TÓM-LƯỢC
SỬ-LIỆU
BỨC-TỬ
VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
(trong
cuốn hồi-ký “Biến-Loạn
Miền Trung”
)
...
Trong lúc đó, ngay tại Thủ-Đô, trong cơn dầu
sôi lửa bỏng, những tay điệp-viên chiến-lược
của Cộng-Sản, từ lâu vẫn nấp dưới
lớp áo tu-hành, như các
Linh-Mục
Thanh Lãng,
Phan
Khắc Từ,
Trương
Bá Cần,
Chân Tín,
Nguyễn
Ngọc Lan,
Trần
Du, Nguyễn
Quang Lãm,
Trần
Ngọc Nhuận,
v.v… (cùng với Trần
Hữu Thanh
trong “Phong
Trào Chống Tham-Nhũng”),
cũng sách-động quần-chúng xuống đường
hằng ngày để gây thêm rối-loạn, hoang-mang trong
quần-chúng, và tạo sức ép đối với
Tổng-Thống Thiệu,
làm nản thêm lòng người Mỹ,
và tạo thêm lợi-thế về mặt chính-trị cho Bắc-Việt
xâm-lăng.
(trang
436)
Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng
Nói
đến “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”,
tưởng cần nhắc lại một số hoạt-động
nổi bật của giới Kitô-Giáo
trong và ngoài Việt-Nam
Cộng-Hòa.
Trong
thời-gian diễn ra Hội-Nghị Paris
(từ 1968 đến 1973), Giáo-Hoàng Phaolô
VI đã nhiều lần “nhân
đạo” kêu gọi chấm dứt
chiến-tranh Việt-Nam.
Tháng
12-1969, Giám-Mục Phạm
Ngọc Chi, Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng
Giám-Mục Việt-Nam, qua Hoa-Kỳ,
đã tuyên-bố với báo-chí Mỹ:
“Miền Nam [Việt-Nam] đồng-tình với chính-sách
‘Việt-Nam-Hóa Chiến-Tranh’
của Tổng-Thống Nixon.”
Tháng
9-1972, Đại-Hội lần 2 của tổ-chức “Kitô-Hữu
Quốc-Tế”
gồm hơn 20
nước
họp tại Quebec
(Canada),
với đề-tài giải-phóng các dân-tộc Việt―Lào―Campuchia,
đã “tố-cáo
các cuộc xâm-lăng và ném bom vô-nhân-đạo
của Mỹ, khẳng-định quyền tự-quyết,
tự-do được sống hòa-bình của nhân-dân
Việt-Nam.”
Tức
là việc
Mỹ chuẩn-bị rút lui
đã được Kitô-Giáo
Việt-Nam,
giáo-dân
mấy chục nước khác,
và nhất là Giáo-Hoàng
Phaolô VI
tán-đồng,
không còn
đánh nhau với Cộng-Sản nữa.
Ngày
20-9-1970, Linh-Mục
Phan
Khắc Từ,
Tuyên-Úy Thanh Lao Công Sài-Gòn,
qua Châu
Âu, đã
tuyên-bố tại Thành-Phố Firenze
(Ý,
nơi có Tòa
Thánh Vatican):
“Kinh-nghiệm trước mắt cho chúng tôi xác tín
rằng Giáo-Hội
[Kitô] tại
Việt-Nam hôm nay là một công-cụ hữu-hiệu
của người Mỹ.”
Tháng
3-1971, Linh-Mục
Nguyễn
Viết Khai
tuyên-bố: “Từ chính-quyền trung-ương xuống
cho tận anh Trưởng Ấp, người
Miền Nam không được phép giải-quyết
vấn-đề của mình mà không có người nước
ngoài xen vào.”
Tháng
11-1971, Linh-Mục
Trương
Bá Cần,
Tuyên-Úy Thanh Lao Công toàn-quốc, tham-gia vụ đình-công
tại Hãng Pin “Con
Ó”,
bị Cảnh-Sát bắt, đã viết: “Giáo
Hội của tôi không biết chọn, nhất là chọn
để chống lại những kẻ đang nắm
quyền-hành trong xã-hội này...
Giáo Hội của tôi cũng
đã biết lựa chọn, nhưng không biết lựa
chọn người nghèo khổ...”
Tức
là giới Kitô-Giáo
Việt-Nam
đồng-ý
với lời cáo-buộc và chiêu-bài của đối-phương.
Nhưng,
sau
Hiệp-Định Paris 27-1-1973
[chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam], thì Bắc-Việt
gia-tăng nỗ-lực và quyết-tâm tiến-chiếm
Miền Nam.
Ngày
19-9-1973, Tổng-Giám-Mục
Sài-Gòn Nguyễn
Văn Bình
đọc diễn-văn khai-mạc “Năm Thánh”:
“Chúng tôi hy vọng
rằng những cuộc giết chóc và
hận thù sẽ thực-sự chấm dứt trên
mảnh đất này và đồng thời có
được quan hệ hai chiều giữa Bắc và Nam,
trong lúc đất nước tạm thời còn phân chia.”
Ngày 10-1-1974, sau cuộc Hội-Nghị toàn-thể
hàng giáo-phẩm,
các Giám-Mục
Miền Nam
đã công-bố một bản tuyên-ngôn “tha
thiết kêu gọi hai chính phủ Bắc
và Nam cùng đồng loạt, vì tình thương dân
tộc, mà ngưng mọi hoạt động
gây chiến và mọi chiến dịch bôi nhọ và
thù ghét lẫn nhau.”
Tức
là giới Kitô-Giáo
Việt-Nam
[Cộng-Hòa] không
đề-cập đến việc Bắc-Việt
vi-phạm Hiệp-Ước,
mà chỉ
muốn Miền Nam
bắt tay làm hòa với Miền
Bắc―đối-nghịch
lập-trường “4 Không” của Tổng-Thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Giáo-Hội
Kitô-Giáo Việt-Nam
ở Sài-Gòn
ra “Thư
Chung”
phát-động cuộc tranh-đấu “chống tham nhũng”,
chống Tổng-Thống
Nguyễn Văn Thiệu. Họ đòi
Thiệu phải
từ-chức,
vận-động trưng-cầu dân-ý buộc
Thiệu phải
ra đi.
Lời
kêu gọi đó đã dấy lên
liền một “Phong-Trào” gọi là
“Chống Tham-Nhũng”.
*
“Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng”
do Linh-Mục
Trần
Hữu Thanh
cầm đầu, các
LM
Đinh
Bình Định
và Nguyễn
Học Hiệu
cùng Bác-Sĩ
Nguyễn
Thị Thanh
phụ-lực, qua
một bản “Tuyên
Ngôn”
được
sự bảo-trợ của 301
linh-mục khác, kể cả “Tuyên-Úy
Công Giáo”, ra mắt tại Giáo-Xứ
Tân Việt, Sài-Gòn,
từ năm 1973,
là
một
tập-hợp tương-đối lớn,
có nhiều
tín-đồ nhất,
và tại nhiều
địa-phương nhất―so
với Nhóm các
linh-mục cộng-sản nằm vùng và thân-Cộng
tại Sài-Gòn.
“Phong-Trào”
được sự tham-gia của các nhân-vật ngoài Kitô-Giáo,
như Thượng-Nghị-Sĩ Hoàng
Xuân Tửu
và Dân-Biểu
Nguyễn
Văn Kim
cùng nhiều
DB
thuộc Đảng
Đại-Việt
của Hà
Thúc Ký và
phía Dương
Văn Minh;
DB Đặng
Văn Tiếp
phía Nguyễn
Cao Kỳ;
DB Nguyễn
Văn Cử
chống Diệm
và phía Việt-Nam
Quốc-Dân-Đảng;
DB Vũ
Công Minh
phía Hòa-Hảo;
DB Đỗ
Sinh Tứ
phía quân-đội; Bác-Sĩ
Nguyễn
Tuấn Anh;
Luật-Sư
Đặng
Thị Tâm;
Nhân-Sĩ
Nguyễn
Trân; v.v...
Linh-Mục
Thanh
được báo-chí ngoại-quốc tặng cho
danh-hiệu “Hiệp
Sĩ của Người Nghèo”.
Sau
đó, “Phong-Trào”
công-bố các bản “Cáo
Trạng”
trong các
cuộc biểu-tình,
xuống
đường rầm-rộ
dữ-dội
và liên-tục
của các tín-đồ do các
linh-mục lãnh-đạo
có
khi có hàng
chục ngàn người
tham-dự tại Huế,
Đà-Nẵng,
Quy-Nhơn,
Nha-Trang,
Cam-Ranh,
Sài-Gòn,
Mỹ-Tho,
Cần-Thơ,
v.v...
Cuối
năm 1974, nhất là đầu năm
1975, những cuộc
biểu-tình chống-chính-phủ của nhóm Linh-Mục
Trần Hữu Thanh, có sự tham-gia
của một số chính-khách, lãnh-tụ đảng-phái,
cộng với việc Hội-Đồng
Giám-Mục Việt-Nam phổ-biến “Thư
Chung”, kêu-gọi các Nhà Thờ toàn-quốc
“chống tham nhũng”, thúc-đẩy giáo-dân
xuống đường rầm-rộ, liên-tục…
đã khiến
cho các binh-sĩ ngoài tiền-tuyến chán-nản, mất
tinh-thần, và ảnh-hưởng tai-hại đến
sự sống-còn của đất-nước.
Bên
cạnh “Phong-Trào” của LM
Trần Hữu Thanh, còn có các
Nhóm tay sai Cộng-Sãn và thân-Cộng, là các LM
Trương Bá Cần, Thanh
Lãng, Huỳnh Công Minh, Vương
Đình Bích, Hồ
Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh; Nhóm
“Đối Diện” của 11
linh-mục phản-chiến Nguyễn
Ngọc Lan, Chân Tín, Phan
Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai,
v.v... trong mấy tháng cuối-cùng, đã lợi-dụng các
buổi thuyết-giảng tại các Nhà Thờ để
công-khai tuyên-truyền cho “người
anh em bên kia”.
(Điển-hình
là Phan
Khắc Từ,
từ năm
1969 đã
đi dự đại-hội
Thanh Lao Công Thế-Giới
có xu-hướng thân-Cộng
được Mạc-Tư-Khoa
đỡ đầu, tại Liban.
Ở Pháp
thì đến hội-ý với Nguyễn
Thị Bình,
Trưởng
Phái-Đoàn thương-thuyết
của “Mặt
Trận Giải Phóng”;
tham-gia đình-công;
biểu-tình
đòi công-bằng cho giới lao-động; cùng sinh-viên
và công-nhân
đòi hòa-bình
cho Việt-Nam.
Sau này về nước thì dính vào Mặt
Trận Nhân-Dân Tranh-Thủ Hòa-Bình,
Phong
Trào Học-Sinh Sinh-Viên Đòi Quyền Sống,
Phong-Trào
Chống Tăng Học-Phí,
Chống
Độc-Diễn;
đóng vai “linh-mục
hốt rác”
gây sự chú ý của dư-luận; dùng
Nhà-Thờ Vườn Xoài
làm nơi chế-tạo bom xăng
cho phong-trào
đốt xe Mỹ trên
đường phố; cùng công-nhân đình-công để
gây
trở-ngại cho các cuộc hành-quân;
tiếp
tay CS dựng lên
Ủy-Ban
Bảo-Vệ Quyền-Lợi Lao-Động Miền Nam;
rồi
lại giả-danh
từ-thiện
hoạt-động trong tổ-chức
trá-hình của CS
là Mặt
Trận Nhân Dân Cứu Đói...)
Chủ-Tịch
Thượng-Nghị-Viện Trần
Văn Lắm lên án Tổng-Thống Thiệu
“lạm quyền, tham nhũng”.
Một
số lãnh-tụ
đảng-phái và tôn-giáo,
như Phan
Bá Cầm
(Hòa-Hảo),
Trần
Quang Vinh
(Cao-Đài),
Hà
Thế Ruyệt
(Duy-Dân),
Thượng-Tọa
Pháp-Tri
và các Ông Ngô-Văn-Ký,
Nguyễn
Văn Lục,
Xuân Tùng
(Việt-Nam
Quốc-Dân-Đảng)
thành-lập “Trận
Tuyến Nhân Dân Cách Mạng”,
kêu-gọi TT Nguyễn
Văn Thiệu
từ-chức và các phe liên-hệ “chấm
dứt chiến-tranh,
giải-quyết
vấn-đề Miền Nam bằng phương-thức hòa-bình”.
Nhóm
“Sóng Thần” thì
tổ-chức “Ngày Ký-Giả đi
Ăn Mày” rồi tiếp theo là “Ngày
Công-Lý và Báo-Chí Thọ-Nạn” vào tháng 10-1974.
Các
Tuyên-Úy Công-Giáo thì tổ-chức Đại-Hội
tại Thủ-Đô. Họ rao
giảng với giáo-dân quân-nhân
rằng “cộng-sản
cũng là con-cái của Chúa”,
rằng “Công-Giáo
và CS có thể sống chung hoà-bình”…
Bản
“Cáo
Trạng số 1”
được ghi là ký tại Huế
vào ngày
8-9-1974,
khi được tung ra tại Nhà
Thờ Tân-Sa-Châu,
Sài-Gòn,
có báo bảo là “làm
lung-lay ghế Tổng-Thống
Thiệu.”
Các
báo Time,
Newsweek;
các đài BBC,
VOA
đều loan tin.
Hậu-quả
là Quốc-Hội Mỹ
quá chán-ngán
Chiến-Tranh
Việt-Nam
và mệt-mỏi vì đã yểm-trợ một
đồng-minh có quá nhiều khuyết-điểm và
thối-nát.
Tức
là giới Kitô-Giáo Việt-Nam
đã tiếp tay cho Hoa-Kỳ
chấm dứt viện-trợ và phủi tay
đối với Việt-Nam Cộng-Hòa.
Việc
Mỹ
cắt-giảm
quân-viện đã làm tê-liệt hẳn khả-năng
chiến-đấu của Quân-Lực
VNCH,
và từ đó làm
suy-nhược tinh-thần kháng-cự,
yếu-tố quan-trọng nhất trong bất-kỳ
cuộc chiến-tranh nào.
*
Về
phần Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu
thì ông đích-thân
đi trực-tiếp cầu-cứu tại chính-quốc
Hoa-Kỳ,
nhưng đã không
được nghênh-đón long-trọng
tại Thủ-Đô
Hoa
Thịnh Đốn.
Năm 1968,
Johnson
(chủ-chiến,
Dân-Chủ)
chỉ
tiếp Thiệu tại thành-phố đảo
Honolunu,
và chỉ
để thảo-luận sách-lược hòa-đàm
với Cộng-Sản.
Năm 1969,
Nixon (chủ-hòa,
Cộng-Hòa)
cũng chỉ
tiếp Thiệu
tại
Đảo
Midway,
và cũng chỉ
để thỏa-thuận về chính-sách Việt-Nam-Hóa
và lịch-trình rút quân của
Mỹ.
Thiệu
lại đích-thân
đi trực-tiếp cầu-cứu với Giáo-Hội Kitô
La-Mã,
là một
trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của
thế-giới.
Tuy nhiên, Giáo-Hoàng
Paul VI,
trong cuộc
viếng-thăm lục-địa
Á-Châu
lần
đầu-tiên,
đã không
ghé đến Việt-Nam
là quốc-gia
đang bị Cộng-Sản đe-dọa,
nhất là Việt-Nam
có
tỷ-số giáo-dân đông thứ nhì tại lục-địa
này. Thiệu
đến Tòa
Thánh, nhưng
không
được Giáo-Hoàng tiếp-kiến―dù Thiệu
là một
Tổng-Thống,
một con
chiên―vì
lập-trường
của Vatican
về vấn-đề Chiến-Tranh Việt-Nam là chỉ
bênh-vực
Hà-Nội,
chỉ
muốn chấm dứt chiến-tranh
dù Miền
Nam có rơi
vào chế-độ Cộng-Sản sắt máu.
Đã thế, Giáo-Hoàng
còn chỉ-trích
Thiệu,
lại
còn tiếp-kiến cặp
Nguyễn
Thị Bình
và Xuân
Thủy,
trưởng phái-đoàn
Cộng-Sản tại Hòa-Hội
Paris.
Từ
năm 1968,
Giáo Hoàng Phaolồ
Đệ-Lục đã lập ra “Ngày
Quốc-Tế Hòa-Bình”, cổ-vũ Hòa-Bình
bằng thương-thuyết tại Việt-Nam. Vatican
xác-định lập-trường là
chấm dứt chiến-tranh, quan-hệ
tốt với Miền Bắc
và Chính-Phủ Lâm-Thời Miền
Nam. Chính Giáo-Hoàng trao-đổi công-điện
trực-tiếp với Hồ Chí Minh.
Vào
tháng 6-1971,
đang lúc tên gián-điệp
cộng-sản
Vũ
Ngọc Nhạ
(kẻ được Linh-Mục
Hoàng
Quỳnh
che-chở)
bị Việt-Nam
Cộng-Hòa
cầm
tù ở Côn-Đảo,
mà Tòa
Thánh và Giáo-Hoàng Phaolô
VI
lại tặng
Bằng Khen và Huy Chương
“Vì
Hòa Bình”
cho y.
Tức
là Giáo-Hoàng
Paul VI
đã biến Vatican
và nhiều
Giáo-Hội địa-phương
thành một
guồng máy chính-trị,
ngoại-giao,
tình-báo
khổng-lồ
để giúp
Hà-Nội
tiến chiếm Miền Nam.
*
Thế
mà Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu
cũng
vẫn chưa thấy
là Hoa-Kỳ
sắp
bỏ rơi
Việt-Nam,
không
thay-đổi đường-lối chính-trị,
vẫn cứ sử-dụng giải-pháp quân-sự,
và không tin là Hà-Nội
có đủ sức tấn-công đại-quy-mô.
Ông
sửa-đổi
Hiến-Pháp để làm Tổng-Thống thêm một
nhiệm-kỳ năm năm nữa,
khiến Đại-Tướng
Thủ-Tướng
Trần
Thiện Khiêm
phải ra
mặt chống-đối,
làm tình-hình
chính-trị trong nước càng rối-ren thêm.
Ðầu
tháng 2-1975, “Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng” phổ-biến tiếp
bản “Cáo-Trạng số 2”
tố-cáo TT Thiệu nhiều tội
và hô-hào lật đổ bằng vũ-lực,
khiến ông phải dùng biện-pháp mạnh, cho bắt
giam nhiều chính-khách, trí-thức, lãnh-tụ đảng-phái,
như các Thượng-Nghị-Sĩ Thái
Lăng Nghiêm, Phạm Nam Sách, Nguyễn
Văn Chức; các ông Hà Minh Lý,
Trần Thúc Linh, và một số ký-giả
trong đó có những nhân-vật nổi tiếng
chống-Cộng như Mặc Thu, Lê
Trần, Vũ Bằng, Đinh
Từ Thức, Trương Cam Vĩnh,
Ngô Đình Vận...
Để
đối-phó với “Phong-Trào”,
Thiệu
vận-dụng nhiều đồng-đạo
ủng-hộ mình.
Có
sáu
linh-mục,
trong đó có cả Linh-Mục
Hoàng
Quỳnh,
sáu đêm liền, thay phiên nhau lên đài truyền-hình bênh-vực
và ca-ngợi Thiệu;
ngoài ra, còn có các
Nghị-Quyết,
Quyết-Định,
Đề-Nghị,
có
chữ ký của 70 Dân-Biểu ủng-hộ
Thiệu.
Có
cả Giám-Mục
Lê Văn
Ấn,
đặc-trách Tuyên-Úy, Giám-Mục
Nguyễn
Văn Thuận,
Linh-Mục
Cao Văn
Luận,
đứng ra cãi
giùm cho Thiệu.
Tình-hình
gay-cấn đó, do “Phong
Trào Chống Tham-Nhũng”*
gây nên, đã
tạo ra thế
“nội
công, ngoại kích”,
quả là đã
phá rối hậu-phương,
làm lung-lạc
tinh-thần binh-sĩ nơi tiền-tuyến,
làm
lợi cho Cộng-Sản,
trong khi đó
thì Bắc-Việt xua quân tấn-công Miền Nam...
-------
*Năm
kia, nhà văn Nguyễn Văn Lục
có hỏi xin tôi tài-liệu về “Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng” của Linh-Mục
Trần Hữu Thanh;
nhân dịp, tôi đã giới-thiệu với anh nhà văn
Nguyễn Lý Tưởng,
cũng ở miền Nam
Bang California. USA.
(Thời-gian
1973-75
anh Tưởng
chưa nắm vững, nhưng đến năm 1989,
trong
nước Việt-Nam
Xã-Hội Chủ-Nghĩa, anh Tưởng
đã trực-tiếp hỏi chuyện Linh-Mục
Thanh
nên biết rõ-ràng hơn.)
Kết-Luận
Có
người cho rằng “Phật-Tử
Tranh-Đấu”, tức [số người
hậu-thuẫn cho] Phái Ấn-Quang
của Phật-Giáo Việt-Nam (về
sau là Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam
Thống-Nhất)
đã liên-tục chống-đối Chính-Quyền Việt-Nam
Cộng-Hòa, khiến cho Nền Đệ-Nhất
Cộng-Hòa sụp-đổ, rồi Nền Đệ-Nhị
Cộng-Hòa cũng suy-tàn theo.
Nhưng,
theo như tôi đã lược-dẫn trên,
thì:
“Phật-Tử
Tranh-Đấu” đã chấm
dứt hoạt-động từ ngày thành-lập Nền
Đệ-Nhị Cộng-Hòa, cuối năm 1967.
Mãi đến lâu sau Hiệp-Định
Paris 1973 mới tái-xuất-hiện
trong “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải
Dân-Tộc”.
Cả
phía “Lực-Lượng Hòa-Hợp
Hòa-Giải Dân-Tộc” bên
giới Phật-Tử, lẫn phía
“Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”
bên giới Giáo-Dân, đều
tranh-đấu chống Thiệu
để có được một
Tổng-Thống trong-sạch.
Tuy
nhiên, các điểm khác nhau là:
“Lực-Lượng
Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” chỉ
họp tại Chùa, sinh-hoạt
ôn-hòa, bất-bạo-động,
không đòi lật Thiệu,
chỉ chờ đến ngày
bầu-cử Tổng-Thống vào cuối năm 1975
sẽ sử-dụng lá phiếu
hợp-Hiến và hợp-Pháp của mình.
“Phong-Trào
Chống Tham Nhũng” thì
rầm-rộ xuống đường, biểu-tình
tuần-hành, đòi Thiệu
từ-chức, và hô-hào dùng
bạo-lực để lật đổ Thiệu
tức-thời.
“Phật-Tử
Tranh-Đấu” mít-tinh ôn-hòa
thì không xáo-trộn trật-tự công-cộng,
tiến-hành trong vòng luật-pháp cho phép,
và theo truyền-thống sinh-hoạt dân-chủ
tại các nước Tự-Do.
“Giáo
Dân Tranh Đấu” thì triệt-hạ
uy-tín và hiệu-năng quyền-lực của một
Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội đang đứng
trước họng súng của quân thù, lại còn
đòi dùng vũ-lực để
lật đổ một Tổng-Thống dân-cử,
tức là xóa bỏ Hiến-Pháp,
tức là trở thành nội-phản/nội-thù
của Quốc/Dân.
Phía
“Giáo-Dân Tranh Đấu” thì
đòi trừng-phạt một cá-nhân
tham-nhũng―mà tổng-số vật-sản
bị lạm-chiếm so ra không đáng bao lăm đối
với tài-nguyên quốc-gia, lại vẫn còn đó,
rồi sẽ lấy lại, chưa mất đi đâu―trong
lúc Phía “Phật-Tử Tranh Đấu”
thì đặt “nợ
nước trước thù nhà”, mọi
người chung sức đồng lòng chống giặc trước
đã, trước hết là để
trì níu lại cái Cơ-Đồ Dân-Chủ đang
trong cơ nguy bị vĩnh-viễn cướp mất
đi.
Phần
tôi, tôi đối-lập với chính-sách
quân-phiệt của Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu―cũng
như với chế-độ độc-tôn
của Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm trước kia―nhưng
tôi đã chọn trước tiên là làm
tròn bổn-phận
của một công-dân đối với Chính-Thể
Cộng-Hòa.
Riêng
về “Phong Trào Chống Tham Nhũng”,
có ít nhất là ba vấn-đề
quan-trọng hàng đầu mà phía “Giáo
Dân Tranh Đấu” (“trả thù
cho [cố Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm]”, theo lời trối-trăn
của Diệm “Tôi
chết thì trả thù cho tôi”) cố
ý không đề-cập đến:
I.
Việc
hạ bệ Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu:
a/
Họ muốn đảo-chánh
quân-sự, nhưng không
thuyết-phục được ai, nên không
thành-công.
b/
Họ quyết hạ Thiệu,
nhưng không tìm ra được một
“ứng-viên” nào của “phe ta” xứng-đáng
để lên thay Thiệu. Chỉ nhắm
trước mắt mà không nhìn
thấy xa hơn―tình-hình
hậu-Thiệu―thì
tức chỉ là “không
lấy thì khuấy cho hôi” mà thôi.
II.
Lý-do
hạ Thiệu:
1)
Thiệu là thủ-phạm, đã tấn-công
Dinh Gia-Long, đưa
đến cái chết của Diệm.
2)
Nhưng, cái tội
lớn nhất của Thiệu,
là đã có Đảng Dân-Chủ,
lan trong quần-chúng, len
trong chính-quyền, luồn trong quân-ngũ,
mà lại chỉ lo gia-tăng phe-cánh cho
cá-nhân mình, chứ không chịu
dùng nó [như một Đảng
Cần-Lao tái-sinh] để
“mở-mang nước Chúa”.
III.
Mục-đích
đích-thực của “Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng”:
Danh-xưng
thực-thụ của Nhóm này (cái đuôi mà họ cố
giấu) là:
“Phong
trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước
và kiến tạo hòa bình”.
Toàn
câu đã được ghi rõ phía dưới “Cáo
Trạng số 1”, làm tại Huế, ngày 8 tháng 9 năm
1974.
Trong
các hoạt-động sôi-động trước mọi
người, họ
cố tình nhấn mạnh mấy chữ
“chống
tham nhũng”
mà lơ
đi cái
đuôi
là
mấy chữ
“kiến
tạo hòa bình”.
Thử
hỏi: trong tình-thế
dầu sôi lửa bỏng
lúc bấy giờ, có
ai còn có cách nào “kiến-tạo
hòa-bình”
khác hơn
là tuân giữ
“đức
vâng lời”,
tuân
lệnh Giáo-Hoàng PhaoLô VI
và ngoại-bang Vatican,
bỏ
súng, bắt
tay với cộng-sản,
rước
địch vào nhà?
*
Sau
Hiệp-Định
Paris năm 1971,
chậm nhất là kể từ sau
“Mùa
Hè Đỏ Lửa”
năm
1972, các
vụ
“Bàn
Thờ Phật Xuống Đường”
cũng như “Tổng-Công-Kích
Tết Mậu-Thân”
đã
là chuyện cũ,
đã
lùi vào dĩ-vãng rồi.
Các
ván cờ đó đã được các bên tham-dự xóa
hết rồi.
Hệ-quả
có chăng
là sau
vụ
“Bàn
Thờ Phật Xuống Đường”
năm 1966
thì Nhóm
“Phật-Tử
Tranh-Đấu”
đã
không còn “tranh-đấu” nữa;
và sau
vụ VC
“Tổng-Công-Kích
Tết Mậu-Thân”
năm 1968
và Mùa
Hè Đỏ Lửa
năm 1972
thì tinh-thần
chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đã lên cao
hơn.
Cho
nên Biến-Động Miền Trung
là chuyện đã xưa rồi.
Mới
nhất,
gian-xảo
nhất,
và nham-hiểm
nhất,
là
chuyện
Biến-Loạn
Miền Trung.
Trên
bàn cờ thời-sự Miền
Nam Việt-Nam,
vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam
Cộng-Hòa,
chỉ
còn có một ván cờ mới―chung-kết
và chung-quyết:
Đối-thủ
chính bên phía đối-lập với Chính-Quyền
là các
Nhóm “Giáo-Dân
Tranh Đấu”,
do đại-khối
hơn 300 linh-mục
trong “Phong
Trào Chống Tham Nhũng”
và cả
đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng,
“lãnh-đạo
tinh-thần”
Kitô-Giáo
Việt-Nam,
đứng ra thao-túng
tình-hình.
Ở
trên
đầu
và sau
lưng họ
là Tòa
Thánh La-Mã
với đích-thân
Giáo-Hoàng Phaolô VI
cùng với hàng
chục quốc-gia chư-hầu của Vương-Quốc
Vatican.
(Nhưng
quốc-gia Việt-Nam của Kitô-Giáo đâu được
làm một chư-hầu. Chư-hầu là một nước
nhỏ/yếu, tùng-phục một nước lớn/mạnh,
để được tồn-tại, nghĩa là vẫn
còn là một nước. Đằng này, chỉ một Dòng
Chúa Cứu-Thế là một giáo-đoàn/chi-phái của Giáo-Hội
Kitô, mà đã tự xem là một Quốc-Gia, và thu-tóm
cả nước Việt-Nam làm thành một Tỉnh
nội-thuộc của Nước họ rồi:
Tỉnh
Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.)
Thế
đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thù
đã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu,
trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch
hạ gục đối-thủ trong nước cờ
kết-thúc giữa Bắc-Việt
Xâm-Lược với
Việt-Nam
Cộng-Hòa.
*
Vận
Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều dù
ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu
hữu-trách).
Chỉ
có những kẻ đầy thiên-kiến, mù lương-tri,
có ác-ý, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ
hết lỗi cho một riêng ai.
Ngày
nay, mang
thân-phận thất-quốc, lưu-vong, chỉ
trừ những kẻ đã ở hẳn bên phía
cộng-sản Việt-Nam rồi,
còn thì không
có “Phật-Tử
Tranh-Đấu”
nào mà
không luyến-tiếc Việt-Nam
Cộng-Hòa.
Trong
lúc đó,
có một số “Giáo-Dân
Tranh-Đấu”,
đến
tận ngày hôm nay―đã
gần 40 năm qua―mà
vẫn
còn tự-hào, hãnh-diện về những âm-mưu, toan-tính,
nỗ-lực, và hành-động của
cái-gọi-là “Phong-Trào
Chống Tham Nhũng”,
vì mình không
những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu
mà đã
đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Pháp―với
Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong Chính-Quyền―và
các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhân―với
các Chính-Đảng và các Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể
Việt-Nam Cộng-Hòa―nói
chung là Việt-Nam
Cộng-Hòa.
*
Tóm
lại, nếu vì
một lý-do nào đó mà phải gán
riêng cho đích-danh một số người nào đó
là “thủ-phạm chính” quấy-rối an-ninh
trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn tình-hình
chính-trị quốc-gia nhất, gây cho tinh-thần dân-chúng
hoang-mang nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của
chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm
cuối-cùng của Chiến-Tranh
Việt-Nam―tức
là đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam
Cộng-Hòa khi đang
hấp-hối―thì số
người đó rõ-ràng, không thể chối-cãi
được, phải là thành-phần
cực-đoan trong Nhóm “Giáo-Dân
Tranh-Đấu”―các
linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng,
cùng với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng”―dù
là một bộ-phận nhỏ―của
giới tín-đồ Kitô-Giáo Miền
Nam Việt-Nam.
(các
trang 472-84)
Cước-chú:
Hồi-ký
“Biến-Loạn Miền Trung”
được in vào năm 2012.
Lúc sắp in xong, tôi đã rút bớt 2 trang 484 và 485.
Nhưng
nay tình-hình đã khác, tôi xin phổ-biến 2 trang liên-hệ dưới
đây:
“LM Trần Hữu Thanh
cùng với 301 Linh Mục khác
ký
tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham
Nhũng,
chống
VNCH”
No comments:
Post a Comment