Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 4 July 2017

TAP CHÍ VĂN HÓA VIỆT NAM 474

 

Saturday, June 24, 2017



CHU TẤT TIẾN * VÀI KỶ NIỆM VỚI TRƯỜNG LÊ BẢO TỊNH



VÀI KỶ NIỆM VỚI TRƯỜNG LÊ BẢO TỊNH
Chu Tất Tiến

From Viet Bao


https://vietbao.com/p112a26893 1/vai-ky-niem-voi-truong-le-ba o-tinh


Sau khi di cư vào Nam được chừng môt năm, nhờ anh chị tôi giúp, mẹ tôi mua một căn nhà tại khu Vườn Xoài, đường Trương Minh Giảng, đối diện với nhà thờ Vườn Xoài cũ. Tại đây, tôi cùng hai chị tôi ghi tên vào học tại trường Lê Bảo Tịnh, hai chị tôi học đệ lục, tôi học đệ thất. Mỗi sáng, ba chị em chúng tôi đến trường không theo đường thẳng mà đi vòng vèo qua các ngõ hẹp phía sau nhà, qua nhiều ngôi vườn trồng mãng cầu, và nhiều loại cây ăn trái khác, rồi đâm thẳng vào cổng trường. Lúc bấy giờ, con đường vào trường chưa đổ xi măng, còn toàn là cát, nên đi học về là quần áo đầy bụi. Sân trường cũng vẫn còn trải đá dăm nhỏ, đi dép nghe lạo xạo dưới chân. 
Trường lúc ấy chỉ là hai dẫy nhà hình chữ L, dẫy chính là nhánh dài của chữ L, gồm 6 lớp học, chia ra làm hai, chừa khu ở giữa là văn phòng Cha Giám Đốc và phòng hành chánh. Dẫy phụ là nhánh ngắn của chữ L, một lớp học dài và đông nhất dành cho lũ học trò lớp Đệ Thất chúng tôi. Bàn học hồi đó là gỗ đóng thô sơ, có hộc bàn cho mỗi học sinh; ghế dài thì long lay, lập cập vì môt phần là đóng không chính xác, hai là sàn lớp gồ ghề. Tất cả các lớp đều có tường vách và cửa ra vào đầy đủ, riêng lớp Đệ Thất thì chỉ có 3 vách, còn lại vách nhìn thẳng ra sân thì trống trơn. Học sinh nữ ngồi bên ngoài nên có thể đi từ sân vào thẳng ghế của mình mà không cần bước qua cửa. Tụi học trò nam chúng tôi thì ngồi dẫy bên trong, có lẽ để cản chúng tôi không trố mắt ra nhìn các học trò nữ đi ngoài sân chăng?


Cá nhân tôi có khá nhiều kỷ niệm không quên ở trường Lê Bảo Tịnh. Nhớ Thầy Mai Thế Vinh, người gầy, cao, nghe nói hiện là Cha Sở ở Paris. Nhớ Thầy Hồ, dáng người tầm thước, đeo kính trắng, thư sinh, nói giọng rất nhẹ nhàng, dậy Việt Văn, đi cái xe máy gì xanh xanh, có bình xăng dẹp đằng trước, sau ứng cử Quốc Hội. Thầy Cửu dậy Toán nổi tiếng Saigon, sau là Linh Mục Nhạc Sĩ. Thầy Oánh trông oai phong nhất vì Thầy to, cao, và cũng trẳng trẻo, đẹp trai. Thầy Cửu và Thầy Oánh lúc đó đang vừa tu vừa học thêm ở Đại Học, vừa dậy học chúng tôi. Các Thầy ở ngay trong tu viện nho nhỏ nằm trên đường vào trường học. Tôi nhớ cổng vào tu viện của các Thầy nhỏ xíu, chỉ đủ một người lách vào. Thấy tôi viết chữ đẹp, một hôm Thầy Oánh kêu tôi đến chỗ Thầy để chép giùm bài học của các Thầy ở Đại Học. 
Vì hồi đó sách giáo khoa (cours) rất ít, nên các Thầy phải mượn vở của người học trước mang về nhà, cần cù chép lại. Tôi cặm cụi viết nhiều lần, được thầy Cửu và Thầy Oánh thưởng, cho đi Sở Thú chơi, ăn kem đã đời. Tôi nhớ Thầy Hanh dậy Anh Văn, rất đẹp trai, mà môn Anh Văn hồi đó được trọng lắm, nên Thầy được các cô nữ sinh theo ríu rít! Nữ sinh Lớp Đệ Thất lúc đó đã “xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê” lớn hơn tụi nhóc chúng tôi nhiều. Các cô đều mặc áo dài trắng nõn nà, trong khi chúng tôi đều mặc quần xooc, áo sơ mi bỏ ngoài, trông lóc chóc lắm. Trong số các cô nữ sinh thuộc đàn chị tôi, có Hằng và Liễu lớn cồ, mỗi lần đi học là lũ con trai lớp trên theo từng đàn. Các cô tuy làm mặt tỉnh, nhưng dáng đi có vẻ hơi vấp váp vì thích thú hay cảm động thì chúng tôi không rõ, chỉ biết rằng lũ chúng tôi chẳng coi cái việc nam nữ ra cái quái gì, vì vẫn hay đánh lộn tưng bừng.


Nói “lũ chúng tôi” là nói đến năm thằng ngồi bàn đầu, gồm có tôi, Nguyễn Vạn Năng (ở sát nhà tôi, sau 75, làm Cách Mạng, bị nhốt 8 năm tù, sau khi được thả, thì yếu đuối rồi chết vì bệnh lao phổi). Tuấn, đi Sĩ Quan Thủ Đức bị cụt tay. Lương Viêt Cương, sau trở thành môt Giáo Sư Toán nổi tiếng ở Saigon, học sinh ghi tên trùng điệp. Thắng, nhà có tiệm bán đèn Giáng Sinh, sau này đi tu “dở”, nghĩa là làm Thầy Phó Tế một thời gian thì bỏ về nhà lấy vợ. Tôi nhớ có lần, tôi với Năng, đạp xe ngang qua nhà Thắng, thấy đèn ông sao treo lủng lẳng trước nhà, tôi gào lên: “Thắng ơi! Bán cho tao cái đèn!” Ông Bố của Thắng đang đứng trong nhà, chạy ra chửi ầm: “Mẹ! Mấy thằng mất dậy!” Tôi và Năng đạp xe chạy thục mạng, vừa chạy vừa cười ầm ĩ.


Đó là hàng trên cùng gồm toàn thằng nhỏ con. Hàng ghế dưới là mấy tay lớn con, như Lãnh, đại du côn, hay bắt nạt mấy thằng nhóc chúng tôi, hoặc nhéo tai, hoặc ký đầu. Thêm vào đó còn Võ Công Tồn, người Nam, tập tạ nên bắp thịt tay như hoa chuối, trông dễ nể, nhưng riêng tôi, dù là nhóc tì nhưng có máu “đánh lộn”, nên đánh nhau với tụi nó hoài. Về nhà, hai bà chị tôi mách mẹ, thế là mẹ tôi nọc tôi ra quất cho tôi một trận kinh hồn bằng cây củi tạ, đến phát bệnh, mấy ngày mới dậy nổi. Nhớ đến Võ Công Tồn lại nhớ đến.. cặp mông Võ Thị Yến Oanh, em của Tồn!.
Phải viết câu này, vì có một lần, tui tôi chơi trốn tìm ở sau một cái xe nhà binh, không có mui, đậu gần cổng trường, Võ Thị Yến Oanh ngồi trên xe, dựa lưng vào thành xe, quay mông ra ngoài. Thầy tôi đang tìm chỗ núp, Yến Oanh với tính ngây thơ, ngoắc ngoắc gọi tôi lại núp dưới xe, ngay dưới cặp mông của Oanh! Và hễ tôi nhúc nhích bên dưới, thì bên trên, Oanh lại nhúc nhích mông theo để che chắn cho cái đầu tôi bên dưới, làm cho mãi đến bây giờ, hơn 60 năm rồi, vẫn không thể nào quên..cặp mông Võ Thị Yến Oanh to đùng.


Nói về những người bạn học cùng lớp, tôi không thể nào không nhắc những bạn lớn tuổi hơn tôi, ngồi phía dưới cùng như Trần Năng Phùng, sau này là Giáo Sư Anh Văn, rồi làm Hiệu Trưởng Trường Anh Văn Khôi Nguyên lừng lẫy. Cao Đình Phùng, to con, sau đi Không Quân, làm phi công trực thăng. Hồi học đệ Ngũ, Phùng nổi hứng đi kiếm được ở đâu cái đầu lâu, gói vào áo may-ô, đem lại khoe với tôi. Với tính nghịch ranh, tôi ôm cái đầu lâu ấy để ngay trên cửa sổ nhà Năng, rồi đứng chờ cho đến khi Mẹ Năng ra nhìn thấy, bà chửi như tát nước “đứa nào mất dậy đem để đầu lâu ở nhà bà!”, làm hai đứa tôi vội chộp lấy cái đầu lâu, dọt lẹ! Còn Trần Ngọc, cũng cao lớn, trước 1975, là chủ tiệm xe đạp. Đào Đức Thạc cũng là Sĩ Quan, tôi gặp lại trong tù cải tạo, dù cách nhau hơn 15 năm, nhưng vừa nhìn thấy nhau là “mày, tao” liền!


Sau khi tôi lên Đệ Lục, thì lại quen với Nguyễn Thái Học và cùng với Nguyễn Vạn Năng thành bộ ba chàng Ngự Lâm Pháo Thủ, chơi thân với nhau đến khi tôi và Học đi lính, còn Năng thì vì thân hình nhỏ thó, nên được hoãn dịch dài dài. Học sau lên Đại Úy, đi đánh trận, bị một viên đạn bắn thẳng vào miệng, trúng cái răng cửa, vừa lúc đó thì viên đạn hết đà, rớt vào trong miệng cùng với cái răng. Nếu Học mà bước tới một bước thì chắc viên đạn kia đã chui xuyên ra sau cổ họng! Thật là may lạ lùng!


Lớp đệ Ngũ và đệ Tứ lại có thêm bạn Ân, lớn tuổi, đeo kính trắng, đứng đắn như một ông Thầy tu. Hôm ấy, Thầy Hồ gọi Hằng lên bảng làm bài gì đó, Thầy Hồ đứng bên cạnh, dùng phấn sửa sửa cái sai của Hằng. Bất chợt, Liễu ở phía dưới nói thật to: “Cao hơn một tí!”, cả lớp ồ lên. Đến khi tan học, Thầy Hồ bảo cả lớp ngồi lại, rồi trịnh trọng hỏi Liễu: “Tại sao chị lại nói cao hơn môt tí là thế nào?”

Liễu ngang bướng đứng dậy và nói: “Em nói vậy là vì thầy thấp hơn chị Hằng!” rồi nói thêm vài lời xúc phạm đến Thầy Hồ, làm Thầy đứng lặng, chẩy nước mắt. Bọn tôi thương Thầy, thấy Thầy khóc, liền ào lên mắng Liễu tưng bừng. Ân chững chạc nhất, đứng cuối lớp, giơ tay ngăn các bạn lại và bình tĩnh giải thích là Liễu sai và hỗn, ý Ân nói là Liễu vô ơn, mất dậy. Liễu không nói gì, hôm sau nghỉ luôn.


Tôi cũng không thể quên Hoàn, tay này học giỏi nên hơi kên đời, hay nói: “Tao mà không đậu thì còn ai đậu cho!” sau rớt Tú Tài, đi Xây Dựng Nông Thôn.


Nhắc đến quý Thầy và các bạn mà không nhắc đến Cha Trịnh Việt Yên, Giám Đốc kiêm Hiệu Trưởng thì thật là thiếu sót. Cha bản tính hiền từ, suốt ngày đăm chiêu, hầu như lúc nào cũng nhìn lên Trời qua cặp kính cận, để tìm Chúa. Cha hiền lắm, ít khi nói nặng với ai, nhưng có một hôm, Cha đã dùng phương pháp trừng phạt với tôi, đau điếng.


Hôm đó, khi còn học Đệ Thất, vào giờ thầy Hanh, thấy mấy cô cứ ríu rít hỏi Thầy câu này câu kia, làm Thầy cứ đứng phía dưới mãi, bỏ quên tụi nhóc, tôi chán, bèn lủi ra khỏi lớp, leo tường rào qua vườn bên cạnh, hái ổi ăn chơi. Lúc trèo vào, gặp Cha Yên đứng chờ sẵn ở đó. Cha ôn tồn bảo: "Con xuống đi! Xuống cẩn thận, kẻo ngã!" rồi Cha chỉ cho tôi vào văn phòng. Tôi líu ríu đi theo. Tới nơi, Cha trải một cái chiếu nhỏ xuống đất, rồi bảo tôi nằm xuống, Cha vừa quất cho tôi 5 roi choáng váng, vừa nói: “Cha đánh cho con chừa tội trốn học nhé! Nhỏ mà không học, lớp đi làm ăn trộm à!” Lúc đó, tôi đau mông và cả tim, vì lúc đó, mấy đứa con gái vào, thấy "Tiến Tây Lai" bị đánh, che miệng cười khúc khích! Tôi xấu hổ quá chừng.


Cha Yên đánh tôi nhưng thương tôi lắm. Đến năm đệ Ngũ, Cha phát giải thưởng “Đạo Đức” cho tôi làm tôi cảm động quá! Sau 75, Cha đi bán bánh bao ở chợ Tân Bình. Nghe nói Cha cứ đội nón lá, mặc áo chùng đen, đẩy xe bánh bao đi bán, dân Tân Bình mua vèo vèo. Còn tôi, khi đi tù về, để tránh đi Lao Động Xã hội chủ nghĩa, phải “đăng ký” đi dậy học ở Trường Trung Học Phú Nhuận.
 Dậy được có hai tháng, tôi mắng cho tên Hiệu Trưởng một chập (Cựu Trung Tá Đinh Văn Đệ, Cựu Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện mà nằm vùng cho Viêt Cộng), rồi bỏ dậy, lên Tân Bình gần chỗ Cha Yên ở mà dậy chui vài lớp, tổng cộng hơn khoảng 20 cô học trò người Hoa chuẩn bị đi Mỹ. Hồi đó, dậy các cô tại tư gia, thầy hãi lắm vì đôi khi không biết trả lời ra sao! Có cô hỏi: “Thầy ơi! Tại sao người ta lại phải hôn nhau?” Cô khác hỏi: “Yêu là chi, Thầy hả?”. Một cô đẹp nhất lớp, bất ngờ nói lớn: “I love you more than I can say!” rồi gục xuống bàn khóc nức nở! Thầy ngồi ú, ớ, lưỡi cứng đơ một lúc rồi mới tìm ra câu giải đáp.
 Tuy gặp những tình huống “nhậy cảm” ấy, Thầy giáo vẫn “phớt tỉnh ăng lê”, thỉnh thoảng lại rủ cả đám học trò đi “picnic”, lúc thì tại Núi Bửu Long, lúc đi ăn trái cây ở Bình Dương. Thầy và trò chơi trốn chơi tìm, Thầy bị học trò bịt mắt buộc đi bắt dê, nên có khi thầy chụp trúng chỗ không thể chụp, học trò cười ầm. Học trò thì tìm cách lôi kéo thầy, làm áo thầy rách toạc! Vui dễ sợ! Tuy nhiên, vì thấy thầy xử trí những vụ đụng chạm “chết người” ấy một cách đàng hoàng, không bao giờ mất ý thức thầy-trò, nên có hai cô đột nhiên muốn trở lại đạo Công Giáo và xin tôi làm Cha đỡ đầu.


Thế là tôi nhờ Cha Yên giúp làm lễ rửa tội. Hiện giờ hai cô “con đỡ đầu” của tôi vẫn ở bên Canada, con cái đùm đề.


Trở lại Trường Lê Bảo Tịnh, đến năm Đệ Tứ, lớp tôi có thêm mấy công nương: Mỹ, nhà ở ngay mặt đường Trần Quang Diệu (tên cũ, quên mất rồi!) ngang với đường Trương Minh Giảng, tóc cúp, ngồi ngay đầu bàn cạnh bàn thầy, ít nói và học giỏi. Nhưng học “super” nhất lớp là hai chị em Nhuần và Thiềng. Hai cô nàng luôn đứng đầu lớp về Toán, Lý, Hóa. Đến năm thi Trung Học, bất ngờ Nhuần rớt, khóc nức nở. Nhuần phải học lại cùng lớp đệ Tứ với tôi, vì tôi cũng..rớt!


Năm học lại, tôi bắt đầu mơ mộng. Hôm ấy, tôi ngồi bàn đầu, vô tình nhìn ra ngoài cửa lớp, thấy môt tà áo trắng thấp thoáng trong sân trường rồi mê mẩn nhìn đến nỗi không biết Thầy dạy Toán (hình như là…Thầy Dậu? hi hi hi) đến gần. Thầy nhìn theo ánh mắt tôi và biết sự việc, bèn giơ cuốn sách Toán lên đập vào đầu tôi cái “bốp” và than: “Tiến ơi! Tất Tiến thành Tất Lùi rồi!” Bạn tôi cười ồ lên và đập bàn: “Chu tất Lùi! Chu tất Lùi!” làm Thầy phải quát lên, chúng nó mới im.


Bây giờ, trong dịp Lễ Từ Phụ, nhận được tin của vài người bạn Lê Bảo Tịnh cũ, đột nhiên trái tim bàng hoàng, bao nhiêu kỷ niệm tràn về đầy ứ. Nhớ trường xưa, nhớ Thầy cũ, bạn hiền cũng như bạn dữ, nhớ ông Lương gác cổng trường, có cô con gái hồi đó thò lò mũi xanh, sau này về thăm trường, đã thành thiếu nữ xinh đẹp quá chừng. Thời gian trôi qua nhanh quá, không biết bao giờ được trở lại thăm ngôi trường thân yêu.


Các bạn Lê Bảo Tịnh ơi! Nếu còn nhớ trường, xin gọi cho tôi nhé. Mong có ngày ngồi bên nhau kể chuyện xưa, tích cũ để cho thấy nhiều kỷ niệm trong cuộc đời mình vô cùng quý giá. Dĩ nhiên, không có Thầy thì không có Trò, vậy cũng mong quý Thầy nếu còn nhớ đến mấy tên học trò quậy phá này, thì xin gọi cho chúng em. Nhớ quý Thầy và Trường cũ đến nghẹn ngào…


Chu Tất Tiến. (714) 398-3678

PHÁ ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA


CÂU CHUYỆN PHÁ HOẠI TUYẾN ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM - ĐÀ LẠT


Đoạn đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn dài hơn 100 km người Pháp chỉ mất 3 năm (1891-1894) nhưng với đường sắt răng cưa từ Tháp Chàm lên Đà Lạt với 84 km đã mất 25 năm(1908-1932), đây là một trong hai tuyến đường sắt răng cưa độc đáo nhất thế giới.


Kinh phí xây dựng rất lớn (200triệu Franc Pháp), hàng trăm người đã chết vì bị hổ vồ, sốt rét ác tính hoặc bị tai nạn sập hầm, rơi xuống vực… khi thi công tuyến đường này.


Nhờ có đường sắt, từ Sài Gòn sẽ mất khoảng nửa ngày để đến Đà Lạt, tuyến đường sắt này hoạt động khá nhộn nhịp. Ngoài việc chuyên chở hành khách còn vận chuyển rau, hoa, chè, cà phê và gỗ từ Đà Lạt xuống miền xuôi. Chiều ngược lại thì chở trang thiết bị, vật liệu xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu kiến thiết Đà Lạt, vùng đất mới đầy tiềm năng.


Thế nhưng sau năm 1954, tuyến đường sắt răng cưa độc đáo này nhiều lần đã là mục tiêu tấn công của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. (QUÂN KHỦNG BỐ)


Đoàn tàu bị đặt mìn tám lần, hậu quả là một chiếc đầu tàu đã trật đường ray, trong một lần khác, mìn nổ đã tạo ra một hố to cho tới mức đầu tàu đã sụp vào trong hố đó và không chạy được, Sau đó tuyến đường lại được sửa chữa và hoạt động lại


Năm 1967, một nhóm bốn người có vũ trang chặn đoàn tàu chở hàng lại trên đoạn Da Tho (Le Bosquet) và Cầu Đất (Entrerays). Nhóm điều hành đầu tàu bốn người bị bắt mang vào khu rừng gần đó. Tại lần này, tổ lái tàu chỉ bị hỏi cung. Hai tuần sau đó, cũng chiếc đầu tàu đó và cũng cùng tổ lái tàu đó tiếp tục bị chặn lại ở giữa tuyến Cà Bơ (K’Beu) và Ei Gió (Bellevue). Lần này tổ lái cũng phải rời khỏi đoàn tàu và phải cung cấp thông tin bằng cách nào có thể phá hủy đầu tàu một cách hiệu quả nhất.


Ý tưởng đầu tiên của nhóm du kích là muốn cho nổ ở nơi đốt lò. Nhưng người lái tàu đã có thể giải thích cho họ hiểu rằng cho nổ lò hơi trong lúc không có thời gian kịp chạy ra đến một khoảng cách an toàn là một hành động tự sát. Người lái tàu đề nghị cho nổ những thùng dầu được gắn thêm trên tàu, nhưng lại đánh lừa bốn người du kích bằng cách chỉ vào một thùng đựng nước.


Do vậy, sau vụ nổ và sau khi nhóm du kích đó rút đi, người lái tàu với máy liên lạc vô tuyến đã có thể gọi một đầu máy khác cộng với quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháp tùng bảo vệ đi đến nơi mà mang chiếc đầu tàu hư hỏng nhẹ này về đến Đà Lạt.


Sau sáu tháng sửa chữa, một tổ lái khác đã lái đoàn tàu từ Đà Lạt về Sông Pha và lần này thì đầu máy 40-302 đã bị một quả mìn có sức nổ mạnh tới mức lò hơi của đầu máy đã nổ tung. Ba thợ đốt lò Hữu, Bích và Ngọc bị bỏng nặng và chết ngay tại chỗ. Người lái tàu tên An bị sức nổ hất văng lên một cành cây. Ông thoát chết, “chỉ” bị gãy tay.


Đầu tàu 40-302 bị phá hủy hoàn toàn, sau đó được kéo về Cầu Đất. Tuyến đường sắt răng cưa độc đáo ngưng hoạt động sau đó.


Sau năm 1975, trong lúc thiếu vật liệu để tái xây dựng đường sắt Thống Nhất, đường ray đặc biệt của tuyến đường sắt răng cưa cũng bị tháo dỡ nhằm lấy vật liệu mặc dù không phù hợp.


Được chế tạo đặc biệt cho các yêu cầu cao của đường sắt leo núi, ngay từ bu lông đến đai ốc cũng đã khác với vật liệu thông thường rồi.

Sau đó chúng bị trộm cắp và mang đi bán sắt vụn.

Rồi đến năm 1990, toàn bộ các đầu máy xe lửa răng cưa hay những gì còn sót lại từ chúng được bán phế liệu về cho Thụy Sĩ (là nước đã sản xuất ra các đầu máy này), chấm dứt mọi hy vọng mỏng manh tái thiết tuyến đường sắt vốn là một kỳ công kỹ thuật độc đáo của người Pháp để lại.


Hai chiếc đầu tàu sau đó đã được người Thụy Sĩ phục hồi và bây giờ vẫn hoạt động đều đặn trên tuyến đường sắt răng cưa leo núi tại Thụy Sĩ (Furka-Bergstrecke).


#PhanBa


Nguồn tham khảo:

https://phanba.wordpress.com/…/cau-chuyen-pha-hoai-tuyen-…/…
http://www.dieselcrew.ch/web/vn/vn.html
http://www.vnafmamn.com/tracing_shangrila.html
https://www.dfb.ch/index.php?id=erleben&L=0

FB Duy Thanh
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=353275438408760&id=100011789202211 .S:





Saturday, June 24, 2017


THUỴ KHUÊ * HAI SẮC HOA TY GÔN



Huyền thoại TTKh và Hai sắc hoa ty gôn


Xin gởi các bạn bài viết của Thụy Khuê về "Huyền thoại TTKh và Hai sắc hoa ty gôn " để trả lời câu hỏi " TTKh là ai? "


Bài khá dài nhưng như bạn sẽ thấy là vô cùng mê đắm và hầu như mình bị đẩy vô một giòng thác và thả hồn theo những vần thơ của TTKh


Vậy theo Thụy Khuê và Nguyễn Vỹ, thì hầu như chắc chắn: TTKh là nhà thơ Thâm Tâm ( tác giả bài thơ "" Tống Biệt Hành" ) và TTKH là cô Trần Thị Khánh- một cô nữ sinh 17 tuổi - người mà Thâm Tâm lúc đó mới 19 tuổi ,đã yêu với một mối tình vô cùng si mê và lãng mạn.


Riêng về Thâm Tâm, ta còn nhớ mấy câu trong bài " Tống Biệt Hành "" của ông:


"" Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng""


và:


Người đi ừ nhỉ người đi thực

Mẹ thà coi như chiếc lá bay..


Âm hưởng sao như một bài cổ thi, và làm ta liên tưởng tới những lời như :


"" Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu Vỵ ào ào gió thu..

( Chinh Phụ Ngâm)


Mời đọc


Thụy Khuê
Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc ký tên nhưng không biết rõ người ấy là ai, Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một huyền thoại lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu thơ. 
Câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ty gôn. Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến tòa soạn :  
- Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
- Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).
Bài thơ thứ nhất xuất hiện sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng đăng tám tháng sau.
Ngay khi Hai sắc hoa ty gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đã xôn xao, thi sĩ J. Leiba, người cùng tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng "Người đẹp vẫn thường hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai", chép lại nguyên văn bài Hai sắc hoa ty gôn trên Ngọ Báo với lời mở đầu:
Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để tặng em. Nguyễn Bính sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đã viết bài Dòng dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở và Gửi TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ khác sụt sùi thương cảm cho số phận TTKh. Vậy TTKh là ai ? Giọt lệ tương tư mới Hai sắc hoa ty gôn mở đường cho một lối lãng mạn khác với lãng mạn Đông Hồ, Tương Phố. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôn là giọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải là giọt lệ khóc chồng của Tương Phố, khóc vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc cho tình yêu; hơn thế nữa, khóc người tình ngoài hôn nhân, một đối tượng tự do, phóng khoáng, vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và lần đầu tiên hai chữ người ấy được chính thức đưa vào thi ca, sau này nó sẽ trở thành "cổ điển", trở thành ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ : Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
. Dải đường xa vút bóng chiều phong, Và phương trời thẳm mờ sương, cát, Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui, Bảo rằng:"Hoa, dáng như tim vỡ,
Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cho nên cười đáp:"Màu hoa trắng
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ? (1)
Người ấy
Trong văn xuôi Việt Nam, hai chữ người ấy đã được Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ người tình trong truyện ngắn Thày Lazaro Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng Quản là người đầu tiên đưa danh từ Người ấy vào trong văn Việt. Và Thanh Châu xướng lên hình ảnh hoa ty gôn trong truyện ngắn đăng trước bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy.
Nhưng TTKh là người đầu tiên sử dụng hai chữ "người ấy" và hình ảnh "hoa ty gôn" vào thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ. Về mặt tâm lý xã hội, người đàn bà có chồng những năm 36 - 37, mấy ai dám nói đến người tình một cách công khai ? TTKh đã viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu người đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái, sống trong xã hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ :
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
TTKh là ai ?
Trong Bài thơ thứ nhất, in sau Hai sắc hoa ty gôn hai tháng, có những yếu tố xác định rõ hơn về cuộc tình này :
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
và nhất là hai câu cuối :
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
Vườn Thanh và chồng nghiêm là hai yếu tố gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc tình và tên người chồng. Vườn Thanh ở đâu? Có phải ở Thanh Hóa không? Và người chồng của TTKh tên là gì ? Có phải là Nghiêm không ?
Đến bài thơ thứ ba, bài Đan áo cho chồng, lời thơ xa xót đầy nước mắt :
Ngoài trời mưa gió xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời.
Và Bài thơ cuối cùng có những câu gần như khó hiểu:
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Bởi nếu TTKh là người đem chuyện của mình ra viết thành thơ, thì tại sao nàng lại trách ai ? Vậy ai đây là ai ? Nàng trách chính nàng hay nàng trách người yêu? Nhất là đoạn sau, lời hờn giận càng thêm gay gắt:
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Tất cả những lời trách móc u uẩn này với nhịp điệu du dương, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho toàn bộ tác phẩm trở thành huyền thoại.
Nếu so sánh 4 bài thơ ký tên TTKh và 3 bài thơ "trả lời" của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy sau đó, người ta có thể mở được những nấc cửa đầu tiên vào những bí ẩn này. Bài Gửi TTKH của Thâm Tâm có những câu sau đây:
...
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời!
Miệng chồng, Khánh gắn trên môi
Hình anh, mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay,
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
 Góp hai thứ tóc đôi đầu,
 Sao còn đan nối những câu tâm tình?
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết mầu xanh màu vàng."
....
Thâm Tâm nhắc đến người yêu tên Khánh. Vậy TTKh là gì ? Có phải là những chữ Thâm Tâm - Khánh, viết tắt ? Hay là Tuấn Trình - Khánh (vì Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình). Hay TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm ?
Có thể nói hầu hết những nhà biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam (1940), Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968) ... và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992, tất cả đều đánh dấu hỏi về TTKh.
Lập luận của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng 
Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng là hai nhà biên khảo đầu tiên có ý tìm hiểu kỹ nhất về cái mà hai ông gọi là "Nghi án TTKH và Thâm Tâm". Trong bộ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, hai ông đưa ra những nhân chứng và những giả thuyết đã xuất hiện trên báo chí, văn đàn từ năm 38 đến 68 của các ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu, Nguyễn Bá Thế, Lê Công Tâm, Anh Đào. Người thì cho rằng TTKh chính là Thâm Tâm. Người lại quả quyết  TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm.
Ông Giang Tử thuật lại cuộc gặp gỡ với nhà thơ Tế Hanh vào tháng 11 năm 1944 trên chuyến xe đi Quảng Ngãi: "Tế Hanh cho biết TTKh chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với mình ở Thanh Hoá và kể rõ thiên tình hận của nàng và thi sĩ Thâm Tâm. Giả  thuyết này không đứng vững vì Tế Hanh không phải người Thanh Hoá mà Quảng Ngãi và vườn Thanh trong bài thơ không chắc đã là Thanh Hoá.
Ông Thạch Hồ và ông Y Châu đều cho biết: TTKh là nhân vật có thật, đã đôi ba lần đến thăm thi sĩ Thâm Tâm ở Khâm Thiên, lúc ông này ở chung với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân (giả thuyết này phù hợp với lời tường thuật của Nguyễn Vỹ sau này).
Ông Nguyễn Bá Thế, tức nhà văn Thế Nguyên lại xác định: TTKh chính là nhà văn Thẩm Thệ Hà, có tên thật là Tạ Thành Kỉnh, TT là Tạ Thành còn K và H là chữ Kỉnh viết tắt. Việc này bị Thẩm Thệ Hà phủ định hoàn toàn.
Nhưng có ba giả thuyết đáng chú ý :
- Trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông,  số 49, ra ngày 1/11/1959, tại Sài Gòn, ông Lê Công Tâm cho biết: TTKh chính là thi sĩ Thâm Tâm, người đã dàn cảnh một thiếu phụ bị ép duyên, khóc tình dang dở bằng những bài thơ Hai sắc hoa ty gôn và Bài thơ thứ nhất.
- Báo Sống ra ngày 15/4/1967, ông Nguyễn Tố, xác định đã sống chung với Thâm Tâm năm 1936, cùng với Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can. Thâm Tâm có mấy bài thơ ký tên TTKh như bài Hai sắc hoa ty gôn. Lúc đó Khánh là người mà Thâm Tâm yêu say đắm, lúc Khánh đi lấy chồng, Thâm Tâm đau khổ gần như phát điên. Lũ chúng tôi vừa giễu cợt, vừa khuyên lơn. Chính trong thời gian thất tình, Thâm Tâm viết được mấy bài thơ ký tên TTKh.
- Nhưng trong báo Nhân Loại, bộ mới số 108 ra tháng 7 năm 1958 tại Sàigòn, ông Anh Đào lại đưa ra một thoại mới mà thoại này, theo ông, do chính Thâm Tâm kể lại. Ông Anh Đào kể rằng: Năm 1941, trong một đêm thu lạnh lẽo, ông được ngồi giữa hai nhà thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm bên một bàn đèn thuốc phiện và chính ông được nghe Thâm Tâm tâm sự. Thâm Tâm nói rằng: TTKh. là tên một thiếu phụ mà trước kia tôi yêu. Và Thâm Tâm xác định những bài thơ đăng trên báo là của nàng, và ông Anh Đào kết luận rằng Thâm Tâm xứng đáng là "người ấy" của TTKh.
Sau khi đưa ra các luận chứng và giả thuyết trên đây, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến,  kết luận :
TTKh. không thể là sản phẩm tưởng tượng của Thâm Tâm vì đó là nỗi lòng tha thiết của một người, với những vần thơ lâm ly như thế thì người khác không thể viết thay được. Vậy Thâm Tâm là Thâm Tâm và TTKh là TTKh. Hai người có thể là đôi tri kỷ nhưng không thể cùng là một người. Các tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến muốn đóng hồ sơ nghi án trên một huyền thoại.
Sự xác định của Nguyễn Vỹ
Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đưa sự thực về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng.
Như chúng ta đã biết, sau Phan Khôi, Nguyễn Vỹ cùng với Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những người đã phát triển phong trào Thơ Mới. Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn lập trường phái Bạch Nga, chủ trương cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp nhận đúng mức. Đánh giá thơ Nguyễn Vỹ là một vấn đề khác mà chúng tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến ông đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn, nhà thơ sinh hoạt trong không khí văn học từ đầu thế kỷ đến 1945. Một tư liệu quý cho những người nghiên cứu văn học.
Sau hơn 30 năm im lặng, 1970, một năm trước khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những lời tâm sự của Thâm Tâm 22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viết Thâm Tâm và sự thât về TTKh. mà chúng tôi xin lược trình sau đây :
Năm 1936, 37 có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người nữa. Ít ai để ý đến họ. Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi. Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục hài hước, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Tôi - tức là Nguyễn Vỹ - tuy không chơi thân, nhưng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ của đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà "cho vui" vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần.
Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới "Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn".
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba, bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sàigòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều
khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ tưởng như gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tôi tưởng anh đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Câu chuyện tình
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử.
Thanh Giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ cho tới đời nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền thì ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán "Hạ mã" và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp. Tuấn Trình có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình -tên gọi hồi đó- mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất hiện.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô.
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại : hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.
Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh. Những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm.
Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô, thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: "Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm." Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cả hai cũng không nói được gì, Khánh run sợ. Tuấn Trình bối rối, tất cả những lời lẽ bay bướm đã sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại trách móc nhau vì những chữ "Thầy mẹ em nghiêm lắm" và rồi Khánh cũng vội vã chạy về nhà.
Lần thứ hai, vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bã hỏi: "Anh định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng mình ?" Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: "Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì..." Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giã.
Hai người vẫn thư từ với nhau cho đến một hôm... Tuấn Trình nhận được  bức thư của người yêu, không, của người đã hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).
Đại khái trong thư Khánh nhắc lại tình yêu "thơ mộng" của cô với "người nghệ sĩ tài hoa son trẻ", đó là những chữ cô dùng trong thư. Tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy mẹ của cô rất "nghiêm" theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi nhưng cô vẫn có "bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu", cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v... Cuối thư ký tắt Kh.
Tuy Khánh không viết gì về vị hôn phu và ngày cưới, nhưng sau dọ hỏi, Tuấn Trình được biết chồng Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con. (Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc cưới rất linh đình, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.
Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Trái với mọi dự đoán, Khánh rất hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Trình Thâm Tâm. Vừa nhớ thương đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, Tuấn Trình đã thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh, với thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang thư đến tòa báo.
Tất nhiên là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình hoàn toàn khác với lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Trình, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư cuối cùng của Khánh, trong thư Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa.
Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thư để làm Bài thơ cuối cùng ký tên TTKh, với những câu :
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Rồi để đáp lại Bài thơ cuối cùng, Thâm Tâm làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ kết thúc niềm đau của mối tình dang dở :
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ hoạ và đứng vững lâu dài trong lòng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một người tình, dù viết dưới bàn tay trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng của Thâm Tâm mà chúng ta có được hai hình tượng mới: người ấy và hoa ty gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của tình yêu, liệm thêm sự bí mật của những chữ TTKH.
* Phụ lục
Bài thơ thứ nhất – TTKh (2)
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
Đan áo cho chồng – TTKh (3)
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình. 
Bài thơ cuối cùng – TTKh (4)
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau...
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ "đan áo" của chồng em
Bài thơ "đan áo" nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem...
Là giết đời nhau đấy biết không ?
...Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng!
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi...
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây,
Nếu không yên được thì tôi ... chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này ?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh? anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh không nỡ nhớ không thôi!
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt...
 Sợ quá đi, anh... "có một người"!…
Gửi T.T. Kh. – Thâm Tâm (5)
Các anh hãy uống thật say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm ?
Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đã rời rã đi.
Hồn tôi lờ mờ sương khuya
Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời
Vâng, tôi biết có một người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng
Ðể hôm sau khóc trong lòng
Vâng tôi có biết cánh đồng thời gian
Hôm nay rụng hết lá vàng
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ.
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về.
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời !
Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối giây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu tâm tình ?
Từng năm từng đứa con non
Mỉm cười vá kín vết thương lại lành.
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã vỡ, nay tình lại nguyên
Em về đan mối tơ duyên


HUẾ 100 NĂM TRƯƠC

Ảnh cực hiếm về cố đô Huế gần 100 năm trước

Những hình ảnh khắc họa Huế cổ kính, rêu phong với đầy đủ không khí hoàng tộc triều Nguyễn.

On 02/06/2017   
Cùng cảm nhận nét đẹp thâm trầm, cổ kính của Cố đô Huế qua loạt ảnh hiếm có do các nhiếp ảnh gia Pháp thực hiện ở Huế thời thuộc địa.
Hình ảnh nằm trong loạt ảnh về Huế thời thuộc địa do trang mạng Hiệp hội bằng hữu Huế xưa của Pháp (Aavh.org) đăng tải.
Điện Kiến Trung trong Tử Cấm Thành, 1929. 
Mặt tiền Điện Kiến Trung, 1930. Công trình này ngày nay chỉ còn là phế tích đổ nát.
Tiền sảnh Điện Kiến Trung, 1928.
Phòng khách ở Điện Kiến Trung, 1928.
Phòng chơi billiard ở điện Kiến Trung, 1928.
Bức bình phong trước Viện Cơ Mật, 1920.
Cung Diên Thọ trong Tử Cấm Thành Huế, 1928.
Điện Phụng Tiên trong Hoàng thành, 1928.
Lầu Tứ Phương Vô Sự trong Hoàng thành, 1928.
Tòa Thương Bạc do vua Bảo Đại cho xây dựng năm 1936. Ảnh chụp năm 1948.
Cầu Trường Tiền năm 1931. .
Đài phun nước hình rồng bên bờ sông Hương, 1936.

TIN THẾ GIỚI



Quan hệ Việt Trung bên bờ vực căng thẳng

RFA
2017-06-21


Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp Phó Chủ tịch Quân ủy Trung Quốc Phạm Trường Long hôm 18/6 tại Hà Nội.
Courtesy chinhphu.vn
Một số diễn tiến gần đây cho thấy mối quan hệ Việt- Trung căng thẳng với nguy cơ xung đột có thể xảy ra tại khu vực tranh chấp Biển Đông giữa hai phía

Có thể xảy ra đụng độ?

Phó Chủ tịch Quân ủy Trung Quốc, Tướng Phạm Trường Long rời Việt Nam ngay trước các hoạt động giao lưu biên giới giữa hai nước dự kiến diễn ra từ ngày 20 đến 22 tháng 6 mà không cho biết lý do. Ông Phạm Trường Long đến Việt Nam từ ngày 18 đến 19 tháng 6. Báo chí trong nước cho biết nhân chuyến thăm này hai bên đã ký kết Thỏa thuận hợp tác về đào tạo giữa hai Bộ Quốc phòng. Trong chuyến thăm này, ông Phạm Trường Long đã gặp Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trần Đại Quang.
'Can thiệp này của Tướng Phạm Trường Long sẽ làm Việt Nam khó chịu vì phía Việt Nam cũng nêu vấn đề đường chín đoạn mà Trung Quốc vẽ ra đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.'
- GS. Carl Thayer
Cả báo chí Trung Quốc lẫn Việt Nam đều có những bài viết cho thấy chuyến thăm thành công. Tân Hoa Xã thậm chí còn trích lời ông Phạm Trường Long nói rằng nhờ sự thúc đẩy mối quan hệ của lãnh đạo hai nước, quan hệ Việt Nam Trung Quốc đang phát triển tốt và hợp tác hai bên đã đạt được những kết quả trong nhiều lĩnh vực. Tướng Phạm Trường Long còn nói Trung Quốc sẵn sàng kết nối sáng kiến Vành Đai Con Đường của nước này với kế hoạch Hai Hành Lang một Vành Đai Kinh tế của Việt Nam. Hai bên cũng thảo luận các vấn đề về vấn đề biển Đông. Theo Tân Hoa Xã, ông Phạm Trường Long cho biết tình hình biển Đông đã ổn định trong thời gian qua và đang có hướng tích cực. Ông cũng kêu gọi hai bên tuân thủ những thỏa thuận đã đạt được giữa lãnh đạo hai nước về vấn đề biển Đông.
Theo dự kiến ông Phạm Trường Long cùng Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch sẽ chủ trì các hoạt động giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam Trung Quốc lần thứ tư tại Lai Châu - Việt Nam và Vân Nam – Trung Quốc từ ngày 20 đến 22 tháng 6.
Một số chuyên gia quốc tế cho rằng lý do của quyết định cắt ngắn chuyên thăm Việt Nam có thể liên quan đến việc Việt nam mới đây cho phép công ty nước ngoài tiến hành các hoạt động khai thác gần bãi Tư Chính, nơi Trung Quốc cắt cáp tàu khảo sát địa chính của Việt Nam hồi năm 2011. Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc viết cho đài Á châu Tự do qua email, nhận định về điều này như sau:
thu-tuong-tiep-quan-uy-trung-quoc-2-1497809182839.jpg
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc làm việc với đoàn đại biểu Quân ủy Trung ương Trung Quốc tại trụ sở Chính phủ ở Hà Nội ngày 18/6. Courtesy chinhphu.vn
 
Nếu Tướng Phạm Trường Long yêu cầu Việt Nam ngừng các hoạt động khai thác dầu tại lô 136/03 thì điều này có thể là một cố gắng nhằm cho thấy Việt Nam đã không tuân thủ các thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo hai đảng. Can thiệp này của Tướng Phạm Trường Long sẽ làm Việt Nam khó chịu vì phía Việt Nam cũng nêu vấn đề đường chín đoạn mà Trung Quốc vẽ ra đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Lãnh đạo Việt Nam có thể đã từ chối lời yêu cầu này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam’.
Giáo sư Carl Thayer cũng cho biết đã có thông tin về việc Trung Quốc đã triển khai khoảng 40 tàu và máy bay vận tải Y -8 đến khu vực khai thác của Việt Nam. Theo ông rất có thể sẽ có những đụng độ xảy ra tại khu vực này trong vài ngày tới và nếu điều này xảy ra thì đây có thể là sự kiện nghiêm trọng nhất trong vài năm qua tại biển Đông.

Ngoại giao đi dây làm Trung Quốc tức giận

Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nhà nghiên cứu cao cấp về chính trị thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore, viết trên trang của ISEAS vào hôm 21 tháng 6 rằng những chuyến thăm gần đây của lãnh đạo Việt Nam tới các nước Nhật Bản và Hoa Kỳ có thể là yếu tố làm ảnh hưởng đến quan hệ Việt Trung.
Cụ Thể là chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới Hoa Kỳ vào hồi cuối tháng 5. Tiếp theo sau đó là chuyến thăm của ông Nguyễn Xuân Phúc tới Nhật Bản vào hồi đầu tháng 6. Nhân chuyến thăm này, hai nước đã ký kết các thỏa thuận trị giá 22 tỷ đô la. Phía Nhật Bản cũng cam kết cung cấp khoản tài trợ tương đương 350 triệu đô la Mỹ để Hà Nội nâng cấp các tàu tuần duyên và tăng cường khả năng tuần tra biển.
Hồi đầu năm nay, nhân chuyến thăm Việt Nam, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe cũng tuyên bố sẽ cấp cho Việt Nam 6 tàu tuần tra mới để trang bị cho lực lượng cảnh sát biển của Việt Nam.
Hồi tuần trước, lực lượng tuần duyên Nhật bản và Cảnh sát biển Việt Nam cũng tổ chức buổi diễn tập chống đánh cá trộm ở Biển Đông. Đây là cuộc diễn tập chung lần đầu tiên giữa hai nước với nội dung này.
'Nếu đúng đây là phản ứng của Trung Quốc thì đây là một phản ứng vụng về và phản tác dụng của Trung Quốc.'
- GS. Carl Thayer
Tờ Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc hôm 18 tháng 6 có bài xã luận chỉ trích các bước đi ngoại giao của Việt Nam. Bài xã luận viết ‘tham vọng của Việt Nam’ có thể 'khuấy động đối đầu và làm bất ổn khu vực', và ‘việc Việt Nam thường xuyên trao đổi với Hoa Kỳ và Nhật Bản về vấn đề biển Đông không nên được coi là việc làm tử tế’
Hôm 16 tháng 6 Trung Quốc cũng đưa giàn khoan dầu 981 đến cửa Vịnh Bắc Bộ mà Việt Nam và Trung Quốc cũng đang đàm phán phân định. Cục Hải sự Trung Quốc cho biết giàn khoan này sẽ tác nghiệp tại đây trong khoảng thời gian từ 16 tháng 6 đến 15 tháng 9. Cục Hải sự Trung Quốc yêu cầu tàu thuyên qua lại khu vực này trong khoảng cách an toàn là 2 km với giàn khoan.
Nhận xét về những diễn biến mới trong quan hệ hai nước vài ngày qua, giáo sư Carl Thayer cho rằng đây là một bước thụt lùi quan trọng trong quan hệ hai nước kể từ sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào gần khu vực quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa hai nước hồi năm 2014. Theo giáo sư Carl Thayer đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang hung hăng hơn để đáp lại những chuyến thăm gần đây của Thủ tướng Nguyễn Xuân PHúc tới Hoa Kỳ và Nhật Bản nhằm thúc đẩy quan hệ quốc phòng và an ninh với hai nước.  Nếu đúng đây là phản ứng của Trung Quốc thì đây là một phản ứng vụng về và phản tác dụng của Trung Quốc, Giáo sư Carl Thayer viết.



Cảng Cam Ranh, biểu tượng cho quan hệ quốc phòng Mỹ - Việt


media 
Cảng Cam Ranh của Việt Nam theo một bản vẽ nghiên cứu năm 1985 của Liên Xô(wikipedia.com)
Ngày 12/06/2017, Hải Quân Hoa Kỳ thông báo một chiến hạm của Mỹ đang ghé cảng Cam Ranh của Việt Nam để được bảo trì. Đây là hoạt động mới nhất trong một loạt những động thái cho thấy sự tiến triển trong quan hệ quốc phòng Mỹ - Việt, trong bối cảnh chưa ai nắm rõ về chính sách của tổng thống Donald Trump về châu Á nói chung. Trang The Diplomat ấn bản ngày 13/06/2017 có một bài nhận định về sự kiện này.
Quan hệ quốc phòng giữa Washington và Hà Nội đã phát triển mạnh trong những năm qua trong khuôn khổ đối tác toàn diện, được ký kết vào năm 2013 dưới thời tổng thống Barack Obama. Mối quan hệ này được thể hiện qua các cuộc trao đổi, tập huấn chung và trợ giúp nâng cao khả năng bảo vệ an ninh của cảnh sát biển Việt Nam trước những hoạt động bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Từng là căn cứ quân sự của Mỹ trong thời gian chiến tranh Việt Nam, Cam Ranh nay được gọi là Cảng Quốc Tế, mà trên nguyên tắc sẵn sàng tiếp nhận các chiến hạm từ mọi nước đến để sửa chữa, bảo trì. Ngoài tàu chiến Hoa Kỳ, cảng này đã tiếp đón rất nhiều chiến hạm đến từ các nước Nhật, Pháp, Trung Quốc, Philippines và Singapore.
Riêng các chiến hạm của Mỹ đã bắt đầu ghé cảng Cam Ranh để bảo dưỡng từ tháng 9/2016. Vào đầu tháng 6 vừa qua, khu trục hạm USS John S. McCain đã ghé Cảng Quốc Tế Cam Ranh trong một “chặng dừng kỹ thuật thông thường”. Trong thời gian đi thăm Việt Nam, cùng với một phái đoàn nghị sĩ Quốc Hội Mỹ, thượng nghị sĩ John McCain đã lên thăm chiến hạm mang tên người bố và người ông của ông, hai người đã tham chiến ở Thái Bình Dương trong thời gian Thế Chiến Thứ Hai. Phái đoàn nghị sĩ Mỹ lúc đó cũng đã gặp gỡ các lãnh đạo Việt Nam gồm chủ tịch nước Trần Đại Quang, bộ trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch, chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Sự hiện diện của tàu John S. McCain ở Cam Ranh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh quan hệ hai nước đang tiến triển tốt, không chỉ bởi vì vai trò của thượng nghị sĩ McCain trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, mà còn bởi vì vào năm 2016, chiến hạm John S. McCain cùng với chiến hạm USS Frank Cable là những tàu đầu tiên của Hải Quân Mỹ ghé thăm Cảng Quốc Tế Cam Ranh kể từ khi cảng này mở cửa trở lại vào tháng 3/2016.
Hôm qua, Hải Quân Mỹ xác nhận là một chiến hạm khác của Mỹ, USS Coronada, tàu tác chiến ven biển, cũng đang ghé cảng Cam Ranh từ ngày 11 đến 15/06 để được bảo trì. Chuyến “thăm kỹ thuật” của tàu này ở Cam Ranh là minh chứng đầu tiên cho khả năng bảo trì cho các tàu tác chiến ven biển (LCS) được triển khai luân phiên, thuộc lực lượng đặc nhiệm Task Force 73 của Hạm Đội 7, lực lượng hiện đang phối hợp các cuộc thao dượt ở Đông Nam Á.
Mặc dù nơi bảo trì và tiếp tế chính của các tàu LCS là ở Singapore, Hải Quân Mỹ đang cần có thêm những cảng như Cam Ranh để tăng cường hỗ trợ các chiến hạm của Hoa Kỳ trong khu vực.
 http://vi.rfi.fr/viet-nam/20170613-cang-cam-ranh-bieu-tuong-cho-quan-he-quoc-phong-my-viet

Trung Quốc và Việt Nam sẽ đụng độ quân sự trên biển Đông?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2017-06-21Tướng Phạm Trường Long, Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc (phải) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tại Bắc Kinh hôm 29/8/2016.
Tướng Phạm Trường Long, Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc (phải) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tại Bắc Kinh hôm 29/8/2016.
AFP photo


Tờ báo Mỹ the New York Times đưa tin nói rằng tướng Phạm Trường Long, Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc, đã rút ngắn chuyến viếng thăm Việt Nam.
Một trong những lý do của việc này được một số nhà phân tích đưa ra đưa ra là Bắc Kinh không hài lòng về chính sách ngoại giao của Việt Nam ngã về các cường quốc như Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Lý do cắt ngắn chuyến thăm Việt Nam
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, làm việc tại Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á cho Kính Hòa đài RFA cuộc trao đổi về chuyện này. Trước tiên ông cho biết.
Trong thời gian qua, sau khi khủng hoảng giàn khoan năm 2014 xảy ra, quan hệ Việt Nam Trung Quốc đã có những cải thiện thể hiện qua những cuộc thăm viếng của lãnh đạo cấp cao hai bên. Tuy nhiên, những khúc mắc cơ bản trong quan hệ song phương vẫn còn, đặc biệt là vấn đề biển Đông.
Trong hoàn cảnh đó, hoàn toàn dễ hiểu là Việt Nam tiếp tục chính sách tăng cường quan hệ với các cường quốc chủ chốt trong khu vực, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trong khi vẫn cố gắng cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Mục tiêu của Việt Nam là nâng cao vị thế chiến lược của Việt Nam trước Trung Quốc, đặc biệt là trong hồ sơ biển Đông.
Trong thời gian qua những nỗ lực này của Việt Nam đã có những bước tiến triển khá là rõ nét. Thể hiện qua một loạt sự kiện như chuyến thăm của Tổng thống Obama tới Việt Nam, tiếp đó là chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ.
Trong thời gian gần đây thì có hai chuyến thăm gây sự chú ý của công đồng quốc tế, là sự kiện Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới thăm Hoa Kỳ. Ông là nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên tới Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Donald Trump. Và sau đấy là chuyến thăm cũng của ông Nguyễn Xuân Phúc tới Nhật Bản.
Trong những chuyến viếng thăm này thì có một điểm đáng chú ý là nội dung về hợp tác quốc phòng giữa hai bên, Việt Nam và Hoa Kỳ, cũng như Việt Nam và Nhật Bản, được nêu bật, đặc biệt là trong tuyên bố chung giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, hai bên sẽ thảo luận việc để tàu sân bay của Hoa Kỳ vào cảng Cam Ranh. Đây có thể là nguyên nhân chính khiến cho Trung Quốc không cảm thấy thoải mái, và rõ ràng là Trung Quốc muốn gây sức ép để Việt Nam không nghiêng quá gần về phía Hoa Kỳ hay Nhật Bản, vì Hoa Kỳ và Nhật Bản là những đối thủ cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc trong khu vực này.
Những hoạt động của Việt Nam trên biển đụng chạm tới lợi ích của Trung Quốc và như thường lệ, Trung Quốc sẽ tìm cách để mà ngăn cản các hoạt động này của Việt Nam.
- Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp
Trong thời gian qua đã có những tiếng nói ở Trung Quốc bày tỏ sự bất bình trước những động thái này của Việt Nam. Ví dụ như trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo, có một bài xã luận chỉ trích những hành động ngoại giao này của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, cũng dễ hiểu là trong chuyến thăm Việt Nam của ông Phạm Trường Long, phía Trung Quốc nêu lên những vấn đề này. Một số báo đài đã đưa tin là ông Phạm Trường Long khẳng định những đảo trên biển Đông là thuộc Trung Quốc từ thời thượng cổ. Những diễn biến đó cũng như những diễn biến trong quan hệ giữa Việt Nam và các cường quốc như tôi vừa nói, cho thấy là quan hệ song phương vẫn có những mâu thuẫn cơ bản chưa thể giải quyết được.
Bên cạnh đó cũng có những tin tức cho rằng việc này có liên quan đến các hoạt động trên biển giữa hai bên gây ra khúc mắc dẫn tới sự đối đầu. Những thông tin này có lẽ chúng ta cần chờ thêm thời gian.
Một lần nữa chúng ta thấy vấn đề biển Đông là vấn đề mấu chốt dẫn tới căng thẳng.
Kính Hòa: Những thông tin ông nói chưa được kiểm chứng có phải là người ta nói rằng Việt Nam cho phép các công ty nước ngoài tiến hành khai thác ở bãi Tư Chính, nơi mà Trung Quốc cắt cáp của tàu khảo sát địa chấn của Việt Nam vào năm 2011 không ạ?
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp: Do chưa có thông tin chính thức nên tôi chưa thể bình luận gì về vấn đề này, nhưng theo tôi hiểu thì trong thời gian qua, Việt Nam có bị một sức ép về việc duy trì tốc độ tăng trưởng nên có bàn luận việc tăng cường khai thác dầu mỏ trên biển Đông.
Những hoạt động của Việt Nam trên biển đụng chạm tới lợi ích của Trung Quốc và như thường lệ, Trung Quốc sẽ tìm cách để mà ngăn cản các hoạt động này của Việt Nam. Vì vậy cũng không có gì khó hiểu nếu như mâu thuẫn trên biển Đông có liên quan đến vấn đề khai thác các nguồn lợi trên biển. Và có lẽ đây là nguyên nhân dẫn tới quyết định của ông Phạm Trường Long cắt ngắn chuyến thăm Việt Nam.
Thỏa thuận gì giữa VN và TQ
Kính Hòa: Theo thông tin từ Giáo sư Carl Thayer từ học viện quốc phòng Úc thì có khả năng là tướng Phạm Trường Long yêu cầu Việt Nam ngừng việc khai thác dầu ở bãi Tư Chính. Và điều này là phía Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy rằng Việt Nam đã không tuân thủ các thỏa thuận giữa hai đảng.
Ông có bình luận gì về nhận xét của Giáo sư Carl Thayer, và cái thỏa thuận đạt được giữa hai đảng là gì?
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp: Tôi đồng ý với nhận định của Giáo sư Carl Thayer. Trung Quốc rõ ràng là muốn gây sức ép với Việt Nam để Việt Nam ngừng các hoạt động này. Việc mà họ cho là Việt Nam không tuân thủ thỏa thuận giữa hai đảng, theo tôi có nghĩa là nội dung hai bên không làm phức tạp thêm tình hình.
Cái này nó cũng tùy thuộc vào sự diễn dịch của mỗi bên. Việc Việt Nam hoạt động thăm dò, khai thác dầu trên thềm lục địa của mình, hoàn toàn không làm phức tạp thêm tình hình, vì Việt Nam có chủ quyền trên vùng đó.
Tuy nhiên phía Trung Quốc xem đấy là khu vực tranh chấp, và các hành động như là thăm dò, khai thác dầu đơn phương có thể là hành động làm phức tạp thêm tình hình.
Kính Hòa: Cũng thông tin từ Giáo sư Carl Thayer thì Trung Quốc đang triển khai 40 tàu và máy bay vận tải đến khu vực khai thác của Việt Nam. Và việc này có khả năng gây ra đụng độ trong vài ngày tới.
Ông nhận định thế nào? Có khả năng diễn ra đụng đọ quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc hay không?
Nếu Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình và tiếp tục thăm dò, thì đương nhiên sẽ xảy ra đụng độ với Trung Quốc.
- Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp: Cái này tôi cũng chưa có thông tin, và chúng ta cần thời gian. Theo tôi hiểu thì các giàn khoan cũng như tàu của Trung Quốc đi từ khu vực đảo Hải Nam xuống cũng cần thời gian. Cho tới lúc này tôi cũng chưa khẳng định được khả năng xảy ra đụng độ hay không.
Tuy nhiên theo như Giáo sư Carl Thayer nhận định, nếu điều đó diễn ra thì nó sẽ là một thử thách rất lớn với quan hệ song phương, có thể ngang bằng hoặc lớn hơn cuộc khủng hoảng giàn khoan hồi năm 2014.
Kính Hòa: Nhưng bên cạnh đó, về mặt chính thức, ngoài bài xã luận trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo, thì báo chí nhà nước hai bên đều nói về chuyến đi của ông Phạm Trường Long như một sự thành công?
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp: Sự việc đang diễn tiến và những cái đụng độ vẫn chưa xảy ra trên thực tế, cho nên tôi nghĩ là hai bên vẫn đang dàn xếp, hoặc là có các trao đổi để ngăn chận khủng hoảng. Theo tôi nghĩ thì hai bên đều không muốn có sự căng thẳng trong quan hệ song phương, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay.
Hai bên đều chưa công bố các thông tin. Ngay cả thông tin ông Phạm Trường Long cắt ngắn chuyến viếng thăm Việt Nam cũng chưa được các báo chí chính thống của Việt Nam đưa tin. Đấy là một cơ sở cho chúng ta tin rằng hai bên vẫn có mong muốn ngăn chận cái căng thẳng trong thời gian tới để mà giải quyết cho ổn thỏa.
Tuy nhiên tôi nghĩ là sự đụng độ trong thời gian tới có được ngăn chận hay không là một câu hỏi tương đối khó, bởi vì cả hai bên đều khó đưa ra những nhượng bộ. Ví dụ như phía Việt Nam, lâu nay vẫn khẳng định khu vực bãi Tư Chính là thuộc thềm lục địa Việt Nam, và không thuộc khu vực tranh chấp. Nếu bây giờ Trung Quốc đưa các phương tiện tới, ngăn cản những hoạt động thăm dò của Việt Nam thì Việt Nám ẽ xử sự ra sao?
Nếu Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình và tiếp tục thăm dò, thì đương nhiên sẽ xảy ra đụng độ với Trung Quốc.
Trong trường hợp Việt Nam nhường bước, rút các tàu thăm dò của mình thì vô tình mặc nhiên nhìn nhận khu vực đấy ít nhất là khu vực có tranh chấp. Và như vậy sẽ làm phương hại đến các lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Chính vì vậy, trong trường hợp này, tôi nghĩ rất là khó để hóa giải các mâu thuẫn. Vì vậy xác xuất xảy ra căng thẳng nếu Trung Quốc đưa tàu tới đây, sẽ rất là cao.



Trung Quốc, Trump và Biển Đông sắp tới

Kính Hòa, phóng viên RFA
2016-12-05
Hình ảnh Tổng thống đắc cử Donald Trump trên báo chí Trung Quốc hôm 14/11/2016.
Hình ảnh Tổng thống đắc cử Donald Trump trên báo chí Trung Quốc hôm 14/11/2016.
AFP
Chính sách mới của Mỹ về Trung Quốc và Biển Đông trong thời gian sắp tới vẫn còn gây nhiều đồn đoán. Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, một chuyên gia về quan hệ quốc tế, đang làm việc tại Singapore cho Đài Á Châu Tự Do RFA cuộc trao đổi sau đây về vấn đề này, cũng như những khía cạnh có liên quan đến Việt Nam.
TS Lê Hồng Hiệp: Theo tôi thì vẫn còn sớm để nói đến chính sách của Mỹ dưới thời ông Donald Trump đối với châu Á nói chung cũng như là Trung Quốc hay Việt Nam nói riêng.
Trong thời gian qua ông Donald Trump đưa ra những ý kiến tương đối mâu thuẫn nhau. Một mặt ông tuyên bố sẽ giảm dần sự can dự vào khu vực, nhưng mặt khác thì một số diễn biến gần đây lại cho thấy điều ngược lại. Trong kỳ nghĩ cuối tuần vừa qua, nhiều người bàn luận đến cuộc nói chuyện trực tiếp giữa ông Donald Trump và bà Thái Anh Văn, Tổng thống Đài Loan. Đây là điều khá đặc biệt từ khi Mỹ và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ, và Mỹ cắt đứt quan hệ với Đài Loan.
Đây là lần đầu tiên một Tổng thống Mỹ nói chuyện trực tiếp với một lãnh đạo Đài Loan. Điều này đặt ra một câu hỏi về chính sách của Mỹ với Trung Quốc trong thời gian tới sẽ như thế nào. Một số học giả Trung Quốc cho rằng cuộc nói chuyện vừa rồi là một hồi chuông cảnh tỉnh đối với công luận và giới làm chính sách Trung Quốc, bởi vì từ khi ông Trump đắc cử, nhiều nhà phân tích Trung Quốc có cái nhìn tương đối lạc quan về quan hệ Mỹ Trung trong thời gian tới, cũng như vai trò của Trung Quốc trong khu vực, do chính sách biệt lập mà ông Trump nêu ra.
Sự yên tĩnh trên biển Đông chỉ là tạm thời, phù hợp với cách hành xử của Trung Quốc trong quá khứ. Đó là chiến lược lát cắt salami.
-TS Lê Hồng Hiệp
Một số diễn biến khác liên quan đến tình hình Triều Tiên hay biển Đông thì chúng ta chưa có thông tin rõ ràng để khẳng định xu hướng sắp tới. Tuy nhiên, với những gì ông Trump thể hiện vừa qua về Trung Quốc và Đài Loan, thì có lẽ là chúng ta phải chờ đợi thêm để mà có dữ liệu đầy đủ hơn, để đánh giá xu hướng chính sách của Mỹ dưới thời ông Trump chính xác hơn.
Kính Hòa: Trung Quốc trong thời gian qua có vẻ ít có hành động trên biển Đông?
TS Lê Hồng Hiệp: Một phần sự yên tĩnh trong thời gian qua trên biển Đông là do Trung Quốc đã hoàn thành cơ bản việc xây dựng các đảo nhân tạo trên biển Đông. Bây giờ họ chỉ âm thầm hoàn thiện, điều đó không gây nhiều tranh cãi và phản đối.
Thứ hai là sau phán quyết của tòa trọng tài về vụ kiện của Philippines hồi tháng bảy vừa rồi, thì tôi nghĩ rằng bản thân Trung Quốc họ cũng có sự kềm chế để mà giảm sức ép về ngoại giao và công luận về chính sách biển Đông của họ. Dường như họ cũng có sự nhún nhường nhất định để thực hiện mục tiêu này.
Thứ ba là một nhân tố chủ chốt trong tranh chấp biển Đông, đó là Philippines dưới thời Tổng thống Duterte có sự thay đổi về chính sách, và chính vì vậy mà Bắc Kinh muốn có một thời gian yên tĩnh để mà lôi kéo được ông Duterte một cách thành công hơn, cho nên họ có giảm căng thẳng trên biển Đông.
Tuy nhiên tôi nghĩ rằng sự yên tĩnh chỉ là tạm thời, phù hợp với cách hành xử của Trung Quốc trong quá khứ. Đó là chiến lược lát cắt salami, tức là sau một thời gian căng thẳng đạt được các mục tiêu của mình, thì Trung Quốc tạo ra một thời kỳ lắng dịu trước khi bước vào một đợt căng thẳng mới. Có lẽ năm 2017, 2018 sẽ có những căng thẳng mới do Trung Quốc gây ra trên biển Đông. Đặc biệt nếu chính quyền của Mỹ có những hành động mà Bắc Kinh cảm nhận là thù địch với Trung Quốc trên biển Đông.


000_IQ95F.jpg

Tổng thống đắc cử Donald Trump (trái) và Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn. AFP PHOTO

Kính Hòa: Ông vừa nói tới hành động của Tổng thống Duterte của Philippines cũng như phán quyết của tòa trọng tài, thì phán quyết đó đặt Trung Quốc vào thất thế. Tại sao bây giờ không chỉ Philippines và cả Malaysia nữa lại đổi thái độ đối với Trung Quốc?
TS Lê Hồng Hiệp: Sự thay đổi chính sách của Philippines nó xuất phát từ lập trường quan điểm của Tổng thống Duterte. Các ưu tiên chính sách của ông thiên về các vấn đề trong nước nhiều hơn. Để phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế trong nước thì Philippines cần sự hợp tác kinh tế với Trung Quốc, vì vậy ông cần cải thiện quan hệ với Trung Quốc, cố gắng duy trì một quan hệ gọi là ổn định, mang tính hợp tác nhiều hơn với Trung Quốc hơn là ông Aquino trước đây.
Ngoài ra tôi nghĩ là về chính sách biển Đông, thì sau phán quyết của tòa trọng tài, với thắng lợi áp đảo của mình như vậy thì phía Philippines cũng có như cầu cải thiện quan hệ với Trung Quốc, không ép làm họ mất mặt quá nhiều có thể có những phản ứng gay gắt làm căng thẳng leo thang.
Vấn đề mấu chốt ở đây là vừa cải thiện quan hệ với Trung Quốc, vừa bảo toàn lợi ích của họ. Và vấn đề cải thiện quan hệ với Trung Quốc cũng không phải là điều gì quá phương hại đến lợi ích của Philippines trên biển Đông, miễn là bảo tồn được thắng lợi của họ trong vụ kiện vừa qua.
Còn Malaysia thì bấy lâu nay quan hệ của họ vói Trung Quốc cũng đã tích cực và gần gũi. Trong thời gian qua Malaysia gặp nhiều sức ép trong nước cũng như bên ngoài. Trong nước thì có chuyện bê bối của Thủ tướng Malaysia liên quan đến một quĩ đầu tư.
Ông Najib cũng muốn sử dụng các nguồn lực của Trung Quốc để hóa giải vụ bê bối này, đặc biệt là các công ty Trung Quốc mua các món nợ xấu của quĩ đầu tư, giúp ông Najib phục hồi uy tín trong nước. Mặt khác ông Najib cũng gặp chỉ trích của Mỹ liên quan đến những bê bối của vụ tham nhũng này, vì vậy việc xoay trục sang Trung Quốc cũng là một phản ứng dễ hiểu.
Kính Hòa: Có vẻ như trong bối cảnh hiện tại thì Việt Nam trở nên ngày càng đơn độc hơn, thì ông đoán là sắp tới cách tiếp cận vấn đề biển Đông của Việt Nam sẽ như thế nào?
TS Lê Hồng Hiệp: Việt Nam về mặt nguyên tắc chiến lược thì sẽ không thay đổi nhiều, có nghĩa là sẽ kiên định các lập trường, chính sách, các tuyên bố chủ quyền của mình trên biển Đông, tăng cường quan hệ với các đối tác chủ chốt như Hoa Kỳ, Nhật Bản, ASEAN để mà đối phó với các sức ép trên biển Đông.
Tuy nhiên về mặt chiến thuật thì sẽ có thể có những điều chỉnh. Ví dụ như trong trường hợp ông Donald Trump có một sự thõa hiệp với Trung Quốc trên biển Đông thì Việt Nam cũng phải điều chỉnh ít nhiều để có thể có lợi hơn. Nếu Hoa Kỳ giữ nguyên cách tiếp cận của họ về biển Đông thì có lẽ Việt Nam cũng không cần quá lo lắng, hay là khỏi điều chỉnh nhiều các chính sách của mình trên biển Đông.
Mỹ có thỏa hiệp với Trung Quốc trên biển Đông, và Việt Nam có điều chỉnh theo sự thỏa hiệp đó hay không thì chúng ta cần phải chờ xem.
Trong bối cảnh những diễn biến quá lớn mang tính bước ngoặc chưa diễn ra thì Việt Nam vẫn duy trì đường hướng lâu nay của mình là kết hợp nội lực và tận dụng sự hỗ trợ từ bên ngoài để mà giải quyết sức ép từ phía TQ.
-TS Lê Hồng Hiệp
Trong lập trường của ông Trump về vấn đề Đài Loan, thì chúng ta cũng có chút hy vọng là ông ấy sẽ không thay đổi, sẽ không thỏa hiệp với Trung Quốc như nhiều người lo ngại lâu nay.
Kính Hòa: Nhìn các động thái của Việt Nam trong thời gian qua thì có vẻ như Việt Nam lại mạnh dạng hơn, ví du như cái tin Việt Nam đưa tên lửa ra Trường Sa, hay ảnh vệ tinh gần đây cho thấy Việt Nam mở rộng sân bay trên đảo Trường Sa lớn. Như vậy giải thích như thế nào về những hành động có vẻ như mạnh dạn hơn đó?
TS Lê Hồng Hiệp: Chính sách biển Đông của Việt Nam bao gồm nhiều mặt khác nhau, trong đó có sự kết hợp giữa hai phần, phát triển nội lực và sử dung ngoại lực. Những động thái mà anh vừa nói là thể hiện sự quyết tâm bên trong của Việt Nam nhiều hơn.
Chính vì vậy nếu có những diễn biến bên ngoài gây bất lợi cho Việt Nam thì Việt Nam vẫn có thể kiên trì duy trì các chính sách liên quan đến nội lực của mình. Tất nhiên nếu có sự thay đổi bên trong bên ngoài thì Việt Nam có thể phải cân nhắc.
Nhưng trong bối cảnh những diễn biến quá lớn mang tính bước ngoặc chưa diễn ra thì Việt Nam vẫn duy trì đường hướng lâu nay của mình là kết hợp nội lực và tận dụng sự hỗ trợ từ bên ngoài để mà giải quyết sức ép từ phía Trung Quốc.
Chúng ta không nên tách các hành động ấy của Việt Nam ra khỏi chính sách tổng thể trong chuyện giải quyết vấn đề biển Đông với Trung Quốc.
Kính Hòa: Xin cảm ơn ông.


Nhật phản đối Trung Quốc ‘xâm phạm lãnh hải’




Tàu tuần duyên Nhật Bản gần quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông.




Tokyo đã lên tiếng phản đối bốn tàu của hải giám Trung Quốc “vi phạm lãnh hải” của nước này gần quần đảo đang tranh chấp trên Biển Hoa Đông hôm 24/6.
Vụ việc xảy ra một tuần sau khi hải quân Nhật Bản điều một tàu chiến tới gần Biển Đông, vùng lãnh hải mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền, theo RT.
Kênh NHK dẫn lời quan chức Nhật Bản nói rằng các tàu của tuần duyên Trung Quốc hiện diện tại vùng biển gần quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư trong khoảng 20 phút trước khi rời đi.
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Nhật có đoạn: “Quần đảo Senkaku là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Nhật Bản và việc xâm phạm vùng biển này là một sự vi phạm không thể chấp nhận được đối với chủ quyền của Nhật Bản”.
Quần đảo Senkaku hiện do Nhật kiểm soát.
Quần đảo Senkaku hiện do Nhật kiểm soát.
Đây không phải là lần đầu tiên chính quyền xứ sở mặt trời mọc lên tiếng phản đối Trung Quốc về việc xâm phạm chủ quyền ở Biển Hoa Đông.
CNN đưa tin rằng đây là lần thứ 16 trong năm nay các tàu Trung Quốc tiến vào vùng lãnh hải của Nhật.
Tokyo hiện kiểm soát Senkaku, nhưng cả Trung Quốc lẫn Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.
Căng thẳng giữa hai cường quốc ở châu Á leo tháng trong những tuần vừa qua khi cả Tokyo và Bắc Kinh đều sử dụng khí tài để phô trương sức mạnh, theo RT.






Mỹ phản đối thay đổi nguyên trạng Biển Đông


media 
Hội đàm cấp cao Quốc Phòng, Ngoại Giao, giữa Mỹ (trái) và Trung Quốc tại Washington ngày 21/06/2017.REUTERS/Kevin Lamarque
Hoa Kỳ khẳng định không thay đổi lập trường về Biển Đông. Tuyên bố được ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson và bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis đưa ra trong phiên họp đầu tiên của hội nghị cấp cao Quốc Phòng và Ngoại Giao Mỹ-Trung khai mạc ngày 21/06/2017 tại Washington.
Hai nhà lãnh đạo Mỹ Tillerson và Mattis đã tiếp đón ông Dương Khiết Trì (Yang Jiechi), Ủy viên Quốc vụ phụ trách đối ngoại và tướng Phòng Phong Huy (Fang Fenghui), tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc.
Theo trang tin Philstar ngày 24/06/2017, trước báo giới, ngoại trưởng Mỹ cho biết phía Mỹ đã trao đổi thẳng thắn các quan điểm của mình liên quan đến tranh chấp tại Biển Đông với các quan chức Trung Quốc.
Ông Tillerson nhấn mạnh : « Chúng tôi phản đối mọi thay đổi nguyên trạng bằng cách quân sự hóa các tiền đồn tại Biển Đông và đưa ra đòi hỏi chủ quyền quá đáng không phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi bảo vệ quyền tự do lưu thông hàng hải và hàng không trong khu vực ».
Về phần mình, bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis tuyên bố đã thảo luận về tầm quan trọng của quyền tự do lưu thông hàng hải, giải pháp hòa bình trong tranh chấp hàng hải và các biện pháp nhằm giảm căng thẳng tại Biển Đông. Ông cũng nhấn mạnh Hoa Kỳ tiếp tục tuần tra trên không, trên biển và hoạt động tại những khu vực mà luật pháp quốc tế cho phép.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ cho biết : « Về vấn đề Biển Đông, đây là một cuộc đối thoại mà chúng tôi nêu lên những lĩnh vực mà hai bên có thể cùng làm ». Tuy nhiên, theo ông, đây mới chỉ là bước đầu của quá trình đối thoại mà hai bên sẽ còn duy trì trong tương lai.
Vài tuần trước, ngoại trưởng Mỹ Tillerson cáo buộc Trung Quốc sử dụng sức mạnh kinh tế để lẩn tránh nhiều vấn đề, như tranh chấp tại Biển Đông. Bất bình trước những lời chỉ trích của ngoại trưởng Mỹ, bộ Ngoại Giao Trung Quốc khẳng định Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á đang nỗ lực để duy trì hòa bình và ổn định ở các vùng biển có tranh chấp.


Saturday, June 24, 2017



NGUYỄN CAO QUYỀN * HỌA CỘNG SẢN

Họa Cộng Sản

Nguyễn Cao Quyền (Danlambao) - Thuật ngữ “cộng sản” xuất hiện một cách chính thức trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản do Karl Marx và F. Engels soạn thảo và công bố năm 1848. Nhưng nó không xuất hiện bình thường mà xuất hiện dưới hình thức một sự đe dọa siêu hình: bóng ma cộng sản.
Thế rồi bóng ma cộng sản dần dần trở thành sự thật và đã ám hại 2/3 nhân loại trong suốt một giai đoạn lịch sử kéo dài hơn 150 năm.

Bóng ma đó đã hiện hình thành một mỹ nhân đầy quyến rũ. Nhưng khi quyến rũ xong thì nó lộ mặt thật là một con quỷ ăn thịt người. Tất cả những người nhẹ dạ không cưỡng nổi sức quyến rũ của nó đều bị ăn thịt.
Cách diễn tả này có thể làm cho người đọc rùng rợn nhưng thực tế đã xảy ra như thế. Những vụ cộng sản ăn thịt chính con dân của nó đã xảy ra khắp mọi nơi nên ai cũng biết. Một trăm triệu người đã bị nó lạnh lùng giết hại và hiện tượng khiếp đảm này đã được ghi lại bằng hình ảnh, nhân chứng và tài liệu.
Sức quyến rũ của chủ nghĩa ‘Cộng Sản”
Sức quyến rũ của chủ nghĩa cộng sản là huyền thoại về thiên đường xã hội chủ nghĩa của Karl Marx. Triết gia người Đức gốc Do Thái này rất thông minh nhưng suốt đời nghèo khó. Sự nghèo khó đó tạo ra lòng ganh ghét đưa ông đến quyết định dùng hết khả năng và đời mình để tạo ra một huyền thoại dùng làm vũ khí trả thù chứ không phải để cứu vớt nhân loại.
Huyền thoại đó là tập Tư Bản Luận, một thời đã được đã được một phần không nhỏ của nhân loại lưu tâm hâm mộ. Tính huyền thoại này không kéo dài được bao lâu thì đã bị cả Marx và Engels thu hồi và cải chính vì đã sớm bị một nhóm người khám phá. Nhưng không may cho nhân loại, trong nhóm người đó có Lenin.
Lenin là người “giác ngộ” đầu tiên nhưng với giác quan nhạy bén đồng thời ông cũng trông thấy ở huyền thoại này một khía cạnh có thể phục vụ cho tham vọng chính trị của riêng ông. Để thỏa mãn tham vọng đó, Lenin kết hợp kết hợp cái phần lỗi thời của chủ nghĩa Marx với chủ nghĩa cách mạng bạo lực của Mechayev thành chủ nghĩa Marx- Lenin.
Chủ nghĩa Marx-Lenin
Dùng chủ nghĩa cách mạng bạo lực này Lenin đã cướp được chính quyền ở Nga năm 1917. Hai năm sau, Lenin lại dùng nó để phát triển và thành lập Đệ Tam Quốc Tế tức Quốc Tế Cộng Sản. Lenin dùng Quốc Tế Cộng Sản để bành trướng đê quốc Liên Xô trên khắp thế giới, đặc biệt là trên những cựu thuộc địa của Anh, Pháp trong vùng các quốc gia chậm tiến Đông Phương.
Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) là cơ quan đầu não có nhiệm vụ sách động và tài trợ những đảng cộng sản địa phương nổi loạn chống lại thực dân da trắng, rồi dùng bạo lực buộc họ dâng hiến dân tộc mình cho đế quốc Liên Xô.
Những chiêu bài cách mạng vô sản thế giới, đấu tranh giai cấp, nghĩa vụ quốc tế vô sản được QTCS tung ra để xóa nhòa các ý niệm “quốc gia dân tộc” và gỡ bỏ làn ranh “lãnh thổ” không ngoài lợi ích lợi dụng lòng yêu nước của các dân tộc thuộc địa dưới chiêu bài giải phóng.
Trong những thập niên 1920, thế giới đã bị lừa về ý niệm kẻ thù. Nhờ đó mà đế quốc Liên Xô phát triển nhanh chóng đến độ đã có thể chuẩn bị “thống trị” nhân loại. Nhưng tham vọng đế quốc của Lenin và những người kế nghiệp đã không thành công vỉ sức sống của hệ thống tư bản dân chủ không những đã không giãy chết như Marx cầu nguyện mà trái lại còn phát triển như chưa bao giờ thấy trong lịch sử nhân loại.
Khi cái “thiên đường của Marx” xuất hiện lẫy lừng trong các xã hội dân chủ tiền tiến Tây Phương vào nửa phần sau của thế kỷ 20 thì hệ thống cộng sản của Lenin sụp đổ.
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam
Hồ Chí Minh đã có một cơ duyên bất ngờ với QTCS ngay trong những này đầu của tổ chức đế quốc này. Cơ duyên đó đả khiến Hồ trở thành một cán bộ cộng sản quốc tế được trọng dụng. Chính vì bị chóa mắt bởi cái “Cương Lĩnh Về Vấn Đề Thuộc Địa” và không đủ trình độ để phát hiện bản chất lừa bịp của cương lĩnh đó nên y đã hãnh diện nhận lãnh mọi mệnh lệnh của Moscow.
Hồ đã mang vào Việt Nam cái chủ nghĩa Marx lỗi thời đã bị chính Marx và Engels chối bỏ từ sau Quốc Tế I, cộng với cái kinh bổn bạo lực của Mechayev để biến chế độ chính trị của đất nước này thành một phiên bản thu nhỏ của chế độ độc tài toàn trị Stalinit mà không biết làm như thế là đặt tổ quốc vào guồng máy cai trị của đế quốc Liên Xô.
Khi còn sống Stalin đã giao cho Mao Trạch Đông trọng trách trông nom và giúp đỡ các nước cộng sản chư hầu tại phương Đông. Nói khác, Mao Trạch Đông chỉ là bàn tay nối dài của Stalin. Vì có sự bàn giao trách nhiệm này nên mới có vụ quân viện ồ ạt năm 1950 cùng với sự cố vấn tâm tình của các tướng Trung Cộng Trần Canh và Vi Quốc Thanh làm nên thắng lợi của Điện Biên Phủ và đưa đến thảm họa chia đôi đất nước.
Máu của nhân dân Việt Nam đã đổ, binh sĩ của cộng sản Bắc Việt đã chết nhưng đến khi thắng trận thì đại diện của Việt Minh không được có mặt trong các cuộc thảo luận chia chác lãnh thổ giữa thực dân và đế quốc. Bài học cay đắng này lịch sử sẽ còn ghi lại đến ngàn thu. Đó là chuyện từ năm 1954 về trước.
Sau năm 1954, chẳng những kinh nghiệm cay đắng này không được rút tỉa, mà họ Hồ tuy tuổi già sức yếu, vẫn cố gắng hoàn tất sự nghiệp lầm lỗi của mình. Hồ chết đi trong lúc ý nguyện chưa thành. Di sản và chúc thư của Hồ để lại không phải là những thứ đã giúp đàn em ông thống nhất lãnh thổ, mà sự thống nhất này tình cờ xảy ra vì có sự tái phân phối chiến thuật giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ để làm suy yếu Liên Xô. Đảng CSVN lúc nào cũng chỉ là một thứ tay sai. Đó là chuyện của giai đoạn 1954-1975.
Sau 1975, tuy lãnh thổ đã thống nhất nhưng dân tộc thì chưa. Hai triệu người Việt Nam đã liều chết ra đi trên biển cả mênh mông để né tránh những vụ chém giết và đày ải hãi hùng như đã được chứng kiến trong các vụ cải cách ruộng đất sau năm 1954 và trong chính sách tập trung cải tạo sau năm 1975.
Trong nước sự chia rẽ trong hàng ngũ lãnh lãnh đạo đảng đã đưa đến việc bất ngờ là Hà Nội đã trở mặt với Bắc Kinh để ôm chân Moscow. Hậu quả của sự trở mặt này là một “nghĩa vụ quốc tế” đã phải làm thêm qua hình thức chiến tranh Campuchia và một “bài học” giáng xuống từ Bắc Kinh cho cái tội vô ơn và không biết phục tùng của đảng CSVN. Cả hai biến cố này, dân tộc đã phải bằng rất nhiều máu và nước mắt.
Đến khi đế quốc Liên Xô sụp đổ vào đầu thập niên cuối cùng của thế kỳ 20, để tránh bị tình trạng cô lập khó sống, bọn lãnh đạo cộng sản hèn nhát lại muối mặt đem thân sang quy phục Bắc kinh tại Thành Đô năm 1990 để xin thân phận chư hầu. Một nền đô hộ khác lại tiệp tục tàn phá non sông. Dân tộc vẫn chưa ra khỏi tình trạng túng quẫn, tụt hậu và thiếu học. Chế độ độc tài toàn trị vẫn còn đó, chưa gỡ bỏ được. Viễn tượng chư hầu Hán tộc ngày đêm bao phủ non sông đang buộc bọn lãnh đạo cộng sản phải thi hành những nghĩa vụ trái với quyền lợi của giống nòi và đạo lý của cha ông.
*
Hồ Chí Minh với bản chất và hiểm họa của cộng sản đã khiến cho dân tộc phải lầm đường lạc lối. Không ai nghĩ rằng với một việc làm lầm lỗi như vậy, những người cộng sản Việt Nam lại có thể tự coi là có quyền vĩnh viễn ở lại chính quyền. Cũng không ai, ngoài những người cộng sản Việt Nam, nghĩ rằng Hồ Chí Minh là một anh hùng dân tộc.
Đối với Việt Nam thì cộng sản là như vậy. Còn đối với nhân loại thì cộng sản là gì? Trước khi chấm dứt bài viết xin được chép lại một và danh ngôn để không bao giờ quên được: "Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc sinh sôi và nảy nở trong rác rưởi của cuộc đời" (Đạt Lai Lạt Ma); "Chủ nghĩa cộng sản chỉ là giấc mơ của vài người, nhưng là cơn ác mộng của nhân loại" (Victor Hugo); "Cộng sản không thể nào sửa chữa mà cần phải đào thải nó" (Boris Yeltsin).
22.06.2016


CÁNH DÙ LỘNG GIÓ * ĐẢNG QUANG VINH

Đây là lúc đảng quang vinh tột đỉnh!

Cánh Dù lộng gió (Danlambao) - Đảng CSVN ngoài đường hay trong các văn phòng thường treo khẩu hiệu: "Đảng Cộng Sản VN Quang Vinh muôn năm". Dưới đó là lá cờ máu. Dưới lá cờ máu là hình hay tượng bán thân của Hồ Chí Minh là người đã nhập khẩu cái chủ nghĩa của 2 ông râu xồm là Mác và Stalin vào VN.
Từ lúc TBT Lê Duẫn động viên quân và dân miền Bắc câu: "Ta đánh đây là đánh cho Liên Sô và đánh cho Trung Quốc" thì mọi chuyện đã hé lộ chút ít cái quang vinh của đảng ta rồi.

Sau khi cái công hàm của Phạm Văn Đồng được biết đến thì cái quang vinh muôn năm của đảng đã dần dần được hé lộ thêm.
Vâng, chính đảng cộng sản đã dẫn dắt dân tộc VN đi từ thắng lợi này đến những thắng lợi khác mà thế giới văn minh loài người chưa từng có ai hoặc lãnh tụ nào làm được. Từ một nền kinh tế cởi mở tự do trước năm 1975 đảng đã đem xiềng xích trói buộc nền kinh tế trong nước bằng cách quốc hữu hóa các công xưởng, nhà máy, đưa tất cả vào quốc doanh hay hợp tác xã, đẩy nhiều người dân trước kia đủ ăn đủ dùng thành những kẻ ăn mày, ngày ngày xếp hàng trước chính những ngôi nhà của mình đã bị cướp và trở thành các HTX mua bán để chờ chực mua được 1 cây kim, sợi chỉ, và các nhu yếu phẩm khác với cái sổ hộ khẩu mà thế giới chưa bao giờ được chiêm ngưỡng loại sổ này, chỉ duy nhất có đảng quang vinh chúng ta mới có. Cho tới thời kỳ TBT Nguyễn Văn Linh đảng mới cởi trói, để bước vào nền kinh tế thị trường.
Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh thấy tình hình khối Liên Sô sụp đổ không còn bám bíu vào đâu được ngoài Tàu cộng nên xin qua thăm Tàu cộng và ký kết mật ước Thành Đô mà mọi người đều có thể suy đoán và nhận ra ký kết những gì.
Tới thời Lê Khả Phiêu làm TBT thì mọi chuyện cắt đất biên giới đã thấy rõ rệt hơn, núi Lão Sơn đã mất hẳn, thác Bản Giốc chỉ còn một nửa, Ải Nam Quan lui vào đất Tàu khá sâu. Khi Tàu cộng vời Lê Khả Phiêu qua bắt ký nhượng thêm đất liền biên giới phía Bắc, vì bị phía Tàu cộng nắm thóp nên Lê Khả Phiêu miễn cưởng chấp nhận.
Lúc Nông Đức Mạnh, người mà mọi người nghi ngờ là con của HCM, lên làm TBT thì bắt đầu cây kim trong bọc từ từ lú đầu ra chút nữa, vì Nông Đức Mạnh qua thăm Tàu cộng đã tự nhận mình cũng là người Choang, một dân tộc của Tàu cộng. Sau đó họ Nông cũng đã hợp thức hóa những gì Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu đã ký kết với phía Tàu cộng.
Qua tới thời Nguyễn Phú Trọng lên làm TBT thì càng ngày cây kim càng lòi ra khỏi cái bọc. Tất cả mọi cái nhất nhất đều ưu tiên số 1 cho Tàu cộng, nào là mở cửa cho hàng hóa tràn vào VN, nào là để các công trình cho Tàu cộng trúng thầu với giá rẻ mạt, cho thuê dài hạn những khu yếu điểm như Formosa Hà Tĩnh, bán đảo Sơn Trà Đà Nẵng, Lee & Man miền Tây Nam bộ, nào là bịt mồm bịp miệng những tiếng nói phản đối Tàu cộng xâm chiếm biển đảo, mở cửa khẩu cho dân Tàu cộng kéo nhau qua VN ùn ùn với vỏ bọc là du lịch. Ngư dân đánh cá trong hải phận VN thường xuyên bị phía Tàu cộng bắn giết nhưng đảng quang vinh vẫn cứ im lặng chịu trận, Hải Quân anh hùng CSVN vẫn cương quyết bám bờ không dám ló mặt ra biển Đông.
Mới đây khi tướng Phạm Trường Long của Tàu cộng qua VN đã ép tứ trụ CSVN là Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc, Đại Tướng Ngô Xuân Lịch phải công nhận Hoàng Trường Sa là của Tàu cộng thời xa xưa nhưng tứ trụ sợ nếu làm vậy người dân trong nước sẽ nổi loạn nên đành xuống nước năn nỉ phía Tàu cộng để từ từ cho tình hình lắng dịu sẽ công bố sau. Phạm Trường Long tức giận bỏ ra về, mấy ngày sau Tàu cộng đưa giàn khoan HD 981 trở lại biển Đông và ra lệnh cho tàu Hải Giám, Hải Cảnh của Tàu cộng tràn vào biển Đông bao vây các đảo nhỏ như Tư Chính, Quế Đường, Ba Kè, Phúc Nguyên, Phúc Từ, và Huyền Trân, nói chung là tất cả đường 9 đoạn mà phía Tàu cộng có đường lưỡi bò.
Giờ đây cây kim sắp lòi hẳn ra khỏi vỏ bọc. Bộ mặt bán nước của đảng CSVN sắp quang vinh tới nơi như vẫn thường rêu rao khắp nơi trong nước. Sự hèn hạ đã lên tới đỉnh điểm khi tất cả được phơi bày ra ánh sáng.
23.06.2017



TS. PHẠM CAO DƯƠNG * DỰNG TƯỢNG ĐƯC THÁNH TRẦN

Dựng Tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon :Một Quyết Định Hợp Với Truyền Thống Lịch Sử , Tín Ngưỡng và Hoàn Cảnh của Người Việt Hải Ngoại


GS.PHẠM ĐƯC LIÊN * NHƯ LÀ ĐỊNH MỆNH

Như là Ðịnh Mệnh
Phạm Đức Liên
 


Lời giới thiệu:
"Như là Định Mệnh" của Thiên Thai Phạm Đức Liên chỉ là một chương nhỏ trong tập: "43 năm gõ đầu TRẺ" của cùng tác giả. Ông là nhân chứng của lịch sử: - từ trận đói năm Ất Dậu (1945): hơn 2 triệu dân miền Bắc Việt Nam bị chết đói do Thực Dân Pháp và Phát Xít Nhật "chơi" nhau!! - đến buổi Lễ Tưởng Niệm Nạn Nhân Mỹ trong cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 bởi bọn khủng bố lúc 7 giờ sáng ngày 11/9/2016 (CNN)...

*****

A. Dẫn nhập:

1:
Tháng 6 năm 1959 - với quá nhiều may mắn - tôi đậu Tú Tài II ban Toán (A: Khoa Học Thực Nghiệm, B: Toán, C: Văn Chương, Cổ Ngữ...) hạng Bình Thứ (theo thang điểm 20, trên 12 là Bình Thứ, trên 14: Bình, trên 16: Ưu, trên 18: Tối Ưu, Ưu Ban Khen...) - vì trúng tủ bài Lý Hóa (mà Lý Hóa hệ số 4). Vốn con nhà giàu / xứ quê (Nghĩa Hưng, Nam Định; lenhaque) - tôi cho rằng - bằng Tú Tài Toàn Phần là to lắm rồi ! - nên ghi danh học Đại Học Khoa Học Sài Gòn (MPC ; Math, Physics, Chimie) - học phất phơ - còn đi dạy học tư (1959 với bằng Tú Tài II có thể xin dạy khế ước hay dạy giờ - bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp - ngay tại Sài Gòn, Gia Định nếu có good connection. Xã hội nào cũng thế/tôi sống thực tế  từ Việt Nam qua Canada, và Mỹ - tài ba nhưng phải có tay trong).


2:
Tháng 7 năm 1959, tôi bước vào nghề gõ đầu TRẺ (godauTRE, chữ TRẺ viết hoa - tôi yêu tuổi trẻ Việt Nam lắm - nhất là tuổi trẻ Việt Nam Đại Lục đang làm nên lịch sử oai hùng cho một dân tộc hùng anh (Children of the Dragons and Fairies). Tôi dạy Lý Hóa lớp đệ Tứ (lớp 9) tại Hội Thanh Niên Thiện Chí (đường Phan Đình Phùng, gần tiệm giải khát quí phái Sing Sinh) và trường Xuân Thu (đường Phan Thanh Giản mà hiệu trưởng là kỹ sư Nguyễn Đăng Thục - Ngài là Khoa Trưởng Đại Học Văn Koa Sài Gòn) ... rồi Lý Hóa lớp Đệ Nhị B (lúc nầy còn thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, Tú Tài I, Tú Tài II - thi những môn chánh / đậu thi viết - mới đưọc vào thi vấn đáp = oral cho tất cả 7, 8 môn học. Trung học, tỉ lệ đậu 20%, Tú Tài I = 10%, Tú Tài II = 25%. Đây là tỉ lệ toàn quốc. Trịnh Hoài Đức, Ngô Quyền, các trường công lập thì cao hơn. Dạy Đệ Tứ, được trả 50 đồng/giờ và Đệ Nhị là 70 đồng/giờ (trong khi tô phở hay lít xăng là 2, 3 đồng và thuê gác xép = phòng trọ là 300 đồng/tháng, lạng vàng = 2,000 đồng. Làm Lục Sự ở tòa án cần Tú Tài II lường 2,700 đồng tháng và 1 đô la Mỹ = 35 đồng VNCH). Dạy Lý Hóa trường tư - nổi danh lúc đó là Đặng Sĩ Hỷ và đệ nhị là Đinh Công Hoạt (trường Hưng Đạo của GS Nguyễn Văn Phú). Dạy khơi khơi, Lý Hóa 2 lớp Đệ Nhị là mỗi tháng có 2,800 đồng: 5 giờ/tuần x 70 đồng x 4 tuần) - trong khi học bổng ở Đại Học Sư Phạm Sài Gòn là 1,500 đồng / tháng, Quốc Gia Hành Chánh là 1,000 đồng, còn Kỹ Sư Phú Thọ tự sinh viên phải làm đơn xin học bổng ở các Nha Sở, ngành minh theo học như công chánh, công nghệ, điện, hóa học... Kỹ Sư Phú Thọ, Giáo Sư ĐHSP mới ra trường có chỉ số lương 470 (BS), Kỹ Sư Nông Lâm Súc, Quốc Gia Hành Chánh chỉ số lương 430 (BA).

 

B. Đại Học Sư Phạm Sài Gòn: một định mệnh:

I. Miền Nam nở rộ (sau 20/7/1954):

1. Quyết tâm ngăn chặn làn sóng đỏ từ phương Bắc bằng Domino Policy - Hoa Kỳ dùng lá bài Ngô Đình Diệm và khai sinh ra Việt Nam Cộng Hòa.
- "Mời người Pháp ra chỗ khác chơi" - tháng 4 năm 1954 - 50 cố vấn quân sự Mỹ đến Gài Gòn và thiết lập cơ quan đầu não MAAG (Military Aid Advisory Group) do Trung Tướng O'Daniel cầm đầu (các tướng lãnh Mỹ - tình nguyện được qua Sài Gòn - O'Daniel là đại tướng 4 sao , xin xuống lon trung tướng 3 sao = a voluntary drop in rank - vì Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp là Trung Tướng Collins, rồi Trung tướng Ely). Trong MAAG có Đại Tá Lansdale (1908-1987) là sĩ quan tình báo (OSS and CIA) - làm cố vấn cho Thủ Tướng Diệm (1954-1957). Lansdale từng làm cố vấn cho Hồ Chí Minh (1944-45) và cho Tồng Thống Magsaysay (Phi Luật Tân). Lansdale được lên Thiếu Tướng và trở lại là Phó Đại Sứ Mỹ tại VNCH năm 1965-1968 . Ông cũng là một trong những thầy dạy tình báo cho Phạm Xuân Ẩn. Theo Lansdale - những năm đầu - cố vấn Mỹ dầy đặc - đủ các ngành - xung quanh cụ Diệm - trừ giờ ngủ). Khi cố vấn quân sự Mỹ tăng nhiều (đến 31/12/1962, số cố vấn quân sự Mỹ trên các lãnh vực đên đến gần 20,000 người ) thì MAAG đổi thành MACV (Military Assistance Commmand Vietnam), 1962 và Đại Tướng Paul Harkins chỉ huy.
- Và viện trợ kinh tế dồn dập cho Saigon (Xin nhớ rằng: đồng thời Trung Cộng và Liên Xô ồ ạt viện trợ cho Hà Nội để xâm chiếm Miền Nam. Lê Duẩn:" Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô , Trung Quốc"). Hà Nội, Sài Gòn ; làm gì có chủ quyền!.
- Tiền viện trợ do dân nước viện trợ đóng thuế - mà đồng tiền thì liền với khúc ruột - viện trợ/ bản chất là cho có điều kiện ẩn tàng: "xong việc, đương sự phải trả lại bằng dâng biển, hiến đất - trừ khi anh đưọc khai tử!" Cay đắng cho Việt Nam!.

2. Miền Nam trăm hoa đua nở:
a. Để quốc tế hóa “tờ khai sanh” Việt Nam Cộng Hòa, người Mỹ kêu gọi Đồng Minh: Australia, New Zealand, Pakistan (East), Phi Luật Tân, Thái Lan, Pháp, Anh cùng mình ký Minh Ước Phòng thủ Đông Nam Á = SEATO (The Southeast Asia Treaty Organization) tại Manila (Phi) vào tháng 9 năm 1954 (gọi là Manila Pact) trong đó nhấn mạnh là bảo vệ tới cùng Miền Nam Việt Nam và Vương Quốc Lào. Với cây dù SEATO vững chắc như thế làm gì mà tướng Trần ngọc Tám (tư lịnh quân khu II = Cao Nguyên + duyên hải Trung Phần) chẳng chểnh mảng trong việc rèn luyện binh lính – bảo vệ dãy Trường Sơn !. Thế nhưng Miền Nam vẫn nở rộ nhất là văn hóa, giáo dục – sau khi có SEATO,

b. Từ năm 1956, hội đoàn (tôn giáo, phe nhóm…) thi nhau mở trường học khiến người người đua nhau đến trường. Những lớp học , lớp luyện thi được mở cả buổi tối. Tại trung học công lập như Gia Long, Pétrus Ký … giáo sư vẫn còn chưa đủ (giáo sư dạy trung học đệ I cấp = còn có thể vá víu, giáo sư trung học đệ II cấp = giáo sư cử nhân = thiếu đến 40%) nên thầy cô ở trường tư là một nan giải. Có những thầy dạy Pháp văn Đệ Nhị (lớp 11, thi Tú Tài I) mà chỉ học lực Certificate d’étude primaire (Bằng Tiểu Học thời Pháp đô hộ)!. Tiểu học là école primaire – kiến thức đâu mà dạy Tú Tài I. Ngay có bằng Diplôme d’étude secondaire du premier cycle (Trung Học Đệ Nhất Cấp) cũng không thể được vì đệ nhất cấp biết gì mà dạy Tú Tài!.
c. “Việt Nam Độc Lập” từ ngày 11 tháng 3 năm 1945 ngay sau khi Đại Sứ Nhật yết kiến vua Bảo Đại và “xin kính dâng nền độc lập lên Ngài và dân tộc Việt Nam mà quý quốc dầy công tranh đấu” !. Chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn ra đời (HXH là Kỹ Sư và Thạc Sĩ Toán = Agrégé):
Giáo sư trung học đệ Nhất cấp = huấn luyện 2 năm đại học = Professeur de l’enseigment secondaire du 1er cycle.
Giáo sư trung học đệ Nhị cấp (dạy Tú Tài) = huấn luyện 4 năm đại học = Professeur de l’enseigment secondaire du 2ème cycle.
Giáo sư Tiến Sĩ = Giáo sư Đại Học = Professeur Docteur.
Giáo sư Thạc Sĩ= Professeur Agrégé!

II. Đại Học Sư Phạm Saigon – như một định mệnh:

1.    Tôi yêu người lính Cộng Hòa, nhất là hình ảnh “sinh viên thủ khoa trường Võ Bị Liên Quân Dalat bắn tên đi bốn phương trời ngày tốt nghiệp” nên ngay tháng 9/1957/58, đệ Nhị B2, Chu Văn An) tôi có ý định đi Dalat (khóa 15?). Thế rồi – như một định mệnh – tôi học Sử Địa Đại Học Sư Phạm Saigon. Vừa ý cha mẹ 50%, tôi thi vào Quốc Gia Hành Chánh và Đại Học Sư Phạm (học cùng sách = Sử Địa Trung Học và Cử nhân Luật I – mà thi được hai nơi). Tôi yêu chỉ số 470 và học bổng 1,500 đồng/tháng.


Đại học Dược Khoa Saigon (Tú Tài  + 5 năm)


Đại Học Văn Khoa (1954/65), Sau Cách Mạng1963, ĐHDK và ĐH VK di chuyển về Cường Để (vốn là Thành Cộng Hòa = Liên binh phòng vệ Tổng Thống Phủ). Sau ngày 1/11/1963, trường Dược tổ chức kỳ thi tuyển để mọi người dù bình dân cũng có thể nhập học ( trước kia 90% là COCC)

2.    Lứa tuổi chúng tôi (sanh vào đại chiến thứ hai, 1939-1945) là đợt tuổi giao thời – thật là khó khăn trên đường học vấn: học 4 năm đại học thì thầy cô toàn là người Pháp (ngay cả thầy cô người Việt cũng giảng bài bắng tiếng Pháp vì giáo sư được đào tạo từ Paris về) = thời điểm 1959/1960. Quay lại đại học – để học Cao học (Diplôme d’etude supérieure = DES, Master’s Degree) thì giáo sư là người Mỹ hay thầy cô là người Việt được huấn luyện PhD từ Mỹ về (Tiến sĩ Huỳnh văn Quảng, Huỳnh Huynh, Đoàn Viết Hoạt…) thời điểm 1969/70. Lại vừa học vừa chờ - chờ thầy cô vừa xong PhD ở Mỹ về mới có lớp mới – mà Cao Học hay Tiến Sĩ theo quy chế Mỹ - phải đậu đủ số lớp của năm I – rồi mới được học năm II chuyên ngành và viết Memoirs hay Thesis (Luận Án). Quả thật là đoạn trường, và đoạn trường.
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!
Vừa qua được những khó khăn – thì ù té chạy (di tản 1975). Đó là may mắn (10%). 70% ở lại quê mẹ thì bị đi cải tạo, kinh tế mới… Và 20% đã hy sinh cho tổ quốc. (Đón đọc: “Nói với tuổi 60” của Mây Tần, 78 tuổi – trải nghiệm xuyên 3 quốc gia: Vietnam, Canada, US – từ một anh thợ làm bánh như cụ Hồ thuở xưa !).

3.    Chương trình Sử Địa lớp Đệ Nhất (12) Việt Nam Cộng Hòa – rất bổ ích- trước khi bước  vào đại học – học sinh có cái nhìn tổng quát 1958/59:
a.    Tình hình thời sự, chánh trị toàn cầu – thế giới đi về đâu ? – Á Phi và Châu Mỹ La Tinh – những chế độ độc tài… (Lịch Sử Thế Giới).
b.    Hiện tình kinh tế thế giới: - Các cường quốc kinh tế chi phối quả địa cầu – những khối kinh tế (tư bản, cộng sản …). Đó là phần địa lý. Từ sau đại chiến thứ Hai (1939/45) kinh tế Hoa Kỳ nổi bật lên (nhà máy đúc súng đạn trở thành nhà máy sản xuất hàng hóa). Mỹ lãnh đạo phe Tư Bản đương đầu với Cộng Sản.

4.    Rồi tốt nghiệp từ ĐHSP Saigon tôi được giảng dạy môn Sử Địa lớp Đệ Nhất. Tôi miệt mài soạn bài (quên cả giờ hẹn với người tình Dược Khoa !). Rồi chỉ mong đến lớp – đối thoại với học trò – vì chương trình Sử Địa lớp 12 tuyệt vời nhất là nền kinh tế Mỹ - số 1 toàn cầu:
“Hăng say qua nhịp bước,,
Ban mai- mờ tinh sương”
(Thiên Thai)
(Phương, Cúc, Thoại … ơi, Định, Tâm, Hạnh … ơi ! Các em còn nhớ hay đã quên: Thầy giảng bài đến khàn cả giọng – Vì tôi yêu tuổi trẻ, nhất là Lục Địa Việt Nam lắm !.)

C: Lời kết: Giáo Sư Sử Địa , một sứ mệnh.

    Sứ mệnh lịch sử là sứ mệnh cao cả. Con đường lịch sử là con đường quyết định. Các bạn trẻ Việt Nam yêu dấu ơi – Việt Nam Lục Địa . Xin ghi nhớ: “ L’histoire est un éternel recommend = Lịch sử là một tái diễn không ngừng!. Thế hệ đàn anh bán nước thì thế thệ đàn em phải vùng lên cho dẫu vị quốc vong thân!. “Người làm chánh trị (politicians) không phải là đọc mà phải học và đậu bằng Lịch Sử “ - “đậu cho đời biết tay”.

1.    May mắn lắm – tôi được dạy Sử Địa nước Mỹ và được di tản vào phút chót từ nóc tòa đại sứ Hoa Kỳ (2,000 người, tối khuya ngày 29/4/1975 – trong tổng số 130,000 người di tản năm 1975). Lại được sống ở Mỹ (cường quốc kinh tế số 1 và là đàn anh đùm bọc các em !).. Tôi học Statistics and Probability (Xác xuất và Thống Kê - Education) và dạy Toán (trong trường đại học - college) nên hơi méo mó nghề nghiệp – nhìn các đảng phái bằng con số thống kê. Các chánh trị gia – nhất là nhưng ứng cử viên tổng thống – bằng những bài diễn văn hay những cuộc tranh luận chỉ là rỗng tuếch (absolutely empty), ru ngủ cử tri bằng những mỹ từ hào nhoáng học được từ những sách giáo khoa. Cái oái oăm là đa số cử tri (80%) lại thích ru ngủ qua những lời nói khêu lên tự ái dân tộc, những lời hứa suông (hollow promise, empty word!). Ấy là dân Mỹ - trình độ trung bình là 1.5 năm đại học. Dân chủ đó – thế nhưng ứng cử, tranh cử, bầu cử là có lừa dối (cheating) vì ngay từ lúc chia đơn vị bầu cử là đã có phe nhóm, chia chác rồi. Chia chác để cầm quyền và cầm quyền để chia chác. Tin vào đâu ? Tin vào kẻ nói dối it hơn (còn chút xíu lương tâm = 30% cho quốc gia dân tộc). Chi bằng (wouldn’t it be better to…) tin vào con số thống kê (ngay con số thống kê cũng có thể phục vụ chế độ nhất là chế độ độc tài cộng sản). Ứng cử viên lừa bịp cử tri  nhưng không nói dối được con số.

2.    
a.    Từ những năm đầu của thế kỷ 21:
-    Một nước Mỹ chỉ đi lên,
-    Một nước Mỹ chỉ hùng cường,
-    Một nước Mỹ chỉ tiến bộ,
-    Một nước Mỹ chỉ lãnh đạo…
b.    Thế nhưng – từ năm 2008 – Đảng Dân chủ cầm quyền thì:
-    8 năm đảng Cộng Hòa lãnh đạo, năm 2004 thâm hụt công quỹ nhiều nhất là 413 tỉ đô.
-    8 năm đảng Dân Chủ nắm quyền, năm 2009 thâm hụt công quỹ 1,413 tỉ, cứ thế liên tiếp 3 năm sau: 2010, 2011, 2012 năm nào cũng trên 1,300 tỉ !!!


Thống kê của The World Almanac 2016 – trang 59

Làm gì mà nợ của chúng ta (Debt held by the public) = nợ như Chúa Chổm !.


Thống kê của The World Almanac 2016 – trang 60

Cho đến hôm nay (2016): con cháu chúng ta nợ 14,100 tỉ hay 14.1 Ức (xin được tính tròn). Hình như quý vị dân cử của đảng Dân Chủ nói nhiều hơn làm (easy talk than done), lại nói giỏi và dai (long lasting) và chỉ thích tiêu tiền thuế của dân trung lưu dưới bình phong bao bọc dân nghèo !. Tám năm cầm quyền, Tổng Thống Dân Chủ đưa dân Mỹ nợ thêm 9,000 tỉ. Too, very too much!!!. Cộng Hòa = nói ít làm nhiều (less talking – more doing). Time (1) to change…

3.    Từ năm 2008:
-    Một nước Mỹ chỉ đi ngang,
-    Một nước Mỹ chỉ rụt rè (chiến cuộc Syria…)
-    Một nước Mỹ chỉ làng nhàng,
-    Một nước Mỹ hết lãnh đạo !
a.    Về công nghệ high-tech: Hoa Kỳ có Iphone 7 thì Samsung Galaxy 7 (Nam Hàn), Hua Wei P8 (China) … cạnh tranh (Hua Wei P8 là Iphone 6)
b.    Về uy tín nước Mỹ: ngày 27 tháng 1 năm 1973 (với Hiệp Định Paris) Mỹ chánh thức khai tử VNCH = uy tín lãnh đạo quốc tế của Hoa Kỳ xuống dốc. Tổng Thống Dân Chủ - mới đây – đầu tháng 9/2016:
- bị Trung Cộng hạ nhục ở Hàng Châu – trong kỳ đại hội thường niên của 20 cường quốc kinh tế hàng đầu nhân loại - G20. Nhân viên nghi lễ của phái đoàn Mỹ cải vã với nhân viên phi trường về thảm đỏ đón TT Obama !!!
-Tại Asean – US Summit (8 tháng 9 2016 tại Vientian – Lào), bị TT Phi Luật Tân Duerte sỉ nhục (Son of the Bitch !) Mà Tổng Thống Mỹ là đại diện cho màu cờ xứ sở, dân tộc Hoa Kỳ …

4.    Hoa Kỳ  là một dân tộc “thượng tôn luật pháp”, học thức và đời sống vật chất cao (GDP per capita $58,000) Lãnh đạo (Tổng Thống, Phó Tổng Thống) đâu đến nổi khó khăn:
a.    Chỉ cần giữ làm sao chi tỉ lệ thất nghiệp trên dưới 5%.
b.    Thế nhưng ngoại giao phải luôn luôn đi những nước cờ táo bạo đánh phủ đầu đối phương (Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn…) tát cho chúng những cái tát nẩy lửa (không rụt rè, do dự, đánh nhanh đánh mạnh và phải tung bộ binh ra để chiếm đất, giữ dân. Phòng thủ hữu hiệu nhất là phải tấn công (offensive). Thổ Nhĩ Kỳ theo Putin, Phi Luật Rân ngã về Tập Cận bình. Dân Chủ tiêu biết bao nhiêu là tiền mà Mỹ mất hết, mất tất cả !!! Làm phúc mà bị chúng chưởi ?

5.    Đừng để “Our country lose anymore, we are Americans, America will start winning again, America back on track, we can do better than Democrats. God bless America and In God We Trust. Hey, Republicans: “ À la victoire finale, le 8 Novembre 2016”.
Moment of silence Honoring Victim of September 11 2001.

Chicago 9/11/2016
Phạm Đức Liên
EdD in Edu Statistics.

Chú thích:
1.    Về nhân văn – không có định luật/chính xác 100% như STEM. Nhưng có định đề chánh trị trong Geopolitics (Địa Lý Chánh Trị): Về những nhân vật ứng cử chức Tổng Thống thì hể ai đã xuất hiện trên chính trường quốc gia sở tại – liên tiếp 8 năm – trong những chức vụ cao cấp như Phó Tổng Thống, Thượng Nghị Sĩ, Tổng Bộ Trưởng – thì cử tri tỉnh táo mà cho vào viện bảo tàng ! Thông minh đến đâu (4.00 GPA in college) thì óc cũng cùn rồi. Tổng Thống phải là người rất thông minh để đương đầu, đối đáp những tình huống cực kỳ khó khăn và ngay tức thời tại chỗ không chậm chạp, rụt rè … đến độ ngẩn ngơ !)
Không cần phải Geopolitics, chỉ cần tú Tài VNCH rồi dùng kinh nghiệm (common sense…) cũng thấy điều trên mà đi đông, bầu đúng, cử xứng” để cứu vãn tình thế!

- Hởi cử tri Mỹ ơi! 55% quý vị đã làm lỡ một đường tơ trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 2008 ! – đã bỏ quên Mc Cain ! - . Cũng thế 55% quý vị lại làm mất một nhịp cầu trong chuyến bầu chọn tháng 11 năm 2012 – lại bỏ quên Romney ! khiến Hoa Kỳ bị hạ nhục , sỉ vả !.
- Tỉnh dậy mà đi: đi bầu ngày 8 tháng 11 năm 2016 và đừng sai lầm nữa. Sai lầm lần thứ ba thì nước Mỹ đi xuống !!



PHẠM NGỌC LŨY * 70 NĂM TƯỞNG NIỆM KHÁI HƯNG

70 Năm Tưởng Niệm Khái Hưng

05/03/201700:05:00(Xem: 4522)
khai hung 1
Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập từ 1932, với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Qua tờ Phong Hóa (1933) và Ngày Nay (1936) họ đã làm một cuộc cách mạng về văn học, mở đầu lối viết văn giản dị truyền bá tư tưởng, khuyến khích sống lý tưởng, nghị lực, tham gia việc xã hội, phá bỏ những cổ tục lỗi thời, gây cao trào làm nhà “ánh sáng” để thoát nghèo, kêu gọi yêu nước, đòi hỏi nhân quyền.

Khái Hưng mất tích sau Tết Đinh Hợi 1947, theo một số tài liệu và nhân chứng, Ông bị Việt Minh thủ tiêu đêm giao thừa 70 năm trước.

***

Khái Hưng sinh năm 1896, tên thật là Trần Khánh Giư. Bút hiệu Khái Hưng là do sự đảo lộn những mẫu tự trong hai chữ Khánh Giư mà ra. Ông sinh tại làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. Năm 1930, Cổ Am bị Pháp ném bom tàn phá để triệt hạ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cụ thân sinh là Trần Mỹ, Tuần Phủ ở Phú Thọ, Khái Hưng là rể cụ Thượng Lê Văn Đính, Tổng Đốc tỉnh Bắc Ninh, quê làng Lịch Diệp, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Em ông là Trần Tiêu, cũng là một nhà văn, tác giả tiểu thuyết “Con Trâu.”

Khái Hưng theo Tây học, học trường trung học Pháp Albert Sarraut, đậu tú tài ban cổ điển ở Hà Nội, dạy học tại trường tư thục Thăng Long và chơi thân với giáo sư Nguyễn Tường Tam thành lập Tự Lực Văn Đoàn với sự cộng tác của các nhà văn, nhà thơ, như Khái Hưng, Thạch Lam Nguyễn Tường Lân, Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ… đã khai mở một kỷ nguyên mới về văn học. Những cây bút lớp trước như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác… bị ảnh hưởng sâu đậm của Hán học, văn thường dùng điển tích, vừa nặng nề, khó hiểu, lại khô khan, nên không có tác động mạnh trong quần chúng. Thêm nữa, ở buổi giao thời, thực dân Pháp đã khuyến khích hút thuốc phiện tự do. Thuốc phiện bán công khai ngoài phố. Con người trở nên yếm thế, văn chương cũng bị ảnh hưởng theo. Giọt Lệ Thu của Tương Phố Đỗ Thị Đàm, Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách, Tuyết Hồng Lệ Sử dịch Hán Văn của Từ Trẩm Á…. ra đời khiến cho bầu không khí sầu thảm lại càng trở nên ngột ngạt.

Van-Chuong-Tu-Luc-Van-Doan--Bo-3-Tap--504497
Thanh niên Việt Nam đứng trước một bế tắc thì Tự Lực Văn Đoàn hiện ra như một vì sao sáng chói với tờ Tuần báo Phong Hóa phổ biến rất rộng rãi, từ Bắc chí Nam, gây được cao trào văn chương với lối viết rất gọn ghẽ, giản dị và trong sáng. Về phương diện xã hội, họ viết báo cổ động bài trừ, đả phá những cổ tục, giành lại quyền sống chính đáng của phụ nữ, công kích kiệt liệt quan niệm trọng nam khinh nữ, đòi hỏi một xã hội công bằng, con người được sống tự do, nhà ở không còn là những ổ chuột. Họ lập ra hội “Ánh Sáng” để giúp dân nghèo tự làm căn nhà sao cho giản dị, giữ được vệ sinh, bên trong đầy ánh sáng. Tuần báo Phong Hóa bị thực dân đóng cửa, tuần báo Ngày Nay ra tiếp theo (1936).

Đầu thập niên 40 (1940), thời thế chiến biến chuyển mạnh, quân Đức thắng như chẻ tre ở Âu Châu. Nhật đổ bộ vào Đông Dương. Đại Việt Dân Chính, hậu thân của đảng Hưng Việt ra đời năm 1940 do Nguyễn Tường Tam là Tổng Thư Ký. Khái Hưng cũng tham gia hoạt động, lợi dụng tình hình quốc tế biến chuyển để xây dựng lực lượng chuẩn bị giành độc lập, thoát vòng nô lệ của Pháp. Năm 1941, các đảng viên Đại Việt Dân Chính, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí (họa sĩ) bị Pháp bắt đưa đi giam tại nhà lao ở Vụ Bản (tỉnh Hòa Bình) nơi vùng nước độc, nằm trên trục lộ Nho Quan, Hòa Bình. Năm 1943, Khái Hưng được tha và quản thúc ở Hà Nội. Nhật đảo chính Pháp chớp nhoáng trong đêm 9/3/1945.

Khái Hưng được thả lỏng. Hai trái bom nguyên tử trên ném xuống Hiroshima ngày 6/8/45 và Nagasaki ngày 9/8/45. Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 14/8/45. Các nhà cách mệnh quốc gia lưu vong bên Trung Quốc lục đục kéo về nước.

Phong Hoa
Việt Minh cướp chính quyền ngày 19/8/45, ra tuyên ngôn độc lập, nhanh chóng lập chính phủ, lập ra các ủy ban hành chính xã để củng cố thế đứng. Họ tuyên truyền chống Pháp, lập ra các tổ chức Cứu Quốc như: “Phụ Lão Cứu Quốc”, “Nhi Đồng Cứu Quốc”, “Phụ Nữ Cứu Quốc”, “Văn Hóa Cứu Quốc”…v.v… Dân chúng không biết Việt Minh là Cộng Sản, chỉ nghe nói chống Pháp giành độc lập cho Tổ Quốc là đa số ùa theo, mọi tầng lớp, mọi ngành nghề đều hăng hái tham gia. Ở Hà Nội, nơi thị tứ có tai mắt quốc tế thì tương đối Việt Minh ít khủng bố chứ ở các vùng thôn quê thì họ khủng bố, bắt bớ, thủ tiêu không nương tay, bất cứ nhóm nào, cá nhân nào bất đồng ý kiến, chứ đừng nói đến chống lại. Việt Minh thường tuyển dụng những thành phần bất hảo, hay lợi dụng những hiềm khích tư thù để tiêu diệt mầm mống phản kháng.

Đầu tháng 8/45 tờ Ngày Nay bộ mới vẫn còn xuất bản số cuối cùng. “Sáng ngày 19/8/45, Khái Hưng và tôi (Nguyễn Tường Bách), ngồi ở tòa soạn đường Quan Thánh thì làn sóng người biểu tình mỗi lúc mỗi đông, đi về phía bờ hồ Hoàn Kiếm… Dù sao chúng tôi cũng thấy cô độc trong lúc ấy. Họ (Việt Minh) vẫn gán cho chúng tôi là thân Nhật, tuy rằng sự thật không phải thế…” (Nguyễn Tường Bách - Việt Nam, Những Ngày Lịch Sử).

Nguyễn Tường Bách và Khái Hưng xuất bản tờ Việt Nam đầu tháng 9. 1945, chủ yếu là đăng tin tức và hô hào bảo vệ độc lập chống đế quốc, phong kiến. Khái Hưng và Nguyễn Tường Bách giữ nhiệm vụ tuyên truyền cho Việt Nam Quốc Dân Đảng, nên đã biến tờ Việt Nam thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng, đó cũng là tờ báo tranh đấu công khai đầu tiên của phe quốc gia.

Chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia ra đời do Hồ Chí Minh là Chủ Tịch, Nguyễn Hải Thần là Phó Chủ Tịch, Cố Vấn tối cao là Vĩnh Thụy (cựu hoàng Bảo Đại). Nguyễn Tường Tam giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao, sau khi hai phe Việt Minh - Việt Quốc thỏa hiệp hợp tác “tinh thần đoàn kết”. Nhiều người cho rằng phe quốc gia quá non nớt nên hợp tác với cáo già Việt Minh, nhưng sự thực là nếu không chịu đứng trong Chính Phủ Liên Hiệp thì sẽ bị diệt ngay. Chỉ ít lâu sau, Vĩnh Thụy, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam đều bỏ nước lánh sang Trung Hoa vì nhận thấy không thể nào hợp tác với Việt Minh.

Tờ Việt Nam cảnh cáo nếu theo Cộng Sản thì bị Đồng Minh bỏ rơi, đế quốc Pháp sẽ trở lại, Việt Nam sẽ bị cô lập và có cơ nguy mất nền độc lập. Dưới bút hiệu Chàng Lẩn Thẩn, Khái Hưng phê bình gay gắt Việt Minh Cộng Sản về chính sách đối nội và đối ngoại. Ngọn bút vừa có duyên vừa sâu sắc của Khái Hưng đã sớm cảnh tỉnh nhiều người Việt Nam về hậu họa Cộng Sản, khiến họ hiểu được phần nào mối nguy Cộng Sản. Tiếc rằng tờ Việt Nam chỉ lưu hành quanh quẩn trong thủ đô Hà Nội không sao phổ biến tới thôn quê vì thiếu cán bộ hoạt động ở các làng xã. Được sống ở Hà Nội thời đó mới nhận thấy rõ sự phân ranyh Quốc - Cộng thật ác liệt. Chống lại Việt Minh một cách tích cực và công khai còn có tờ Thiết Thực của Phan Huy Đán (Phan Quang Đán) và tờ Hồn Công Giáo của nhóm Mai Ngọc Liên.

Tôi xin đan cử một thí dụ về sự che đậy tập thể Việt Minh là Cộng Sản, do Cộng Sản lãnh đạo. Năm 1943, Đặng Xuân Thiều, một tay Cộng Sản gộc, người Hành Thiện, em họ Trường Chinh Đặng Xuân Khu và là bác bà Đức Thụ, có đến An Lễ thuyết phục anh em chúng tôi cộng tác với người Anh để chống Nhật, chứ không hề đả động gì đến Việt Minh, không nói câu nào về Cộng Sản Nga. Anh Chác tôi đặt vấn đề: Anh là đế quốc có nhiều thuộc địa nhất trên thế giới, cộng tác với Anh không có lợi, mà có thể gián tiếp giúp Pháp, vì Pháp - Anh là đồng minh. Sau bữa cơm chia tay, không bao giờ Đặng Xuân Thiều trở lại nữa. Thiều biết anh em chúng tôi thuần túy quốc gia.

Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, Đặng Xuân Thiều đã có mặt trong Quốc Hội đầu tiên của Việt Minh tổ chức.

Ngay sau khi thành lập chính phủ liên hiệp, trái với ước tính của phe quốc gia, trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng ở các tỉnh đều bị tấn công bất ngờ để bắt những đảng viên vào cũng một đêm. Đầu tháng 7/1946, Nguyễn Tường Bách, Vũ Hồng Khanh cùng một số đảng viên rút lên Vĩnh Yên, Việt Trì. Nội chiến toàn diện bùng nổ. Quân đội Việt Minh tấn công Phú Thọ, bất chấp có phái đoàn đại biểu Quốc Dân Đảng là Nguyễn Tườmg Long. Đoàn quân thất thế Việt Nam Quốc Dân Đảng lúc này có thêm Nguyễn Tường Long, rút lên Yên Báy, rồi Lào Kay vào cuối tháng 7/1946. Bại quân Việt Nam Quốc Dân Đảng bỏ Lào Kay, chạy sang Hà Khẩu, đất Trung Hoa để bắt đầu cuộc đời lưu vong biệt xứ.

Trong khi Việt Minh đàn áp để tiêu diệt người quốc gia yêu nước thì quân Pháp thường tỏ vẻ khiêu khích ở Hải Phòng. Dân chúng thật hoang mang. Ở Hải Phòng tôi có lán xẻ gỗ và bán vật liệu xây cất nhà cửa. Trong tình thế Pháp - Việt rất gay go, tôi về quê An Lễ để nhắn tin anh Phạm Ngọc Chác biết tình hình ngoài cảnh rất rối ran, đột biến có thể xảy ra bất cứ lúc nào và cũng để thu xếp tiền lấy cái thuyền trọng tải 50 tấn đóng ở Nghệ An bằng gỗ sáng lẻ có thể chịu được nước biển. Anh Chác đã rời quê An Lễ ngay từ cuối năm 1945. Thuyền vừa dùng để lấy than ở Hòn Gay chở đi cho các lò gạch ở Đáp Cầu đổi lấy ngói về bán, vừa có thể chạy được ven biển khi hữu sự như lời dặn của hai anh Chác và Giáo Kiên. Tôi về quê được ba, bốn ngày thì quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23/11/46, mở đầu cho những năm tháng gieo neo của đất nước.

IMG_4763
Về cái chết bi thảm của nhà văn Khái Hưng, tôi trình bày theo bốn nguồn tin, theo thứ tự thời gian mà tôi biết, để vụ án thêm sáng tỏ.

NGUỒN TIN THỨ NHẤT:

Ngày 19/12/46, khoảng 5 giờ chiều tôi rời Hà Nội trong lúc tình hình thật căng thẳng để chạy về quê nhà tôi ở Đan Nhiễm tọa lạc ngay sát bờ sông Nhuệ, thuộc Thanh Oai, Hà Đông. Vào nửa đêm, tiếng súng đại bác nổ gầm vang dội về, khiến cả dân làng ùa ra bờ sông, chỉ cách Hà Nội khoảng 10 cây số. Tin tức theo dân tản cư bay đi rất nhanh: Pháp tấn công thủ đô Hà Nội, cuộc chiến Việt - Pháp bắt đầu. Giữa tháng 12/47, giặc Pháp tảo thanh các vùng quanh thủ đô. Gia đình tôi phải rời Đan Nhuệ, đi xuống Đồng Quan, lấy thuyền theo sông Nhuệ, qua Chợ Đại, xuống Cống Thần. Từ Cống Thần gần Phủ Lý, chúng tôi lấy đò trên sông Quan theo đường bộ ngược lên Hòa Bình, để lấy đò đi Việt Trì. Lên bộ ở Việt Trì, chúng tôi đi dần lên mạn bắc, rồi tạm cư ở vùng Chàng Sảo, bên bờ sông Lô, gần Phủ Đoan Hùng, Phú Thọ. Bên kia sông Lô là Thái Nguyên với nhiều dãy núi trùng điệp, nơi Việt Minh lập chiến khu hồi hoạt động bí mật. Bốn, năm tháng sau, sợ bị ngã nước, tiền lại hết, nên cả gia đình nheo nhóc với hai con nhỏ, chúng tôi lếch thếch kéo nhau ra Phú Thọ, qua sông Hồng, đi bộ theo đường nhỏ xuống Chợ Vàng về Hưng Hóa. Qua sông Đà, tiếp tục đi bộ qua phủ Quốc Oai rồi về tạm trú ở Đạm Trai, quê ngoại nhà tôi, gần thị xã Sơn Tây, lúc này đã bị phá hủy (tiêu thổ kháng chiến) thành bình địa. Về tới Đạm Trai tính ra mất hơn bốn ngày, cứ ngày đi đêm ngủ nhờ các làng ven đường. Chúng tôi phải cõng luân phiên hai đứa con, đứa 4 tuổi, đứa được 5 tháng, suốt quãng đường đầy gian nan này. Nghỉ ở Đạm Trai một ngày chúng tôi lấy đò ra sông Đáy, xuống Vân Đình để đi bộ ra Đồng Quan, theo sông Nhuệ qua Chợ Đại đến Phượng Viền, nơi định cư mới. Dọc đường chúng tôi gặp nhiều gia đình chạy nạn, chạy quẩn, chạy quanh, toán lên mạn ngược, toán chạy về xuôi.

Sau khi thu xếp cho gia đình có thể sống tự túc bằng cách nuôi vịt, se bông chỉ, tôi bắt đầu liên lạc với anh Chác đang hoạt động trong Duy Tân. Như hầu hết thanh niên thời bấy giờ, tôi cảm thấy không thể ngồi yên, ăn hai bữa cơm hàng ngày, thản nhiên sống trong khi bao nhiêu anh em, bạn hữu cùng lứa tuổi, hoặc đi kháng chiến, hoặc mưu tìm nền độc lập cho nước nhà bằng cách này hay cách khá. Tuy không phải là một đảng viên Duy Tân, tôi tự nguyện nhận công tác giúp anh em Duy Tân đang tích cực hoạt động bí mật chống Cộng Sản. Nhưng thật là chua xót, Việt Minh Cộng Sản lợi dụng chiêu bài quốc gia để kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Pháp, nhưng một mặt lại tìm cách tiêu diệt những người yêu nước chỉ vì họ không chấp nhận Cộng Sản. Đời sau, nếu ai viết sử, nên nghiên cứu từng tận, vì cớ gì Việt Minh Cộng Sản lại khai phát súng đầu tiên để gây nội chiến trong khi Pháp muốn tái lập nền đô hộ.

Hai anh Giáo Kiên, Chác lúc này, mang tên Nguyễn Bá Tửu - đều lui về vùng Kim Sơn, Phát Diệm, chủ trương chống Pháp nhưng không thể hợp tác với Việt Minh, vì biết chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Tôi tản cư về gần vùng Chợ Đại, nơi buôn bán sầm uất, rất tiện lợi cho sự đi lại nên hai anh giao cho tôi công tác liên lạc với anh em liên tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Ban kinh tài của tổ chức ở Đồng Quan ở kế cận vùng Tề (vùng Pháp chiếm đóng) nên bọn con buôn tụ tập ở đây rất đông, nơi cửa ngõ lấy hàng ở thành ra để phân phối đi các nơi. Họ mua cả thuốc tây để tiếp tế cho kháng chiến. Đồng Quan nằm trên trục giao thông từ vùng rừng núi mạn ngược hay trung châu đi xuống đồng bằng, đổ xuống Ninh Bình để về miền biển hay vào Thanh Hóa, Nghệ An, Bến Vân, tôi gọi Bến Vân vì trên sông Vân Sàng, cạnh núi Dục Thúy, Ninh Bình, là nơi đổ bộ của đồng bào chạy nạn từ mạn trên xuống vùng biển Kim Sơn.

Tôi vốn thích thiên nhiên, ưa sông nước, nhưng lúc này tinh thần luôn dao động, một phần sợ bị bắt bất cứ lúc nào, nếu lộ tông tích, một phần lo làm sao công việc đảm nhận được trót lọt tốt đẹp, nên chẳng còn cái thư thái để hưởng vẻ đẹp của trời đất. Ở Phượng Viền người ta thường gọi chúng tôi bằng tên con trai lớn, lại thêm có hai con còn nhỏ, lếch thếch chạy từ rừng về nên ít ai chú ý tới. Nhận công tác liên lạc, khi tới Bồng Tiên, Thái Bình, anh Nghiêm cho biết anh em vùng này đều kín đáo tham gia Ủy Ban Kháng Chiến nên không bị nghi ngờ. Ở đây một đêm, tôi đi Vũ Tiên qua chùa Keo, lấy đò Keo qua Hành Thiện để đến làng Lịch Diệp, một làng khá trù phú vì làm nghề dệt vải. Tôi đến nhà Lê Văn Thoan. Thoan là con cụ Nhất Hoán, trước lấy Là, cô em họ tôi, nhưng hai người đã ly dị. Tôi nhận ra Thoan nhưng không biết Thoan có nhận ra tôi không, nhưng chúng tôi không ai nói ra, hay nhắc đến chuyện cũ. Sau khi trao đổi tin tức, tình hình các nơi, Thoan kể cho tơi nghe về cái chết bi thảm và kinh khủng của Khái Hưng. Người có mặt duy nhất lúc ấy là Đào Văn Dương, giáo sư toán… ở trường Chu Văn An, Saigon.

Cụ Thượng Lê Văn Đính, Tổng Đốc tỉnh Bắc Ninh là thân phụ bà Khái Hưng và cũng là bác ruột Lê Văn Thoan. Như vậy, bà Khái Hưng và Thoan là hai anh em con chú, con bác ruột. Khi tiếng súng kháng chiến bùng nổ thì Khái Hưng tản cư về làng Lịch Diệp là quê vợ. Ông bị bắt ở đây, công an không phải mất công truy lùng, tìm kiếm. Khái Hưng bị đưa đi giam ở Lạc Quần. Người em họ Thoan cũng ở làng Lịch Diệp làm công an, lúc đầu vì ưa thích, ủng hộ Việt Minh.

Vào đêm cuối năm, hắn được lệnh đưa Khái Hưng rời nhà giam Lạc Quần ra đi đò. Theo sông Ninh Cơ, thuyền đi qua địa phận Bùi Chu, Hành Thiện, khi đến bến đò Cựa Gà thuộc làng Ngọc Cục, hắn thi hành lệnh cấp trên là phải thủ tiêu Khái Hưng. Nhà văn có công lớn với nền văn học của ta, khi bị nhát dao đâm thứ nhất, đã kêu lên:

- Tao không ngờ chúng mày dã man đến thế.

Tên công an bồi thêm mấy nhát dao cho đến khi Khái Hưng chết hẳn, bỏ xác vào bao bố, buộc chặt rồi vất xuống sông, ngay bến đò Cựa Gà (bãi giữa sông). Sau khi thi hành bản án dã man tàn bạo ngoài sức tưởng tượng của mọi người, tên sát nhân không hiểu bất mãn với Việt Minh vì lẽ gì, đã về làng khai ra hết. Sau năm 1954, Lê Văn Thoan tản cư vào Saigon, mở tiệm sách rồi mất trong Nam.

IMG_4765
NGUỒN TIN THỨ HAI:


Vào gần cuối tháng 11/1946, mới năm giờ sáng, tôi đã rời quê An Lễ để qua Đò Mười, lấy chuyến ô tô sớm đi Nam Định để kịp tới Hải Phòng cùng ngày, thì hai giờ sau, công an ập đến nhà vây bắt hụt. Họ nghi tôi hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Khi ra tới Kiến An, tôi mới biết nhà tôi bỏ hết nhà cửa, chỉ kịp ôm con chạy lên Rế, thuộc An Dương, vì Pháp tấn công chiếm Hải Phòng ngày 23/11/46. Đưa gia đình về tới Nam Định, tôi được anh Phạm Ngọc Kha nhắn tin đừng về quê nữa. Chúng tôi chạy lên Hà Nội.

Giữa đêm ngày 19/12/46, tiếng súng bùng nổ, Pháp tấn công Việt Minh ở Hà Nội. Việt Minh khủng bố, bắt bớ khắp nơi, thi hành chính sách cực kỳ tàn ác, thà giết lầm còn hơn để lọt lưới. Kha cũng bị bắt ngay khi đó, đưa đi giam ở Hải Hậu ba ngày, rồi được một trung đội áp tải giải đi Lạc Quần. Công an đưa tin có thể bị đánh giải vây ở dọc đường vì họ cho anh là cán bộ cao cấp của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đồn Lạc Quần là một trại lính khố xanh thời Pháp thuộc, nằm bên bờ sông Ninh cơ, trên đường ô tô chạy từ Bến Đò Quan, Nam Định, về chợ Cồn, Văn Lý. Hai tháng bị giam ở Lạc Quần, anh bị tra tấn cực kỳ dã man, hết bị quay điện, rồi bị đánh đập bằng những thanh củi tạ. Sau đấy, anh bị đưa đi giam ở Thượng Lỗi, rồi Bình Bo, Mỹ Lộc, để bắt buộc tham gia phá hoại thành phố Nam Định. Cùng bị giam ở Bình Bo, có ông Lại Văn Tư và Phạm Văn Bính, rồi sau hai người bị đưa đi Chi-nê. Phạm Văn Bính, sau này làm Thủ Hiến Bắc Việt. Anh Kha bị đưa đi ra xử ở tòa án quân sự do Hà Kế Tấn là quan tòa và mang cái án hai năm ở tù trại Đầm Đùn bị kết tội là âm mưu lật đổ chính phủ.

Mấy chục người bị giam trong một căn phòng nhỏ hẹp ở Lạc Quần trong đó có nhà văn Khái Hưng. Khái Hưng kể rằng ông rời Hà Nội vào ngày 19/12/46, và phải đưa bà vợ về Lịch Diệp. Về đến quê vợ thì trời vừa tối, ông phải ở nán lại, chờ sáng hôm sau di chuyển đi nơi khác thì ngay đêm ấy công an đến bắt. Khái Hưng thường nói với mọi người, ông là người yêu nước, không ai có thể nghi ngờ hay hiểu lầm được. Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu là bạn ông biết rõ điều đó, ông không thể nào hợp tác với Pháp. Mọi người bị giam đều cho rằng nhà văn Khái Hưng quá chân thật đến độ ngây thơ. Ông ngõ ý với trưởng trại giam cho ông giấy bút để viết báo hô hào, kêu gọi dân chúng tiếp tục kháng chiến, chống Pháp để giành độc lập. Tên đồn trưởng Lạc Quần hứa sẽ trình lên cấp trên.

Vài ngày sau, Khái Hưng nhận được thư mời đi gặp cấp cao ở một địa phương khác. Tất cả anh em bị giam đều xôn xao vì có kinh nghiệm: khi Việt Minh muốn bắt ai thường gửi thư mời đến trình diện rồi giữ luôn. Khái Hưng vẫn một mực tin tưởng vào lòng ngay thẳng yêu nước của mình, vẫn cười nói thản nhiên.

Vào lúc gần tối ngày giáp Tết Đinh Hợi - 30 tháng Chạp Bính Tuất, là ngày 21 tháng 1, 1947, sau bữa cơm chiều, khi anh em bị giam đã nấu bánh chưng xong để đón giao thừa thì hai tên công an Đang và Thoại mời Khái Hưng lên Ty Thông Tin ở xa và nhắc ông phải mang hết quần áo đi. Khái Hưng thu xếp quần áo, ăn mặc chỉnh tề, vui vẻ chào từ giả mọi người, lòng đầy hy vọng sẽ được lãnh giấy bút để viết báo cổ võ toàn dân kháng chiến chống Pháp. Mọi người đều lo ngại cho ông nhưng không ai dám nói ra.

Hôm sau, hai tên công an trở về trại giam ở Lạc Quần nói rằng ông Khái Hưng đã bỏ trốn ở dọc đường, nhưng cả trại giam không ai tin. Anh Phạm Ngọc Kha năm nay (1996) được 80 tuổi, hiện đang ở quận Santa Clara, tiểu bang California, sang Mỹ năm 1991 để đoàn tụ với các con.

IMG_4766NGUỒN TIN THỨ BA:

Đoàn Văn Lụy, quê ở Tương Nam gần Cổ Lễ, trước học trường St Thomas d'Aquin, nhưng khác lớp, cùng một thời gian (1935 - 36) với Mai Ngọc Liệu và tôi. Kể từ năm 1937, tôi lên Hà Nội học nên không có dịp gặp lại Lụy nữa. Lụy chơi thân với Mai Ngọc Liệu vì cùng bạn Hướng Đạo. Năm 1954, Mai Ngọc Liệu là Tổng Thanh Tra Hành Chính Bắc Việt, lúc có phong trào di cư từ Bắc vào Nam sau khi hiệp định Genève chia đôi đất nước, hiện đang ở San Jose, năm nay (1996) được 79 tuổi.

Sau khi đọc Hồi Ký Một Đời Người tập I, đoạn nói sơ qua về ông Khái Hưng bị thủ tiêu, Mai Ngọc Liệu cho biết thêm một vài chi tiết khá quan trọng. Đoàn Văn Lụy cũng bị giam ở Lạc Quần và cũng được chứng kiến lúc nhà văn Khái Hưng rời khỏi nhà giam. Hai tên công an hôm sau trở về, một đứa mặc áo “ba đờ xuy” (pardessus), một đứa đội cái mũ “phớt” (feutre) nói là của ông Khái Hưng bỏ lại lúc trốn thoát ở dọc đường (Đoàn Văn Lụy đã qua đời tại Saigon năm 1989).

Sach Khai HungSach Khai Hung
NGUỒN TIN THỨ TƯ:


Trung tá VĐK, trước là lục sự ở Nha Quân Pháp, rồi về làm việc ở Tối Cao Pháp Viện, là bạn với tôi từ đầu thập niên 40 (1940) ở Hải Phòng. Tôi gặp anh lần cuối vào năm 1967 khi tàu Phong Châu ghé bến Cầu Đá, Nha Trang. Khi đổi về Saigon làm việc, anh đi xe mobylette còn mới, mượn của người em họ, đến thăm tôi ở đường Tân Phước, khu Nguyễn Tri Phương. Dựng chiếc xe đi mượn không khóa ở ngay vỉa hè trước nhà, anh vừa qua lưng ra ngoài đường thì quân gian đã nhảy lên xe ngồi, nổ máy rồi chạy, theo sau có hai ba tên cũng phóng nhanh bằng xe gắn máy. Kể từ đó anh không dám lại thăm tôi nữa, sợ mất xe phải đền lần nữa. Thật bất ngờ, tôi nhận được thư anh VĐK sang Úc đoàn tụ với các con từ năm 1989.

Thư ngày 24/06/95, anh viết:



Một anh bạn của tôi, cũng người Nam Định, sinh năm 1928, giữ nhiều chức vụ hồi 1965 - 75, đọc HKMĐN có góp ý về vài sự việc có liên quan đến anh ấy, hay anh ấy là nhân chứng.

* Hồi 1950, anh ấy trọ học tại nhà ngang của bà cụ thân sinh ra anh Phạm Văn Liễu, ở đường Gia Long, Hà Nội. Lúc đó anh Liễu đeo cấp bậc Trung Úy.

* Nơi anh trọ học ở Nam Định, Phố Năng Tĩnh, là nhà Thầy Phú (có con tên là Quý). Chánh tòa án (vụ xử anh Phạm Ngọc Kha tôi bị kết án tù hai năm vì âm mưu lật đổ chính phủ và năm 1947), là Hà Kế Tấn chứ không phải Chu Văn Tấn. Hà Kế Tấn là Tướng Việt Cộng chỉ huy Công Trường Thủy Điện Hòa Bình, hồi thập niên 80. Chu Văn Tấn, người Cao Bằng, chỉ huy đoàn lính dõng tiền thân của Bộ Đội Giải Phóng hay Quân Đội Nhân Dân của Việt Minh. Việt Minh lấy ngày 22/2/44 là ngày thành lập lực lượng trên để kỷ niệm hàng năm…

“Khái Hưng chết ở gần Lạc Quần. Ba tên được lệnh dẫn ông đi, đến nơi, chúng bỏ ông vào bao, lấy gậy đánh đâm cho đến chết rồi mới vất xuống sông. Tên chỉ huy lúc trở về báo cáo lại, anh ấy có nghe thấy”

Khi viết xong bản thảo “Vụ Án Nhà Văn Khái Hưng”, tôi gửi cho Cụ Đỗ Khắc Siêm đọc. Cụ cho biết thêm nhiều chi tiết soi sáng vụ án. Thời gian 1947 - 1949, cụ làm Thẩm Phán huyện Trực Ninh, và được trưởng toán cảnh vệ nơi đây cho biết: Ông Khái Hưng bị giam ở đây là bị đưa đi trầm hà trên sông Ninh Cơ trong khi đó Việt Cộng còn bịa đặt ra một tin để đánh lừa dư luận. Họ nói Công An dẫn ông Khái Hưng qua cầu Vô Tình (huyện Trực Ninh) một toán du kích bên kia cầu hiểu lầm đã xả súng bắn là ông Khái Hưng bị tử thương.

Phối kiểm tin trên, ta có thể tìm ra manh mối một cách khá chính xác về cái chết của nhà văn Khái Hưng:

Khái Hưng bị đưa ra khỏi trại giam Lạc Quần, sau bữa ăn chiều, lúc gần tối, ngày 30 tháng Chạp năm Bính Tuất. Từ Lạc Quần theo sông Ninh Cơ lên đến bến đò Cựa Gà khoảng 10 cây số, thuộc địa phận làng Ngọc Cục (Xuân Trường, Nam Định). Như vậy, tính theo khoảng cách Lạc Quần - Bến Đò Cựa Gà, ta có thể kết luận, nhà văn Khái Hưng bị giết ở bãi giữa sông Ninh Cơ, bỏ vào bao buông sông trước giao thừa sang năm mới Đinh Hợi, tức là gần nửa đêm 30 tháng Chạp năm Bính Tuất (21/01/1947).

70 năm sau ngày Khái Hưng bị giết rồi buông sông, lòng yêu nước, sự nghiệp văn chương của ông vẫn mãi trường tồn với non sông, tên tuổi ông sẽ lưu lại ngàn đời. Tội ác ô nhục gây nên cái chết bi thảm cho ông sẽ còn lưu xú đến muôn năm.

Trích Phạm Ngọc Lũy (Khái Hưng; Kỷ Vật Đầu Tay và Cuối Cùng)

LẠI THỊ MƠ * TRÔNG NGƯỜI

Trông người lại ngẫm đến ta

Lai Thị Mơ


Hình ông Obama cười ( gượng gạo) chung quanh một lô cô gái mặc áo yếm thiếu vải.Chẳng biết phía VN họ ( có dám) ghi lại cảm nghĩ hay không, khi nhìn thấy hình này,chứ cư dân (FB) bên Mỹ chửi ( comment) te tua tơi tả.
Áo yếm truyền thống ngày xưa rất đơn sơ giản dị cho phụ nữ mình. Không ai nghĩ là có ý đồ khoe sex. Nhưng sau 75, tự dưng áo yếm được chú ý quá cỡ. Không biết bao nhiêu là hoạ sĩ, người săn ảnh nghệ thuật dùng áo yếm làm đề tài cho các tác phẩm của mình.
Ngày xưa anh thấy em“áo trắng đơn sơ,mộng trắng trong” là đủ. Hay :
Hôm xưa em đến em mặc áo lụa vàng
Em đi trong nắng chân chim xinh xắn.
Có khi là: biết anh thích màu trời,em đã bồi hồi chọn màu áo xanh.
Áo ở đây là áo dài, và chỉ có áo dài ở khắp mọi nơi.
Vì thế khi đón quan khách nước ngoài cũng áo dài, trang trọng và lịch sự biết chừng nào. Từ cổ chí kim chẳng có nơi nào đón tiếp Nguyên thủ  quốc gia bằng quần áo hở hang như vậy.VN bây giờ chỗ nào cũng mang gái đẹp (hở hang) ra khoe. Con gái như món hàng thu lợi xuất ra nước ngoài ( Hàn Đài Sing.)Mà hễ là con gái thì chỉ phải lồ lộ trước mắt, không có cái gì khác nữa sao? Như vậy mặc nhiên họ đã hạ thấp giá trị đàn bà.
Chỗ nào cũng khoe thân xác, những chữ diễn tả người đẹp luôn luôn kèm theo chân dài, hàm ý “ trường túc bất tri lao”.
Những câu xưa:
Cái nết đánh chết cái đẹp
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.
Mấy câu tục ngữ này thuộc loại cổ lỗ sĩ, chẳng còn hợp thời không ai dùng nữa.
Đàn ông thì phải có nhiều tiền, nên đại gia và chân dài mới xứng đôi vừa lứa.
Một cô thí sinh thi hoa hậu ở VN khi được phỏng vấn:
Em có nghĩ em là người đẹp nhất ở kỳ thi này không?
Cô này chẳng cần tỏ ra khiêm nhường chút nào, trả lời thẳng thừng:
Nếu không tin mình đẹp nhất thì em đâu có đi thi làm chi.
Sau đó cô phân trần, nếu không thắng giải là “ lỗ sặc máu” đó anh: nào là tiền giày tiền áo, tóc tai trang điểm, lại còn phải đóng lệ phí nữa.
Tôi không biết các cụ bảo nói như dùi đục chấm mắm cáy như thế nào.Chứ nghe cô trả lời trước bao nhiêu khán giả ngồi bên dưới, cứ như cô đang nói chuyện với bạn trang lứa , cô dùng những tiếng thật là thô lỗ. Bảo sao biết bao nhiêu bà mẹ chồng bên này than trời như bọng. Con trai của họ về VN cưới vợ, toàn gặp ở bia ôm hay cắt tóc thanh nữ,mang qua Mỹ là rã đám.
Người đẹp nhiều quá, nhiều tới thặng dư. Chỉ có một anh vào cắt tóc ở tiệm thanh nữ mà ào ra 5 cô phục vụ, theo như bài cách trí học hồi nhỏ:
Thân thể người ta có 3 phần: đầu mình và tay chân. Một cô gội đầu, một cô ôm tay trái, một cô ôm tay phải,bên dưới hai cô khác ôm hai chân. Từ cô gội đầu tới các cô massage tay chân, cô nào cũng tìm cách cọ gò bồng đảo vào da thịt của khách hàng.
Vào quán bia ôm thì hai cô ngồi kè hai bên,các ông chỉ việc há miệng và nhai!
Chưa bao giờ con gái lại xuống giá đến như vậy. Con gái đã nhiều, vậy mà sinh ra làm thân con trai thì đau khổ: vì không kiếm ăn được.Thế là đua nhau chuyển giống, để thành bê đê đi hát đám ma.
Thấy ông Tổng Thống một cường quốc đến thăm, cũng nghĩ ông là đàn ông nên cho một bầy con gái bu quanh. Nhìn thấy ông TT cười gượng gạo ( chứ biết nói gì đây?) bà con( FB) bên Mỹ xấu hổ quá, chửi ( comment) không bút nào tả xiết.
Ngày xưa mẹ tôi nói “ thấy người ta ăn măng, cũng về bẻ lạch giường”. Nay ở VN họ cũng bắt chước y như vậy. Thấy bên Mỹ có đường hầm, họ cũng làm đường hầm. Nhưng đường hầm ngập đầy nước, xe chui vào coi như chui vào bẫy! Để tránh tình trạng kẹt xe,sẽ dùng phương tiện di chuyển công cộng là xe buýt . Xe thì chưa mua! nhưng dựng rất nhiều trạm xe, khắp đường phố. Kết quả là đường bị chật lại, vì các trạm xe xây to quá.Nói theo kiểu trong nước là " lấn chiếm lòng lề đường".Chờ hoài chẳng thấy xe( vì thiếu kinh phí _ nghe thật là kinh hãi).
Các trạm xe xuống cấp, mái dột,ghế gãy, trông hoang tàn như " Miếu vợ chàng Trương".
Hoang tàn thê lương đến độ Vua Lê thánh Tôn phải làm thơ nói lên lòng xót thương cho người đàn bà phận bạc:
  Bóng đèn dầu  tắt đừng nghe trẻ.
  Cung nước chi cho luỵ đến nường.
Mấy ông quan to mặt lớn đâu có nghe trẻ. Họ toàn nghe những tên gia nô điếu đóm hiến kế: xây cái này dựng cái nọ, có thế mới có tiền đút túi .
Hãy xem thành tích của họ: dựng tượng, xây hầm, tráng gạch mắc tiền cho phố đi bộ Nguyễn Huệ.Có cái gì ra hồn, hay chỉ để làm mất tiền của dân. Trong khi trẻ con không có trường để học, dân không có nhà thương để chữa bệnh.Những chuyện để lo cho cuộc sống căn bản của người dân thì không nói đến. Toàn nói đến những công trình xa hoa phù phiếm, xây tượng ngàn tỉ,trùng tu sửa chữa một thây ma đã thối rữa.Nhìn xem toàn thế giới có nơi nào có những cái quái đản như xứ mình?
Như vậy chẳng phải thấy người ta ăn măng, cũng về bẻ lạch giường, không đúng sao?
Nhìn người lại ngẫm đến ta. Nước Nhật sau thế chiến thứ hai, hoang tàn đổ nát . Họ bị trừng phạt bằng hai quả bom nguyên tử, cho bỏ mộng muốn làm Đế Quốc. Thực sự ra nếu không bị hai quả bom làm tê liệt, dân Nhật cũng chẳng hiền gì, cũng vô cùng tàn ác. Nạn đói năm 1945 ở nước ta cũng do Nhật gây ra, dù họ chỉ nắm quyền được vài tháng. Mẹ tôi kể lại biết bao chuyện thương tâm tàn nhẫn mà quân Nhật đối xử với dân mình.Một ông già giữ việc nuôi con ngựa của Quan lớn Nhật. Ông lén trộn một ít mạt cưa vào cám cho ngựa ăn. Chỗ cám đó ông mang về nuôi đàn con cháu nheo nhóc. Chẳng may con ngựa chết, khi  tìm ra lý do, ông quan Nhật đã ra lệnh mổ bụng con ngựa may ông già nuôi ngựa vào trong, rồi đem chôn sống, để trả thù cho con ngựa.
Mặc dù bị Mỹ ( và cả thế giới) trừng phạt về vũ khí. Nhật đã tập trung vào kinh tế kỹ nghệ. Để phục hồi đất nước hoang tàn, từ Vua cho tới dân đều một lòng thắt lưng buộc bụng, Nhật Hoàng cũng dùng xe đạp để đi làm. Xe hơi chỉ dùng khi thật cần thiết như để chạy xe cứu thương. Chỉ sau một thời gian ngắn, cả thế giới đã phải nghiêng mình thán phục nước Nhật về mọi phương diện. Từ sản phẩm của họ tới cung cách người dân. Nước họ thường xuyên bị động đất, nhưng họ tự lực cánh sinh. Họ không van xin cứu trợ như đám có chức có quyền ở VN. Xin cứu trợ để có cơ hội  đút vào túi mình .
Lễ nghĩa liêm sỉ hình như là một khái niệm rất mơ hồ. Trẻ con hàng ngày nhìn thấy đủ điều sai trái ngay khi còn rất nhỏ.
Rau bẩn để bán, còn rau sạch để ăn.Con ông cháu cha đốt tiền ở những nơi ăn chơi sa đọa. Ngày xưa chuyện Bạch công Tử và Hắc công Tử đốt tờ bạc con công( to nhất cỡ trăm đô bây giờ), tưởng là điều ghê gớm. Chuyện này được xếp vào loại cổ tích, con các ông lớn bây giờ đốt tiền có đẳng cấp hơn nhiều.Căn nhà của TT Thiệu ở Phan Rang dùng làm nơi du lịch,bọn cán bộ không hề nhìn ra: đó là hình ảnh trái ngược với chế độ hiện hành. Nhà của một vị Tổng Thống mà đơn sơ vậy sao. Còn trang trại của bà Ngô đình Nhu, ngày xưa coi như thuộc về nơi cho Vua Chúa , chẳng thể so sánh với khu cấm địa của ông to bà lớn có chức có quyền bây giờ.
Nhật gần VN, nên tìm đủ cách để đi qua: du lịch,du học,du hí...du gì cũng chẳng bằng du côn và du thử du thực.
Kiều Trinh xướng ngôn viên của đài phát thanh bị bắt 3 lần về tội ăn cắp. Cả 3 lần đều được trả tự do vì có giấy chứng nhận bị tâm thần, do bác sĩ bên VN  gởi qua. Khi về nước chẳng thấy gì biết xấu hổ, đáng lẽ phải chọn một công việc nào đó khuất mắt mọi người. Nhưng không, vì là con gái của viên chức lớn ở địa phương, nên Kiều Trinh vẫn tiếp tục làm xướng ngôn viên, vẫn xuất hiện trên TV.
Đến nỗi Giáo Sư Ngô bảo Châu phải than rằng:
Không có gì làm chúng ta ( VN) cảm thấy bị nhục nhã bằng hình ảnh của cô Kiều Trinh trên TV.
Nói khác đi cô KT thuộc loại " cố đấm ăn xôi". Lương xướng ngôn viên được bao nhiêu, mà cô cứ đưa cái mặt ( không ai quên _ nghĩa là rất đáng ghi nhớ) làm trêu ngươi mọi người. Các bích chương coi chừng người VN ăn cắp,làm cho chúng tôi ở Hải ngoại muốn la lên:
" Chỉ Việt Cộng mới ăn cắp".
Cần phân biệt người Việt chân chính ở trong và ngoài nước: không có ăn cắp.
Thật là" gậy ông đập lưng ông". Chúng tôi vừa đi du lịch Âu Châu, tại một tiệm tạp hóa của người có nét mặt Á Đông. Con của người bạn  vừa mua chai nước ngọt, nghe người bán hỏi người nước nào. Vì quá sợ chữ Vietnamese tai tiếng,  nên trong nhóm có người nói Japanese, chẳng may anh chàng bán hàng biết chút ít tiếng Nhật. Khi nghe người bán hỏi bằng tiếng Nhật, dĩ nhiên cậu nhỏ ú ớ, làm sao trả lời? Báo hại tụi tôi phải lấp liếm, bảo rằng cháu sinh ra bên Mỹ nên không biết tiếng mẹ đẻ. Thế ông bà cha mẹ toàn trên 60 , cũng quên cả tiếng mẹ đẻ sao?
Từ đó rút kinh nghiệm, chúng tôi không dám nhận xằng nữa.
Mà chỉ nói rõ ràng:
Chúng tôi là Vietnamese Americans. Thế là yên chuyện.
Chuyện nước tôi thì chẳng bao giờ chấm dứt mọi chuyện bất nhân. Biển đã bị nhiễm độc, chính quyền giải quyết kiểu : đánh bùn sang ao. Cho xuất khẩu lao động, cha hay mẹ đi làm ở nước ngoài để gửi tiền về nuôi con. Nhưng con ở nhà cũng lấy gì mà sống: nước bẩn, cá tôm chết.Tiền gửi về để cùng nhau chết từ từ. Dẫu đền đến bao nhiêu cũng chẳng bù đắp nỗi mất mát cho người dân quê tôi.
Người ta đã phá nát quê hương tôi bằng sự ngu dốt và dối trá. Túi tham vô đáy đã đưa dân tộc đến chỗ diệt vong. Máu và nước mắt của dân tôi đang chảy chan hoà khắp nơi.
Nhớ nước đau lòng con Quốc Quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái Gia Gia .
Bà Huyện Thanh Quan đã phải thốt lên khi thấy cảnh hoang tàn của đồi núi. Chỉ thế thôi mà còn đau lòng, nếu như bây giờ chúng ta biết dùng chữ gì để nói: lòng như xát muối!
Thi sĩ Tản Đà chỉ nhìn thấy tấm bản đồ bằng giấy bị rách, mà đã than rằng:
Nọ bức dư đồ đứng thử coi
Sông sông núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi.
Chỉ nhìn tấm bản đồ bằng giấy,mà đã nghĩ đến đất nước cũng tơi tả như vậy. Bây giờ nhìn thấy những hình ảnh thực sự đang xảy ra trên quê hương tôi, lòng người dân Việt dù trong hay ngoài nước, ai cũng đau lòng.
Khi  bài thơ vịnh bức dư đồ rách của Tản Đà vừa xuất hiện trên báo; có rất nhiều bài thơ hoạ lại,trong đó có bài của cụ Phan bội Châu (1927)
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
.......
Giận cho con cháu đà hư thế
Nhớ đến ông cha đám bỏ hoài.
.......
Vì chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi.
Ngày nào còn Cộng sản, ngày đó dân ta còn đói khổ.
Bức dư đồ đã rách này lại càng rách thêm.
Chẳng biết giang san bờ cõi ông cha để lại cho con cháu,có còn được giữ gìn. Hay chẳng bao lâu bức dư đồ sẽ biến mất hình ảnh quê hương thân yêu.
Bây giờ là lúc không thể chờ đợi, mình phải tự cứu lấy mình thôi.
Bài ca năm xưa, nay nghe sao thấm thía:
  Thượng đế hỡi có thấu  cho Việt Nam này?

Lại thị Mơ.


Saturday, June 24, 2017



TRẦN HUY LIỆU * ĐẤU TỐ NGUYỄN VĂN BÍNH



Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Văn Bính, tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ ngày 18-5-1953


18-5-1953
Nhưng mình không dự hội nghị, mà đi dự cuộc đấu địa chủ Nguyễn Văn Bính tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ… Theo lối rẽ vào xã Trung Thần, đã thấy từng tốp người từ các ngả đường kéo đến…, trong đó có cả những bà bồng bế con thơ… đôi người đàn bà mặc quần mới. Lũ trẻ con giành nhau chạy trước. Một thanh niên leo lên cây me vệ đường rung cây cho quả rơi xuống để mọi người nhặt… Mình có ấn tượng như đi xem hội ở vùng quê. Họ không nói chuyện gì về đối tượng sắp đem tranh đấu cả. Vào một nhà tập hợp. Những ủy viên chấp hành nông hội xã và cán bộ đội công tác đương tíu tít về những công việc tổ chức. Ban tiếp tế nấu từng chảo cơm, bày từng dãy mâm cơm cho những “tân khách”, ai muốn ăn thì ghi tên vào với giá tiền 3.000 đồng một bữa.

Mình mặc dầu đã mang cơm nếp đi theo cũng ngồi vào ăn. Dọc đường đi đến trường sở ở trong rừng, có dân quân du kích và công an xã vác súng đi lại canh gác. Từng chòm người ngồi xúm xít dưới gốc cây hay trong một chiếc nhà trống. Một chị phụ nữ bán xôi và bánh khúc tha hồ đắt hàng. Nhưng cho mãi đến gần 11 giờ, cuộc đấu mới bắt đầu. Vì thôn nọ phải chờ thôn kia, xóm nọ phải chờ xóm kia. Có người đi từ sáng sớm, chưa kịp ăn cơm. Có người gần trưa mới tới. Ban tổ chức đã không giao trách nhiệm chặt chẽ những người phụ trách các khu vực hướng dẫn quần chúng đến cho được đúng giờ hay ít nhất là không chậm trễ quá. Mình cố ý ngồi lẫn vào từng đám quần chúng để nghe ngóng dư luận, nhưng không thấy gì. Một anh bạn hỏi người ngồi bên thì y nói: “Tôi đối với ông ấy (chỉ địa chủ Tổng Bính) cũng không có chuyện gì”. Ban tổ chức đi gọi người nào có “vấn đề” với địa chủ thì vào trước.

Một số lững thững đi vào. Có người không chịu vào trước, nói: “Tôi có ít thôi, để nói vào cuối cùng”. Nhưng có ai biết được người tố cuối cùng sẽ là ai? Trường sở tranh đấu tại một khu rừng thưa, gần cánh đồng, bên một cái đình. Không có hầm hố tránh máy bay gì cả. Cũng may trời nắng ráo. Mưa thì sẽ ra sao? Ngoài lá quốc kỳ và ảnh Hồ Chủ tịch, những khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”, “Triệt để giảm tô, kể cả thoái tô. Thực hiện giảm tức, phát triển sản xuất. Thực hành tiết kiệm” và một chiếc băng dài đề “Đả đảo và trừng trị xứng đáng tên địa chủ cường hào gian ác Nguyễn Văn Bính”.

Mình nhận thấy không có một khẩu hiệu phản đế nào. Một thói quen trong lúc này là người ta mải nhìn vào địa chủ phong kiến mà quên kẻ thù đương phải tranh đấu bằng vũ trang là đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Trước mấy chiếc bàn để dành cho chủ tịch đoàn và ban thư ký, một chiếc bục kê lên cho địa chủ quỳ và đằng sau có những biển quy định chỗ ngồi: “địa chủ ngoan cố”, “địa chủ đã thanh toán”, “phú nông nói láo”, “phú nông chưa thành khẩn” và “những người phú nông”. Số quần chúng đến dự độ 700 trở lại. Có cả một số bộ đội và nhân viên cơ quan ở gần. Ban điện ảnh Nha Thông tin có đến quay phim. Theo lời căn dặn của chủ tịch đoàn, thì, khi máy quay phim kêu sè sè, mọi người không nên nhìn vào, mà phải “căm thù địa chủ”.

Lễ khai mạc bắt đầu. Trên ghế chủ tịch đoàn là ban chấp hành nông hội, nghĩa là bần, cố, trung nông. Có cả một phụ nữ và một thương binh. Phát ngôn nhân của chủ tịch đoàn cũng dõng dạc mạnh bạo, không kể vô số những sai lầm về danh từ cũng như về văn phạm. Nhưng những lời tuyên bố đầu tiên đã lộn xộn giữa phú nông và địa chủ. Người ta không nói ngay đến địa chủ thủ phạm, mà đã kể đến từng “tên” phú nông thuộc các loại, do du kích áp giải “mời” đến hội trường. Chủ tịch truyền lệnh cho cử tọa hễ thấy địa chủ vào thì hô đả đảo. Một việc làm không cần đến mệnh lệnh. Đến lượt địa chủ vào. Hai tay bị trói quặt ra sau, nhưng vẫn phải bò từ ngoài vào, đeo bên mình những gói quần áo. Ngoài tiếng hô đả đảo, những người ngồi gần lối y vào cũng với tay ra đánh tát tơi bời. Không đợi để quỳ lên bục, một người đã túm lấy tóc mà “tố”. Trận vũ bão bắt đầu.
Mình đã đọc hồ sơ của B., biết rõ tội ác của B. B. trước làm lý trưởng rồi phó tổng hồi Pháp thuộc. Sau Cách mạng tháng Tám, B. làm chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến xã rồi UBHCKC huyện. B. cũng là đảng viên cộng sản đầu tiên ở đây. Một số người vào tố đầu tiên buộc tội B. đã làm tay sai cho Cung Đình Vận, tuần phủ Thái Nguyên ngày trước, để lùng bắt Việt Minh và đồng chí Chu Văn Tấn.
Tuy vậy, ngoài một người ra, hầu hết những người khác đều không đem được ra những bằng chứng cụ thể. Có người không nói được rõ cả việc xảy ra ở đâu ngày tháng nào. Kết quả là B. chỉ nhận sau cuộc Nhật đảo chính Pháp, có nhiều trộm cướp xảy ra, mình làm tổng lý phải đem lính dõng và tuần phiên đi canh gác, thế thôi. Đến lượt tố các vấn đề kinh tế. Một điểm đáng chú ý là trong khi đấu tố địa chủ mà không nổi bật lên cái gì là chiếm đoạt ruộng đất hay tô tức. Người ta chỉ len vào những việc phụ khác như ăn hối lộ, quỵt tiền công, tham ô, đánh người…

Có một số người mà phần nhiều là phụ nữ tố tên B. bằng một giọng kể lể tự nhiên thì được công chúng nghe rõ ràng và thấm thía. Một bà đau xót vì chồng bị B. đánh 3 cái ba toong và khi B. vào nhà bà sục bắt cán bộ thời bí mật, cán bộ chạy làm vỡ một rổ bát để nhà bà không có cái bát mà ăn. Một chị ở giơ cái chân khấp khểnh vì bị sâu quảng để truy nguyên vì B. mà què chân. Một anh ở khác tố cáo vì B. không cấp thẻ thuế thân trong thời Pháp thuộc nên không đi đâu được.

Tuy vậy, có bà kể lể vì bị quỵt 3 nồi thóc, đi tới kết quả là con ốm bị chết để kết luận bằng câu: “Vậy mày có trả tao 3 nồi thóc không?”. Cũng một bà khác có anh ở cho B. ốm chết, rồi cũng suy luận theo kiểu trên để đi tới đòi mấy nồi thóc tiền công. Một chị chấp hành nông hội, ngồi ghế chủ tịch đoàn là chị Bân đã tố B. cướp một con trâu với tinh thần căm tức dào dạt, nhưng chị vừa nói vừa vỗ tay xỉa xói vào mặt B. khiến mình có cảm tưởng như nghe cuộc cãi nhau của một mụ bán hàng chua ngoa ở chợ Đồng Xuân.
Ngoài ra, không thiếu những điều vô lý đến phì cười Có người tố B. đã quyên tiền của mình để đóng cho Việt Minh trước cuộc Cách mạng tháng Tám mà không nói rõ B. đe dọa nếu không quyên thì sẽ bị giết. Có người tố B. đã làm chết hai du kích chỉ vì B. đã phái đi bố trí trong khi quân Pháp tiến lên Thái Nguyên năm 1947. Có người còn tố B. đã làm thịt lợn đãi du kích mà con lợn đó là lợn nhà của B. Một anh tự xưng là bộ đội Anh Bắc trước cuộc cách mạng trong khi tố B. đã không quên “quảng cáo” cho B. là B. đã đốt bằng sắc của thời Pháp thuộc.

Một anh phu phà nhắc lại chuyện năm xưa đã bị B. đánh một cái tát vì té nước vào quần B. rồi cứ sừng sộ mãi: “Mày có phải là cán bộ không?”. Nhiều người tố giác B. đã thừa cơ ăn cắp vải, đồng hồ, súng lục… khi quân ta đánh chiếm Thái Nguyên tháng 8-1945. Rồi sau khi nghe B. phân trần, người ta vẫn cứ truy mãi: “Thế còn đạn mày lấy ở đâu?”. Cuộc tranh đấu càng kéo dài, những vấn đề đem ra tố càng trở nên lung tung, tản mạn. Một chị phụ nữ là y tá của một cơ quan cũng lăng xăng chạy vào hỏi chiếc bút Pắc-ke bị mất năm trước khi cơ quan còn đóng ở nhà B. Một người khác kể tội B. khi dạy học đã dùng thước đánh mình. Nói tóm lại, người ta không còn thấy gì là tính chất giai cấp đấu tranh của nông dân chống địa chủ nữa.
Nếu mình hôm ấy chỉ là một người xa lạ đến dự thì sẽ không biết B. có phải là địa chủ cường hào gian ác không và vì sao phải đem ra đấu tố? Khuyết điểm là chủ tịch đoàn, trước khi đem tố, không giới thiệu tóm tắt những tội trạng của y rồi mọi người đem bằng cớ ra để chứng thực. Những phần tử cốt cán đem ra tố, đã bị bồi dưỡng theo một kiểu cách sai lệch đến lố bịch. Đại đế anh nào chạy ra cũng đầu tiên vỗ ngực bằng một câu hỏi: “Mày có biết tao là ai không?” và “Mày đã dựa vào thế lực nào?”, “Đéo mẹ tiên sư mày, không nhận tao đánh bỏ mẹ bây giờ”… bằng những cử chỉ hùng hổ và quát tháo om sòm, lại không có lý lẽ gì cũng như không đem được ra chứng cứ.

Ngu ngốc đến nỗi khi nhắc đến những việc làm thời Pháp thuộc của B, rồi hỏi: “Mày đã dựa vào thế lực nào?”, là có ý chỉ vào thế lực đế quốc cái đó đã đành. Tới khi hỏi những việc làm của B. bằng danh nghĩa chính quyền của ta, cũng cứ gạn hỏi: “Mày đã dựa vào thế lực nào?”. Và nếu quên hỏi câu này thì lại có người nhắc hỏi. Đã thế, không cho “phạm nhân” được trả lời, vì trả lời tức là “ngoan cố”.

Những tiếng quát tháo: “Mày còn chối tao đánh bỏ mẹ bây giờ” và những tiếng hò hét của công chúng ở ngoài: “Không cho nó nói”, “Không cho nó phân trần” chỉ tỏ ra những hèn kém, yếu ớt không tin được vào lý lẽ của mình. Sau khi chủ tịch đoàn đọc bản cáo trạng, mình phải lấy làm ngạc nhiên là cuộc tố đã không nêu ra được tội trạng của B. Chẳng những thế, người ta bắt tội nhân phải quỳ trên sàn gỗ tính ra từ 11 giờ đến 4 giở rưỡi chiều. Mỗi khi tội nhân run rẩy gục xuống thì những tiếng thét từ xung quanh lại vang lên: “Quỳ cao lên!”. Anh du kích đứng sau lưng thỉnh thoảng lại dọi một báng súng mỗi khi thấy phạm nhân quỳ thấp xuống, nghĩa là đặt đít vào hai gót chân. Có lúc chủ tịch đoàn ra lệnh cho B. được ngồi xuống một tí thì người tố và quần chúng lại bắt quỳ cao lên.

Ngoài hình phạt bắt quỳ thường xuyên, người ta đã đánh đập tội nhân rất tàn nhẫn. Mỗi người ra tố, theo thói quen và bắt chước lẫn nhau, đều nắm tóc tội nhân để giật hỏi. Sau mấy câu hỏi không đi đến đâu, người tố thấy mình trơ trẽn nên phải kết thúc bằng một cái tát để xuống đài. Có người đã thoi vào mang tai tội nhân. Có người đã đá phốc lên bụng. Trong khi ấy, chủ tịch đoàn hay một vài người ở ngoài chỉ khuyên bằng một câu nhè nhẹ “Không cần đánh nó!” hay “Đánh nó thêm bẩn tay!”. Trước mắt mình đã có một ấn tượng rất xấu: một anh, cứ cách năm, mười phút lại lên nắm tóc tội nhân hay xen vào cuộc đấu tố của người khác để hỏi một vài câu trống rỗng, rồi theo đó một cái tát. Mình không thể thấy được ở y một căm thù giai cấp mà chỉ thấy ở y một hèn nhát của một kẻ đánh hôi trong trận đòn hội chợ. Mình còn thấy ở y, cũng như một số khác trong khi đánh đập tội nhân còn có ý biểu dương tinh thần trước mặt cán bộ.

Cũng hôm nay, mình còn thấy hai đứa trẻ con trong đám quần chúng cốt cán cũng luôn chạy ra bắt địa chủ phải quỳ cao và túm tóc đánh tát theo kiểu này. Họ hiểu lầm hai chữ “đấu lực” bằng cách dùng nhục hình vô nhân đạo. Họ không biết sức mạnh của giai cấp không phải đánh hôi một cách hèn nhát, có tính chất báo thù cá nhân. Hiện tượng xấu xa này còn do ở những cán bộ của chúng ta, trong khi huấn luyện trong lớp cũng như nói ngoài quần chúng, là: “Kỷ luật thì cấm đánh ẩu, giết ẩu, nhưng nếu nông dân người ta căm thù quá độ mà đánh tát một vài cái thì cũng không sao”. Câu nói này đã trở nên như một châm ngôn. Nó gợi bảo quần chúng là có thể đánh một vài cái được, miễn là đừng đánh chết. Rồi đó, những kẻ lưu manh đã thừa cơ đánh để trả thù hay đánh để chơi, đánh cho thích. Mình thật không muốn thấy nhục hình khôn nạn còn diễn ra dưới chính quyền dân chủ nhân dân này!
Hôm ấy, còn diễn ra một cảnh tượng nữa là người trong gia đình tên B. cũng được áp giải ra hội trường. Trong đó có một bà cụ già khọm, mẹ của B, và một đứa trẻ độ 3, 4 tháng nằm trên bàn tay vợ của B. Chủ tịch đoàn gọi vợ B. lên khuyên chồng thú nhận tội lỗi. Cảnh này chỉ gây cho công chúng rủ lòng thương những kẻ mặc dầu đã sống vào bóc lột và áp bức đương bị trả thù!
Sau trận đấu, chủ tịch đọc bản cáo trạng và cho phép B. được ngồi nghe. Đến lượt cho nói, B. phân trần là trước kia làm tổng lý thì sự áp bức bóc lột nông dân là điều không tránh khỏi. Nhưng sau khi giác ngộ thì B. đã thấy rõ cuộc cách mạng của ta là đánh đổ phong kiến và đế quốc, làm cách mạng ruộng đất. Trên con đường tiến của Liên Xô vĩ đại, B. không dại gì đi vào con đường chết. Từ sau Cách mạng tháng Tám, B. đã tích cực phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nếu có những việc lặt vặt xảy ra, thì nó chỉ là bột phát, không chủ ý. Nếu nhân dân giết y thì y chịu, chớ y không chịu nhận là phản cách mạng, mưu bắt cán bộ. B. nói có thực không, đó là một chuyện. Điều đáng ghi ở đây là cuộc đấu hôm nay đã không đạt được mục đích yêu cầu và không làm cho B. khuất phục. Tuy vậy B. vẫn phải ký vào bản cáo trạng kể trên.
*
Đến lượt Phùng Thái Ký, một Hoa kiều địa chủ kiêm công thương nghiệp. Từ sáng, Phùng vẫn ngồi dưới tấm biển đề “địa chủ ngoan cố”. Thực ra Phùng không phải mục tiêu định đem đấu hôm nay. Nhưng chủ tịch đoàn vừa gọi ra chất vấn, Phùng nói líu tíu khó hiểu, thì mấy nông dân Hoa kiều đã ồ lại thoi đánh túi bụi con của Phùng. Đến đây thì trật tự bị mất hẳn. Chủ tịch đoàn bị động.
Cuộc chất vấn trở thành cuộc đấu. Những việc đem ra tố đều thuộc về hiềm thù cá nhân, xích mích xóm giềng giữa một số Hoa kiều, không có gì là tính chất của nông dân đấu địa chủ. Hầu hết mọi người lại chỉ nhằm vào thằng con của Phùng, một thanh niên ngỗ ngược. Khác với Nguyễn Văn Bính, thằng con của Phùng không thể quỳ cho người ta đánh, mà lăn ra khóc hu hu. Cuối cùng, hai bố con Phùng cũng phải ký vào bản cáo trạng, nhận bồi thường cho nông dân.
*
Ngoài hai địa chủ, đến lượt một số phú nông. Từ sáng, một số phú nông đã phải ngồi theo từng loại.
Khi mà cuộc đấu tố B. đến lúc quyết liệt nhất thì chủ tịch đoàn truyền lệnh cho đem những “phú nông” chưa chịu thanh toán ra một chỗ bắt phải nhận bồi thường cho nông dân. Mà ai cũng thấy rõ là một hình thức uy hiếp phú nông rõ rệt, vượt quá phạm vi “trung lập phú nông” theo sách lược của Đảng.
*
Sau cùng là những lời tuyên bố không phải của chủ tịch đoàn, mà của anh NQC, trưởng đội công tác xã Dân Chủ. Anh hoan hô cuộc thắng lợi của nông dân và nhắc nhở về việc củng cố nông hội.
Nhưng cái điệu lệch của cán bộ là chỉ nhắc đến Hồ Chủ tịch, đến Đảng, mà không nói đến chính quyền dân chủ nhân dân. Những khẩu hiệu hô trước khi mít tinh giải tán cũng thiếu hẳn khẩu hiệu chống đế quốc.
*
4 giờ rưỡi, mít tinh giải tán, mình ra về trong đám quần chúng, nhưng không nhặt được một dư luận nào thêm. Nhọc mệt. Bực bội. Một vài ấn tượng xấu trong cuộc mít tinh vẫn ám ảnh trong đầu mình.
Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long ở hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ ngày 22-5-1953
Số người tới dự độ 1 vạn trở lại, ngồi chen chúc trong một khu đất dưới lùm cây hai bên là núi. Hôm nay nắng nhiều, ánh mặt trời rọi vào khiến nhiều người phải cầm cành cây vừa che cho đỡ nắng, vừa để ngụy trang chống máy bay. Nhưng làm thế thì hàng trước sẽ che lấp hàng sau, không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ cành lá đi và khi nắng quá thì dồn người sang hai bên…
Hôm nay cũng như hôm trước, chủ tịch đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa! Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả đảo vang dậy và đòi phải đứng lên cao quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo. Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên với một tràng lý lịch tư pháp mà không nêu tội ác. Tuy vậy quần chúng cũng chấm dứt từng đứa bằng một làn sóng đả đảo. Quần chúng ghét nhất là đội Hàm, vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt đầy khiêu khích. Nhiều người hô bắt nó phải cúi mặt xuống.
Rút kinh nghiệm lần trước, chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò. Bọn mẹ con và tay sai địa chủ được ngồi trên một cái bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt vào tố, từ loại vấn đề kinh tế đến chính trị và sau hết là chống chính sách chính phủ và nói xấu cán bộ. Những người đấu tố hôm nay cũng có một phong độ và một nghệ thuật khác hôm đấu Tổng Bính. Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai không?”, “Mày dựa vào thế lực nào?” kèm theo cái tát để xuống đài không còn nữa. Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người ở với Thị Năm lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với một giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm cho ai cảm động.
Còn anh Cò, một người thiểu số đã bị Hoàng Công, con Thị Năm, bắt vì có tài liệu Việt Minh, trước cuộc Cách mạng tháng Tám, bị tra tấn rất dã man, rồi trốn thoát trước giờ Công định lấy đầu nộp cho Cung Đình Vận. Bằng một giọng chân thành đến ngây ngô, anh đã làm cho Công không chối cãi được nửa lời.
Cũng có không ít những người nói không đạt ý, không rõ việc. Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội Thị Năm ở đâu? Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm.

Ông Giồng tố cáo Thị Năm đã cướp gánh cỏ của ông cho ngựa nó ăn và giỏ củ mài làm cho cả nhà nhịn đói. Câu chuyện của ông đã được một văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ tràng thiên rất cảm động Nhưng hôm nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo. Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét. Chị Lý, con nuôi của Thị Năm, được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị Thị Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Chị vừa nói vừa khóc. Nhưng không ai rõ chị nói gì.
Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ. Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra. Trong khi tố tên Công, nhiều người hỏi những câu vô ý thức: “Mày có xứng đáng là cách mạng không?”, “Mày nói mày là cách mạng mà như thế à?”. Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”. Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”.
Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên.
Về phía quần chúng, thì, khi nghe người tố không chịu bình tĩnh lắng nghe cho rõ sự việc cũng như luận điệu tố cáo, cứ việc “đả đảo” bừa đi. Nhiều lúc ầm ĩ quá làm không nghe gì được. Một người trong chủ tịch đoàn cũng phạm một lỗi quá nặng. Trong khi quần chúng đòi đem bày ổ thủ phạm ra ngồi ngoài nắng, lại trả lời: “Đem ra ngoài nắng ngộ nó lăn ra chết thì lấy gì mà tố?”. Đây là lời dặn của cán bộ với những phần tử cốt cán là không nên đánh đập địa chủ. Nếu lỡ tay đánh chết nó thì lấy gì mà tố. Hôm nay, vị chủ tịch ngốc nghếch kia đã theo ý đó nói toạc ra một cách công khai cho địa chủ biết.
Đến lúc đọc bản cáo trạng kết thúc, hội trường im lặng để lắng nghe trong một bầu không khí trầm nghiêm. Nhưng một vị chủ tịch đã đọc chữ nọ thành chữ kia. Có câu đọc đi đọc lại. Có lúc phải ngừng lại để lẩm nhẩm. Rồi mỗi lúc mỗi ngập ngọng thêm. Kết cục là nửa chừng phải thay người khác. Về việc này, mình hỏi một cán bộ phụ trách thì được biết là trước khi đọc, bản chữ viết đã chú ý viết rõ ràng và vị chủ tịch nọ đã đọc đi đọc lại, đảm bảo là đọc được.
… Tính ra suốt ngày hôm nay không được uống nước dưới trời nắng. Trời tối, nhiều lúc lạc đường, về đến cơ quan một cách mệt mỏi.
Nhật ký ngày 31-5-1953
31-5-1953
Sáng sớm, mình xuống xã Dân Chủ cùng hai người trong tổ kiểm tra để kiểm tra việc thoái tô, thoái tiền công và chia quả thực. Nằm ở nhà một bần nông, sáng và chiều vùi đầu vào trong đám giấy tờ của đội công tác để tìm ra vấn đề. Một điều nhận thấy là giấy tờ lộn xộn quá, vì kém văn hóa và thiếu khoa học. Thiếu đến cả những hình thức thông thường. Nhiều tài liệu phải vừa đọc vừa hỏi mới biết rõ sự việc. Trong khoản nông dân bắt địa chủ và phú nông bồi thường có cả khoản trâu bò phá hoại hoa màu từ mấy năm trước. Đến cả bần, cô nông với trung nông cũng thanh toán cả món nợ từ năm nảo năm nào. Có anh cố nông năm nay 39 tuổi khai bị một địa chủ quỵt công ở 25 năm, sau đem bình nghị phải giảm xuống 15 năm. Sau cùng là 9 năm.

Có người đòi công ở 2 năm tới 86 nồi thóc (mỗi nồi 22 cân) trong khi công ở mỗi người nhiều nhất trong một năm chỉ có 20 nồi. Hơn nữa có anh bần nông bắt đến địa chủ bắn chết một con lợn 15 cân từ năm 1935 là 8 nồi thóc. Nếu tính theo giá hiện thời: 300 đồng bạc ngân hàng một cân thóc thì con lợn 15 cân ấy (kể cả lòng lẫn cứt), giá bồi thường mỗi cân tới 3.520 đồng, trong khi thời giá chỉ có 2.700 đồng. Ấy là chưa kể con lợn hồi ấy, địa chủ, người bắn chết, có ăn thịt không hay con lợn vẫn về nhà có lợn. Đại để những việc như thế đã nói rõ sự lạm quyền thế mới lên và sự tham lam trắng trợn của một số bần, cố nông chưa được giáo dục.
Buổi tối, mình dự một tổ nông hội bàn về mấy nguyên tắc chia ruộng công. Trong gian nhà bức, nóng, người đến dự vừa đau mắt, vừa buồn ngủ, mỏi mệt, uể oải sau một ngày làm việc dưới nắng hè để sáng mai lại phải dậy sớm đi làm. Trong khi ấy, chủ tọa buổi họp là một cố nông không biết điều khiển gọn ghẽ, cứ hỏi đi hỏi lại, bắt mọi người đều phải phát biểu ý kiến. Có nhiều vấn đề trở đi trở lại mãi. Thêm vào đấy, mấy phần tử cốt cán cứ nói theo giọng cán bộ, tuôn một tràng dài những lý luận và danh từ không cần thiết. Rồi, sau đó, cũng làm đủ mọi phương thức: phê bình hội nghị, duyệt y biên bản, kéo tới 11 giờ khuya.
Nguồn: Trần Huy Liệu – Cõi người. Tác giả: Trần Chiến. Nhà xuất bản Kim Đồng, 2009

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hồ Chí Minh & Lời Ai Điếu

blank
Courage sometimes skips a generation.
The Help
 

Chương mở đầu Hồi Ký Tống Văn Công có đoạn:
Ông nội tôi có ba người con, nhưng chỉ có cha tôi là trai. Sau khi cha tôi bị bắt vì tội “làm cộng sản”, ông nội tôi sốt ruột chuyện “nối giòng”. Có người mai mối má tôi là Nguyễn Thị Thâm ở làng Giồng Tre (xã An Ngãi Trung) cho cha tôi...
Sau lễ ra mắt, hai họ quyết định các bước kế tiếp theo tập tục. Cha tôi phải tới “ở rể” tại nhà ông bà ngoại tôi. Trong bữa cơm đầu tiên, ông ngoại tôi cầm chai rượu lên hỏi: “Con có biết uống rượu không”? Cha tôi đáp: “Dạ, có chút đỉnh”. Ông ngoại tôi rót đầy ly nhỏ, đưa cho cha tôi. Cha tôi cầm lấy, cám ơn và uống cạn. Ông ngoại tôi cười lớn nói bỗ bã: “Tao thích mày!
 
Tui thì thích hết hai ông: ông ngoại và ông cha của nhà báo Tống Văn Công bởi cả hai đều vui tính, hảo rượu, và (chắc) đều là những trang hảo hớn. Bởi tui cũng sinh trưởng ở trong Nam nên nói như vậy (nghe) cũng kỳ kỳ, và e có điều tiếng eo sèo là mình hơi nhiều máu địa phương hay phân biệt vùng/miền.
Để tránh dị nghị, tôi xin mạn phép mượn đôi lời của một nhân vật khác – từ một vùng đất khác – ghi nhận về những nét “dễ thương” của nơi mà mình chôn rau cắt rún:


Về tính cách ham vui của người dân Nam Bộ, tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ở cùng phố với tôi, có anh bạn một hôm đến rủ tôi đến nhà anh ăn mừng sinh nhật Bác Hồ ngày 19-5. Đương nhiên là tôi đi. Đúng một tháng sau, anh lại đến rủ tôi đi liên hoan. Tôi hỏi, dịp gì thế? Anh ta bảo, hôm nay “đầy tháng” Bác Hồ!
 Chưa hết, anh rủ tôi đến nhà ăn giỗ bà già. Đúng một tháng sau anh lại đến rủ tôi, nói: hôm nay giỗ bà già tôi! Nghe vậy tôi ngạc nhiên quá, vì vừa ăn giỗ tháng trước. Anh hiểu sự ngạc nhiên này nên giải thích ngay: năm nay nhuận hai tháng tám phải giỗ hai lần! 

Vẫn chưa hết. Ngày Phật Đản, anh rủ tôi rồi đến ngày Noel mừng Thiên Chúa Giáng Sinh anh cũng đến mời tôi đi ăn mừng. Tôi thắc mắc vì anh theo đạo Phật cơ mà, anh cười, nói tôi đa tôn giáo! Thế nên hèn chi, ca dao Nam Bộ mới có câu: “Ra đường thấy vịt cũng lùa. Thấy duyên cũng kết, thấy chùa cũng tu!” (Lê Phú Khải. Lời Ai Điếu, Westminster, CA: Người Việt, 2016).

blank

Theo T.S Nguyễn Văn Tuấn, tác giả cuốn hồi ký thượng dẫn sinh năm 1942 tại Hà Nội, học văn khoa tại trường ĐH Sư Phạm Hà Nội 1967, làm việc cho đài Tiếng Nói Việt Nam và sau này bị/được ‘lưu đày’ vào Nam. Ông đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn viết cho truyền thông … lề trái.”

Dù ở hoàn cảnh “lưu đầy” nhưng Lê Phú Khải yêu qúi và rành rẽ Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ít ai sánh kịp. Ngoài gần chục tác phẩm viết về miền đất này, ông còn tìm ra được hằng trăm từ kép mà người dân hai miền Nam/Bắc “chia nhau” (trước/sau hay sau/trước) một cách vô cùng độc đáo:
“... ô dù, ốm đau, buồn rầu, bơi lội, bóc lột, cố gắng, co kéo, chọc ghẹo, chán ngán, chặt đốn, cưng chiều, chén bát, chờ đợi, chửi rủa, chậm trễ, cần thiết, cạn kiệt, chia xớt, đưa rước, dạy bảo, dòmn ngó, dọn dẹp, dụ dỗ, đùa giỡn, đùi vế, đau ốm, đĩ điếm, khờ dại, điên khùng, dư thừa, giỡn chơi, đui mù, dòm ngó, dọa nạt, đe dọa, hư hỏng, hao tốn, hăm dọa, hối thúc, hù dọa, hung dữ, ham thích, hoảng sợ, hèn nhát ... Ví dụ như đui mù thì người Nam nói đui, người Bắc nói mù.”
Thiệt là bất ngờ và thú vị!

Hèn chi mà gíáo sư Nguyễn Văn Tuấn không tiếc lời ca ngợi: “Đây là một cuốn sách cần phải có trong tủ sách gia đình. Một cuốn sách bổ sung tuyệt vời cho các tác phẩm của Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Xuân Vũ, Dương Thu Hương, Trần Đĩnh, Huy Đức ...”
Tôi rất tán thành với nhận định (“một cuốn sách tuyệt vời”) và chỉ hơi lấy làm tiếc là đã không hoàn toàn chia sẻ được với nhà báo Lê Phú Khải về vài đoạn văn (ngăn ngắn) trong hồi ký của ông. Xin đơn cử một thí dụ: 
“Đó là vào năm 1992, một đoàn nhà báo, gồm toàn những nhà báo có ‘máu mặt’, tổ chức lên Đà Lạt nhằm bênh vực chị Đặng Việt Nga, kiến trúc sư và anh Phương cũng kiến trúc sư, hai chủ nhân của ‘Ngôi nhà trăm mái’ đang bị địa phương bắt tháo dỡ vì nhiều lý do không chính đáng.
Đường xa, hết chuyện bàn, tôi nêu câu hỏi: Nếu bây giờ phải chọn hai gương mặt tiêu biểu cho Việt Nam thế kỷ qua thì các vị chọn ai? Mọi người đều chọn nhân vật số một là Hồ Chí Minh. Vậy còn người thứ hai? Cả xe im lặng. Có vị nói: Võ Nguyên Giáp! Tôi phản đối và đưa ra nhân vật thứ hai là Dương Thu Hương! Cả xe nhao nhao phản đối. Có người hỏi: Dương Thu Hương là cái quái gì mà ông lại cho là nhân vật thứ hai sau Hồ chí minh? Tôi trả lời: chẳng là cái quái gì mà tự cho mình có quyền đứng ngang hàng và dám vỗ vai nhắc nhở các vị đang cai trị dân chúng, thì đó là dân chủ, là xã hội công dân chứ còn gì nữa! Độc lập và dân chủ là hai phạm trù lớn nhất, được cả dân tộc nhắc đến nhiều nhất trong thế kỷ qua. Độc lập thì Hồ Chí Minh là hình tượng, còn dân chủ thì đến Đại Tướng cũng không dám đối thoại với tổng bí thư Lê Duẩn, Dương Thu Hương là thảo dân mà lại tự cho mình quyền ăn nói ngang hàng với các vị đang đứng trên đầu dân, thì đó là hình tượng của dân chủ. Sau hình tượng của dân tộc phải là hình tượng của dân chủ… Chẳng thấy ai trên xe nói gì nữa!”
blank
Ảnh: photphet

Tôi không có mặt trong chuyến xe lên Đà Lạt vào năm 1992, và cũng không có khả năng tranh luận nên xin phép được mượn lời của nhà bình luận thời cuộc Vũ Quang Thuận và bác sĩ Phạm Hồng Sơn để góp ý thêm về ông Hồ Chí Minh – nhân vật mà theo nhà báo Lê Phú Khải là "một hình tượng độc lập tiêu biểu của nước Việt Nam" trong thế kỷ vừa qua.
- Vũ Quang Thuận:
Thằng đó nó khốn nạn lắm. Nó lừa dân mình. Dân mình ngu si không biết lại còn tung hô, dựng nó lên thành thánh.
- Phạm Hồng Sơn:
Theo tôi, hiện nay nếu muốn đất nước có tiến bộ, có dân chủ thực sự hay thậm chí là chỉ muốn chính quyền phải cương quyết hơn với sự đe dọa, xâm lấn từ Trung Quốc thì chúng ta rất không nên lấy “cụ Hồ” ra làm tấm gương, trừ khi chúng ta không có đủ thông tin hoặc chỉ muốn có tiến bộ giả dối, nửa vời và chỉ muốn chính quyền vẫn lệ thuộc Trung Quốc. Chỉ cần xem lại một chút lịch sử chúng ta sẽ thấy điều này rất rõ.
Lãnh tụ nào và chính thể nào đã đưa vòng lệ thuộc, cống triều phương Bắc trở lại Việt Nam gần 80 năm sau khi sự phụ thuộc đó đã bị hủy bỏ hoàn toàn kể từ Hiệp ước Patenôtre 1884? Còn lãnh tụ nào và chính quyền nào nếu không phải là chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắc những cây cầu “răng môi”, “núi liền núi sông liền sông” cho sự lệ thuộc, cống triều (kiểu mới) phương Bắc trở lại Việt Nam từ năm 1950?

...
Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tại miền Bắc Việt Nam), kiêm chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và là một chí hữu, một “người thầy vĩ đại” đương thời của Thủ tướng Phạm Văn Đồng...
Cái đau xót và đau buồn chính là việc những người bị trị, những người đang mất tự do, bị áp bức, những người không muốn đi theo cái ác lại vẫn quì lạy, sùng kính một con người đã đưa họ từ những xiềng xích thô kệch, rỉ sét sang những gông xiềng êm ả, tinh vi, bền chắc hơn, đã khai sinh ra một chế độ suy đồi mà họ đang ta thán, đã là một ông trùm của các thủ đoạn dân chủ giả hiệu vẫn được duy trì cho tới hôm nay, đã là một chuyên gia về các kỹ thuật mị dân lão luyện tới mức khiến cho cả một dân tộc đa phần vẫn cứ an tâm, ngáo ngác, trông đợi tự do trong gông cùm và thờ kính chính kẻ đã quàng vào họ bộ gông cùm mới.
 
Tôi không hề có dụng ý mượn lời của Vũ Quang Thuận và Phạm Hồng Sơn để chỉ trích nhà báo Lê Phú Khải. Tôi chào đời trước hai nhân vật này, và sinh sau tác giả của cuốn hồi ký Lời Ai Điếu. Giữa ba ông tôi chỉ (tình cờ) là một độc giả thuộc thế hệ bắc cầu nên thấy cần ghi lại quan điểm của cả ba để rộng đường dư luận!
Courage sometimes skips a generation. Lòng dũng cảm đôi khi bỏ qua cả một thế hệ.

NS.TUẤN KHANH * NGÀY CỦA CHA

Chuyện kể nhân ngày của Cha

Ảnh của tuankhanh

Tôi ghi lại câu chuyện có thật, với bản video dưới đây như một phút suy niệm dành cho những người Cha đang - hay sẽ - đối diện với con cái của mình, mỗi ngày, từ nay và đến về sau.
Câu chuyện diễn ra ở toà án tại Mỹ. Một ông bố ra toà vì tội đậu xe sai chỗ và có thể bị phạt đến 90$.
Bất ngờ, khi phiên toà bắt đầu, cậu bé 5 tuổi - con trai của bị cáo - đột nhiên leo xuống ghế và tiến đến gần chỗ bố cậu đang đứng. Những ai đang có mặt tại phiên toà đều buồn cười. Vị quan toà cũng vậy. Điều đáng yêu là ông đã mời cậu bé lên chỗ của ông để phỏng vấn về tình trạng phạm tội của bố cậu.
Khi vị quan toà hỏi cậu bé, tên là Jacob, rằng nếu cậu chọn lựa mức phạt nào, số tiền 90$ và 30$, hoặc miễn phạt cho bố cậu thì Jacob đã đáp nhanh là nên phạt mức 30$. Mọi người trong phòng xử án đều bật cười.
Vị quan toà với gương mặt phúc hậu cũng bật cười. Và ông hỏi rằng cậu có đồng ý không nếu ông phạt bố cậu bé số tiền 30$ nhưng là dùng số tiền đó đưa cậu đi ăn sáng, Jacob gật đầu. Câu chuyện kết ở đó, có hậu như một cổ tích ở đời thường.
Nhưng điều tôi muốn kể với các bạn ở đây, đó là thái độ của cậu bé về bố của cậu. Khác với những điều mà nền văn học hay giáo dục cũ mòn hay thích thêu dệt về bố hay mẹ của mình như siêu nhân hay tô vẽ như huyền thoại, cậu bé Jacob khi được hỏi bố cậu giỏi nhất là gì, cậu đã trả lời nhanh, không chút do dự rằng "dạ là nấu ăn".
Và ngay khi quan toà hỏi rằng lớn lên, cậu bé ước mình sẽ làm giỏi nhất điều gì, Jacob nói ngay - với sự tự hào thấy rõ về bố mình - rằng cậu cũng sẽ nấu ăn, nhất là pizza, vì bố cậu cũng vậy.
Cuộc sống thật lạ lùng và cảm động, bạn thấy không? Một người bố lương thiện dù chỉ là vô danh cũng có thể làm cho đứa con mình tự hào, trưởng thành và tự tin noi theo về cuộc đời lương thiện của mình mà không màng một ánh hào quang danh lợi xa xôi nào khác.
Tôi tạm gọi đó là cuộc sống tử tế, mà người cha đó đã đối diện với con mình mỗi ngày, rồi giản dị tạo nên một thế hệ tử tế nối tiếp. Bình thường mà cao đẹp đến cảm động.
Tôi viết những dòng này, và nhớ đến những công an viên đang hung ác bạo hành với người dân trong đất nước mình, Việt Nam. Những công an viên đã tàn bạo đạp gãy xương đùi ông Kình ở Đồng Tâm, những công an viên đã giết chết anh Nguyễn Hữu Tấn ở Vĩnh Long hay anh Ngô Chí Tâm ở Thủ Đức... trong những trại tạm giam ngột ngạt sự thật. Dù truyền thông nhà nước có bao biện hay che đậy thế nào, ai ai cũng hiểu điều gì đã xảy ra. Và quan trọng nhất là chính những thủ phạm đó đều biết rõ họ đã làm gì.
Chắc không ít người trong số công an viên đã là những người cha. Và chắc chắn từng người ấy rồi sẽ có một gia đình và những đứa con mà họ sẽ đối diện mỗi ngày.
Những đứa trẻ ấy sẽ noi theo cha mình điều gì? Dù có giáo dục tốt nhất, có cắt đứt quá khứ... nghiệp chướng vẫn bao vây họ, chồng chất bởi những oán hờn. Mà sự thật thì không bao giờ có thể che giấu mãi mãi.
Chắc không kẻ nào, dù hung ác, lại muốn con mình noi gương, trở thành sát nhân. Nơi những ngôi nhà tưởng chừng vững chắc với quyền thế hay địa vị, không hẳn các người cha ấy sẽ vui mừng khi con cái đối diện với mình, ngày nào đó tuyên bố rằng chúng thích giết người như cha mình. Những ngôi nhà lộng lẫy, được thời chưa chắc rồi đã hạnh phúc khi mầm ác được nuôi dưỡng im lặng, từ chính người Cha của mình.
Trong phần trò chuyện với Jacob, vị quan toà có nhắc về vua Solomon (vua của Israel cổ đại, mất năm 931 trước CN). Đó là một con người khôn ngoan khi luôn chọn một giải pháp trung dung hơn là tự đưa mình về cực của các vấn đề.
Con người, dù là quan toà, thường dân hay công an viên - nếu khôn ngoan - thì luôn phải có những chọn lựa trung dung để không biến mình thành kẻ cùng cực trong hành động hoặc trở thành công cụ điên cuồng vô tri trong tay kẻ khác. Vua Solomon khôn ngoan có để lại lời dạy như vậy cho hậu thế.
Tôi ngừng câu chuyện kể ở đây, hẹn các bạn trong một dịp khác. Xin chúc một ngày của Cha bình an và tốt lành đến mọi nơi. Chúc một ngày lành của Cha đến những gia đình biết chọn lựa và nhận ra tương lai cần phải có cho mình và con cái của mình, là gì.
tham khảo:
https://www.youtube.com/watch?v=ge3skKYegyc

SƠN TRUNG * NÔNG THÔN MIỀN BẮC TRONG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT


NÔNG THÔN MIỀN BẮC TRONG  CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT 
QUA TÁC PHẨM CỦA TÔ HOÀI VÀ TRẦN ĐƯC THẢO
 
Các tác phẩm viết về CCRD thì khá nhiều nhưng tôi thấy Tô Hoài và Trần Đưc Thảo nổi bật hơn cả. Các tác phẩm của Tô Hoài thường nói đến miền châu thổ sông Hồng. Tô Hoài cũng như Trần Đức Thảo đã được đi CCRD cho nên hai ông là chứng nhân lịch sử sáng giá. Trong Ba Người Khác, nhân vật chính là đội Bối. Tác giả xưng tôi nhưng tôi ở đây là đội Bối, Nguyễn Văn Bối, (Ch.IV), không phải Tô Hoài. Chi tiết nhỏ nhặt như vậy mà có nhà văn lầm lẫn, gọi Ba Người Khác  là "tự truyện".Cái tôi trong tiểu thuyết nhiều khi không phải là tôi mà là người khác, không phải tác giả.
Trần Đức Thảo và Tô Hoài   cho ta thấy quang cảnh miền Bắc, cuộc sống và con người thôn quê miền Bắc XHCN bằng những nét bút rất thực, rất sống động và điêu luyện.

I. MIỀN BẮC ĐÓI NGHÈO

Về thời tiết, miền Bắccó 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông nhưng về lương thực thì có hai mùa: muà no và mùa đói. Mùa no là mùa gạt hái,dù it dù nhiều trong nhà đã có cơm gạo.  Mùa đói là mủa giáp hạt, tưc là lúc nhà hết gạo nhưng lúa ngoài đồng chưa chín, nhà nhà phải đói khát.
Bình thường khi rảnh rang, nhất là khi xong vụ mùa, dân chúng già trẻ lớn bé thường ra đồng đào bới, đơm dó bắt ếch nhai, rắn về làm thịt. Họ cũng bắt tôm tép bỏ vào vại muối để làm nước chấm. Phần nhiều nằm đất dù là mùa đông. Họ lấy là chuối hoặc rơm là ổ mà nằm . Dân thôn quê có lúa it nhiều nhưng không có tiền. Được nải chuối, buồng cau, họ mang ra chợ bán để lấy tiền mua mắm muối.(BNK. Ch.I)
Nhà khá giả như nhà Tư Nhỡ "Trong nhà, đúng kiểu cách nếp nhà phong lưu đồng quê, phản gỗ mít, giường thờ hương án sơn then, đôi giải y môn màu hoa hiên đã úa." (BNK. Ch.I)
Trần Đưc Thảo khi mới về nươc , năm 1953, cũng bị điều đi dự CCRD ở   huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, cách tỉnh Phú Thọ không xa.  Ông đã đấu khẩu với các cố vấn Trung Cộng và suýt bị chúng giết. Tuyên Quang  là một tỉnh vùng núi nhưng cái nghèo đói cũng giống các tỉnh đồng bằng.

 Dân ở đây thua thớt, đất ruộng ở đây thuộc loại xấu và rất phân tán vì phần lớn các gia đình nông dân chỉ có một vài mẫu cho tới vài sào, sản xuất một lượng thóc gạo đủ ăn cho chín hay mười tháng. Khi giáp hạt thì dân thường phải ăn độn. Thế nên gia đình nào có vài mẫu ruộng đủ ăn thì cũng bị xếp vào thành phần phú nông. Hơn nữa, vùng này có nhiều rừng rậm, giao thông thô sơ, ruộng lúa chen lấn quanh núi rừng, rất khó làm, cầy cấy rất vất vả.(Tri Vũ. Ch.V)

Nông dân ở đây cũng giống nông dân đồng bằng.Các chủ gia đình nghèo ấy khi có người thuê mướn thì đi làm nửa buổi, khi thì làm cả ngày… làm bất cứ việc gì: từ dọn cỏ, cuốc đất cho tới quét nhà, dọn vườn, đào mương, móc cống… nghĩa là đủ thứ làm việc vặt trong nhà. Những ngày không ai thuê mướn, thì cả vợ chồng, con cái phải đi mò cua, bắt ốc, nhặt củi, hái những thứ rau cỏ hoang, bắt cào cào, châu chấu… miễn sao có thể nấu lên, nướng lên mà ăn để sống qua ngày. Vì thế khi được đoàn cải cách về ở chung, họ mừng lắm. Bởi đoàn cải cách có gạo và góp tiền nhờ họ nấu cơm để cùng ăn.
(Tri Vũ. Ch,V)

Khi giáp hạt, ai cũng gầy gò. Các cô Duyên, Đơm ốm lòi xương làm cho anh đội Bối như bị dao đâm mặc dầu cái đói không làm giảm khí thế tiến công của các cô!
Tháng ba ngày tám dần dần lắm nhà thiếu quá. Mấy xã trên, nhiều cốt cán rạc người, thiểu sức, có mấy nơi người chết lăn ra ở những cuộc đấu địa chủ suốt đêm. Hàng ngày quen mắt, nhưng tôi cũng hốc hác, nhìn lại thôn này cũng đói vêu vao cả rồi. Tôi để ý cái xương bánh chè hai bên hông Duyên trồi lên thật, mỗi khi ấy Duyên cứ phải co bụng lại cho tôi đỡ đau. Những người như cái xác lướt qua trước mặt, chân tay phù mọng vàng nhợt, đến chỗ họp người ta ngồi xúm lại từng bọn phảng phất chập chờn như những cái bóng. Có ai vừa nói vừa khóc: biết còn sống được mà đấu tranh, mà trông thấy hạt lúa không.( Ch.II)
Duyên nói tỉnh khô: “Anh mà ngủ với em khi ngày mùa ấy à, như nằm đệm bông. Bây giờ thiếu ăn hóp cả người thì em phải giũ, chứ cái bánh xương chè của em mà đâm lên thì anh gãy mạng sườn mất”. Đói mà còn khoẻ thế.(BNK. Ch.3A)
 Tôi cho người xuống thôn Đìa quảy thêm mấy gánh dây rau muống. Các mảnh ruộng cao quanh chân tre đất rắn như sỏi được cuốc ngay lên trồng rau muống vườn. Lại gây dây mồng tơi, chỗ nào cũng cấy rau sam, rau dền cơm, dền đất, mặt ao thì thả rau rệu - những rau cỏ ấy chỉ nửa tháng đã ăn được, người ăn như con dê nhai lá.( BNK.Ch.II)

II. CẢI CÁCH RUỘNG ĐÂT 

1. SỰ GIAN DỐI CỦA CỘNG SẢN

 Cộng sản chuyên dối gạt nhân dân. Bất cứ việc gì họ cũng nói láo, làm đại.

 (1). TRẠI ĐẠI ĐỒNG

Đội Cải Cách của Huỳnh Cự và Nguyễn Văn Đình đã  lừa bịp dân chúng.  Nguyễ Văn Đình đã bày ra trại Đại Đồng, một hình thưc Công xã nhân dân của Mao, nhưng cũng như Công Xã của Mao, trại Đại Đồng cũng thất bại.
 Đình đã nghĩ được ra cái trại đại đồng cho mọi người vào ở tập trung qui củ, trật tự sản xuất...[..]. Năm dãy nhà dài một trăm thước, bên trong một loạt hai dãy giường nứa cho một trăm người. Nhà của phụ nữ riêng bên kia đồi cũng to rộng thế. Chỉ đánh một tiếng kẻng điều khiển được cả nghìn con người. Kẻng dậy, kẻng thể dục và hát, kẻng cơm, kẻng họp, kẻng đi sản xuất, kẻng về, kẻng ngủ... Ai nấy răm rắp, miếng cơm manh áo như nhau, không có ganh tỵ vì không ai hơn ai. Ngày chủ nhật, kẻng đi chợ, tối kẻng lửa trại vui nhộn. Buổi sáng buổi tối, cả trại ra đứng ngoài sân hô: khoẻ vì nước, kiến thiết quốc gia, quyết tâm lên thế giới đại đồng...”(BNK. Ch.II)
Kết cuộc sốt rét ngã nươc đã đốn sập trại Đại Đồng.Dù không có sốt rét, Mao Trạch Đông đã phủi tay vì chịu không thấu tiền bạc, thuốc men. Lập một trại tù vô cùng dễ nhưng lập trại Đại Đồng thì vô cùng khó!Nếu lập trại Đại Đồng thì cũng chỉ biểu diễn vài ngày thôi. Khi tôm tép, cua cá  đã vào đầy lờ,  lọp, nò... thì người ta mang cá tôm về, chứ chẳng cần ở lại nữa!

(2).LUÁ THẦN KỲ

Đám Huỳnh Cự bày ra trò lúa Thần Kỳ để bịp nhân dân. Họ tuyên truyền rằng lúa Thần Kỳ lấy từ Manila do tình báo VC trộm được đem về.(Lại khoe tài ăn trộm)! Lúa ba trăng ba tháng ăn được. Lúa thần kỳ thần kỳ hơn nữa, chỉ một tháng là chắc ăn! Đến khi lúa trỗ trẻ con mới trèo lên chơi được. Bón thúc bốn góc ngay, chỉ mười lăm ngày lên đòng. Khi đội ta rút sẽ để lại kỷ niệm và kinh nghiệm ruộng lúa thần kỳ cho làng nước làm theo, từ nay ấm no đời đời. Đã thấy quan trọng, giỏi chưa?(BNK. Ch.II)
 Lúa thần kỳ mà cách trồng trọt cũng thần kỳ. "Cắm liền dảnh! Cắm liền dảnh!". có khi cả ba bốn dảnh một khóm, khoảnh ruộng dần dần xanh kín như khung bèo tổ ong. Từ trên lưng đê, vang vang tiếng ốc, tiếng trống ếch, tiếng reo, tiếng hô khẩu hiệu. Lạ sao, những người cả đời lênh đênh với đồng ruộng thế mà trước miếng ruộng vừa cắm cây mạ lại reo sướng như chưa trông thấy ở đâu như thế bao giờ. Có lẽ người ta tưởng sắp có phép tiên, cái khung mạ kia chỉ chốc lát sẽ bồng lên, lá lúa nở ra, lên đòng...(BNK  Ch.III)

Nhưng kết cuộc bi thảm. Lúa chết trước mắt Huỳnh Cự và nhân dân. Tuyên truyền hóa ra phản tuyên truyền:"
Đội trưởng chau cặp mày lông nhím, cúi xuống, lay một khóm lúa. Hình như cây lúa chỉ đợi tay người đụng, cả khóm lúa ật ra ngả vạ. Rễ đã thối mủn đến bẹn cây. Bực mình, Cự ngẩng lên rút cái bảng "lúa thần kỳ" quăng vèo vào giữa mặt lúa đã đỏ xuộm như rơm sắp cháy.
Tôi ngạc nhiên, vờ:
“Ô hay, hôm qua còn xanh mởn mà.”
Tôi nhổ khóm nữa. Khóm nào rễ cũng nát ruỗng. Mấy tay dân quân quạt suốt đêm còn ngái ngủ, mở mắt trông thấy đội trưởng, lại ra sức co chân đạp thốc cho những cánh quạt phất liên liến. Đến lúc đội trưởng ném cái bảng chỏng gọng vào ruộng, thì tất cả buông chân khỏi cái chòng lọng thừng, ngửa cổ cười khơ khớ. Các bọn này ngửi mùi lúa thối từ lâu, thế mà vẫn ra công quạt, quạt,..."(BNK. Ch.II)
 Huỳnh Cự đổ trách nhiệm cho Bối nhưng Huỳnh Cự lại bảo nhỏ với Bối:" “Nói thế chứ, tôi cũng nói cho đồng chí biết, các xã cả huyện này đều thất bại lúa thần kỳ hết, không phải chỉ có ở đây. Đồng chí biết chưa?”(BNK.Ch.II)

2. SỰ TÀN ÁC CỦA CỘNG SẢN

 (1). Thuế
Mục đich cướp mồ hôi nước mắt của dân. mục đích là bóc lột nông dân tận  xương tủy, cộng sản tẳng diện tich và sản lưoợng để bắt dân đóng thuế. Chúng chẳng cần đo đạc, đường lối của họ là lợi dụng nhân dân, dùng mấy tay Cộng sản xung quanh để chơi trò ba lá. Họ lợi dụng nhân dân trong thuế má, và trong đấu tố. 
 
" Rồi cán bộ trịnh trọng phổ biến mức thuế của xã cho xóm: vụ này tạm thu năm tấn. Cán bộ xoè hai bàn tay làm loa nói to kêu gọi mọi người thi đua đóng thuế. Hai tổ trưởng nông hội ngủ từ lúc nào, có người đằng sau đẩy vào đít, bật dậy, ú ớ giơ tay: tôi thi đua - Tôi, tôi nữa - Đề nghị cho tổ tôi... Lại một người kêu to: đồng ý, đồng ý. Ai cũng hô theo: đồng ý.....Vùng này đương vào vụ giáp hạt, bữa nào cũng cơm lẫn cám, với rau lang, rau muống khô trộn muối. Thế mà lại kêu gọi sản xuất, trong khi cây mạ vàng ỏng mới cắm xuống ruộng, chưa biết thế nào. Lại còn sắp sẵn thuế tạm thu, bổ đầu từng xóm. (BNK.  Ch.2B)
(2). Nâng sản lượng 
" Đi tham quan về, tôi làm báo cáo và kế hoạch. Trên nhận xét con số chỉ tiêu còn thấp còn bảo thủ. Vừa đi tham quan nơi tiên tiến nhất, không thể xoàng thế. Tôi nâng 4 triệu lên 6 triệu tấn gẩn gấp ba. Ra hội nghị, nống lên nữa, thành 7 triệu ở các cuộc họp xóm, xã, tổ sản xuất, tôi đã dự lắm cuộc thi đua đặt mức. Cũng như các cuộc họp anh Nhơn kể lại, làm ăn còn trông vào ngày mưa ngày nắng mà đâu cũng thế, cứ sôi nổi nhận văng mạng thật cao, càng cao, ở xã, rồi lên huyện, lên tỉnh lại đun lên. Thả sức ganh nhau, rồi chẳng làm được cũng thôi. Bỏ vì được hạt thóc còn “trông trời, trông đất,
trông mây” cứ ước thế vầy, mất gì.”(BNK. Ch.IV)
(3). Toà án 
Ngày xưa, ở huyện mới có nhà giam, trong CCRD, thôn xã  đã có nhà giam.
Nhà tù của liên đoàn uỷ đoàn phúc tra là lô cốt và trại giam ở phủ lỵ thời Pháp. Dây bìm bám rêu trùm lên lù lù tựa quả đồi xanh om, bên trong là các xà lim, các buồng giam lỗi lõm như hang hốc núi đá, dân quân các xã ngày đêm đổi phiên canh gác vòng trong và bên ngoài. Người bị bắt càng đông - cái nhà cũ không đủ chỗ chứa, phải làm thêm đẵn tre để nguyên cả gióng chôn liền thành bức tường dài rộng đến hơn hai trăm thước chia thành ngăn, mái lộ thiên chống hốc. Trông giống cái chuông trâu. Các đoàn cải cách, đoàn phúc tra, đoàn chỉnh đốn tổ chức đều có nơi giam người tương tự. Có câu hù doạ “phải ngồi chuồng trâu là toi đời”, là những trại tạm giam này"(BNK.Ch.IIB)
Vì chủ trương mạo nhận nhân dân, Tòa án cũng là do cộng sản đóng vai chánh án và công tố viện. Cũng không cần chứng cứ, cứ theo ý kiến nhân dân mà xử. Mà nhân dân chính là mấy tên cộng sản giật dây đàng sau.
Cộng sản tỏ ra nghiêm minh khi kết án cán bộ cải cách. Thật ra đó là trò may rủi của Việt Cộng vì tên nào mà chẳng tham ô, hủ hóa nhưng một vài tên bị hy sinh vì tội lỗi quá rõ!
Đó là vụ xử cán bộ Bổn.

Trong đợt 4, đồng chí Bổn đã phạm lỗi nghiêm trọng: vì hủ hoá mà phải đổi đi 4 xóm, đến xóm nào cũng lại hủ hoá ở xóm đó, hủ hoá với vợ bộ đội, vợ tử sĩ và chòng ghẹo cả bà già trên 50 tuổi. Điên cuồng hơn nữa, ngay trong đại hội nông dân, đồng chí Bổn đã công nhiên cắn vào vú, vào mặt một chị chuỗi tích cực. Tổng cộng trong đợt 4, đồng chí Bổn đã thông dâm với 8 người và có hoạt động chòng ghẹo nhiều người khác. Tác hại là cả 4 xóm ấy đều lạc hậu, rễ chuỗi bị hỏng, mất tác dụng, đồng chí Bổn bị kỷ luật cảnh cáo toàn đoàn.
Mức kỷ luật đó chứng tỏ chính sách khoan hồng mở đường cho người sai phạm tự giác giáo dục, nhưng sang đợt 5 mới triển khai mà đồng chí Bổn đã tái phạm khuyết điểm với mức độ trầm trọng hơn trước nữa.[...]. Học tập bản kỷ luật đồng chí Bổn, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng không để cho những tư tưởng xấu tấn công..."( BNK.Ch.II)
 Và đó cũng là vụ xử cán bộ Nguyễn Văn Đình. Cán bộ Đình khác cán bộ Bốn. Cán bộ Đình bị đảng xử lý theo đường lối của Trung Cộng tiêu diệt tư sản, đánh phá tổ chức cũ. Việt Cộng theo lệnh Trung Cộng sa thải, giam cầm và giết hại các cán bộ và vu cho họ tội Quốc dân đảng, tay sai đế quốc chui vào đảng phá hoại tổ chức. Họ theo Trung Cộng đối xử tàn nhẫn với nạn nhân, họ đưa ra xử với chững bằng chứng vu vơ.
Nơi giam Đình ở cũi phái ngoài lô cốt. Không một lỗ cửa sổ, trên mái trống hốc mà như tối mù. Nhiều người đã bị nhốt trước ở đấy, bùn cứt thối khẳn lõng bõng ngập mắt cá chân. Đình phải trói đứng suốt ngày. Đêm ngủ lả đầu xuống, lưng cong như con tôm, hai tay vẫn treo lên cái vấu tre. Lúc lúc lại quờ quạng dật dờ ngọ ngoạy. Đình vẫn chưa hết cơn choáng váng bởi không hiểu thế nào.[...]
Họ bắt trói Đình,tra tấn Đình, không cho ăn uống. Họ kết tội Đình làm trại Đại Đồng theo lệnh Quốc dân đảng (Đại Đồng là hai chữ ĐĐ viết tắt). Họ bắt Đình nhận tội giết 56 người. Đình không nhận, bị họ lấy " gộc tre xù xì đạp bốp vào mồm Đình con đương há hốc. Ba chiếc răng cửa Đình văng ra như những hòn cuội, máu tuôn lênh láng. Đình lăn ra thở sằng sặc. Những đầu mấu tre giáng xuống như giã giò, thình thịch, vun vút, bất kể vào đầu, vào lưng. Đình trợn ngược mắt, nhuôi ra. Chiếc gây chọc vào lưng, lay đi lay lại. Rồi gậy lại chan chát xuống, như thử biết người còn sống không. Hai bàn tay Đình ruỗi như búng con quay rồi duỗn thẳng không nhúc nhích."
Họ kết án tử hình Đình,  " án xử ngay tại chỗ". May thay cho Đình cũng như cho rất nhiều người lúc đó, cán bộ ở trên về  ra lệnh đình hoãn các vụ xử bắn (BNK. Ch.II).
 Họ vu khống những người yêu nước mà ngu dại đi theo cộng sản. Sau này Hoàng Tùng bảo là âm mưu Trung quốc hại ta! Biết thế sao Hoàng Tùng vẫn theo Hồ Chí Minh và Trung Cộng? Hay đó là Hoàng Tùng đổ thừa cho Trung Quốc mà chạy tội cho Hồ Chí Minh?

Họ làm cạn tàu ráo máng. Chi bộ xã này, một địa chủ cường hào gian ác đội lốt huyện uỷ viên về thành lập lúc bị tạm chiếm. Ngay khi ấy đã chi bộ hai mang, bí thư hai mang. Khi đội về, chi bộ có 47 đảng viên, đoàn uỷ cho ta thanh lọc đã duyệt đuổi ra 37 địa chủ, mật thám, quốc dân đảng và các thành phần linh tinh, thế mà thế lực chúng vẫn còn uy hiếp nặng nề. Tôi đã lên đoàn đề nghị xử bắn bí thư.( Ch.II)
Một xóm nhỏ mà có   Hai địa, hai phú, mười trung, mười sáu bần, tám cố, 2 công thương, 1 kéo vó không có thành phần. Cho trung nông là phúc bảy mươi đời, muốn lên địa phú hả? Ai muốn lên thì đội cho lên. Thoải mái.”(BNK. Ch.III)

-Xử địa chủ (Ch.IIB)
Theo sắc lệnh CCRĐ, Việt Nam có những thành phần giai cấp như sau:
A, B, C : địa chủ
D, E, F : phú nông
G, H, I, J: trung nông cứng
K, L, M, N: trung nông vừa
O, P, Q, R: trung nông yếu
S, T, U, V: bần nông
X, Y, Z: cố nông

 Họ quy định tài sản các giai cấp:
-Trung nông cứng: Những trung nông có một con bò, một con heo và một đàn gà.
-Trung nông vừa: Những trung nông có một con heo và một đàn gà.
-Trung nông yếu: Những trung nông chỉ có một đàn gà hoặc không có gì hết  
Về địa chủ săc lệnh quy định:Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.  Nhưng không thấy có tài liệu nào quy định tài sản bao nhiều để ghép vào thành phần địa chủ. Đây là vùng "oanh kích tự do", Việt Cộng mặc sức kết tội nhân dân.
Cái danh hiệu "địa chủ kháng chiến" đã bị thủ tiêu khi họ giết bà Nguyễn Thị Năm, cụ Cử Cáp ở Thái Nguyên. Và trung nông, bần nông  cũng bị đôn lên ngang với địa chủ gian ác!

Ở thôn Chuôm,  Địa chủ cường hào gian ác Đoàn Văn Thìn có: ruộng 5 mẫu, 1 nhà ngói năm gian, 1 nhà gỗ ba gian, 1 trâu, một nghé, 10 chum, 15 vại, 4 giường, 2 phản, 1 yến gạo, 2 yến thóc, 7 cái nồi năm, nồi tám, nồi mười, mâm đồng 2 chiếc, mâm gỗ 8 chiếc…(BNK. Ch.IIIA)
 Nhìn chung, ai ở nhà ngói, có ruộng vài  mẫu ta là địa chủ.

Nhằm hạ thấp tác họa của Cải Cách, Việt Cộng chỉ nêu lên một số xã và nói mỗi xã chỉ có vài địa chủ. Wikipedia ghi Tổng cộng có năm đợt cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 3.314 xã.

 Sư thật mỗi xã có năm, mười thôn hay làng và đây là đơn vị chính yếu. Như một thôn nhỏ ở thôn Am, đã có   hơn ba mươi địa chủ. Người bị khảo đả mà sách Hán Nôm cũng bị họa lây trong chính sách khanh nho phần thư.

"Hơn ba mươi gia đình nhà địa ngồi một phía đen ngòm bãi như quạ đậu. Các nhà phú nông đại diện được đến tham quan thì ngồi hàng ngoài. Người suốt chín thôn cơm nắm cơm đùm từ tinh mơ kéo đến bạt ngàn trong tiếng chiêng, trống, tù và inh ỏi. Đã đốt hết dưới thôn rồi thế mà trên xã không biết còn khiêng ở đâu ra những cái tủ đựng sách báo chữ Nho chữ ta chất cao như cây rơm, mồi lửa đã châm đốt cháy rừng rực như những cây đình liệu.(BNK. Ch.III)

Tô Hoài kể về cuộc đấu tố quá sơ sài so với Trần Đưc Thảo:
Sau một tuần lễ chuẩn bị, một phiên toà cải cách ruộng đất đã được tổ chức trước sân gạch lớn của đình làng.
Dọc hai bên sân đình có treo la liệt biểu ngữ lên án bọn trí, phú địa hào là tàn dư phong kiến, thực dân, là kẻ thù của giai cấp công nông, là kẻ phá hoại xã hội, là kẻ muốn nối giáo cho giặc…
Khoảng hai giờ trưa hôm ấy, trời nắng chói chang. Từ cả tiếng đồng hồ trước, dân chúng đã được điều động tới ngồi xổm trên nền gạch trước sân đình. Ông già, bà già, người lớn trẻ con, bồng bế nhau đi coi xử tội địa chủ! Đám đông nói cười ồn ào, trẻ con khóc inh ỏi.
Nhưng rồi từ ngoài, một cán bộ dẫn tải một toán “thanh niên và nhi đồng cải cách”, sắp xếp cho toán ấy ngồi trước mặt quần chung và bắt đầu công tác văn hoá tuyên truyền để tạo không khí cách mạng, gồm có hô khẩu hiệu và ca hát. Cứ hô vài khẩu hiệu đả đảo tàn dư phong kiến thực dân xong, lại vỗ tay làm nhịp hát một bài. Lối hát cũng đặc biệt vì thực ra đây là một bài vè ngắn đã thuộc lòng, rồi đọc lên cho có vần, có điệu theo nhịp vỗ tay, cứ y như cùng nhau niệm kinh theo nhịp mõ trong chùa. Hỏi ra mời biết đây là kiểu hát dân dã của sắc tộc miền núi bên Trung Quốc, gọi là “sơn ca”, nội dung bài hát cũng là theo phong cách “đấu tố ca” bên Trung Quốc. Thảo thấy hay nên cũng lắng tai nghe. Nghe mấy đợt rồi cũng thuộc lòng một bài, rồi cũng vỗ tay ba nhịp để hát từng câu.
Hát rằng:
Nước chảy dưới dòng sông
Ai múc lên thì uống,
Cũng như là đất ruộng
Ai có công thì hưởng bốn mùa
Mấy câu ca trên đây
Của nông dân Trung Quốc
Anh em ơi, hãy học lấy cho thuộc!
Để vung tay phát động đấu tranh!
Nhưng nay vì quốc gia, vì “đảng”
Vì bước trường kỳ cách mạng
Nên ta còn cho chúng hưởng phần tô
Nếu chúng còn gian dối mưu mô
Thì quyết liệt
Anh em ơi! Đấu mãi!
Đám đông hét xong, một cán bộ tuyên truyền hô lớn: “Đả đảo địa chủ, con đẻ phong kỉén, thực dân!”
Quần chúng cách mạng cũng hưởng ứng hô tiếp:
- Đả đảol Đả đảo! Đả đảo!
- Đả đảo cường hào, ác bá con đẻ phong kiến, thực dân!
- Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!
Rồi lại hát. Rồi lại hô khẩu hiệu. Cứ như vậy khoảng hơn nửa giờ thì ngưng đề bắt đầu “phiên toà án cải cách”.
Bàn chủ toạ đặt phía trong đình cũng đã bắt đầu đông đủ. Trên bãi sân trước bàn ngăn cách xa với đám đông bên ngoài là một cột cờ cao sáu thước, rồi tới hàng cọc tre. Ai cũng biết mấy cọc đó là dành cho những tên phán động sắp bị mạng ra đấu tố. Nhưng chính mấy cọc tre đó đã làm cho đám đông hỏi hộp muốn chờ xem những tội nhân bị mang ra đấu tố là ai, sẽ trừng trị như thế nào. Càng hiếu kỳ hơn nữa là ngay cạnh bên trái đình, là một mô đất nâu sẫm vì mới được đắp, là một hàng cọc tre khác với một tấm bảng ghi rõ “trường bắn”! Chưa bao giờ có một cuộc mít tinh đông tới cả nghìn người mà lại bao trùm bởi một bầu không khí hồi hộp sợ hãi đến như vậy. Nhiều trẻ em đứng bám chặt vào bố mẹ và khóc la đòi về, vì chúng cảm thấy ghê sợ quá. Chúng đã nghe người lớn nói người ta sắp bắn người trước mặt chúng! Cải nắng gay gắt càng làm thêm ngột ngạt khó thở.
Bỗng trống cái trong đình nổi lên ba tiếng: Thùng! Thùng! Thùng!
Bên ngoài, có tiếng quát liên tiếp:
- Tránh ra! Tránh ra! Tránh ra!
Đám đông tụ tập ngồi trước đình bị sáu dân quân tự vệ cầm súng trường có gắn lưỡi lê dẹp qua hai bên để mở một đường cho đoàn cán bộ, đội viên đội cải cách vào đình. Chỉ có năm đội viên cải cách được vào ngồi trước bàn nhìn xuống hàng cọc tre ở bên trái, và xa hơn là dân chúng. Số cán bộ đi phát động thì được mời ngồi ở hàng ghế phía sau. Một trong những cán bộ ngồi đầu bàn bên trái, có vẻ là người nắm công việc tổ chức, lớn tiếng ra lệnh cho một dân quân:
- Nổi trống lên để làm lễ khai mạc.
Ba hồi trống rền vang dậy báo hiệu phiên toà án cải cách ruộng đất sắp bắt đầu. Cán bộ ngồi giữa đứng dậy quật lớn: “Tất cả im lặng!”, nhưng bên dưới dân chúng vẫn ồn ào, chen lấn nhau, đám thiếu nhi mặc đồng phục nâu, đầu đội mũ chào mào đứng phía trước cười nói lao xao nên lại có tiếng quát lớn liên tiếp:
- Xin đồng bào giữ trật tự! Tất cả im lặng! Các cháu thiếu nhi thôi đừng nói chuyện nữa! Chuẩn bị làm lễ chào cờ! Xin đồng bào đứng dậy làm lễ chào cờ![...]. Đám đông lao xao ngồi trên guốc, dép, số còn lại thì ngồi xổm hoặc ngồi bệt xuống sân gạch. Cán bộ cải cách ngồi chính; giữa trước bàn đứng dậy tuyên bố khai mạc phiên xử sáu tên ác ôn phản động gồm năm tên đều là địa chủ, phú nông. Còn một tên là lý trưởng cũ.
Bỗng có tiếng khóc lóc. Rồi từ bên ngoài hai dân quân dẫn sáu người bị trói hai tay quặt ra sau lưng. Cả sáu bị buộc thành một chuỗi bằng những khúc dây thừng to vòng quanh cổ, người nọ tiếp nối người kia, cách nhau khoảng hai thước. Dân quân đi đầu đeo súng trên vai tay cầm đoạn dây thừng kéo chuỗi sáu người bị mang ra đấu tố, dần quân thứ nhì cẩm súng đi bên cạnh. Tội nhân mặc quần ảo xốc xếch, có vét bùn và vết máu, có kẻ vừa đi vừa khóc lóc. Trong số đó có một bà cụ tuổi ngoài sáu chục, khi đi ngang qua đám đông thì gào khóc thật to tiếng:
- Con ơi là con ơi! Con ở đâu thì về cứu mẹ với con ơi!
Dân quân đi cạnh bước tới dùng báng súng đánh ngang vào bụng bà giả và quát:
- Con mụ già này có câm mồm đi không? Câm ngay đi!
Bà cụ bị báng súng phang mạnh vào bụng, ngã chúi xuống kéo hai người đi trước và sau cùng ngã ra, làm tất cả chuỗi người chùng lại suýt cùng ngã theo. Hai dân quân vội nắm cổ lôi họ đứng dậy một cách vất vả. Đám nhi đồng thấy vậy cười khúc khích. Cán bộ chủ toạ đứng đậy quát lớn:
- Các cháu nhi đồng không được cười đùa![..]. Bây giờ toà bắt đầu xét xử tên phản động đầu tiên là Nguyễn Văn Minh, y đã làm lý trưởng từ mười hai năm nay, tên cường hào này là đày tớ của phong kiến và thực dân, đã nhiều lần ép buộc dân làng đi phu khổ sai, để đắp đường, đào kinh, lên rừng chặt cây nộp để làm đường xe lửa, chính tên lý trưởng này đã đốc thúc nhân dân phải nộp đủ các thứ thuế, từ thuế thân, thuế gạo, thuế muối… cũng chính tên này đã đánh đập những người cùng khổ vì không đủ sức lao động khổ sai, nghèo túng không nộp đủ thuế… Vậy nay ai đã từng bị tên lý trưởng Nguyễn Văn Minh này hành hạ, bóc lột thì cứ xung phong đứng ra làm chứng để hạch tội tên phản động này để toà căn cứ vào đó mà xét xử.
Từ nãy, có một toán thanh niên gồm mười hai người, tuổi độ trong khoảng từ trên hai mươi tới ba mươi, đứng ở hàng đầu của đám đông, bên trái, ngay cạnh đám nhi đồng, toán này luôn luôn hô hoán mạnh nhất. Khi được hỏi có ai muốn là nhân chúng hạch tội thì; cả toán đồng thanh, giơ tay đáp:
- Tôi!
- Tôi!
- Tôi!
Chủ toạ ra lệnh:
- Mời nhân chứng số một!
Một người trong toán ồn ào ấy bước tới trước bàn định nói, nhưng cán bộ chủ toạ đưa tay ra lệnh:
- Nhân chúng ra gần chỗ tên lý trưởng để hạch tội!
Khi tới đứng ngay trước người lý trưởng bị trói và quỳ ở cột đầu phía trái, nhân chứng vỗ vào ngực để trần và nói lớn:
- Mày có biết tao là ai không? Tao là Nguyễn Văn Đê, hai mươi bảy tuổi, chuyên làm mướn y như bố tao và ông nội tao. Vì vậy, tao là bần cố nông từ ba đời nay. Thế nên tao biết rất rõ tung tích của mày, là tên lý trưởng Nguyễn Văn Minh. Vì bố mày trước cũng làm lý trưởng và cả ông nội mày cũng vậy. Cả bố mày, ông nội mày và mày đều đã được phong kiến ban thưởng hàm cửu phẩm, vì có công thay mặt thực dân, phong kiến, để đốc thúc dân đi phu, đốc thúc dân đóng các thứ thuế, và chính mày mới đây thôi, đã dùng roi mây đánh đập tao đến chảy máu lưng, mang thương tích còn đên bây giờ vì tội không thu mua đủ số lượng cây gai để mày giao nộp cho quân Nhật!
Sau khi vạch lưng ra để lộ mấy đám sẹo mờ mờ, nhưng rõ ràng không phải là vết của roi mây, Đề tiến tới vung tay đấm mạnh vào mồm lý trưởng, miệng nói:
- Mày đã đánh, đã chửi tao, đã hà hiếp bao nhiêu đồng bào khác, mày nhớ không?
Thấy nắm tay vung tới gần miệng, lý trưởng vội né đầu xuống tránh nhưng nắm đấm đánh trúng vào phía mắt phải, làm bật máu chảy ròng ròng ướt cả một bên mặt.
Cán bộ chủ toạ thấy vậy, giật mình, can:
- Nhân chứng không được gây thương tích cho bị cáo. Thôi hạch tội thế đủ rõ rồi. Bây giờ đến lượt nhân chứng thứ nhì.
Một người khác, cũng trong nhóm nhân chứng, bước tới trước lý trưởng, kể các tội thật mơ hồ và lung tung:
- Mày có thói đánh người khi say rượu. Mày đã ép người ta phải bán mấy sảo ruộng thuộc loại tốt cho mày, rồi ép phải bán cả con trâu khỏe nhất cho mày, rồi mày vu cáo người ta nấu rượu lậu, để mày phạt tịch thu tài sản, khiến bao người sạch nghiệp vì mày, rồi phải đi làm thuê, mò cua, mót lúa mà nuôi gia đình… Tội của mày kể ra không thể hết! Mày có nhận tội không?
Bi cáo cúi đầu im lặng.
..................

Hai nhân chứng chót lả phụ nữ, nói xoe xoé kể tội:
- Mày có nhà gạch lớn như dinh nhà quan với vườn rộng mênh, mông, nuôi tới ba con chó Tây để trông nhà, có đời sống xa hoa sang trọng mà không nghĩ tới bao gia đình cùng khổ sống ở chung quanh! Mày nuôi hai đày tớ với lương rẻ mạt… Người nghèo đói đến xin ăn thì mày xua chó đuổi đi, có khi chó xổng ra cắn người qua đường đến bị thương nặng, mày có nhận tội không?
Trái với năm tội nhân đàn ông, bà già này cãi lại chứ không nhận tội:
- Nhà tôi rộng vì con tôi ở Hà Nội gửi tiền về xây cho chứ tôi không bóc lột ai! Tôi sống ăn chay, tụng kinh niệm Phật chứ không sống xa hoa! Tôi nuôi chó giữ nhà vì đã bị kẻ trộm vào nhà nhiều lần. Ngày rằm, mùng mặt, tôi đi chùa vẫn bố thí cho người nghèo. Năm đói Ất Dậu, chính tôi lo nấu cháo cứu người trong làng. Mỗi khi làng có việc, tôi quyên góp, tôi là người xung phong ủng hộ nhiều nhất. Khi cách mạng về, tôi đã ủng hộ tiền mua súng cho đội dân quân của làng! Cả đời tôi không bóc lột ai, con tôi hiện đi bộ đội đang đánh Pháp ngoài chiến trường…
- Mày nói láo! Mày không bóc lột ai, nhưng con mày ở Hà Nội có cày sâu, cuốc bẫm đâu mà có của cải nhiều thế? Của cải ấy không do bóc lột thì nó trên trời rơi xuống à? Câm mồm đi con đĩ già ngoan cố!
Nhân chứng vừa chửi vừa tiến lại vả mạnh vào mặt bà già! Bà cụ đau quá, càng gào khóc, gọi con cầu cứu:
- Con ơi là con ơi là con ơi! Nó đánh mẹ con ơi! Con về cứu mẹ với con ơi!
Người dân quân đứng đàng sau tiến tới lấy báng súng bổ vào lưng bà già quát:
- Câm mồm ngay. Còn khóc lóc nữa là tao nhét giẻ vào mồm đấy!
Bà già sợ hãi; khỏe nhỏ hẳn đi nhưng miệng vẫn rên rỉ:
- Con ơi là con ơi…!
Lần đầu tiên trong đời, Thảo được chứng kiến một “phiên toà” đánh đập thô bạo đến mức khủng khiếp như vậy. Đây là một trò hề công lý, chứ có luật lệ gì đâu!
Bằng chứng tội lỗi toàn là do bần cố nông kể miệng như vu oan, chứ không do một văn bản điều tra nào. Không một điều luật nào được nêu ra làm căn bản để buộc tội. Bởi có ai biết gì, hiểu gì về công việc xét xử của một toà án bao giờ đâu! Thế nên đầu óc Thảo bị căng thẳng, tim đập mạnh, thân thể run lên vì xúc động, hỏi một cán bộ địa phương đúng cạnh:
- Tại sao bà cụ ấy cứ réo gọi con như vậy?
- Nghe nói mụ già này có con đi bộ đội trong “Trung đoàn thủ đô”, từ hồi rời bỏ Hà Nội, ra bưng kháng chiến, nay hình như làm tới trung uỷ!
...................

- Bây giờ đồng bào có quyền góp ý quyết định án phạt trừng trị các tội phạm.
Đám nhân chứng bên dưới đồng thanh hô to:
- Xử tử! Xử tử! Xử tử!
- Thế còn tài sản của chúng nó?
- Tịch thu! Tịch thu! Tịch thu!
- Đấy là mồ hôi, nước mắt của nhân dân, phải trả lại nhân dân!
Bỗng từ ngoài, một cán bộ đứng tuổi có vẻ quan trọng, hông đeo sắc-cốt và súng lục chạy vào sát cán bộ chủ toạ, ghé tai nói điều gì. Rôi hai người thì thầm bàn luận với nhau có vẻ sôi nổi khá lâu. Cuối cùng cán bộ chủ toạ đứng dậy lớn tiếng nói:
- Nay toà long trọng tuyên án: tử hình đối với các tội nhân: Nguyễn Văn Minh, Trần Văn Lễ, Nguyễn Sắc, Trần Văn Bắc, Đỗ Đỉnh Lang và Vũ Thị Thanh! Tịch thu tài sản của chúng để chia lại cho nhân dân trong xã.
Đám nhân chứng và nhi đồng vui mừng vỗ tay và hét to:
- Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!
Có lẽ hai tiếng “tử hình” đã làm cho phần lớn đám đông sợ hãi nên họ im lặng
May thay, cán bộ ở trên về kịp thời nên các vụ xử tử được đình chỉ. (Tri Vũ.Ch.VI)

 Trần Đưc Thảo  cho ta thấy vụ xử đó được xử lại sau khi bị cố vấn Trung cộng phê bình..
 Toà án khai mạc vào lúc 8 giờ tối, mát mẻ hơn. Cách huy động dân chúng tới chứng kiến phỉẽn toà cũng rất đặc biệt: mỗi phường khóm giờ đây phải tập trung dân lại thành đội ngũ chỉnh tề, có người đi đầu cầm cờ, có nhi đồng đánh trống dẫn đầu, mỗi người phải mang theo, một bó đuốc làm bằng thứ nhựa cây có thể cháy lâu. Lúc đi đường, mỗi đoàn cho đốt một bó đuốc đủ để soi đường, số đuốc còn lại dành cho lúc xử án, tuyên án… Trong đêm lờ mờ ánh írăng, những đoàn người vừa đi vừa hô khẩu hiệu đả đảo phong kiến, đả đảo thực dân, đả đảo địa chủ, đả đảo cường hào, đả đảo bọn phản động… vang dậy núi rừng..........Phiên toà lần này diễn ra nghiêm trang và áp đào hơn phiên trước: sáu tội nhân bị trói quỳ vào hàng cột tre trên một mô đất cao cho mọi người thấy rõ, dưới ánh lửa bập bùng của những đống củi lớn, lửa cháy rừng rực. Phía dân chúng cũng được kiểm soát và chọn lọc kỹ hơn: không còn có trẻ con quá nhỏ, không còn hát mà chỉ hô khẩu hiệu, không còn cảnh ồn ào nói chuyện lung tung. Một hàng sáu dân quân cầm súng trường đứng canh, mặt hướng về đám đông. Không một ai dám cười nói gây mất trật tự. Phần hạch tội cũng dữ dội hơn số nhân chứng đứng ra kể khổ, kể tội cũng đông hơn. Mỗi nhân chứng đều thuộc bài và tỏ ra hung hãn hơn: vừa kể vừa làm những cử chỉ xỉa xói: lấy ngón tay dí vào trán tội nhân, thỉnh thoảng lại tát mạnh vào mặt tội nhân để bày tỏ sự phẫn nộ. Nữ tội nhân già giờ đây chỉ còn thút thít khóc lóc, nhưng vẫn là tiếng kêu cứu rên rỉ nhỏ: “Con ơi là con ơi…!”

............

- Lý tnrởng Nguyễn Văn Minh; địa chủ Trần Văn Lễ, phú nông Nguyễn Sắc, phú nông Trần Văn Bắc, địa chủ Đỗ Đinh Lang, nhà giàu Vũ Thị Thanh. Sau khi đã được xét xử, với sự tham dự hạch tội của nhân chứng nhân dân, những tội lỗi cụ thể đã được kể ra, nay toà quyết định với sự đồng ý của đông đảo đồng bảo có mặt, toà ra phán quyết tịch thu tài sản của các tội nhân và tuyên án từ hình tất cả sáu tội nhân có tên nêu trên. Án này được thi hành ngay tại chỗ. Chánh ản ký tên: Khuất Tiến Thắng.

Tiếng loa ra lệnh:

- Tất cả chú ý! Tất cả lùi xa khỏi pháp trường mười mét…. Tất cả! Nghiêm! Yêu cầu đội hành quyết tiến vào pháp trường!

Đám đông hồi hộp, im lặng, chỉ còn nghe tiếng đếm bước đều của đội hành quyết, súng trên vai, tiến vào… “Một, hai! Một, hai!… Ngưng… bước! Súng … xuống! Nghỉ! Tất cả … nghiêm! Tay phải… quay! Tất cả vào vị trí…! Tất cả sẵn sàng chờ lệnh bắn!”.

Một dân quân tay cầm một xấp khăn vải đen tiến lên mô đất, lận lượt buộc khăn vải đen quanh đầu để che mắt mỗi tội nhân. Cảm thấy giờ hành quyết đã tới, sáu tội nhân, đầu bị thắt khăn đen che kín mắt, bỗng tất cả lên tiếng cầu kinh.

- Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, cứu khổ cứu nạn…

- Nam mô A Di Đà Phật…!

- Kính mừng María đầy ơn phước… cầu cho chúng con trong giờ lâm tử…

- Con ơi là con ơi… thế là mẹ chết không được gặp lại con rồi… Con ơi…

Toán dần quân rời xa mồ đất. Chỉ còn tiếng cầu kinh chen lẫn tiếng gào khóc! Trưởng đội hành quyết nhìn về phía cán bộ chủ toạ chờ lệnh! Thời gian như ngưng lại. Đám đông im bặt vì hồi hộp. Bỗng cán bộ chủ toạ gật đầu! Trưởng đội hành quyết chậm rãi hô:

- Tất cả… Vào thế… Tất cả Bắn!

- Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng!…

Loạt súng nổ vang dội trong đêm như rung chuyển núi rừng. Đám đông, người thì vội nhắm mắt lại không dám coi tiếp cảnh khủng khiếp, người thì cố trấn tĩnh, mở mắt thật to để thấy rõ các tội nhân bị trúng đạn, quằn quại, vật vã một hồi, máu văng ra tung tóe, rồi mới gục xuống dưới chân cột. Riêng nữ tội nhân, dù đầu đã được bịt mắt bằng vải đen, nhưng vì đạn trúng đầu nên vỡ ra mất một mảng, trông thật ghê rợn. Trưởng đội hành quyết bước lên mô đất, súng lục cầm tay, tới sát từng tử thi để quan sát với vẻ thiện nghệ và bồi vào mỗi đầu một phát “ân huệ” chát chúa, theo đúng thủ tục đã được huấn luyện từ trước!

Bỗng bên dưới đám đông, lao xao có tiếng ồn ào kêu cầu cứu liên tiếp của nhiều người:

- Báo cáo có một bà cụ bị ngất xỉu! Báo cáo có người bị ngất! Báo cáo…

Dù đã chuẩn bị sẵn đầu óc để bình tĩnh chờ đợi một cảnh xử bắn chắc chắn là rất hãi hùng, nhưng khi loạt súng nổ liên tiếp, dưới ánh lửa bập bùng của mấy đống củi lớn, cả sáu cơ thể quằn quại, trong vũng máu… thì bỗng thân xác Thảo run lên lập cập vì xúc động, như một cơn sốt rét mãn tính bất ngờ ập tới, mồi lạnh toát ra từ trán tới chân, nước mắt tuôn trào, hàm răng run lập cập. Một ý nghĩ hối hận bùng lóe trong đầu: “Chính ta đang là một đồng loã của cái hành động tàn bạo, phản công lý này! Thảo ơi! có thể nào mày cũng câm lặng trước một chính, sách cực kỳ thô bạo đến thế? Im lặng đứng nhìn tội ác thế này thì mày có còn là mày nữa không hở Thảo ơi!” (Tri Vũ. VI)
Theo Wikipedia,
- tỉnh Thái Bình có 286 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 267 xã
-tỉnh Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 24 huyện, chia thành 573 xã, 34 phường và 28 thị trấn,
nhưng báo cáo cộng sản  cho biết con số các xã đã thực thi CCRĐ:
-Thái bình có 294 xã
-Thanh Hóa có 207 xã (Wikipedia)
Như vậy họ đã giảm thiểu con số các xã bị CCRD tàn phá.
Vũ Thư Hiên bênh vực cộng sản thế mà ông bảo ông tỉnh ngộ Hồ Chí Minh!. Ông viết trong "Đêm Giữa Ban Ngày": “Người ta thường nói tới con số 15 ngàn người. Tôi nghỉ con số hơn thổi phồng. Nếu tính tổng số xã đã cải cách ruộng đất là khoảng 3000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị xử bắn (những xã có số người bị bắn lên tới 3 hoặc 4 rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người bị chết ( kể cả trong chỉnh đốn tổ chức, tính cả người bị bức tử ) nằm trong khoảng 4000 đến 5000 người”. (DGBN. 457)
Vũ Thư Hiên tỏ ra gian ngoan hơn Cộng sản chuyên nghề giấu diếm và bợ đỡ công sản hơn là nói sự thật. Không biết Vũ Thư Hiên nghĩ sao khi tài liệu VC nói Tổng số người bị quy trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172.008 người; số người bị oan sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66% (Wikipedia)
Việt Cộng nói 172.008 người có lẽ thực tế gấp 5 hay 10 lần, có lẽ 500 ngàn hay 1 triệu địa chủ, cộng vợ con họ con số nạn nhân khốn khổ lên từ hai triệu đến 5 triệu. Theo tài liệuVC, trung bình mỗi xã có 55 địa chủ, ,xã lớn 10 thôn, mỗi thôn 6 địa chủ, xã nhỏ 5 thôn, mỗi thôn khoảng  15 địa chủ.
Ngoài ra còn có cán bộ, đảng viên bị từng bị chỉnh đốn là 84000 người, chiếm tỷ lệ hơn 55%. Có những chi bộ tốt bị coi là chi bộ phản động, bí thư hoặc chi ủy viên chịu hình phạt nặng. Tình hình chỉnh đốn ở cấp huyện và cấp tỉnh cũng hỗn loạn. Số cán bộ lãnh đạo các cấp này bị xử lý oan sai cũng chiếm tỷ lệ lớn. Hà Tĩnh là tỉnh cá biệt, có 19 cán bộ tỉnh ủy viên, công an, huyện đội dự chỉnh đốn đều bị xử lý (Wikipedia)
Việc quy định thầnh phần rất là tùy tiện  Đưa phú lên địa thì dễ thôi, một lúc cả chục thằng cũng có (BNK. Ch.II)
Trung Cộng đề ra chỉ tiêu triệt hạ 5% dân chúng và kết tội họ là địa chủ. Đây là cuộc tắm máu  nhằm khủng bố nhân dân, không phải đấu tranh giai cấp vì bần nông cũng bị đôn lên làm địa chủ!  Có nơi hăng hái vượt chỉ tiêu lên đến ngoài 7%  Thế mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ lọt lưới, đến bước ba đưa tỷ lệ từ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ về chính trị cũng như về kinh tế.( BNK. Ch.III)
Ngoài việc đấu tố, Việt Cộng tổ chưc CCRD với màu sắc khủng bồ và bạo lực. Họ lập các đội du kich, các  cô gái thôn quê trở thành lực lượng quân sự trong CCRD , cô nào cũng mang súng oai vệ vô cùng. Phụ nữ nông thôn thường bịt khăn mỏ quạ, nay  họ theo  cán bộ mà bỏ khăn mỏ quạ. Vẫn yếm thắm, áo vá quàng, quần vá đụp.  Họ cũng  trở thành lực lương nhân dân đi sâu đi sát với đội cải cách. Đội cải cách luôn luôn nhìn sự vật với màu sắc huyết đọng, luôn nhìn thấy bốn phía là kẻ thù. Mẹ Đơm va đầu vào cối đá mà chết, Hùynh Cự cho là phản động giết, y cũng nhận định là do  Vách đâm. Các việc khác đều do Huỳnh Cự tưởng tượng và kết luận là do phản động, là Quốc dân đảng, là địch trong Nam ra đánh phá! Nói chung là bọn họ tạo ra những báo cáo láo để khich động quần chúng và  lấy điểm về công lao của bọn họ!
 3. PHẢN ỨNG CỦA NHÂN DÂN
Cộng sản tàn ác, lưu manh nhưng nhân dân ta cũng có những chiêu thức đối trị.  
 

(1). Thịt trâu bò 
Các xóm ngả trâu nhiều lắm, giết hết. Sợ bị lên địa chủ mà.(Ch.III)
 (2). Dâm
Người nông thôn rất dâm."Duyên cất súng trong xó, lôi ngay tôi xuống đất. Đàn bà đàn ông ở đây ăn nằm, đùa cợt với nhau như gà, chỗ nào lúc nào cũng được (Ch.II)
(3). Lợi dụng
Người nông thôn một số tinh khôn, họ cũng biết trò "thả con tép, bắt con tôm" . Họ mở cửa nhưng cũng  có biện pháp che chắn.

Thật tháng sau em lấy chồng hả?”
“Có thật thì người ta mới cho tha hồ, chứ không để mà chửa hoang với ai. Mai kia, thằng con đầu em đặt tên nó là thằng Bối.”(Ch.II)
Họ kể công và đòi đến bù:
"Anh đội tính cho tôi thế nào? Công tôi to chứ, phải không?"
Tôi ậm ừ.
“Được rồi.”
“Ối, anh đã bảo được đấy nhé. Làm giấy cam đoan đi rồi cho tôi làm trưởng thôn, phế thằng tư Nhỡ đi. Tôi sẽ vạch cho đội lôi ra hàng đàn địa chủ. Cứ tính đứa nào có ruộng thì ghi tên nó là thằng địa, nhiều ít mặc kệ, có ruộng có đất chẳng là thằng địa thì là con hùm ăn thịt người à, có phải không anh đội?”(Ch.I)

 (4). Giành quả thực
Cộng sản bày ra trò quả thực gợi lòng tham của dân nghèo. Cuộc chia phần, sự giành giật, việc cướp đoạt là đương nhiên vào lúc loạn ly và đạo lý  là đấu tranh bất kể nhân nghĩa, liêm sỉ.

Tịch thu, trưng thu, trưng mua để đống rồi chia. Ngoài kia trẻ con đánh trống, rong cờ, tôi càng rối cả ruột. Các nhà địa chủ đứng ngồi rúm vào một xó, mấy người còn đến xỉa xói kể tội. Một lát, người ta đi lùng khắp nhà, lấy vôi vạch sẵn đánh dấu cái tủ, cái chum “những đồ này của nhà tôi, tôi đánh dấu sẵn kẻo mang đi đâu nữa thì lẫn mất”. Người gánh, người khiêng, ai cũng gầy đói hom hem, nhợt nhạt, mới chỉ đem lên cho tập trung tạm, chẳng biết còn đưa đi đâu nữa mà đã ham hố như đương khuân về nhà mình.

Một ba lão nhặt được trong đống đồ đạc và quần áo bề bộn một cái cối đồng giã trầu, lấy ra nghiền xong một miệng trầu bỏm bẻm nhai, như còn trâu già đêm đêm trong chuồng trệu trạo nhai lại. Rồi lại xăm xăm đi. Bà lão nay khôn vặt cứ la liếm nhặt những cái yếm, cái thắt lưng, cái ống đũa, chẳng ai để ý.........

Trước tôi còn ở bên Am, tôi đã tổ chức gác nhà thằng Vách để đợi lệnh đoan uỷ cho bắt, nhưng đội trưởng Cự lại về thôn ấy lại cho nó làm chuỗi. Lúc ấy không biết thằng Vách ở đâu chui lên vừa nhớn nhác vừa hung hăng. Vách mặc cái áo nâu bạc, đồng cái khố đuôi lươn, đít hóp lại, hai đầu gối nhô ra như hai hòn cuội, tay cầm chiếc đòn xóc chốc chốc lại hoa lên múa. Trong bộ râu quai nón, phùn phụt ra những tiếng hét: hoan hô… hoan hô… Có người hỏi: Đi mít tinh mà lại đóng khố à? - Ấy, ra đây kiếm cái quần địa chủ để mặc, phải cởi truồng sẵn cho đỡ vướng.....
Vách chạy trong đám, vẫn múa cái đòn xóc, la to: “Cha mẹ để của cho cũng sướng đến thế này thôi, giời đất ơi!” Cái khố đuôi lươn tháp thoáng rồi lẩn mất. (BNK.Ch.III)

Thật ra trò quả thực chỉ là mánh khoé nhỏ.  Cái mồi nhử lớn là chia ruộng đất cho bần nông. Nông dân khao khát mảnh ruộng, con trâu nên chạy theo Cộng sản rầm rầm. Cộng sản bãi bỏ tư hữu thì làm sao phân phát ruộng đất cho nông dân. Đó chỉ là trò dụ khị. Vài tháng, Việt Cộng thu ruộng đất bắt dân vào HTX.

(5).Không  ra mặt chống đối
Nông dân rất tinh khôn. Họ biết thuật rắng cứng thì gẫy, lưỡi mềm thì còn. Họ cũng biết " nhu thắng cương" . Họ biết họ là cỏ phải cúi rạp khi dông bão để tồn tại. Quaqn nhất thời, dân vạn đại. Chỉ khuất một lúc rồi sẽ trở lại tư thế hiên ngang. Bởi vậy mà không ra mặt chống đối. Họ không ngu đâu. Họ biết hết nhưng làm ra vẻ ngu dại đúng như cổ nhân nói:""đại trí nhược ngu"!
Tôi nhổ khóm nữa. Khóm nào rễ cũng nát ruỗng. Mấy tay dân quân quạt suốt đêm còn ngái ngủ, mở mắt trông thấy đội trưởng, lại ra sức co chân đạp thốc cho những cánh quạt phất liên liến. Đến lúc đội trưởng ném cái bảng chỏng gọng vào ruộng, thì tất cả buông chân khỏi cái chòng lọng thừng, ngửa cổ cười khơ khớ. Các bọn này ngửi mùi lúa thối từ lâu, thế mà vẫn ra công quạt, quạt,...Cối ghé tai tôi:“Em biết là thất bại từ lúc chưa làm. Nhưng anh bảo thì em phải vâng thôi.”(BNK.  Ch.II)

Trần Đưc Thảo  ghi nhận ý kiến nhân dân vềCCRD:
- Đồng chí là nhân dân, mà nhân dân cũng có quyền phê phán, góp ý với cách mạng và nhà nước chứ!
- Quyền gì thì quyền, chứ quyền bảo cách mạng làm sai thì sẽ bị quy chụp lên đầu cái tội phản cách mạng ngay! Rồi sẽ bị thẳng tay trừng trị! Chẳng ai dám lãnh cái quyền ấy! Dân chỉ có quyền tuân lệnh cho yên thân thôi! Đồng chí có giỏi thì lãnh cái quyền dám phê phán làm thế là sai, là ác ấy đi!
- Thể đồng chí không thấy nhân dân xã này căm thù mấy tên ác ôn đó sao?
- Trong đám ấy, có lẽ chỉ có tên lý trưởng là ác ôn thôi, còn thì đều là oan cả. Tôi biết họ đều là dân hiền lành. Tội của họ là có chút của ăn, của để hơn lũ chúng tôi thôi. Mà họ sống và làm ăn cũng vất vả lắm!
~ Nói vậy là đồng chí không căm thù bọn chúng à?
- Cả sáu người ấy thì tôi thỉnh thoảng cũng tới làm mướn cho họ, nên tôi biết họ không hề ở ác với tôi. Con tôi ốm đau, tôi vẫn tới họ để xin thuốc men, khi quá đói thì xin chút gạo hẩm nuôi lợn của họ về nấu cháo mà ăn, vì kiếm không ra thứ gì ăn được. Như vậy mà bắt tôi phải căm thù họ thì thật là khổ cho tôi. Ở cái xã này, trước đây vẫn sống yên vui giúp đỡ nhau. Ra đường gặp nhau vẫn chào, vẫn hỏi thăm nhau. Chỉ có từ ít lâu nay nổi lên phong trào học tập đấu tranh giai cấp, thì mới gây căng thẳng, gặp nhau thì trânh né, không còn ai dám nhìn mặt nhau, không chào mà cũng không muốn nói chuyện với nhau nữa. Bây giờ thì mọi người nghi kị, nhìn nhau như kẻ thù giai cấp. Cái nhìn đã trở thành soi mới, gây hấn, nên khó sống với nhau. Bây giờ có lúc tôi muốn tìm việc làm, nhưng họ không còn dám thuê mướn tôi làm nữa. Vì sợ mang tiếng là bóc lột. Khổ thế đấy. Bây giờ họ khổ nhưng chúng tôi cũng khổ hơn chứ có sung sướng gì đâu!(Tri Vũ .VI)
CCRD chỉ là mồi nhử của Cộng sản mà mục đich chính của họ là bắt nhân dân, nhất là nông dân trở thành nô lệ cho chủ nhân cộng sản. CCRD cũng là cách VC cung hiến vàng bạc, mâm thau, chậu đồng cho Trung Cộng.CCRD cũng lộ ra bộ mặt nô lệ của Hồ Chí Minh và Việt cộng mặc dù họ Hồ bô bô cái miệng" Không gì quý hơn độc lập,tự do". Chúng ta đã biết Hồ Chí Minh đã sang Mạc Tư Khoa gặp Stalin và Mao nhân lệnh CCRD. Trận Điện Biên Phủ là chiến thắng của Trung Cộng, Việt Cộng chỉ là cha hờ của cái bào thai Điện Biên Phủ. Cậy công lao, Trung Cộng ngang nhiên vào miền Bắc. Họ chỉ huy CCRD. Ra Lệnh cho các cán bộ Việt Cộng và bọn này khúm núm cúi đầu tuân phục. Cố vấn Trung Cộng quát thét, mắng chửi bọn Việt Cộng :" Có thể nói là chúng ta đã không thành công! Tôi nhấn mạnh là chúng ta đã không thành công! Vì sao? Vì đã không quản lý được trật tự, đã để cho đồng bào nói chuyện, cười giỡn, rồi thì trẻ con la khóc, thật là vô tổ chức….[..].Khi giải tán ra về thì y như tan hội diễn văn nghệ, ai cũng vui vẻ cười nói ầm ĩ…[..].Ta phải xử sao cho có khí thế, để phát huy uy quyền của bạo lực cách mạng trong đầu mọi người. Ta phải chứng tỏ bạo lực cách mạng là dứt koát, không gì lay chuyển nổi.[...]. Rõ ràng là chúng ta chưa xử đúng mức .(Tri Vũ.Ch.VI)

CCRD đã đưa Việt Nam vào làm thuộc hạ Trung Cộng.CCRD chỉ làm cho các lớp cán bộ và nhân dân thù hận nhau về tội tố điêu. Chia ruộng đất, quả thực là những trò vô bổ nhưng vô cùng lợi hại vì con người vì tham lợi mà tố cáo nhau, giành giật nhau từ các bát mẻ, cái quần cũ và manh áo rách! Ngay cả hàng cán bộ Cải cách rồi cũng điêu linh.  Đến đó là Việt cộng đã thực hiện lời Marx tiêu diệt văn hóa dân tộc và khối đoàn kết dân tộc. Mọi người chia rẽ thì có lợi cho cộng sản.
CCRD đem đến tàn bại cho  Việt cộng vì trên hàng thượng tầng cán bộ đảng đã tan nát khi Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp , Hoàng Quốc Việt , Lê Văn Lương...bị gãy càng sứt cọng. Ngay trong truyện của Tô Hoài, bọn cán bộ cải cách như đội Bốn, đội Đình, đội Bối và Huỳnh Cự đều tan tác.(1) Toàn thể đoàn cải cách cũng bị thay thế bởi  đoàn sửa sai. Hận thù đằng đằng, tình làng nghĩa xóm tan nát. Con cái tố cha mẹ, vợ ly khai chồng thì còn gì luân lý đạo đức! Về kinh tế và xã hội, miền Bắc là một địa ngục tối tăm! Người nông dân khoẻ nhất mỗi ngày nhân 1k lúa  nhưng phải cuối năm mới được nhận, mà mỗi ký lúa chỉ được 2 lon gạo. Người nông dân ăn ngày ba bữa, mỗi bữa it   nhất  1 lon gạo, còn tiền mắm muối, thuốc men thì không có!
Nông dân thời trước nộp tô 50% còn thời cộng sản nộp thuế 73%  và phải trả bao thứ  khác nữa.  Trường Chinh cho biết lương công nhân, viên chưc chỉ ăn đủ 10 ngày!( Đèn Cù II, Ch.II) Vậy thiên đường của Marx ở đâu?

Tô Hoài là một nghệ sĩ, một cán bộ đi sâu đi sát với quần chúng nhân dân. Đội Bốn đã cùng ăn cùng nằm với các cô gái nông thôn, đã thò tay vào cái yếm của Đơm và vật nhau với Duyên, rất thật và rất gần đại chúng. Trần Đưc Thảo là một triết gia, bất cứ sự kiện gì xảy ra trước mắt đều làm ông suy nghĩ. Ông đi sâu vào tâm tư con người chứ không phải quan sát con người  bên trong y phục như đội Bổn, Huỳnh Cự, cán bộ Đình.

Trần Huy Liệu cho CCRD là sai lầm cơ bản về giai cấp địa chủ. Ông viết:
"Như vậy những quan điểm từ trước cho rằng toàn bộ giai cấp phong kiến địa chủ đã đầu hàng địch, đã câu kết với địch, phủ nhận quan điểm của xã hội Việt Nam, phủ nhận sự thật lịch sử, tôi thấy cần phải xét lại. Không cần phải nhắc lại những sai lầm trong Cải cách ruộng đất vừa qua không phân biệt địa chủ phong kiến với địa chủ khác, coi tất cả địa chủ là địch là máy móc… Chúng ta chỉ cần nhắc lại là: vì xã hội nước ta trước đây là xã hội thuộc địa và nửa phong kiến, nên nhiệm vụ cơ bản của cách mạng là chống đế quốc chủ nghĩa và quét sạch tàn tích phong kiến; nhưng đừng quên giữa hai mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa đế quốc xâm lược và mâu thuẫn nông dân với địa chủ phong kiến thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc vẫn là chủ yếu nhất. (Trần Chiến.
TRẦN HUY LIỆU – CÕI ĐỜI).
Chúng ta thành thực khen ngợi Trần Huy Liệu ngay thẳng, nhưng ông theo Cộng sản mà chẳng hiểu cộng sản. Đấu tranh giai cấp chỉ là cái cớ để cộng sản cướp chính quyền, cướp tài sản nhân dân. CCRĐ là cái cớ để cộng sản  tàn sát , bỏ tù nhân dân, khủng bố nhân dân, để rồi bắt dân làm nô lệ trong công trường, nông trường với đồng lương chỉ ăn đủ 10 ngày!CCRD chỉ là cái cớ để cộng sản giết dân, khủng bố dân chứ dân ta làm gì có 5%-7% địa chủ!
CCRD đã mở mắt cho Trần Đưc Thảo. Đây là dịp để ông trải nghiệm triết học Marx trong lý thuyết và thực hành.
 Cho tới nay, ta đã chẳng làm được việc gì ích quốc, lợi dân cho ra hồn. Ta về nước đâu có phải là để chạy theo đuôi cách mạng, để làm cái tên trí thức a dua như thế này! Thấm thoắt đã gần hai năm rồi. Chẳng biết sẽ còn nằm ở đây đếm thời gian đến bao lâu nữa! Nay là cứ sống cúi đầu, tuân lệnh dập theo một khuôn mẫu đã có sẵn, bất kể đúng sai, bất kể thiện ác, như thế thì còn gì là tư duy, còn gì là triết học! Như thế thì đến bao giờ mới xoá bỏ được giai cấp? Liệu bắn hết phản động ở nông thôn thì có xây dựng được con người mới xã hội chủ nghĩa hay không? Mà tất cả những gì đang làm kia có thật là để cải tạo xã hội, giải phỏng con người hay không? Rõ ràng những điều xảy ra trước mắt kia không thể nào đặt nền tảng cho một xã hội lý tưởng, một trật tự ổn định! Marx, Ẹngels không hề hô hào làm những điều xằng bậy, dã man như vậy!!(Tri Vũ.Ch.VI)
____

(1). Đoạn kết, Tô Hoài viết rằng Huỳnh Cự bị chiến sĩ đặc công Vó."Một trận đánh chớp nhoáng đột nhập vào cơ quan chiêu hồi của ngụy ở giữa Sài Gòn. Quyết Thắng đã rút dao chém đứt cổ Huỳnh Cự trong đám loạn quân tháo chạy. Lại còn xách được cái đầu Cự đem về làm bằng.(BNK. Ch.V).
Đỗ Hữu Long viết khác: " Huỳnh Cự hồi chánh taị Quảng Ngãi với cấp bậc trung tá.
Anh Huỳnh Cự cũng được Bộ Chiêu Hồi cử nhiệm chức vụ tham nghị đặc biệt kiêm nhiệm trưởng đoàn thuyết trình trung ương. Anh Huỳnh Cự tính tình bộc trực, cởi mở thường hướng dẫn các đoàn hồi chánh trình bày bộ mặt thật, gian xảo, tàn bạo, vô luân của chủ nghĩa Cộng Sản và đảng Cộng Sản từ các cơ quan taị Sài gòn đến các tỉnh, thị … Anh được thả năm 1990 và được cấp giấy xuất cảnh theo diện H.O.
Một buổi sáng đầu năm 1991, anh Huỳnh Cự và anh Mai Đình Tạo cựu trưởng Ty Chiêu Hồi Bình Dương gặp nhau taị một quán cà phê đường Hàng Xanh. Trong câu chuyện anh Tạo dặn dò anh Cự không nên nói nhiều, đợi đến Mỹ sẽ tính. Hai anh rời quán và vừa đặt chân xuống lòng đường, một chiếc xe jeep màu xanh lao vào và cán qua người anh Huỳnh Cự. Hai người trên xe ngoái cổ nhìn lại, lùi xe cho lăn bánh qua thi thể đang co giật thêm một lần nữa trước khi rồ máy đi thẳng.
Buôỉ sáng hôm đó, anh Tạo và dân chúng xung quanh chứng kiến cảnh Cộng Sản thủ tiêu anh Huỳnh Cự một cách ngang nhiên giữa thanh thiên bạch nhật
.( Đỗ Hữu Long.Những Người Trở Về Với Đại Gia Đình Dân Tộc. http://batkhuat.net/tl-nn-trove-daigiadinh-dantoc.htm

Saturday, June 24, 2017


TẠP CHÍ VĂN HÓA VIỆT NAM 474


 SƠN TRUNG  
Chủ biên
 
 Tác phẩm Ba cô gái đang tắm của Lê Phổ
s474 
Ngày  24 tháng 6 năm 2017



No comments:

Post a Comment