba con rắn nước, tụi nó xẻ một đường dọc chỗ cổ rồi banh ra làm bộ như rắn hổ mang để gạt thiên hạ. Hổ mang nào mà đủ cho đám đàn ông mấy ngài ngâm năm nầy qua năm khác…” 
Để ăn mừng chưn mình hết đau, Tư Trích làm một bữa tiệc nhậu bĩ bàng với vài ba người hàng xóm. Rượu lừng lừng Tư Trích triền miên:
“Hồi đó tôi làm biếng học thuộc lòng lắm, ông thầy Quan, dạy Việt Văn cắc cớ thường bắt tụi tôi học từng đoạn từng đoạn văn xuôi dài mà ổng ưng ý. Tui ba gai, thà bị zéro chứ không thèm học thuộc lòng bất kỳ đoạn văn nào. Tới chừng ổng bắt học thuộc 50 câu ca dao thì tui nghĩ ra cách chơi trát ổng. Tui nặn óc đặt trước ở nhà mấy chục câu và cá với tụi bạn là ổng sẽ không dám nói tôi đặt tuồng bụng.
Quả thiệt y chang như vậy,  tới chừng làm bài thi Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt, môn Việt Văn của thầy Quan tôi về nhứt nhờ những câu ca dao trời thần của mình. Đâu ai thuộc hết ca dao đâu, cho nên gặp câu lạ ông thầy cứ làm thinh như mình đã biết, không gạch đỏ xanh gì hết là con đường khôn ngoan nhứt.
Trò chơi đó cho tới bây giờ tôi kiếm tiền nhuận bút hoài hoài bằng những bài xào đi kho lại như Tình yêu qua ca dao, Người phụ nữ trong ca dao, Tình huynh đệ trong ca dao, Tình quê hương trong ca dao, Ca dao như là cách chơi chữ, Cách ứng xử của người Việt qua ca dao, Sản phẩm địa phương qua câu hát… Cứ như vậy mà tôi làm tới. Bài nào cũng chỉ có một vài câu thiệt đã có trong sách vỡ, kỳ dư là giả, ở trong bụng tôi ra hết. Tôi đặt tên mấy câu mới sanh nầy là Ca Dao Tập Tàng.  Tập Tàng là lượm chỗ nầy một chút chỗ kia một chút góp gom chung lại. Góp của tôi là góp ý và cách làm theo thể tỷ với thể hứng..”
Thực khách coi bộ lơ là không muốn nghe. Có người quậy hơn trong khi chủ nhà huyên thiên nói ông ta rót rượu mời người kế bên vô vô lia chia, ngậu xị.
“Tài vặt đặt ca dao của tôi giúp tôi sau nầy được chọn vô tổ văn hóa, tuyên vận của phường,  tôi lo bóp óc nặn ra câu nầy câu nọ cho những chiến dịch của phường. Bù lại họ để yên không bắt đi Kinh Tế Mới. Được vài ba năm thì họ mời về, cám ơn mình, lúc đó nhiều khi vừa tủi thân vừa tức cười khi nhận được những bức thơ vận động đi Kinh Tế Mới do mình thảo ra hay những câu ca dao thúc giục do mình sáng tác trước đây…  Tài viết Ca Dao khiến tôi đụng được bà nhà tôi, khiến tôi không lúc nào đói, nhưng cũng nói thiệt nó làm tôi nặng lòng hơn hai chục năm nay!”
Thím Tư thấy chồng nói nhiều , nháy mắt ra hiệu nhưng chú Tư Trích cứ thao thao:
“Hồi còn chiến dịch Thủy Lợi tôi đặt câu hơi nặng: Thằng Trời đứng lại một bên. Để cho Thủy Lợi đứng lên làm Trời. Nói nào ngay, ban đầu thì tôi nói Ông Trời, mấy ổng bàn ra tán vô thét rồi đổi thành Thằng Trời. Mình cũng không dám cãi. Thế là cái câu mạnh mẽ, ngang tàng, coi Trời như không kia đi khắp mọi nơi có làm thủy lợi.
Sau nầy khi hết làm việc, ngẩm nghĩ lại, tôi thấy mình dại. Hơn hai chục năm nay cứ mang mặc cảm mình ngỗ nghịch với Trời vì một chuyện chẳng ra gì. … Chứa để mặc cảm tội lỗi trong lòng, thét thành tâm bịnh, tôi mất đi cái hoạt bát ngày xưa, thêm đau bao tử và trầm cảm. Gần đây bị thêm cái ung lớn trên bàn chưn tưởng là không thể hết, tôi cho là biến tướng của mặc cảm tội với nghiệp mình đã tạo trước kia.”
Có tiếng một thực khách vồm vàm hỏi theo giọng dân nhậu:
“Rồi sao lại bỗng nhiên hết đi, Tư Trích nói không xuôi là bị phạt ba ly đó nha!”
“Con người mà, đâu ai là không bất toàn. Quá khứ đã có cái bất toàn thì làm sao sửa được? Mặc cảm chỉ làm cho mình hết còn là mình. Tôi tỉnh ngộ, tôi nghĩ đời mình lỗi,xấu chẳng nhiều nhỏi gì. Tại sao không nhìn trên đại thể để thấy rằng mình tốt, để ý chi cái xấu nhỏ chẳng đáng kể, chỉ như một vết đen trên tờ giấy trắng thôi. Trong tương lai mình lo phát triển tánh tốt thì có ích lợi hơn tối ngày ngồi đó nghiền nát hồn mình trong mặc cảm tội lỗi xa xưa.
Vậy là chừng một tuần sau tôi hết bịnh. Cái chưn lành như được xức thuốc tiên. Tôi lại vui đời. Tâm ủ ê mặc cảm Thủ Huồng bị phạt tiêu tán không để lại chút dấu vết nào.”
Bạn nhậu nghe lọt lổ tai, cùng reo hò hoan hô vô cạn ly rần nhà.
Thằng con Tư Trích đi đâu vừa về, dựng xe ngoài sân, bước vô nhà như gió lốc, không cần chào ai, nói không kịp thở:
“Chúa Nhựt nầy biểu tình không được. Họ dựng nhiều chốt quá, lềnh khênh đâu của thấy họ, lại còn bắt nguội tuốt ngoài xa như mình là ăn cướp không bằng! Thôi tuần sau tính!” Nói xong nó lũi vô nhà sau, dáng buồn bực mệt mỏi.
Tư Trích giơ cao ly rượu về phía vợ, con mắt mặt nháy nhó trao đổi gì đó trong khi ngâm nga ứng khẩu:
Rau tập tàng thì ngon,
Con tập tàng thì khôn[1],
Văn tập tàng thì hay.
Con ơi, lấy phải làm nền,
Lấy nhơn làm gốc mà đền nước non.
Thiếm Tư đứng dậy cái rẹt, nói nho nhỏ:
“Thằng con tập tàng ngày xưa ổng thêm tay thêm chưn sao mà giống ổng hịt, chuyện nhà thì nhác, chuyện chú bác thì siêng! Rồi đây sẽ khổ, tôi lại phải đi lên đi xuống nuôi tù!”  
Tư Trích hiểu thái độ dùng dằng của vợ. Chú ngó theo bước đi của thím, mỉn cười bao dung. Bạn đồng tiệc vẫn triền miên trong ồn ào ly chú ly anh. Chú gắp một miếng gì đó cho có chừng, bỏ ơ hờ trong chén rồi chống đũa mơ màng. Xưa mình từng ăn lựu đạn cay, giờ con mình cũng thế thôi, có khác gì đâu nà. Chuyện trần gian nầy xoay qua xoay lại cũng từng bao nhiêu thứ như gió sớm, mưa chiều, sương khuya, nắng quái. Nhân quả luân chuyển, tất cả đều là vô thường. Đời nào cũng có cái sai đúng tương đối của thời nấy. May mà mình vừa hiễu được điều đó để rủ bỏ mặc cảm oằn nặng bấy lâu nay.
Và Tư Trích thoải mái nhập tiệc, lòng thảnh thơi như chưa từng bao giờ được như thế. Nắng chiều ngoài sân thiệt là đẹp dưới măt chú Tư.
Victorville, CA, Sept. 18-25, 2011
(Trích tập truyện Quê Hương Vụn Vỡ, Viện Việt Học CA xuất bản, 2012)

VÕ KỲ ĐIỀN * HẢI ĐẢO BUỒN

Hải Đảo Buồn Lâu Bi Đát

13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 339)

Quí độc giả có thể tìm được một phần hình ảnh vui buồn, hy vọng, thất vọng của những người Việt đã chấp nhận tất cả, kể cả mạng sống, để có được Tự Do.

Tôi còn đứng ỳ ra trên boong. Đảo Dừa chỉ còn là một khối xám nhạt ở chưn trời. Trời thì cao xa thăm thẳm giáp mí với sóng nước gờn gợn xanh ngắt một màu. Nắng sáng rực rỡ loang loáng trên mặt biển xanh. Ba chiếc ghe Mã lướt sóng phăng phăng chiếc sau nối đuôi chiếc trước chạy một dọc thẳng hàng. Không còn gì hết, tôi thẫn thờ ngồi xuống một bên be ghe. Nắng nóng như thiêu như đốt, ghe lại không có mái che nên chỉ trong chốc lát, nghe như muốn bốc khói. Phải kiếm một tờ báo, một cuốn vở học trò để che cho đỡ nóng. Ghe còn rất mới. Sớ gỗ còn tươi nước sơn. Đinh vít chưa có dấu rỉ sét. Trên boong và trong khoang đều rất sạch sẽ, đồ đạc xếp ngăn nắp chỉnh tề. Có điều rất ngộ là Mã Lai là xứ nóng mà từ tài công đến thủy thủ đều mặc âu phục, quần dài và áo tay dài cài khuy. Họ nói được những câu tiếng Anh thông thường. Những đợt sóng lớn chồm lên, nước văng tung tóe, ghe lắc lư mạnh. Chiêu ói đầu tiên, mặt xanh xám, rồi như bắt chước nhau, thằng Dân gì đó, Sơn ói liên tu bất tận. Phía bên kia, vợ Quách Linh Hoạt cũng ụa liên hồi, mấy đứa nhỏ ngồi bu xung quanh mặt mày bơ ngơ báo ngáo. Duyên cũng bắt đầu váng vất, nàng bèn bồng Bi lên phòng lái ngồi chung với mấy người già yếu. Trên đó có mái che và trải chiếu. Bi nằm ngủ ngon lành...

Ghe đi dọc theo bờ biển Mã Lai. Nhìn lên bờ về hướng trái thấy núi non xanh đen trùng điệp nối tiếp nhau không dứt, bát ngát mênh mông. Đúng là xứ của núi cao rừng sâu. Ghe có lúc đi gần bờ, tôi rán nhìn thấy được những cao ốc, dinh thự của một thành phố lớn y như một thành phố Âu Mỹ lẩn khuất trong những rặng cây xanh. Có phải đây là Kuala Trengganu mà người ta thường nhắc tới? Những trụ điện cao thế băng ngang qua đồi núi, lẩn khuất len lỏi trong rừng sâu... Ghe vẫn nổ máy giòn giã tiếp tục cuộc hành trình dằng dặc.

Một anh thủy thủ buồn tình lấy dây câu ra câu cá. Đó là một miếng ván nhỏ hơi dài hình chữ nhựt dùng để quấn dây. Lưỡi câu lớn có cột một chùm lông gà trắng. Dây câu được tuôn ra hằng trăm thước bề dài, kéo lướt trên sóng. Vì ghe chạy quá nhanh nên nó không chìm xuống được. Tôi nhìn cái nhóm lông gà trắng lẫn trong bọt sóng mong có một con cá rượt theo đớp mồi. Sợi dây câu lớn bằng cọng bún, chắc dành để câu cá lớn, giữa biển khơi đâu có cá nhỏ... Ngồi chờ hoài không thấy cá, anh chán nản để dây câu móc vào be ghe, đứng lên mở nắp hầm dưới khoang lấy ra những xắp màn ny lông dầy màu xanh nước biển, quảng cáo với chúng tôi, “Ở Bidong cần loại này để che nóc lều, qua đó mua mắc lắm, bây giờ anh bán rẻ cho.” Mời mọc hoài cũng chẳng ai mua.

Cá cũng không cắn câu mà hàng cũng không ai mua, thua buồn anh ngồi xuống lấy thuốc ra hút. Lúc đó từ trong khoang bước ra một người dân sự độ bốn mươi tuổi, có mang súng cồm cộm bên hông. Cũng giống như bất cứ anh công an nào, anh ta nói úp úp mở mở mình không phải là công an. Anh ăn mặc chải chuốt, nón trên đầu, giày dưới chưn, khăn vắt túi, dây nịt khoen vàng, viết vắt ở túi, viết cầm tay ghi ghi, chép chép. Đúng là một nhơn vật quan trọng. Ghi chép hồi lâu chừng cũng chán, anh ta móc túi lấy ra một cọc tiền Mã Lai dầy cộm, đếm đi đếm lại. Tụi tôi trố mắt ra nhìn. Mấy ngón tay anh lanh lẹ hết sức, lật tờ giấy bạc kêu xoành xoạch. Tay này mà chia bài gian lận thì ai nhìn cho kịp... Xong màn biểu diễn, anh gạ tụi tôi có đồng hồ bán anh mua. Chiêu đương cần tiền vội cởi ngay cái đồng hồ cũ đang đeo. Mới có một tháng đi biển, cái đồng hồ tuy còn chạy nhưng xác xơ. Hơi nước đóng mờ trên mặt kiếng, nước mặn ăn loang lổ vỏ ngoài. Vài ba người Tàu cũng đưa ra vài cái. Anh công an coi tới coi lui rồi chê. Anh đòi các hiệu nổi tiếng như Oméga, Seiko, Orient... Chiêu tưởng là không bán được tính đeo lại nào ngờ nó lại chịu mua, trả giá mười đồng. Tất cả những cái khác nó đều mua hết...

Ghe đi được ba tiếng đồng hồ thì Bidong hiện ra trước mặt. Giữa biển cả sóng gió chập chùng một hòn đảo nhỏ xanh rì nổi lên chơ vơ, hiu quạnh. Có một đảo nhỏ bên cạnh nép kế bên như con rùa con bò kế bên con rùa mẹ. Pulau Bidong lớn hơn đảo nhỏ này nhiều nhưng so với Kapas thì Bidong nhỏ xíu. Từ đây nhìn vào bờ không còn thấy những rặng núi xanh xanh, dầu chỉ là lờ mờ. Chỉ còn trời và nước. Nó xa cách đất liền, trơ trọi giữa biển khơi. Cũng giống y như Côn Đảo của Việt Nam mình!

Mọi người xúm nhau mà ngó. Bidong đây rồi. Cái nơi tìm kiếm trên cả tháng nay. Nắng lúc năm giờ chiều vẫn còn chói chang. Niềm hân hoan của mọi người trên ghe cũng như ánh nắng lung linh trên sóng. Gần một tháng ở đảo vắng xa cách hoàn toàn thế giới bên ngoài, bây giờ được gặp gỡ nhiều người, biết được nhiều việc, tiếp xúc được nhiều nơi... chắc là thú vị lắm. Phong cảnh rõ dần, rõ dần. Đảo là một khối hình tròn, giữa có núi đất. Rừng cây chỗ đậm, chỗ lợt. Những thân cây vì ở quá xa nhìn thấy nhỏ xíu đứng song song nhau trong khối lá xanh rì. Những chỗ lợt là những bãi trống loang lổ vì bị cháy rừng hay bị đốn phá bừa bãi... Có những đám khói xám trắng bốc lên ở đỉnh núi. Ở dưới chưn núi, sát mé biển cũng một rừng dừa. Những thân dừa suông đuột vàng lên dưới nắng. Thiệt, cái xứ Mã Lai chỗ nào cũng toàn là dừa. Một cầu tàu nhỏ bằng cây chạy dài ra ngoài mé nước. Sơn níu lấy tay tôi:

- Anh coi kìa, chỗ nào cũng có lều...

Đến bây giờ thì tôi thấy rõ. Dưới những tàn dừa là những lều cao thấp chen chúc nhau, kề cận nhau, xô đẩy nhau nối tiếp, cái này nhô ra, cái kia thụt vào, hỗn độn rối nùi. Vui quá sức! Cả một sức sống vươn lên. Bidong có cái gì hấp dẫn hơn Kapas. Kapas chỉ là có cái cầu tàu bằng sắt sơn xanh là có bàn tay con người, còn tất cả là thiên nhiên. Bidong thì không. Từ ngoài cầu tàu, đến bờ cát, sâu vô trong, trên ghềnh đá, trong các hốc núi, cheo leo trên thân cây, loanh quanh trên sườn đá đều có bàn tay con người xen vô. Đủ thứ màu sắc xanh đỏ tím vàng tha hồ mà tô điểm. Tôi trả lời Sơn:

- Bidong coi bộ hấp dẫn, anh bây giờ chịu cảnh rần rần náo nhiệt như vầy nè, ở bên Kapas buồn quá sống một tháng mà tưởng chừng một năm...

Sơn nhìn tôi:

- Lúc trước cũng anh nói anh thích Kapas yên tĩnh, sống gần gũi hòa hợp với thiên nhiên, bây giờ anh lại nói thích Bidong vì ồn ào náo nhiệt... Sao kỳ vậy?

Tôi cười:

- Ừ, anh cũng không biết tại sao khi vầy khi kia. Chắc muốn có cái gì thay đổi... cho cuộc đời vui hơn một chút... Anh chỉ cần mỗi ngày... vui hơn một chút thôi, không đã lắm sao!

Ba chiếc ghe Mã từ từ cặp bến. Cầu tàu bằng cây dài khoảng một trăm thước, cột dầu cũng bằng cây lớn cắm sâu xuống những thùng phuy đổ đầy xi măng chôn dưới đáy nước. Nước biển trong xanh phản chiếu ánh nắng vàng rực buổi chiều chói mắt. Dưới chân cầu, hàng ngàn người da đen nâu đang nô đùa, lặn hụp trong sóng nước long lanh. Vì ở trên cao nhìn xuống tôi không phân biệt người lớn cùng trẻ con, đàn ông cùng đàn bà, tất cả đều nhỏ xíu xôn xao rộn rịp như đàn kiến. Ba chiếc ghe mới tới như miếng mồi ngon, đàn kiến ngưng đùa giỡn, bu quanh đen nghẹt, người vịn thành ghe, kẻ bám cột cầu tranh nhau hỏi tíu tít đến từ đâu?

Tôi cố nhìn xuống đám người đang lội dưới kia, hy vọng gặp một người quen, nhưng hoài công, không dễ nhìn thấy được. Ai cũng mình trần trụi đen thui, râu tóc dài thậm thượt rậm rì, giống nhau như hệt. Sóng nhấp nhô dưới chưn cầu, người bơi lội nhấp nhô theo sóng. Khi ghe đã cột đõi, chúng tôi được hướng dẫn lên đứng xếp hàng hai trên cầu để ban trật tự của đảo sắp xếp và kiểm soát. Hành lý được chuyển lên để kế bên. Bây giờ tôi mới có dịp đứng yên để nhìn vô đảo. Trên bờ người ta túa ra từ các ngả rầm rộ để coi ghe mới tới. Không thể tưởng tượng được tỷ lệ dân cư ở đảo này. Sao mà đông quá sức, cả rừng người chen lấn xô đẩy nhau. Phần đông đều ở trần, mặc xà lỏn, tóc dài, râu dài, chưn mang dép cao su đủ màu. Loại dép Mã Lai đế rất cao. Họ đứng dầy đặc ở bãi cát, ở dưới những gốc dừa. Cây dừa ở đây cũng cao vút như ở Kapas nhưng thưa hơn, dưới những tàn lá có vài mái nhà tôle, có thể là nhà hội, cơ sở của đảo. Tôi ngó bên này, rồi ngó bên kia, trong đầu nghĩ tới vài người bạn đã tới trước. Tôi thèm gặp được một người quen lúc này hết sức. Nhìn hoài không thấy được ai, thôi vậy đứng tách riêng ra cho người ta nhìn mình. Nghĩ xong tôi đứng tách ra khỏi hàng, ở vị trí cho dễ thấy... Cho tới khi ban trật tự ổn định sắp xếp xong hướng dẫn cả đoàn đi vào nhà đợi làm thủ tục nhập đảo, cũng chưa gặp được một người quen. Như vậy bạn bè vượt biên của tôi, ở đảo Bidong, chắc là ít lắm. Nhà chờ đợi cũng ở ngay mé biển, bên trái cầu tàu. Mái lợp tôle trắng, các cột bằng cây vuông, nền tráng xi măng, không có vách. Dĩ nhiên cũng không có bàn ghế gì hết. Ba trăm người vào ngồi lủ khủ bên các đống hành lý của mình như món hàng triển lãm, bên ngoài vòng rào thiên hạ chen lấn nhau dòm vào. Nếu lúc thường mà bị dòm ngó như vầy thì khó chịu và mắc cỡ nhưng người tỵ nạn đã vô Bidong ở cái cảnh tận cùng đất đen, nói nôm na một chút là “cùi không sợ lỡ” nữa rồi, còn gì đáng e ngại, quan tâm nữa đâu.

Tôi ngồi trân ra đó, bệt trên sàn xi măng, tai nghe mọi thứ âm thanh vang dội hỗn độn ồn ào xung quanh như trong một cái tổ ong bầu. Người ngồi bên trong nói vọng ra vang vang người bên ngoài chen lấn hét lớn vào, chia tay ở Việt Nam gặp lại ở Bidong xa xôi này không vui mừng sao được. Có những người là bà con ruột thịt, cũng có những người hàng xóm quen biết sơ sơ nhưng dầu là thân hay sơ câu chuyện cũng giòn giã thân tình. Bi phần nóng nực, phần ồn ào nên phát khóc, đòi đi chơi. Duyên vừa dỗ con vừa nói:

- Có qua đây rồi mới biết, sao mà hỗn độn rần rần, em muốn ngộp thở. Cái tên Bidong cũng là tiền định, làm em nhớ tới chữ bidonville...

Chắc nàng đang nghĩ tới khu Bàn Cờ, tôi thì nhớ tới những trại tỵ nạn của đồng bào An Lộc, Bình Long vào năm 1972, mùa hè đỏ lửa, cả chục ngàn người bỏ cửa bỏ nhà chạy đổ xô về Bình Dương sống chui rúc trong những căn nhà che tạm bằng bất cứ thứ gì lượm được: cây, ván, vải vụn, thùng giấy cạc tông... sống cảnh màn trời chiếu đất.

- Ừ, ừ, cũng ngộ thiệt. Bidong này với bidon kia có khác gì đâu. Gần bốn chục ngàn người sống trên một khoảnh cát nhỏ xíu như vầy. Trên thế giới chắc không có nơi nào tỷ lệ dân cư cao như ở đây. Mà đố em tại sao đảo này có tên là Pulau Bidong?

Duyên suy nghĩ một hồi, chịu thua.

Tôi nói cho nàng nghe:

- Pulau thì dễ rồi, có nghĩa là hòn đảo, tiếng Việt mình cũng dùng y như vậy gọi là cù lao. Hồi còn ở Kapas có lần anh hỏi thằng Zăm Bri, tiếng Mã Lai nghĩa của chữ Bidong là gì. Nó nói Bidong là rắn. Pulau Bidong là đảo rắn. Chắc ở đảo này rắn nhiều lắm nên mới được đặt tên như vậy.

Nàng hóm hỉnh nhìn tôi:

- Vậy Kapas là dừa, Pulau Kapas là đảo dừa...

Tôi cười trừ:

- Cái đó phải kiếm thằng Dân thủy thủ để hỏi, tên đảo Dừa của nó đặt ra đó!...

Lúc đó thì Chiêu đã gặp lại anh bạn học ở Hốc Môn, thơ ký của chiếc 0126C, rồi tới anh Tư Trần Hưng Đạo, anh chị Thuần, chị Điệp gặp được dì Chín, cậu Tám... nhiều nhứt là các người Tàu. Câu chuyện nổ ròn như bắp rang. Tôi ngó mông, ngó mênh mãi cũng không gặp được ai quen. Cho đến khi rời khỏi chỗ tạm trú qua đêm mới gặp được một cô học trò cũ. Ảnh Lang học ở Hoàng Diệu Sóc Trăng. Cô ta đã tốt nghiệp Y khoa một lượt với Tuyết và Tiến. Cả hai gặp lại nhau mừng rỡ tít tít nói chuyện huyên thuyên. Lang đã đến đảo từ mấy tháng trước, ngày mốt là lên đường đi định cư ở Úc. Người trên đảo đông nghẹt như trong hội chợ nên đường sá rất khó định hướng. Nhìn chỗ nào cũng thấy người ta, tôi sợ lạc nên từ giã Ảnh Lang đi theo dòng người về nơi tạm trú. Len lỏi trong rừng người, chen lấn xô đẩy vượt qua một đoạn đường giống như khu chợ trời ở chợ cũ Hàm Nghi, hai bên là những người ngồi bán các loại hàng hóa của Mỹ của Mã Lai trên các thùng cạc tông. Đường đầy rác rưới, đất cát dơ bẩn lồi lõm quanh co. Mãi rồi cũng tới khu đất trống để tạm trú qua đêm. Quăng cái sắc marin bự cùng cái xách tay xuống đất, tôi ngó quanh. Hỡi ơi! Khu tạm trú là đây sao? Dưới là cát đầy rác rưới, xung quanh la liệt những người bày hàng bán chợ trời, rải rác có các cây dừa cao. Bầu trời đã đầy sao. Trời tối từ hồi nào tôi không hay biết. Trên các sạp thấp lè tè người ta đã lên đèn. Đèn là các hộp lon coca tim vải, đốt bằng dầu lửa hoặc dầu cặn khói tù mù. Người di chuyển qua lại dùng đèn bấm để soi, ánh sáng chấp chóa, chớp tắt liên hồi. Cả một cảnh tượng hỗn độn, kỳ cục, lạ mắt, một cảnh sinh hoạt tìm không ở đâu có, chỉ trừ ở hải đảo lẻ loi này. (Chợ âm phủ trong các chuyện cổ tích được ghi chép lại chắc cũng y như vậy: các hồn ma cũng đi chợ, cũng mua bán trả giá, cũng dùng tiền giấy, trong những ánh đèn chập chờn...)

Các bạn gặp được người quen đến trước, họ lần lượt đi gởi hành lý và xin ngủ nhờ qua đêm, khỏi phải chịu cảnh màn trời chiếu đất đêm nay. Anh Tư Trần Hưng Đạo, anh chị Thuần và đám chị Điệp, chị Kiều đã đi rồi. Chỉ còn đám anh em tôi, tứ cố vô thân, ngó quanh ngó quất không quen ai để nhờ vả. Một đống hành lý ngùn ngụt, trời tối mò mò. Có vài người đứng nhìn chúng tôi e ngại, họ nhắc khéo nên coi chừng ăn cắp, ở đây hở ra cái gì là mất cái đó... Thôi phải rán tự túc tự cường. Tôi trải tấm ny lông trên bãi cát dơ, cạnh gốc dừa gom hết hành lý dồn đống lại. Đành đêm nay ngủ đỡ tại đây! Ngồi xuống tấm đệm, dựa lưng vào mấy cái gói xách, tôi duỗi tay chưn. Mấy bắp thịt nhão ra, mỏi nhừ. Đến bây giờ mới thấy mệt. Cổ họng khát khô. Duyên lục trong túi xách tay tìm được một thùng nước nhỏ, tôi cầm lấy uống một hơi, để xuống, cơn khát đã đỡ nhưng trong lòng cảm giác bơ vơ, trống vắng. Bóng đêm tối đen mù mù, tiếng chưn người xào xạc trên cát, những ánh đèn bấm chớp tắt, chớp tắt... Sơn và Dân gì đó sau một hồi dạo lên dạo xuống, sợt về. Dân ngồi xuống mặt đệm:

- Mình có thể nhắn tin tìm người quen ở phòng thông tin gì đó.

Tôi hăm hở:

- Làm sao để nhắn tin?

Anh viết tên tuổi địa chỉ hiện ở cùng số ghe của mình gì đó rồi đem lại phòng thông tin. Ở đó họ sẽ đọc lên loa phóng thanh gì đó cho mọi người cùng nghe...

Sơn lục trong đống hành lý tìm giấy. Không có. Tôi thoáng thấy mấy hộp cá mòi lăn lóc, bèn cầm lên gỡ lấy cho mỗi đứa một tờ nhãn hiệu cá đỏ bầm phía sau còn trắng bong có thể dùng để viết được. Cả ba hý hoáy vội vàng những chi tiết vào tờ giấy nhỏ bằng bàn tay... Tôi cùng đi với Dân và Sơn trở lại con đường hồi nãy rồi quanh về bên trái. Phòng thông tin được cất dưới tàn dừa âm u, bên trong có đèn điện sáng choang, vách cây dừng bốn phía. Tôi đứng ngay cửa sổ, chờ đợi. Sơn đứng kế bên. Cô xướng ngôn viên mặc áo trắng tay tóc ngắn thấy ba anh em tôi đến, quay lại. Sơn mừng quá la lên:

- Ơ, chị Ba, em nè.

Cô xướng ngôn viên cũng khựng lại, mừng hết sức:

- Sơn đó hả, tới hồi nào vậy, sao không kiếm chị?

Sơn cười tươi rói:

- Em mới tới hồi chiều, kiếm phòng thông tin để nhờ nhắn tin tìm chị đây nè!

Nó đưa tờ giấy nhắn tin viết trên lưng nhãn hộp cá mòi. Cô nhân viên trẻ đẹp đó là chị ruột của cô bồ Sơn. Cả gia đình của cô đã tới Bidong trước mấy tháng nay đang chờ đi định cư ở Mỹ. Sơn mừng húm, chạy về xách hành lý để theo tiếng gọi của... con tim. Tôi và Dân gì đó bị bỏ rơi, hai anh em bơ bơ đi trở về. Ở “nhà” Chiêu cũng không chịu ngồi yên, nó đi đông đi tây, may quá gặp được các người quen ở Bình Dương. Một số vội vàng đến thăm. Tôi từ từ thấy được một góc trời quê hương. Chị Mỹ Á bán vải ở nhà lồng chợ, anh Hưng Thạnh bán gạo ở mé sông cùng vợ chồng anh Liêu Thạnh. Anh Liêu Thạnh còn trẻ độ hai lăm, hai sáu có nhà ở sát cạnh nhà tôi, cũng bán gạo. Cô vợ bồng con còn nhỏ, anh mừng rỡ:

- Mấy anh có ăn uống gì chưa?

Tôi vội trả lời:

- Từ trưa tới giờ lung tung mọi chuyện nên không có thì giờ. Bây giờ rảnh rồi nhưng bếp núc đâu mà nấu?

Anh lục lục trong cái xách tay, cầm lấy mấy gói mì, miệng lanh chanh nói với vợ:

- Coi nè, mấy ảnh có gạo, có mì, có sữa...

Chị vợ mau mắn:

- Vậy thì mình nấu mì ăn đi cho vững bụng.

Tôi lo lắng:

- Làm sao có bếp, củi để nấu nước sôi?

Anh cười:

- Dễ quá, dễ quá, để tôi lo cho, có liền mà. Mấy anh chị chờ một chút nghen...

Anh vụt chạy về. Chừng một lúc sau anh khệ nệ bưng ra một nồi nước đầy nước còn nghi ngút khói. Chị vợ đã kỹ lưỡng cầm theo đủ cả chén đũa. Đoạn đường từ lều đến chỗ tạm trú cũng khá xa, đường ban đêm quanh co khúc khuỷu tối tăm, anh khiêng nồi nước nóng, cô vợ cầm đèn pin soi đường. Thiệt là ân nghĩa hết sức. Cách cho quí hơn của cho. Trong đời thỉnh thoảng tôi nhận được những tấm lòng thương yêu quí báu của những người thân và không thân. Tôi phải làm sao để đền đáp được những ân tình ấm áp đó?
Tôi ăn một chén mì, thấy đã no, ăn không nổi nữa, có lẽ mệt quá. Sau đó một thanh niên đến hướng dẫn tôi lại lều của dì Sáu để biết chỗ liên lạc với chị Điệp. Trời tối đen thui không thấy gì hết, nó đi len lỏi trong đám người đi mờ mờ, đèn đuốc không có, quanh quanh co co mãi một hồi lâu thì đến nơi. Nhìn quanh thì hỡi ơi! Đó là một cái lều cây nhỏ ọp ẹp, bước vô cửa phải cúi thật thấp nếu không muốn bị đụng bể đầu. Trong lều có sàn duy nhứt hẹp té làm bằng những đoạn cây nhỏ cỡ ngón chưn cái ghép lại. Cái sàn này vừa dùng để hành lý, để ngồi và cũng để ngủ. Cái mặt sàn nổi u nổi nần làm sao mà nằm? Một đống đồ đạc chất gần sát vách choán gần hết phân nửa mặt sàn. Một mình dì Sáu cũng đã chật rồi, bây giờ lại thêm chị Điệp với hai con nhỏ và mấy đứa em. Vậy thì phải giải quyết ra làm sao, tôi không biết. Đông qua, chỗ đứng cũng không có nói chi đến chỗ nằm. Trên boong ghe BL 1648 cũng còn rộng hơn. Dì Sáu khoe đã mua căn lều này giá một lượng vàng. Nó khá nhứt ở khu này đó! Tôi thụt lùi trở ra và đó là lần đầu tiên biết thế nào là một căn lều ở Bidong. Tôi vội từ giã để về, đêm hôm khuy khoắc. Chết rồi, hướng cũ chỗ nào, trời lại tối đen, thôi cứ đi đại. Tôi len lỏi trong các đường hẻm sình lầy, chưn mang đôi dép đứt đi bước thấp bước cao. Đường đi lại có nhiều gốc cây nhỏ chặt không sát, thỉnh thoảng trồi lên một gốc, vô ý đá mạnh vào xước da chảy máu, đau thấu tận trời xanh. Mò mẫm đi một hồi lâu ra tới bờ biển lạ hoắc. Nhìn kỹ đây không phải là chỗ lên hồi chiều. Tôi nghe tiếng nhạc bập bùng, giọng ca eo éo, rải rác trên bãi một đám đông nhàn hạ thảnh thơi hóng gió nghe nhạc ké trong quán vẳng ra. Tôi còn bụng dạ nào nấn ná chần chờ ở đây để thưởng thức những giọng oanh vàng. Phải hỏi đường cho kỹ để về khu tạm trú. Tôi hướng về cầu tàu rồi loay hoay cũng về được chỗ cũ. Tôi vừa về tới nơi thì vợ chồng con cái anh Tư Trần Hưng Đạo cũng trở lại tìm chỗ ngủ. Rồi tới chị Thuần, kế đó là mẹ con chị Điệp với mấy đứa em. Thì ra Bidong lòng ai cũng rộng nhưng lều thì hẹp quá, thôi tất cả đành ngủ tạm trên bãi cát dơ!

 Võ Kỳ Điền

(Trích trong chương 12 - “Hải Đảo Buồn Lâu Bi Đát” - của hồi ký “Pulau Bidong Miền Đất Lạ”)

HÌNH ẢNH HUẾ 100 NĂM TRƯƠC

Ảnh cực hiếm về cố đô Huế gần 100 năm trước

Những hình ảnh khắc họa Huế cổ kính, rêu phong với đầy đủ không khí hoàng tộc triều Nguyễn.

On 02/06/2017   
Cùng cảm nhận nét đẹp thâm trầm, cổ kính của Cố đô Huế qua loạt ảnh hiếm có do các nhiếp ảnh gia Pháp thực hiện ở Huế thời thuộc địa.
Hình ảnh nằm trong loạt ảnh về Huế thời thuộc địa do trang mạng Hiệp hội bằng hữu Huế xưa của Pháp (Aavh.org) đăng tải.
Điện Kiến Trung trong Tử Cấm Thành, 1929. 
Mặt tiền Điện Kiến Trung, 1930. Công trình này ngày nay chỉ còn là phế tích đổ nát.
Tiền sảnh Điện Kiến Trung, 1928.
Phòng khách ở Điện Kiến Trung, 1928.
Phòng chơi billiard ở điện Kiến Trung, 1928.

Bức bình phong trước Viện Cơ Mật, 1920.
Cung Diên Thọ trong Tử Cấm Thành Huế, 1928.
Điện Phụng Tiên trong Hoàng thành, 1928.
Lầu Tứ Phương Vô Sự trong Hoàng thành, 1928.
Tòa Thương Bạc do vua Bảo Đại cho xây dựng năm 1936. Ảnh chụp năm 1948.
Cầu Trường Tiền năm 1931.
Đài phun nước hình rồng bên bờ sông Hương, 1936.

LUÃT SƯ LÊ DUY SA * TRƯỜNG CHU VĂN AN

TẶng các cựu học sinh Chu Văn An

LỊCH SỬ TRƯỜNG CHU VĂN AN

 

alt



Việt Nam có nhiều trường trung học nổi tiếng, nhưng trường nổi tiếng nhất trong những trường nổi tiếng phải nói đó là trường Trung Học Chu văn An. Trường Chu văn An nổi tiếng không những vì nó đã có mặt trên cả hai miền Nam Bắc gần thế kỷ và đã đào tạo ra không biết bao nhân tài cho đất nước, mà còn vì học sinh trường Chu Văn An có tinh thần yêu nước rất cao.


Có điều không ai có thể ngờ được là nó lại chẳng được một nghị định nào của bộ Quốc Gia Giáo Dục ban hành thành lập, mà lại chỉ được một nghị định của bộ Mỹ Nghệ và Giáo Dục đổi tên do Giáo Sư Bộ Trưởng Hoàng xuân Hãn ký. Vì thế nói tới lịch sử của trường Chu văn An không thể nào không nói tới nguồn gốc của nó.


Nguồn gốc trường Chu văn An : trường Bưởi.

Người ta thường nói tiền thân của trường Chu văn An là trường Bưởi. Thực ra tên Bưởi không phải là tên chính thức. Tên chính thức của trường Bưởi lúc đầu là Collège des Interprètes. Nhưng chẳng bao lâu thì trường được đổi tên là Collège du Protectorat rồi tới năm 1930, trường lại được đổi tên lần nữa thành Lycée du Protectorat.


*


Trường này do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập với mục đích đào tạo thông ngôn (thông dịch viên), phán sự (thư ký hành chánh) cho chính quyền bảo hộ. Trường được xây cất vào năm 1907 trên một khu đất rộng hơn 10 mẫu tây thuộc làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hànội), nằm dọc theo Hồ Tây từ gần đền Quan Thánh tới gần Ô Cầu Giấy thuộc làng Yên Thái còn gọi là làng Bưởi, nên dân Hànội, Hà Đông thường gọi là trường Bưởi cho tiện (1).




Collège du Protectorat près du Grand Lac. Trường Trung Học Bảo Hộ gần Hồ Tây, hồi xưa quen gọi là trường Bưởi, sau này là trường Chu Văn An. Nằm tại làng Bưởi, trên đường Route du Village du Papier nay là đường Thụy Khuê.


*


Trường khai giảng niên khóa đầu tiên vào năm 1908 đủ cả bốn lớp, từ première année tới quatrième année (tức từ lớp 6 đến lớp 9), đúng nghĩa là một trường Thành Trung (Grand Collège, thời Việt Nam Cộng Hòa gọi là trường Trung Học Phổ Thông, nay gọi là trường Trung Học Cơ Sở). Vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Bưởi là giáo sư người Pháp tên Cyprien Mus. Các Hiệu Trưởng kế tiếp là các giáo sư Donnadieu, giáo sư Lomberger, giáo sư Pouget, giáo sư Autigeon, giáo sư Houlié, giáo sư Perruca và giáo sư Farchi (2). 
Nhưng cũng trong năm này (1908) trường Collège Jules Ferry ở Nam Định đóng cửa, nên tất cả các học sinh của trường này được chuyển lên trường Bưởi. Do đó trường Bưởi trở thành một trường Trung Tiểu Học, gồm cả hai cấp : cấp Tiểu Học (Petit Collège) từ lớp Tư (Cours Préparatoire) đến lớp Nhất (Cours Supérieur) và cấp Trung Học (Grand Collège) còn gọi là Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur), sau này, thời Việt Nam Cộng Hòa được gọi là Trung Học Phổ Thông hay Trung Học Đệ Nhất Cấp (3).




TONKIN – Hanoi – Une fête d’écoliers Annamites. Một ngày hội của học sinh trường Trung học Bảo Hộ Hà Nội (trường Bưởi).
Tới năm 1926, cấp Tiểu Học được bãi bỏ, thay thế vào đó cấp Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat d’Enseignement Secondaire Local); do đó trường được đổi thành Lycée du Protectorat. Theo cụ Đinh Bá Hoàn, cựu học sinh trường Bưởi, thì từ niên khóa 1924-1925, chương trình học được kéo dài thêm 3 năm nữa, tổng cộng là 7 năm và các môn học không những cũng đầy đủ như ban Tú Tài của Pháp mà còn thêm cả phần học về văn hóa Á Đông nữa (4), nhưng mãi tới năm 1930 trường mới thực sự được đổi tên thành Lycée du Protectorat.


*


Năm 1943, quân đội Nhật tiến vào Đông Dương, tình hình trở nên nghiêm trọng. Để tránh bom đạn của máy bay Đồng Minh đánh phá các căn cứ quân sự của Nhật, trường Bưởi đã phải chia ra làm ba nhóm di tản đi ba nơi khác nhau còn trường thì bị binh lính Pháp chiếm làm chỗ đóng quân :
Nhóm 1 : Ban Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur) di chuyển vào Phúc Nhạc thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Nhóm 2 : Ban Tú Tài (Baccalauréat) di chuyển vào Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Nhóm 3 : Ban Classique Latin nhập vào trường Lycée Albert Sarraut, di chuyển về Chợ Trâu, thuộc thị xã Hà Đông. Chính vì sự sát nhập này mà nhiều cựu học sinh Bưởi chỉ nhớ tới nhóm 1 và 2 mà thôi (5).


*


Những nỗi truân chuyên của trường Chu Văn An.


Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, Ngày 12 tháng 5 năm 1945, Bộ Trưởng bộ Mỹ Nghệ (6) là giáo sư Hoàng Xuân Hãn ký nghị định đổi tên trường Lycée du Protectorat thành trường Trung Học Chu văn An, tên của một danh sư đời Trần, người đã dám dâng sớ xin chém đầu bẩy tên nịnh thần gian ác, hại dân hại nước, và vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Chu Văn An là giáo sư Hòang Cơ Nghị (7) (lúc này trường còn đang ở Sầm Sơn Thanh Hóa).


Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách Mạng Mùa Thu bùng nổ, Việt Minh nổi lên cướp chính quyền, trường được di chuyển về thị xã Hà Đông và giáo sư Nguyễn Gia Tường được đề cử làm Hiệu Trưởng để thay thế giáo sư Hoàng Cơ Nghị vào ngày 1 tháng 10 năm 1945 còn Giám Học là thầy Nguyễn Văn Chính. Cũng trong tháng này, niên khóa đầu tiên mang danh trường Chu Văn An đã được khai giảng. Được ít lâu, trường lại di chuyển về chùa Láng trên đường Hà Nội đi Hà Đông, rồi về Đông Dương Học Xá ở Bạch Mai, gần Hà Nội.


Tới năm 1946, trường lại rời về trường nữ trung học cũ cuả Pháp (Collège des Jeunes Filles) ở đường Félix Faure, kế bên nhà thờ Cửa Bắc, gần vườn hoa Canh Nông ở Hà Nội và vị giáo sư Quốc Văn nổi tiếng thời bấy giờ là giáo sư Dương Quảng Hàm được cử lên làm Hiệu Trưởng để thay thế giáo sư Nguyễn Gia Tường vào ngày 14 tháng 12 năm 1945, còn Giám Học là thầy Nguyễn Đình Phong. Nhưng cũng chẳng được bao lâu thì ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Các cơ quan đầu não quan trọng đều được chính phủ Việt Minh di tản ra hậu phương hoặc lên mạn ngược, còn các cơ quan khác không quan trọng đều đương nhiên bị giải tán. Trường Chu Văn An không phải là cơ quan quan trọng nên cũng nằm chung trong số phận này (8).


Đêm 26 tháng 12 năm 1946, giáo sư Hiệu Trưởng Dương Quảng Hàm bị đạn lạc chết trên đường tản cư, khi đang lội qua sông. Xác giáo sư không biết trôi dạt nơi đâu! (9). Theo Cố Nhân, tác giả bài “Chu Văn An những ngày xưa cũ” đăng trên Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, xuân 1991, thì giáo sư Dương Quảng Hàm đã bị nạn chết ngay đêm đầu tiên cuộc chiến Việt Pháp bùng nổ tức đêm 19 tháng 12 năm 1946 và xác của ông có thể đã được vùi chôn trong ngôi mộ tập thể ở cạnh tòa án Hà Nội trên đường Lý Thường Kiệt, (10).

Năm 1947, Hoàng Đế Bảo Đại hồi loan và chính phủ Quốc Gia được thành lập, nhưng mãi tới ngày 26 tháng 1 năm 1948 trường Chu Văn An mới được tái lập và hoạt động trở lại (11). Trường sở được đặt tại trường nữ trung học Thanh Quan, tục gọi là trường Hàng Cót tức trường R. Brieux cũ và giáo sư Sử Địa Mai Văn Phương được cử giữ chức Hiệu Trưởng vào tháng 2 năm 1948, Giám Học là thầy Đỗ Văn Hoán.


Niên khóa 1949-1950, trường lại một lần nữa được đổi về trường nữ trung học Đồng Khánh nằm trên đường Đồng Khánh, nay gọi là Phố Hàng Bài Hà Nội và vị Hiệu Trưởng lần này là Giám Đốc Học Chính Bắc Việt Đỗ Văn Hoán kiêm nhiệm, Giám Học là thầy Phan Đình Hoan nhưng cũng không được bao lâu thì trường lại chia đôi : một nửa số học sinh (đa số có nhà cư ngụ ở mạn bắc Hà Nội) di chuyển cùng với tên trường về trường Giáo Sinh Sư Phạm hay Sư Phạm Tiểu Học (College Đỗ Hữu Vị?), nơi đào tạo các giáo viên bậc tiểu học, tại đường Đỗ Hữu Vị gần cửa Bắc và vị Hiệu Trưởng lần này là giáo sư Phạm Xuân Độ. Còn nửa số học sinh ở lại (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Nam Hà Nội) và trường được đổi tên thành trường Trung Học Nguyễn Trãi.


Tới niên khóa 1950-1951, giáo sư Vũ Ngô Xán lên làm Hiệu Trưởng, Giám Học là thầy Vũ Đức Thận. Cũng trong thời gian này, Hiệu Đoàn kỳ với ngọn lửa mầu đỏ trên nền xanh da trời và Hiệu Đoàn ca với bản hùng ca Chu Văn An Hành Khúc do giáo sư Nhạc Sĩ Thẩm Oánh sáng tác ra đời.


*


Đoạn đường chuân chuyên của trường Chu Văn An đến đây tưởng chừng được chấm dứt, nhưng Trời chẳng chiều lòng người, thời gian êm đềm hạnh phúc cũng chỉ kéo dài được 4 năm (1950-1954). Tới ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, trường Chu Văn An cũng cùng chung số phận, một nửa theo lệnh của bộ Quốc Gia Giáo Dục di cư vào Nam, trong đó có Giáo Sư Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán, Giám Học Vũ Đức Thận và hầu hết các giáo sư nổi tiếng như Hoàng Cơ Nghị, Đào Văn Dương, Bạch Văn Ngà, Lê Văn Lâm, Nguyễn Sĩ Tế, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Lê Ngọc Huỳnh, Bùi Đình Tấn, Trần Đình Ý v.v…


Còn một nửa thày trò khác, trong số đó có anh Nguyễn Thủy, vì chưa hiểu rõ bộ mặt thật của Cộng Sản nên đã ở lại để chịu sự đầy đọa của chủ nghĩa vô thần Cộng Sản. Anh Nguyễn Thủy hiện nay đang ở Pháp, có bài thơ “Hỏi thầy cũ” như sau :


Hà Nội tiếp thu tới cột cờ,
Hân hoan dào dạt buổi ban sơ.
Như say thầy Sách trông cờ Đỏ :
Hơn tám mươi năm một giấc mơ (11).


Ái quốc bùa yêu thật nhiệm mầu,
Tương lai mù mịt xá chi đâu.
Vụt tay khỏi trán,nghe tim nói :
Kẻ Sĩ vì dân chốn biển dâu.


Thấm thóat phần ba thế kỷ qua,
Các thầy chắc hẳn lắm phôi pha ?
Có còn gieo giống, trồng nhân bản,
Hay đã uất hận, chốn nở hoa (12) ?


Nhân quả chu kỳ cũng có a !
Khúc quanh lịch sử nước non nhà.
Nông gian (13) thống trị bao giai cấp,
Lạm dụng mỹ từ đại bịp ta.


Thời đại truyền thông đã điểm rồi,
Âm binh, phù thủy rút đi thôi.
Để người yêu nước xây đời mới,
Hoài bão thầy Chu thắp sáng ngời (14).



Phần ở lại, sau khi chính quyền Cộng Sản tiếp thu, tiếp tục hoạt động được một thời gian ngắn thì trường di chuyển trở về số 10 đường Thụy Khê Hà Nội tức trường sở cũ của trường Bưởi. Được mươi năm, trường xuống cấp và lại bị chia hai một lần nữa, nhưng lần này không phải chỉ chia hai số học sinh, mà còn chia hai cả ngôi trường. Một nửa vẫn mang tên Chu Văn An, còn nửa kia mang danh Ba Đình. Không những thế, đất của nhà trường còn bị cả chục cơ quan khác và cả trăm nhân viên của bộ Giáo Dục cậy quyền, cậy thế lấn chiếm làm trụ sở hoặc nhà ở.


Gần đây, chính quyền Cộng Sản còn dự định bán cả một phần sân vận động của trường Chu Văn An để làm khách sạn cho ngoại quốc thuê mướn. Việc làm này đã bị các cựu học sinh Bưởi-Chu Văn An khắp nơi lên tiếng phản đối mãnh liệt, trong số đó có cả những người hiện đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền Cộng Sản. Ngay cả nhật báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng Công Sản Việt Nam, trong số ra ngày 31 tháng 3 năm 1992 cũng đã đăng tải một bài phản đối dự án này dưới nhan đề “Xây khách sạn gần trường Chu Văn An là phản giáo dục”. Nhưng chính quyền Cộng Sản vẫn bỏ ngoài tai và vẫn tiến hành dự án phản văn hóa này để kiếm tiền cho Đảng.


Theo ông Nguyễn văn Chiến, giáo sư Viện Đại Học Hà Nội, nguyên Hiệu Trưởng trường Chu Văn An Hà Nội, cho biết thì vào ngày 17 tháng 2 năm 1995, chính quyền Cộng Sản đã ký quyết định nâng cấp (! ) trường Chu Văn An ngang hàng với các trường Quốc Học ở Huế và Trường Lê Hồng Phong ở Saigon. Thật đáng buồn thay, một trường trung học nổi tiếng nhất nước, với những giáo sư lỗi lạc mà trong đó có người đã làm Thủ Tướng như giáo sư sử gia Trần Trọng Kim hay Tổng Bộ Trưởng như giáo sư Hoàng Xuân Hãn, giáo sư Nguyễn Dương Đôn, Khoa Học Gia như giáo sư Nguyễn Xuân Vinh v.v.., sau 40 năm quằn quại dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghiã, nay mới lại được nâng cấp trở lại !


Phần di cư vào Nam, vì chưa có trường sở riêng, trường Chu Văn An phải học nhờ trường Pétrus Ký. Trường Pétrus Ký học buổi sáng, trường Chu Văn An học buổi chiều.

Tới niên khóa 1955-1956, nhờ sự vận động của Bộ Giáo Dục nên trường được cấp cho một building hai tầng lầu ngay đằng sau trường Pétrus Ký, nhưng cổng vào nằm trên đường Trần Bình Trọng. Building này nguyên trước là ký túc xá của học sinh Pétrus Ký, sau bị Công An Xung Phong của Bình Xuyên chiếm làm trụ sở nhưng đã bỏ chạy sau biến cố Bình Xuyên 1955. Giáo sư Vũ Ngô Xán tiếp tục làm Hiệu Trưởng đến niên khóa 1956-1957 thì giáo sư Trần Văn Việt, nguyên Hiệu Trưởng trường Nguyễn Trãi sang thay thế. Giám Học là thầy Nguyễn Hữu Văn. Đầu niên khóa 1957-1958, trường được nới rộng sang khu nhà in Caravelle cũ (còn gọi là khu chuồng ngựa), cạnh sân vận động trên đường Trần Bình Trọng.




Không Ảnh Saigon 1965 – NHÀ THỜ THÁNH NỮ JEANNE D’ARC, TRUNG HỌC CHU VĂN AN, ĐẠI HỌC XÁ MINH MẠNG.




Trường Trung Học Chu Văn An và Nhà thờ Thánh nữ Jeanne d’Arc.






Đường Minh Mạng. Saigon 1966-72.


Niên khóa 1961-1962, trường Chu Văn An mới thực sự có trường sở mới tọa lạc tại góc đường Minh Mạng – Triệu Đà nhưng cũng chỉ mới di chuyển được các lớp Đệ Nhất Cấp. Sang niên khóa 1962-1963, trường mới hoàn toàn rời bỏ trường cũ để di chuyển về trường mới. Tới niên khóa 1963-1964 thày Giám Học Nguyễn Hữu Văn lên làm Hiệu Trưởng rồi kế tiếp là các gíao sư Đàm Xuân Thiều, Bùi Đình Tấn, Dương Minh Kính và Nguyễn xuân Quế.




SAIGON 1966-67. Ngã sáu Cholon. Nhà thờ Thánh nữ Jeanne d’Arc. Photo by R Mahoney. Bên phải hình là trường Trung học Chu Văn An, nơi cuối đường Minh Mạng (nay là Ngô Gia Tự). Cạnh bên đó là khu Đại học xá Minh Mạng.




SAIGON Mậu Thân 1968 – Trại tạm cư Ngã sáu Chợ Lớn trên sân trường Chu Văn An

Vietnam Refugees Camp In Cholon (Feb 14, 1968) by Carl Mydans


Tháng 4 năm 1975, Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam, trường Chu Văn An hoạt động thêm được ba năm nữa, tới đầu niên khóa 1978-1979 thì Sở Giáo Dục thành phố HCM ra quyết định giải thể. Phải chăng vì bị thày Chu Văn An dâng sớ xin chém đầu, bẩy tên gian thần đem lòng thù hận, đầu thai làm loài Qủy Đỏ, tìm cách trả thù ?


Nghe tin trên, một cựu giáo sư Chu Văn An còn tại chức lúc đó có làm một bài Văn tế thật cảm động như sau :


Than ôi !
Trời đất xụt xùi,
Phố phường ngơ ngác,
Thầy trò tan tác


Thế là :


Sau ba năm ngắc ngoải, án “tử hình” còn đợi duyệt y. Rồi một sáng quạnh hiu, tin giải thể đã là đích xác !

Nhớ trường Xưa :
Thanh thế lẫy lừng, hào quang sáng rực,
Lò hun đúc bao bậc tài năng, nơi xuất thân muôn người hiền đức.
Kể từ khi mượn tên làng “giấy bản” (15),
Mấy tòa lầu ngạo nghễ bên sóng biếc Hồ Tây.
Đến sau này mang hiệu “bậc danh nho” (16),
Vài ngôi nhà ẩn mình gần Bùng Binh Ngã Sáu,
Cùng thăng trầm với vận non song,
Trải vinh nhục qua bao cảnh ngộ.
Tránh bom đạn trong thời Thế Chiến,
Vác “nồi niêu” đi đến vùng quê (17),
Đón tin mừng khi có hòa bình, dọn sách vở trở về thành phố.
Bỗng nhiên :
Khói lửa mịt mù, thành đô tan vỡ (18)
Lôi thôi lếch thếch, dân chúng giắt gìa cõng trẻ tìm chỗ an thân, Đói rét lầm than, thầy trò nhường áo, xẻ cơm, nêu gương tương trợ.
Nhưng rồi :
Chiến sự vẫn dằng dai,
Cuộc đời lỡ dở,
Dân chúng hồi cư,
Trường xưa lại mở,
Khó khăn, trắc trở phải từ bỏ “tổ cũ” Hồ Tây,
Vất vả gian nan, đành dọn về trường kia “Đỗ Vị”(19),
Ba tầng phòng ốc, tạm đủ cho con trẻ học hành,
Vài mảnh sân chơi, cũng thỏa được tuổi xanh giải trí
Tưởng rằng :
Nấn ná qua thì,
Đợi khi bình trị.
Nào ngờ :
Thời thế đổi thay,
Gặp hồi vận bỉ.
Bản Hiệp Định (20) ký tận trời Tây, chia cắt giang sơn.
Người quốc gia rời xuống miền Nam với niềm hận sỉ.
Chân ướt, chân ráo, đành phải ở đậu, học nhờ
Lạ đất, lạ người, may được kẻ giúp, bạn đỡ.
Dần dần gây lại cơ đồ,
Ngày ngày gắng công củng cố,
Tăng thêm uy tín, ban giáo sư gồm nhiều vị lão thành.
Nổi tiếng tài hoa, đám học sinh không thiếu người ưu tú,
Tranh tài hùng biện, mấy lần đoạt giải quán quân.
Đọ sức văn bài, nhiều phen chiếm ngôi danh dự.
Khắp nơi, khắp chốn, đưa con em bồi đắp giang sơn,
Mọi chỗ, mọi ngành, gửi nhân tài điểm tô xứ sở.
Nhưng than ôi !
Mùa xuân năm nọ, cuồng phong phương Bắc ào ạt thổi vào,
Ngày cuối tháng kia, nhà cửa miền Nam ầm ầm sụp đổ (21).
Đồng Nai quằn quại bi thương,
Bến nghé xụt xùi đau khổ.
Lạc loài thân gái, bẽ bàng lỡ bước sang ngang,
Lơ láo hàng thần, ngậm ngùi sống đời tủi hổ.
Biết thân biết phận, giữ gìn kẽ tóc đường tơ,
Giả dại giả khờ, làm bộ hoan hô cổ võ.
Thời kỳ ổn định qua rồi,
Đến lúc thanh trừng hàng ngũ.
Taberd, Bác Ái lần lượt “quy tiên”.
Không nao núng, chẳng ưu phiền,
“Chu Văn An” thản nhiên đợi giờ ”hành quyết”.
Thành tích, công lao để đâu ? Không biết !
Vàng thau, hay dở, phân biệt nữa chăng ?
Thôi ! Chẳng qua thế sự thăng trầm,
Nước có khi đầy khi vơi, trăng có lúc tròn lúc khuyết.
Được tin dữ, thân quyến, bạn bè có lời tiễn biệt.
Không lễ nghi kèn trống, không cả một nén hương !
Âm thầm nuốt nỗi xót thương,
Lặng lẽ nén niềm bi phẫn.
Tiết tháng bẩy, đìu hiu gío thổi, trời tối sầm như phủ mầu tang.
Mùa Trung Nguyên rả rích mưa rơi, đất nước sũng tựa đầm nước mắt.
Xác còn đó, mà hồn đã khuất,
Não lòng ai khi lững thững bứơc gần.
Hồn khôn thiêng, xin phù hộ thân nhân,
Cùng bè bạn thoát cơn hoạn nạn (22).
Hãy cùng nhau thành tâm cầu nguyện,
Vững lòng tin có luật tuần hoàn.
Sau cơn giông, gío lặng mây tan,
Trời Việt Nam rực rỡ huy hoàng.
Trong niềm vui nếp sống tự do,
Chu Văn An phục sinh,
Ngời sáng
Saigon, Trung Nguyên năm Mậu Ngọ, 1978. 

Kể từ ngày trường Bửơi được đổi tên thành trường Chu Văn An, 1945 cho tới ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, 1978, tổng cộng là 42 năm, trải qua 14 đời Hiệu Trưởng (23):


1945-1946 :

.GS Hoàng Cơ Nghị,

.GS Nguyễn Gia Tường

.GS Dương Quảng Hàm

.GS Trần Văn Khang (24)

1946-1948 : Tản cư

1948-1949 : GS Mai Văn Phương,

1949-1950 : GS Đỗ Văn Hoán,

1950-1951 : GS Phạm Xuân Độ,

1951-1957 : GS Vũ Ngô Xán,

1957-1959 : GS Trần Văn Việt,

1959-1963 : GS Nguyễn Hữu Văn,

1963-1964 : GS Đàm Xuân Thiều,

1964-1965 : GS Bùi Đình Tấn,

1965-1968 : GS Dương Minh Kính,

1968-1975 : GS Nguyễn Xuân Quế.


Suốt chiều dài lịch sử gần một thế kỷ, từ 1905, ngày trường Bưởi được thành lập, đến 1978, ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, trường Bưởi-CVA đã sản xuất không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước, cho mọi ngành nhất là trong lãnh vực văn học và giáo dục.


Những chức vụ lãnh đạo cao nhất nhì của đất nước như Thủ Tướng thì có Giáo Sư Trần Trọng Kim, Bác Sĩ Phan Huy Quát v.v… Chức vụ Thủ Hiến thì có ông Nguyễn Hữu Trí. Chức vụ Tổng Bộ Trưởng thì có cụ Phạm Quỳnh, cụ Cung Đình Qùy, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm, Luật Sư Phan Anh, Luật Sư Trần Văn Tuyên, Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, Giáo Sư Vũ Quốc Thông, ông Nguyễn Lương, Bác Sĩ Trần Ngọc Ninh, Bác Sĩ Nguyễn Tấn Hồng, Luật Sư Vương Văn Bắc v.v…Chức vụ Khoa Trưởng các trường Đại Học thì có Giáo Sư Nguyễn Chung Tú, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, Giáo Sư Đặng Văn Chiếu, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, Giáo Sư Nguyễn Cao Hách, Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa v.v…

Trong lãnh vực khoa học chúng ta có Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, Kỹ sư Nguyễn Mạnh Tiến v.v…


Trong giới quân nhân, nhiều người đã lên tới cấp tướng như Phan Phụng Tiên, Lê Nguyên Khang, Phan Trọng Chinh, Bùi Thế Lân, Hoàng Cơ Minh v.v…và nhiều người đã bỏ mình ngoài chiến trường như Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn v,v… để bảo vệ miền Nam tự do hoặc quyết chết vinh chứ không chịu sống nhục dưới chế độ Cộng Sản như Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn v.v…vào ngày 30/4/1975.


Chú thích :


(1) Theo cụ Đinh Bá Hoàn, cựu học sinh trường Bưởi, thì trường được xây trên đất làng Thụy Khê, tục gọi là làng Bưởi, nhưng theo cụ Nguyễn Quang Nhạ cũng là cựu học sinh trường Bưởi thì trường được xây trên đất làng Yên Thái, tục gọi là làng Bưởi, chuyên nghề làm giấy bản, nên dân Hà Nội, Hà Đông thường gọi là trường Bưởi.


(2) Theo giáo sư Lê Văn Lâm và giáo sư Bùi Đình Tấn, tác giả bản Dự Thảo Kỷ Yếu Trung Học Chu Văn An Saigon thì vị Hiệu Trưởng cuối cùng của trường Bưởi là giáo sư Antoine Perucca.


(3) Theo cụ Đinh Bá Hoàn, lúc đầu với danh xưng là Collège des Interprètes, trường chỉ có hai lớp : Première Année và Deuxième Année. Hai năm sau, tức vào năm 1910, có đủ bốn lớp từ Première Année tới Quatrième a]Année, trường mới được đổi tên là Collège du Protectorat.


(4) Chính vì lý do này mà Tú Tài Local lại khó hơn Tú Tài Pháp và nhiều học sinh trường Bưởi thườngthi cả hai bằng và thường đậu luôn cả hai bằng.


(5) Mặc dầu bị sát nhập vào trường Albert Sarraut, các học sinh trường Bưởi vẫn không chịu nhận mình là học sinh trường Albert Sarraut vì cho đó là điều sỉ nhục, không như mấy anh Albert Sarraut chính cống, thường rất lấy làm hãnh diện mình là dân trờng Tây. Các học sinh gốc trường Bưởi thường không chịu chào cờ Pháp, họ thường lảng tránh ở xa, chờ cho chào cờ xong họ mới lững thững đi vào sân trường.


(6) Cũng theo giáo sư Lê Văn Lâm và giáo sư Bùi Đình Tấn, tác giả bản Dự Thảo Kỷ Yếu Trung Học Chu Văn An Saigon thì giáo sư Hòang Xuân Hãn là Bộ Trưởng Giáo Dục và ông đã ban hành một chương trình giáo dục mới theo đường hướng nhân bản và khai phóng, hoàn toàn Việt Nam.


(7) Vì thời gian làm giáo sư Hoàng Cơ nghị làm Hiệu Trưởng qúa ngắn, chừng bốn tháng, trường lại di chuyển ở nơi khác, nên có người không biết, tưởng rằng vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Chu Văn An là giáo sư Nguyễn Gia Tường.


(8) Trong bài “Trường Chu Văn An trên núi rừng Việt Bắc” đăng trong Đặc San Bưởi-Chu Văn An của Hội Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An Canada vùng Montreal năm 1998 thì sau ngày 19/12/46, ngày Chiến Tranh Việt Pháp bùng nổ, trường Chu Văn An được tản cư tới thôn Đông Lĩnh, xã Đào Gĩa thuộc tỉnh Phú Thọ (vùng Việt Bắc). Hiệu Trưởng là giáo sư Trần văn Khang (giáo sư trường Bưởi) làm Hiệu Trưởng, giáo sư Nguyễn Văn Chiển làm Giám Học. Nhưng theo tôi thì đây là trường Trung Học Kháng Chiến Đào Giã, do chính quyền Việt Minh lập lên với một ban Giám Hiệu mới và ban giảng huấn mới, chỉ có một số nhỏ giáo sư Chu Văn An tản cư tới dạy và một số nhỏ học sinh Chu Văn An tới học mà thôi. Hơn nữa, sau năm 1954, không thấy trường này hồi cư về Hà Nội và trường Trung Học Chu Văn An Hà Nội thì vẫn tồn tại.


(9) Theo Phan Quân, tác giả bài “Ai đã đổi tiên trường Lycée du Protectorat (Bưởi) thành trường Chu Văn An” đăng trong Đặc San CHU VĂN AN năm 2002 của Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An N.S.W Australia thì GS Dương Quảng Hàm đã bị tai nạn chết vì bị máy bay Đồng Minh thả bom trong khi ông đang trên đường công tác lo việc di chuyển trường Chu Văn An từ Yên Mô, Ninh Bình trở về Hà Nội.


(10) Theo Cố Nhân, tác giả bài “Chu Văn An những ngày xưa cũ” đăng trên Đặc San Chu Văn An miền đông Hoa Kỳ, xuân 1991, thì trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, dân Hà Nội tìm đường lánh nạn bị đạn lạc chết cả ngàn người trong số đó có giáo sư Dương Quảng Hàm. Khi quân Pháp làm chủ được tình hình đi dọn dẹp và góm góp tất cả các xác chết vô thừa nhận và chôn chung vào ngôi mồ tập thể ở cạnh tòa án Hà Nội trên đường Lý Thường Kiệt.


Tuy nhiên có người cho rằng các xác chết được chôn ở trong ngôi mồ tập thể này rất có thể là xác các tù nhân của nhà giam Hỏa Lò Hà Nội. Đa số các tù nhân này là các đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng hoặc của các đảng phái đối lập với Việt Minh tức Cộng Sản. Họ bị chính quyền Việt Minh bắt giữ và đã ra lệnh hành quyết trước khi rút khỏi Hà Nội tương tự như vụ Tết Mậu Thân, 1968 ở Huế. Những xác chết này không thể là những xác chết của những thường dân vô tội; bởi vì trước đêm đó, hầu hết dân chúng Hà Nội đã được Việt Minh ra lệnh di tản từ trước. Số còn ở lại, nếu có, hầu hết là Tự Vệ thành, nhưng nếu là xác của Tự Vệ thành thì tại sao bây giờ Cộng Sản lại san bằng ngôi mồ này đi mà không hề dựng một đài tưởng niệm cho những người đã hy sinh vì tổ quốc ? Còn nếu là xác chết của những đồng bào vô tội ở rải rác kháp nơi trong thành phố thì tại sao lính Pháp không chôn ở nơi khác mà lại mất công đem về tập trung ở đây và chôn tại nơi đây ? Vậy chỉ có thể là xác chết của các tù nhân nhà giam Hỏa Lò Hà Nội đã bị Việt Minh ra lệnh hành quyết trước khi rút lui. Vì số xác chết qúa nhiều, nên lính Pháp đã phải đào một cái hố lớn ngay giữa con đường nhỏ cạnh tòa án để chôn cho tiện.


(11) Với vẻ mặt hân hoan, mắt nhìn cờ đỏ sao vàng tung bay, thầy Sách nói với thầy Nguyễn Tường Phượng : “ Hơn 80 năm mới có ngày hôm nay được trông thấy cờ Việt Nam tung bay phất phới trên kỳ đài.”

(12) Chốn nở hoa tức Thiên Đàng.

(13) Nông gian : Cộng Sản thường tự coi là đại diên của hai giới công nhân và nông dân, nhưng thực ra chúng chỉ là kẻ mạo nhận.

(14) Thày Chu tức Chu Văn An.

(15) Làng Bưởi chuyên làm giấy bản.


(16) Bậc “danh nho” tức Chu Văn An.

(17) Vùng quê : Phú Nhạc Ninh Bình, Sầm Sơn Thanh Hóa.

(18) Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946.

(19) Đỗ Vị tức Đỗ Hữu Vị.

(20) Hiệp Định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 chia cắt Việt Nam làm hai.

(21) Ngày 30 tháng 4 năm 1975.

(22) Nguyên tác tới đây là chấm dứt. Sau nghe lời bạn hữu, tác giả làm thêm sáu câu cuối.

(23) Nếu kể cả một Cán Bộ Cộng Sản là Giáo Sư Vũ Văn Huệ làm Hiệu Trưởng từ 1975 đến 1978 thì tất cả là 15 vị.

(24) Thực ra GS Trần Văn Khang là Hiệu Trưởng của Trường Kháng Chiến trong thới gian tản cư.


Tài liệu tham khảo :


“Từ Bưởi đến Chu Văn An” của Trương Hữu Lượng “ Đặc San Bưởi-Chu Văn An, Paris 1990.

“Trường Bưởi-Chu Văn An” cuả Vũ văn Phường, Đặc San Chu Van An Bắc Cali số 3/1990.

“Chu Văn An những ngày xưa cũ” của Cố Nhân, Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, xuân Tân Mùi, 1991.

“Hồi ký về trường Bưởi” của Tô Giang Tử Nguyễn Quang Nhạ, Đặc San Chu Van An miền Đông Hoa Kỳ, xuân Tân Mùi, 1991.

“Nguồn gốc trường Bưởi-Chu Van An” của Đinh Bá Hoàn, Đặc San Bưởi-Chu Van An Canada, số 1/1992.

“Vài hàng về trường Bưởi-Chu Văn An” của Đào Hữu Châu, Đặc San Bưởi-Chu Văn An Canada , số1/1992.


“Trường Chu Văn An Hà Nội ngày nay” đăng trong báo Xây Dựng số 40 ngày 30/4/92 tại San Jose, California và được trích đăng lại trong Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, 1993.

“Tài liệu lịch sử trường Chu Văn An” của giáo sư Phạm Biển Thước, Giai Phẩn Chu Văn An Nam Cali, 1994.

“Các đài phát thanh ngoại quốc loan tin VC bắt giữ Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, một lãnh tụ Phong Trào đòi Tự Do, Dân Chủ và Đa Nguyên”, bản tin của Chữ Bá Anh, Đặc San Chu Văn An Bắc Cali, 3/1990.

“Tiểu sử của Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế” của Trung Ngôn, Tạp Chí Quốc Gia, cơ quan ngôn luận của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia vùng Montréal số 8 tháng 11 năm1998.

“The Vietnamese ‘s people army” của Douglas Pike.

“Điạ Lý Biển Đông Với Hoàng Sa và Trường Sa” của Vũ Hữu San, cựu học sinh CVA.

“Đặc San Lướt Sóng” số 30 /4/1998.
“Ai đã đổi tên trường Bưởi thành trường Chu Văn An” của Phan Quân đăng trong Đặc San Chu Văn An 2002 cua Hội Ái Hữu Trường Bưởi-Chu Văn An N.S.W Australia.
“Bản Dự Thảo Kỷ Yếu Trung Học Chu Văn An Saigon” của giáo sư Lê Văn Lâm và giáo sư Bùi Đình Tấn năm 2004′

Bài trích đăng trong sách TÀ QUYỀN KHIẾP NHƯỢC (Tạp ghi), Ấn bản năm 2014; Từ tr. 10 đến tr. 29.


*******
Tác giả: Luật Sư LÊ DUY SA, cựu Biện Lý tòa Sơ Thẩm VNCH.

BÙI ANH TRINH * CHO MỸ THUÊ CAM RANH

Inline images 1Hà Nội thuận cho thuê Cam Ranh
Bùi Anh Trinh


“…


Vậy có thể kết luận chuyến đi của ông Phúc là “chốt lại” chuyện cho thuê Cam Ranh đã được hai bên thương lượng lâu nay…”







Đã có thương thảo ngầm trước chuyến đi


Ngày 4/6/2017 VOA đưa ra bài viết của Reuters xác nhận đã có thương thảo riêng giữa CSVN và ông Trump ngay sau khi ông Trump đắc cử. Lý do khiến cho CSVN phải móc nối sớm như vậy là vì Trump tuyên bố sẽ hủy kế hoạch TPP; mà đối với CSVN thì đó là một bi kịch :


“Đi đầu trong việc dàn xếp liên hệ là đại sứ của Việt Nam tại Washington, ông Phạm Quang Vinh … Ông Vinh cũng có vai trò quan trọng liên quan đến Hiệp định Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhưng ông Trump đã từ bỏ hiệp định này – một bi kịch đối với Việt Nam”.


“Việt Nam đã bắt đầu vận động hành lang ngay khi ông Trump đắc cử”… .. “Việt Nam đã thu xếp được một cuộc điện đàm giữa hai ông Phúc và Trump hơn một tháng trước khi ông Trump nhậm chức.”


Trước đó CSVN có 7 lần mời ông Trump sang thăm Việt Nam (sic). Việc ông Trump có tham dự APEC và có thăm VN hay không là chuyện của nước Mỹ và chuyện riêng của cá nhân ông Trump. Nhưng bảy lần mời liên tiếp khiến cho các nhà quan sát quốc tế hiểu rằng CSVN muốn ông Trump phải trả lời ngay về một chuyện gì đó chứ không phải là chuyện ông ta thăm Việt Nam.


Trước khi ông Phúc đến Mỹ, VOA đã đưa ra giải thích của ông Murray Hiebert, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Mỹ : “Ông ấy cần đến để chốt lại chuyện ông Trump sẽ đến tham dự thượng đỉnh APEC”


Không ai tin là ông Phúc đến Mỹ để chốt lại chuyện ông Trump có tham dự APEC hay không. Chuyện “chốt lại” không cần phải có một chuyến đi rình rang và 7 lần thúc hối.


Ngoài ra giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cũng có nói xa gần: “Vấn đề là liệu ông Phúc có đặt một cái tương quan cá nhân nào tốt đẹp với ông Trump hay không thì nó sẽ thành công rất nhiều”.


Vậy cái “tương quan” đó là gì? Đã có trước khi ông Phúc sang Mỹ, hay là đợi ông Phúc sang Mỹ mới tạo nên cái tương quan đó?… Để làm rõ nghĩa thêm cho câu nói của giáo sư Hùng, ngày 27/5/2016 VOA đã tiết lộ :


“Hãng tin Anh cho rằng đó là kết quả của “các cuộc gọi, các lá thư, các cuộc tiếp xúc ngoại giao và các chuyến thăm cấp thấp khởi sự từ trước cả khi ông Trump nhậm chức ở Washington, nơi Việt Nam vẫn duy trì một nhà vận động được trả giá 30 nghìn đôla một tháng”.


Rõ ràng đã có tiếp xúc mật từ khi ông Trump mới đắc cử Tổng thống Mỹ. Sau đó là chuyến đi Mỹ của Thứ trưởng ngoại giao Hà Kim Ngọc, rồi Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, và cuối cùng là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.


Kết quả “đi không về rồi” của ông Phúc chỉ là kết quả bề ngoài


Ngày 1/6/2017 Thông tấn xã CSVN đưa tin sau khi ông Phúc kết thúc chuyến đi : “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Donald Trump”.


Nghĩa là chỉ đi thăm chơi và nói chuyện thời tiết, chuyện mua bán, chuyện Bắc Hàn… rồi trở về tay không chứ không đạt được một thỏa thuận nào nơi ông Trump. *( Nội dung của buổi nói chuyện 30 phút đã được ông Trump nói trước với báo chí : “Chúng tôi sẽ nói chuyện về thương mại. Chúng tôi sẽ nói chuyện về Bắc Hàn. Chúng tôi có rất nhiều chuyện để nói…” ).


Không thể nào có chuyện ông Phúc “đi không về rồi” sau 7 lần cương quyết đòi gặp. Cũng không thể nào ông Trump gởi thư mời ông Phúc đến để nghe ông Phúc nói chuyện trên trời dưới đất, kể cả chuyện Bắc Hàn!


Vậy thì những gì trình diễn bên ngoài không phải là mục đích thực của chuyến đi. Mà phải là một đề nghị quan trọng của CSVN. Đề nghị này đã được đưa ra kể từ khi ông Trump mới đắc cử. CSVN cần ông Trump trả lời trước khi họ họp Hội nghị Trung ương 5.


Tiết lộ của Reuters


Lẽ ra thì chuyện có tiếp xúc mật sẽ không bao giờ được tiết lộ nếu như đề nghị của CSVN thất bại. Nhưng 2 ngày trước khi ông Phúc lên đường thì Reuters và VOA làm như vô tình hé lộ một chút bí mật. Thời điểm hé hộ trước chuyến đi có nghĩa là hai bên đã thỏa thuận rồi, chuyến đi chỉ là hợp thức hóa ( ký kết ).


Và sau khi phái đoàn của ông Phúc trở về thì VOA đăng bài bình luận của Reuters với tựa đề là “Việt Nam vận động Bạch Ốc vì lợi ích chiến lược”. Nội dung giải thích rõ hơn về chủ đề của cuộc dàn xếp riêng tư ngay sau khi ông Trump đắc cử.


Tựa đề “Vì lợi ích chiến lược” cho thấy ông Trump mời ông Phúc đến không phải là chuyện thương mại hay là chuyện Bắc Hàn. Mà là chuyện chiến lược. Tất nhiên chuyện chiến lược giữa Mỹ và CSVN thì chỉ có chuyện giữ an ninh ( làm sen đầm ) trên Biển Đông. Vậy cuộc thương lượng mật lâu nay là “đề xuất giải quyết tình hình Biển Đông” của CSVN .


Nhưng CSVN đã có 7 lần thúc giục ông Trump phải trả lời đủ thấy là CSVN đã chấp thuận đòi hỏi lâu nay của Mỹ là Hạm đội Mỹ sẽ đảm trách nhiệm vụ “cảnh sát biển” tại khu vực Biển Đông với điều kiện Mỹ phải được thủ giữ vị trí chiến lược số một của vùng biển Đông Nam Á là hải cảng Cam Ranh của Việt Nam.


Kết quả dàn xếp giữa hai bên được thấy rõ là khi ông Trump đang bàn bạc ( ký kết ?) với ông Phúc tại Washington thì tại Hà Nội ông McCain đang nói chuyện ( ký kết ?) về hợp tác an ninh trên Biển Đông với Chủ tịch nước CSVN Trần Đại Quang. Qua ngày hôm sau thì ông McCain đến Cam Ranh và lên thăm chiến hạm USS John S.McCain đang neo đậu tại Cam Ranh. Không phải vô tình mà chiến hạm McCain có mặt tại Cam Ranh để tiếp đón ông.


Hẵn nhiên một khi hạm đội Mỹ có nhiệm vụ quốc tế là giữ an ninh trên Biển Đông thì những nước được bảo vệ an ninh phải đóng góp chi phí cho hạm đội Mỹ. Những nước được bảo vệ trực tiếp là Trung Cọng, Việt Nam, Phi Luật Tân, Malysia, Indonesia, Brunei, Đài Loan. Còn những nước được bảo vệ gián tiếp là những nước thường xuyên sử dụng hải lộ Biển Đông như Nhật, Hàn Quốc, Úc, Tân Tây Lan, Anh, Pháp, Ấn Độ…Đặc biệt nếu Trung Cọng thoái thác nghĩa vụ đóng góp thì các nước khác sẽ tình nguyện đóng thay cho TC.


Riêng Việt Nam muốn Mỹ giữ luôn an ninh cho bờ biển Việt Nam thì phải cho Hải quân Mỹ được sử dụng cảng Cam Ranh làm bản doanh của Hạm Đội. Hải quân Mỹ cần một bến cảng chiến lược để làm nơi đồn trú và tiếp liệu. Tuy nhiên nơi đồn trú của một Hạm đội bắt buộc phải là một căn cứ chiến thuật, tức là căn cứ chiến đấu. Không chỉ đơn thuần là tiếp tế hay sửa chữa tàu thuyền.


Mà hễ đã xây dựng căn cứ chiến thuật thì cần phải có hợp đồng thuê mướn dài hạn để Mỹ có thề đổ của xây dựng căn cứ vững chắc, lâu bền chứ không thể nào có chuyện cho ở miễn phí rồi lúc nào muốn đuổi thì đuổi. Tốt nhất là cho thuê trong 99 năm ( coi như bán ).


Tóm lại, Reuters và VOA muốn xác nhận là ông Trump và CSVN đã có thương lượng về Cam Ranh từ tháng 11 năm 2016 và nay ông Phúc đi Mỹ để “chốt lại”. Dĩ nhiên chuyện “chốt lại” chỉ là kết quả của 7 tháng thương lượng và những chuyến đi con thoi. Mà chuyến đi con thoi sau cùng là chuyến đi của ông John McCain đến Cam Ranh.


Thông cáo kết thúc của phái đoàn “John McCain” cho biết phái đoàn đã tiếp xúc với Chủ tịch nước, Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ tịch Quốc hội và những đại biểu Quốc hội khác trong kế hoạch Mỹ hỗ trợ an ninh và hợp tác quốc phòng với CSVN :


“…chuyến thăm được tiến hành trong bối cảnh có những diễn biến đáng ngại khu vực và những thách thức gia tăng tại vùng Biển Đông”…. “Đoàn nghị sĩ Hoa Kỳ tìm cách mở rộng hỗ trợ an ninh và hợp tác quốc phòng với phía Việt Nam”…


Đài RFA nhận xét: “Thông cáo của đoàn nghị sĩ Hoa Kỳ nêu rõ điều đáng chú ý là vào khi các vị thượng nghị sĩ Mỹ đang có mặt tại Việt Nam thì chính quyền của tổng thống Donald Trump tuyên bố mong muốn làm sâu sắc thêm mối quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam sau chuyến công du của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc”.


Mỹ và CSVN đẩy mạnh hợp tác giữ an ninh trên Biển Đông chứ không phải một mình Mỹ đối phó với TC trên Biển Đông. Nhưng vai trò của CSVN chỉ là cung cấp nơi đồn trú cho hạm đội Mỹ, tức là cho thuê cảng Cam Ranh.


Vậy có thể kết luận chuyến đi của ông Phúc là “chốt lại” chuyện cho thuê Cam Ranh đã được hai bên thương lượng lâu nay. Có thể hai bên đã thỏa thuận xong mọi chuyện nhưng chưa công bố vì cần một khoảng thời gian để chuẩn bị dư luận.


Bùi Anh Trinh

Thursday, June 15, 2017


TRUYỆN KIỀU

 
Ðàm Trung Pháp: Đọc Lại Truyện Kiều, Yêu Thêm Tiếng Việt

Chủ Nhật, ngày 04 tháng 9 năm 2016

Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Bút giả thường tự hỏi có phải trong thời điểm ấy Thượng Đế đã nổi hứng rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương xuất chúng chăng? Như Johann Wolfgang Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước chúng ta, Francois-René Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và William Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc.

Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên Die Leiden des jungen Werthers (Những nỗi ưu sầu của chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng làm cho một vài giai nhân đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện nhảy xuống hồ tự tử mà trong tay còn nắm chặt cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết Atala, một câu chuyện vừa buồn vừa mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Coleridge xuất bản tập thơ Lyrical Ballads, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong nền văn học quốc gia ấy. 
Thế còn Nguyễn Du của chúng ta thì sao? Hãy nghe lời người ngoại quốc ca ngợi thi hào họ Nguyễn trước đã. Thi sĩ lẫy lừng người Ấn Độ chuyên làm thơ bằng tiếng Anh mang tên Rabindranath Tagore (giải Nobel văn chương 1913) khi viếng thăm Việt Nam năm 1929 đã coi Nguyễn Du là vị thi sĩ đứng thứ 3 trong hàng ngũ những thi sĩ muôn thuở, chỉ sau Lý Bạch và Victor Hugo (theo học giả Thái Văn Kiểm). Văn sĩ Pháp René Crayssac đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và cho rằng áng văn kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh mà không sợ kém các văn chương kiệt tác, vô luận ở thời nào và ở xứ nào (theo học giả Đào Duy Anh).  Như vậy thì thiên tài thi ca họ Nguyễn của chúng ta khi đứng cạnh những đại danh văn chương của nhân loại cũng ngang ngửa với họ, cũng đều “mười phân vẹn mười” cả, nhưng riêng đối với bút giả thì đọc thơ Nguyễn Du thích thú gấp bội phần đọc các tác phẩm của các vị ngoại quốc kia, vì bút giả là người cùng một ngôn ngữ và văn hóa với Nguyễn Du.
Nguyễn Du (ND) sinh năm 1765 trong một danh gia vọng tộc. Cha là hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, người Hà Tĩnh, làm thủ tướng triều Lê. Mẹ là Trần Thị Tần, người Bắc Ninh, kém chồng 32 tuổi. ND mồ côi cha năm 11 tuổi và mồ côi mẹ năm 13 tuổi. Anh cả là tiến sĩ Nguyễn Khản, thượng thư bộ Lại, anh thứ hai là Nguyễn Điều từng làm trấn thủ Sơn Tây.

Năm 1783, lúc 18 tuổi, ND đậu tam trường (tú tài); cùng năm này, một người anh tên là Nguyễn Đề đậu thủ khoa kỳ thi hương (cử nhân). Tình hình chính trị lúc ấy thực bất ổn. Năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh; Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Huế. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Năm 1802 Gia Long diệt Tây Sơn, bắt đầu triều Nguyễn; ND làm tri huyện Phù Dung (thuộc Hưng Yên ngày nay), mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín (thuộc Hà Tây ngày nay). Năm 1809 ND làm cai bạ ở Quảng Bình. Năm 1813 ND thăng cần chánh điện học sĩ, chánh sứ sang nhà Thanh. Năm sau đi sứ về, thăng tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Gia Long mất, Minh Mệnh nối ngôi. ND được cử chánh sứ sang Tàu báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp lên đường thì bị bệnh và qua đời, thọ 56 tuổi.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ là khi nào ND viết Truyện Kiều, trước hay sau khi đi sứ sang Trung Quốc năm 1813? Theo Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì Truyện Kiều (TK) bắt nguồn từ một tiểu thuyết Tàu của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân, văn chương tầm thường, về một người đàn bà tài sắc, có lòng trung, hiếu, tiết nghĩa, mà đời bị bèo giạt hoa trôi. ND bỏ bớt những chỗ rườm rà, thô lỗ, dơ bẩn. So với tiểu thuyết Tàu thì TK của ND thanh nhã và văn vẻ hơn nhiều. Hà Như Chi, khi so sánh TK với tiểu thuyết Tàu nguyên thủy, nhận định TK là một công trình nghệ thuật cân đối hoàn hảo, kết cấu chặt chẽ, tình ý đậm đà khéo léo, văn chương tươi đẹp, thắm đượm màu sắc Việt Nam và dẫy đầy thi vị.
Vẫn theo Hà Như Chi, một nàng Kiều tài hoa duyên dáng như thế lại là nạn nhân của một số mệnh vô cùng khắt khe đã đánh mạnh vào tâm hồn ND và thúc giục cụ viết nên TK để hả hê những mối cảm tình đối với một người đã được cụ xem như đồng hội đồng thuyền với mình: ND phải quên nhà Lê mà ra làm quan với nhà Nguyễn thì có khác chi, vì chữ “mệnh” oái oăm, nàng Kiều phải bỏ Kim Trọng mà chịu bước giang hồ?  Đúng là:
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Nội dung TK gồm 3254 câu thơ lục-bát có thể chia làm 3 phần: (1) Thúy Kiều và Kim Trọng gặp gỡ và gắn bó với nhau; (2) Những nỗi khổ của Thúy Kiều trên bước đường luân lạc; và (3) Kim-Kiều tái ngộ. TK còn là một tác phẩm chứng minh cho định luật “tài mệnh tương đố”: Kiều là kẻ tài hoa nên phải mệnh bạc. Trong phần kết, may thay, ND cũng cho chúng ta tin tưởng rằng thiện tâm có thể cải hóa được số mệnh:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Những phân đoạn chính trong TK như sau:  Phần (1): (a) Xác định thuyết tài mệnh tương đố, (b) Kiều gặp Kim Trọng, (c) Kiều và Kim Trọng thề thốt gắn bó. Phần (2): (a) Gia biến nàng Kiều, (b) Mã Giám Sinh mua Kiều, (c) Kiều phó thác tâm sự cho em, (d) Mắc tay Tú Bà, (e) Đi trốn với Sở Khanh, (f) Kiều tiếp khách trong lầu xanh, (g) Kiều được Thúc Sinh chuộc ra, (h) Mắc tay Hoạn Thư, (i) Đi trốn, (j) Giác Duyên sợ liên lụy, gửi Kiều cho Bạc Bà, (k) Bạc Bà lừa dối, Kiều lại bị bán vào lầu xanh, (l) Được Từ Hải chuộc ra, (m) Kiều báo ân báo oán, (n) Mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, (o) Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường, (p) Giác Duyên vớt Kiều. Phần (3): (a) Kim Trọng trở lại vườn Thúy, (b) Lấy Thúy Vân, (c) Làm quan ở Lâm Tri, (d) Tìm Kiều ở Hàng Châu, (e) Giác Duyên đưa đến gặp Kiều, (f) Kim-Kiều xem nhau như bạn, (g) Kiều đánh đàn kết liễu đời bạc mệnh, (h) Kết thúc: Thiện tâm sửa được số mệnh.
Chúng ta đã nghe người ngoại quốc ca tụng TK trên đây, và bây giờ chúng ta tìm hiểu xem các nhà phê bình văn chương người Việt nghĩ gì về tuyệt tác phẩm này của Nguyễn Du. Bút giả xin đóng góp trong phần này này bằng cách tóm lược một số nhận định về giá trị TK của các nhà phê bình tên tuổi từ trước đến nay để chúng ta có một cái nhìn bao quát.
PHẠM QUỲNH: Sau khi cho rằng TK của ND hay hơn cả văn chương của Khuất Nguyên bên Tàu và  văn chương của Racine và Bossuet bên Tây, Phạm Quỳnh trong ngày giỗ ND năm 1924 tại Hà Nội đã thề trước anh linh thi hào họ Nguyễn rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu lòng dốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây” (Tạp chí Nam Phong, tháng 8, 1924). Vì những lời này mà Phạm Quỳnh bị hai cụ nghè Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng xỉ vả thậm tệ (bút giả sẽ nói tiếp về vụ lên án quá nặng tay này ở một đoạn sau).
NGUYỄN TƯỜNG TAM: Nhà văn thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924: “Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng Truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá, nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga. Nhưng nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được Tôi xin nói quyết một lời rằng: Mong được một quyển truyện nào hay hơn Truyện Kiều là mộng tưởng. Cái trình độ thơ quốc ngữ đến như thế là tuyệt đích rồi.” Nhận định về câu thơ thuộc loại văn hữu dư ba là câu “Lơ thơ tơ liễu buông mành,” Nguyễn Tường Tam thấy ba chữ “lơ thơ tơ” nghe rất êm tai, hay về phần tưởng tượng ít mà hay về phần âm điệu êm ái nhiều hơn. Và câu “Nách tường bông liễu bay ngang trước mành” ông thấy rất hay về cảnh sắc.  Ông cũng thấy trong TK nhiều chỗ cảnh và người có liên lạc, đúng như:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Như lúc Thúc Sinh trở về với Kiều, trông ra cảnh vật cũng hình như chia vui với mình:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Và khi Kiều và Kim gặp nhau lần đầu, lúc từ giã, cô Kiều còn trông theo, nhưng nào thấy gì đâu, chỉ thấy:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Hai câu đệm ấy vào thật là tả rõ được cái buồn, cái nhớ của cô Kiều mà hình như cảnh vật cũng âu sầu!
VŨ ĐÌNH LONG: Lấy âm nhạc làm ẩn dụ để lượng giá TK, phê bình gia Vũ Đình Long viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924 rằng “TK thực là một cây đàn tuyệt quý không phím không dây. Tác giả lấy đầu lưỡi mà nẩy lên tiếng, mỗi đoạn văn là một cung, mỗi câu văn là một điệu, mỗi chữ là một tay nỉ non thánh thót, réo rắt tiêu tao, đêm khuya canh tĩnh mà nghe người tốt giọng ngâm Kiều thì còn đàn nào hay bằng nữa … Cụ ND không phải là nhà thi sĩ, cụ chính là Thần Thơ vậy!” Theo Vũ Đình Long, những câu Kiều nói với chàng Kim thật hay thật tình, như:
Thưa rằng đừng lấy làm chơi
Rẽ cho thưa hết một lời đã nao
Chữ “rẽ” dùng có thần tình không? Ta thấy hình như nàng Kiều lấy tay gạt chàng Kim ra vậy! Năm lần láy chữ “còn” trong hai câu thơ sau đây là một tuyệt chiêu, như thể một lời thề nguyền vĩnh cửu:
Còn non, còn nước, còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay
Tình nhân tương tư nhau là những cảnh não nùng mà ND tả rất khéo. Chàng Kim nỗi lòng canh cánh luôn nghĩ đến người đẹp đã gặp trong ngày hội Đạp Thanh:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Đêm không ngủ được, vẩn vơ ngọn đèn tàn:
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng
Cậu đồ đã mang nặng gánh tương tư thì còn thiết gì đến sách, đến bút, đến đàn:
Phòng văn hơi giá như đồng
Trúc xe ngọn thỏ, tơ chùng phím loan
Ngồi nghe tiếng gió đập vào mành cũng nhớ đến ai – vì nhớ nhung mà trà mất ngon, mùi hương kém ngát:
Mành tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
LƯU TRỌNG LƯ:  Để đáp lễ lời cụ nghè Ngô Đức Kế cho rằng TK “chỉ là một thứ văn chương ngâm vịnh chơi bời, để lúc thanh nhàn mà đọc đôi câu cho tiêu khiển, chứ không phải là một thứ văn chương chính đại theo đường chính học, mà đem ra dạy đời được đâu” (báo Hữu Thanh, tháng 9 năm 1924) và nhất  là lời kết tội gay gắt của cụ nghè Huỳnh Thúc Kháng rằng “Truyện Kiều là một thứ dâm thư, rõ không ích mà có hại … Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong, bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều gieo vào trong cõi tư tưởng không phải là ít…” (báo Tiếng Dân, tháng 9 năm 1930), Lưu Trọng Lư viết trong tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm vào cuối năm 1933: “Ai muốn làm thánh hiền thì đi đọc Ngũ Kinh, Tứ Thư. Hãy để Truyện Kiều lại cho bọn chúng tôi là hạng người trong những phút mệt nhọc, buồn rầu, chán nản, cần phải ngâm nga những câu như:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”
ĐÀO DUY ANH: Để kết luận tập “Khảo Luận về Kim Vân Kiều” xuất bản năm 1943, học giả Đào Duy Anh khẳng định “Nguyễn Du đã gieo trong lòng ta một mối tin chắc chắn, một mối hy vọng dồi dào với tiếng nói của ta.” Cũng theo ông, ở thời Lê mạt, ta đã thấy có những tác phẩm có giá trị như Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Phan Trần Truyện, Hoa Tiên Ký … viết bằng quốc âm, nhưng lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, đủ khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức.
TRẦN TRỌNG KIM: Trong cuốn “Truyện Thúy Kiều” do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo xuất bản năm 1925, học giả Trần Trọng Kim viết: “ND khéo dùng lối hoạt họa, chọn cái hình dáng nào rõ thật nổi, rồi tìm một vài chữ thật đúng mà tả ra, hễ đọc qua là nhận ngay được chân tướng:
Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Mã Giám Sinh:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Tú Bà:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
Sở Khanh:
Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng 
Từ Hải:
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao” 
HOÀI THANH: Theo bài viết “Quyền Sống Của Con Người Trong Truyện Kiều” của nhà phê bình Hoài Thanh năm 1949, nếu nói về mức độ say Truyện Kiều thì không ai bằng ông nghè Chu Mạnh Trinh (một con người hào hoa phong nhã kiểu Kim Trọng). Ông nghè lãng mạn này không phải chỉ say văn chương Truyện Kiều mà lại còn say luôn cả nàng Kiều như say một giai nhân có thực, đến nỗi đã nói đến những chuyện si tình như thêu tên Kiều vào tay áo, mơ tưởng dựng một ngôi nhà vàng cho Kiều ở, mượn cỏ thơm gọi hồn Kiều về, và thấy như Kiều về thật! Chuyện lạ đời này cũng có thể hiểu được, vì theo Hoài Thanh, “ND có thể dạy cho ta biết ghét, biết yêu. Ghét những cái bất lương trong xã hội. Yêu những cảnh sống đáng yêu và nhân đó tránh cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt, cuộc sống của cỏ cây… Những cử chỉ uể oải, những câu nói thiếu lòng tin, những cái nhìn hời hợt, những tâm tư mệt nhọc hình như đương chờ đợi một cơn gió nào … TK ngay giờ đây vẫn còn khả năng cải tử hoàn sinh, vẫn có thể gieo chất nồng say vào cuộc sống…”
NGUYỄN LỘC: Trong cuốn sách “Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ 18” xuất bản năm 1997 tại Hà Nội, nhà biên khảo Nguyễn Lộc có những nhận xét tinh tế về cách sử dụng ca dao, tục ngữ trong TK, mà bút giả xin tóm lược trong những đoạn dưới đây.
Có thể nói trong TK có hàng
mấy chục câu thơ ND trực tiếp rút ra từ ca dao. Rất có thể hai câu:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường 
là rút ra từ câu ca dao:
Tiễn đưa một chén rượu nồng
Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi 
Ca dao trong TK được ND sử dụng như một thứ chất liệu nghệ thuật, chứ không như những trích dẫn. Không có câu nào ND dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều nhào nặn lại cho phù hợp với phong cách chung của nhà thơ trong tác phẩm. TK có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao, mà ai cũng nhận ra ảnh hưởng của ca dao, như :
Xót thay huyên cỗi xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi
Chốc đà mười mấy năm trời
Còn ra khi đã da mồi tóc sương 
ND cũng dùng rất nhiều tục ngữ, như : 
Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào 
hoặc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao 
Ngôn ngữ TK vừa súc tích chính xác, đồng thời lại vừa giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. ND có thể bằng một vài câu thơ khắc họa lên sắc nét chân dung ngoại hình của một nhân vật, hay miêu tả một biến cố, một cảnh ngộ. Một học trò giỏi đi thi bị rớt có thể tự an ủi bằng cách lẩy hai câu thơ súc tích, hợp tình hợp cảnh của TK: 
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần 
Tả một chàng đẹp trai hào hoa phong nhã thì ta có thể mượn ngay hai câu ND tả Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa 
Hai câu:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời 
thực tuyệt đẹp và chí tình để một chàng trai thiết tha căn dặn người yêu khi giã từ. Và khi giấc mơ ấp ủ từ lâu nay mới thành sự thực, ta vội kêu lên:
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai 
Qua những nhận định kể trên của các văn nhân lỗi lạc ngoại quốc và Việt Nam về tuyệt tác phẩm TK thì thiên tài Nguyễn Du đã chứng minh một cách hùng hồn rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ tuyệt vời cho thi ca. Còn đợi chờ gì nữa mà chúng ta không sốt sắng đọc lại Truyện Kiều để càng yêu thêm tiếng Việt của chúng ta?
Photo credit = Internet
ĐÀM TRUNG PHÁP  
Góp ý về Nhân Vật Truyện Kiều
Thiếu Khanh

LTG: Trong một email giới thiệu một bài viết rất hay về Nhân Vật Truyện Kiều,Tác giả, ông Tạ Quang Khôi, nói người ta "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng."
Tôi mạo muội góp một chút ý kiến thô thiển về chỗ này.
Từ trước đến nay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du không chỉ được ca tụng không thôi (thực ra không phải hoàn toàn là mù quáng đâu) mà cũng bị không ít người chê. Người khen và người chê Truyện Kiều không cùng đứng trên một mặt phẳng mà họ thuộc hai phạm trù riêng biệt, có lẽ không liên quan gì với nhau: Văn chương và luân lý. Người khen cho Truyện Kiều là một viên ngọc về văn chương, người chê cho Truyện Kiều là dâm thư, có hại cho tinh thần đạo đức của... phái nữ! ("Đàn ông chớ đọc Phan Trần / Đàn bà chớ đọc Thúy Vân Thúy Kiều"). Nhưng cũng có thể với quan niệm "Văn dĩ tải đạo" - Văn chương để chuyên chở đạo lý - mà người ta kết án cả mặt văn chương của Truyện Kiều.
Việc chê Truyện Kiều về mặt luân lý để ghép tác phẩm vào hàng dâm thư thì cần được xem xét lại. Ngày nay cuộc sống đã thay đổi, các khái niệm đạo đức luân lý đã không còn như trước, nên lời chê đó có lẽ không còn hiệu lực nữa.  Thế thì ta bàn về chuyện khen ngợi.
 
Sự ca tụng Truyện Kiều về mặt văn chương, nếu xét từ thời điểm tác phẩm của thi hào Nguyễn Du ra đời có lẽ ta sẽ thấy dễ hiểu, và không có gì là quá đáng. Cách đây gần hai trăm năm,  ngôn ngữ văn học tiếng Việt đang ở mức độ mà, nói theo "phong cách" bây giờ,  "sự phát triển hoàn hảo còn ở phía trước," mặc dù từ lâu trước đó đã có những tác phẩm thơ nôm của Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm....  Đọc thơ của các cụ ấy dường như chúng ta có cảm giác mình đọc... tư liệu văn học,  chớ ít thấy cảm xúc; ngay cả thơ nôm của cụ Trạng Trình giàu tính dân dã  mộc mạc cũng thế.  Mặt khác, và sở dĩ như thế, vì tác phẩm của các cụ chủ yếu là thuật sự, thuật hoài, kể lại các cảm nghĩ, cảm xúc của cá nhân mình trải nghiệm với cuộc sống, cũng của cá nhân tác giả, và... tải đạo, tức nhằm dạy đời với các quy ước luân lý đạo đức Nho giáo.  

Trong tác phẩm của các cụ, ngay hiønh ảnh của chính tác giả đã khá lờ mờ; dù các cụ có mô tả một đối tượng nào khác thì cũng chỉ với vài nét chung chung, mơ hồ, được nhìn từ xa qua ống kính khuôn mẫu ước lệ. Không một con người nào, không một khuôn mặt nào được vẽ rõ ràng, nói chi đến có một cuộc đời nào được kể ra cho rành mạch. Đó là một trong những tính chất đặc trưng của thể loại văn học phổ biến trong giới nhà nho ngày trước, sản xuất những tác phẩm lụn vụn ngắn ngủn, với bốn câu, tám câu, từ hai mươi chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt), 28 chữ (thất ngôn tứ tuyệt) 40 chữ (ngũ ngôn bát cú) và 56 chữ (thất ngôn bát cú). Một truyện ngắn trăm chữ ngày nay chỉ vẽ được vài nét bút sắt nhỏ ri ri, thì với 56 chữ người ta phải "nén" mọi thứ cần diễn tả, và độ nén ấy phải đậm đặc hơn cả các "file" nén .rar hay .zip trên máy tính bây giờ! Cho nên khi một tác phẩm "dài hơi" như Truyện Kiều ra đời đã làm cho người ta... choáng.
 
Truyện Kiều với 3.254 câu thơ  gồm 22.778 chữ đủ là  một kỷ lục ghê gớm rồi, lại mô tả rất nhiều con người thuộc nhiều thành phần trong xã hội thời đó là một chuyện rất mới. Nhưng điều đặc biệt và đặc sắc hơn hết là ngôn ngữ của thơ rất trau chuốc, bóng bẩy, khiến thể thơ lục bát đằm thắm của ca dao trở nên càng lộng lẫy sang trọng trong lâu đài văn học. Dù người ta có thể kể ra một số câu thơ  khá "vè" kiểu như  "Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân," hoặc  "Thanh minh trong tiết tháng ba /  Lệ là tảo mộ hội là đạp thanh" vân vân, nhưng so với nhiều truyện thơ dân gian khác ra đời sau, vào khoảng thế kỷ 19, như "Phạm Công Cúc Hoa," "Lâm Sanh Xuân Nương," "Thạch Sanh Lý Thông," "Trần Minh Khố Chuối", v.v.. thì Truyện Kiều quả là một viên ngọc mà quãng cách giá trị đối với các tác phẩm kia là quá xa.

 
Với ba cái nhất từ lúc bấy giờ: tác phẩm dài nhất, nội dung mô tả mới nhất, ngôn ngữ hay nhất, (chưa nói đến sự thành tựu rực rỡ của thể thơ Lục Bát của dân tộc trong tác phẩm) khiến người ta khen ngợi không tiếc lời là phải. Không mù quáng gì đâu.
Trước khi Truyện Kiều ra đời đã có bản dịch Chinh Phụ Ngâm rất hay của bà Đoàn Thị Điểm (dài 483 câu, có thuyết nói do Phan Huy Ích dịch) từ tác phẩm bằng Hán văn của Đặng Trần Côn; truyện thơ nôm Phan Trần (dài 954 câu, có chỗ nói Bà Đoàn Thị Điểm là tác giả), và có lẽ trễ một chút hoặc đồng thời với Truyện Kiều là truyện thơ Hoa Tiên (1.532 câu) của Nguyễn Huy Tự. (Cả Hoa Tiên và Phan Trần cũng đều "cải biên" từ những tác phẩm văn học Trung Quốc, như Truyện Kiều). Trong số ba tác phẩm đó, Chinh Phụ Ngâm được nói đến nhiều hơn cả. Thế nhưng lời khen ngợi về văn chương có vẻ chỉ tập trung nhiều nhất vào Truyện Kiều. Ngay cả điều này cũng không phải vô cớ. Suốt tác phẩm Chinh Phụ Ngâm người ta chỉ  nghe thấy một tiếng than dài não nuột và bất tuyệt của một người vợ lính, trong khi Truyện Kiều vẽ ra gần như cả một xã hội với nhiều tầng lớp người, với nhiều hoàn cảnh và tâm trạng phức tạp của người trong cuộc. Cụ Hoa Đường Phạm Quí Thích không quá lời khi nói rằng tác giả của nó, cụ Nguyễn Du có cái tâm và con mắt nhìn thấu suốt ngàn đời.
 
Trong Chinh Phụ Ngâm, theo cách mô tả ước lệ truyền thống, dung nhan người chinh phụ thế nào ta không rõ; ngoài việc nhớ chồng đi chinh chiến, sinh hoạt hàng ngày của nàng thế nào ta cũng không biết. Trong khi đó, mỗi nhân vật truyện Kiều được khắc họa rất rõ chân dung, đến nỗi không những danh tính của họ đã đi vào ngôn ngữ của chúng ta như những nhân vật điển hiønh, mà cả trong cuộc sống của xã hội hiện đại, tưởng chừng ta có thể nhìn thấy một số họ đang nhởn nhơ trước mắt: những Mã Giám Sinh "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao," những tú bà "ăn gì to lớn đẫy đà làm sao,"vân vân.
 
Tôi không phải là nhà nghiên cứu văn học, thành ra đây là những cảm nhận cá nhân có thể là không đầy đủ và không sâu sắc,  nhưng tôi thấy người ta không "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng". Ông Tạ Quang Khôi nói người ta "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng" theo tôi là không đúng. Tuy nhiên những nhận xét của ông về các nhân vật Truyện Kiều (1) thì quả là không sai. Đây không phải là chuyện "ba phải," mà thuộc hai phạm trù khác nhau (cũng như có người khen ngợi văn chương Truyện Kiều trong khi người khác chê Truyện Kiều là dâm thư). Điều ông Tạ Quang Khôi nói là thuộc về lãnh vực xây dựng tâm lý nhân vật.
Các nhà văn xưa của ta có vẻ hoàn toàn không quan tâm đến khía cạnh này. Một phần là do nền văn học của ta lúc đó chưa phát triển, chưa có "nhà văn", và (cho nên) chưa có nhu cầu khắc họa tính cách nhân vật. (Trong khi trong văn học Tàu có những hình tượng điển hình nổi bật như Tôn Ngộ Không, Bát Giới... [Tây Du Ký], Tào Tháo, Trương Phi... [Tam Quốc Chí], Lỗ Trí Thâm, Lý Quì... [Thủy Hử] v.v...). Phần khác, có thể nào những cái bất cập trong tính cách các nhân vật truyện Kiều mà ông Tạ Quang Khôi nêu ra vốn đã có sẵn từ trong tác phẩm gốc của nó là bộ Phong Tình Lục của Tàu (2) mà khi mượn cốt truyện để "cải biên" thành Đoạn Trường Tân Thanh cụ Nguyễn Tiên Điền, tuy có con mắt thấu suốt nghìn đời nhưng vốn chưa quan tâm đầy đủ đến tâm lý nhân vật, đã không nhận ra sự thiếu nhất quán của các tính cách ấy chăng?
 
Nói Nguyễn Du chưa quan tâm đầy đủ, vì nên biết rằng Phong Tình Lục không phải là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học cổ Trung Quốc, và cô Kiều trong đó khá "phô" đã được cụ Tiên Điền "tút" lại mới đẹp đẽ thanh lịch tài hoa như thế đấy. Nhưng khi gọt dũa lại nhân vật, Nguyễn Du đã để sót những điều biểu lộ sự không nhất quán trong tính cách của họ như ông Tạ Quang Khôi đã vạch ra chính xác. Nhưng đó là sự thiếu sót của một tác giả cách đây hai trăm năm, thời văn học tiếng Việt chưa phát triển. Sau Nguyễn Du gần hai trăm năm, nhà văn Lê Văn Trương đã từng bị coi là người bất chấp tâm lý nhân vật trong các tiểu thuyết "người hùng" của ông đó thôi.
http://truyenkimvankieu.blogspot.com/2009/12/16-nhan-vat-truyen-kieu-ta-quang-khoi.html (2) - Từ trước đến nay, nhiều người đinh ninh Truyện Kiều được Nguyễn Du mô phỏng từ tiểu thuyết Thanh Tâm Tài Nhân của Tàu (trước năm 1975 đã được dịch giả Tô Nam Nguyễn Điønh Diệm dịch ra tiếng Việt và được Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa VNCH xuất bản với tựa "Kim Vân Kiều Thanh Tâm Tài Tử" ). Gần đây có người phát hiện Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm do một người Tàu dịch từ Truyện Kiều của Nguyễn Du sang chữ Hán. Trong số các nhà nghiên cứu đưa ra nhận định mới này, cụ Hương Ngạn Đào Tử Đàm Duy Tạo (thân phụ của hai Gs Đàm Trung Pháp và Đàm Trung Phán) trong tác phẩm "Truyện Kim Vân Kiều Giảo Đính Tường Giải" (tác phẩm còn dạng bản thảo chưa xuất bản), đã nêu bằng chứng khẳng định rằng Nguyễn Du dựa vào một cốt truyện trong bộ "Phong Tình Lục" của Tàu để sáng tác Đoạn Trường Tân Thanh, và rằng "cuốn tiểu thuyết Thanh Tâm Tài Nhân đích xác là dịch ở truyện Kim Vân Kiều ra". Có thể đọc "Truyện Kim Vân Kiều Giảo Đính Tường Giải" tại đây: http://kimvankieu.wordpress.com/ . Và vẫn còn có thể download bản thảo tác phẩm này tại đây: 

TRẦN TRUNG ĐẠO * NGUYỄN THÁI HỌC

Tưởng niệm VN Quốc Dân Đảng

"Không Thành Công Cũng Thành Nhân"
Nguyễn Thái Học



85 năm Ngày Tang Yên Bái: Không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Dân Đảng muôn năm!" mà hô "Việt Nam Vạn Tuế!" Việt Nam Muôn Năm!".

Trần Trung Đạo


Tưởng Niệm 85 năm Ngày Tang Yên Bái


Vào khoảng thời gian này 85 năm trước, tức vài hôm sau Ngày Tang Yên Bái, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, bức hình bên đây được đăng trên báo Pháp. Mười ba chiếc đầu của các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị chém còn phơi trên bãi cỏ. Chiếc đầu được đánh dấu tròn được tờ báo ghi chú “đây là đầu của Nguyễn Thái Học”.


Theo tác giả Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái tới ngục thất Hoả Lò”: Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh mục Mechet và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công.


Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.


Tác giả Louis Roubaud in trong cuốn sách Việt Nam, xuất bản 1931, được trích dẫn khá nhiều, viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và những diễn biến tại pháp trường.


Ngay ở trang đầu Roubaud đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 13 lần tôi nghe tiếng hô này trước máy chém ở Yên Bái. 13 người bị kết án tử hình đã lần lượt thét lên như vậy cách đoạn đầu đài hai thước”. Tác giả cũng viết về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học: “Anh mỉm miệng cười, cực kỳ bình thản, đưa mắt nhìn đám đông công chúng và cúi đầu chào đồng bào rồi cất giọng đĩnh đạc, trầm hùng mà hô lớn: “Việt Nam vạn tuế”. Cô Giang, vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học, cũng có mặt trong đám đông.”


Trong hồi ký Từ Yên Bái Đến Côn Lôn, Nguyễn Hải Hàm tức Ký Thân, người bị kết án tử hình sau Khởi Nghĩa Yên Bái nhưng sau giảm xuống chung thân nơi Côn Đảo, kể lại lời của vị Linh mục chứng kiến giờ phút cuối cùng của 13 Anh hùng Yên Bái: “Ông Học thật tốt. Ông không hề tỏ ra một cử chỉ hay lời nói nào buồn trách Cha như những người kia. Trái lại ông Học nói chuyện với Cha tự nhiên, bình thản như ngày thườn… Quá vui tính… 12 anh kia bị chém trước rồi sau mới là anh Học… Anh Học trước khi lên đoạn đầu đài hô lớn câu Việt Nam Vạn Tuế, và khi hô lớn xong đầu cũng lọt vào thùng mạt cưa bên cạnh. Anh nào cũng hô Việt Nam Vạn Tuế, có anh thì hô Việt Nam Muôn Năm… Nhưng đau lòng nhất là có một vài anh chưa hô hết câu đầu đã rơi xuống thùng mạt cưa”.


Mười ba liệt sĩ lên máy chém thực dân sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930: Nguyễn Thái Học, Phó Ðức Chính, Bùi Tư Toàn, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn An, Hà Văn Lạo, Ðào Văn Nhít, Ngô Văn Du, Nguyễn Ðức Thịnh, Nguyễn Văn Tiềm, Ðỗ Văn Sứ, Bùi Văn Cửu và Nguyễn Như Liên.


Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bước lên máy chém. Như hai tác giả Louis Roubaud và Hoàng Văn Đào viết, không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”.


Đó cũng là điểm khác biệt chính giữa các đảng cách mạng thật sự chiến đấu vì tự do, độc lập của dân tộc và đảng Cộng Sản VN. Với những người yêu nước chân chính, đảng cách mạng chỉ là chiếc ghe để đưa dân tộc Việt Nam qua sông trong khi với Đảng Cộng sản chiếc ghe lại chính là dân tộc.


Hôm nay, sở dĩ đảng CS ca ngợi lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học chỉ vì ông đã hy sinh, tuy nhiên, nếu ông còn sống và tiếp tục lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng trong giai đoạn 1945, số phận của Nguyễn Thái Học cũng giống như Bùi Quang Chiêu, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước bị CS giết mà thôi.


Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”. Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học chỉ mới 28 tuổi.

Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, nhưng dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau. Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.


Trần Trung Đạo

Wednesday, June 14, 2017


HẢI SÂM

Hải sâm, vú nàng, máu và nước mắt




0:00:00 /0:06:07



Nói về đất Quảng Ngãi là đang nói đến một vùng đất có nhiều mộ gió để tưởng nhớ các ngư dân đã bỏ mình trên biển và cũng nói về một làng chài mà ở đó, đời sống ngư dân chưa bao giờ bình yên.
Nếu như làng chài Lý Sơn luôn bất an bởi ngư dân luôn bị tàu Trung Quốc đâm chìm, thậm chí xả súng thì làng chài Sa Kỳ, đặc biệt là ngư dân xã Bình Châu lại luôn thấp thỏm bởi lựa chọn chẳng đặng đừng của họ. Đó là đánh bắt trộm hải sâm, vú nàng ở các vùng biển của nước khác.
Hầu hết các gia đình có người bị bắt đều ngại tiếp xúc với người lạ và đóng cửa khi có ai đó bước vào xóm.
Hải sâm, vú nàng là tiếng gọi đầy ma lực mà cũng đầy rủi ro.
Ông Khái, ngư dân xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi chia sẻ với VOA:
"Họ lặn bắt hải sâm thì thu nhập lớn lắm. Một ký họ bán được 700 ngàn. Nếu trúng thì một người được vài trăm triệu, ít thì vài chục triệu."
Ông Thương, thợ lặn hải sâm xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi cho biết:
"Nhà nước không có ủng hộ gì hết, vì nhà nước mình cũng cấm, nhưng mình qua bên đó mình đi ăn trộm."
Làng chài Bình Châu có ba nhóm đánh bắt cơ bản, nhóm gần bờ, nhóm xa bờ và nhóm bắt trộm hải sâm, vú nàng. Những người không còn đủ sức thì đánh bắt gần bờ, những người không sợ Trung Quốc thì ra ngư trường Hoàng Sa đánh bắt và người muốn đổi đời, liều lĩnh một chút thì đi đánh bắt trộm hải sâm, vú nàng ở vùng biển các nước khác như Papua New Guinea, Philippines, Australia…
"Họ đi lặn hải sâm thì đi hai tháng, ba tháng mới về. Qua tận Pháp, Úc, Papua [New Guinea] mới có," ông Khái nói. "Còn mình làm lưới ở đây, hồi êm ái thì bình thường nhưng hồi mưa gió, nước chảy thì nguy hiểm lắm!"
Những ngư dân đi đánh bắt trộm không nhận được hỗ trợ gì của nhà nước, theo lời ông Thương. "Vì mình trộm bên nước của họ, mình đi làm bên nước họ mà bị bắt thì mình tự bỏ tiền ra mà chuộc về thôi chứ nhà nước không hỗ trợ đâu, bên Hoàng Sa mới có hỗ trợ," ông nói.
Hiện nay tại Việt Nam, giá thành một ký hải sâm tươi là 800.000 đồng, một ký vú nàng là 1,6 triệu đồng. Nhưng để có một ký vú nàng hay hải sâm bán ra thị trường, cái giá phải trả của người thợ lặn trộm không hề nhỏ chút nào.
Nếu không bị các nước chủ quyền vùng biển bắt nhốt, phạt tù thì cũng bị chính công việc giết dần giết mòn bởi lặn ở độ sâu 70 mét, 80 mét dưới đáy biển trong vòng vài giờ và tiếp xúc với khí độc, áp suất cao, nguy cơ hỏng bình hơi và vỡ mạch máu rình rập.
Dường như cái chết có thể đến bất kì lúc nào với người lặn hải sâm, vú nàng.
Ông Hùng, người có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết trong nghề thợ lặn, ở Quảng Ngãi nói:
"Đại đa số người đi lặn về là bị [liệt] hết, vì lý do vì sao, vì không có tiền để chữa bệnh, vì ra ngoài biển, lặn sâu quá, độ độc hại quá nhiều. Từ đó dẫn đến việc họ bị bệnh hết, nằm một chỗ."
Vì kế sinh nhai, những người thợ lặn bắt hải sâm bất chấp mọi nguy hiểm tới tính mạng của chính mình. Ông Thương chia sẻ thêm:
"Khổ lắm, đi đây thì không đủ xăng dầu, đi ra Hoàng Sa thì bị Trung Quốc dí. Ở biển mình thì không có hải sâm, vú nàng, vậy nên cứ lén lén vượt ra biển nước ngoài để khai thác lén lút."
Rủi ro nhỏ của người thợ lặn là mất vốn, bị bắt nhốt tù, lao động khổ sai và rủi ro lớn thường là cái chết, mọi sự chấm hết, bỏ lại vợ con, cha mẹ già bơ vơ, lạc lỏng. Như trường hợp cái chết của chồng chị Thúy ở xã Bình Châu là một ví dụ đau lòng.
"Sống ở đây thì không làm biển thì biết làm gì," chị Thúy nói. "Biết ảnh đi lặn thì nguy hiểm đó nhưng biết làm sao. Một bữa trưa em nghe tin bị sự cố bình hơi, ảnh chết. Từ đó gia đình mất đi ảnh, em phải bươn chải qua ngày để nuôi con."
Người ta thường nói rằng nghề biển, đặc biệt là nghề lặn hải sâm, vú nàng là nghề giàu có, xài tiền như lá mít và đôi khi vứt tiền qua cửa sổ. Nhưng người ta cũng nói với nhau rằng sự giàu có của nghề biển và thợ lặn hải sâm, vú nàng ở Việt Nam giống như bọt nước, thoáng chốc đã thấy trắng cả vùng và thoáng chốc tiêu tan.
Và có vẻ như hiếm có nơi nào chúng tôi đến lại im vắng đến lạnh lùng như xóm thợ lặn ở xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Nhóm cộngtác viên của VOA
  https://www.voatiengviet.com/a/hai-sam-vu-nang-mau-va-nuoc-mat/3897493.html


Canh bạc hải sâm




0:00:00 /0:04:42


Đường dẫn trực tiếp
Xóm lặn Bình Châu nằm khuất sau một rừng dương, nối với đường cái huyện bằng một con đường đất nhỏ. Đây là nơi sinh ra và lớn lên của nhiều thế hệ thợ lặn hải sâm của đất Quảng Ngãi.
Nghề lặn hải sâm có một ma lực khó tả, dù biết là nó nguy hiểm đến tính mạng nhưng người ta vẫn không bỏ nghề. Những cơn tai biến áp suất dẫn đến tàn tật vĩnh viễn và cái chết đã khá dày trong kỉ yếu nghề lặn Bình Châu.
Anh Trương Phong, con trai của thợ lặn hải sâm Trương Danh, bị bắn chết ở vùng biển Papua New Guinea chia sẻ với VOA:
“Ba em bị mất vào năm 2016, nghe từ chủ ghe họ báo về như vậy. Năm nay em mới học lớp 11 nên chưa làm được gì để kiếm thêm tiền. Ba mất là trụ cột của gia đình mất đi nhưng giờ vẫn chưa làm được giấy khai tử cho ba vì chưa tìm thấy xác.”
Ông Bùi Tường, thợ lặn hải sâm bị tai nạn nghề và tàn tật vĩnh viễn, giải thích lý do các ngư dân lại đi xa như vậy:
“Nguyên nhân là vùng biển Việt Nam mình ít hải sản rồi, mà tàu thì càng ngày càng nhiều. Vậy nên chỉ cần đi ra vùng biển nước ngoài thì biết chắc chắn là nhiều. Có thể trang trải chi phí cho tàu lớn, đông người. Đi vùng biển nước ngoài chắc chắn làm được nhiều.”
Người không may nằm xuống, bỏ mình giữa trùng dương hoặc trởi về đất liền bằng thân xác lạnh giá. Người may hơn một chút thì bị bắt, bị nhốt tù và gia đình phải chạy vay chạy mượn để chuộc về. Nhưng tiếng gọi hải sâm vẫn chưa ngưng lặng.
Nhóm cộng tác viên của VOA tìm gặp anh Bùi Tấn Sĩ, người vừa được thả về từ Papua New Guinea sau mấy tháng ngồi tù. Anh chia sẻ:
“Về vấn đề giúp đỡ thì nhà nước cũng có quan tâm giúp đỡ nhưng thực ra thì toàn bộ là người nhà chạy vay chạy mướn để nộp phạt rồi đóng tiền vé máy bay về. Chứ nhờ nhà nước hỗ trợ để về không là không có."
Bà Nguyễn Thị Bích, người vừa chuộc chồng về nhà với giá 175 triệu đồng từ Papua New Guinea cho biết thêm:
“Thì chuộc được ảnh về thì ảnh về được tới nhà thì em rất mừng chứ không biết nói sao. Còn tiền bạc thì nhà này vẫn đang thiếu nợ nhà nước.”
Thợ lặn hải sâm Bùi Tấn Quang, người cũng từng bị bắt ở Papua New Guinea vào năm 2016, nói:
“Nói chung đi làm không có bảo hiểm gì hết. Tự dân mình đi làm thôi chứ không có bảo hiểm gì, mình làm được nhiều thì ăn nhiều, ít thì ăn ít thôi, cũng đủ trang trải chứ không giàu có gì.”
Không có hợp đồng lao động, không có hợp đồng bảo hiểm, không có bất kì thứ quyền lợi nào ngoài việc chia lãi với chủ tàu với một tỉ lệ rất thấp, tương đương 3% toàn sản lượng. Và khi có sự cố thì chủ tàu không có bất kì trách nhiện nào với các thợ lặn, từ tai nạn nghề nghiệp cho đến bị bắt hay bị bắn chết, chủ tàu cắt đứt mọi quan hệ với gia đình thợ lặn từ lúc xảy ra sự cố.
“Nói chung ở trong tù thì không được liên lạc gì hết, chỉ có 1 lần hay hai lần gì đó được họ hỗ trợ gọi điện về cho vợ con thôi," anh Quang kể. "Sau ngày tôi ra tù thì người nhà chạy tiền chạy bạc để lo vé máy bay về.”
Ngư trường Việt Nam ngày càng hiếm hải sản, xăng dầu tăng giá lliên tục, giá điện cũng quá cao so với các nước khu vực. Điều này dẫn đến tình trạng giá nước đá cũng tăng và chi phí đánh bắt xa bờ đội lên rất cao.
Lặn hải sâm không tốn chi phí mua nước đá bởi chỉ cần ướp bằng muối và thời gian ướp kéo dài trên ba tháng.
Chấp nhận mọi rủi ro để ra vùng biển nước ngoài bắt trộm hải sâm giống như một giải pháp tình thế để chống thua lỗ của người thợ lặn. Vì chi phí thì thấp, thời gian đánh bắt kéo dài và lợi nhuận thì cao, hải sâm một canh bạc li kì và mạo hiểm.
Nhóm cộng tác viên VOA
 https://www.voatiengviet.com/a/canh-bac-hai-sam/3897507.html











TS. PHẠM CAO DƯƠNG * PHẠM QUỲNH

Việt Nam 1945: Những Ngày Cuối Cùng Trong Cuộc Đời Làm Chính Trị Của Học Giả Phạm Quỳnh

2014 Oct 30 pham-quynh_1922-tai-phap.jpg300



Cho tới nay mọi người đều biết là sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, 9 tháng 3, 1945, Nội Các Phạm Quỳnh đã từ chức và được thay thế bởi Nội Các của Học Giả Trần Trọng Kim. Vắn tắt như vậy, nhưng một vấn đề không kém quan trọng cần được đặt ra là chuyện gì đã xảy ra ở chung quanh Hoàng Đế Bảo Đại và thái độ của nhà vua đối với Phạm Quỳnh trong thời gian một tuần lễ kể từ ngày Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nhà vua mà Phạm Quỳnh là tác giả , được ban hành, từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 19 tháng 3 năm 1945, ngày Phạm Quỳnh và các thượng thư khác, mà người ta thường quen gọi là Cơ Mật Viện hay Hội Đồng Thượng Thư hay Nội Các Phạm Quỳnh tùy theo từng sách, từ chức và nhà vua tuyên bố đích thân điều khiển việc nước, sau đó đã quyết định thành lập chính phủ mới? Trong bài này người viết xin được phần nào trả lời câu hỏi này.


Nội Các Phạm Quỳnh Từ Chức và Vai Trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Sau Đảo Chính 9 tháng 3, 1945 Hoàng Đế Bảo Đại vẫn còn tín nhiệm Học Giả Phạm Quỳnh và muốn giao thêm nhiệm vụ mới

Theo Bảo Đại qua hồi ký sau này của ông thì một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được ban hành, ngày 12 tháng 3, nhà vua có triệu Đại Sứ Yokoyama vào cung để trao bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông. Trong buổi gặp gỡ này Bảo Đại đã đặt vấn đề xứ Nam Kỳ và trước khi cáo lui, Yokoyama với giọng như dò hỏi và nhẹ nhàng gợi ý là giữa lúc Việt Nam đi vào con đường mới, nhà vua có định thành lập một chính phủ hợp bởi những người mới để đáp ứng nhu cầu của một nước Việt Nam mới hay không? 
Trước câu hỏi này, Bảo Đại chỉ cười mà không trả lời, nhưng trong hồi ký, ông viết thêm là “Trao sự điều khiển quốc gia cho những người mới…Một trong những mục tiêu mà tôi nhắm tới vào lúc tôi mới lên ngôi.”[2] Những người mới này là những người hoàn toàn mới hay là luôn cả những người có thể được coi là mới vì mới được nhà vua đưa vào làm việc khi ông mới lên ngôi nhưng chưa thi thố được tài năng, trong đó có Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm? 
Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì Bảo Đại không trực tiếp trả lời Yokoyama mà chỉ cười, một cái cười đầy ý nghĩa, mà sau này lời chứng của Phạm Khắc Hoè, đương thời là Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng của nhà vua, người vốn đã là một cảm tình viên của Việt Minh, nằm vùng trong Đại Nội bên cạnh nhà vua và Nam Phương Hoàng Hậu, nhân chứng người ngoài duy nhất có mặt trong Đại Nội trong những ngày này cho ta biết phần nào. 
 Trong hồi ký của Phạm Khắc Hoè, Phạm Khắc Hoè đã ghi rằng sáng ngày 12 tháng 3, một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công bố, nhà vua có bảo ông thảo một “đạo dụ” cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt cho Chính Phủ Việt Nam Độc Lập để giao thiệp với người Nhật.[3] Sự kiện này chứng tỏ là vào lúc đó Bảo Đại vẫn chưa có ý định thay thế Phạm Quỳnh và còn tín nhiệm Phạm Quỳnh hay ít ra là muốn dùng Phạm Quỳnh trong thời gian chuyển tiếp, một thời gian vô cùng quan trọng cho vị nguyên thủ quốc gia, sau một biến cố vô cùng trọng đại và bất ngờ xảy ra cho đất nước mình và chính mình là Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945, làm chủ được vị thế của mình, đồng thời lượng định được tình hình rồi mới đi đến những quyết định cuối cùng hay những thay đổi có tính cách lâu dài hơn mà không gây xáo trộn. Điều này cũng được Hoàng Xuân Hãn kể lại khi nhân chứng đáng tin cậy này được Nhà Văn Thụy Khuê phỏng vấn như sau:


“Rồi đến lúc đảo chính Nhật, một hôm tôi ở Hà Nội, nghe tin radio biết rằng ông ấy (Vua Bảo Đại) giao cho ông Phạm Quỳnh liên lạc với người Nhật để đổi mới gì gì đấy. Đợi mãi hơn một tuần không có tin gì mới hết cả. chúng tôi nhiều người nóng ruột lắm. Chính ở Bắc, anh em có mượn một người đi vào Huế dò tin tức, người ta đi xe đạp từ Hà Nội về Huế, lúc ấy tầu hỏa bị đứt đoạn, đi lại khó lòng lắm. Đến lúc trở về đây thì cũng chỉ biết tin vừa vừa thôi, rằng hình như ông ấy giao cho Phạm Quỳnh, nhưng Phạm Quỳnh không làm gì cả.”[4]

Nội Các Phạm Quỳnh từ chức – Vai trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Mọi chuyện đã hoàn toàn đổi khác vì Phạm Quỳnh đã từ chức và lịch sử đã chuyển sang một hướng khác. Theo Phạm Khắc Hoè thì việc từ chức của Nội Các Phạm Quỳnh và sự chấp thuận sự từ chức này của Vua Bảo Đại là do chính Phạm Khắc Hoè gợi ý và chủ động. Thay vì tuân lệnh Vua Bảo Đại, soạn thảo đạo dụ theo ý muốn của nhà vua, Phạm Khắc Hoè đã quay sang nói xấu Phạm Quỳnh và khuyên nhà vua không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu chuyện hôm đó kéo dài hơn nửa giờ và Bảo Đại quyết định tạm cử Phạm Quỳnh “cho dễ liên lạc với Nhật đã rồi sau sẽ hay.” Nguyên văn lời kể của Phạm Khắc Hoè như sau:


“Sau một đêm thao thức, suy nghĩ về những chuyện trên, sáng ngày 12 tháng 3, tôi vào Đại Nội làm việc với ý định nêu vấn đề cải tổ Viện Cơ Mật lại với Bảo Đại. Nhưng chưa biết bắt đầu như thế nào?
“Tôi đang ngồi bóp trán suy nghĩ thì một nguời thị vệ vào nói: Dạ bẩm, Hoàng đế ban Cụ qua chầu có việc gấp. Tôi liền sang Phòng Phê thì Bảo Đại bảo thảo một đạo Dụ cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt Chính phủ Việt Nam độc lập giao thiệp với tối cao Cố vấn Nhật và các nhà chức trách Nhật nói chung. Thấy tôi làm thinh, tỏ vẻ không thông mệnh lệnh ấy, Bảo Đại nói thêm: Nếu ông thấy có chi khó khăn chi thì cứ đi bàn với ông Lại mà làm cho kịp thời. 
Sau phút ngập ngừng, tôi nói toạc ra với Bảo Đại rằng: Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi từng lớp nhân dân oán ghét và giới nhân sĩ trí thức khinh bỉ, mặc dầu ai cũng biết ông ta học rộng, nói hay cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu chuyện kéo dài hơn nửa giờ và cuối cùng Bảo Đại nói: Thôi! Hãy tạm cử Phạm Quỳnh cho dễ liên lạc với Nhật đã, rồi sau sẽ hay.


“Tôi trở về văn phòng thảo ngay một tờ Chỉ cử Lại Bộ Thượng Thư Phạm Quỳnh tạm thời làm nhiệm vụ liên lạc giữa Chính phủ Việt Nam độc lập với các nhà chức trách Nhật, đem lên cho Bảo Đại ký rồi sao lục ngay cho các Bộ và Tối cao cố vấn Nhật. Làm như vậy, tôi chắc rằng những chữ chỉ, tạm thời, và liên lạc thế nào cũng làm cho Phạm Quỳnh căm thù mình! Ấy thế nhưng sáng ngày 14 tháng 3, khi gặp tôi trong buổi lễ cáo yết Liệt Thánh, Phạm Quỳnh đã tỏ ra ngọt ngào với tôi hơn bao giờ hết. Và lúc buổi lễ kết thúc, ông ta thiết tha căn dặn tôi chiều hôm ấy trên đường đi vào Đại Nội, ghé qua Bộ Lại nói chuyện.


“Đúng hai giờ chiều, tôi ghé qua Bộ Lại, Phạm Quỳnh đón tiếp tôi niềm nở hơn trước nhiều và giữ lại nói chuyện hơn một tiếng đồng hồ. Nội dung câu chuyện xoay quanh tương lai tốt đẹp của Tổ quốc và tiền đồ vẻ vang của những người trí thức Âu-Á kiêm thông.”[5]


Đoạn hồi ký này rất quan trọng. Nó cho người ta thấy Hoàng Đế Bảo Đại lúc đầu chưa có ngay ý định thay thế Phạm Quỳnh và lập một chính phủ mới. Không những thế, ngay sau ngày 11 tháng 3, nhà vua đã có ý định bổ nhiệm Phạm Quỳnh thay mặt Chính Phủ độc lập trong việc giao thiệp với Tối Cao Cố Vấn Nhật và các giới chức Nhật khác bằng một đạo Dụ. Nhà vua đã tới văn phòng làm việc rất sớm, tới trước cả Phạm Khắc Hoè, để thực hiện quyết định này.
 Nhưng Phạm Khắc Hoè đã phá hỏng tất cả khiến cho ít ra một thời kỳ chuyển tiếp đã không được thực hiện và một tình trạng không chính phủ đã xảy ra từ ngày 19 tháng 3, ngày sáu vị thượng thư từ chức và được chấp nhận cho đến ngày 8 tháng 5, ngày nội các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên với đầy đủ các nhân sự để nhận lãnh công tác và Vua Bảo Đại có lúc “đã cuống lên” vi không kiếm ra được người lập nội các như lời kể của Hoàng Xuân Hãn,[6] trong khi tình hình đất nước vô cùng nghiêm trọng, có nhiều việc cấp bách cần phải làm.


Thành công bước đầu,Phạm Khắc Hoè sau đó đã làm một “tờ chỉ”, một văn kiện kém quan trọng hơn một “đạo dụ” rất nhiềuđể cử Phạm Quỳnh vào vai trò tạm thời nàynhằm hạ thấp vaitrò và uy tín của Phạm Quỳnh. Cho là chưa đủ, có lẽ vì cho tới thời điểm đó Phạm Khắc Hoè chỉ mới hành động do ý riêng của cá nhân mình do sự ghen ghét với Phạm Quỳnh sau “một đêm thao thức suy nghĩ..”, Phạm Khắc Hoè sau đó một mặt hỏi ý kiến Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Tân Việt kỳ cựu hoạt động cho Việt Minh ở Huế đương thời, sau này là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên rồi Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Thừa Thiên, mặt khác vận động với các thượng thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy để hai vị này thuyết phục Bảo Đại loại bỏ Phạm Quỳnh và “vận động toàn thể Cơ Mật Viện từ chức”.[7] 
Kết quả là sáng sớm ngày 17, Bảo Đại đã cho gọi Phạm Khắc Hoè qua phòng làm việc của mình, Phòng Phê, và ra lệnh cho ông này soạn thảo một đạo dụ theo đó “từ nay Trẫm sẽ tự cầm quyền và chế độ chính trị sẽ căn cứ vào khẩu hiệu Dân vi quý”.[8] Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945.


Tiếp theo đó là “ Khoảng 10 giờ sáng ngày 19 tháng 3, cả sáu vị Thượng thư vào yết kiến nhà vua đưa đơn xin từ chức” và đã được Bảo Đại chấp thuận.[9] Cũng nên để ý là theo hồi ký của Bảo Đại, trước đó Phạm Quỳnh có báo cáo cho nhà vua biết về những phản ứng xảy ra trong Hội Đồng, hiểu theo nghĩa ở đây là Hội Đồng Thượng Thư, theo đó người ta sợ hoặc là người Nhật sẽ đổi ý, hoặc là người Pháp sẽ trở lại, hoặc là Vua Duy Tân hay Hoàng Thân Cường Để sẽ trở về… 
Điều này cho phép người ta suy đoán rằng tình trạng hoang mang của các vị thượng thư này ngoài những tin tức liên quan đến tình hình thời đó, phần nào còn là do Phạm Khắc Hoè tạo ra qua hai Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy. Tuy nhiên, để trả lời Phạm Quỳnh, nhà vua đã dứt khoát bảo với ông này qua nguyên văn: “Ông liệu mà bảo họ chấm dứt những chuyện ăn nói lung tung và mưu mô đó đi… Hoàng đế là Trẫm! Bảo họ đừng quên điều đó. Nếu ngày nào Trẫm phải ra đi, ngày đó sẽ không còn Đế Quốc Việt Nam này nữa!”[10] Những sự kiện này và câu nói của Bảo Đại cho ta thấy một điều là ngay từ những ngày đầu nhà vua đã phải đương đầu với hoạt động của những người Cộng Sản xuyên qua người nằm vùng của họ, ngay trong Đại Nội bên cạnh nhà vua, là Phạm Khắc Hoè, nạn chống đối nhau trong nội bộ các quan lại cao cấp trong triều, đồng thời sự hiểu biết và thái độ cương quyết của ông.


Sự thù ghét và chống đối Phạm Quỳnh của Phạm Khắc Hoè
Câu hỏi được đặt ra là tại sao Phạm Khắc Hoè lại thù ghét và chống lại Phạm Quỳnh như vậy? Trong hồi ký của ông, Phạm Khắc Hoè không cho biết lý do mà chỉ nói rằng Phạm Quỳnh là một người “bản chất xấu xa và nguy hiểm”[11] nhưng người ta có thể suy đoán hai điều. Trước nhất là sự ghen tị của Phạm Khắc Hoè đối với Phạm Quỳnh. Sự ghen tị này bắt nguồn từ sự kiện là cả hai người đều là thân cận của Bảo Đại ở vào thời điểm này. 
Thêm vào đó, Phạm Khắc Hoè có gốc quan trường, được huấn luyện theo đường lối chính thống để làm công chức, quan lại với chức vụ trước đó là Quản Đạo Đà Lạt, một chức vụ cũ của Ngô Đình Diệm, còn Phạm Quỳnh không có gốc quan trường mà xuất thân là một nhà báo, một học giả tiếng tăm, bất ngờ được chuyển sang làm Ngự Tiền Văn Phòng rồi Thượng Thư Bộ Học và Lại. Tại sao lại cứ là Phạm Quỳnh mà không phải là Phạm Khắc Hoè? 
Thứ hai, Phạm Khắc Hoè vốn cùng quê với Tôn Quang Phiệt và có liên lạc với Tôn Quang Phiệt từ trước nên đã chịu ảnh huởng của Tôn Quang Phiệt, do đó đã trở thành nằm vùng cho Tôn Quang Phiệt. Nhất cử nhất động của vua Bảo Đại cũng như những gì xảy ra ở trong Đại Nội đều được Phạm Khắc Hoè kể cho Tôn Quang Phiệt nghe và hỏi ý Tôn Quang Phiệt hết. 
Sự kiện Phạm Quỳnh bị loại bỏ do đó phần nào có thể là do chủ trương và vận động của những người Cộng Sản hay thiên Cộng ở Huế lúc bấy giờ hay xa hơn nữa, y hệt như trường hợp của Trường Thanh Niên Tiền Tuyến do Phan Anh thành lập. Phạm Khắc Hoè chỉ là một nhân vật bị Cộng Sản lợi dụng qua Tôn Quang Phiệt mà thôi.[12] Nhưng dù đúng dù sai, hành động gièm pha, ngăn cản Vua Bảo Đại chính thức chỉ định Phạm Quỳnh vào chức vụ mới bằng một đạo Dụ và thay bằng một tờ Chỉ, rồi sau đó vận động với các nhân vật tai mắt ở Huế lúc đó, tiếp tục lung lạc nhà vua dẫn đến việc sáu vị thượng thư từ chức và tình trạng vô chính phủ đã xảy ra sau đó, khiến cho lịch sử Việt Nam diễn tiến theo một chiều hướng khác. Đây là khúc quanh thứ nhất trong thời gian ngắn ngủi chưa tới 4 tháng của năm 1945. 
Nếu không có sự thay đổi do Phạm Khắc Hoè chủ động gây ra này, guồng máy hành chánh của Chính Phủ Nam Triều từ trung ương đến địa phương vẫn tiếp tục hoạt động bình thường, không bị xáo trộn và người dân không bị hoang mang trong thời gian chuyển tiếp như Hoàng Xuân Hãn đã kể, chưa nói tới sự kiện Phạm Quỳnh đã bộc lộ thái độ lạc quan về “tương lai tốt đẹp” của Tổ Quốc và ‘tiền đồ vẻ vang” của những người trí thức Âu Á kiêm thông, vì đây là dịp nhà học giả này thực hiện những gì từ lâu ông vẫn ôm ấp và mong đợi, xuyên qua những bài viết của ông, không phải cho riêng cá nhân ông mà cho cả đất nước và dân tộc. 
 Nên nhớ Phạm Quỳnh lúc đó là Thượng Thư Bộ Lại là bộ đứng đầu lục bộ lo việc quản lý các quan văn ở trong nước và trước đó là Ngự Tiền Tổng Lý của Vua Bảo Đại nên ông nắm vững sinh hoạt hành chánh và nhân sự trong sinh hoạt này. Với Phạm Quỳnh trong vai trò liên lạc với người Nhật, việc chuyển giao nền hành chánh từ người Nhật sang người Việt sẽ chấm dứt sớm hơn và triều đình Huế có cơ hội nắm vững quyền hành hơn trước khi tình thế thay đổi, chưa kể tới việc thay thế các quan lại tham nhũng hay bất lực.[13] Đây là một điều đáng tiếc cho Vua Bảo Đại và Đế Quốc Việt Nam nói riêng và cho dân tộc Việt nam nói chung. Cuối cùng, để chính thức giải thích thái độ của mình đối với Phạm Quỳnh, Phạm Khắc Hoè viết:


“Thực ra, tôi không có oán thù cá nhân gì với Phạm Quỳnh và tôi nghĩ hắn có tội, thì sẽ bị nhân dân trừng trị. Khi nghĩ như vậy, tôi không ngờ rằng chỉ khoảng một tháng sau, Phạm Quỳnh đã bị đền tội trước nhân dân.”[14]
Qua đoạn văn này, Phạm Khắc Hoè không nói rõ Phạm Quỳnh đã bị đền tội như thế nào, bị bắt không thôi hay bị bắt rồi bị thủ tiêu và ông đã biết những gì về chuyện này.


Hoạt động cuối cùng của Phạm Quỳnh
Buổi họp chiều ngày 15 tháng 8, 1945 tại văn phòng Vua Bảo Đại với Nhà Vua, Phó Tổng Trưởng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Chương và Đại Nội Đại Thần Nguyễn Duy Quang.


Đây có thể là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Phạm Quỳnh gặp lại nhà vua và các giới chức khác trong Đại Nội từ sau khi ông từ chức cùng với Nội Các của ông, từ ngày 19 tháng 3 và người duy nhất nói tới buổi họp này là Phạm Khắc Hoè. Buổi họp diễn ra sau khi Phạm Khắc Hoè vào gặp Vua Bảo Đại để báo cáo với nhà vua về “tin Nhật đã đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện” vào buổi chiều ngày 15 tháng 8 và kéo dài từ khoảng 3 giờ 30 đến hơn 5 giờ. Lúc đầu chỉ có nhà vua, Trần Văn Chương và Nguyễn Duy Quang, sau đó Phạm Quỳnh mới tới do con trai ông là Phạm Bích đương thời làm việc trong Đại Nội dưới quyền của Nguyễn Duy Quang lấy xe của Đại Nội đón vào. Phạm Khắc Hoè không có mặt trong buổi họp này vì ông được nhà vua nhờ sang gặp Trần Trọng Kim để hỏi xem Trần Trọng Kim “có ý kiến chi trước tình hình mới không?” nên ta không biết nội dung là để bàn những gì? 
Phạm Khắc Hoè chỉ cho ta biết là trên đường từ dinh Tổng Trưởng Nội Các về “thì gặp trên cầu Tràng Tiền một chiếc xe ô-tô của Đại Nội trong đó có Phạm Quỳnh và con trai của ông ta là Phạm Bích làm việc ỏ Đại Nội dưới quyền trực tiếp của Nguyễn Duy Quang. Tôi liên tưởng ngay đến việc gặp Trần Văn Chương vào phòng Bảo Đại lúc tôi mới ra đi và đoán rằng, chắc trong khi tôi đi gặp Trần Trọng Kim thì ở Đại Nội bọn Trần Văn Chương, Nguyễn Duy Quang và Phạm Quỳnh đã họp với Bảo Đại bàn mưu tính kế trở về với chủ cũ là thực dân Pháp”. Hôm sau, ngày 16 tháng 8, Phạm Khắc Hoè lại kiểm chứng về buổi họp này bằng cách hỏi người thị vệ thuờng trực phòng làm việc của nhà vua, thì được người này cho biết là sau khi Trần Văn Chương vào chầu thì Phạm Bích lấy xe đi đón Phạm Quỳnh đến và họp hơn 5 giờ mới chấm dứt.[15]


Trần Đình Nam đề nghị bắt Phạm Quỳnh vào những ngày chót nhưng không được Vua Bảo Đại chấp nhận


Ý kiến bắt Phạm Quỳnh này được Trần Đình Nam, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Trần Trọng Kim, chia sẻ với Phạm Khắc Hoè, Nguyễn Hữu Thí và Trần Đình Nam vào một buổi tối, khoảng 20-7-1945, tại nhà Trần Đình Nam khi bốn người kiểm điểm “công tác của Nội Các Trần Trọng Kim trong hai tháng vừa qua” trong đó Trần Đình Nam yêu cầu mọi người phải“cảnh giác đối với cả bọn thân Pháp, cả bọn thân Nhật và nhất là vừa thân Nhật, vừa thân Pháp như loại Phạm Quỳnh thì lại càng vô cùng nguy hiểm…rồi hạ giọng nói nhỏ cho biết rằng Nam định bắt giam Phạm Quỳnh, vì bộ Nội vụ đã có nhiều chứng cớ về tội ác của Phạm Quỳnh trong thời thuộc Pháp, mà còn cả về âm mưu của nó hiện đang lo lót, chạy vạy với Nhật để hòng lên nắm quyền, làm tay sai cho Nhật.”[16]


Ý kiến kiến kể trên đã được Trần Đình Nam chính thức thực hiện vào cuối tháng 7 bằng một “tờ phiến”[17] của Bộ Nội Vụ gửi lên Vua Bảo Đại tâu xin bắt giam Phạm Quỳnh. Tờ phiến này đã được Phạm Khắc Hoè trình lên nhà vua để xin phê chuẩn nhưng Bảo Đại không làm theo mà bảo “hãy đợi vài hôm”, rồi ba hôm sau ra lệnh “tạm xếp việc ấy.”[18] Phạm Quỳnh đã thoát nạn nhưng chỉ trên dưới một tháng sau ông đã bị Việt Minh bắt và những người dân sống bên bờ sông thuộc làng An Cựu gần Biệt Thự Hoa Đường không bao giờ còn thấy bóng dáng quen thuộc của “Cụ Phạm”[19] nữa.


Kết Luận

Trong cuộc đời làm văn hóa cũng như trong cuộc đời làm chinh trị, Phạm Quỳnh có rất nhiều kẻ thù nhưng không kẻ thù nào nguy hiểm bằng những kẻ thù ông phải đương đầu trong thời gian từ sau Cuộc Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945 cho tới ngày ông và nội các từ chức, tức ngày 19 cùng tháng và luôn cả sau này nữa. Lý do là vì đằng sau những kẻ thù này là Đảng Cộng Sản với mục tiêu tối hậu của họ là cướp chính quyền từ tay Hoàng Đế Bảo Đại. Chưa hết, điều nguy hiểm hơn nữa nằm ở chỗ Phạm Khắc Hoè, cảm tình viên của họ, nằm vùng ngay trong Đại Nội và Tôn Quang Phiệt, đảng viên của họ, đã từ lâu hoạt động ngay giửa thành phố Huế. Họ đã thành công. Phạm Quỳnh không những chỉ bị giảm vai trò trong việc giao thiệp với Nhật mà còn hoàn toàn bị loại trừ. 
 Giữa lúc mọi người từ quan lại đến quần chúng nóng lòng mong đợi phản ứng của Vua Bảo Đại và của triều đình thì nhà vua đã phải đối phó với một khủng hoảng nội các kéo dài cho mãi tới ngày 8 tháng 5 khi Chính Phủ Trần Trọng Kim chính thức nhận lãnh trách nhiệm mới chấm dứt. Thời gian chuyển tiếp để nhà vua ổn định được tình hình ở trung ương cũng như ở địa phương đã bị rút ngắn khiến công việc thu hồi chính quyền từ trong tay người Nhật, kiện toàn nền độc lập cũng như thu hồi Xứ Nam Kỳ và các nhượng địa khác bị chậm lại, đặc biệt công tác cứu đói gặp trở ngại rất nhiều. Lịch sử Việt Nam cũng bị chuyển sang một hướng khác.

Phạm Cao Dương, TS
____
[1] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, Hồi Ký (in lần thứ ba, có sửa chữa và bổ sung).  Huế:  Nhà Xuất Bản Thuận Hoá, 1987, tr. 16-17. Đặng Văn Nhâm, “Nhân Ngày Giỗ Thứ 54 Cố Học Giả Phạm Quỳnh, Tìm Hiểu Cái Chết Oan Khiên, Bi Thảm Của Một Danh Tài Lỗi Lạc”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng. Silver Spring, MD: Ủy Ban Phục Hồi Danh Dự Phạm Quỳnh, 2001, tr. 254-255.
[2] S.M. Bao Dai.  Le Dragon d’Annam. Paris: Plon,  1980, tr. 105;  Bảo Đại,  Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản.  Los Alamitos, CA: Nhà Sách Xuân Thu phát hành, 1990, tr. 163.
[3]Nên để ý là cho tới thời điểm này Việt Nam bị Pháp bảo hộ nên quyền ngoại giao do người Pháp nắm giừ.  Vì vậy trong tổ chức triều đình không có cơ quan nào lo công tác này.  Phạm Quỳnh được Bảơ Đại muốn bổ nhiệm bằng một đạo dụ là vì thế.
[4] Thụy Khuê, Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn…, đã dẫn, tr. 128.
[5] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, tr. 18-19
[6]Thụy Khuê,  Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp. Westminster, CA:  Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2002, tr. 134-135.
[7] -nt-, tr. 20 và 24.
[8]  Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945 nguyên văn như sau:
 Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình sây nền thịnh vượng chung ỏ Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng
1)   Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’
2)  Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3) Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phuợng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:
“Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
“Nếu một khi nhà nước dùng được ngưòi tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.
 “Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”
Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết:
“Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.” Rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích:
 “Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời.  Đã lấy dân làm trọng. đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành.  Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới.”
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Theo ông:
“Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị”.
[9]   Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr.25.
[10]  Le Dragon d’Annam, tr. 105; Con Rồng Việt Nam, tr. 164.
[11] Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr. 20-21.
[12] Tôn Quang Phiệt (1900-1973), học Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, năm thứ hai, theo Tân Việt, bị đuổi, sang Trung Quốc cùng với Trần Phú , Vương Thúc Oánh…, bị Pháp bắt giam ở Hà Nội, sau được thả, trở thành đảng viên Cộng Sản và dạy ở trường Thăng Long ở Hà Nội, rồi Thuận Hóa ở Huế. Chính trong thời gian này Phạm Khắc Hoè đã được móc nối để trở thành nằm vùng trong Đại Nội. Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá thế. Từ Điển Nhân vật Lịch Sử Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa, 1999.
[13]  Về vai trò của bộ lại và các bộ trong triều đình Nhà Nguyễn, xin xem Võ Hương An, Từ Điển Nhà Nguyễn. Irvine, CA: Nam Việt Publisher, 2012, tr. 60.
 Về sự quan trọng và nhu cầu cấp bách của công tác Việt hóa guồng máy hành chánh ờ thời nàỳ, xin xem Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên.  Saigon: Nam Chi Tùng Thư xuấtn, Không rõ năm,  Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 34- 37.
[14] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, tr. 47.
[15]   -nt-, tr. 59-61.
[16]   -nt- , tr. 45.
[17]  Phiến là báo cáo của của Nội Các hay các bộ gửi lên nhà vua.
[18]  Phạm Khắc Hoè, tr. 46.
[19] Về danh xưng “Cụ Phạm”, xin xem: Nguyễn Phước  Bửu Tập, “Chiến Sĩ Ái Quốc Phạm Quỳnh”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng, đã dẫn, tr. 223

Wednesday, June 14, 2017


ĐẶNG PHÙNG QUÂN * TRIẾT TÂY

Triết Tây với nhà văn Đặng Phùng Quân

12May
Triết Tây với nhà văn Đặng Phùng Quân
Gió O
Nhà văn Đặng Phùng Quân vừa cho xuất bản tác phẩm Tẩu Khúc gồm những sáng tác văn và triết. Ông là một trong vài người hiếm hoi ở hải ngoại vẫn tiếp tục phong cách sáng tác theo hướng thấm đẫm Triết trong những tác phẩm của mình. Văn chương của ông sang, uyên bác. Những sáng tác của ông, người đọc phải có một trình độ nào đó mới lĩnh hội được. Giới trí thức tìm thấy ở mỗi sáng tác của ông một thách đố trí tuệ. Đặc biệt trong cách ông xử dụng kiến thức và ngôn ngữ.
Nhà văn Đặng Phùng Quân nguyên giáo sư Triết Tây và khởi sự viết từ Miền Nam trước 1975

Gió O: Giáo sư là một người nghiên cứu triết Tây lâu năm, xin giáo sư cho biết tại sao người ta cần phải học biết Triết Tây.
Đặng Phùng Quân: Triết học phương tây quả thực vẫn là một lãnh vực văn hóa xa lạ với người  phương Đông nói chung. Trong cuốn “Văn chương và Lưu đày” , tôi có nhắc đến  một nhận xét của Czeslaw  Milosz. Về “những cư dân  ở nhiều nước (Đông)  Aâu mới buồn bã nhận ra rằng số phận của họ bị định đoạt trực tiếp bởi những cuốn sách triết học”. Những quyển sách triết học mà Milosz nói đến là kinh điển Mác Lê của người cộng sản. Triết  học  có thực sự biến thành hành động biến đổi thế giới ?  Câu tiên tri của Marx đã trở thành  lời nguyền đeo đuổi nhân loại suốt một thế kỷ qua. Chống Marx hay theo Marx, nếu không hiểu Marx thì cũng giống như những tín đồ ngoan đạo, ngu dốt và cuồng tín (những đảng viên cộng sản là thế !). Chỉ lấy một ví dụ là Marx để minh thị việc hiểu biết triết học thật cần thiết trong cái thế giới tăm tối hiện tại. Khủng bố, chống khủng bố, xe bom tự sát, v.v.. há chẳng phải vì người ta hiểu khá sơ thiển về falsafâ, về triết học Islam sao ? Tôi không chủ trương chỉ hiểu biết triết học phương Tây, mà phải lãnh hội cả triết học phương Đông, điều này tưởng như  quá cũ, nhưng thật sự vẫn còn lẩn quẩn trong cái vòng mê lầm. Chẳng hạn cái động từ  eimi trong ngôn ngữ hy lạp để chỉ hiện hữu/l’être –  vấn đề cơ bản của triết Tây có nghĩa là sống, thở , lấy từ tiếng cổ esmi, gần với phạn ngữ asmi, hay đức ngữ atmen, phải chăng cũng là atman trong triết Aán để chỉ cái ngã, sự sống, thở của thế giới…. 
Gió O: Cãi cọ và bế tắc. Có phải đây là hai điều bí mật và hấp dẫn nhất của Triết Tây.
ĐPQ: Trong những phạm trù cơ bản của khai phá tư tưởng là tranh biện/dispute/querelle (bạn muốn gọi nó là cãi cọ cũng được), bởi triết lý luôn luôn có tính gây hấn, anh có muốn an vi cũng chẳng đặng, ở cái chuyển biến/sinh thành tất yếu của nó đã có xung đột thì phải dẫn đến bế tắc (tranh luận là dồn đối thủ vào chỗ đường cùng/impasse – có khác chăng là cái khác biệt giữa người mác-xít và không mác-xít ở chỗ một đằng tranh công cho chân lý, một đằng tranh thủ  quyền lực, một đằng tìm ra lẽ sống vĩnh hằng, một đằng dẫn đến cái chết; nói cho công bằng, Giordano Bruno cũng chết trong cái nhiễu nhương của thời Đổi Mới, Chống-Đổi Mới ở cuối thế kỷ 16). Cái bế tắc cốt cán  là cáo chung của triết học. Cho nên tôi từng bàn đến vấn đề cáo chung của triết học mang hai ý nghĩa, một là hoàn tất nhiệm vụ của triết học, hai là tận cùng của triết học. Những triết học có tham vọng hệ thống thường toan tính hoàn tất nhiệm vụ triết học, chẳng hạn như triết học Hegel và kế thừa nó là chủ nghĩa Mác. Triết học đi tới tận cùng có nghĩa là đã vận dụng hết những khả năng của văn hóa, cũng có nghĩa là cáo chung của nhân loại. May thay, đó vẫn còn là một thách đố mở ngỏ. Cho nên con đường triết học vẫn còn dài, người ta vẫn cần triết lý.. .
Gió O:  Hoặc nó là một món ăn tinh thần cực kỳ hào nhoáng cần thiết ?
ĐPQ: Triết học có thể như văn chương, nghệ thuật không nhỉ ? Không, nó không hấp dẫn giác quan con người để ngấu nghiến hưởng thụ. Nó có thể là độc dược, là thuốc phiện và cần phải có một hành cung tri thức để tiếp cận.
Gió O: Giữa thực tế và lý luận, sự nguỵ biện làm nên đời sống, nên tôn giáo, nên triết lý, nên khoa học vv. .vv chăng ?
ĐPQ: Ngụy biện (sophistique)  vốn là khởi sự của lý tắc. Tự nó, đã là vấn đề phương pháp luận để đi vào triết học. Ở thời  cổ đại với Platon khi triết lý đã tập đại thành để có những tác phẩm lý luận tương đối hoàn bị, vị trí của ngụy biện đã được xác định như ngay trong thiên đối thoại Người ngụy biện của Platon với khái niệm genei gennaia sophistikê (dt, 231b). Nhà ngụy biện ví như cái tôi khác/alter ego của nhà triết học, hiểu như cái mặt xấu (như vậy há chẳng phải có lý luận thâm nhập thực tế là có hai mặt của thần Janus ?  bất kỳ triết gia nào cũng có thể nhìn dưới hai góc độ, soi rọi dưới lăng kính xấu thì gọi tên là phi lý, là xét lại, là phản động..). Triết gia với nhà ngụy biện ví như chó với sói, một đằng là thuần thục nhất, một đằng là man dã nhất. Nhưng ai là sói, ai là chó ?
Người ta có thể đặt vào miệng nhà ngụy biện lừng danh nhất thời cổ đại hy lạp Protagoras một diễn ngôn bất hủ: “Người là thước đo mọi sự”. Đó không phải là chân lý sao ?  Từ đó mới có những Giê-su, Thích Ca  v.v… của tôn giáo, những Pythagore, Einstein, Heisenberg v.v… của khoa học, bởi mọi lý sự có thể là đúng, mọi hiện tượng có thể là thực.
Ở thời hiện đại, cứ lấy một ví dụ là triết học Heidegger chẳng hạn, trong hai con đường triết lý nơi ông, giống  như  Aristote, mộ đằng là công truyền ,một đằng là mật truyền. Trong những giảng khoa chỉ được in ra vào cuối đời, tại sao đã giải luận về Ngụy biện, lại bổ sung bằng giải luận về Parménide – từ đó đã soi sáng việc dẫn thiên Ngụy biện làm đề  từ cho tác phẩm “Sein und Zeit” mở đường cho một khai phá vấn đề tiếp cận ý nghĩa/ngữ nghĩa của hữu thể/die Frage nach dem Sinn von Sein. Ở một tư trào đương đại thực chứng như  Karl-Otto Apel, ý nghĩa, thuận nghĩa, loại trừ được coi như những (tiêu chí) tiên nghiệm của cộng đồng thông giao. Như vậy, chỗ nào là chân lý, chỗ nào là ngụy biện. Một triết học khái niệm khác như  nơi Gilles Deleuze chẳng phải cũng dựng trên cơ sở ngụy biện khi ông coi những khái niệm quan yếu, tất yếu, lợi yếu có tính quyết định hơn cả khái niệm chân lý, chẳng phải vì chúng thay thế chân lý, nhưng vì chúng đo lường chân lý thông qua những điều gì con người ta nói.
Cái tương đối thể hiện bàng bạc trong mọi điều nói, nghĩ và làm như thế. Cho nên không phải  đồng nhất, mà khu biệt mới là chủ. Triết học Marx, chủ nghĩa Mác tưởng là vô địch, không thể vượt (hồ đồ khẳng định như  Sartre)  đã tàn cuộc vào cuối thế kỷ..   
Gió O:  Trước sự thất bại của Karl Marx và chủ nghĩa Cọng Sản của Tây Phương, giáo sư có nghĩ nhân loại học được bài học nào không hay vẫn thấy cần phải phiêu lưu vào những triết thuyết mới .
ĐPQ: Như đã nói ở trên, một triết học như kiểu Marx đã làm chỗ dựa cho một chủ nghĩa, một chế độ, thậm chí toan tính xây thành một thế giới mới, con người mới, một nền văn hóa khác có nghĩa là đi đến chung cuộc, rốt cuộc phá sản. Đứng trước một thực tế như vậy, chẳng trách gì bạn hoài nghi có “cần phiêu lưu” vào những triết thuyết mới ?
Khởi sự của triết lý, không có những chủ nghĩa. Chỉ có những người hoang tưởng mới nghĩ đến lập thuyết trước khi biết tư duy. Những đầu óc như vậy chỉ hạn chế trong việc lập bang hội tổ chức thì được, chứ không phải là những nhà tư tưởng. Trong công việc đi tìm cơ sở tư tưởng thời quá độ, tôi muốn chỉ ra cơ bản của triết lý là làm sao tư duy và định hướng tư duy. Những tranh biện với những triết thuyết mới là điều kiện tiên quyết của thông giao tư tưởng
Gió O:  Thuần lý có đang trở thành một điều qúa vãng. Thời đại thông tin ngày nay, con người đòi hỏi kiến thức và thực hành phải đi liền ngay lập tức với nhau ? 
ĐPQ: Thuần lý nhắc người ta nhớ đến một định thức nổi tiếng của Hegel: thuần lý là cái thực – hiểu theo cả hai chiều, nghĩa là cái gì  có lý thì là thực, hoặc ngược lại cái gì thực thì hợp lý; điều này hiển nhiên nguy hiểm vì nó dẫn đến cái tuyệt đối bất khả và chuyên chính. Mọi chế độ độc tài dùng nó để áp đặt quyền lực  lên quần chúng, mọi tôn giáo dùng nó để đưa con người vào mê lộ cuồng tín
Thuần lý thực sự đã chứng tỏ mất quyền lực và tỏ ra bất lực, như Dominique Janicaud nhận xét trong việc quản chế đam mê và cuồng vọng của con người trong thế kỷ XX vừa qua, trong việc quản lý những Quốc gia và hướng dẫn hành tinh này về một nền hòa bình dứt khoát bền vững, điều khiển tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng bản chất cũng như những quan hệ với hiện hữu và những giá trị.
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là tiêu chí của mọi triết thuyết, nhưng cũng chứng tỏ  cái bất khả thi. Chủ nghĩa Mác là một ví dụ. Có những nan đề vẫn còn phải giải quyết, và đó là lý do tại sao triết học vẫn trên con đường tìm kiếm.
Dẫu sao, ở vào thời đại khoa học kỹ thuật cao cấp, cái quan niệm “kỹ thuật quyết định hết thẩy” (La technique décide de tout)  đã dẫn con người tới những mê lộ.. Chức năng của triết học là hủy tạo những mê lộ.
Gió O:   Giáo sư đã từng dạy nghiên cứu và dạy triết ở Miền Nam trước năm 1975, giáo sư nghĩ mang môn triết vào trung học thời đấy là một may mắn hay là một điều kém may mắn. Nhạc Trịnh Công Sơn đã từng rất triết lý ủy mị và đã tạo nên phong trào phản chiến trong giới thanh niên là một ví dụ.
ĐPQ: Chương trình giáo dục ở miền Nam trước 1975  mô phỏng chương trình của người Pháp, nên có môn Triết ở năm cuối bậc Trung học. Những cái khó khăn và thuận lợi cũng tương tự  như  chương trình giáo dục của Pháp. Nếu có khác, đó là nước Pháp đã có một truyền thống triết học mấy trăm năm, trong khi môn triết  ở chương trình trung học Việt vẫn rập khuôn chương trình của Pháp, đào tạo giảng huấn không đồng bộ nên khá nhiều nhược điểm. Trong “Triết học/phi triết học”  (xem trên gio-o), tôi có nhắc đến câu hỏi “ai sợ triết học” là đầu đề của những tranh luận về dạy triết tại bậc trung học; vấn đề đó không giới hạn về mặt lý luận mà liên quan đến cơ chế tổ chức đào tạo, vấn đề nghề nghiệp xã hội và đội ngũ giảng dạy v.v..
Triết học có xâm nhập “thực tế”? và xâm nhập như thế nào? Cũng là một vấn đề chính trị xã hội. Tuy nhiên về cơ bản, vị thế của triết học có thể đã được tranh luận ngay từ thời cổ đại, như  tranh biện giữa Socrate và Calliclès trong thiên Protagoras. Triết học phải chăng trói buộc  con người lại trong tình trạng niên thiếu mãi mãi ? Và thất thố trước chính trị ? giống như Socrate không thể tự biện hộ trước tòa án của quyền lực ?
Tôi không tin tưởng những “phong trào phản chiến” trong thời cuộc chiến Việt nam tự phát từ con người biết nghĩ.  Đằng sau cuộc xuống đường “phản chiến” là bóng dáng một Thượng nghị sĩ  Mĩ, hay hiện diện của một cán bộ trí vận. Tôi cũng không nghĩ âm nhạc vào tác động cuộc chiến, người mình thường tin vào mấy cái chuyện tích Tàu như  tiếng sáo Trương Lương làm rã ngũ lính Sở; thật sự chỉ đặt để nói chơi.. .
Gió O:  Giáo sư có thể nói về sự giới thiệu triết vào Miền Nam thời tiền 1975. Trong khi đó Miền Bắc thời tiền 1975 đã cuỗm ngay một anh Tây Karl Marx về áp đặt. Ảnh hưởng của Triết Tây trên Việt Nam như thế cũng nặng lắm, di sản triết Tây trên Việt Nam sẽ còn lại những điểm nổi bật nào ? 
ĐPQ: Sự bất hạnh của cả hai miền là đưa những hệ tư tưởng bất toàn vào xã hội chính trị. Rốt cuộc, những sở tri bất túc..
Gió O:  Giáo sư  có viết cho Tạp chí văn học Vấn Đề ngày trước do giáo sư Vũ Khắc Khoan chủ trương . Giáo sư  có thể nói lại vào kinh nghiệm của mình với giai đoạn văn chương Miền Nam thời ấy ?
ĐPQ: Tạp chí Vấn Đề có một bản sắc riêng của nó vào lúc bấy giờ: trong khi tạp chí  Văn chú trong đến giới thiệu thơ, văn, tạp chí Bách Khoa ở tầm phổ thông thì Vấn Đề là sân chơi của văn chương và triết lý. Cho nên tôi nhớ đã viết những bài như triết học của Merleau-Ponty, vấn đề sinh học của Jacques Monod, bàn về Sáng tạo thơ v.v.. ở góc độ chuyên sâu đăng trên tạp chí này. Bài viết xong thì ghé qua tòa soạn Văn, gửi vào ngăn thư của Vấn Đề, chẳng bao giờ gặp hay bàn soạn gì với các ông Chủ nhiệm, Chủ bút cả. Còn kinh nghiệm ?  những người viết cái mới bao giờ chẳng tự nhủ: viết (cho) không một ai.
Cám ơn nhà văn Đặng Phùng Quân

GS.PHẠM ĐƯC LIÊN * TRẦN HƯNG ĐẠO

"Hưng Đạo Đại Vương" Trần Quốc Tuấn đại thắng quân Mông Cổ
Phạm Đức Liên, EdD


A. Dẫn nhập:
    * Thành Cát Tư Hãn (Chinghis Khan, 1162-1227) là người sáng lập đế quốc Mông Cổ (Mongol Empire). Cháu nội ông là Hốt Tất Liệt (Kublai Khan, 1215-1294, trị vì 1260-1294), năm 1266 tôn vinh ông là Nguyên Thái Tổ của triều đại nhà Nguyên (Yuan Dynasty, 1271-1368). Hốt Tất Liệt là một đại danh tướng: oai phong lẫm liệt (the great military feat in the world history).
    * Kỵ binh Mông Cổ - đánh Tây (Tây Hạ, 1227), dẹp Bắc (nước Kim 1234)... Vó ngựa của họ gây khiếp sợ khắp Trung Á và Đông Âu - và chuẩn bị tiến chiếm nhiều quốc gia ở Miền Nam: xâm lược Đại Lý (Vân Nam, 1254) - Đại Việt , 1258... Thế nhưng...

B. Nhà Trần (1225-1400): 3 lần chiến thắng quân Mông Cổ:

    I. Đại Việt đại thắng quân Nguyên lần I (1258):
        1. Tháng 1 năm 1258, với 45,000 quân, và kế hoạch tiến nhanh/đánh nhanh trong 2 tuần lễ, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Vriyangqatai, 1200-1271) - tiến quân vào Đại Việt (lãnh thổ nước ta lúc đó chỉ là châu thổ Sông Hồng) theo hướng sông Chảy và chiếm được thành Thăng Long!. Xin nhắc lại: quân mông Cổ rất giỏi về kỵ bịnh (ngựa).
        2. Vua Trần Thái Tông (1218-1277, trị vì 1225-1258) đích thân chỉ huy cuộc tổng phản công - cùng các tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Thủ Độ... và 100,000 quân (bộ binh, kỵ bịnh, tượng binh và thủy binh). Đại Việt toàn thắng quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu và truy kích địch quân trên đường tháo chạy về Vân Nam (sông Thao).
        3. Trong lúc phản công, có lúc vua Trần xuống tinh thần!, Trần Thủ Độ tâu:
        "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo...".
        4. Chiến tranh "Nguyên - Việt" lần thứ nhất kéo dài gần một tháng. Đồng bào thiểu số (minorities): người Dao (Yao), Miêu (H'Mong) ... đóng góp rất nhiều trong cuộc chống quân xâm lược Bắc Phương.



    II. Đại Việt thắng quân Nguyên lần II (1285) và Trần Hưng Đạo:
        1. Năm 1283, quân Nguyên do tướng Toa Đô (Sogetu) đánh chiếm Chiêm Thành (Champa). Vua Trần Nhân Tông (1258-1308, trị vì 1278-1293) cho chiến thuyền qua giúp vua Chiêm. Tháng 1 năm 1285, chủ tướng Thoát Hoan (Toghan) bằng đường bộ tiến vào Đại Việt: uy hiếp Thăng Long (theo ngả sông Chảy) và Vạn Kiếp (ngả Lạng Sơn). Đồng thời Thoát Hoan ra lệnh cho Toa Đô, Ô Mã Nhi (Omar) từ Chiêm Thành mà đánh ra Bắc tạo thế gọng kìm hòng tiêu diệt Đại Việt. Tổng số quân Nguyên trong trận nầy (1285) là khoảng 500,000 binh lính.
        2. Tháng 2 năm 1285, vua Trần triệu tập Hội Nghị Diên Hồng và toàn dân quyết chiến. Vua Trân giao cho Trân Hưng Đạo (1228-1300) chỉ huy lực lượng Đại Việt (cuộc chiến diễn ra cả Bắc Việt và Bắc Trung Phần). Trần Quốc Tuấn thừa lịnh vua - viết Hịch Tướng Sĩ: "...điều quan trọng là chiến thắng sau cùng!". Khí thế dân quân cao vời vợi, binh sĩ tự nguyện xâm vào tay hai chữ Sát Thát (Sát = giết, Thát = Thát Đát = Mông Cổ). Các danh tướng của ta là Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái... Trần Hưng Đạo cho quân phục kích những nơi hiểm yếu (đóng chốt): Lạng sơn, Bắc Giang (Tổng Hành Dinh quân Đại Việt)... tiến hành du kích chiến trong giai đoạn đầu.
        3. Vẫn nguyên tắc: tiến nhanh (quân mã Mông Cổ) đánh nhanh và thắng nhanh - Quân Mông Cổ tiến nhanh như vũ bảo. Trần Hưng Đạo ra lịnh rút lui để bảo toàn chủ lực và tiêu thổ kháng chiến (vườn không nhà trống !). Đại Việt lui quân về Vạn Kiếp cả ngàn chiến thuyền - để rồi Vạn Kiếp cũng phải di tản chiến thuật. Thoát Hoan vào Thăn Long ăn mừng chiến thắng - rồi ra đóng trại ở bờ bắc sông Hồng. Trần Bình Trọng bị giắt bắt và giết sau đó!. Vua Trần rút về Thiên Trường (Nam Định), Trường Yên (Ninh Bình) - lại bị Toa Đô tiến quân ra Quảng Bình, Nghệ An rồi Thanh Hóa. Trần Hưng Đạo lui về Nam Ninh cứu vua!. Đại Việt và quân Nguyên đánh nhau đã 5 tháng, tinh thần địch quân bắt đầu có phần suy yếu và nhất là thiếu lương thực...
        4. Tháng 6, 1285, Trần Quốc Tuấn ra lịnh tổng phản công, quyết tâm trở lại Vạn Kiếp rồi dọc theo sông Hồng mà trở lại Thăng Long. Toa Đô bị quân Đại Việt chém chết, thủ cấp được trình lên vua Trần!. Rồi Đại Việt truy kích quân Nguyên trên bờ Bắc sông Hồng. Ở đây, Trần Quốc Toản đền nợ nước nhưng Thoát Hoan phải chui ống đồng để trốn thoát!. 500,000 quân Mông Cổ đầu tháng 1 năm 1285 chỉ còn lại 50,000 sau cuộc chiến lần hai! (thủy binh hầu như bị quân Trần tiêu diệt toàn bộ. Ô Mã Nhi thoát chết).



    III. Đại Việt toàn thắng quân Nguyên lần III (1288) và "Hưng Đạo Đại Vương" Trần Quốc Tuấn:
        1. Cho dù là một đạo quân "bách chiến bách thắng" thế nhưng lần xâm lăng Đại Việt (1285) 10 phần chết 9 còn 1 (chỉ còn 50,000 trong số 500,000 quân xâm lăng!) Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ mộng tái chiếm nước ta. Với 100,000 quân tinh nhuệ, tướng lãnh chỉ huy sắc bén (sharp) và 500 chiến thuyền và 100 tàu vận tải lương thực do Ô Mã Nhi và Trương Văn Hổ cầm đầu. Thoát Hoan lại tiến chiếm Đại Việt: Chủ yếu là Vạn Kiếp, Thăng Long (trên toàn lãnh thổ Bắc Việt).
            *Kỵ, tượng, bộ binh tiến vào châu thổ sông Hồng bằng 2 ngả: từ Vân Nam dọc theo sông Thao để dứt điểm Thăng Long và từ Quảng Tây dọc theo sông Lục Nam mà chiếm Vạn Kiếp để rồi tây tiến, vào Thăng Long. Quân Thoát Hoan vượt biên giới chiếm Lạng Sơn ngày 25 tháng 12 năm 1287, vào Vạn Kiếp đầu tháng 1/1288.
            * Từ Quảng Đông, chiến thuyền của Ô Mã Nhi ra khơi theo bờ biển Móng Cái mà vào Bạch Đằng Giang rồi sẽ tiến lên Vạn Kiếp, Phả Lại!. Đầu tháng 2, 1288, quân Nguyên đánh Thăng Long, không vào được.
        2. Trần Nhân Tông là 1 trong những ông vua anh minh nhất của dân tộc là Tổng Tư Lịnh tối cao. Hưng Đạo Đại Vương làm Tổng Chỉ Huy quân đội (commander - in-chief) cùng 300,000 quân chung một lời thề xưa của danh tướng Trần Thủ Độ.
            * Trước tiếng vó ngựa nổi tiến vô địch của quân Mông Cổ - Hưng Đạo Đại Vương sai các tướng đóng chốt: bắc (Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái ở Lạng Sơn...), nam: (Lê phụ Trần tại Thanh, Nghệ Tĩnh...) e rằng quân Nguyên đánh gọng kìm như năm 1285. Tổng hành dinh của ngài đóng ở Quảng Yên. Những ngày đầu cuộc chiến, như nước vỡ bờ, hầu hết các chốt bị quân địch tràn ngập. Hưng Đạo Đại Vương phải rút về Đồ Sơn (Hải Phòng). Lúc Thoát Hoan bao vây kinh thành, hoàng đế Trần Nhân Tông dùng hải quân đi vào Thanh Hóa. Tình hình nguy ngập và Hưng Đạo Đại Vương sai sứ giả qua xin giảng hòa cùng Thoát Hoan! Worried to Death!..
            * Thế rồi khí thiêng sông núi, hồn thiêng dân tộc (cụ thể là Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản... ) đã phù hộ Đại Việt: đoàn tàu vận tải lương thực của địch bị danh tướng Trần Khánh Dư đánh tan ở Vân Đồn... Cũng là lúc Đại Việt tổng công kích trên khắp chiến trường. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về Vạn Kiếp để rồi cuối tháng 3 năm 1288 bại tướng Thoát Hoan ra lịnh rút quân bằng đường bộ (Lạng Sơn) và thủy binh do Ô Mã Nhi (sông Bạch Đằng). Xin lưu ý: địch bao vây Thăng Long nhưng không vào được.
            * Đầu tháng 4 năm 1288, Trần Nhân Tông và  Hưng Đạo Đại Vương trực tiếp đánh tàn quân Ô Mã Nhi ở Bạch Đằng Giang bằng những cọc nhọn và chờ nước thủy triều rút xuống (ông đã thực hiện đúng bài bản của Ngô Quyền năm 938): 400 chiến thuyền của quân Nguyên bị tan nát! Bộ binh địch bị truy kích ráo riết và trung tuần tháng 4, 1288 mới rút được về nước (Vân Nam). Đại Việt toàn thắng quân Mông Cổ.
        3. Đoàn tàu chở lương thực của quân Nguyên bị tiêu diệt ở Vân Đồn là một khúc rẽ của lịch sử Đại Việt (turning point of Tran Dynasty). Không có thực phẩm thì làm sao mà Thoát Hoan điều binh khiển tướng!. Hốt Tất Liệt băng hà năm 1294 là khúc rẽ thứ hai.
        4. Chiến tranh "Đại Nguyên - Đại Việt" lần thứ 3 kéo dài trên ba tháng (cuối tháng 12,1287-đầu tháng 4,1288). Thủy binh địch hoàn toàn tan rã (400/500). Kỵ binh địch mười phần chết sáu còn bốn (chỉ còn 40,000 trong số 100,000 quân). Thắng thì thắng, thế nhưng vì là nước nhỏ nên hoàng đế Trần Nhân Tông : viết thơ cầu hòa và tặng phẩm đến Hốt Tất Liệt. Âu cũng là nhân tình thế thái: La raison du plus fort est toujours la meilleure!.



C. Lời kết:

    * Tiếng vó ngựa của đoàn quân viễn chinh Mông Cổ (trong đó có nhiều binh sĩ gốc Hán/Trung Quốc - bằng chứng là tướng Phàn Tiếp...) vang dội cả một bầu trời rộng lớn Á Âu (đến tận Ba Lan, Hung Gia Lợi...) gần suốt 2 thế kỷ 13, 14. Ấy thế mà - tiếng ngựa hí của đoàn kỵ binh đó - đã không thể vang lên ở bầu trời Rồng Tiên (children of the Dragon and Fairies )!
    * Vì sức mạnh của Hội Nghị Diên Hồng (tháng 2/1285) do vua Trần Nhân Tông triệu tập: "Quyết Chiến để Quyết Thắng". Dân quân Đại Việt đã thắng!.
    * Ý dân là ý trời: 95 triệu dân Việt Nam Lục Địa đang thèm khát bốn chữ "Dân Quyền, Chủ Quyền". Chúng tôi xin muơn bài thơ Rừng Bạc Biển vàng của "Lão Hạc Mây Tần" thay cho phần kết. Đa tạ.

Rừng Bạc Biển Vàng

Lão hạc Mây Tần

 1. Tôi yêu nước Việt lạ lùng,
Yêu từng ngọn núi - đến vùng biển Đông
2. Yêu qua châu thổ sông Hồng,
Là nơi ấp ủ - con Rồng cháu Tiên
3. Yêu vạn nẻo - yêu triền miên,
Trường Sơn lừng lững - rồi xuyên sơn hà
4. Ngọt thơm dòng nước La Ngà,
Cửu Long hồng thắm - núi Bà Tây Ninh
5. Bao cô thôn nữ duyên xinh,
Sông Hương núi Ngự - lung linh cho đời
6. Xiết tay - gìn giữ biển khơi,
Đánh quân xâm lược - tời bời - tim gan
7. Vững tâm - bảo vệ gian san,
Bao nhiêu tấc đất - tấc vàng ngàn sau.
8 Quyết tâm - bám trụ biển sâu,
Bao nhiêu thước biển - tấn dầu Lạc Long

Silvery forests, golden sea

1. We love Vietnam tremendously,
Love every each mountain - through Eastern Sea.
2. This beautiful strip of land, Red river delta - We love them all,
Cradle we swing - Dragons, Fairies we decend upon.
3. Loving with all our hearts - endearing non-stop,
Truong Son range - gigantically rising above, branching every passes.
4. Sweet - favored water from La Nga - the sparking stream,
Mekong river - the black virgin mount Tay Ninh.
5 From distant villages - Thousands of pretty young girls,
Perfume river, Ngu Binh mountain - enhance our good life.
6. Joining hands - We take care our fort,
We fight the aggressors and bleed their hearts.
7. Bravely, triumphantly - we protect our country,
Numerous feets of land turn to gold pieces - for the upcoming thousand years.
8. Full of efforts - under our deep sea,
Unmeasureable volumes of water - Lac Long millions barrels of oils !



Chicago, Dec 29/2015
(snow turned to sleet!)
Phạm Đức Liên, EdD
Nguyên Giáo Sư Sử Địa các trường trung học Trịnh Hoài Đức Bình Dương, Nguyễn Trải Sài Gòn và các trường tư.

DƯ THỊ DIỄM BUỒN * CON CÒN NỢ BA



CON CÒN NỢ BA
“Tưởng nhớ ba tôi trong mùa báo hiếu từ phụ”
                                                       
DTDB


Ba ơi, sắp đến ngày báo hiếu từ phụ rồi! Con nhớ quê hương mình không có ngày lễ báo hiếu từ mẫu “Mother’s Day” hay ngày báo hiếu từ phụ “Father’s Day” như cái xứ con đang tạm dung đó ba!
Con biết ba sẽ cười hiền lành, mà bảo với con gái của mình rằng:

- Con bé nầy nhiều chuyện và rườm rà quá đi… Bởi ở xứ mình cha mẹ hàng ngày chạy gạo cho cả nhà mở con mắt không lên… thì còn có tâm tình gì mà nghĩ đến ngày báo hiếu, báo ơn cha mẹ con ơi. Công ơn cha mẹ với bổn phận làm con không chỉ có ngày đó thôi đâu con à, mà nó suốt cả cuộc đời. Nhớ lúc đi tu nghiệp ở Mỹ, ba cũng biết ngày lễ báo hiếu từ mẫu hay từ phụ chớ. Bên dó, tới ngày lễ nếu con cái ở gần thì đưa cha mẹ đi ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều… ở xa thì mua gởi cho cái áo, cái khăn, hay gởi cho mấy chục đồng... nếu con cái khá có tiền thì được một trăm, hay nhiều hơn tùy hoàn cảnh gia đình của họ. Theo ba nghĩ thì công ơn cha mẹ sanh thành dưỡng dục như núi Thái, như đại dương vô bờ vô tận… chớ đâu chỉ có mấy ngày vậy thôi đâu con…


Ba à, con sẽ vùi đầu vào ngực, ôm chầm lấy vai ba mà nhỏng nhẻo, mà nũng nịu và thỏ thẻ nói với ba rằng:
- Ba ơi, theo con biết, mỗi năm xứ người có ngày báo hiếu là để gợi nhớ, để hâm nóng, để nhắc nhở lòng tôn kính, thương yêu, hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Đó cũng còn tùy thuộc vào tâm tình và hoàn cảnh của mỗi gia đình và mỗi người nữa ba. Còn con thì ba đừng có lo nghe! Con nhớ thương và kính yêu ba dài dài, nhớ đều đều, nhớ cho đến ngày lìa bỏ cõi đời nầy... trong lòng con sẽ không hề lạt phai thương kính ba chút nào hết đó ba!

Nhìn những cánh hải âu bay lượn giỡn đùa, cùng tiếng kêu vang vang của chúng trên trời cao, và những cây mọc trong nước sát mé bờ, có nhánh gie ra ngoài… Trên cành có tổ chim, mà chim mẹ đang đút từng miếng mồi nhỏ vào miệng lũ chim con… Nghĩa cảm thấy buồn nao cõi lòng, và thở dài nghĩ ngợi... bất chợt hồi ức lại quay về...

Cho đến bây giờ thật sự tôi cũng chưa biết mẹ mình là ai? Có thể mẹ tôi đã qua đời rồi chăng? Cũng có thể vì hoàn cảnh nào đó bà không nhận con? Có thể, có thể, và có thể lắm… Bao nhiêu nguyên nhân khiến tôi nghĩ và đặt câu hỏi trong đầu? Nhưng từ nhỏ đến giờ tôi vẫn không có câu giải đáp! Vì chưa bao giờ tôi được gặp và biết mặt mẹ mình! Cho đến khi tôi biết đánh vần chữ “Mẹ, Má” và khi tôi biết nhận xét, khi tôi hiểu, khi tôi biết nghĩ suy, và biết tủi than... khi thấy và biết mọi người, mọi sinh vật cho đến cỏ cây hoa lá... sống trên thế gian nầy đều có mẹ!


Bởi mẹ bỏ Nghĩa (tôi) cho nội, khi con bà chưa tròn 2 tuổi! Ngôi nhà cũ trống không của ông bà để lại, là di vật cuối cùng của gia đình cũng bị giặc tịch thu lấy làm chỗ hội họp cho đám thanh niên trong phường.
Họ bảo đó là nhà của“Ngụy quân” cho nên bà cháu tôi bao nhiêu năm ở trong căn nhà đó, dù là chủ nhà và mọi thành viên đều có tên trong sổ gia đình, nhưng vẫn bị đuổi đi kinh tế mới! Trong khi cha tôi còn bị họ nhốt trong tù cải tạo, từ khi miền Nam rơi vào tay Việt cộng và nước Việt Nam hoàn toàn nhuộm đỏ trong chế độ Cộng sản.


Bà nội già cả mà đùm túm cháu lang thang sống hẩm hiu lây lất bữa khoai, bữa cháo ở xó chợ, gầm cầu! Bởi bà cháu tôi giờ đây không còn nhà để ở nữa, bà già yếu lại bịnh tật liên miên nữa…
Cho đến ngày giặc thả ba tôi về, ông bị bịnh phù thủng trầm kha không lao dịch được nữa. Tôi nghĩ vì thế nên chúng mới cho ba tôi về vì lý do đơn giản là: “...Ông ở trong cải tạo chỉ tốn phần ăn, chớ không có lợi lộc chi cả. Và nếu ông bị chết trong tù, thì chúng sẽ thêm một cái tội với thế nhân nữa, là: “Nhốt người vô tội, bịnh hoạn không thuốc men... và bị hành hạ đến chết…”


Tội nghiệp ba của tôi, sau bao nhiêu năm bị đày đọa trong tù ngục cải tạo. Thân thể ông đầy thương tật, yếu đuối, gầy còm như cái xác biết đi! Khi được giặc thả về, ba của tôi đã mất tất cả, cái gì cũng không có, chỉ có nhiều thứ bịnh!

Ba tôi như người mất trí, bởi bà nội đột ngột qua đời, sau khi ông ra tù chưa đầy ba tháng! Nỗi đau buồn mất mát đeo dính ba người chúng tôi. Không có ăn thì tiền đâu mà thang thuốc… Vì bịnh tật, thiếu thốn, khổ đau, và nỗi buồn nối tiếp buồn theo… Đau khổ ngập lòng, uất hận riêng mang, nhiều lần ba tôi đã ngửa mặt lên trời cao, nghẹn ngào mà than rằng:


- Ông Trời có bất công không? Hay kiếp trước tôi đã gây nhiều oan khiên cay nghiệt nên bây giờ nhận lãnh bao nhiêu đau khổ buồn thương lần lượt chụp phủ xuống cha con tôi! Tội nghiệp con tôi còn nhỏ quá, xin cho tôi nhận lãnh tất cả mọi sự việc đã vay... Mong Ơn Trên linh thiêng giúp cho cháu có cuộc sống an ổn, cuộc sống thật sự của kiếp một con người bình thường trên cõi đời nầy…
Khốn khổ chất chồng, và thương đau khóc mẹ, đôi mắt ba tôi đã bị mù lòa! Tội nghiệp ông tôi sống không bằng chết trong tăm tối, không được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, cùng nỗi đau đớn xâu xé, Không còn lối thoát, ba tôi phải đi xin ăn! Đó là việc làm duy nhứt để kiếm sống cho hai cha con tôi... trong xấu hổ ngửa tay xin tiền, mong nhờ vào từ tâm của thế nhân!

Tuy đôi mắt bị mù lòa, nhưng tâm hồn ba tôi trong sáng như nhật nguyệt. Ông thường dạy dỗ và nhắc nhở cho con biết ai là bạn, ai là kẻ thù… Ông cũng không vì bịnh tật và hoàn cảnh hiện tại của mình mà thất chí, rồi làm những chuyện không nên, hay nói năng xàm xỡ với những người chung quanh. Ông luôn giữ câu của người xưa: “Lành cho sạch/ Rách cho thơm” và luôn lấy đức báo oán, trước những cảnh trái ngang nhiều hệ lụy đã qua của đời ông.


Ngày ngày ba tôi đi xin ăn từ sáng sớm tới chiều tối mới về. Nhưng không bao giờ ông cho tôi đi theo. Tôi được ba gởi trong chùa để sư cụ sai vặt, và dạy cho biết chữ.
Nhớ lại ngày đó, sư cụ cũng thấy cha con tôi hàng ngày gội nắng, dầm mưa lang thang đi qua chùa. Sư thương tình gọi lại hỏi thăm và cho cha con tôi tá túc ở mé hiên sau của chùa, vách nhiều chỗ bị hư, mái có nhiều chổ dột... bởi qua năm tháng trơ gan cùng tuế nguyệt... không được tu sửa.


Tôi không sao quên, đó là ngôi chùa nghèo nằm sát bên bờ sông Bảo Định (Thành phố Mỹ Tho) nước rồng, nước lớn lửng lờ xuôi chảy.
Những ngày gió lạnh mưa chan đi xin về đến chỗ ở, có khi ba tôi bị lạnh cóng cả người… Tôi la cầu cứu, sư nấu nước gừng nóng cho uống, sư châm cứu, cho đốt củi lửa hơ, và xức dầu nắn bóp để ba tôi giãn gân cốt, và từ từ khỏe lại…
Với trí hiểu biết non nớt của mình, tôi không biết ba tôi đang nghĩ suy gì? Nhưng tôi biết chắc chắn một điều: “Ý chí mãnh liệt để ông sinh tồn vì ba tôi không muốn con mình côi cút, bơ vơ…”

“Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân” Tôi vẫn nhớ chiều hôm đó, cha con tôi vui mừng và hết sức ngạc nhiên. Bởi có ông khách qua đường dừng lại cho ba tôi một số tiền lớn! Một số tiền rất lớn với một người mù đi xin ăn bữa đói bữa no… Vị thần độ mạng của cha con tôi, chính là một đồng đội trong “Thiên thần Mũ Đỏ” cộng sự với ba ngày xưa. Giờ ông là một ngoại kiều về thăm quê hương bất ngờ gặp lại…

Kể từ sau đó, ba tôi không còn đi xin ăn nữa, và gánh nặng xót xa trong lòng ba có phần nào được nhẹ đi. Và cứ mỗi sáng sớm, khi vầng thái dương còn e ấp ở phương đông, chim chốc gọi đàn bay đi tìm mồi… Thành phố Mỹ Tho rộn tiếng còi, tiếng động cơ xe cộ, tiếng nguời bán hàng, tiếng trẻ con cười nói trên đường đến trường… Thấy chúng ôm tập sách, mặc áo quần lành lẽ… lòng tôi se thắt, với những ước mơ thầm kín nở lớn trong lòng thơ dại của mình...


Mỗi ngày như mọi ngày, tôi dắt ba ra ngã tư Giếng Nước, ở đầu đường có nhiều người qua lại. Giúp ông treo tấm ni-long che nắng che mưa để ngồi bán vé số, chiều tối tôi mới đến dắt ba về. Cha con tôi đi giữa thành phố lên đèn, qua những ngôi biệt thự đồ sộ nguy nga tráng lệ, qua những nhà hàng, khách sạn cao ngất trời của bọn tư bản đỏ… Chúng bán lãnh thổ, lãnh hải... cho ngoại bang phè phỡn sống sa hoa trong đau khổ của nhân dân nghèo khổ...


Khi vui, ba thường kể cho con gái mình nghe những chuyện ngày xưa lúc còn là lính chiến… Ba kể trong say sưa, với niềm tin lẫn niềm xúc động nghẹn ngào, và niềm hy vọng thầm kín dâng lên… Dần dà ba tôi đã lấy lại được mức sống bình thường trong tâm hồn, và thỉnh thoảng tôi còn bắt gặp niềm vui trong giọng nói, hoặc nụ cười nhẹ trên môi ông...

Ngày đó, nắng Sài Gòn đẹp lắm! Phố phường rực rỡ vàng màu cờ và sắc áo lính. Những người lính chiến trên Bốn Vùng Chiến Thuật đại diện các quân binh chủng, từ các chiến trường trở về dự trong ngày Đại lễ.


Ngồi tán dóc với mấy bà trong xóm, bà Tám y tá (chích thuốc theo toa bác sĩ) lên tiếng trước:
- Mấy chị biết con bà Hai bán bánh bò, bánh da lợn ngoài chợ, là cậu Nhân chớ? Tôi thấy cậu mặc bộ đồ lính “Dù”, cùng một số quân nhân đại diện đơn vị về diễn hành “Ngày Quân lực 19 tháng 6” Ôi trông cậu ấy đẹp trai thì thôi, và thật oai phong quá chừng chừng đi!

Bà Tư bán gạo, góp chuyện:
- Thế cho nên, sau mùa Quân lực đó, khi thấy bóng dáng thấp thoáng chàng về phép, thì các em trong xóm lượn qua lượn lại nườm nượp hà! Họ mong coi có được lọt vào giếng mắt xanh của chàng, để làm người yêu lính chiến miền xa không...
Chị Tám Dung thợ uốn tóc mở to mắt ngạc nhiên, lên tiếng:
- Mấy chị nói chơi hay nói giỡn, bộ có vậy thiệt hả, sao tôi không biết vậy cà?

Chị Út Nga vợ ông Sáu Hiến, tài xế xe đò đường Long An, Sài Gòn. Chị là phụ nữ trẻ nhất trong nhóm đang bàn chuyện thiên hạ sự. Tánh tình chị trẻ trung và hay nói tiếu. Ngồi kế bà Tư chị cười khè khè chêm vào những lời lẽ vui nhộn… Tiếng cười chưa dứt, thì chị gống gân cổ trỗi giọng:

- Có chớ, sao không thật! Mấy bà nghĩ xem: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi/ Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi… Giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/ Trở về là khi nước non vui bình yên…” Rồi chị bắc qua bài khác, hát câu đầu nầy nhảy qua câu giữa bài kia vừa hát vừa lắt đầu nhịp chân, than mình ẹo qua ẹo lại: “Đừng chê anh lính đám cưới nhà binh em ơi/ Em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời …/ Đám cưới bọn ta tưng bừng biết mấy…/… Tám xe lội nước theo sau/ Chín xe đại bác đi đầu… Cưới em nhỏ lắm em ơi/ cưới em mời mấy trăm người… Có ai bằng đôi ta đâu…” Mèn ơi, mấy em nghe đến đó quýnh đít thiếu điều năn nỉ ỉ ôi, xin được sửa túi nâng khăn cho chàng ta là đàng khác…


Coi bộ chưa đã, chị hứng chí lớn tiếng:
- Nhưng“Sức mấy! Bỏ qua đi tám...” Bây giờ thì hai bông mai vàng trên ve áo cậu Nhân, đã làm các em cho mình là kiều nữ trong xóm nín khe… Bởi lúc chàng còn đi học, các nàng chê là thằng con bà bán bánh nghèo mạt rệp… Chê cho đã thiệt là mấy nường không biết nhìn xa, hiểu rộng, chớ có biết đâu anh chàng lính chiến Nhân “Con nhà nghèo, nhưng học giỏi, và đẹp giai...” để giờ đây anh ta tảng lờ làm ngơ các cô nàng trong xóm… Khiến các em vừa tức vừa tiếc hùi hụi, bởi ngày xưa lỡ dại chê nhằm người ta... đó mà!

Các bà phá lên cười rộ vui vẻ rồi trở về nhà ai phận nấy của mình. Họ là những người phụ nữ lam lũ ở xóm nghèo, bình dân, vui vẻ, tốt bụng giúp đỡ chòm xóm khi nhà ai có người đau bịnh, tối lửa tắt đèn… Họ hay chọc ghẹo đối phương nhưng để vui cười chung, rồi qua đi chớ không nói xấu, nói hành nói tỏi, hay ức hiếp hoặc có ác ý với ai…

Cho đến một ngày kia, chàng Nhân dắt về giới thiệu với mẹ, cô Hồng Thủy làm ở sở Mỹ nơi chàng thường theo mấy người bạn ngoại quốc ghé mua hàng “PX” (PX, chữ viết tắt của Post Exchange, là những cửa hàng bán lẻ cho Mỹ... không có thuế) Bà Hai má Nhân là người mẹ hiền, thương yêu và luôn chiều chuộng con. Bà nghĩ giờ con bà cũng đã lớn rồi, có thương cô nào thì bà cưới cô ấy cho anh.

Thế là đám cưới nhà binh được tổ chức đơn sơ nhưng đầy đủ lục lễ cho con mình. Dù là cảnh nhà mẹ góa con côi, nhưng bà Hai cũng đi đủ lễ, chớ không nói đơn sơ mà giảm quà lễ để thiên hạ cười chê mẹ con bà...

Sau ngày cưới, Hồng Thủy về sống với mẹ chồng. Còn Nhân thì luôn bôn ba ngoài chiến trận, đôi ba tháng mới về thăm gia đình một lần. Khi dâu sanh đứa con gái, bà nội đặt cho tên: Nguyễn Thị Nhân Nghĩa, con của ông Nguyễn Vĩnh Nhân và bà Trương Hồng Thủy…

Bà Hai nghỉ buôn bán, vui mừng sung sướng ở nhà trông coi tâm can bửu bối, là đứa cháu nội bé nhỏ của bà đó đa! Bà để cho con trai mình yên lòng ngoài chiến tuyến, và con dâu đi làm!
Thuở đó, ở góc nhỏ của phương trời miền Nam tự do dưới Chánh thể Cộng Hòa, có gia đình bà Hai bán bánh bò, không giàu sang nhung lụa, nhưng cơm no, áo ấm cuộc sống êm đềm và hạnh phúc dâng đầy bên dâu con và tiếng cười khóc vô tư của trẻ thơ...

Sau ngày Nghĩa ra đời không bao lâu thì thời thế đổi thay, “Ngày 30 tháng 4 năm 1975” giặc phương Bắc ào át tràn vào cưỡng chíếm miền Nam. Gia đình bà Hai tan nát, Nhân bị giặc bắt cầm tù trong cải tạo. Hồng Thủy ra buôn bán hàng ở chợ trời, nhưng không bao lâu nàng đi luôn không về nữa! Bà Hai già yếu phải đi bươi rác, lượm lon… khổ cực biết chừng nào để chắt chiu nuôi cháu, và bám víu cuộc sống nghèo nàn chờ ngày con trai trở về…

(Đó là những gì Nghĩa nghe bà nội kể lại, và cô hiểu biết suy xét theo thời gian theo tuổi lớn khôn dần…)

Bà chủ tiệm nước Cao Thăng ở chợ thành Mỹ Tho, thường đi chùa làm việc từ thiện… Qua lời sư, bà biết được tình cảnh cha con tôi. Nên khi sắp sửa trốn chạy khỏi nước Cộng sản nầy… bà cho hai cha con tôi một chỗ ngồi ở dưới tàu chở mấy trăm người vượt biên...
“Một chỗ ngồi nhỏ xíu dưới hầm tàu, nhưng to lớn vô cùng, to lớn như một thế giới cho những kẻ nghèo đi tìm tự do! Và đó đã thể hiện một tấm lòng thương người, một tấm lòng Bồ Tát bao la như đại dương của bà chủ tiệm Cao Thăng (chủ tàu vượt biên…) đối với cha con chúng tôi...”

Lúc đầu bà chủ tàu chỉ cho một người đi. Nhân nhường cho con gái đi, còn ông thì ở lại! Nghĩa biết tâm ý của cha, khóc sướt mướt...
Cô vùi đầu vào ngực Nhân tức tưởi bệu bạo:
- Con không đi, con không đi đâu! Con không thể xa ba… Con nhứt định không đi... chết sống chúng ta có nhau ba ơi!

Cặp mắt sâu hõm hàng ngày như hai cái hố nhỏ của ba tôi... càng sâu thăm thẳm hơn! Mặt đanh lại, ông lạnh lùng bảo tôi:
- Nầy Nghĩa, hãy thành thật trả lời ba: “Con có thương, và muốn trả hiếu cho ba không...?”
Giọng sũng đầy nước mắt thương đau:
- Dạ có, dạ có… trên cõi đời nầy người con kính yêu nhứt là bà nội và ba… Giờ chỉ còn hai cha con mình, ba chết con sẽ chết theo, ba ở đâu con sẽ ở đó… Xin ba đừng bắt con phải xa ba… cho dù nơi con sắp đến giàu sang, nhung lụa, hay chốn Bồng lai tiên giới cũng vậy... nếu không có ba thì còn có ý nghĩa gì nữa... con sẽ không đi đâu ba ơi…

Nhân ôm chầm lấy đầu con mình, vuốt tóc nghẹn lời thổn thức:
- Ba cũng không muốn xa con gái ba, nhưng vì tương lai của con… Qua bên đó may ra con còn gặp được tấm lòng nhân của người khác xứ, sẽ được đi học, và tiến thân… Con ở lại là gánh nặng cho ba, vì ba không lo cho con được! Dù muốn lo nhưng tình cảnh ba mù lòa, lại là một người thất bại bị kẻ thù trù dập cố tình hủy diệt thì làm sao lo? Ở đây chúng ta ăn không no, lạnh không áo, vô gia cư, không nghề nghiệp, thì tương lai của con sẽ về đâu? Và con còn chuyện quan trọng phải thay ba đang làm dang dở… Con ơi, trả hiếu cho ba, thì con hãy nghe lời ba! Nghe lời ba tức là đã trả hiếu cho ba rồi đó con…

Nghe cha nói xong, tôi ôm chặc lấy người vừa khóc vừa gật đầu:
- Dạ con nghe ba… Con sẽ quyết làm những gì ba muốn, ba dặn dò… Con nghe ba, con nghe ba! Con thương ba lắm ba ơi!


Bên ngoài gió lành lạnh hắt hiu, mưa trong suốt rào rạc rơi mau và long lanh trong ánh nắng hoàng hôn le lói ở phương tây chiếu rọi. Trời gầm gừ,sấm nổ ầm ầm vang dội... những tia sáng lòe chớp nhanh rồi tắt ngấm như những ý nghĩ chợt đến rồi chợt đi... trong tâm hồn thơ ngây của Nghĩa.

Trong cuộc đời bé nhỏ chưa bao giờ tôi sung sướng và hạnh phúc bằng... cho dù sau nầy ngày tôi ra trường Y khoa, nhận bằng bác sĩ của Mỹ, cũng không bằng! Tôi vẫn nhớ hoài, nhớ suốt đời kiếp nầy để không bao giờ quên ơn người, ơn đời có lòng giúp đở cha con tôi...

Số là sáng hôm đó trời trong mây tạnh và nắng hồng rạng rỡ chiếu lung linh trên cành cây so đũa. Lác đác trên những cành ẻo lả, bông so đũa trắng như mây trời, và điểm những trái dài xanh như ngọc bích, mong manh treo tòn ten trên cành ở hiên sau chùa.

Tôi vẫn không quên, nên tôi vẫn nhớ, nhớ rất rõ, nhớ mấy hôm trước khi phải theo đoàn người vượt biên. Tôi buồn rầu vì phải sắp xa người cha tật nguyền bịnh hoạn của mình. Ngồi bẹp dưới góc cây trắc bá diệp ngoài sân chùa, nghe sư tụng kinh có ca có kệ bên trong, khi lòng đang ngổn ngang trăm mối đau buồn, khiến tôi càng thêm sầu thúi ruột! Ngồi dựa gốc cây tôi nhìn trời xanh cao vòi vọi bao la bát ngát thút thít khóc một mình! Tôi lơ đãng trước không gian trong suốt, màu nắng lụa trãi dài trên cỏ cây hoa lá với bầy bươm bướm chớp, chớp đôi cánh màu sắc rực rỡ cạnh đám huỳnh trúc hơn hớn lá tươi non trước sân chùa...

Cảnh sắc nhẹ nhàn êm ả như vậy nhưng trong tâm tư tôi trời như đang tối sầm, tưởng chừng như mây khói đèn đang kín trên cao… Và tôi cũng nghĩ dại, là mong trời sập xuống chết hết cho rồi!


Từ trong Chánh điện bước ra, dáng sư cao gầy. Mặt sư lúc nào cũng trang nghiêm, trầm tĩnh. Thấy tôi sư bảo:
- Nghĩa cha con đâu, ông đi bán vé số rồi à? Chừng nào ba con về, dắt lên gặp sư nghe… Con đang khóc đó hả?
Tôi mau lẹ lấy tay quẹt nhanh những giọt nước mắt còn đọng trên mi:
- Dạ, con khóc vì không muốn xa ba con! Tội nghiệp ông mù lòa, con đi rồi không ai đưa ba con ra chỗ bán vé số, không ai rót nước, đút cơm khi bịnh hoạn… Con thương ba con lắm sư cụ ơi…

Nhịn không được, tôi khóc ồ lên! Sư vuốt tóc tôi chép miệng nhẹ thở dài rồi trở vào chùa… Tiếng cầu kinh hòa cùng tiếng mõ chuông lại ngân nga, êm êm rền vọng xa đưa… Mùi khói, nhang, trầm hương theo gió nhè nhẹ thoảng bay…
Chiều đó tôi dắt ba đến gặp sư, như sư đã dặn dò. Tôi thấy sư đang tỉa nhành chết, lá úa của những cây kiểng trước sân chùa. Sư vẫn điềm đạm, nét mặt suy tư, và chầm chậm bảo với chúng tôi:

- Nghe thấy hoàn cảnh của cha con anh, ông chủ Cao Thăng bảo vợ cho cả hai cha con cùng đi luôn một thể…
Cha con tôi quì xuống lạy sư! Không nói gì, tay lần chuỗi, mắt u buồn nhìn trời cao vòi vọi... hiền lành, từ tốn sư khẽ bảo:
- Cầu xin Phật Tổ phù hộ cho cha con anh! Tôi chẳng giúp gì được, có lẽ do lòng thương con của một người cha như anh, đã làm động lòng người đời và động lòng Trời khiến xui như vậy… Anh phải luôn ăn hiền ở lành, bởi Ơn Trên không bao giờ phụ kẻ có lòng… Tôi sẽ cầu an cho cha con anh…

Sư quay qua vuốt tóc tôi:
- Nghĩa, sư biết con là đứa trẻ ngoan! Qua tới bờ bến tự do con ráng học hành… làm người tốt, để trả hiếu cho cha con và trả ơn đời…

Trong đoàn người ngồi chờ xuống tàu lào xào, ồn ào lúc to lúc nhỏ, mặc dù người dẫn đường đã nhiều lần nhắc nhở giữ yên lặng. Tôi ngồi sát vào lưng ba, tay ôm bọc áo quần cũ vá chằng vá chịt của cha con tôi. Nhưng lòng tôi ngập tràn hạnh phúc… cho dù trước mắt là hầm chông, là bẫy mìn của Việt cộng… tôi vẫn thản nhiên tiến bước, vì có ba đi bên cạnh cuộc đời với tôi! Mặc dù ba tôi là người tàn phế, đang ngồi đó, trầm ngâm chẳng nói lời nào, trong đôi mắt sâu thẩm không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng trên khuôn mặt hằn nét thống khổ, lẫn kiên cường, bất khuất đó đã cho tôi sức sống, niềm tin và niềm hy vọng mảnh liệt vô biên!

Mười mấy ngày trên đường vượt biên sóng gió nộ cuồn của biển khơi. Rồi tàu cũng được cặp một bến ở Nam Dương Quần Đảo. Trên Hành trình vượt biên của tàu bán chánh thức (Người đi trả chủ tàu bằng vàng. Chủ tàu đóng cho Việt cộng để được rời nước) mang số “Mỹ Tho 2736”


Tàu vượt biên chúng tôi chết gần cả trăm người vừa già vừa trẻ em, vì sóng gió dập dồn và yếu sức… “Huyệt mộ người cha kính yêu của tôi, cũng ở lòng đại dương trong chuyến bôn đào bằng đường biển nầy!”


Hôm nay cũng trên chuyến tàu ra biển, tôi theo đoàn y tế thiện nguyện, đi trị bịnh cho những tù nhân trong trại tù Alcatraz, ở hòn đảo Alcatraz gần San Fransico thuộc tiểu bang California.
Nhìn trời nước bao la, nhìn thành phố San Fransico nhà cái cao, cái thấp… chập chùng san sát như dính liền nhau. Cả thành phố dưới bầu trời trong nắng mai rực rỡ, và như nằm lững lờ trên mặt nước trong xanh lao xao sóng bủa chập chùng.

“...Ba kính yêu của con ơi, con gái ba giờ đã lớn đang ở trên một nước tự do, ngắm nhìn trời xanh, in những vầng mây trắng cuồn cuộn nhẹ trôi. Nắng mai chiếu lung linh, gió mát thổi bồng mái tóc con... và gió là là trên mặt nước biển xanh, trong vắt thấy cả cá lội nhởn nhơ… Con nhớ ba lắm, con thương ba vô cùng… con gái không phụ lòng ba, giờ con đã thành tài như ba ước mong… Ngoài những giờ làm việc ở bịnh viện chuyên khoa về mắt… Thời gian còn lại, con ghi danh hành nghề trong các đoàn y tế thiện nguyện. Con đã đi Thái Lan, Cam-Bô-Chia, các nước vùng dân nghèo… cả ở Ép-Phi-Ca, Ai-Rắc nữa đó ba. Nhưng con chưa trở về cố quốc, vì nơi đó vẫn còn chế độ Cộng sản vô thần, tàng bạo... biết bao người dân bị trù dập, khổ đau tột cùng...


Sư cụ giúp chúng ta đã viên tịch… Gia đình ông Cao Thăng chủ tàu cho cha con mình vượt biên đang ở Canada (bà chủ qua đời từ mấy năm trước) các con ông đã thành nhân.
Lời dạy dỗ của ba là kim chỉ Nam đã và sẽ làm hành trình cho con suốt cuộc đời nầy! Ngày xưa ba đi lính vì an nguy cho gia đình và dân tộc. Không kể đến thân mình, ba cùng đồng đội bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quê hương đất nước, cho một miền Nam Cộng Hòa Tự Do của chúng ta. Hôm nay con gái ba làm những gì con có thể làm được như ba dạy bảo là giúp người, giúp đời, và…

Ba ơi, mặc dù ba nay đã ra người thiên cổ, nhưng con biết ba lúc nào cũng quanh quẩn bên con, nhắc nhở con, giúp đỡ con gái ba. Con thấy tủi thân không có ba như các bạn bè. Ai còn cha thì xôn xao mua quà nầy quà kia cho cha, trong ngày lễ báo hiếu, vinh danh cha…


Thưa ba, mỗi năm ngày báo hiếu từ phụ, lại cận kề ngày Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa. Con xin gởi ba tấm lòng thành ghi nhớ ơn tiền nhân, nhớ ơn ba trong ngày báo hiếu từ phụ. Ba đã cho con dáng dấp hình hài lành lặn nầy. Ba cho con tâm hồn tươi vui, khỏe mạnh nầy. Ba đã cho con tất cả, tất cả những gì con hiện có… Con đã làm những việc thiện, và những việc... ba dặn dò chỉ dạy.


Nhưng con vẫn còn nợ ba! Ba đã trăn trối: “...Trước khi qua đời ba còn nhắc nhở/ …Hoàn cảnh nào cũng phải giữ sắt son/ Cha ấu lo nhân nghĩa sẽ không còn/ Trên đất nước mấy nghìn năm Văn Hiến…”
Thưa ba, những người trẻ Việt Nam lưu vong, ở quốc nội... sẽ hoàn tất trong ngày không xa… Con sẽ dong ruỗi đường ba đi còn dang dở…” Ba ơi “Con còn nợ ba”!


Tuyển tập truyện ngắn“Xứ Lạ Tình Quê”
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5622
Email: dtdbuon@hotmail.com

Tuesday, June 13, 2017


DU TỬ LÊ * VĂN QUANG

Quan niệm về văn chương và người lính trong tiểu thuyết Văn Quang

Posted by: Tbl Đọc: 6244 lần
Nguồn: nguoiviet.com - Wednesday,April 06,2011
 Quan niệm về văn chương và người lính trong tiểu thuyết Văn Quang
Du Tử Lê
Nếu phải đi tìm một trong những hình ảnh xuất hiện nhiều nhất trong văn xuôi miền Nam, 20 năm ,có người cho rằng, đó là hình ảnh người lính.
  Nhà văn Văn Quang,trưởng phòng Cục Tâm Lý Chiến .
 Tùy theo định tâm của người viết mà, hình ảnh người lính miền Nam sẽ có diện mạo hoặc chân dung nào đó, trong trang viết. Ðồng thời, người lính kia, sẽ giữ vai trò “tâm bão,” hay chỉ như một giới thiệu nhân thân, thoáng qua, làm nền mờ nhạt cho những động thái quan trọng khác.
Với những tác giả chỉ muốn mượn hình ảnh người lính miền Nam để dẫn tới những chủ tâm khác thì đã có không ít nhà văn chẳng những “hư cấu” sự kiện, tâm lý nhân vật mà còn...”hư cấu” cả hệ thống tổ chức của QL/VNCH nữa!
Chẳng hạn họ có thể cho một nhân vật mang cấp bậc Trung Sĩ làm trung đội trưởng một trung đội; hay làm Thường vụ Ðại đội... Trong khi trên thực tế, theo hệ thống tổ chức thì với...

... cấp trung sĩ, vị hạ sĩ quan này không bao giờ được bổ nhiệm vào chức vụ trung đội trưởng - Trừ trường hợp đang giao chiến mà, các sĩ quan trung đội trưởng, trung đội phó, hoặc thượng sĩ... đều bị tử trận, vị trung sĩ thâm niên nhất sẽ thay thế trung đội trưởng, chỉ huy số binh sĩ còn lại. Nhưng khi trận chiến chấm dứt, vai trò tạm thời kia, cũng chấm dứt theo.
Lại nữa, vẫn theo tổ chức của QL/VNCH cũ, chức vụ Thường vụ Ðại đội, được giao cho một thượng sĩ thâm niên nhất, chứ không bao giờ là một trung sĩ.
Những trường hợp viết theo cảm tính về một thực thể như thế, không hiếm lắm, trong văn xuôi của của chúng ta.
Nếu không kể những nhà văn vì mặc cảm, muốn chứng tỏ mình là một “trí thức tiến bộ,” qua văn chương cho thấy quan điểm chống chiến tranh thì, người lính trong văn xuôi miền Nam, khi xuất hiện như một (hay những) nhân vật “trung tâm,” họ thường bị mô tả ở một trong hai diện mạo:
Diện mạo thứ nhất: Hình ảnh của một (hay những người hùng) xông pha trận mạc với lý tưởng chống cộng sản, cứu quê hương.
Ở dạng thức này, những người lính đó, là những người cực kỳ hoàn hảo, từ tư tưởng, kiến thức tới hành động. Họ cũng là những người được phụ nữ vây quanh, nhìn ngắm như những thần tượng... Nhưng vì là “người hùng lý tưởng,” nên chẳng những họ không màng tới phụ nữ; mà họ cũng không có những buồn, vui, ham hố, như một người thường. Họ không được phép có lúc quên nhiệm vụ. Có lúc điên rồ. Có lúc thất thố. Có lúc chán nản. Thất vọng. Họ cũng không được phép nghĩ tới tình riêng mà, lúc nào cũng canh cánh trong lòng một tình yêu duy nhất: Tình yêu tổ quốc.
Ở một cực khác, cực đối nghịch, diện mạo người lính lại hiện ra trên trang giấy như một con người dị dạng, thiếu nhân tính! Hình ảnh này thường được tô đậm bởi những nhà văn chủ tâm cho “người anh em phía bên kia” để mắt tới họ...
Dù mô tả người lính cực nào, những hình ảnh tốt/xấu kia, đều không thật.
Theo tôi, những tác giả ấy đã chọn thế đứng chông chênh, sau khi tự chặt cụt một chân mình. May thay, giữa hai hình ảnh người lính miền Nam cực tốt và cực xấu đó, văn chương miền Nam cũng có một số nhà văn trụ được đôi chân mình trên hai phạm trù: Thực tế và ý thức. Tôi muốn nói, người lính vẫn là nhân vật “trung tâm” nơi những sáng tác của số nhà văn ấy. Nhưng người lính trong tác phẩm của họ, là một người bình thường. Họ cũng có những khiếm khuyết, những sai lầm, những ham hố, yêu đương, thất tình như bất cứ một thanh niên nào khác.
Một trong những nhà văn viết về người lính miền Nam, trụ được đôi chân mình trên hai phạm trù Thực tế và, Ý thức kia, là nhà văn Văn Quang.
Ðược biết, nhà văn Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1933 tại Thái Bình. Ông khởi sự viết văn từ những ngày còn trẻ ở thành phố Hải Phòng. Khi được hỏi, trường hợp nào đã đưa một Nguyễn Quang Tuyến, trở thành nhà văn Văn Quang, tác giả tiểu thuyết “Chân Trời Tím” (1) cho biết, thuở nhỏ, ông sống ở vùng quê. Cả huyện không có một bệnh viện, tất nhiên không có bác sĩ. Cả tỉnh cũng chỉ có một hai bệnh viện. Cho nên ông đã thầm mong trở thành bác sĩ và mở bệnh viện ngay tại con phố chứng kiến, chia sẻ tuổi thơ ông. Ông nói:
“Nhưng rồi loạn ly, nhà cửa bị tiêu thổ kháng chiến, tôi phải ra Hải Phòng, vừa đi dạy học vừa đi học. Từ đó quen biết với một vài nhạc sĩ, vài nhóm văn nghệ, vài anh em viết văn, làm báo ở Hà Nội xuống chơi. Thế là tôi bắt đầu viết văn, làm báo. Hồi đó ở Hải Phòng chưa có một tờ báo nào. Thời gian đầu (khoảng đầu năm 1953) tôi làm thông tín viên, làm tin hàng ngày ở thành phố cảng cho 1 tờ nhật báo ở Hà Nội. Sau đó tôi viết truyện ngắn, phóng sự cho tuần báo Cải Tạo xuất bản tại Hà Nội. Truyện dài đầu tay của tôi được đăng trên nhật báo Thân Dân-Hà Nội năm 1953...”
Trước khi theo đơn vị dư cư vào miền Nam, năm 1954, nhà văn Văn Quang bị động viên khóa 4 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Ông tốt nghiệp khóa này tháng 9 năm 1953.
Sau khi vào miền Nam, ông được bổ nhiệm về cục Tâm Lý Chiến, Saigon. Nhờ thế, ông có nhiều môi trường, cơ hội để tiếp tục nghiệp văn. Ông kể:
“Viết văn như một cái nghiệp nó bám theo mình và cũng phải kể đến môi trường cho mình theo đuổi chí hướng và khả năng sáng tạo nữa. Có nhiều người tôi quen, cũng thích viết văn làm báo, và cũng rất có khả năng. Nhưng trớ trêu thay, hoàn cảnh lại không cho phép vì nhiều lý do khác nhau, nên chỉ có vài truyện rồi bỏ dở. Rất đáng tiếc cho những tài năng bị mai một. Trường hợp đó không phải là hiếm.”
Có dễ đây là lần đầu tiên, tác giả những tiểu thuyết nổi tiếng như “Chân Trời Tím,” “Ðời Chưa Trang Ðiểm,” “Ngàn Năm Mây Bay,” “Tiếng Hát Học Trò” v.v... đã cho biết một cách chi tiết về giai đoạn khởi nghiệp văn của mình. Có thể, cũng là lần đầu tiên, khi trả lời câu hỏi “chủ đề và sự thật” nào có trong văn chương của ông, nhà văn Văn Quang nói, đại ý:
Ông thường chỉ viết những gì ông ghi nhận được từ đời sống hàng ngày. Thí dụ trong “Chân Trời Tím,” ông xác định đã viết về người lính trong tác phẩm này, với tất cả phần đời riêng tư, và tinh thần đồng đội qua những biến chuyển thời đại mà bản thân ông trải nghiệm. Ông nhấn mạnh:
“Thời trước tháng 4, 1975, là một quân nhân đi nhiều chiến trường và đơn vị, tôi có nhiều tài liệu, có nhiều cảm xúc. Tôi hoàn toàn tự tin có thể diễn tả được trung thực mọi sự kiện, mọi tâm tình trong tác phẩm của mình. Cũng thời gian ấy, đời sống xã hội Saigon có nhiều điều đáng ghi lại. Cuộc sống của những người trẻ tuổi chịu ảnh hưởng của lối sống Âu Mỹ du nhập vào Việt Nam. Tôi chọn đề tài này và chọn thể loại phóng sự như 'Những Ngày Hoa Mộng' đăng trên báo Truyện Phim, phóng sự 'Saigon Tốc' đăng trên nhật báo Chính Luận...”
Khi được thả ra từ trại tù cải tạo năm 1987, ông viết truyện dài “Ngã Tư Hoàng Hôn.” Ông chọn đề tài xã hội Việt Nam những năm 1990, cũng với tất cả những gì ông chứng kiến. Từ mặt phải tới mặt trái của những con người sống trong giai đoạn ấy.
Sau đó cuộc sống ở Saigon lại có quá nhiều biến chuyển. Một tầng lớp tư sản mới ra đời. Những băng đảng xã hội đen lộng hành, ông lại chọn thể loại tiểu thuyết phóng sự, để dễ dàng hơn trong việc diễn tả tính cách nhân vật, và sự kiện thời đại. Tiểu thuyết phóng sự “Lên Ðời” của ông, được ra mắt bạn đọc từ hoàn cảnh đó.
“Tuy vậy đôi khi tôi cũng đau đầu vì những chi tiết hợp lý hay gượng ép. Nên hay không nên đưa sự kiện này vào truyện? Có cần tìm kiếm thêm tài liệu nữa hay không?.. Cũng có khi đang viết, tôi bị khựng lại vì một nguyên nhân nào đó... Ðến nỗi sự đặt bút viết trở thành khó khăn như bị búa giáng vào đầu. Nhưng tôi vẫn cố gắng vượt qua để hoàn thành tác phẩm của mình,” ông nói.
Bằng vào kinh nghiệm riêng của mình sau hơn nửa thế kỷ cầm bút, ông kể, về phương diện kỹ thuật, khi viết một tiểu thuyết, bố cục truyện là cần thiết. Nhưng nó cũng chỉ có tính tương đối. Bởi vì, có nhiều trường hợp viết xong chương 1, thì trong ông lại nẩy sinh nhiều ý mới. Vì thế, chương 2 không còn như bố cục ban đầu. Chương 3 cũng vậy! Ông kết luận:
“Nói cho đúng là vừa viết vừa sáng tạo thêm. Không nhất thiết phải đi theo bố cục có sẵn. Nhưng chủ đề thì tôi nhất định không thay đổi, để tránh cho truyện bị loãng và, lạc đề...”
Trả lời câu hỏi có hài lòng về những tiểu thuyết được viết trong dạng “feuilleton,” Văn Quang đã rất thẳng thắn khi cho biết, những truyện ông viết đăng báo hàng ngày, hàng tuần không thể sửa chữa được vì viết đến đâu cho đăng báo đến đó rồi. Ông nói:
“Mặc dù, khi xuất bản, tôi cũng có thể sửa lại. Nhưng khó mà có thể sửa chữa hoàn chỉnh như mong ước...”
Du Tử Lê
(Thứ Năm 14 tháng 4: “Văn Quang, người viết được nét thứ hai của chữ Nhân.”
Chú thích:
(1) Tiểu thuyết này đã được đăng tải từng kỳ trên nhật báo Người Việt.
                                                      xox-xox-xox
Nguồn: nguoiviet.com -Wednesday, April 13, 2011
                          Văn Quang, người viết được nét còn lại của chữ ‘Nhân’
Du Tử Lê
Thời điểm 1954, khi cuộc phân chia đất nước diễn ra, rất nhiều nhà văn trẻ, từng cầm bút trước hiệp định Genenva, ở miền Bắc, di cư vào Nam. Trong số này, chúng ta không có nhiều nhà văn sớm có tiểu thuyết được các báo hàng ngày chọn đăng như trường hợp Văn Quang.
           Nhà văn Văn Quang . (Hình của NPK )        
Cũng vậy, trả lời câu hỏi khác về sức ép, lương tâm của một nhà văn khi nhân vật chính của mình là người lính? Nhà văn Văn Quang đã thẳng thắn cho thấy quan niệm của ông về văn chương như sau:
Với ông, khi viết về cái tốt hay cái xấu, đều khó như nhau. Viết về một nhân vật tốt quá, nhân vật sẽ trở thành ông thánh. Viết xấu quá, có thể sẽ chỉ tỏ rõ lòng thù hận không đáng có. Cả hai trường hợp đều không thật.
Ðể rõ hơn, quan điểm của mình, nhà văn Văn Quang giải thích, khi chúng ta đặt ra một vấn đề nào, nó luôn có hai mặt. Mặt phải và mặt trái. Thí dụ nói đến đời sống quân nhân, nói đến sự hào hùng, anh dũng, tình yêu quân ngũ, tình yêu đồng đội không thôi, chưa đủ... Nó phiến diện. Theo ông, một quân nhân không phải là một ông thánh. Cũng chẳng là một thầy tu! Không ai hoàn hảo. Cho nên vẫn có những cái không tốt, hay nói trắng ra là những cái xấu. Cái xấu tầm thường và bình thường của mọi con người. Như lòng ganh ghét, đố kỵ. Sự hợm hĩnh, kiêu ngạo...
“Vậy nói bao nhiêu, nói thế nào cho đúng?”
Ông tự đặt câu hỏi, cho mình. Ðó là một thứ áp lực của lương tâm người cầm bút. Ông nói, ông đã hết sức cố gắng gạn lọc để nói được một phần nào sự thật. Phần nào “mặt trái” trong tác phẩm của mình.
Ðiển hình, như trong tiểu thuyết “Chân Trời Tím,” bên cạnh những nhân vật như Phi, như Ðiền, ông còn có nhân vật khác, như ông Minh. Ông cũng đã đề cập nói sự kiện quân đội bị lôi kéo vào những chuyện có tính chính trị, phe phái. Trong một cuộc đảo chính giữa các phe phái trong quân đội, dẫn tới thảm trạng “quân ta bắn quân mình!” Ông khẳng định:
“Quân đội không phản bội ai cả! Chỉ có những người lợi dụng quân đội mà thôi.”
Nhưng:
“...Tuy nhiên, tôi cũng thành thật thú nhận rằng, áp lực này luôn đè nặng lên tâm tư người cầm bút. Ðôi khi đặt một vấn đề nặng quá sẽ làm mình ân hận. Ðặt nhẹ quá thì không đủ. Áp lực đó sẽ là lâu dài...”
Tôi không biết có phải vì cuộc chiến “không tiếng súng” là cuộc chiến cân não giữa nhu cầu hiện thực và trách nhiệm của một người nhà văn trong hoàn cảnh phức tạp, tế nhị của một đất nước chiến tranh - Như phần đất miền Nam tự do - Khiến tác giả “Chân Trời Tím” phải thú nhận ông luôn bị một sức nặng vô hình, sức nặng nghìn cân treo lửng đâu đó, trước ngòi bút của ông?
Cái ý thức và trách nhiệm kia, ở nơi Văn Quang, qua hầu hết những tác phẩm viết về người lính miền Nam, cho thấy ông không hề là nhà văn như một thứ “Thượng đế!” một “Ông trời” ban phước, giáng họa cho nhân vật của mình. Ông cũng không cho thấy sự lạm dụng cái quyền lực... ảo, mà ngòi bút đem lại. Ðể cùng lúc, đóng cả hai vai, “khai sinh/khai tử” nhân vật.
Sự kiện nhà văn cùng lúc đóng cả hai vai khai sinh và, khai tử nhân vật của mình, vốn thường thấy nơi những nhà văn viết tiểu thuyết dạng feuilleton, tức viết từng ngày cho các báo, từ Ðông qua Tây.
Sự kiện này cũng thường thấy nơi những tác phẩm viết về chiến tranh. Nhất là khi mảnh đất mà cuộc chiến đó diễn ra, lại như một bàn cờ, một sa-bàn được điều khiển... từ xa! Ðể trắc nghiệm một quan niệm chiến lược, chiến thuật mới! Ðể kiểm chứng hay điều chỉnh một chủ thuyết chính trị! Ðể đo lường những hiệu quả súng, đạn mới! Thử thách sáng kiến... “tiền đồn!” Trường hợp này, sinh mạng người lính (cũng như người dân) trong mảnh đất ấy, chỉ là những con số vô nghĩa!
Hiểu như thế, người đọc sẽ thấm thía hơn trước câu văn Văn Quang, khi ông can đảm, chua chát viết xuống:
“Quân đội không phản bội ai cả! Chỉ có những người lợi dụng quân đội mà thôi!”
Câu nói trên, ghi nhận đó, không phải nhà văn quân đội nào cũng có thể viết được.
Trong cuộc chiến miền Nam, hai mươi năm, không chỉ có một mình Văn Quang là người lính mà, ngay tự những năm khởi đầu cuộc chiến, đã là một phóng viên chiến trường, có điều kiện sống thực, sống sát, sống cùng cuộc chiến. Ngoài ông, chúng ta còn có nhiều nhà văn quân đội khác.
Cũng không phải chỉ một mình Văn Quang có được những ghi nhận vi tế từ thực địa! Chúng ta có nhiều cây bút trong/ngoài quân đội. Nhiều phần họ cũng có những thụ cảm bén nhậy như ông. Nhưng, khi ngồi vào bàn viết, trước trang giấy của mình, không ai cấm họ ném người lính, nhân vật trong tiểu thuyết/phóng sự của họ về một trong hai cực: “Thiên sứ!” Hoặc “tội đồ!” Cả hai cực, dù chỉ là nhân vật trong tiểu thuyết, đều bất cập! Chúng mất hẳn tính người!
Phải chăng vì bản chất lương thiện, nhân ái nên, mặc dù số tiểu thuyết được in thành sách của Văn Quang, không nhiều lắm (chỉ trên dưới mười tác phẩm) mà, đã có tới 3 cuốn được chuyển thể, thành phim? (Tôi muốn nhắc tới các tiểu thuyết “Chân Trời Tím,” “Ngàn Năm Mây Bay,” “Tiếng Hát Học Trò” của ông.)
Trong chừng mực nào đó, thành tựu vừa kể của Văn Quang, dường không xẩy tới cho một số tác giả cùng thời. Những cây bút viết về người lính miền Nam, như ông. Dù số lượng tiểu thuyết của họ, có thể nhiều hơn.
Tuy nhiên, một cách chủ quan, theo tôi, ở một khía cạnh khác, Văn Quang/Nguyễn Quang Tuyến cũng đạt được những thành tựu rực rỡ không kém. Nếu không muốn nói là có phần rực rỡ hơn cả khía cạnh văn chương của ông. Ðó là khía cạnh: Làm người. Sống.
Ở khía cạnh này, với 12 năm tù cải tạo, họ Nguyễn không những đủ điều kiện để ra đi theo chương trình H.O. Mà, như ông cho biết, nếu quyết định sống ở nước ngoài, ông sẽ được đôn từ danh sách H.O. 22 lên danh sách H.O. 18; vì ông nhận được nhiều hơn một giấy cam kết bảo lãnh cần thiết.
Không cần biết lý do sâu xa của khước từ kia! Chỉ cần biết, thực tế, Văn Quang/Nguyễn Quang Tuyến, đã chọn ở lại. Ông chọn ở lại với đồng đội, bằng hữu, độc giả của mình.
Họ Nguyễn chọn ở lại trong thời điểm mà, dư luận khi ấy, từng phản ảnh qua một câu nói đau đớn, được truyền tụng rộng rãi:
“Nếu những cột đèn ở Việt Nam có chân, chúng cũng sẽ ra đi.”
Sự chọn lựa ở lại với đồng đội, bằng hữu, độc giả của mình của họ Nguyễn, từ đó tới nay, đã trên dưới hai mươi năm.
Cũng trên dưới hai mươi năm, ông tình nguyện đóng vai chiếc cầu nối giữa những tấm lòng biết ơn một cách cụ thể của rất nhiều trái tim Việt nơi quê người, với hàng trăm thương phế binh VNCH cũ.
Ðó là một trong những việc làm thuần tính nhân ái, tình người của tác giả “Ngàn năm mây bay.” Nhưng cuối cùng, ông vẫn bị chặn đứng bởi bức tường nghi kỵ của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam!
Kết quả, họ Nguyễn bị cảnh cáo. Computer bị tịch thu. Ông phải ngưng viết!
Dù cho, viết, với Văn Quang/Nguyễn Quang Tuyến là “một cách sống khác” như phát biểu của nhà văn Gustave Flaubert. (2)
Chọn lựa ở lại, quên mình, sống cho kẻ khác (dẫn tới hoạn nạn) của Văn Quang/Nguyễn Quang Tuyến, tôi nghĩ, không phải là một chọn lựa dễ dàng. Nó càng không phải là cách sống (dẫn tới hoạn nạn) mà, bất cứ một nhà văn ở lại nào, cũng có thể làm được!
Tai họa vẫn nóng hực, như quả cầu lửa, luôn chực chờ nổ chụp lên số phận ông. Số phận một nhà văn miền Nam sắp bước vào tuổi 80! Vậy mà, trong một thư ngắn, gửi bạn, họ Nguyễn vẫn băn khoăn:
“Tôi biết mình đã cố gắng làm nhiều việc nhưng vẫn cứ thấy là chưa đủ! Tôi làm vì thấy cần phải làm vậy thôi. Danh tiếng và những thứ khác là lúc mình còn trẻ, còn ham chứ đứng tuổi rồi, nhất là sau những năm tháng gian khổ thì chẳng còn nghĩ đến điều gì khác ngoài cái việc thích làm và cần làm, bỏ hết ngoài tai những mưu toan và thị phi...”
Nếu được là một trong những người bạn có đủ tình thân với Văn Quang/Nguyễn Quang Tuyến, tôi sẽ nhân danh tình bạn ấy, để nhắc nhở ông:
Người xưa từng nói, tuy sống suốt một đời thật đấy, nhưng nghiệm lại xem, đã mấy ai, tới khi từ trần, viết được trọn vẹn chỉ một nét thôi, của chữ “Nhân” hai nét, theo Hán tự? Càng hiếm hoi hơn nữa, số người viết nốt được nét còn lại của chữ “Nhân” ấy!
Riêng ông, trong ghi nhận của tôi thì, chẳng những ông đã viết được trọn vẹn chữ “Nhân” hai nét - Mà, ông còn viết được trong một hoàn cảnh khó khăn hơn những gì chúng ta có thể tưởng.
Vì thế, thưa ông, cho phép tôi được gửi tới ông, lời chúc mừng chân thành, của một người ở bên ngoài đất nước.
Du Tử Lê
(Calif. 13 tháng 4, 2011)

Tuesday, June 13, 2017


VĂN QUANG * THUẾ PHÍ

 

Hàng ngàn nông dân và doanh nghiệp VN điêu đứng vì thuế phí


Văn Quang – viết từ Sài Gòn
Trong tuần này hầu như tất cả các báo lề trong (báo nhà nước) báo ngoài lề (báo búa xua - không chính thức) tại VN đều rộ lên những tin tức và những bài “điều tra phóng sự” về đủ kiểu phải đóng thuế, đóng “phí cho đủ thứ cơ quan nhà nước. Đóng thuế hay “thu phí” cũng chỉ là một kiểu móc tiền của bà con thôi.
Thật ra câu chuyện này không mới nếu không muốn nói là nó cũ mèm rồi. Nhưng qua nhiều năm người dân và các doanh nghiệp (DN) kêu than nhiều quá làm mất lòng dân nên chính phủ VN mở cuộc gặp mặt các doanh nghiệp và người dân để nghe tâm tư nguyện vọng của họ. Các quan chức tỏ vẻ muốn DN và người dân nói hết tâm trạng của mình. Đó là một thiện chí hay chỉ là cách trấn an lòng phẫn nộ của dân như kiểu mở cái nút nhỏ xì hơi cho quả bóng cao su có thể nổ bùng ta bất cứ lúc nào.


01- Phí thẩm định cấp giấy chứng nhận thực phẩm xuất khẩu khiến doanh nghiệp ngành thủy sản mất tiền tỉ mỗi năm.

Gặp dịp này các DN to mồm bèn nói phăng ra mọi thủ đoạn làm tiền của các quan thu thuế và mấy chú phóng viên cũng lợi dụng cơ hội này đi làm “phóng sự điều tra tại chỗ” những kiểu làm tiền của mấy ông thuế vụ nhất là các ông ở những chỗ béo bở nhất như các ông ở Hải Quan.

Chưa nói đến chuyện những doanh nghiệp lớn nhỏ tại VN “tố tơi bời hoa lá” những ông lâu nay vẫn ngang nhiên móc túi họ. Ngay cả người dân cũng tố giác những nỗi khổ của họ ngập đầu vì thuế phí. Họ chỉ là những bác nông dân nghèo nên nhà chỉ có vài con gà, vài con heo nuôi mang bán kiếm tiền nuôi vợ con.
Còn nhớ cách đây vài năm những con gà chịu 14 loại phí và đã từng được mấy ông “dân biểu” mang ra hội trường quốc hội bàn cãi xôn xao. Nghị quyết này đưa ra, văn bản kia nối tiếp yêu cầu địa phương ngăn chặn tệ nạn này cho dân nhờ.


Trụ sở Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng khu vực 3.

Nhưng (lại nhưng) mấy năm qua rồi các quan phường quan xã đút nghị quyết, chỉ thị vào hộc bàn rồi “quên” chẳng làm gì hết. Vì thế đến nay người dân lại mang ta “tố” tiếp bị thu đủ thứ thuế phí.
Đó là những loại phí gì?
Đó là phí kiểm dịch gà con lúc mới nở:
- Phí tiêu độc - phí khử trùng - phí lấy mẫu nước xét nghiệm - phí kiểm dịch - phí môi trường - phí kiểm soát giết mổ - phí vận chuyển, ra đến chợ lại đóng tiếp phí môi trường tại chỗ.

Ông Dũng, chuyên buôn bán thịt tại chợ đầu mối Hóc Môn kể, “Tôi chưa thấy bỏ được khoản nào, vì phí môi trường, an toàn tại chợ chúng tôi vẫn đóng, trong khi trước đó người giết mổ gà cũng đã đóng phí môi trường, người nuôi gà tại nhà cũng đóng phí môi trường rồi.”


Người dân lấy tiền gói vào giấy A4 rồi đưa cho cán bộ hải quan.

Cái kiểu thu kiểu này gọi là “phí chồng phí, thuế chồng thuế” thường xảy ra ở mọi nơi khi quan nào có tí thẩm quyền cũng nhào vô bắt dân đóng thuế. Không đóng phí thì bị tịch thu mang đi đâu không biết, dân đành trắng tay. Mấy năm nuôi gà quan xơi hết! Mấy doanh nghiệp nuôi gà cũng khốn đốn không kém.
Mất tiền tỉ cho một loại phí

Theo Hiệp Hội Chế Biến và Xuất Khẩu Thủy Sản VN (gọi tắt là VASEP), từ đầu năm đến nay, có nhiều khoản phí và lệ phí mới phát sinh hoặc tăng cao, tạo tâm lý bất an trong giới đầu tư kinh doanh thủy hải sản. Các loại phí doanh nghiệp (DN) ngành này đang nộp phí gồm:

- phí thẩm định cấp giấy chứng nhận thực phẩm xuất khẩu theo yêu cầu của nước nhập khẩu; -phí thẩm định xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm (ATTP); -phí thẩm định hồ sơ công bố hợp quy và phù hợp quy định ATTP; - phí thẩm định xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản đều quá cao...

Hay phí kiểm tra, giám sát hàng động vật, sản phẩm động vật nay đã tăng lên hai lần so với quy định trước đây; phí kiểm dịch lô hàng trước đây không thu nay lại thu…

- Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó tổng thư ký VASEP, cho biết, “Mức phí tăng theo quy định mới trước đây không lại phải trả chi phí này. Thí dụ như tại công ty xuất khẩu cá tra Vĩnh Hoàn, chỉ riêng loại phí này đã phải đóng số tiền đến 1.26 tỉ đồng ($55,000) trong năm 2016. Còn một DN sản xuất hải sản khô, thuộc DN nhỏ tại nam Trung bộ cũng cho biết, họ phải đóng khoảng 100 triệu đồng ($4,400) trong năm qua.”


Tờ giấy A4 ném ở thùng rác có ghi con số 2.000.000 (hai triệu đồng) của một công ty.

- Ông Ngô Hồng Phong, phó cục trưởng Trung Tâm Chất Lượng Sản Phẩm trong một cuộc gặp gỡ DN mới đây thừa nhận nhiều Bộ thu mỗi nơi một kiểu, “phí xác nhận kiến thức ATTP của Bộ Phát Triển Nông Thôn (NN-PTNT) hiện nay đang cao hơn hai bộ còn lại,” song lại “tố” có những loại phí khác thì hai Bộ Y Tế và Công Thương đang thu cao hơn. Cụ thể, thu để cấp giấy chứng nhận ATTP hiện hai bộ Y tế và Công thương đang thu “cao hơn rất nhiều” so với Bộ NN-PTNT.

Ông nói thêm, “Chi phí tăng thêm là phần chi phí cho cán bộ nghỉ lại đêm khi xuống thực hiện việc giám sát và cấp giấy chứng nhận. Đó là lý do tại sao phí này lên đến 50.000 đồng/người so với 30.000 đồng/người của hai Bộ Y tế và Công Thương,”

Lãnh đạo một DN (chắc sợ bị trù dập, không muốn nêu tên) phân tích: Đặc thù của các DN ngành nông, lâm, thủy sản là sử dụng nhiều nhân viên, từ vài trăm đến vài ba ngàn người trong mỗi DN. Mức chênh lệch để “nghỉ đêm” 20.000 đồng tính theo đầu người đối với các DN thủy sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là một con số rất lớn.


Doanh nghiệp chạy “phí bôi trơn” ở Hải quan Hải Phòng
 


Đấy là ông này còn nhát đòn, khi có ông “cán to” về ngủ lại một đêm còn nhiều thứ phải “cung phụng” khác nữa, một con số “bí mật” không sổ sách, lại tính cách xoay xở kiếm tiền thuế phí của anh dân đen. Chính vì thế nên các quan thích về tỉnh thanh tra hơn.
Thanh tra, kiểm tra quá nhiều
Công ty TNHH Chế biến Dừa Lương Quới (Bến Tre) cho biết, việc kiểm tra chuyên ngành 1 lô hàng trung bình mất từ 7-10 ngày làm việc. Cùng chung một hợp đồng, một nhà cung cấp dù đã kiểm tra lô trước đạt yêu cầu, lô sau vẫn phải lập lại trình tự như trước.

Thái độ làm việc của cơ quan kiểm tra chuyên ngành vẫn mang tính “xin- cho.” Tức là “mày phải xin thì ông mới cho” chẳng có luật lệ nào cả, luật ông là “luật rừng” ông xài từ khi còn ở trong rừng quen rồi, biết chưa? Về đến thành phố ông còn học được sách “bôi trơn” nữa. Không bôi trơn thì ngồi đấy cũng như cái xe máy của mày không có xăng mày chạy làm sao được. Phải biết cách “chạy,” đúng không?
Chưa hết, nhiều doanh nghiệp phải nhăn mặt tiếp các đoàn thanh tra.
Một tháng quá nhiều đoàn thanh tra
Tạm kể vài doanh nghiệp điển hình:
- Hiệp hội DN Dược phàn nàn, các DN dược bị quá nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra đến làm việc trong một năm, gây phiền hà khó khăn, lãng phí thời gian, kinh phí cho cả DN và ngân sách nhà nước.

- Hiệp hội DN Hải Dương cũng cho biết, các DN hội viên luôn ngán ngẩm về việc có quá nhiều đoàn đến thanh, kiểm tra. Có DN một năm phải tiếp đón từ 12 đến 15 đoàn, còn thông thường cũng có đến 8 đoàn.

- Hiệp hội DN tỉnh Thái Bình cho rằng, Bộ TN&MT triển khai quá nhiều các đợt thanh tra, có DN vừa mới thanh tra cuối năm 2014, năm 2015 mới có kết luận, thì năm 2016 lại có quyết định thanh tra tiếp.

- Hiệp hội DN tỉnh Vĩnh Phúc phản ánh, mỗi năm DN tiếp hàng chục đoàn thanh tra, kiểm tra, thậm chí có tháng 1 DN tiếp tới 4-5 đoàn thanh tra. Việc thanh, kiểm tra quá nhiều, cùng một nội dung gây khó khăn cho DN.

- Hiệp hội DN tỉnh An Giang cho biết, các cơ sở chế biến thực phẩm trong tỉnh phản ánh công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý chất lượng giữa ngành Nông nghiệp và Y tế, nên dẫn đến tình trạng một cơ sở bị thanh, kiểm tra nhiều lần trong năm do nhiều ngành thực hiện với nội dung tương tự.

- Công ty Công ty sản xuất thương mại Lạng Sơn cho biết, ở Lạng Sơn hiện nay việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và đăng ký kinh doanh đều vượt quá thời gian theo quy định của luật pháp.

Khi ban hành các văn bản dưới luật, có tình trạng “Thông tư, văn bản hướng dẫn cao hơn Luật” sinh ra tiêu cực chưa kể tình trạng cán bộ thụ lý yếu kém, cố tình sách nhiễu để DN phải “bôi trơn.” DN sản xuất kinh doanh nào cũng phải có các chi phí không chính thức, mới giải quyết được công việc.

- Hiệp hội DN Thanh Hóa cũng có ý kiến, tình trạng có Luật nhưng việc thực thi pháp luật lại chủ yếu dựa vào Nghị định, Thông tư hướng dẫn... Có tình trạng cơ quan quản lý ban hành văn bản hướng dẫn dùng từ ngữ "nửa nạc nửa mỡ" để bắt bẻ DN... dẫn đến hiện tượng DN buộc phải có phí bôi trơn cho các quan mới xong việc.

- Bộ trưởng Kế Hoạch đầu tư cũng phải kêu lên giữa Báo cáo tại hội nghị Thủ tướng với DN năm 2017 chi phí vận chuyển 1 container từ cảng Hải Phòng về Hà Nội đắt gấp 3 lần so với từ Hàn Quốc, Trung Quốc về VN.
Để chứng minh các quan thu thuế làm tiền như thế nào, nhân dịp này mấy chú phóng viên có dịp nhảy vào khám phá “quy trình chạy phí bôi trơn” ở Hải quan Hải Phòng.

qua tìm hiểu cũng như phản ánh của nhiều doanh nghiệp, ngoài các loại thuế, phí chính thống, các doanh nghiệp còn phải đóng một lượng tiền không nhỏ “phí bôi trơn.”


Cán bộ hải quan nhận tiền “phí bôi trơn”
Đến đâu cũng thấy Hải quan tham nhũng vặt
Theo phản ảnh của doanh nghiệp, một mặt hàng như container, hàng rời, sắt, thép, gỗ,… khi được nhập vào Hải Phòng hay xuất đi nước ngoài đều phải chịu nhiều loại phí “bôi trơn.” Phí “bôi trơn” đầu tiên phải kể đến là tại các đơn vị Hải Quan.

Ví dụ như tại Văn phòng Đội Giám Sát Hải Quan (trên tầng 3), Chi cục Hải Quan Khu Vực 3, cảnh đưa tiền “bôi trơn” diễn ra khá công khai. Nhân viên điềm nhiên kẹp tiền vào một tờ giấy A4 và đưa cho cán bộ hải quan. Việc cầm và nhận tiền của cán bộ hải quan diễn ra cũng bình thản như công việc thường nhật.

Chỉ trong vài phút có mặt tại đây, chúng tôi chứng kiến cảnh người người rút tiền từ trong ví rồi đặt vào tờ giấy khổ A4 được để sẵn trên bàn và gấp lại đưa cho cán bộ hải quan tại cửa đăng ký thủ tục hàng hóa. Tiền gói trong tờ giấy A4 có nhiều mệnh giá nhưng hầu hết là loại mệnh giá 500.000 đồng ($22). Người ít thì 1 tờ mệnh giá 500.000 đồng, người nhiều thì cả xấp. Tình trạng này diễn ra khá tấp nập.

Số tiền lập tức được cán bộ hải quan lấy ra từ các tờ giấy A4 và cho vào ngăn kéo của chiếc hộc nằm dưới bàn làm việc. Chừng 30 phút tiếp theo, vị cán bộ lại chuyển những tờ giấy A4 lên khu vực bàn làm thủ tục. Số tờ giấy A4 tiếp tục được người đến làm thủ tục và dùng để gói tiền vào đưa cho cán bộ hải quan.

Trong khi đó, anh Nguyễn Văn T. giám đốc một doanh nghiệp ở TP Hải Phòng chia sẻ, “Làm doanh nghiệp không bôi trơn thì chỉ có thiệt. Với chiêu thức “bới lông tìm vết,” kiểu gì họ cũng tìm ra lỗi. Khi bị bắt lỗi hàng hoá trì trệ, khi thì không giao đúng hợp đồng, không đúng tiến độ... nên nhiều doanh nghiệp phá sản.”
Nhưng khi trả lời phóng viên, ông Nguyễn Tiến Lộc, Cục trưởng Cục Hải quan Hải Phòng tuyên bố, “Những vấn đề thắc mắc của doanh nghiệp phản ánh thì đã có quy chế để giải quyết. Khi giải quyết các thủ tục hải quan có quy định rất chặt chẽ và tại các địa điểm làm thủ tục đều có camera giám sát và như vậy nếu như giả sử có hiện tượng “bôi trơn” hoặc hiện tượng đó là đơn lẻ thì trực tiếp được phát hiện ngay. Trường hợp phát hiện “bôi trơn” sẽ xử lý nghiêm những người liên quan”

Cái chiêu bài “sẽ xử lý nghiêm” đã thành bài học thuộc lòng của các quan tham ở VN từ vài chục năm nay nên các quan đều… trong sạch hết. Chẳng tìm được anh nào cầm tiền bôi trơn. Chỉ cầm dưới gầm bàn rồi nhanh tay đút vào ngăn kéo mang về cho vợ xây nhà lầu cho thuê hay đứng tên người khác, “tôi vẫn đi ở nhà thuê”!
Văn Quang (tháng 5, 2017)

VĂN HỌC MIỀN NAM

Hành trình nhận thức di sản văn học miền Nam

  • 13 tháng 6 2017
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Sau biến cố 1975, văn học miền Nam một thời gian dài bị phủ nhận tại Việt Nam

Một thời, văn học miền Nam 1954 - 1975 thường quy gọn vào mấy chữ "phản động và suy đồi", "thù địch với nhân dân"... Nhưng khu vườn văn chương đó là thực thể không thể gạt khỏi di sản văn hóa dân tộc.
Điểm danh phương châm tiếp vật xử thế với văn học miền Nam, chúng ta thấy gì?
Thấy cương lĩnh trong nghị quyết các kỳ đại hội và hội nghị Trung ương Đảng kết liễu sinh mệnh nền văn nghệ "bên kia chiến tuyến". Từ hành động quyết liệt: "(...) quét sạch ảnh hưởng tư tưởng và thực dân mới ở miền Nam (...)" (1976) cho đến ý chí riết róng: "(...) Không vì khôi phục lại vị trí và giá trị tác phẩm cho một số văn nghệ sĩ trước đây mà đề cao họ quá đáng (...)" (1989).
Những năm 1990 chuyển sang chiều hướng giảm nhẹ. Lời giới thiệu của một số sách tái bản thường nhấn mạnh: "(...) dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác và đường lối đổi mới của Đại hội VII (...), chúng ta có thêm công cụ có ích (...)" hay trích in mệnh đề: "(...) phát huy tự do tư tưởng tạo mọi điều kiện cần thiết cho hoạt động nghiên cứu (...)" (Nghị quyết số 01-NQ-TW, 28.3.1992).
Xem chừng sợi dây ràng buộc không dễ gì cởi bỏ một sớm một chiều.
Thấy văn học miền Nam rã rời và quay quắt bởi những văn bản pháp quy. Ngay những ngày đầu khi đất nước thanh bình, Bộ trưởng Bộ Thông tin Văn hoá Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Thông tri số 218/CT.75 (28.8.1975) và số 15/TTVH/MCTH (8.3.1976) cấm cửa "nọc độc văn hóa đồi trụy".
Thế rồi, Sở Thông tin Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh mở thêm chiến dịch thu hồi các loại văn hoá phẩm phản động bằng Thông tri số 12030/STTVH/XB (3.5.1977).
Và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh dồn tiếp Chỉ thị 22/CT-UB (29.4.1981) còn Sở Văn hoá và Thông tin cho ấn hành danh mục sách cấm và tạm được lưu hành (6.1981)...
Việt Nam đã thay đổi nhiều từ những năm gần đây 
Bản quyền hình ảnh EPA
Image caption Việt Nam đã thay đổi nhiều từ những năm gần đây
Thấy dòng thác cuốn phăng những di hại của thứ văn hóa ấy. Như Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng (1980). Mỗi bài viết trong công trình hợp soạn này nghị án một gương mặt khác hội khác thuyền. Hãy đọc Phan Đắc Lập khinh miệt Hồ Hữu Tường, một quái tượng trong bọn cầm bút chống phá cách mạng. Còn Huy Khánh không tiếc lời mạt sát Duyên Anh, tuổi trẻ, bịp và thực.
Ấy là chưa kể Thùy Dương men theo Những bước đường sáng tác tội lỗi của Nhã Ca... Lời nào cũng cường điệu. Ý nào cũng khô khốc. Lời và ý nào cũng hãi hùng. Vũ Khắc Khoan, tác giả Thần tháp rùa, Thành Cát Tư Hãn, Mơ Hương Cảng..., chiếu rọi thân phận con người cùng nghệ thuật với cuộc đời mà tỏ hiện cùng khắp trang viết là những "luận điệu mẹ mìn", "ý đồ chính trị phản động", "thủ đoạn chống phá tinh vi", "nọc độc triết lý hiện sinh sa đọa"...
Những người có quyền ấy đắc thắng quá. Những con chữ ấy ngoa ngoắt quá. Những dạy dỗ ấy "có gang có thép" quá. Tất cả là chứng tích gợi nhắc đến những "yêu ngôn" tạt qua sinh hoạt trí thức ngày nào.
Hãy tìm đến giọng điệu có phần nhẹ nhàng hơn trong Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại (1986) của Phạm Văn Sĩ. Nhẹ nhàng là vậy nhưng không giấu được sự quy chụp thô vụng và khiếm nhã. Ở đây, nhà nghiên cứu định danh dòng văn chương nữ lưu... của những Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng... là "loại văn chương tính dục hạ cấp". Là của con người ăn chơi trụy lạc, vô lý tưởng và mục đích. Là của xã hội tha hóa hưởng thụ, phá hoại nền đạo đức cổ truyền.
Nhưng sự "Trở về mái nhà xưa" (Chủ đề buổi trò chuyện nhân dịp ba tập truyện ra mắt ngày 19.1.2013) của Trần Thị NgH và mới đây, ngày 19.3.2017, của Nguyễn Thị Thụy Vũ... chứng thực giá trị thời đại và ý nghĩa xã hội trên trang viết của những cây bút nữ này.
Kẻ trước người sau góp thêm, bày ra, nối lời, nói tiếp... về "lũ bồi bút, không phản động, chống cộng thì cũng dâm ô, đồi trụy" hay "mánh lới, ngón nghề của tay sai chủ nghĩa thực dân mới".
Có thể kể ra đây vài cây bút "trấn thủ lưu đồn" nơi hiểm yếu của đường lối văn nghệ.
Đó là Trần Độ với Khẩn trương và kiên trì xóa bỏ hậu quả của văn hóa thực dân mới (1981). Đó là Hà Xuân Trường với Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa thực dân mới (1979).
Đó là Lữ Phương với Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1981, tái bản 1985)... Giờ đây, niềm tin in dấu trong từng trang viết hẳn đã đi đằng nào. Giờ đây, con chữ tranh hơn tranh thua đã rỗng nghĩa, chỉ còn giữ được cái vỏ âm thanh, chẳng mấy ai để ý đến.
Nhưng đáng kể hơn là "tập đại thành" Văn hóa, văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954 - 1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Theo như Lời giới thiệu, đây là kim chỉ nam để xây dựng tủ sách: "(…) có tập sách này sẽ dễ dàng hơn trong việc biết (...) những sách gì là tốt, sách gì là xấu, sách nào bị cấm, sách nào được lưu hành, sách nào, văn hóa phẩm nào từ thời Mỹ-ngụy còn lại cần được sử dụng theo phương hướng nào (…)".
Trần Trọng Đăng Đàn không cho phép xem "văn học thực dân mới" là "một giai đoạn, một phần của văn nghệ Việt Nam hiện đại". Những "con ranh con lộn" ấy không thể nối tiếp dòng chảy văn học từ 1954 trở về trước và hiện diện trong đồ biểu, bảng lược đồ hay cuốn sổ văn học hiện đại. Ông dụng công kết tội các nhà nghiên cứu miền Nam nhập nhèm trắng đen với chính tà. Đây là Uyên Thao trong Thơ Việt hiện đại 1900 - 1960 (1969) tùy tiện phối kết dòng thơ Việt từ Phan Bội Châu, Nguyễn Thiện Thuật, Tản Đà... đến "các cây bút phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy". Chép lại mà ngờ ngợ cái sai, cái quấy, cái kỳ lạ này. Dẫu Nam Bắc phân tranh thì lịch sử văn học cứ là dòng chảy không hề đứt đoạn và vẫn là sự tổng hòa những mảnh ghép của bức tranh toàn cảnh. Chẳng phải vậy sao?
Xin trở lại danh mục sách cấm và được phép lưu hành tập hợp trong "tập đại thành" kể trên. Riêng tác giả với toàn bộ tác phẩm bị cấm lên đến hàng trăm. Người ngoài cuộc Flemming, Gheorghiu, Sagan... cũng như kẻ mang vòng nguyệt quế Nobel như Pasternak, Solzhenitsyn "ngẩng lên trông trời" không khỏi ngỡ ngàng vì sao bản thân bị liệt lên đầu bảng "nô dịch, lai căng, lạc hậu...". Cây bút đồng chủng đồng văn Quách Lương Huệ, Kawabata Yasunari, Natsume Sōseki... cũng như danh gia Somerset Maugham, Stephan Zweig, Kahlil Gibran... "cúi xuống nhìn đất" cũng không khỏi bối rối vì sao trước tác của mình "có hại trong việc giáo dục đạo đức và thẩm mỹ".
Danh mục mang ý nghĩa lịch sử này là dẫn liệu gợi mở vài ý niệm sơ khởi về tác phẩm, tác giả và phong khí thời đại. Nó có thể mách bảo rằng việc cấm kỵ, một phần phụ thuộc vào nội dung và quan trọng hơn, vào nhân thân. Trong tình thế chẳng đặng đừng, danh mục này trở thành thư mục đầu tiên (dẫu chưa đúng quy cách) tổng kê hàng loạt dữ kiện có giá trị tham khảo. Riêng với giới chơi mảng sách trước 1975 là cẩm nang dò tìm sách cần sưu tập, đo lường mức độ quý hiếm...
Một chính thể không chỉ có lãnh thổ, con người, bộ máy hành chính... mà còn có cả nền văn nghệ nữa. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phải kiến tạo một nền văn học. Các yếu nhân đặt viên gạch nền móng hầu hết từ đất Bắc vào chi viện. Nguyên Ngọc với Đất nước đứng lên (1955) bây giờ là Nguyễn Trung Thành cùng Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969). Ca Lê Hiến từng viết Tiếng gà gáy (1965) trở thành Lê Anh Xuân với Hoa dừa (1969). Hay Lê Khâm với Bên kia biên giới (1958) chuyển thành Phan Tứ cùng Gia đình má Bảy (1968)... Mà nơi đó, còn có thêm những Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi), Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Văn Bổng (Trần Hiếu Minh)...
Cuộc chiến chưa kết thúc, Phạm Văn Sĩ đã kịp tổng kết thành quả đó bằng công trình Văn học giải phóng miền Nam (1975, tái bản 1976). Không những tán dương "quang cảnh tươi sáng rực hồng ban mai" của "nền văn học của nhân dân miền Nam thời chống Mỹ". Mà còn hơn thế nữa. Văn học giải phóng miền Nam ý chừng là giải pháp "đào thải" văn học miền Nam 1954 - 1975 và ươm ghép vào chỗ khuyết vắng đó trong cây phả hệ văn chương nước nhà.
Đôi chút ngần ngừ. Không lẽ mục từ "văn học giải phóng miền Nam" hay "văn học chống Mỹ" có thể thay cho "văn học miền Nam 1954 - 1975" trong các từ điển văn học?
Đã hơn bốn mươi năm trôi qua. Nhận thức chưa rẽ chiều đổi hướng rõ rệt nhưng thước đo thẩm định giá trị nghệ thuật có phần đong đưa và co duỗi. Sau một thời gian lặng lờ giữa chiều tà bóng khuất, từng tác phẩm được xem xét ngưỡng tốt xấu và cấp thị thực thông hành. Vậy là bỗng dưng bừng sáng bao nhiêu chân dung của thời đoạn 1954 - 1975 trên lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17.
Cũng phải, với Phạm Công Thiện, trước tác sau 1975 ngao du nơi chân trời góc bể nay quay về đứng cạnh một ít tác phẩm trước 1975 đã được hồi sinh trong nước. Như dấu gạch nối những mảnh hình hài cách trở của một đời văn. Như một minh chứng rằng đời sống văn chương học thuật là một mạch ngầm chuyển động không ngừng, có thể chạy dài đến những bến bờ xa xôi.

Theo ước tính của nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương (2012), chừng 160 tác gia miền Nam được phục dựng.
Từ cuối những năm 1980, bao nhiêu tiểu thuyết và sách dịch chiếm lĩnh thị trường chữ nghĩa. Và sang thế kỷ XXI, văn thơ và các nghiên cứu văn sử triết gắn với "tàn tích văn hóa Mỹ Ngụy" công khai trùng phùng trên quê hương.
Những Bùi Giáng, Nguyễn Vỹ, Nguyên Sa, Vũ Hoàng Chương từng bị vạch mặt là buông thả, sa đọa, cuồng loạn...
Những Nhất Hạnh, Dương Nghiễm Mậu, Tràng Thiên (Võ Phiến).... từng bị cáo buộc là "biệt kích văn hóa".
Giờ đây, họ vai sánh vai duyên hành cùng đời sống nghệ thuật nước nhà. Và rồi báo chí đăng tải các nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, hiện tượng văn học... Không ít khóa luận, luận văn, luận án và chuyên khảo... chọn "đứa con hoang" đó làm đối tượng khảo sát, cắt nghĩa, thẩm định, bình giá...
Trang sách cũ chưa gấp hẳn và trang sách mới còn lưỡng lự... Hoa trái của văn học miền Nam 1954 - 1975 chính thức đâm chồi, nảy lộc trong khu vườn văn chương ngát hương hãy còn là một chặng đường nhọc nhằn.
Bài viết bày tỏ quan điểm riêng của tác giả.
 http://www.bbc.com/vietnamese/forum-40261836

Tuesday, June 13, 2017



TIN TUC THẾ GIỚI


 



Nhật muốn bán thêm vũ khí cho Đông Nam Á




Nhật Bản vừa tổ chức 1 triển lãm vũ khí và muốn tăng doanh số thiết bị quân sự tới thị trường Đông Nam Á. Chính phủ của thủ tướng Shinzo Abe đang tìm cách mở rộng hợp tác công nghệ quân sự lĩnh vực ngoại giao mới.




Nhật đang tìm cách tăng doanh số thiết bị quân sự tại thị trường Đông Nam Á giữa bối cảnh căng thẳng tăng cao với Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, một quan chức quốc phòng Nhật cho biết ngày 12/6.
Đây là một phần trong nỗ lực của Thủ tướng Shinzo Abe nhằm tăng cường vai trò quân sự và doanh số thiết bị quốc phòng của Nhật, đặc biệt tại Đông Nam Á, nơi Trung Quốc đang mở rộng kinh doanh vũ khí.
Người đứng đầu Cơ quan Mua bán Hậu cần và Công Nghệ thuộc Bộ Quốc phòng Nhật, Hideaki Watanabe, cho biết thứ năm tuần này Nhật sẽ tổ chức cuộc họp với các giới chức quốc phòng từ Hiệp hội các nước Đông Nam Á để thảo luận việc chia sẻ thiết bị và công nghệ.
Phát biểu của ông Watanabe được đưa ra hôm thứ 2 tại cuộc triển lãm vũ khí quốc tế gần Tokyo với sự tham dự của hàng trăm quan chức quốc phòng và lãnh đạo ngành công nghiệp này từ khắp nơi trên thế giới.
Ông Watanabe cho biết thời gian gần đây xuất hiện những nỗ lực mạnh mẽ từ các nước tìm cách thay đổi hiện trạng. Nhận xét này rõ ràng ám chỉ việc xây đảo nhân tạo của Trung Quốc trên các khu vực tranh chấp ở biển Đông.
Ngành công nghiệp quốc phòng Nhật Bản trị giá khoảng 1.800 tỷ Yen (16 tỷ đô la) hàng năm, một phần nhỏ so với ngành công nghiệp ô tô trị giá 52.000 tỷ Yen (470 tỷ đô la) của nước này.
Nhật Bản hạn chế xuất khẩu vũ khí theo Hiến pháp chủ hòa, giới hạn các cuộc nghiên cứu và phát triển chung với Mỹ theo một hiệp ước an ninh song phương.
Kể từ khi nới lỏng các luật lệ này vào năm 2014, Nhật giờ đây đang tham gia các thỏa thuận nghiên cứu chung với Anh, Úc và Pháp.
Nhằm mở rộng ngành công nghiệp quốc phòng, chính phủ Nhật đã tăng cường tài trợ nghiên cứu tới hơn 10 tỷ Yen (90 triệu đô la Mỹ) trong năm nay.
 https://www.voatiengviet.com/a/nhat-muon-ban-them-vu-khi-cho-dong-nam-a/3899146.html




Bộ trưởng Tư pháp Mỹ bác tin thông đồng với Nga




Bộ trưởng Tư pháp Mỹ Jeff Sessions điều trần tại Ủy ban Ngoại giao Hạ viện về vai trò của ông trong việc xa thải giám đốc FBI James Comey, và những mối liên hệ của ông với Nga trong chiến dịch bầu cử Tổng thống.




Bộ trưởng Tư pháp Mỹ, Jeff Sessions, ngày 13/6 lên án ý kiến cho rằng ông thông đồng với Nga để can thiệp vào cuộc bầu cử Tổng thống 2016 là “một sự bịa đặt khủng khiếp và đáng kinh tởm.” Tuy nhiên, ông Sessions lại từ chối trả lời một loạt các câu hỏi trong buổi điều trần quan trọng tại Thượng viện.
Thành viên trong nội các Cộng hòa của Tổng thống Donald Trump kiêm cố vấn trong chiến dịch tranh cử của ông Trump, ông Sessions bị các Thượng nghị sĩ bên đảng Dân chủ chỉ trích vì từ chối trả lời những chất vấn của họ liên quan đến các cuộc trao đổi giữa ông Sessions với Tổng thống Trump.
Thượng nghị sĩ Dân chủ Martin Heinrich cáo buộc ông Sessions vi phạm lời thề nói lên sự thật đầy đủ. Ông Heinrich nói với ông Sessions: “Ông đang làm cản trở cuộc điều tra này.”
Ông Sessions đã tránh né những câu hỏi về việc ông có hay không có thảo luận với ông Trump về cách cựu Giám đốc FBI James Comey xử lý cuộc điều tra liên quan đến Nga, trước khi ông Trump sa thải ông Comey ngày 9/5. Tương tự như vậy, Bộ trưởng Tư pháp đã không trả lời liệu ông Trump có bày tỏ quan ngại với ông về quyết định hồi tháng 3 của Bộ trưởng Sessions tự loại mình ra khỏi cuộc điều tra về sự can dự của Nga vào bầu cử Mỹ.
Thượng nghị sĩ Angus King, một thành viên độc lập không thuộc đảng nào, hỏi ông Sessions rằng ông dựa trên cơ sở pháp lý nào để từ chối trả lời các câu hỏi. Ông Sessions đáp Tổng thống Trump đã không dùng tới đặc quyền hành pháp liên quan tới các cuộc trao đổi đó.
Đặc quyền hành pháp cho phép Tổng thống hoặc các quan chức cấp cao của ngành hành pháp cất giữ thông tin không cho Quốc hội và các tòa án liên bang xem với lý do bảo vệ quá trình ra quyết định của bên hành pháp.
Các cơ quan tình báo Hoa Kỳ kết luận trong một bản báo cáo hồi tháng 1 rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh can thiệp vào cuộc bầu cử nhằm giúp ông Trump bằng cách xâm nhập hệ thống máy tính và tung ra các emails làm tổn hại đến ứng cử viên Tổng thống bên đảng Dân chủ lúc đó là Hillary Clinton.
Buổi điều trần của ông Sessions đánh dấu chương mới nhất trong vụ tai tiếng bao trùm 5 tháng đầu tiên làm Tổng thống của ông Trump và làm lu mờ những chương trình nghị sự chính sách trong nước của Tổng thống bao gồm bảo hiểm y tế và các sáng kiến cắt giảm thuế.
Ông Sessions là thành viên cấp cao nhất của chính quyền Trump bị ‘để ý’ trong vụ tranh cãi về việc liệu các trợ lý của Tổng thống có thông đồng với Nga để giúp ông Trump thắng cử hay không


  Chiến dịch “Đá Vành Khăn”: Trump mạnh tay với Trung Quốc ở Biển Đông


media 
Khu trục hạm có trang bị tên lửa dẫn đường USS Dewey quá cảnh Biển Đông ngày 06/05/2017. Ảnh tư liệu của Hải Quân Mỹ.Kryzentia Weiermann/Courtesy U.S. Navy/Handout via REUTERS
Phải chờ đến bốn tháng sau ngày tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức, ngày 25/05/2017 vừa qua mới thấy một chiến hạm Mỹ tiến vào tuần tra bên trong khu vực 12 hải lý chung quanh một hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh bồi đắp tại vùng quần đảo Trường Sa (Biển Đông).
Trong bài phân tích đăng trên nhật báo Singapore The Straits Times ngày 02/06 vừa qua, tiến sĩ Lynn Kuok, nhà nghiên cứu tại Đại Học Cambridge, Anh Quốc, thỉnh giảng tại Trung Tâm Luật Quốc Tế, Đại Học Quốc Gia Singapore, đã nhận định rằng: chiến dịch khẳng định quyền tự do lưu thông hàng hải tại Biển Đông đầu tiên thời chính quyền Trump là một dấu hiệu cho thấy là Mỹ vẫn tiếp tục dấn thân vào khu vực.
Bên cạnh đó, căn cứ vào một số thông tin hiếm hoi có được về chiến dịch được khu trục hạm USS Dewey, thuộc Hạm Đội 3 Hoa Kỳ thực hiện ở khu vực Đá Vành Khăn (Mischief reef), có thể thấy là lần này, so với thời tổng thống Obama, Washington đã bắn đi một tín hiệu cứng rắn hơn về phía Trung Quốc.
Một cuộc tuần tra cho thấy quyết tâm tiếp tục dấn thân
Mở đầu bài viết mang tựa đề « Chiến dịch tuần tra đầu tiên của chính quyền Trump vì quyền tự do hàng hải ở Biển Đông: Trễ còn hơn không », tác giả bài phân tích trước hết ghi nhận tâm lý nóng ruột của cả giới quan sát lẫn các đối tác và đồng minh trong khu vực trước sự kiện chính quyền mới tại Mỹ có vẻ như bất động về Biển Đông.
Ngay từ đầu, các nhà quan sát đã tự hỏi là liệu chính quyền Donald Trump có tiến hành chiến dịch tự do hàng hải gần những đảo tranh chấp ở Biển Đông hay không, và nếu có thì vào lúc nào, và như thế nào. Theo họ, việc sẵn sàng tiến hành chiến dịch là dấu hiệu cho thấy quyết tâm của Mỹ trong việc bảo vệ luật quốc tế, đặc biệt là những quyền về hàng hải được quy định trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS. Nói một cách rộng hơn, đó là một chỉ dấu quan trọng của sự dấn thân của Mỹ trong khu vực.
Năm 2016, tức là năm cuối cùng trong nhiệm kỳ của chính quyền Obama, chiến dịch bảo vệ quyền tự do hàng hải tại Biển Đông đã được thực hiện theo nhịp độ 3 tháng một lần, và dù như thế, vẫn vấp phải lời chỉ trích là quá ít. Đồng minh và đối tác của Mỹ bên trong và cả bên ngoài khu vực đã càng lúc càng lo ngại khi thấy đã 4 tháng trôi qua mà chính quyền Trump vẫn không cho tiến hành một chiến dịch tự do hàng hải nào. Điều đó đã khiến nhiều người tự hỏi là phải chăng chính quyền Mỹ đã bỏ rơi Biển Đông để đánh đổi lấy hợp tác của Trung Quốc ở nơi khác, như trên vấn đề Bắc Triều Tiên chẳng hạn.
Tàu Mỹ tập trận thực sự bên trong vùng 12 hải lý của Đá Vành Khăn
Thông tin về chiến dịch mới đây của chiến hạm Mỹ USS Dewey bên trong vùng 12 hải lý quanh Đá Vành Khăn, quần đảo Trường Sa, như vậy đã chấm dứt hàng tháng trời thắc mắc. Một quan chức Mỹ xin giấu tên, nhấn mạnh rằng « chiến hạm USS Dewey đã thực hiện một cuộc « diễn tập bình thường », với bài tập « điều khiển con tàu » bên trong vùng 12 hải lý của Đá Vành Khăn. Một số thông tin còn nói rõ là chiếc tàu cũng đã di chuyển ngang dọc theo hình chữ Z, thậm chí còn thực hiện một cuộc diễn tập cứu « người bị rơi xuống biển ».
Đối với chuyên gia Lynn Kuok, như vậy là hiển nhiên chiến hạm Mỹ đã không áp dụng thủ tục « qua lại vô hại » khi đi qua vùng biển của một nước khác.
Theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, khi đi qua vùng 12 hải lý của một lãnh thổ nào đó, kể cả đảo, tàu một nước khác phải thực hiện cái gọi là thủ tục « qua lại vô hại - innocent passage ». Dù không cần phải xin phép nước có chủ quyền, nhưng khi đi qua thì phải đi thẳng và liên tục, không được có hành vi hay hoạt động không tốt cho « hòa bình, trật tự hay an ninh » đối với quốc gia có chủ quyền, ví dụ như hoạt động quân sự hay do thám. Một bài tập kiểu « cứu người rơi xuống biển » rõ ràng là không phù hợp với quy định về quyền qua lại vô hại.
Còn ở bên ngoài vùng 12 hải lý, theo UNCLOS, đó là quyền tự do hàng hải, với một loạt quyền trong đó có tự do lưu thông hàng hải, hàng không... Tự do hàng hải đối với phần đông các quốc gia trong cộng đồng quốc tế còn bao hàm quyền thao diễn quân sự, hoạt động do thám.
Khi một quan chức Mỹ mô tả là chiếc tàu USS Dewey đã thực hiện những « nhiệm vụ bình thường » và một bài tập « điều khiển con tàu », thì điều đó có nghĩa là Mỹ không áp dụng thủ tục qua lại vô hại, dùng khi đi qua hải phận quốc gia, mà là thực hiện quyền tự do hàng hải, một quyền khi di chuyển trên biển khơi và trong vùng đặc quyền kinh tế tính từ bờ biển.
Không công nhận lãnh hải quanh Đá Vành Khăn
Đối với chuyên gia Lynn Kuok, cách thức được chiến hạm Mỹ áp dụng đầy ý nghĩa, vì nếu chiếc USS Dewey tuân theo quy định trong thủ tục qua lại vô hại, thì điều đó có nghĩa là Mỹ ngầm công nhận Đá Vành Khăn là một hòn đảo đích thực có quyền có lãnh hải.
Chiến dịch tự do hàng hải đầu tiên của chính quyền Trump tại Biển Đông như vậy đã phù hợp với phán quyết tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye tháng 7 năm 2016 về Biển Đông, cho rằng Đá Vành Khăn nguyên là một thực thể nửa chìm, nửa nổi, cho nên không thể có hải phận hay vùng đặc quyền kinh tế, bất kể việc Trung Quốc đã bồi đắp đá này thành đảo nhân tạo.
Theo chuyên gia trên tờ The Straits Times, hiện không có cơ chế nào để thực thi phán quyết của Tòa Thường Trực La Haye, nhưng các chiến dịch tự do hàng hải phù hợp với quy chế các thực thể ở Trường Sa là một cách hậu thuẫn gián tiếp cho phán quyết.
Nói một cách khái quát thì việc thực hiện thường xuyên các chiến dịch này, phù hợp với luật quốc tế, sẽ giúp ngăn chận nỗ lực của Trung Quốc thực hiện trên thực tế việc kiểm soát Biển Đông.

Trung Quốc phản đối nhưng với lập luận không thuyết phục
Trước tiên Bắc Kinh tố cáo Mỹ tác hại đến « chủ quyền và an ninh » của Trung Quốc. Thế nhưng, như phán quyết của Tòa Trọng Tài đã xác định, Trung Quốc không thể có chủ quyền gì trên các bãi ngầm hay thực thể nửa chìm nửa nổi, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của một quốc gia khác. Đá Vành Khăn lại nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Philippines
Điểm thứ hai, Bắc Kinh phản đối việc chiếc USS Dewey đã đi vào  « vùng biển tiếp giáp của các đảo trong quần đảo Nam Sa (tên Trung Quốc gọi Trường Sa) của Trung Quốc mà không được phép của chính quyền Bắc Kinh ».
Thật ra cho dù Mischief Reef là một thực thể có lãnh hải, điều mà phán quyết Tòa Thường Trực đã hoàn toàn phủ nhận, thì tàu chiến vẫn có quyền đi qua theo thủ tục qua lại vô hại mà không cần xin phép trước.
Thứ ba, bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng Trung Quốc đã đưa ra một loạt những lời tố cáo các chiến dịch tự do hàng hải: « hành động sai trái », « khiêu khích », « phô trương sức mạnh », « thúc đẩy quân sự hóa khu vực », « hành vi lệch lạc ».
Tuy nhiên, quan điểm của Hoa Kỳ và phần lớn các quốc gia là hoạt động đó chỉ là sự khẳng định quan điểm pháp lý một cách hợp pháp, ôn hòa...
Mỹ cần có thêm hành động dứt khoát chống lại yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông
Với việc chính quyền Trump thể hiện thái độ sẵn lòng tiến hành các hoạt động bảo vệ quyền tự do hàng hải trên Biển Đông, nhiều quốc gia trong khu vực đã thở phào nhẹ nhõm, mặc dù một cách kín đáo và tránh xa ánh mắt giận dữ của Trung Quốc...
Tuy nhiên, theo phân tích của chuyên gia Lynn Kuok, Bắc Kinh nên hiểu rằng cách tiếp cận của Mỹ không phải là chống Trung Quốc, mà bắt nguồn từ việc bảo vệ nguyên tắc của một trật tự dựa trên luật pháp, từ đó thúc đẩy hòa bình và ổn định.
Về phần Hoa Kỳ, nước này không thể chỉ dừng lại một chiến dịch duy nhất, nếu muốn duy trì ảnh hưởng chiến lược rộng lớn của mình trong khu vực. Mỹ cần thường xuyên khẳng định các quyền trên Biển Đông, theo tinh thần phù hợp với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, đồng thời nên công bố rõ ràng và nhanh chóng các hoạt động bảo vệ tự do hàng hải đó.
Riêng đối với chính quyền Trump, cần phải nghiêm túc thúc đẩy việc phê chuẩn UNCLOS để khỏi bị chỉ trích là đạo đức giả.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20170605-chien-dich-da-vanh-khan-trump-tq-bd

 Chính quyền An Giang dựng chốt chặn khách đến Quang Minh Tự




Một chốt chặn khách vào dự lễ kỷ niệm ngày Khai sáng do PGHH Thuần túy tổ chức ở tỉnh An Giang, 10/6/2017 (Facebook PGHH Thuần túy)




Công an tỉnh An Giang lập 4 chốt an ninh, chặn không cho các tín hữu vào Quang Minh Tự để làm lễ nhân kỷ niệm ngày khai sáng Phật giáo Hòa Hảo hôm 12/6, theo vị trụ trì chùa.
Từ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, ông Võ Văn Thanh Liêm, trụ trì Quang Minh Tự, cho VOA – Việt ngữ biết chính quyền địa phương đã cản trở, không cho nhiều khách vào chùa, một ngày trước khi diễn ra lễ chính.
Ông Thanh Liêm nói khách ở xa đến thì chính quyền tìm cách ngăn chặn, khách ở gần thì bị đe dọa, và ngay cả ông Nguyễn Văn Lía, một tu sĩ có tầm ảnh hưởng lớn của khối Phật giáo Hoà Hảo Truyền thống, cũng bị chặn:
“Họ đóng 4 chốt, mỗi chốt có 5-10 người ở ngoài đường. Khi xe của khách đến đó không thể nào vô được. Có một khách ở Trà Vinh lên phải cởi quần áo, chỉ để quần cụt mới vào được chùa. Khi vào được thì khách này cho biết họ hăm he, ‘sẽ cho cơ động bắt’. Khách ở gần thì không dám vô chùa. Họ hăm từng nhà. Ông Ba Lía cũng bị chặn, bị đuổi về. Tất cả những ai lên tiếng bảo vệ cho đạo mà khác với ý của họ, thì họ không cho đến Quang Minh Tự.”
Họ đóng 4 chốt, mỗi chốt có 5-10 người ở ngoài đường. Khi xe của khách đến đó không thể nào vô được.
Ông Thanh Liêm, một tu sĩ 77 tuổi, từng bị giam cầm 6,5 năm tù cộng với 3 năm quản chế về cáo trạng “chống người thi hành công vụ” vì đã lên tiếng bênh vực cho tự do tôn giáo, cho VOA biết thêm:
“Tín đồ các nơi họ muốn tới, nhưng còn sợ lắm. Nếu không sợ, họ đến đây khoảng vài chục xe. Cách nửa cây số họ đã chặn trước rồi. Những người nào thường ghé đây - họ đuổi trước, chứ không dễ dàng gì mà tới được.”
Theo ông Thanh Liêm, từ ngày hôm trước đã có khoảng 60 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tề tựu về Quang Minh Tự để dự buổi cầu nguyện cho Quốc thái Dân an.
Dù ít người tới được Quang Minh Tự, nhưng buổi lễ chính đã được tổ chức trang nghiêm và kết thúc lúc 15 giờ ngày 18 tháng 5 âm lịch, đánh dấu 78 năm ngày Khai sáng Phật giáo Hòa Hảo, do Huỳnh Giáo chủ - tức ông Huỳnh Phú Sổ, sáng lập vào năm 1939.
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy ở tỉnh An Giang
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy ở tỉnh An Giang
Tu sĩ Thanh Liêm cho biết năm nay chính quyền dường như “lui lại một chút” vì năm ngoái ông quyết đòi tự thiêu để bảo vệ các tín đồ khi họ đến chùa làm lễ, hành đạo, trước sự ngăn cản của chính quyền:
“Năm ngoái, họ có trên 300 người, đánh đập, giựt giấy tờ xe, trong đó có gần 100 người cầm cây. Họ đánh nhiều người bị thương. Vào tháng năm, năm ngoái, họ chặn đường, đánh người, làm những người vô đây bị thương, bị bể đồ, lật gọng. Tôi cầm bình xăng ra, chế lên đầu tôi. Khi đó, họ mới sợ và dừng. Họ không chặn nữa. Vì vậy, năm nay họ lui một chút vậy thôi.”
Ông Thanh Liêm còn tố cáo chính quyền tỉnh Vĩnh Long đã bắt giam và gây ra cái chết của tín đồ Hòa Hảo Nguyễn Hữu Tấn hồi đầu tháng 5/2017.
“Tố cáo chính quyền trong trường hợp của tín đồ Nguyễn Hữu Tấn. Cộng sản thực hiện cuộc điều tra rất ác độc. Từ xưa tới giờ, chưa có ai bị cắt gần lìa cổ như vậy. Cộng sản có lúc nào buông tha tôn giáo đâu.”
Cộng sản có lúc nào buông tha tôn giáo đâu.
Cùng ngày 12/6, một nhóm tu sĩ Hòa Hảo không được công nhận ở tỉnh Đồng Tháp cũng bị chính quyền ngăn chặn khi làm lễ Khai sáng. Ông Nguyễn Văn Điền, Hội trưởng Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy viết trên Facebook như sau:
“Cũng như những kỳ lễ trước, các cấp công an Đồng Tháp lập trạm ngăn cản trên các nẻo đường đi vào điểm Lễ nhằm hạn chế tối đa số đông đồng đạo đến đây tham dự. Với tinh thần ‘Ưu sư Trọng pháp’, quý đồng đạo hiếm hoi nơi đây, vẫn nhiệt tình tổ chức mùa Đại lễ, bất chấp mọi thử thách gian nguy đang chực chờ phía trước.”
Theo báo Lao Động, cũng trong ngày 12/6, tại An Hòa Tự, Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận và hỗ trợ, đã tổ chức buổi lễ tương tự, nhằm “xây dựng cuộc sống mới”, và “phát huy tốt sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Tại một buổi lễ tương tự do chính quyền huyện Chợ Mới tổ chức, ông Nguyễn Thanh Phong - Bí thư huyện ủy Chợ Mới nói ông rất “mong muốn trong thời gian tới, các tín đồ cần tiếp tục phát huy thành quả hoạt động đạo sự đã đạt được trong những năm qua, chấp hành nghiêm Luật Tín ngưỡng - Tôn giáo, Hiến chương của Giáo hội, đấu tranh phòng ngăn những biểu hiện sai lệch trong tổ chức, tiếp tục đường hướng đồng hành cùng dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo, hết lòng ủng hộ Ðảng và Nhà nước…”, theo trang mạng của tỉnh An Giang.


 



BTQP Mỹ: “Không thể chấp nhận việc quân sự hóa các đảo nhân tạo.”




BTQP Mỹ James Mattis đến đọc diễn văn tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 16 ở Singapore, ngày 3/6/2017.




Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis hoan nghênh các nỗ lực hợp tác của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế về vấn đề Bắc Hàn tại diễn đàn an ninh thường niên ở Singapore hôm thứ Bảy. Tuy nhiên, về vấn đề Biển Đông, ông miêu tả việc Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa các đảo nhân tạo tại đó, bất chấp trật tự quốc tế, là điều không thể chấp nhận.
Trong bài diễn văn đọc trước các đại biểu và giới truyền thông tham dự cuộc đối thoại Shangri-La, ông Mattis nói:
"Chúng tôi không thể chấp nhận các hành động của Trung Quốc xâm phạm đến lợi ích của cộng đồng quốc tế, phá hoại trật tự dựa trên luật lệ vốn phục vụ tất cả các nước có mặt hôm nay tại diễn đàn này, kể cả và đặc biệt, là Trung Quốc".
Ông Mattis nói trong khi sự cạnh tranh giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới chắc chắn sẽ có, nhưng xung đột không nhất thiết phải xảy ra.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nói: "Xây dựng đảo nhân tạo và quân sự hóa các sơ sở trên các thực thể trong lãnh hải quốc tế, phương hại đến sự ổn định khu vực". Ông lưu ý rằng việc Trung Quốc củng cố quân sự các căn cứ trên những đảo nhân tạo, khác biệt với những gì các nước khác đã làm.
Ông Mattis nói cách tiếp cận của Bắc Kinh không chỉ khác biệt về mặt bản chất của các động thái vũ trang các đảo nhân tạo, mà còn về thái độ của Bắc Kinh, "coi thường pháp luật quốc tế, không tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, cũng như cố gắng của Trung Quốc gạt sang một bên tiến trình giải quyết ôn hòa các vấn đề liên quan".
Trung tướng He Lei, Phó Giám Đốc Học viện Khoa học Quân sự Trung Quốc và cũng là người đứng đầu đoàn Trung Quốc tại các cuộc họp ở Shangri-La, đã thẳng thừng bác bỏ những tố cáo của ông Mattis. Tướng He nói Trung Quốc đã ký kết hơn 23.000 hiệp định song phương và 400 hiệp định đa phương, đồng thời tham gia vào tất cả các ủy ban đặc biệt của Liên Hiệp Quốc.
Ông He nói:
"Trung Quốc là một nước ủng hộ và bảo vệ các quy tắc và quy định quốc tế cũng như khu vực, nhưng khi định nghĩa các quy tắc quốc tế, cần phải dựa trên những gì mà đa số các nước đồng ý, và đại diện cho các lợi ích của đa số".
Ông He nói thêm rằng điều đó cũng áp dụng cho các quy tắc và quy định khu vực. Ông lưu ý những tiến bộ hồi gần đây của Trung Quốc cùng với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á trong việc soạn thảo một thỏa thuận khung cho một bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông.
Ông nêu bật vai trò của Trung Quốc tham gia hình thành Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển mà Bắc Kinh phê chuẩn vào năm 1996.
Tuy nhiên, ông He không đề cập đến việc Bắc Kinh bác bỏ phán quyết của Toà Trọng tài thường trực La Haye về vấn đề Biển Đông hồi năm ngoái. Phán quyết của tòa bác bỏ lập luận của Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh có chủ quyền lịch sử trên hầu hết tuyến hàng hải đang trong vòng tranh chấp gay gắt trong khu vực.
Từ khi lên nhậm chức, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đặt vấn đề Bắc Hàn vào thứ tự ưu tiên hàng đầu, và trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Mattis lặp lại mối quan ngại của chính quyền Tổng thống Trump về mối nguy rõ rệt và hiện hữu do Bắc Hàn đặt ra cho khu vực và xa hơn nữa.
Đối thoại Shangri-La: ‘Mỹ sẽ không mang lợi ích của các đồng minh ra làm con bài để mà cả’.
Bộ trưởng Mattis nói:
"Cùng với những tuyên bố liều lĩnh, chương trình của Bắc Hàn hiện nay thể hiện rõ ý định của nước này muốn thủ đắc tên lửa đạn đạo có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, kể cả các phi đạn liên lục địa, vốn đặt ra những mối đe dọa trực tiếp và tức thời đối với các đồng minh trong khu vực, các đối tác của chúng ta, và cả thế giới".
Những phát biểu gay gắt của ông Mattis đã xóa tan phần nào những suy đoán của một số người rằng chính quyền hiện nay duy trì sự im lặng về vấn đề Biển Đông để đổi lấy sự hợp tác của Trung Quốc trong việc đối phó với Bình Nhưỡng.
Bộ trưởng Mattis tuyên bố Hoa Kỳ sẽ không mang những lợi ích của các đồng minh ra làm những con bài để mà cả.
Không giải thích chi tiết, nhưng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cho biết là các nước đang làm việc để đề ra những biện pháp trừng phạt mới, được tăng cường, đồng thời tăng nỗ lực ngoại giao để gây áp lực đối với Bắc Hàn. Nhưng ông nói thêm rằng bên cạnh lời nói và sự hỗ trợ, hành động của tất cả các bên liên quan cũng cần thiết.
Ông nói:
"Chính quyền của ông Trump được khích lệ bởi cam kết mới của Trung Quốc trong nỗ lực hợp tác với cộng đồng quốc tế hướng tới phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên."
Ông nói: “Rốt cuộc, Mỹ tin rằng Trung Quốc sẽ nhận ra rằng Bắc Triều Tiên là một gánh nặng chiến lược chứ không phải là một tài sản. Gánh nặng ấy đã làm tăng sự bất hòa và khiến các dân tộc yêu chuộng hòa bình trong khu vực, phải tăng chi tiêu quốc phòng”.
Trong khi các quan hệ giữa Bình Nhưỡng và Bắc Kinh ngày càng trở nên lạnh nhạt hơn trong những năm gần đây dưới quyền Kim Jong-Un, Trung Quốc vẫn là đồng minh và là nước ủng hộ lớn nhất của Bắc Hàn. Một số nhà phân tích cho rằng Bắc Kinh không thực sự muốn giải quyết vấn đề này, vì họ e rằng làm như vậy có thể dẫn tới một nước Triều Tiên thống nhất, và mặc nhiên đặt Hoa Kỳ ngay tại cửa ngõ phía đông bắc của Trung Quốc.
Mặc dù vậy, những lời đe doạ và các cuộc thử nghiệm phi đạn liên tục của lãnh tụ Kim Jong Un đang làm xói mòn sự hỗ trợ dành cho Bắc Hàn ở Trung Quốc. Và trong nước này đang xuất hiện những lời kêu gọi ngày càng gay gắt hơn, đòi Bắc Kinh phải có phản ứng quyết liệt hơn.
 https://www.voatiengviet.com/a/btqp-my-khong-the-chap-nhan-viec-quan-su-hoa-cac-dao-nhan-tao/3885469.html

TQ nổi đóa vì phát biểu ‘vô trách nhiệm’ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ về Biển Đông




Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, ngày 3/6/2017.



Trung Quốc tỏ rõ sự tức giận đối với những phát biểu mà nước này gọi là “vô trách nhiệm” của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis về vấn đề Biển Đông tại một diễn đàn an ninh vào cuối tuần qua.
Theo Reuters, ông Mattis đã cáo buộc Trung Quốc coi thường lợi ích của các quốc gia khác và không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Tại diễn đàn Đối thoại Shangri-La hàng năm ở Singapore, ông Mattis nói việc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông làm suy yếu sự ổn định của khu vực.
Đáp lại, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói việc xây dựng các cơ sở của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông là nhằm cải thiện điều kiện làm việc cho những người đồn trú tại đó, đồng thời duy trì chủ quyền và thực hiện các trách nhiệm quốc tế của Trung Quốc.
Các hoạt động có chủ quyền mà Trung Quốc thực hiện không liên quan gì đến việc quân sự hóa, bà Hoa nói trong bài phát biểu đăng trên trang mạng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào cuối ngày Chủ nhật.
Bà Hoa nói thêm rằng các nước quanh khu vực Biển Đông đã cố gắng làm giảm căng thẳng, nhưng những kẻ khác ở bên ngoài khu vực lại “tìm cách đi ngược lại xu hướng này, liên tục đưa ra những nhận xét sai trái, phớt lờ sự thật và cố tình gây nhầm lẫn với những động cơ mờ ám”.
Người phát ngôn của Trung Quốc nói thêm rằng “Trung Quốc kiên quyết phản đối điều này và kêu gọi các bên liên quan ngừng đưa ra những nhận xét vô trách nhiệm, tôn trọng nỗ lực của các nước trong khu vực nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, và đóng vai trò xây dựng trong vấn đề này”.
Bộ trưởng Quốc phòng Mattis nói việc tìm kiếm sự hợp tác của Trung Quốc về vấn đề Bắc Triều Tiên không có nghĩa là Washington sẽ không thách thức các hoạt động của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Tuần trước, một tàu chiến của Hải quân Mỹ đã tuần tra trong khu vực 12 hải lý của một hòn đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã xây trên một bãi đá có tranh chấp ở Biển Đông. Đây là thách thức đầu tiên của Washington đối với Bắc Kinh kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump lên nắm quyền.
Hoa Kỳ sẽ tiếp tục “bay, đi lại và hoạt động bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép, và thể hiện quyết tâm này thông qua hoạt động hiện diện ở Biển Đông và xa hơn nữa”, ông Mattis khẳng định.
Bà Hoa Xuân Oánh nói Trung Quốc luôn tôn trọng quyền tự do hàng hải, nhưng phản đối các cuộc biểu dương lực lượng ở Biển Đông dưới hình thức các cuộc tập trận như là những đe dọa đối với chủ quyền và an ninh của Trung Quốc.
Reuters dẫn nguồn báo China Daily hôm thứ Hai cáo buộc Hoa Kỳ là “đạo đức giả”.
Báo này nói “Quyết định của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump rút Mỹ ra khỏi Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu là một ví dụ mới nhất về cách Hoa Kỳ bất chấp các thỏa thuận quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt và ích kỷ của mình”.

Hà Nội chỉ trích Hàn Quốc vinh danh cựu quân nhân tham chiến ở Việt Nam


mediaTổng thống Hàn Quốc Moon Jae In đọc diễn văn nhân Ngày Tưởng Niệm hôm 06/06/2017.REUTERS/Kim Hong-Ji
Ngày 12/06/2017, Hà Nội phản đối việc tổng thống Moon Jae In vinh danh các cựu chiến binh Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam, xem việc này “nh hưởng tiêu cực” đến quan hệ giữa hai nước.
Trong bài phát biểu nhân Ngày Tưởng Niệm hôm 06/06 vừa qua, tổng thống Moon Jae In đã đặc biệt nhấn mạnh đến “sự tận tụy và hy sinh” của các cựu chiến binh Hàn Quốc từng tham chiến ở Việt Nam, mô tả họ là những người đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của nước này.
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng ngày 12/06/2017 tuyên bố rằng phát biểu nói trên của tổng thống Hàn Quốc “gây tổn thương” cho người dân Việt Nam, và Việt Nam “đề nghị chính phủ Hàn Quốc không có các hành động và phát ngôn gây tổn thương tới tình cảm của nhân dân Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ hợp tác hữu nghị hai nước”.
Bà Lê Thị Thu Hằng cũng cho biết là về vấn đề này, ngày 09/06/2017, đại diện bộ Ngoại Giao Việt Nam đã có trao đổi “nghiêm khắc” với đại diện đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam.
Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, Seoul đã gởi gần 300 000 quân đến tham chiến cùng với quân đội Mỹ. Nhờ tham chiến ở Việt Nam mà Hàn Quốc, lúc đó còn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, đã được vay hàng tỷ đôla từ Hoa Kỳ và các định chế tài chính quốc tế và từ đó nước này bắt đầu phát triển thành một trong những nền kinh tế giàu mạnh nhất thế giới như hiện nay.
Nhưng trong thời gian chiến tranh Việt Nam, quân đội Hàn Quốc bị cáo buộc đã tàn sát hàng ngàn thường dân. Cho tới nay, Seoul vẫn không nhìn nhận quân đội Hàn Quốc đã gây ra những vụ thảm sát này. Theo lời một nhà hoạt động Hàn Quốc nói với nhật báo The Korea Times, đây là lần đầu tiên chính phủ Việt Nam có phản ứng chính thức về cáo buộc thảm sát đó, vì cho tới nay, chủ trương của Việt Nam là “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai
Hôm nay, bộ Ngoại giao Hàn Quốc đã cố làm dịu sự tức giận của phía Việt Nam, khẳng định rằng quan hệ hữu nghị giữa hai nước “rất quan trọng”. Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nước này giải thích rằng tuyên bố của tổng thống Moon Jae In nhằm kêu gọi phải đãi ngộ xứng đáng hơn với những quân nhân đã từng phục vụ đất nước, chứ không nhằm làm tổn thương tình cảm của người dân Việt Nam.
Hiện giờ, Hàn Quốc là nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam, với tổng cộng 50 tỷ đôla tính đến cuối năm 2016, theo số liệu của Cơ Quan Xúc Tiến Đầu Tư - Mậu Dịch Hàn Quốc.
 http://vi.rfi.fr/viet-nam/20170613-ha-noi-chi-trich-tong-thong-han-quoc-vinh-danh-cuu-chien-binh-tham-chien-o-viet-na


Trung Quốc không lấp được khoảng trống Donald Trump tạo ra


mediaTổng thống Mỹ Donald Trump và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Mar-a-Lago, Florida, 06/04/2017.REUTERS/Carlos Barria
Thông tín viên Frédéric Schaeffer của Les Echos tại Bắc Kinh hôm nay có bài viết mang tựa đề « Vì sao Trung Quốc không lấp được khoảng trống do ông Trump tạo ra ».
« Now, China lead ». Đó là nhận định của tổng thống Pháp Emmanuel Macron trong hội nghị thượng đỉnh G7 tại Taormina (Ý). Lãnh đạo các nước giàu có nhất hành tinh đã cố gắng thuyết phục tổng thống Mỹ Donald Trump không rút khỏi hiệp định khí hậu Paris, nhưng chỉ hoài công. Theo biên bản được tờ Der Spiegel tiết lộ, thì Macron nói rằng hiện tượng thay đổi khí hậu là nguy cơ có thực, thủ tướng Đức Angela Merkel nhấn mạnh nếu Hoa Kỳ rút lui sẽ khiến cho Trung Quốc tha hồ tung hoành. Nhưng khi mọi người hiểu được rằng Donald Trump không thay đổi quan điểm, Emmanuel Macron rút ra kết luận : « Bây giờ thì Trung Quốc cầm đầu ».
Trump mở ra những cơ hội bằng vàng cho Bắc Kinh
Donald Trump hy vọng « làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại », nhưng ông lại dâng cho Bắc Kinh cơ hội duy nhất để trở thành đại cường số một thế giới. Đây không phải là món quà đầu tiên ông Trump dành cho Tập Cận Bình. Bác bỏ chủ nghĩa đa phương, đẩy nhanh sự co cụm của Mỹ, chính quyền Trump ngay từ tháng Giêng đã rút khỏi hiệp định TPP vốn được thiết kế để cô lập Trung Quốc. Tổng thống Mỹ nhiều lần chỉ trích Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và NATO, thậm chí còn từ chối khẳng định cam kết bảo vệ các đồng minh.
Tất nhiên là các đối tác truyền thống hoang mang. Thủ tướng Đức cay đắng tuyên bố, thời kỳ có thể tin cậy vào Hoa Kỳ đã qua rồi, và vài ngày sau, bên cạnh Lý Khắc Cường, bà nói : « Trung Quốc đã trở thành một đối tác chiến lược và quan trọng hơn ». Thủ tướng Trung Quốc như mở cờ trong bụng.
Trước một Hoa Kỳ từ chối vị trí thống lĩnh thế giới, Trung Quốc bỗng dưng đứng trước một đại lộ thênh thang để trở thành đại cường hàng đầu. Donald Trump hứa hẹn chủ nghĩa bảo hộ ? Tập Cận Bình bèn đóng vai sứ thần rao giảng cho tự do mậu dịch, tại Davos hồi tháng Giêng. Trump ca ngợi sự co cụm lại ? Bắc Kinh tổ chức một hội nghị thượng đỉnh quy mô vào tháng Năm để xúc tiến « Con đường tơ lụa mới », dự án thương mại và hạ tầng khổng lồ nối liền Á-Âu. Trump rút khỏi TPP ? Tập Cận Bình liền thúc đẩy hiệp định tự do mậu dịch của Trung Quốc là RCEP. Hoa Kỳ tố cáo hiệp định khí hậu Paris ? Trung Quốc, nước gây ô nhiễm nhiều nhất hành tinh vội vã khẳng định sẽ duy trì cam kết.
Mỗi lần như vậy là cơ hội bằng vàng cho chế độ cộng sản Trung Quốc đánh bóng lại hình ảnh của mình với cái giá rẻ rề, mở rộng ảnh hưởng và tự trình diễn như một lực lượng ổn định trước một tổng thống Mỹ bốc đồng và một Hoa Kỳ khép mình lại. Donald Trump chính là nhân tố đẩy nhanh sự hội nhập của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Mô hình trái ngược với thế giới tự do
Nhưng theo Les Echos, nếu tin rằng người khổng lồ châu Á có khả năng đóng vai trò lãnh đạo thế giới mà người Mỹ bỏ lại, có vẻ thiếu thực tế. Nhà nghiên cứu François Godement của think tank European Council on Foreign Relations nhận định : « Mô hình quản lý của Bắc Kinh về cơ bản không tương hợp với trật tự thế giới tự do. Trung Quốc chọn lựa khi nào cam kết, khi nào rút lui », tùy theo lợi ích của mình.
Về thương mại, Trung Quốc muốn xuất hiện như một tín đồ của tự do mậu dịch, nhưng lại đóng cửa thị trường nội địa với các công ty nước ngoài. Về khí hậu, Bắc Kinh đổi sang thái độ bảo vệ môi trường không phải vì muốn ủng hộ chủ trương của thế giới, mà vì áp lực trong nước : không còn có thể làm ngơ trước sự bất bình ngày càng tăng của dân chúng về đại dịch ô nhiễm.
Tương tự, Trung Quốc tham gia tích cực hơn vào lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc, nhưng lại mắt lấp tai ngơ trước việc giúp đỡ người tị nạn hay can thiệp quân sự vào Libya hay Syria. Chuyên gia François Godement nhấn mạnh, nhất là Bắc Kinh không ngần ngại « bác bỏ thẳng thừng các quy định quốc tế nếu bất lợi cho mình tại khu vực », như đã chứng tỏ vào năm ngoái, khi kiên quyết không chấp nhận phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye về Biển Đông.
Bắc Kinh tiếp tục độc hành, từ chối bị trói tay bởi các hiệp ước quốc tế mang tính ràng buộc. Chẳng hạn hiệp định RCEP do Trung Quốc đề nghị thấp hơn hẳn so với TPP, vốn không chỉ giới hạn ở hàng rào thuế quan mà còn cả các tiêu chuẩn về lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ. Ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc cũng không khiến cho các nước láng giềng lấy làm vui.
Và, phía sau những nụ cười ngoài mặt, việc Trung Quốc và Liên Hiệp Châu Âu không thể thỏa thuận được về một thông cáo chung sau hội nghị thượng đỉnh Bruxelles mới đây, đã nói lên rất nhiều về những bất đồng dai dẳng. Viễn cảnh một bộ đôi Châu Âu-Trung Quốc lấp được khoảng trống do Hoa Kỳ bỏ lại, không phải là ngày một ngày hai.
Bắc Kinh còn phải mất một thời gian dài cho tham vọng quốc tế của mình. Ưu tiên hiện nay phải dành cho việc duy trì tăng trưởng kinh tế trong nước. Và như vậy, Hoa Kỳ không còn lãnh đạo thế giới không có nghĩa là Trung Quốc bỗng chốc vọt lên thành đại cường số một hành tinh.
Chi phí cho Trump Hotel của các nhà lobby Ả Rập Xê Út
Cũng liên quan đến tổng thống Mỹ, Les Echos trích dịch bài viết trên tờ Time nói về vấn đề xung đột lợi ích, tuy rành rành như ban ngày nhưng không còn làm ai ngạc nhiên.
Từ khi ông Donald Trump nhậm chức, Trump Hotel đã trở thành nơi các nhà ngoại giao nước ngoài chọn lựa để tìm cách tranh thủ cảm tình của tổng thống, với giá thuê phòng đắt đỏ và những ly cocktail có giá trên 100 đô la. Từ tháng Mười năm ngoái đến tháng Năm năm nay, các nhà vận động hành lang của Ả Rập Xê Út đã chi ra đến 270.000 đô la, cả tiền phòng lẫn chi phí ăn uống, cho đến khi tổng thống Hoa Kỳ dành chuyến công du đầu tiên cho quốc gia Trung Đông này.
Thật ra cũng chẳng cần cất công đến tận Washington để nịnh nọt ông Trump. Sự hiện diện của các Trump Tower, từ Manila đến Panama, đã xóa nhòa giới hạn giữa các mục tiêu của một tổng thống và doanh nhân. Một chuyên gia cho rằng « Khách sạn chỉ là phần nổi của tảng băng ». Chính ông Trump năm 2015 nhìn nhận : « Tôi có chút ít xung đột lợi ích, vì có một tòa nhà hết sức quan trọng ở Istanbul ».
Tuy nhiên luật liên bang về vấn đề này lại không áp dụng cho tổng thống. Time nêu ra một sự mỉa mai của lịch sử : Donald Trump được bầu lên nhờ lời hứa sẽ ra tay dọn dẹp những bất hợp lý ở Washington D.C.
Anh : Thất bại cay đắng của Theresa May và chủ nghĩa dân túy
Nhìn sang Anh quốc, đồng minh của Mỹ ở châu Âu, các báo Pháp đều chú ý đến thất bại của thủ tướng Theresa May trong cuộc bầu cử Quốc Hội trước kỳ hạn mới đây. Le Monde nhận định « Therera May bám lấy quyền lực », La Croix cho rằng « Tương lai bất định đối với bà May », Libération dự báo « « Đối với Theresa May, chỉ còn đếm từng ngày », còn Les Echos phân tích về « Thất bại cay đắng của bà May ».
Theo tác giả Dominique Moïsi, cũng như cựu thủ tướng David Cameron đã thất bại trong cuộc trưng cầu dân ý « Brexit », bà May đã thua cuộc khi muốn củng cố sức mạnh của phe bảo thủ. Đó là một nước Anh chia rẽ hơn bao giờ hết, đang chuẩn bị đối đầu với thực tế của Brexit.
Giáo sư Moïsi cho rằng không nên đùa giỡn với sự tham vấn người dân qua lá phiếu. Đây là lần thứ hai trong vòng chưa đầy một năm, một thủ tướng Anh đã gánh lấy rủi ro lớn này và đều thất bại. Ông David Cameron muốn tăng cường sự đoàn kết của đảng bảo thủ qua việc cho trưng cầu dân ý về châu Âu, còn bà Theresa May muốn củng cố đa số tại Quốc Hội để có thể thương lượng các điều kiện Brexit trên thế mạnh.
Cùng với thất bại, David Cameron đã mất ghế, còn bà May vẫn muốn bám lấy quyền lực nhưng cho đến bao giờ ? Thay vì đa số tuyệt đối, nay đảng của bà lại mất cả thế đa số. Tệ hơn nữa, bà May muốn đóng vai phiên bản « thực dụng » của bà đầm thép Thatcher, nhưng người Anh nhanh chóng nhận ra bà « không chạm nổi đến gót chân của kiểu mẫu này, trừ sự độc đoán ».
Tương tự, trong bài « Anh quốc, tác hại của chủ nghĩa dân túy » đăng trên trang ý kiến của Le Figaro, tác giả Nicolas Baverez nhận định, cũng như ông Davie Cameron, bà Theresa May đã bị cháy thành than khi đùa với lửa. Bất ngờ quyết định tổ chức bầu cử trước hạn, bà cố tình làm ngơ trước những bài học gần đây tại các nước phát triển, cho thấy sự bất ổn của dư luận và tính nổi loạn của công dân.
Bầu cử Quốc Hội Pháp : Macron làm nổ tung tất cả
Chân dung tân tổng thống Pháp Emmanuel Macron chiếm trang nhất hầu như tất cả các báo hôm nay, khi đảng Cộng Hòa Tiến Bước của ông giành thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử Quốc Hội hôm qua. La Croix chạy tựa « Làn sóng Macron », Les Echos nói về « Hiệu ứng Macron », Le Figaro nhận định « Macron tiến bước về một đa số tuyệt đối », còn Libération gọi đây là một « OPA » (việc một doanh nghiệp nuốt chửng một công ty khác). Riêng Le Monde ra từ hôm trước nói về « Tầm quan trọng của một cuộc đổi mới chính trường chưa từng thấy ».
Le Figaro trong bài xã luận mang tựa đề « Macron đã làm nổ tung tất cả », đã kêu lên : « Ai có thể tin được, ai dám nói thế ? Một phong trào chính trị mới cách đây hai năm còn chưa hiện hữu, nay đang ngạo nghễ vơ hết đa số tuyệt đối tại Quốc Hội ». Emmanuel Macron đã thành công trước thử thách, và sáng nay có thể quan sát những hậu quả của vụ đặt chất nổ ngoạn mục này.
Sau cuộc bầu cử tổng thống tệ hại, đảng Những Người Cộng Hòa lại chịu một thất bại mới, gây ảnh hưởng lớn đến tương lai. Còn đảng Xã Hội ? Le Figaro cho rằng tấm bia mộ cho đảng cánh tả lâu đời này sẽ được đặt vào kỳ bầu cử vòng hai Chủ nhật tới. « Tác động Macron » như vậy mang tính tàn phá nặng nề.
Nhưng tờ báo cánh hữu cảnh báo, hôm qua chỉ có phân nửa cử tri Pháp đi bầu. Và đa số tuyệt đối đạt được, buộc Macron phải cố thành công trong việc thay đổi mô hình đã cũ của nước Pháp, giải quyết được tình trạng thuế khóa nặng và nợ công cao. Bên cạnh đó là tình trạng di dân ồ ạt và hiện tượng co cụm lại trong cộng đồng thiểu số. Đảng Mặt Trận Quốc Gia (FN) đã phát triển mạnh nhờ thất bại của cả cánh hữu lẫn cánh tả trong lãnh vực này. Giờ đây tập hợp được cả hai phía, nếu Emmanuel cũng thất bại, thì có thể hình dung được lực lượng nào sắp tới sẽ « tiến bước ».
« Nhát chổi lông gà » nhẹ nhàng của Macron
Trong bài xã luận « Nhát chổi lông gà », Libération nhận xét, là khuôn mặt mới trên chính trường, Emmanuel Macron sắp sửa thắng được giải Grand Chelem quan trọng nhất trong nền Đệ ngũ Cộng Hòa nước Pháp. Sau khi chiếm được điện Elysée, phong trào Cộng Hòa Tiến Bước non trẻ của ông sắp tràn ngập Quốc Hội.
Libération cho rằng Emmanuel Macron gặp may khi từ một nhận định bình thường – nhu cầu đổi mới – đã biến được thành một trận cuồng phong. Nhưng khác với thủ lãnh cực hữu Marine Le Pen hay cực tả Jean-Luc Mélenchon, Macron chẳng cần phải cao giọng. Ông không hét : « Cút đi ! » mà chỉ thầm thì : « Dễ thương tí nào, hãy nhường chỗ lại cho tôi ». Không phải là một nhát chổi chà, mà chỉ phẩy nhẹ chiếc chổi lông gà, những hạt bụi đối phương đã rơi rụng lả tả.
Về phía cử tri, cho rằng mọi việc đã an bài, nên đến phân nửa không tới phòng phiếu. Tỉ lệ vắng mặt kỷ lục này là bóng mờ trên bức tranh của người thắng trận, tuy đè bẹp các đối thủ nhưng lại kém phần vẻ vang. Dù sao thì chiến thắng này làm Quốc Hội khóa tới sẽ đơn điệu. Còn cánh tả đang vỡ vụn : đảng Xã Hội có tỉ lệ phiếu tệ hại nhất từ trước đến nay, đảng Nước Pháp Bất Khuất rơi xuống mức trước đây – tóm lại, một cánh tả bắt đầu từ số không.
Thắng được trận đánh, nhưng chưa chắc cả cuộc chiến
Lý giải « Tỉ lệ vắng mặt đã giúp ích cho Macron như thế nào », Les Echos nhận định, từ khi đắc cử, Emmanuel Macron nỗ lực huy động cử tri phe mình và ngược lại, làm cử tri các phe khác không muốn đi bầu. Ông bổ nhiệm một thủ tướng cánh hữu, và gởi các ứng cử viên giỏi nhất đối đầu các lãnh tụ đảng Xã Hội. Macron mở ra các hồ sơ dễ đạt đồng thuận, và mơ hồ trước những hồ sơ khác. Thế thì chống đối làm gì ?
Số cử tri vắng mặt đã làm Cộng Hòa Tiến Bước (LREM) mạnh thêm, và bốn đảng còn lại - Những Người Cộng Hòa (LR), Xã Hội (PS), Mặt Trận Quốc Gia (FN), Nước Pháp Bất Khuất (FI) – bị yếu đi. Tuy nhiên tờ báo nhắc nhnhở, người ta có thể thắng một trận đánh, nhưng chưa chắc thắng được cả cuộc chiến
.http://vi.rfi.fr/chau-a/20170612-trung-quoc-khong-lap-duoc-khoang-trong-donald-trump-tao-ra



BIỂN CHẾT MIỀN TRUNG

Mùa hè nơi vùng biển chết miền Trung

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2017-06-08
Ngư dân miền Trung vẫn đang chịu thiệt hại sau khi biển bị nhiễm độc.
Ngư dân miền Trung vẫn đang chịu thiệt hại sau khi biển bị nhiễm độc.
RFA photo


Trẻ con nghỉ hè, thường thì phụ giúp cha mẹ làm những công việc nhỏ, từ lặt rau, phụ quét nhà hoặc tập nấu cơm, lớn hơn một chút thì phụ cha mẹ đi chợ, trông nhà hoặc giữ em... Nhưng đó là chuyện trước đây; hiện tại, học sinh trung học đi chợ giúp cha mẹ ngày hè là chuyện hiếm, đặc biệt tại những vùng biển nhiễm độc, trẻ em trải qua một mùa hè vất vả, khổ nhọc!
Không có mùa hè?
Một học sinh cấp 3 tên Thiệt, hiện sống ở Đông Yên, Kỳ Anh, Hà Tĩnh, chia sẻ: “Chỗ em thì hiện tại ở làng Đông Yên thì có nhiều em nhỏ đang đi học vì học hai năm 3 lớp, học bù cho hai năm trước các em không được đi học. Còn lại nhiều em nghỉ học đi làm ăn. Nhiều em mới lớp 7, lớp 8, thậm chí nhiều em khác bỏ học đi làm thêm để giúp cha mẹ rồi lo cho em sau mình đi học.”
Em Thiệt cho biết thêm là suốt hai năm nay, kể từ khi biển miền Trung bị nhiễm độc, mùa hè đến với em cũng như các bạn cùng lứa là một mùa vất vả, buồn tủi và chẳng có không khí hè. Bởi suốt chín tháng lăn lóc trong lớp học với không biết bao lo toan, thiếu trước hụt sau vì các khoản tiền đến liên tục, chưa kịp mua cuốn tập để ghi chép bài học trên lớp thì đến lúc phải lo tiền để đóng quĩ lớp, đóng phí học thêm, phí học phụ đạo... Chính vì đủ các khoản phí đó mà học sinh vùng biển nhiễm độc như em phải lo đi phụ hồ, đi làm thêm bất kì công việc gì người ta thuê để có tiền mà dành dụm cho năm học mới.
Tình trạng trẻ em học sinh cấp hai và cấp ba, tức cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông tranh thủ mấy tháng hè theo cha mẹ trốn sang Lào để làm thuê. Đương nhiên việc sang Lào làm thuê gặp rất nhiều khó khăn bởi các chủ thuê bên Lào không bao giờ chấp nhận trẻ em vào làm việc trong cơ xưởng của họ. Muốn được làm việc, hầu hết các em dùng thẻ chứng minh nhân dân giả bằng cách chèn hình thẻ vào thẻ chứng minh của người khác đủ tuổi lao động và ép plastic. Đương nhiên là thẻ chứng minh này của người thân trong gia đình.
Có nhiều trường hợp cả hai, ba đứa trẻ trong một gia đình dùng chung một thẻ chứng minh nhân dân khi sang làm thuê ở Lào. Đương nhiên là việc trốn sang Lào không hợp pháp và đi bằng đường chẻ rừng, làm việc theo môi giới của người khác và nhận lương không cao, chấp nhận chi hoa hồng cho người môi giới 10% của 3 tháng lương đầu tiên hoặc trả ngay 2 triệu đồng. Và hầu hết công việc làm thuê bên Lào đều là việc nặng nhọc của người lớn, từ phụ hồ, khuân vác hàng hóa hoặc đi phụ với những tốp thợ mộc. Thiệt cho rằng cũng may mắn là hầu hết trẻ em đi làm chui, không phải đăng ký giấy thị thực, nếu đăng ký thị thực thì chắc chắn chẳng có chủ nào bên Lào chấp nhận trẻ em Việt Nam sang làm thuê.
Khác với đi làm thuê bên Lào, một số trẻ em sang làm thuê bên Trung Quốc thì bất kì độ tuổi nào cũng có thể làm được bởi các chủ thuê người Trung Quốc không quan tâm đến độ tuổi lao động, miễn sao làm được việc thì họ thuê. Nhưng hầu hết trẻ em ở Hà Tĩnh đều chọn Lào để sang làm thuê chứ không chọn Trung Quốc do các em không ưa gì người Trung Quốc. Những trường hợp sang làm bên Trung Quốc chỉ đếm trên đầu ngón tay và thường thì đi chừng nửa tháng để có tiền mà trả cho người môi giới sang Lào làm việc. Bởi trả trước một lần có lợi hơn trả 10% liên tục ba tháng lương.
Thiệt bộc bạch thêm là hầu hết trẻ em trên vùng biển nhiễm độc không có mùa hè. Các em chỉ mong cho mùa hè qua nhanh để được đến lớp. Nhưng khi đến lớp, các em lại mong hè đến thật nhanh để đi làm thuê. Cái vòng lẩn quẩn ấy chi phối các em đã hai niên học rồi!
Bỏ học sớm như là một giải pháp?
ttvn-400.jpg
Một bé gái ở Quảng Bình tranh thủ hè bán ổi cho khách qua đường. RFA photo
Linh Mục Nguyễn Văn Hùng, Giáo xứ Diên Trường , Ba Đồn, Quảng Bình, chia sẻ: “Ở đây đa số các em cấp 2, cấp 3 nghỉ hè đi làm thuê nhiều lắm. Đi Bình Dương, Sài Gòn, Đồng Nai, Hà Nội, đến những nơi có anh chị nó đi trước và vào làm thuê, mỗi tháng được khoảng 1,5 triệu đến 2 triệu mỗi tháng, trong vòng 2, 3 tháng hè. Ở Quảng Bình này nhiều giáo xứ bị ảnh hưởng nặng lắm, đặc biệt như giáo xứ Cồn Sẻ. Các em đi Bắc, Nam, chủ yếu là đi Nam để lao động, đi làm chui các công việc như osin, trông trẻ hay các nhà may tư nhân, họ tuyển chui, chưa đến tuổi lao động đó.”
Cha Hùng cho biết thêm là hầu hết các giáo xứ trong tỉnh Quảng Bình đều bị ảnh hưởng kể từ sau khi biển miền Trung nhiễm độc, vấn đề là ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp mà thôi. Các giáo xứ gần biển, đặc biệt là giáo xứ Cồn Sẻ bị ảnh hưởng khá nặng, hiện tại, tình trạng học sinh bỏ học để đi làm thuê đã chiếm con số khá lớn. Và mùa hè ở các giáo xứ dường như không có thanh thiếu niên bởi các em đã vào các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Sài Gòn để làm thuê, chủ yếu vẫn là lao động chui vì chưa đủ tuổi lao động.
Với tiền lương mỗi tháng từ 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng, ba tháng hè cũng giúp các em có thêm tiền để nộp học cho niên khóa tới. Và hầu hết học sinh ở Cồn Sẻ gặp khó khăn bởi người dân Cồn Sẻ chủ yếu làm nghề biển, đánh bắt xa bờ và gần bờ. Từ ngày biển nhiễm độc đến nay, sản lượng cá đánh bắt xa bờ chỉ còn chưa tới 50%, trong khi đó giá thành hải sản lại giảm xuống còn chưa đầy 50% so với trước khi biển nhiễm độc. Như vậy, chung qui thì thu nhập của ngư dân chỉ còn lại ngót nghét 25% so với trước. Đó là chưa kể đến chuyện xăng dầu tăng giá, mọi thứ chi phí đội lên cao ngất. Đời sống thêm bội phần khó khăn.
Mùa hè, đây cũng là thời gian cho học sinh nghỉ giải lao, buông xả mọi lo âu, căng thẳng bởi việc học dồn dập trong môi trường giáo dục hiện tại. Tuy nhiên, với học sinh vùng biển chết, đây là quãng thời gian các em phải bươn chải bằng mọi cách để kiếm tiền phụ giúp cho cha mẹ và trang trải cho bản thân. Có thể nói rằng màu hè trên vùng biển chết miền Trung là một màu hè khổ nhọc, lao lực và đầy tuyệt vọng đối với các em học sinh.


TUYẾT XỨ THI CÁC


 
MẮT EM             
Mắt em là cửa sổ                  
Mở vào tâm-hồn em:           
Một vườn hoa mới trổ         
Mời đón anh vào xem.         
Hoa cần người nghệ-sĩ
Biết tận hưởng hương màu;
Anh cần Chân Thiện Mỹ:
Chúng mình hòa hợp nhau.
Anh trôi vào mộng lạ
Dưới nắng ấm ngày xanh,
Có chim ca, bướm họa,
Và rạo-rực lòng anh.
Một tia nhìn đã đủ
Nói lên bao ý tình;
Một bóng hình ấp ủ
Để thấy đời thêm xinh.
Anh nay thêm sáng mắt,
Anh nay thêm sáng lòng,
Giữa vùng trời trong vắt
Là mắt em sáng trong.
            THANH-THANH
      YOUR EYES
Your eyes, as people would say,
Are the windows to your soul:
A garden of blooming flowers whole
Welcoming to it to enjoy my entrée.
Flowers need artists dutiful
To relish perfumes and colors entire;
While I want True, Good, Beautiful:
We thus meet each other’s desire.
I sense adrift in a strange dream
In the warm sun of green romance,
As birds sing, butterflies dance,
And my heart excited to beam.
Just one look already suffices
To imply, much idea to reveal;
One image to cherish that spices
To see life finer, nicer to feel.
Now, there is in my eyes more light,
And my mind is so sound than clear
In this much serene sphere:
There are your eyes so bright.  
English version by THANH-THANH

























THANH THANH







Life and Times of a Former South Vietnamese Special Police Officer:







 
NẾU ĐỜI GIẢ TẠM TA CÒN CÓ NHAU
(Cầu nguyện Hương linh BS TÔN THẤT SANG sớm về cõi vĩnh hằng)
Thân tặng hiền thê BS Tôn Thất Sang



Anh nằm một chỗ
Đôi mắt thẫn thờ
Mặt hằn nét khổ
Tóc bạc lơ thơ

Chị ngồi bên cạnh
Ngùi ngậm thương chồng
Ngoài trời giá lạnh
Mắt buồn mênh mông

“Chàng lâm trọng bịnh
Đã bao năm rồi
Khi mê, lúc tỉnh…
Chẳng nhận ra tôi!

Nhớ ngày đám cưới
Qua bao nhiêu năm
Trong tôi như mới
Mấy độ trăng rằm…”

Anh Quân Y Sĩ
Bịnh nhân... luôn cần
Sinh mạng người quý
Đau xót, bâng khuâng...

Quê hương chinh chiến
Anh luôn vắng nhà
Lúc quân y viện...
Lúc chiến trường xa

Anh đi công tác
Chiến đấu Hạ Lào...
Đêm, chị trở giấc
Lệ sầu rơi mau...

Đất nước nghiêng ngửa
Sau giặc tràn vào
Xung công nhà cửa
Cải tạo lao đao...

Xứ người bươn chải
Nợ nước... chưa tròn
Chiều hôm nắng quái
Lòng vẫn sắt son...

Chuỗi dài năm tháng
Bệnh viện anh nằm
Tuổi già... bịnh nặng!
Chị luôn bên chồng

“…Nếu đời giả tạm!
Ta còn có nhau
Dù cho lẻ bạn…
Nghĩa nặng tình sâu…”

Người đi... kẻ ở!
Anh đã xa rồi...
Nợ duyên chồng vợ...
Biết thuở nào nguôi!

Dư Thị Diễm Buồn



CẦN CHI AI KHẢI ĐẠO!


Em khoan thai đủng đỉnh,
Anh tươi tỉnh đầu xuân
Tạm giấu ở rạch bần
Những lo toan tất bật.

Sáng mân mê nụ mới,
Chiều ngắm những mầm non,
Nhịn những chuyện cỏn con,
Việc buồn phiền cùng nhẫn.

Khi nâng niu săn đón,
Lúc chia sẻ thầm thì.
Ngọt ngào, em cho đi,
Anh nhận được: đáp trả!

Niềm an lạc đích thực
Thể hiện trên nụ cười
Từ trong tim hai người.
Cần chi ai khải đạo!

Á Nghi*5.6.2017




TÌNH BÁN MUA

- Tặng T.T và những cuộc tình -

Người trước tôi em thề non hẹn biển
Người trước nữa em hẹn biển thề non
Với người nào em cũng nguyện sắt son
Như với tôi
Như với dăm người khác
Trái tim yêu đem bán mua đổi chác
Một chuyến đò gạ cập bến nhiều nơi
Chuyến tình nào cũng “bèo dạt mây trôi”
Cũng lả lướt vời vòng tay xiết chặt
Đem hoang dại nơi đầu mày cuối mắt
Em oằn mình đốt cháy những đời trai.
Thương, thương lắm, thương đời trai khờ dại
Đem niềm yêu da diết gửi sai người
Tôi cay đắng neo nhầm nơi bến đợi
Đêm tàn rồi!
Tạm biệt nhé,
người ơi!


*.Hà Nội, 01 tháng 06.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN




Tuesday, June 13, 2017



NHẬT TIẾN * 40 NĂM HẢI NGOẠI


40 Năm Hải Ngoại
Một Nén Hương Một Bông Hồng
Cho Những Nhà Văn – Nhà Thơ Đã Khuất Núi(Đã cập nhật danh sách từ 2015 tới 2017) 
 

(Chân dung những Nhà Văn – Nhà Thơ đã khuất núi)


Thời gian 40 năm chỉ là một khoảnh khắc trong lịch sử, nhưng tuy vậy cũng đủ để cho con người hoàn tất một sự nghiệp hay từ giã cõi đời.

Trong suốt 40 năm qua, kể từ khi miền Nam sụp đổ trước sự xâm lấn của CS miền Bắc, nhiều văn nghệ sĩ vốn đã tạo dựng nên một nền Văn Học rực rỡ của miền Nam cũng đã vượt thoát ra đi để mưu tìm một cuộc đời tự do đáng sống. Trên phần đất tự do thuộc nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh những nỗ lực để hội nhập vào xã hội mới, các nhà văn, nhà thơ gốc Việt vẫn tiếp tục miệt mài sáng tạo, duy trì và phát triển Văn Học Miền Nam trên đất tạm dung để có thể coi là đã có một nền văn chương VN hải ngoại. Và cũng ròng rã trong suốt 40 năm tận tụy với ngòi bút ấy, nhiều người đã lặng lẽ ra đi, bỏ lại phía sau những công trình có thể chưa hoàn tất nhưng cũng đã gieo nhiều nỗi ngậm ngùi, xót xa trong lòng của nhiều người ở lại

Nay nhân dịp kỷ niệm 40 năm hội nhập, mặc dù không thể thu góp đầy đủ danh xưng của tất cả những nhà văn, nhà thơ đã khuất bóng, phần liệt kê dưới đây xin coi như một nén nhang, một bông hồng cho tất cả những nhà văn, nhà thơ đã mất ở hải ngoại mà trong suốt 40 năm qua đã góp phần cung ứng cho đời những tác phẩm quý giá để các thế hệ sau khi nhìn lại không thể không biết tới.
Danh sách dưới đây xếp theo thứ tự thời gian mà các vị đã khuất núi.



THANH NAM

(1931-1985)


Nhà văn/nhà thơ Thanh Nam tên Trần Đại Việt, người làng Mỹ Trọng tỉnh Nam Định, thân phụ là Tổng Giám thị trường Cao đẳng Kỹ thuật Hà Nội ngày trước.
Năm 1946, mới 15 tuổi, Thanh Nam đã được tờ báo Thiếu Nhi tại Hà Nội đăng thơ và mời cộng tác, và viết một số Sách dành cho tuổi trẻ cho nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh.

Năm 1953 ông vào Sài Gòn, được mời làm Tổng Thư ký báo Thẩm Mỹ, viết truyện ngắn, truyện dài, bình thơ độc giả, phụ trách nhiều mục khác như Phụ nữ Gia Đình, Gỡ Rối Tơ Lòng … và còn ký nhiều bút hiệu như Sông Hương, Cô Hồng Ngọc, Bà Bách Lệ, Tôn nữ Đài Trang, Thợ Cạo. Năm 1960, ông hợp tác với nguyệt san Hiện Đại do Nguyên Sa và Thái Thủy chủ trương, và là Tổng Thư ký tuần báo Nghệ Thuật, cùng viết bài trên tuần báo Kịch Ảnh.

Di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, ông tạm cư tại tiểu bang New Jersey rồi năm 1976 định cư tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington. Ở đây ông cộng tác với tờ Đất Mới và một trong vài tờ báo Việt ngữ đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ . Ông mất vào ngày 2 tháng 6 năm 1985 do chứng ung thư thanh quản.

Tác phẩm đã xuất bản :
Hồng Ngọc (1957)
Người Nữ Danh ca (1957)
Buồn Ga Nhỏ (1962)
Giấc Ngủ Cô Đơn (1963)
Còn Một Đêm Nay (1963)
Cho Mượn Cuộc Đời, Bầy Ngựa Hoang (1965)
Giòng Lệ Thơ Ngây (1965)
Những Phố Không Đèn (1965)
Mấy Mùa Thương Đau (1968)
Gã Kéo Màn, ….
Đất Khách (1983)



VŨ KHẮC KHOAN
(1917-1986)


Ông sinh năm 1917 tại Hà Nội, theo học trường Bưởi, nhập học trường Y Khoa nhưng rồi đổi sang Cao đẳng Canh Nông, tốt nghiệp kỹ sư sau chuyển sang văn học và lịch sử, dạy học ở trường trung học Chu Văn An.
Ông là tác giả những vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948), Thành Cát Tư Hãn, và Giao thừa (1949). Hai vở Giao thừa và Thằng Cuội đã được trình diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội vào những năm 1951 và 1952. Bài vở của ông cũng được đăng trên báo Phổ thông và Quan điểm.

Sau năm 1954 ông di cư vào Nam viết cho các báo Tự do, Quan điểm rồi làm chủ nhiệm nguyệt san Vấn đề. Ông là giám đốc kịch nghệ của Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ ở Sài Gòn.
Ông tỵ nạn sang Mỹ năm 1975, định cư ở Minnesota nơi ông dạy Pháp văn ở đại học Minnesota và thành lập Hội Phật giáo Việt Nam tại đây. Ông mất ngày 12 tháng Chín, 1986.




\
ĐÀO ĐĂNG VỸ
(1908-1997)


Đào Đăng Vỹ là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học rất nổi tiếng ở Huế từ những năm cuối của thập niên 40. Ông cũng là dịch giả có tiếng của Việt Nam. Riêng trong lãnh vực từ điển, ông đã biên soạn những cuốn như Pháp Việt Đại Từ điển (1949-52, 1963, 1970), Việt Pháp Đại Từ điển ( 1956, 1963, 1970), Pháp Việt Từ điển Phổ thông (1954-1956, 1960, 1963, 1965, 1970), Pháp Việt Tiểu Từ điển (1961, 1963, 1966, 1970), Việt Pháp Tiểu Từ điển (1962, 1964, 1966, 1970), Việt Nam Bách Khoa Từ điển (Cuốn I cuốn II, III…; 1959-1963).
Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, và mất ngày 7/4/1987 tại California – Mỹ.



BÌNH NGUYÊN LỘC
(1914-1987)


Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa trong giai đoạn 1945-1975. Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút hiệu khác như Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh…]
Ông đã sáng tác khoảng 50 tiểu thuyết, 1.000 truyện ngắn và bốn quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam chỉ được in phần đầu, phần còn lại độ 800 trang viết tay coi như bị thất lạc.

Ông cũng từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên như Thơ Ba Mén, Việt sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca dao… Ông còn có công sưu tầm được hàng nghìn câu ca dao kèm theo chú thích về đặc điểm của mỗi câu.

Tháng 10 năm 1985, ông được gia đình bảo lãnh sang Mỹ chữa bệnh. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Rancho Cordova, Sacramento, California, vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi





HOÀI ĐIỆP TỬ
(1941-1987)


Tên thật Phạm Văn Tập. Sinh năm 1941 – Tân Tỵ – tại Bạc Liêu.
Ông dùng nhiều bút hiệu khác nhau như Điệp Yên Hà, Lê Thăng, Kép Độc, Kiều Linh Khanh. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 14 tuổi, chính thức viết văn vào năm 1958 với truyện dài đầu tiên “Mớ tóc gái Phù Sa” viết trên nhật báo Chuông Mai của ông Huỳnh Hoài Lạc.

Lần lượt cộng tác với các nhật báo, tuần san như Chuông Mai của Huỳnh Hoài Lạc, Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai, Dân Đen của Nguyễn Duy Hinh, Tiếng Dân, Tia Sáng của Nguyễn Trung Thành, Tiếng Nói Dân Tộc của Lý Quý Chung, Độc Lập của Hoàng Châu, Tin Sáng của Ngô Công Đức, Thách Đố của Đặng Văn Bé v.v…

– Năm 1966 ông sáng lập Nhà xuất bản Sông Hậu cùng với các thân hữu như Trương Đạm Thủy, Ngô Tỵ, Phan Yến Linh, Phương Triều, Tâm Đạm Dương Trữ La.

– Khi sang Mỹ từ năm 1981, nhà văn Hoài Điệp Tử làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Mai (Nam California) từ năm 1982 đến 1987.

Ông bị sát hại tại tòa soạn nằm trên đường Westminster (Nam California) lúc 2 giờ 15 sáng chủ nhật ngày 9 tháng 8 năm 1987. Vụ án mạng này đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ.

Các tác phẩm đã xuất bản tại Việt Nam : – Vũng Lầy (1964) – Trái Cấm – Tuổi Tình Yêu, nhà xuất bản Sống Mới phát hành, 1965. – 16 Phiên Buồn (1966) – Lửa Đạn Về Thành – Tình Biển (1968) – Đỉnh Núi Sương Mù – Còn Xanh Kỷ Niệm (1969) – Bến Đục – Giọt Máu Cho Cánh Đồng Mùa Hạ (1970) – Tặng Phẩm Của Đêm – Bụi Thành Phố (1971) – Mặt Trời Mọc Cho Ai – Hành Lang Đen (1972) – Cao Ốc Số 8 (1973) – Sóng Hoang, nhà xuất bản Sông Hậu phát hành (1974)…. và một số thơ cùng truyện ngắn.
Tác phẩm đã xuất bản tại Mỹ : – Truyện dài: Trên Đầu Sóng, nhà xuất bản Hải Ngoại phát hành, 1982.




NGUYỄN TẤT NHIÊN
(1952-1992)


Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30-5-1952 tại xã Bình Trước, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hoà..

Ông là một thi sĩ bẩm sinh, tài hoa, suốt đời cuồng nhiệt, đam mê với thơ, đặc biệt là thơ tình. Biết làm thơ từ rất sớm: Mới 14 tuổi (1966,) đã có tập thơ đầu tay“Nàng Thơ Trong Mắt” và hai năm sau, 16 tuổi (1968,) viết tiếp tập thơ“Dấu Mưa Qua Đất” (cả hai tập thơ nầy đều ký bút danh Hoài Thi Yên Thi). Năm 1970, ông tự ấn hành tập thơ“Thiên Tai,”lần đầu tiên lấy bút danh Nguyễn Tất Nhiên. Năm 1978, ông vượt biên và định cư tại Pháp. Tại đây, nhà xuất bản Sud-Asie đã ấn hành tập“Thơ Nguyễn Tất Nhiên”gồm những bài thơ sáng tác từ 1970 – 1980. Sau đó, ông sang Hoa Kỳ, định cư tại Nam California, tiếp tục sáng tác thơ, nhạc, cho ấn hành các tập thơ“Chuông Mơ” (NXB Văn Nghệ,1987,)“Tâm Dung”(NXB Người Việt, 1989,)“Minh Khúc” (1990, đã hoàn tất bản thảo, phổ biến hạn chế.)

Ông mất ngày 3-8-1992 tại California.




DUYÊN ANH
(1935-1997)



Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tỉnh Thái Bình.


Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo.
Năm 1960, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt.
Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi.


Năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4, 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ôngvượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc.


Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp.








NGUYÊN SA
(1932-1998)



Nguyên Sa sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932, tên thật là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc. Ông là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950 với những tác phẩm như“Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi mười ba”, “Tháng sáu trời mưa”, v.v.
Những câu thơ mà Nguyên Sa đem từ Pháp về Việt Nam năm 1956 đã thay đổi rộng khắp cảm nhận thi ca của đa số thanh niên Việt Nam. Giống như một nhạc cụ mới, có âm hưởng sâu và đánh thức giác quan thẩm mỹ của thời đại (Mặc Lâm –RFA).
Ông đi Pháp du học vào năm 1949. Năm 1953, ông đậu tú tài ở Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này. Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thuý Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước. Năm 1975, ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ đó cho tới ngày qua đời. Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.







MAI THẢO

(1927-1998)



Mai Thảo tên thật là Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu khác: Nguyễn Đăng, ông sinh ngày 8/6/1927 tại huyện Hải-hậu, tỉnh Nam-định. Thuở nhỏ học trường làng, trung học lên Nam-định rồi Hà-nội (học trường Đỗ Hữu Vị, sau là Chu Văn An). Năm 1945, theo trường sơ tán lên Hưng-yên. Khi chiến tranh bùng nổ năm 1946, gia đình từ Hà-nội tản cư về quê chợ Cồn, từ đó Mai Thảo rời nhà vào Thanh-hóa theo kháng chiến, viết báo, tham gia các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên-khu-ba, Liên-khu-tư đến chiến khu Việt-bắc. 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến vào thành, đi buôn. 1954, di cư vào Nam. Viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt. Chủ trương báo Sáng Tạo (1956), Nghệ Thuật (1965) và từ 1974, trông nom báo Văn. Tham gia chương trình văn học nghệ thuật của các đài phát thanh tại Sài-gòn từ 1960 đến 1975. Ngày 4/12/1977, Mai Thảo vượt biển. và định cư ở Hoa-kỳ. Ít lâu sau ông cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại. Tháng 7/1982 ông tái bản tạp chí Văn, làm chủ biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho Nguyễn Xuân Hoàng; hai năm sau ông mất tại Santa Ana, California ngày 10/1/1998.


Tác phẩm Mai Thảo đã xuất bản:
Đoản thiên
Đêm giã từ Hà Nội (Người Việt, 1955)
Tháng giêng cỏ non (1956)
Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời (Sáng Tạo, 1963)
Bày thỏ ngày sinh nhật (Nguyễn Đình Vượng, 1965)
Căn nhà vùng nước mặn (An Tiêm, 1966)
Đêm lạc đường (Khai Trí, 1967)
Dòng sông rực rỡ (Văn Uyển, 1968)
Người thầy học cũ (Văn Uyển, 1969)
Chuyến tàu trên sông Hồng (Tuổi Ngọc, 1969)
Tùy bút (1970)
Mưa núi (tập hợp những truyện tuyển trong Đêm giã từ Hà Nội và Tháng giêng cỏ non, Tân Văn, 1970)
Ngọn hải đăng mù (Làng Văn, Toronto, 1987)
Một đêm thứ bảy (Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ, 1988)
Hồng Kông ở dưới chân (Xuân Thu, 1989)
Chân bài thứ năm (Nam Á,Paris, 1990)
Chuyến métro đi từ Belleville (Nam Á, 1990)…
Truyện dài:
Mái tóc dĩ vãng (Tiểu thuyết tuần san, 1963)
Cô thích nhạc Brahms? (phóng tác)
Khi mùa thu tới (Thái Lai, 1964)
Viên đạn đồng chữ nổi (Văn, 1966)
Đêm kỳ diệu (?)
Cùng đi một đường (1967)
Sau khi bão tới (Màn Ảnh, 1968)
Tới một tuổi nào (Miền Nam, 1968)
Cũng đủ lãng quên đời (Hồng Đức, 1969)
Lối đi dưới lá (1969)
Mười đêm ngà ngọc (Hoàng Đông Phương, 1969)
Thời thượng (Côi Sơn, 1970),
Sống chỉ một lần (Nguyễn Đình Vượng, 1970),
Hết một tuần trăng (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1970),
Sau giờ giới nghiêm (Tủ sách Văn Nghệ Khai phóng, 1970)
Trong như hồ thu (Tủ sách văn Nghệ Hiện Đại, 1971)
Mang xuống tuyền đài (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1971)
Một ngày của Nhã (1971)
Để tưởng nhớ mùi hương (Nguyễn Đình Vượng, 1971)
Sóng ngầm (Hoa biển, 1971)
Sống như hình bóng (Tiếng Phương Đông, 1972)
Hạnh phúc đến về đêm (Nguyễn Đình Vượng, 1972)
Một đời còn tưởng nhớ (Hải Vân, 1972)
Gần mười bảy tuổi (Nguyễn Đình Vượng, 1972)
Chỉ là ảo tưởng (Sống Mới, 1972)
Suối độc (Nguyễn Đình Vượng, 1973)
Tình yêu màu khói nhạt (Nguyễn Đình Vượng, 1973)
Bên lề giấc mộng (Ngày Mới, 1973)
Chìm dần vào quên lãng (Tiếng phương Đông, 1973)
Cửa trường phía bên ngoài (Đồng Nai, 1973)
Ánh lửa cuối đường hầm (Anh Lộc, 1974)
Ôm đàn tới giữa đời (Gìn Vàng Giữ Ngọc, 1974)
Những người tình tuổi song ngư (Xuân Thu, 1992)…
Thơ:
Ta thấy hình ta những miếu đền (Văn Khoa, California, 1989)





LÊ ĐÌNH ĐIỂU
(1939-1999)

Nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội Lê Đình Điểu, người bạn lớn của nhiều sinh hoạt văn hóa, giáo dục, truyền thông Việt Nam từ hơn 40 năm qua.
Ông sinh năm 1939 tại Ngọc Hà, ngoại thành Hà Nội. Ông làm thơ, viết văn từ thời niên thiếu với bút hiệu Y Dịch. Năm 1967, ông tốt nghiệp khóa Báo Chí học tại Viện Báo Chí Quốc Tế ở Kuala Lumpur, Mã Lai. Sau đó, ông làm đặc phái viên Việt Tấn Xã, và là Phụ Tá Học Vụ Ban Báo Chí học ở Đại Học Chính Trị Kinh Doanh, Đà Lạt. Năm 1972, ông đứng đầu ngành Thông Tin Quốc Nội trong phủ Tổng Ủy Dân Vận, sau đổi thành Bộ Dân Vận-Chiêu Hồi. Năm 1974 ông làm ở Phòng Báo Chí của Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo.
Từ 1975 đến 1981 ông bị đi tù cải tạo. Năm 1985 gia đình ông qua Mỹ, và ông làm chủ bút nhật báo Người Việt, đến năm 1988 thì trở thành Tổng Giám Đốc Công Ty Người Việt. Năm 1991 ông là chủ nhiệm tạp chí Thế Kỷ 21. Ông cũng là chủ tịch trong nhiều năm Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA). Năm 1995, ông làm chủ tịch đài phát thanh VNCR mà ông là một sáng lập viên.
Ông đã dịch các cuốn sách “Kỹ Thuật Tòa Soạn”, THN xuất bản ở Sài Gòn năm 1969, và “Ký Giả Chuyên Nghiệp”, Hiện Đại xuất bản năm 1974, Người Việt tái bản năm 1977. Gặp chứng bệnh nan y, ông đã từ trần ngày 24-5-1999.




NGHIÊM XUÂN HỒNG
(1920-2000)


Cư sĩ Tịnh Liên NGHIÊM XUÂN HỒNG sinh năm 1920 tại Hà Đông, Bắc Việt.
Năm 1953, hành nghề Luật Sư.
Năm 1954, đất nước chia đôi, di cư vào Nam.
Nguyên Luật Sư Tòa Thượng Thẩm Saigon, Cựu Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng năm 1965, thời Nguyễn Khánh.
Sáng lập viên nhóm Quan Điểm, Saigon.
Năm 1975, miền Nam Việt Nam mất, di cư sang Hoa Kỳ.
Trước năm 1975, viết sách về Chính Trị, Triết Học và Văn Chương.
Sau năm 1975, chuyên đọc Kinh Đại Thừa, tịnh tu, viết sách Phật và giảng dạy Phật Pháp tại chùa Trúc Lâm Yên Tử, Santa Ana và chùa Liên Hoa, Garden Grove, California.
TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM:
01. Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng, 1957.
02. Lịch Trình Diễn Tiến của Phong Trào Quốc Gia Việt Nam, 1959.
03. Xây Dựng Nhân Sinh Quan, 1960.
04. Luyến Ái Quan qua Triết Thuyết và Tình Sử, 1961.
05. Cách Mạng và Hành Động, 1962.
06. Người Viễn Khách Thứ Muời, Kịch, 1963.
07. Từ Binh Pháp Tôn Ngô đến Chiến Lược Nguyên Tử, 1965.
08. Việt Nam, nơi Chiến Trường Trắc Nghiệm, 1966.
09. Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ, 1966.
10. Biện Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa, 1967.
11. Nguyên Tử Hiện Sinh và Hư Vô, 1969.
TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN Ở HOA KỲ:
01. Lăng Kính Đại Thừa, 1982. 02. Tánh Không và Kinh Kim Cang, 1983.
03. Lăng Nghiêm Ảnh Hiện, 1983. 04. Nguồn Thiền Như Huyễn, 1984.
05. Mật Tông và Kinh Đại Thừa, 1986. 
06. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc 1, 1988
07. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc 2, 1989. 08. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc 3, 1991.
09. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc 4, 1992. 10. Ma Tâm và Ma Sự của người tu, 2001
Ông mất ngày 07 tháng 05 năm 2000 tại Orange County, California, Hoa Kỳ.





TRẦN HỒNG CHÂU
(1921-2003)



Thi sĩ TRẦN HỒNG CHÂU tức Giáo sư NGUYỄN KHẮC HOẠCH, sinh năm 1921, tại Hưng Yên, mất năm 2003 tại California, Hoa Kỳ.
Học tại Trung Học Khải Định, Huế (1936-1943) rồi Trường Đại Học Luật Hà Nội cho tới năm 1945.
Xuất ngoại: Học Đại Học Sorbonne, Paris, đậu Cử nhân Văn Chương năm 1950, và Tiến Sĩ Văn Chương Quốc Gia (Doctorat d’Etat) năm 1955.
Tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Quốc Tế Học thuộc Đại Học Luật Khoa Paris (Institut des Hautes Études Internationales de la Faculté de Droit), Paris, 1952.
Tốt nghiệp Trung Tâm Âu Châu Học thuộc Đại Học Nancy (Centre D’Etude Européennes, Université de Nancy) Pháp quốc, 1957.
Về nước năm 1957, gia nhập ban giảng huấn Đại Học Văn Khoa Saigon, phụ trách các môn Văn chương Pháp và Văn chương Việt Nam. Đồng thời cũng giảng dậy tại Đại Học Sư Phạm Saigon, Học Viện Quốc Gia Hành chính và Viện Đại Học Huế.
Được bầu làm Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon từ 1965 đến 1969.
Giáo sư biệt thỉnh về văn chương Pháp và văn chương, văn hoá Việt Nam tại Southern Illinois University trong thời gian 1970-1974.
Thành viên của Ủy Ban điển chế văn tự và Ủy Ban soạn thảo từ điển Bách khoa Việt Nam (1968-1970). Thành viên Hội Đồng Viện Đại Học Saigon từ 1958 đến 1970. Được tưởng thưởng Văn Hoá Giáo Dục Bội Tinh (1968).
Thành viên của các hiệp hội văn hoá giáo dục tại quốc ngoại và quốc nội: Modern Languages Association từ 1971, Association of American University Professors từ 1973, Association for Asian Studies từ 1971, American Oriental Society từ 1973, Societé des Etudes Indochinoises (1961-1970), Hội Việt Nam liên lạc Văn hoá Á châu (1958-1961).
Đã dự một số hội nghị về văn hoá giáo dục ở trong và ngoài nước: Nhật (Đại Học Keio, 1960), Ấn độ (New Delhi, 1965), Đài Loan (Đài bắc, Việt Trung Hoa học, 1969). Tham quan một số Đại học Đại Hàn (1967) và Hoa Kỳ (1966 và 1968).
Khai đường mở lối cho Viện Việt Học: Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã được Hội Đồng Viện Việt Học mời vào Ban Cố Vấn từ ngày thành lập Viện, 26 tháng 2, năm 2000 và được mời làm Viện Trưởng Viện Việt Học (2001-2003), California.
Le Japon et le Traité de Paix (Nhật Bản và Hoà Ước), Paris, 1952.
Le Roman Vietnamien au 18e et 19e Siècle (Tiểu Thuyết Việt Nam Thế Kỷ 18 và 19), Paris, 1955.
Les Relations Américano-japonaises depuis 1951 (Quan hệ Nhật-Mỹ từ 1951), Paris, 1957.
Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hoá Giáo Dục, (biên khảo, phê bình), Lửa Thiêng, Saigon, 1970.
Thành Phố Trong Hồi Tưởng (tùy bút), An Tiêm, Los Angeles,1991.
Nửa Khuya Giấy Trắng (thơ), Thanh Văn, Los Angeles, 1992.
Nhớ Đất Thương Trời (thơ), Thế Kỷ, Los Angeles, 1995.
Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây (thơ) Văn Học, Los Angeles, 1999.
Dăm Ba Điều Nghĩ về Văn Học Nghệ Thuật (tiểu luận), Văn Nghệ, 2001.
Vietnam Culture Series (Series Editor), Việt-Học Publishing, 2001-2003
Để Tưởng Nhớ Nguyễn Du (thơ), Viện Việt Học, 2002
Suối Tím (thơ), Văn Nghệ, 2003
Tuyển tập Trần Hồng Châu (thơ, tùy bút, tiểu luận), Viện Việt Học, 2004




ĐẶNG TRẦN HUÂN
(1929-2003)



Đặng Trần Huân sinh ngày 7-6 -1929, cựu Thiếu tá QLVNCH, làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến, ngành thông tin báo chí. Khởi viết năm 1953. Ông xuất thân sĩ quan Bảo chính đoàn từ Hànội trước 1954, (sau là Bảo An ), từng là cấp chỉ huy của sĩ quan báo chí Lê Cự Phách (tức Du Tử Lê ) – Ông chuyển sang làm báo chuyên ngành quân đội, phục vụ tại Cục Tâm lý chiến – Quân Lực VNCH. Bị đi tù cải tạo ở miền Bắc, khi được trả tự do, Ông sang định cư tại Hoa kỳ, diện H.O năm 1992.
Ông là tác giả CHUYỆN CẤM ĐÀN BÀ ( tập 1 và 2) , HẢI ĐẢO THẦN TIÊN (dịch), THÀNH PHỐ BUỒN THIU ( bút ký ). Sang Hoa Kỳ, tự xuất bản HÀNH TRÌNH MỘT HÁT-Ô (Văn Mới 1995 ) NHỮNG NGƯỜI THÍCH DẤU HUYỀN ( 1998) CHỮ NGHĨA BỀ BỀ ( 2000). Ông qua đời ở Hoa Kỳ ngày 21 tháng 3 năm 2003.






ĐỖ NGỌC YẾN
(1941-2006)


Ông là người sáng lập và cũng là chủ nhiệm đầu tiên của Nhật báo Người Việt, tờ báo lâu đời nhất và cũng lớn nhất tại hải ngoại. Ông cũng là một trong những người góp phần tạo lập ra khu Little Saigon tại Quận Cam, California.
Ông bắt đầu viết báo khi còn đi học và là chủ bút tờ báo ở trường Trương Vĩnh Ký. Khi vào đại học Văn khoa, ông trở thành một đại diện trong ban Chấp hành Sinh viên và đã tổ chức những cuộc xuống đường đòi lật đổ tướng Nguyễn Khánh năm 1964. Năm sau ông bắt đầu làm việc với International Voluntary Service (IVS), một hội thiện nguyện Hoa Kỳ, vận động và tổ chức thanh niên sinh viên giúp tổ chức này phân phối thực phẩm cho đồng bào bị nạn bão lụt ở miền Trung.
Từ năm 1964 ông Ðỗ Ngọc Yến viết bài cho các nhật báo Sống, Sóng Thần, Ðại Dân Tộc, tạp chí Văn Nghệ, tuần báo Ðời, và nhiều tờ báo khác. Bắt đầu từ thập niên 1970 ông cộng tác với nhiều phóng viên các báo ngoại quốc hoạt động tại Việt Nam. Ngày 26-04-1975, ông và vợ cùng 3 con rời Việt Nam và định cư ở Hoa Kỳ.
Ông thành lập tờ báo Người Việt (vào cuối năm 1978 ban đầu là tuần báo, tới 1985 thì trở thành nhật báo). Ông cũng đứng vai trò trung gian chuyển đạt quan điểm người Việt tị nạn đến với người Mỹ qua báo chí Mỹ. Ông mất ngày 17 tháng 8- 2006 tại bệnh viện Fountain Valley, miền Nam California.




THANH TÂM TUYỀN

(1936-2006)



Nhà thơ, nhà văn Thanh Tâm Tuyền, tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13-3-1936, tại Vinh, Nghệ An. Từ 16 tuổi đã đi dạy học tại Hà Đông, viết truyện đăng trên báo Thanh Niên tại Hà Nội. Từ 1954 ông hoạt động trong Tổng Hội Sinh viên Hà Nội, chủ trương nguyệt san Lửa Việt, rồi vào Nam.
Tại Sài Gòn, ông làm cho các báo Dân Chủ, Người Việt và tham gia ban biên tập tạp chí Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, có ảnh hưởng lớn trên văn học Việt Nam suốt một thập niên.


Do động viên năm 1962, Ông hoạt động trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, công tác huấn luyện văn hóa, cấp bực cuối cùng là đại úy. Từ 1975 bị đi học tập nhiều năm tại nhiều trại cải tạo miền Bắc. Sau đó sang định cư tại Hoa Kỳ.

Đã xuất bản khoảng mười tác phẩm. Ba tập thơ : Tôi không còn cô độc (1956), Liên – Đêm – Mặt trời tìm thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở đâu xa (1990, Mỹ). Ba truyện : Bếp Lửa (1957) ; Khuôn Mặt (1964), Dọc đường (1967).Ba tiểu thuyết : Cát lầy(1966), Mù Khơi (1970), Tiếng động (1970). Một vở kịch ngắn : Ba Chị Em (1965). Một phiếm luận(1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, như tiểu thuyết Ung Thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, Sài Gòn.
Ông qua đời lúc 11 giờ 30 ngày 22-3-2006 tại thành phố St Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, nơi ông cư ngụ, hưởng thọ 70 tuổi.





HOÀNG ANH TUẤN
(1932 – 2006)

Hoàng Anh Tuấn là một nhà đạo diễn và nhà văn sinh năm 1932 tại Hà Nội. Năm 17 tuổi ông du học sang Pháp đến năm 1958 thì về lại Việt Nam sau khi tốt nghiệp trường điện ảnh IDHEC (L’Institut des hautes études cinématographiques) ở Paris.

Ông đóng góp nhiều bài vở cho các báo chí ở Sài Gòn. Năm 1965 ông được bổ nhiệm làm Quản đốc Đài Phát thanh Đà Lạt. Tên tuổi của của ông gắn liền với ngành điện ảnh trong vai trò đạo diễn. Bốn cuốn phim có sự đóng góp của ông là Ngàn năm mây bay(1963), dựa theo tiểu thuyết của Văn Quang, hãng Thái Lai sản xuất với các diễn viên Lê Quỳnh, Bích Sơn, Bích Thủy, Phạm Huấn

Hai chuyến xe hoa(1961) dựa trên tiểu thuyết Hai chuyến xe hoa của Nguyễn Bính Thinh và tuồng cải lương của Thái Thụy Phong; hai diễn viên chính trong phim là Thanh Nga và Thành Được
Nước mắt đêm xuân với các diễn viên Mai Trường, Nguyễn Long, Lệ Quyên và Khánh Ly.

Xa lộ không đèn(1972) với các diễn viên Thanh Nga, Hoài Trung, Trang Thanh Lan, Năm Châu
Sau năm 1975 ông bị đi tù cải tạo đến năm 1979 thì xuất cảnh sang Pháp. Năm 1981 ông sang định cư ở Hoa Kỳ rồi mất năm 2006 ở San Jose, California.

Tác phẩm của Hoàng Anh Tuấn :

Ly nước lọc– kịch
Hà Nội 48– kịch
Về Provence– tập thơ
Yêu em, Hà Nội– tập thơ
“Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội” – nhạc soạn cùng với Phạm Đình Chương.







VƯƠNG ĐỨC LỆ
(1937-2008)


Ông tên thật là Lê Ðức Vượng, sinh ngày 15 tháng 11, 1937 tại Bạch Mai, Huyện Hoàn Long, Tỉnh Hà Đông.
- Học Trung Học Chu Văn An Hà Nội và sau 1954, tại Sài Gòn. Đã theo học Luật Khoa và Văn Khoa.
- Năm 1962, ông bắt đầu đi dạy, sau đó làm Ký Giả cho Việt Nam Thông Tấn Xã, rồi làm Giám Đốc Đài Phát Thanh Long An rồi làm Biên Tập Viên cho Đài Phát Thanh Sài Gòn.

- Năm 1989, ông tham gia nhóm Diễn Đàn Tự Do (Đoàn Viết Hoạt), bị bắt và bị giam cho tới cuối năm 1995.
- Định cư tại Hoa-Kỳ, Tiểu Bang Virginia từ năm 2000, hoạt động với nhà xuất bản Tủ Sách Tiếng Quê Hương (Uyên Thao), Tổng Thư Ký Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới - Hoa Thịnh Đốn, và viết bài bình luận cho Đài Phát Thanh Sài Gòn Houston (Texas).
- Ông qua đời ngày 20 tháng 1, 2008 tại Annandale, Virginia.

TÁC PHẨM ÐÃ XUẤT BẢN:

- Hoa Mười Phương, tuyển tập thơ với 14 tác giả, Sài Gòn 1959
- Ðường Lên Thiên Thai, Thơ, Sài Gòn 1962
- 40 Bài Thơ của Mai Trung Tĩnh và Vương Ðức Lệ, Sài Gòn 1960 [Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc (1960-1961)]
- Tình Thơ Vương Ðức Lệ, Sài Gòn 1970
- Thiên Nga Trên Ngọn Ðỉnh Trời, Sài Gòn 1974
- Thơ Vương Ðức Lệ, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia 2000
- Thơ Tình Vương Ðức Lệ, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia 2003
- Thơ Giữa Đời Thường, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia





PHẠM VIỆT TUYỀN

(1926-2009)


Nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà báo Phạm Việt Tuyền, bút hiệu Thanh Tuyền, sinh ngày 15 tháng Tám, năm 1926. Ông từng là Chủ nhiệm nhật báo Tự Do kiêm Giám đốc Cơ sở Báo chí và Xuất bản Tự Do. Ông cũng là Tổng Thư Ký của Trung Tâm Văn Bút VN trong nhiều nhiệm kỳ. Tác phẩm của ông gồm những cuốn“Trên Ðường Phụng Sự,” (Kịch, Xb năm 1947) “Nghệ Thuật Viết Văn,”(Biên khảo, Xb năm 1952) “Phá Lao Lung,” (Thơ, Xb năm 1956) “Quan Ðiểm Về mấy Vấn Ðề Văn Hóa,” (Biên khảo, Xb năm 1953) hay “Phương Pháp Nghị Luận, Phân Tích và Phê Bình Văn Chương,” (Biên khảo, Xb năm 1969).. vân vân…

Trong lãnh vực giáo dục, ông là giáo sư dạy chứng chỉ dự bị ban Việt Hán, ở Ðại Học Văn Khoa, Sài gòn; hay chứng chỉ Văn Chương Việt Nam, cho năm thứ nhất ở Ðại Học Văn Khoa, Huế. Ðầu thập niên 1980, ông chọn định cư tại thành phố Strasbourg, Pháp. Ông mất ngày 16 Tháng Hai, năm 2009.






TRẦN TAM TIỆP

(1928-2009)


Nhà báo Trần Tam Tiệp sinh ngày 11-11 -1928.
Ông tốt nghiệp khoá 2 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và được đi tu nghiệp sĩ quan phi hành tại Pháp.
Trước 1975, với cấp bậc Trung Tá và bút hiệu Đạo Cù, ông là một trong những chủ biên tập san Lý Tưởng của Không Quân và là người viết quen thuộc của báo giới Việt Nam.
Sau Tháng Tư 1975, ông cùng với một số nhà văn định cư tại Pháp như Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Thanh Hiệp... nhanh chóng thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, liên lạc cộng tác và được Văn Bút Quốc Tế chính thức nhìn nhận, liên tục cho tới ngày nay.

Trần Tam Tiệp được Chủ Tịch Văn Bút Thế Giới thời ấy là Thomas Von Vegesack đặc biệt quí trọng, vì những cống hiến không mệt mỏi của ông trong việc kêu gọi quốc tế tranh đấu bảo vệ các nhà văn miền Nam bị cộng sản bắt giam không xét xử.

Chính là nhờ sự vận động bền bỉ của ông mà tổ chức "The International PEN Writers in Prison Committee (WiPC) đã dành cho các nhà văn, nhà báo Việt Nam bị CS cầm tù nhiều trợ giúp ý nghĩa hoặc can thiệp bảo trợ.
Ông bỏ tiền túi và kêu gọi anh em gởi tiền về để giúp đỡ các đồng đội và văn nghệ sĩ đang bị cộng sản cầm tù trong những năm đó và còn vận động các quốc gia Âu Châu như Ý Đại Lợi và Thụy Điển cho cuộc tranh đấu về Tự do và Hoà Bình cho nhân loại.

Ông đã tạ thế vào ngày 23 tháng 12 năm 2009, Paris, Pháp quốc, hưởng thọ 81 tuổi.




TRƯƠNG BẢO SƠN

(1916-2010 )

Ông tên thật là Trương Cam Bỉnh. Sinh ngày 02 tháng 03 năm 1916 tại Hà Nội . Ông hoạt động cách mạng trong Việt Nam Quốc Dân Đảng dưới danh xưng Trương Bảo Sơn và văn hóa với bút hiệu Bảo Sơn. Ông còn có vài bút hiệu khác như Cẩm Bình, Ngọc San, Trường Sơn. Ông là Hội viên Trung tâm Văn Bút VN trong Hội Văn Bút Quốc Tế (P.E.N International).

Ông cộng tác với nhà văn Nhất Linh thành lập nhà xuất bản Phượng Giang, Đời Nay, xuất bản giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay. –

Năm 1959, Chủ nhiệm giai phẩm Tân Phong.
Năm 1965, Giám đốc chính trị tạp chí Đông Phương (Chủ nhiệm Nguyễn thị Vinh)
Năm 1978 ông vượt biển tới Pulau Bidong (Mã Lai) và định cư tại Gia Nã Đại từ 1979.

Năm 1988, ông cùng Nguyễn Khắc Ngải và Đỗ Quý Toàn thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, trung tâm Quebec Canada. –
Ông mất ngày 23 tháng 05 năm 2010 tại Montréal-Canada

Tác phẩm dịch:
1. Tình Nghĩa Vợ Chồng.
2. Con Nai Tơ
3. Một Bản Đàn.
4. Gió Đông, Gió Tây.
5. Ngư Ông Và Biển Cả.
6. Đỉnh Gió Hú.
7. Chiếc Lá Cuối Cùng.
8. Viên Ngọc Trai.
9. Trà Đạo.
10. Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith
11. Mặc Cho Gió Dập Tuyết Vùi.
12. Ngược Dòng Thời Gian.
13. Nội Cỏ Của Thiên Đường.





CAO XUÂN HUY
(1947-2010)


Cao Xuân Huy sinh tháng 9 năm 1947, quê nội ở Bắc Ninh, quê ngoại ở Hà Nam. Sau hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước, gia đình ông cũng bị chia ly. Thân phụ ông theo kháng chiến, trở về Hà Nội, chị ông không vô Nam, ở lại với bố. Còn ông thì theo mẹ di cư vào Nam.
Ông nhập ngũ năm 1968, là cựu Trung Úy Ðại Ðội Phó ÐÐ 4 thuộc Tiểu Ðoàn 4 Thủy quân Lục chiến. Tại mặt trận Quảng Trị vào tháng 3, 1975, ông bị bắt làm tù binh và bị cầm tù 5 năm.

Năm 1982 ông vượt biên và đến Mỹ một năm sau đó.
Năm 1985, ông in cuốn hồi ký “Tháng Ba Gãy Súng”, là cuốn hồi ký được viết năm 1985, ghi chép lại những diễn biến của mặt trận Thừa Thiên- Huế cho đến khi tác giả bị bắt làm tù binh. Cuốn sách đã được tái bản đến 10 lần và có mặt trên 58 thư viện lớn trên toàn thế giới.

Năm 2005, nhà văn Cao Xuân Huy làm chủ biên tạp chí Văn Học (kế tục vai trò của nhà văn Nguyễn Mộng Giác) đến tháng 4 năm 2008 Văn Học phát hành số 236 thì đình bản vì lý do ông bị ung thư mắt, sức khỏe suy yếu nên không thể chăm lo cho tờ báo. Ngày 12-11-2010 nhà văn Cao Xuân Huy từ trần sau một thời gian dài bệnh nặng. Bốn tháng trước khi qua đời, ông cho ra mắt cuốn “Vài mẩu chuyện” do tạp chí Văn Học xuất bản.





THẢO TRƯỜNG
(1936-2010)


Nhà văn Thảo Trường tên thật Trần Duy Hinh, sinh ngày 25-12-1936 (giấy tờ ghi 1938) tại Nam Định trong một gia đình đông con, ông là người thứ chín. Thân phụ ông mất sớm, năm 1954 ông di cư vào Nam để lại mẹ và người chị ở quê nhà lo phụng dưỡng ông nội và coi sóc mồ mả tổ tiên. Nhưng sau đó, mẹ ông bị đấu tố, bị tịch thu hết nhà cửa ruộng vườn, phải ra ở ngoài gò đất giữa cánh đồng nước mênh mông. Vào Nam, nhà văn Thảo Trường gia nhập quân đội theo học khóa 6 Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, và chính thức viết văn.

Truyện ngắn “Hương gió lướt đi” là tác phẩm đầu tiên của ông đăng trên tạp chí Sáng Tạo do nhà văn Mai Thảo làm chủ bút. Nhà văn Thảo Trường tham dự chiến tranh Việt Nam suốt 17 năm. Ngày 30/4/1975 ông đi tù gần 17 năm, trải qua 18 nơi giam giữ. Sau khi ra tù một năm, ông sang Mỹ đoàn tụ với vợ con. Ông đã qua đời tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ, ngày 26-8-2010 vì bệnh ung thư gan, thọ 74 tuổi

Các tác phẩm đã xuất bản gồm:

Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp (1966), Vuốt Mắt (1969), Chung Cuộc (1969, xuất-bản chung với Du Tử Lê), Th. Trâm (1969), Bên Trong (1969), Ngọn Đèn (1970), Mé Nước (1971), Cánh Đồng Đã Mất (1971), Bên Đường Rầy Xe Lửa (1971), Người Khách Lạ Trên Quê Hương (1972), Lá Xanh (1972), Hà-nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng (1973) , Cát (1974), Đá Mục (1998), Tầm Xa Cũ Bắn Hiệu Quả (1999), Mây Trôi (2002) , Miểng (2005), Những miểng vụn của tiểu thuyết (2008).



PHẠM CÔNG THIỆN
(1941-2011)


Phạm Công Thiện sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tại Mỹ Tho trong một gia đình Thiên Chúa Giáo. Từ tuổi thiếu niên ông đã nổi tiếng thần đồng về ngôn ngữ, năm 15 tuổi đã đọc thông viết thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, và Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tiếng Sancrit và tiếng La Tinh.

Năm 1957, 16 tuổi, ông xuất bản cuốn tự điển Anh ngữ tinh âm, nhưng từ vài năm trước đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm 1970, ông đã cộng tác với các báo và tạp chí như Bông Lúa, Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ. Cuối thập niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số trường tại Sài Gòn. Năm 1960, ông khởi sự viết cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học khi chưa được 19 tuổi.

Ðầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng sau một cuộc “khủng hoảng tinh thần.” Tại đây ông quy y ở chùa Hải Ðức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn.

Từ năm 1966-1968, ông là giám đốc soạn thảo chương trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa của Viện Đại học Vạn Hạnh. Năm 1968-1970, giữ chức trưởng phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện đại học này. Tại đây ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng.

Ông rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Ðức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Tại đây ông lập gia đình và sau đó làm giáo sư triết học Tây phương của Viện Ðại học Toulouse. Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, làm giáo sư ở College of Buddhist Studies. Từ khoảng năm 2005, ông sang cư ngụ tại Houston, tiểu bang Texas cho đến lúc qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2011.




NGUYỄN CHÍ THIỆN
(1939-2012)



Nguyễn Chí Thiện sinh ngày 27 tháng 2, 1939 là một nhà thơ phản kháng chính thể CSVN. Ông đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt giam tổng cộng 27 năm tù vì tội “phản động”.

Sinh trưởng tại Hà Nội, ông có một thời dạy học. Trong một bài giảng môn Sử năm 1960 do giảng bài không theo quan điểm nhà Nước nên ông bị bắt vì tội “phản tuyên truyền”.
Ông được thả năm 1964. Đến năm 1966 ông lại bị bắt giam vì làm thơ đả phá chế độ. Lần này ông bị giam đến năm 1977.

Năm 1979 Nguyễn Chí Thiện tìm cách chuyển tập thơ do ông sáng tác cho nhân viên sứ quán Anh tại Hà Nội. Vì lý do trên ông lại bị bắt. Đến ngày 28 tháng 10 năm 1991 ông được ra tù.
Năm 1994 ông được tổ chức Theo dõi Nhân quyền trao giải thưởng Hellman/Hammett.
Tháng 1 năm 1995 ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ qua sự vận động của Đại tá Không quân Hoa Kỳ Noboru Masuoka. Nhưng số phận nghiệt ngã, tên tuổi của ông lại bị những ý đồ đen tối vùi giập một thời gian dài cho đến khi ông qua đời ngày 2 tháng 10 năm 2012 tại Santa Ana, quận Cam, California, Hoa Kỳ. Sau đây là lời nhận định của nhà phê bình văn học Thụy Khuê :

“Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật, một con người thật. Chỉ vì nói thật mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dối đã thở thành sự thật. “





TUẤN HUY
(1933-2012)



Nhà văn Tuấn Huy tên thật là Nguyễn Năng Toàn sinh năm 1933 tại Hà Nội. Về sự nghiệp văn chương, Tuấn Huy được ghi nhận là thành công rất sớm. Trong 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, ông có một số tiểu thuyết vẫn được nhiều người nhắc đến như: Nỗi Buồn Tuổi Trẻ, Ngày Vui Qua Mau, Yêu trong bóng tối, Hương Cỏ May, Vòng tay Chờ Ðợi, ..v…v…

Vượt biển tìm tự do, trong thời gian tạm trú tại trại tỵ nạn, Tuấn Huy viết truyện dài“Bến Lỡ.” Sau khi định cư ở Hoa Kỳ, ông đã xuất bản thêm nhiều tác phẩm mới như “Dòng Sông Trong Giọt Nước,” “Thềm Sương Mù” (tiểu thuyết).“Xuôi Dòng Trầm Cảm” (tâm cảm) và, “Những Sợi Mưa Hư Ảo,” tiểu thuyết. Tác phẩm này tuy đã được in thành sách, nhưng ông chú thích “Ấn phẩm đặc biệt này dành riêng cho tác giả không bán.” Ngay nơi trang đầu của tiểu thuyết (có thể coi là sau cùng), nhà văn Tuấn Huy ghi “Thương nhớ Uyển Hương và gửi các con…” Tưởng cũng nên nói thêm, Uyển Hương là khuê danh người bạn đời của tác giả “Vòng Tay Chờ Ðợi.” Bà mất trong chuyến vượt biên hồi tháng 7 năm 1981 ở Biển Ðông.
Ông qua đời ngày 24 tháng 2 năm 2012, tại miền Nam California.



NGUYỄN MỘNG GIÁC
(1940-2012)



Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại tỉnh Bình Định, miền Trung Việt Nam.Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, ông học tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn).

Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt-Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở Huế. Năm 1965, ông được đổi vào Quy Nhơn làm Hiệu trưởng trường Cường Để.

Năm 1973, ông được thăng làm Chánh sở Học Chánh tỉnh Bình Định. Năm 1974, ông chuyển vào Sài Gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục thuộc Bộ Giáo Dục cho đến 1975.

Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết văn từ năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường Một Chiều của ông được giải thưởng Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. Tháng 11 năm 1981, sau khi vừa viết xong trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ, ông cùng con trai vượt biển, đến được đảo Kuku của Indonesia. Trong mấy tháng ở đây, ông đã viết một số truyện ngắn mà sau này xuất bản thành cuốn Ngựa Nản Chân Bon, và tập I của bộ trường thiên tiểu thuyếtMùa Biển Động.

Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California, cộng tác với các báo: Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ Thuật.
Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì phát hiện bị ung thư gan.

Ông đã qua đời ngày 2 tháng 7 năm 2012 tại tư gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.





THẾ UYÊN
(1935-2013)

Nhà văn Thế Uyên tên thực là Nguyễn Kim Dũng, sinh năm 1935 tại Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn học. Mẹ ông là em ruột các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị nhà văn Thạch Lam.

Cùng với người anh ruột là nhà văn Duy Lam, Thế Uyên khi vừa qua tuổi 20, tên tuổi đã hiện diện trong làng báo. Ông là người sáng lập tạp chí Thái Độ, như là một điểm khởi hành mới trong hành trình chữ nghĩa của chính bản thân ông. Ông là tác giả các tác phẩm nổi tiếng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, như Mười Ngày Phép của một người lính, Tiền Đồn

Nhà văn Thế Uyên tốt nghiệp Trung học Chu Văn An, theo học tại Đại học Văn Khoa và Sư Phạm, trở thành giáo sư Việt văn, dạy tại nhiều trường trung học công lập ở miền Nam, rồi thuyên chuyển lên dạy ở Ban Mê Thuột trước khi được động viên vào khoá 14 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trước năm 1975 ông đã xuất bản 21 cuốn sách, kể cả dịch cuốn Exodus của Leon Uris qua tiếng Việt là tác phẩm Về Miền Đất Hứa rất nổi tiếng được nhiều người tìm đọc

Sau 1975 ông bị đi tù cải tạo rồi đi định cư tại tiểu bang Washington Hoa Kỳ vào năm 1987. Ở đây ông vừa viết văn vừa đi học rồi đi làm. Ông đã có thêm mười tác phẩm được xuất bản: Sài Gòn sau mười hai năm, Con đường qua mùa Đông, Nghĩ trong mùa Xuân, Tuyển tập truyện ngắn Thế Uyên, Tuyển tập dâm tình của các nhà văn nữ Hoa Kỳ, Khu vườn mùa mưa, Nhà văn già và cô bé gù, Không một vòng hoa cho người chiến bại, Những người Mỹ chung quanh chúng ta.
Nhà văn Thế Uyên đã qua đời ngày 11 tháng 6, 2013 tại tư gia ở Bothell, tiểu bang Washington thọ 78 tuổi.




 
NGUYỄN XUÂN HOÀNG
(1940-2014)



Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 7 tháng 7 năm 1940 tại Nha Trang (Khánh Hòa).
Thời niên thiếu, ông học ở trường Võ Tánh (Nha Trang), trường Petrus Ký (Sài Gòn).
Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Văn Khoa (Triết học), Viện Đại học Đà Lạt (1958-1961), rồi giảng dạy môn Triết tại trường trung học Ngô Quyền ở Biên Hoà (1961-1962), tại trường Pétrus Ký ở Sài Gòn (1962-1975). Ngoài ra, ông còn làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn ở Sài Gòn (1972-1974).

Năm 1985, ông đến Hoa Kỳ và định cư tại San Jose.
Năm 1986-1997, ông làm tổng thư ký báo Người Việt Daily News California).
Năm 1989- 1994, ông còn là tổng thư ký tạp chí Thế kỷ 21 (California) thuộc công ty Người Việt.
Năm 1994, ông ở trong ban chủ biên tạp chí Văn Học. Tháng 9 năm 1996, ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Văn, đồng thời ông làm tổng thư ký cho báo Việt Mercury trực thuộc nhật báo San Jose Mercury News của Hoa Kỳ từ tháng 11 năm 1998 đến tháng 11 năm 2005. Sau đó ông chủ trương báo Việt Tribune.

Ông cũng từng là giảng viên (lecturer) giảng dạy môn Văn học Việt Nam đương đại tại Đại học California-Berkeley. Sau một thời gian định cư tại San Jose (Bắc California), ông qua đời tại đây vào ngày 13 tháng 9 năm 2014.

Tác phẩm của Nguyễn Xuân Hoàng đã xuất bản gồm:

Tập truyện ngắn
Mù sương (1966)
Sinh nhật (1968)

Truyện dài:
Bụi và rác (1996)
Khu rừng hực lửa (1972)
Kẻ tà đạo (1973)
Người đi trên mây (1987)
Sa mạc (1989)

Các thể loại khác
Ý nghĩ trên cỏ (tiểu luận, 1971)
Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu (tùy bút, 1974)
Căn nhà ngói đỏ (tạp ghi, 1989)…






NGUYỄN HỮU NHẬT

(1942-2014)


Nhà văn, nhà thơ, họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật sinh ngày 22 tháng 6 năm 1942 tại La Khê, Hà Ðông, sống tại Hà Nội từ khi lên bốn tuổi. Cùng gia đình di cư vào Nam năm 1955.

Từ năm 1967 đến năm 1975 ông phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Sau 1975 ông kết hôn với nhà văn Nguyễn Thị Vinh. Ông bị đi tù cải tạo hai lần: lần thứ nhất từ năm 1975 đến năm 1982, lần thứ hai từ năm 1984 đến 1988.

Năm 1989 ông được định cư tị nạn tại Na Uy, sống cùng gia đình tại Oslo. Tại đây ông điều hành tủ sách văn nghệ Sài Gòn Nghĩa Thư và tạp chí Hương Xa cho đến khi qua đời ngày 11 tháng 12 năm 2014.

Tác phẩm đã xuất bản:

Quán đời (tiểu thuyết, 1971)
Hạc sen (thơ, 1991)
Chí tôn ca (thơ, 1995)
Đã đời (thơ, 1995)
Cuộc chiến (thơ, 1998)
Hoa đào năm ngoái (tiểu thuyết lịch sử, 2009)
Nhật Tiến biên soạn(tổng hợp từ nhiều nguồn)
Theo: -https://nguoitinhhuvo.wordpress.com
Nguồn: -phuongkhanhdo.wordpress.com
Từ năm 2015 tới 2017


MẶC ĐỖ

(1915-2015)Mặc Đỗ -- tên thật là Đỗ Quang Bình - là nhà văn, nhà báo, dịch giả, là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975.
Ông sinh năm 1915 tại Hà Nội. Học Luật nhưng không hành nghề và chọn viết văn.. Khởi đầu viết các truyện ngắn, kịch và dịch sách đăng báo.

Sau 1954 di cư vào Nam, cùng với Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan thành lập nhóm Quan Điểm, xuất bản sách của các thành viên trong nhóm.

Ông cũng đã cùng với các nhà văn Vũ Khắc Khoan, Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà thơ Đinh Hùng, Như Phong Lê Văn Tiến, Mặc Thu Lưu Đức Sinh sáng lập tờ nhật báo Tự Do đầu tiên ở Miền Nam.
Sau 1975 ông định cư ở Mỹ và từ trần ngày 20 tháng 9 năm 2015 tại Austin, tiểu bang Texas - Hoa Kỳ.

Tác phẩm:

Bốn Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958),
Tân Truyện I (1967),
Tân Truyện II (1973),
Trưa Trên Đảo San Hô (2011)
,
Truyện Ngắn (2014),
chỉ trừ Tân Truyện II (1973) do Nxb Văn, sách Mặc Đỗ đều xuất bản với tên Nxb Quan Điểm.


Dịch thuật:

Lão Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956);
Con Người Hào Hoa / F.Scott Fitzgerald (Quan Điểm 1956);
Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966);
Người Vợ Cô Đơn / Francois Mauriac (Cảo Thơm 1966);
Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967);
Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967);
Anh MÔN / Alain-Fournier (Cảo Thơm 1968);
Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống 1973);
Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973)



VÕ PHIẾN


(1925-2015)


Võ Phiến tên thật là Đoàn Thế Nhơn, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1925 tại huyện Phù Mỹ, Bình Định; Ông là tác giả của 4 tiểu thuyết, 9 tập tuỳ bút, nhiều tập truyện ngắn, một tập thơ và nhiều tác phẩm phê bình tiểu luận. Ông còn có bút danh là Tràng Thiên.

Năm 1933 Ông theo học trường làng và sau đó học trung học ở Quy Nhơn.

Năm 1942, ông ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu viết văn.

Năm 1945, Võ Phiến đi bộ đội cho đến năm 1946 thì ra Hà Nội học trường Văn Lang.

Năm 1948, ông kết hôn với bà Võ Thị Viễn Phố và dạy học ở trường trung học bình dân Liên Khu V.

Cuối năm 1954, ông ra Huế làm việc tại Nha Thông Tin một thời gian rồi chuyển vào lại Quy Nhơn, tại đây ông tự xuất bản hai tác phẩm đầu là Chữ tình (1956) và Người tù (1957).

Sau đó ông vào làm việc tại Sài Gòn và cộng tác với các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Khởi Hành, Mai, Tân Văn, Bách Khoa...

Năm 1962, lập nhà xuất bản Thời Mới.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông định cư tại Los Angeles rồi Orange County, California Hoa Kỳ.

Ông qua đời ngày 28/09/2015 tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi.

Tác phẩm :

Chữ tình (Quy Nhơn, 1956)
Người tù (Quy Nhơn, 1957)
Mưa đêm cuối năm (Sài Gòn, 1958)
Đêm xuân trăng sáng (Sài Gòn, 1961)
Về một xóm quê (Sài Gòn, 1961)
Giã từ (Sài Gòn, 1962)
Thương hoài ngàn năm (Sài Gòn, 1962)
Thư nhà (Sài Gòn, 1963)
Tiểu thuyết hiện đại (1963)
Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà (dịch Stefan Zweig)
Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại (dịch Andre Mourois)
Truyện hay các nước 1 (dịch với Nguyễn Minh Hoàng)
Truyện hay các nước 2 (dịch với Nguyễn Minh Hoàng)
Một mình (Sài Gòn, 1965)
Tạp bút 1 (Sài Gòn, 1965)
Tạp bút 2 (Sài Gòn, 1965)
Tạp bút 3 (Sài Gòn, 1966)
Đàn ông (Sài Gòn, 1966)
Ảo ảnh (Sài Gòn, 1967)
Phù thế (Sài Gòn, 1969)
Tạp luận (Sài Gòn, 1973)
Chúng ta qua cách viết (Sài Gòn, 1973)
Đất nước Quê Hương (Sài Gòn, 1973)
Ông chồng muôn thuở (dịch Dostoievski)
Thư gửi bạn (Hoa Kỳ, 1976)
Ly hương (viết với Lê Tất Điều, Hoa Kỳ, 1977)
Nguyên vẹn (Hoa Kỳ, 1978)
Lại thư gửi bạn (Hoa Kỳ, 1979)
Văn học Miền Nam, tổng quan (Hoa Kỳ, 1987)
Truyện thật ngắn (Hoa Kỳ, 1991)
Quê (Hoa Kỳ, 1992)
Đối thoại (Hoa Kỳ, 1993)
Viết (Hoa Kỳ, 1993)
Sông và Viết (Hoa Kỳ, 1996)
Thơ thẩn (Hoa Kỳ, 1997)
Văn học Miền Nam, truyện 1 (Hoa Kỳ, 1999)
Văn học Miền Nam, truyện 2 (Hoa Kỳ, 1999)
Văn học Miền Nam, truyện 3 (Hoa Kỳ, 1999)
Văn học Miền Nam, ký (Hoa Kỳ, 1999)
Văn học Miền Nam, tùy bút và kịch (Hoa Kỳ, 1999)
Văn học Miền Nam, thơ (Hoa Kỳ, 1999)
Cảm nhận (Hoa Kỳ, 1999)





DƯƠNG KIỀN
(1939-2015)

Tên thật cũng là bút hiệu, Ông sinh ngày 28.12.1939 tại Huế.

- 1962, tốt nghiệp đại học Luật Khoa rổi gia nhập Luật Sư Đoàn Tòa Thượng Thẩm. Kết hôn với ái nữ của dịch giả Trương Bảo Sơn và nhà văn Nguyễn thị Vinh.

- 1961-1963, chủ bút tạp chí Văn Học.
- 1966, được giải thưởng Văn chương toàn quốc với kịch bản «Sân khấu».
- 1968, ông nhập ngũ và là Phó Ủy Viên tại tòa Án Mặt Trận Quân Sự - Nha Trang.
- 1975-1979, Tù cải tạo 3 năm trại Long Giao.
- 1979, vượt biên và định cư tại Na Uy (Norway).
- Ông mất ngày 17-11-2015 tại Oslo, Na Uy.

Tác Phẩm:

1. Thú đau thương (thơ) (Tự xuất bản 1960)
2. Sân khấu (kịch) (nhà x.b Văn Học 1965)
3. Biển trầm lặng (truyện dài) (nhà x.b Đông Phương 1965)
4. Kẻ xa lạ (dịch) (nhà x.b Bốn Phương 1965)
5. Máu của mẹ (truyện ngắn) (nhà x,b Thứ Tư 1966)
6. Người tù sa mạc (dịch) (nhà x.b Thứ Tư 1968)
7. Luật giá thú, tử hệ, và tài sản cộng đồng (biên khảo) (nhà x.b Khai Trí 1965)
8. Mùa gặt giữa hư vô (thơ) (nhà x.b Tiếng Việt 1991)
9. Thế Kỷ 20 (biên niên sử) (nhà x.b Tiếng Quê Hương 2005)

PHÙNG NGUYỄN
(1950-2015)



Nhà văn Phùng Nguyễn, tên thật Nguyễn Ðức Phùng, sinh năm 1950 tại Quảng Nam. Sau khi học xong bậc tiểu học ở trường làng, năm 1961 thi đậu vào lớp Ðệ Thất trường trung học Trần Quý Cáp tại Hội An.
- Năm 1968 nhập ngũ.
- Ðến Hoa Kỳ năm 1984, ông theo học cao học quản trị kinh doanh, từng sống và làm việc trong ngành tin học tại California, Hoa Kỳ.
- Ông bắt đầu viết văn từ năm 1994, đã cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng, talawas.org, tienve.org, damau.org,…
- Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hợp Lưu (năm 2002), đồng chủ trương tạp chí mạng Da Màu (2006), chủ trương thư viện online Trên Kệ Sách (2008), chủ trương trung tâm ấn hành eBook Kệ Sách (2011).
- Ông qua đời ngày 17 Tháng 11-2015 vì bệnh tim, tại một bệnh viện ở tiểu bang Maryland.

Tác phẩm:
- “Tháp Ký Ức,” NXB Văn, 1998,
- “Ðêm Oakland và Những Truyện Khác,” NXB Văn, 2001.





NGUYỄN ĐỨC LẬP

(1945-2016)


Nguyễn Đức Lập, tự là Chánh Phương, sinh năm 1945 tại Tư Nghĩa, Quảng Ngãi.
Bút Hiệu: Nguyễn Đức Lập, Chánh Phương, Hương Giáo, Ngô Phụng Anh, tên rừng Hướng Đạo là Sóc Vui Vẻ.
Ông là con của nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy, Bà Tùng Long Lê Thị Bạch Vân và là bào đệ của nhà thơ Trạch Gầm.

Ông học trung học ở trường Pétrus Ký, là cựu sinh viên luật khoa Đại Học Đường Sài Gòn, và nguyên luật sư Toà Thượng Thẩm, Sài Gòn.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, về làm rẫy ở ấp Phước Lập, xã Phú Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

Ông vượt biên tháng 8 năm 1980, ở trại tỵ nạn Palawan, sau đó đến trại chuyển tiếp Bataan, Philippines rồi định cư tại Hoa Kỳ năm 1983.
Đã cộng tác với các báo Tin Việt, Làng Văn (Canada), Hoa Thạnh Đốn Việt Báo, Nhân Văn, Văn Học, Đường Sống, Hoa Sen, Sức Sống, Thời Báo, Trẻ (Dallas).
Ông là Trưởng Hướng Đạo, sinh hoạt trong phong trào Hướng Đạo Việt Nam.

Năm 1999, ông cùng nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, nhà báo Du Miên, giáo sư Trần Lam Giang, nha sĩ Võ Trọng Di thành lập Thư Viện Việt Nam, tại Nam California, hiện tại vẫn còn hoạt động.
Ông từ giã cõi trần vào ngày 29 tháng Hai, 2016, tại Houston, Texas, hưởng thọ 71 tuổi.

Tác Phẩm Đã Xuất Bản:

Thơ:
Những Đêm Không Ngủ, 1986

Truyện Ngắn:
Cuộc Chiến Tàn Chưa, 1987
Cặp Mắt Quay Lại, 1992
Khung Rào Hẹp, 1992
Lớp Trước, Lớp Sau, 1994

- Truyện Dài:
Kiếm Đạo 1, Bảo Kiếm Tặng Anh Hùng, 1987
Kìếm Đạo 2 Thần Thư Trao Hào Kiệt, 1987
Ngắn Cổ Khó Kêu, 1989
Nhứt Biết Nhì Quen, 1990
Phong Vũ Tiêu Tiêu, Lôi Vũ Động, 1991
Giàn Đậu Mưa Rung, 1992
Trần Ai Khoai Củ, 1994
Mảnh Vụn Một Đời, 1999
Đi Trước Về Sau, 2009
Hương Giáo Đề Thơ, 2016 (Tập đầu tiên ấn hành năm 1990 gom những bài viết trong 5 năm đăng trên tờ Bách Khoa, sau đó Mục Hương Giáo Đề Thơ đăng đều đặn trên tờ Thời Báo của Du Miên). Thay Lời Tựa trong tập I nầy anh viết: “Đây là tập thư của vị thầy giáo làng gởi cho đứa học trò (Lê Văn Cui) cả đời không học hết được túi khôn của thánh hiền…”.





TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG
(1938-2016)




Tạ Chí Đại Trường là một nhà sử học và là nhà nghiên cứu văn hóa .
Ông sinh ngày 21 tháng 6 năm 1938 tại Nha Trang, là con của nhà Hán học Tạ Chương Phùng vốn là nhà hoạt động phong trào độc lập dân tộc trong thập niên 1940 - 1950 cùng với ông Ngô Đình Diệm.
Năm 1964 Tạ Chí Đại Trường tốt nghiệp bằng Cao học Lịch sử tại Viện Đại học Sài Gòn rồi nhập ngũ. Ông phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1964 cho tới năm 1974 với quân hàm Đại úy.

Năm 1964, Ông viết tác phẩm ‘Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ năm 1771 đến 1802”, đặt lại vấn đề về vai trò của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Lịch Sử Nội Chiến tại Việt Nam 1771-1802. Cuốn này được tặng Giải Thưởng Tổng Thống VNCH năm 1970.
Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo cho đến năm 1981.

Tháng 8/1994, ông đi định cư tại Hoa Kỳ, cộng tác với một số tạp chí như Văn, Văn Học, Hợp Lưu.
Đầu thập niên 2000, ông về Sài Gòn chữa bệnh và mất ở đó vào ngày 24-3-2016.

Tác Phẩm :
1 Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb. Văn Sử học, Sài Gòn 1973.
2 Thần, người và đất Việt, Nxb. Văn Nghệ, Hoa Kì 1989; Văn Học xb., Hoa Kì 2000.
3 Một khoảnh Việt Nam Cộng hoà nối dài, Nxb. Thanh Văn, Hoa Kì 1993.
4 Việt Nam nhìn từ bên trong và bên ngoài, bài viết riêng được gộp chung với Nguyễn Xuân Nghĩa, Nxb. Văn Lang, Hoa Kì 1994.
5 Những bài dã sử Việt, Nxb. Thanh Văn, Hoa Kì 1996.
6 Những bài văn sử, Văn Học xb., Hoa Kì 1999.
7 Lịch sử Việt Nam trong tầm mắt người Việt: Một lối nhìn khác. Bài viết cho Williams Joiner Center (UMASS/Boston) 2002.
8 Sử Việt đọc vài quyển, Văn Mới xb., Hoa Kì 2004.
9 Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam, bản thảo bắt đầu 2005. Văn Mới, USA 2009.
10. Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861-1945), bản thảo 1975. Nxb. Tri Thức & Nhã Nam, 2011.





VŨ HUY QUANG
( 1942-2017)


Vũ Huy Quang sinh ngày 9.7.1942 tại Hải-Phòng.Vào Nam năm 1954, đến California tị nạn sau năm 1975.
Trước năm 1975 là một đại uý trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và ông chỉ bắt đầu sự nghiệp sáng tác và biên dịch văn học tại Mỹ.
Ông cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại dưới các bút hiệu Diệu Phong, Tam Trương, Thăng Long Văn Sĩ.
Sau nhiều năm ở Nam California, ông đến sống tại Pacifica, Bắc California, và mất ở đó vào ngày 14 tháng Giêng năm 2017 sau một thời gian chống trả bệnh ung thư, thọ 74 tuổi

Tác phẩm đã xuất bản :
- Mười Tân Truyện Liêu Trai (1991).
- Câu Chuyện Triết Lý (1992).
- Chín Truyện Ngắn (1992).
- Nơi Trại Trừng Giới (dịch, 1988).
- Đường Lên Trời (dịch, 1989).
- Nhục Bồ Đoàn (dịch, 1990).






PHAN LẠC PHÚC

(1928-2016)


Nhà Văn, nhà báo Phan Lạc Phúc, bút hiệu Ký Giả Lô Răng, sinh năm 1928, là bào huynh của nhà văn Phan Lạc Tiếp.
Ông tốt nghiệp Khóa 2 Thủ Đức và năm 1955, ông mang cấp bậc trung úy, giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng TĐ 14 Việt Nam, tiếp thu Bình Định.
- Năm 1956 làm việc tại Phòng 5 Bộ TTM.
- Năm 1957, ông được gửi đi học khóa Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí (Press Information Officer) tại Ft. Slocum, New York, Mỹ.
- 1958, ông là Phụ tá Trưởng Phòng 5 Bộ TTM và lần lượt đảm trách các chức vụ:
- Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân,
- Sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Thiếu Tướng Dương Văn Minh.
- Năm 1964, Trưởng Khối Huấn Luyện của trường Chiến Tranh Chính Trị.
- Văn phòng của Tướng Trung Hoa Dân Quốc Vương Thăng, cố vấn của Bộ TTM. VNCH về “Lục Đại Chiến.”
- Năm 1965, là Chủ bút của tờ nhật báo Tiền Tuyến và mở mục Tạp Ghi dưới tên Ký Giả Lô Răng.
- Năm 1973, học khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại Long Bình.
- Tham Mưu Phó CTCT Quân Đoàn III tại Biên Hòa.
- Biên tập Tập san Quốc Phòng (trường Cao Đẳng Quốc Phòng).

Sau biến cố tháng Tư, 1975, Trung Tá Phan Lạc Phúc đã qua các trại tập trung Long Giao, Suối Máu, ra Bắc ở Liên trại 2 Sơn La, Phù Yên, Thanh Phong, Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Hà Nam Ninh, sau cùng là Xuân Lộc Z.30D. Ra tù năm 1985.
Năm 1991, vợ chồng ông đến định cư tại Sydney, Úc theo diện đoàn tụ do ái nữ bảo lãnh.

Ông cầm bút trở lại, và cũng với thể loại tạp ghi xuất hiện trên nhiều tờ báo khác tại Úc Châu như Chiêu Dương, Văn Nghệ, Việt Luận, Dân Việt và Ngày Nay (Mỹ), Quê Mẹ (Pháp), Thời Báo (Canada).
Ông qua đời vào ngày 28 tháng 4 -2016 vì đột quỵ tại Sydney (NSW) Australia.

Tác phẩm:
- Bạn Bè Gần Xa (2000,)
- Tuyển Tập Tạp Ghi (2002).




BÙI BẢO TRÚC

(1944-2016)


Ông sinh năm 1944 tại làng Trình Phổ, tỉnh Thái Bình. Đi học ở tỉnh Hải Phòng năm 1952, sau lại dời lên Hà Nội vào năm 1953 để theo học Tiểu học tại trường Lý Thường Kiệt nằm ở phố Sinh Từ.

Năm 1954 ông di cư theo gia đình vào Nam, theo học nốt chương trình bậc Tiểu học ở trường Nguyễn Tri Phương, Sài Gòn, sau đó tiếp tục bậc Trung học ở trường Chu Văn An, và tốt nghiệp Tú tài Toàn phần, Ban C năm 1963.
Sau đó ông du học ở Tân Tây Lan (New Zealand) và trở về nước năm 1965 để dạy Anh ngữ ở Hội Việt Mỹ và trường London School của giáo sư Nguyễn Ngọc Linh.
Thời gian sau ông qua làm việc với Phủ Tổng Ủy Dân Vận và Chiêu Hồi của ông Hoàng Đức Nhã.

Năm 1973 ông đảm nhiệm chức vụ phát ngôn viên chính phủ VNCH.
Năm 1974, ông làm việc tại Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Anh Quốc, và sau biến cố tháng 4-1975, ông qua Canada vào tháng 6 cùng năm.
Năm 1977 ông làm việc cho đài VOA ở Hoa Thịnh Đốn cho đến năm 2001 thì nghỉ hưu. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục viết loạt bài Thư Gửi Bạn Ta cho nhiều báo, được rất đông độc giả tán thưởng.
Ông cũng cộng tác với đài Little Saigon Radio, Hồn Việt TV trong hai chương trình Ngày Này Năm Xưa, Chào Hoàng Hôn mỗi ngày, và Anh Ngữ Trong Đời Sống hằng tuần.

Sau vài tháng trở bệnh, ông từ giã cõi trần vào ngày 16-12-2016 tại Fountain Valley, California.


MINH ĐỨC HOÀI TRINH
(1930-2017)




Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày 15 Tháng Mười, 1930 tại Huế.
Năm 1945 Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó bỏ về Huế tiếp tục học.
Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris.
Năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF.
Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris.

1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh.
Tháng 4 1975, bà trở lại Paris, nỗ lực tranh đấu cho những văn, thi nghệ sĩ bị cộng sản cầm tù. Bà cũng là người cùng với các văn nghệ sĩ đang sống ở Pháp như ký giả Trần Tam Tiệp, nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhà văn Trần Thanh Hiệp đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhận là hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979.

Trong sinh hoạt sáng tác, bà thường lấy các bút hiệu như Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử, và là một trong những ngòi bút nổi tiếng của miền Nam Việt Nam.
Bà từ trần ngày 9 tháng 6, 2017 tại Quận Cam, Nam California, hưởng thọ, 87 tuổi.

Tác phẩm đã xuất bản :

Lang Thang (1960), Thư Sinh (1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây (1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974), Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn Quang Paris 1976), This Side The Other Side (Occidental Press USA 1980), Bên Ni Bên Tê (truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987), Biển Nghiệp (Nguyễn Quang USA, 1990).


Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều nguồn

Saturday, June 10, 2017


TẠP CHÍ VĂN HÓA VIỆT NAM 472

SƠN TRUNG  
Chủ biên
  
Bình minh trên quê hương ta
 s472 
Ngày 10  tháng 6 năm 2017






No comments:

Post a Comment