Trung Tá Cảnh Sát
Quốc Gia Nguyễn Văn Long
NGUYỄN AN VINH
Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương
quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám
Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động
của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ
nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng 1.
Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người
đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể
mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG
từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp
gia-đình.
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc
nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ
nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa
kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà
đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai:
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố, Ông
dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó
là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu
lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối
nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một
hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông
nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói: “…tính của Long
là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một
người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo…”. Từ lúc đó cho
đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính
toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm
đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới
bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không
cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc.
Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn.
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long
có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về
phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một
việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và
chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không
có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch
Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên
chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi
tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và
luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ
mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công
vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông
lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì
rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn
văn Long:
“…Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông dụng miền Trung
có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng
là siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng
gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời
nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn
nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều
năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong
vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian
bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để
đong gạo cho gia đình…
…Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không
muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề
muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải
thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho
gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn….
… Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều cơ
hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ chối
thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công chức.
… Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ
Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm
điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ
tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long
hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến,
cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút
lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về
nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa
Cứu Thế Huế.. Nhà Long cửa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai.
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “…Nếu Long chịu nhận vàì
ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên
nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào
Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế
gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long
vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó
chịu không vui đấy…”
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung, Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật
mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông
là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh
Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc
nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh
đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận
Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:
“...chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá
nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên
buộc…” Ông Giám Ðốc kết luận: …Long khắt khe sắt thép với chính mình
nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa
mới giam giữ mình…
Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra
Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt
Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng
biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối.
Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông.
Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một
giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng
cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít
nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành
Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng
thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn,
lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ
Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một
khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình
đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay
cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe
mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông
cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ
bắt điện nước cho Long.
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long.
Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau
một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng
như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại
cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm
ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy
ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay. Tôi bái phục cái thái độ bình tâm
giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết.
Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra
Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ
tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà
nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê
Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi
vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người
vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu
bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông,
tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long
cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông
đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều
lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở
chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi
nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy
Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường
Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn
bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một
trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ
tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui
vẻ, nói lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần
chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện
nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui
không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra
mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt
tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở
đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm
tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào
nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp,
tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và
tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp
sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi,
anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có
thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu
mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin,
đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát
mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình,
cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy
đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem,
cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi
cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện
gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông
thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông
thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu
phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay
chân lao động.
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm
dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo
quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã
trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng
tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà
tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các
cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con
và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất
tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với
Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn
khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau, phía
bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết
hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết
mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ
Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng
không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai
người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin ân huệ cho
mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long
thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi
mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất
thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi
người một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng
tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông
Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về
đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân
lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng
xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó
tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát
trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và
cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác
Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó
xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương
Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước
địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin.
Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở
chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá
Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái
việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự
việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì
nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc
xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn
thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền
vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn ngày
17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên
Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh
Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm
chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc,
uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc
nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng,
khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài
được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn
giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt
của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm
sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các
con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế
Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
***
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh,
Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính đã tự sát tại nhiều nơi
và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không đầu hàng,
không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long
mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn
cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có nơi
nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi
biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm
dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc.
Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa
soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn
cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng
Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính xác, Long
anh
dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết bất tử.
TRUNG-TÁ
NGUYỄN VĂN LONG
CỘNG-SẢN
chiếm được Miền Nam đã mười năm
rồi mà tôi vẫn còn tiếp-tục bị chúng kêu lên,
kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ
những thời-gian đợi đi “làm việc” như thế tại các
trại giam như Thanh-Liệt ở Hà-Nội;
Kho-Ðạn, Hội-An, và Hòa-Sơn ở Quảng-Nam;
mà tôi có dịp gặp nhiều cán-bộ Việt-Cộng
cấp cao bị bắt về tội “kinh-tế” hoặc “tham-ô” và cả “bạo-loạn” nữa, cũng như đồng-bào
nhiều giới phạm tội “phản-động hiện-hành”, vượt biên, vượt
biển, đưa hối-lộ, xâm-phạm hoặc phá-hoại
tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, vân vân, nên tôi
biết nhiều và biết sớm những biến-cố
xảy ra bên ngoài thế-giới “cải-tạo” hơn đa-số
anh+chị+em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin Trung-Tá Nguyễn Văn
Long tự-tử từ lâu. Nhưng vì có
những trường-hợp sự thật khác với tin
đồn; vả lại, biết đâu đó không là
một người khác mà lại trùng tên với người
mà tôi thân+thương; hơn nữa, anh Nguyễn
Văn Long của tôi là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo,
lẽ nào lại tự hủy mình; do đó, tôi vừa âm-thầm
đau-khổ về hoàn-cảnh chung, vừa bán-tín bán-nghi
về phần anh Long. Ðến khi tôi được
nghe thêm hai viên “thủ-trưởng” ― một thuộc Cục
Xuất-Nhập-Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí
Minh”, một thuộc Ban
Hậu-Cần Quân-Khu 5 ― khẳng-định là
họ có nghe đề-cập trong nội-bộ cơ-quan
rằng, ngoài một số tướng-lĩnh Miền Nam
đã tự-sát chứ không chịu đầu-hàng hay
trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá
Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long,
từ Ðà-Nẵng di-tản vào, đã
tự-tử chết phía trước trụ-sở
Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa,
tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn
Văn Long.
Anh
Long vĩnh-biệt cõi đời giữa cảnh
lửa-bỏng dầu-sôi, bạn-bè nói riêng và đồng-bào
nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi
kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có
những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng
lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an
nghỉ cuối cùng.
Năm
1982,
tại Trại bí-mật Thanh-Liệt, thuộc
Huyện Thanh-Trì,
Hà-Nội,
là nơi giam-cứu các phần-tử quan-trọng nhất,
mà đa-số là cán-bộ Ðảng, Nhà-Nước và
Bộ-Ðội ở cấp Trung-Ương, do Bộ
Nội-Vụ trực-tiếp quản-lý, tôi mới
được một “bạn
tù”
cho biết thêm một chi-tiết quý-báu về cái chết
hùng-vinh của trung-tá Nguyễn
Văn Long.
Ðó
là Phạm
Trung Linh,
một trung-tá bộ-đội Bắc-Việt, nguyên Trưởng
Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung
Ương Cục Miền Nam ― tổng-thư-ký
của một tổ-chức đảo-chính quân-sự
dự-định hành-động vào đêm 24 rạng ngày
Nô-En năm 1979 nhưng bất-thành nên bị bắt cùng
với một số tướng+tá và cán-bộ
cao-cấp khác ― xác-nhận rằng gã
đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung-tá
Nguyễn
Văn Long
mặc cảnh-phục chỉnh-tề nằm chết trước
một tượng-đài Chiến-Sĩ Quốc-Gia phía trước
trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam
Cộng-Hòa,
in trên bìa trước của một tạp-chí Hoa-Kỳ,
trong kho sách+báo ngoại-quốc mà Việt-Cộng ở
một số cấp cao đã sưu-tầm để nghiên-cứu
những gì có liên-quan đến Việt-Nam.
Thế
là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái
lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long.
Báo Mỹ
mà đã đăng lên thì khắp thế-giới đều
biết. Anh, cùng với những vị anh-hùng
tuẫn-quốc khác trong biến-cố lịch-sử 30-4-1975,
đã nói lên được hùng-hồn và cụ-thể
tinh-thần bất-khuất của dân-tộc Việt-Nam
yêu chuộng Tự-Do trước quyền-lực của
cộng-sản bạo-tàn.
*
Thuở
ấy, vào khoảng 1947-1950,
ở Miền
Trung có
hai hệ-thống an-ninh: một bên là Pháp
với hai cơ-quan Sûreté
fédérale (Liêm-Phóng Liên-Bang) và Police française
(Cảnh-Sát Pháp), một bên là Việt-Nam
với hai cơ-quan Công-An & Cảnh-Sát
Quốc-Gia. Anh Nguyễn
Văn Long
tùng-sự bên Sûreté
Fédérale (chính-trị) của Pháp,
trong số vài người phụ-trách nội-ô
Thần-Kinh; còn tôi thì bên Cảnh-Sát (hình-sự) của Việt-Nam.
Tôi kiêm cả việc sáng-tác, ra báo, và dựng kịch
cho sở-làm, và cho riêng mình.
Chúng
tôi thường uống cà-phê ở quán Lạc-Sơn,
nhà hàng lộ-thiên trên lề Đại-Lộ Trần
Hưng-Ðạo,
quay lưng vào Chợ Ðông-Ba.
Nhân-viên hai bên không ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi
cũng thành quen nhau.
Dạo
ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai
Thời Loạn”
chống Pháp
xâm-lược và Bảo-Ðại
bù-nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái-đoàn
của các nhân-sĩ Cao
Văn Tường,
Cao Văn
Chiểu,
cùng với nhà-báo Phạm
Bá Nguyên
và cả Giám-Ðốc Thông-Tin Lê
Tảo
can-thiệp với Thủ-Hiến Phan
Văn Giáo,
tôi mới được trả tự-do. Ra tù,
tự-nhiên tôi được thiện-cảm của
nhiều người hơn.
Một
hôm, anh Long
tâm-sự với tôi: “Tôi chống Việt-Minh
nên lỡ vào làm với Tây; nay tôi đã quyết sẽ
thôi để qua làm với người mình”.
Anh
ít nói, không văn-hoa, lại lớn tuổi hơn tôi
nhiều, mà đã nói thẳng với tôi như thế thì
tôi hiểu rằng anh đã đau-lòng khổ-trí đến
ngần nào trước thời-cuộc bấp-bênh của
nước nhà. Trong thời-gian chờ-đợi, anh
Long đã nghe theo lời thuyết-phục của tôi,
bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí-dụ Nhất-Hiên,
Vân-Sơn
PMT, Như-Trị,
v.v... mà Sûreté
Fédérale đã định bắt giam. Liêm-Phóng
Liên-Bang
của Pháp
mà đã bắt ai thì người ấy khó về
được vẹn toàn.
Sau
đó, anh đã chuyển qua Công-An Việt-Nam; và Vân-Sơn
Phan
Mỹ Trúc
cũng như Như-Trị Bùi
Chánh Thời
thì vào Sài-Gòn;
kẻ thành ký-giả tên tuổi, người nên
luật-sư tài-danh.
Sau
khi gia-nhập vào đúng hàng-ngũ thích-hợp để
phụng thờ Chính-Nghĩa Quốc-Gia, trải qua mấy
chục năm trời gắn bó với Lực-Lượng
Cảnh-Sát & Công-An Việt-Nam Cộng-Hòa, anh Nguyễn
Văn Long
tận-tụy phục-vụ, và đã nổi tiếng là
một trong số những cấp chỉ-huy tích-cực, cương-trực
và liêm-khiết nhất trong Ngành.
*
TÔI
về lại Miền
Trung
đảm-trách Giám-Ðốc Ngành Ðặc-Cảnh tại
Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng I vào ngày 26 tháng 9 năm 1973.
Tìm gặp lại các bạn cũ, thuộc lứa
tuổi trên tứ-tuần, đã từng giữ các
chức-vụ Trưởng Ty Công-An, Cảnh-Sát-Trưởng,
Trưởng Ty CSQG trở lên, từ thời Bảo-Ðại
qua
thời Ðệ-Nhất
Cộng-Hòa
đến nay, mà hiện còn lại tại Vùng này, tôi
thấy chỉ có 6 người, trong đó có anh Nguyễn
Văn Long.
Một
số chưa có chức-vụ tương-xứng thì tôi
nâng lên hoặc hợp-thức-hóa cho làm Phó Giám-Ðốc,
Chánh-Sở. Anh Long
thì đã là một Chánh-Sở nắm Sở Tư-Pháp
rồi, nên tôi không giúp gì về chức-vụ mà chỉ
giúp về công-vụ mà thôi; những tin-tức về hình-sự
mà tôi có được, thay vì xếp bỏ thì tôi
chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi
nhiều hơn, rất nhiều, cả trong công-tác
cụ-thể hằng ngày lẫn về phương-diện
tinh-thần.
Anh
Long
tự-nguyện làm thêm nhiệm-vụ chính-trị ― diệt-Cộng ― ngoài phần-vụ chính
của anh là truy lùng kẻ phạm-pháp về mặt hình.
Là một tay cừ trong giới tình-báo cũ, anh đã nhân
làm công-tác sưu-tầm về hình-phạm mà thu-thập
thêm tin-tức về quốc-phạm, và đã cung-cấp
cho Ngành
Ðặc-Cảnh
của tôi nhiều manh-mối về cộng-sản
nằm vùng. Theo anh quan-niệm, đã là Cảnh-Sát
Quốc-Gia, với chức-năng an-ninh trật-tự, thì
phải góp phần trực-tiếp hoặc gián-tiếp vào
lãnh-vực tình-báo, để phát-hiện và
loại-trừ cộng-sản ― mà trong giai-đoạn
hiện-tại thì đối-tượng Việt-Cộng
phải là ưu-tiên hàng đầu ― để
bảo-vệ và duy-trì an-ninh & trật-tự chung.
Anh không thể chỉ tự bằng lòng với
phận-sự tiễu-trừ tội-phạm xã-hội, mà
phải tham-gia phần nào, trong khả-năng mình, vào trách-nhiệm
thanh-trừng giặc loạn để giữ nước
và cứu dân.
Qua
thái-độ và hành-động chính-đáng của mình,
Trung-Tá Nguyễn
Văn Long
đã mặc-nhiên gửi một thông-điệp, một
lời nhắn-nhe tâm-huyết, đến những
anh+chị+em đồng-nghiệp nào mà vì lý-do nào đó
đã tự cho mình là Cảnh-Sát Sắc-Phục thì không
dính-dấp gì về tình-báo, nhất là Cộng-Tặc
Miền Nam và Cộng-Sản Bắc-Việt Xâm-Lăng.
Trung-Tâm
Huấn-Luyện Tình-Báo của tôi nằm trên bãi biển
Sơn-Chà,
tuốt bên kia bờ Hàn-Giang.
Lần nào khai-giảng hoặc bế-giảng Khóa nào Nhà-Trường
cũng đều có mời các cấp chỉ-huy cả Ðặc-Cảnh
lẫn Sắc-Phục đến dự. Về sau, tôi
bỏ bớt tiệc mãn-khóa, chấm dứt tình-trạng
bắt các học-viên góp tiền. Không còn tiệc-tùng,
thì phần lớn quan-khách ngớt vãng-lai, viện cớ
bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long
vẫn tiếp-tục đến dự ― anh nói ― để
yểm-trợ tinh-thần chung.
Về
mặt tư-pháp,
Trung-Tá Nguyễn
Văn Long
đã thực-hiện đúng khẩu-hiệu “pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính
đồng-nghiệp, bất-cứ nhân-viên Cảnh-Sát nào
mà phạm tội hình-sự là anh truy-tố ra Tòa
thẳng tay ― anh nói ― để lành-mạnh-hóa
nội-bộ, và nêu gương thượng-tôn
luật-pháp cho người dân. Bởi thế, anh
bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý”, ý nói anh chỉ biết
chiếu-lý chứ không vị-tình.
Sau
Hiệp-Ðịnh
Paris 1973,
tình-hình xã-hội Miền
Nam
thật là rối-ren. Bên ngoài thì Cộng-Sản
Bắc-Việt công-khai ồ-ạt đổ thêm quân và
chiến-cụ, vũ-khí vào tấn-công ta; bên trong thì các
tổ-chức xưng-danh đối-lập và
lợi-dụng tự-do quá-khích, tiếp tay với các
phần-tử nằm vùng, ngày càng gia-tăng mức-độ
và cường-độ gây hỗn-loạn trật-tự
và làm suy-thoái tinh-thần các lực-lượng
Quốc-Gia. Về mặt chính-trị, CSQG vừa
phải đối-phó với các bộ-phận Ðảng,
Mặt-Trận, Nhà-Nước và Nhân-Dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống-đỡ
các phần-tử, phe nhóm chủ-bại và nội-ứng
cho kẻ thù.
Về
mặt tệ-đoan xã-hội, ung nhọt tràn lan khắp
nơi. Riêng về nạn dịch nhũng-nhiễu tham-lam,
công-tác đương-đầu đã gặp quá
nhiều khó-khăn. Hầu như kẻ nào làm
bậy cũng đều nấp dưới danh-nghĩa
của một chính-đảng, tìm sự che-chở
của một đoàn-thể hay một số cấp lãnh-đạo
nào đó trong Chính-Quyền. Ðụng vào họ, dù
họ là kẻ phạm-pháp, có thể là tự rước
lấy tai-họa vào mình. Thế mà anh Long
đã dám xúc-tiến điều-tra, lập hồ-sơ
truy-tố nhiều nhân-vật đáng sợ. Nhiều
vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất là vụ “tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị
tị-nạn”. Ðại-khái như sau:
Ðầu
năm 1975,
đồng-bào từ Tỉnh Quảng-Trị
bắt đầu di-tản. Chính-Quyền Trung-Ương
tổ-chức đón tiếp và cứu-trợ họ
tại Trại Tạm-Cư Ðà-Nẵng.
Trên thực-tế, có người đã vào, có người
vẫn còn ở lại ngoài kia. Do đó, có một
tổ-chức quy-mô đứng ra lập hồ-sơ ma
để lãnh các món cứu-trợ di-tản nhiều hơn
bội-phần: tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men,
áo+quần, giường+mùng chăn+chiếu, xi-măng, tôn,
v.v..., cấp cho cả đồng-bào ở Trại lẫn
đồng-bào vẫn còn ở Tỉnh cũ mà được
chứng-nhận là đã nhập Trại Tạm-Cư, do
ngân-sách của Bộ Xã-Hội đài-thọ.
Thậm chí, họ còn lập thêm hồ-sơ theo diện
tị-nạn, dành cho đồng-bào dời-cư từ các
xã bất-an và “xôi-đậu” đến định-cư
tại các xã an-ninh, để lãnh thêm loại
trợ-cấp này vốn áp-dụng chung cho bất-cứ vùng
quê nào. Chưa thỏa, họ còn chứng-nhận cho
cũng những đồng-bào ấy là nguyên cơ-sở
của Việt-Cộng ở vùng địch kiểm-soát,
nay bỏ kẻ thù về với Quốc-Gia, để hưởng
các khoản trợ-cấp loại này do Bộ Chiêu-Hồi
cung-cấp định-kỳ, v.v... Ngoài ra, người
dân di-tản cũng bị lôi-cuốn vào tình-trạng
hỗn-tạp chung bên ngoài Trại, lẫn-lộn giữa
hợp-pháp và bất-hợp-pháp. Một số
trở thành nhân-viên Chương-Trình
Áo Xanh,
do một tổ-chức xã-hội Hoa-Kỳ
tài-trợ,
cung-cấp việc làm cho người lao-động
thất-nghiệp. Một số cũng là hội-viên Hội
Cựu-Chiến-Binh và Dân-Phế, quy-tụ lính cũ
đâu từ thời Pháp-thuộc, thời Nhật
chiếm, thời kháng-Pháp, thời Bảo-Ðại, và
nạn-nhân các vụ tai-nạn lưu-thông, ẩu-đả,
hủy-hoại thân-thể, tàn-tật bẩm-sinh, vân vân,
nhưng cũng được lập hồ-sơ và lãnh
đều đều từ một tổ-chức nhân-đạo
Hoa-Kỳ
những món viện-trợ tiền mặt,
thực-phẩm, thuốc-men, đồ dùng, v.v... Hơn
nữa, một số giả-danh là Thương-Phế-Binh,
cưỡng-thu “hụi chết” tại các hàng quán, bến
xe. Phanh-phui vụ này lòi ra vụ kia.
Tóm
lại, một người lãnh nhiều trợ-cấp
với nhiều tư-cách trong nhiều hoàn-cảnh khác
nhau; nhưng chỉ lãnh được một ít, còn thì
nạp vào túi riêng của bọn gian+tham.
Vụ
án đã làm chấn-động dư-luận, vì dính
đến nhiều cấp+chức thuộc nhiều
giới, ngành, từ cấp Tổ, Toán, Khóm, Thôn, Xã, Phường,
lên đến Quận, Tỉnh, vào thấu Sài-Gòn,
là những phần-tử chứng-nhận láo,
chấp-thuận bừa, do đó, đã phí-phạm công-quỹ
và phá-hoại chính-sách của Trung-Ương.
TRONG
việc móc-nối đầu mối, nuôi-dưỡng
đường dây, lắm lúc nhân-viên Ðặc-Cảnh
phải giao-tiếp với những kẻ bất-lương.
Bởi thế, đã có một số Trưởng Mối
bị trừng-phạt oan, vì phía Hình-Cảnh nghi là đồng-lõa
hay đỡ đầu. Sau khi có thêm bộ-phận An-Ninh
Cảnh-Lực,
Ðặc-Cảnh càng gặp nhiều khó-khăn hơn,
đến nỗi Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương
hồi đó là Đại-Tá Nguyễn
Mâu
đã phải lên tiếng phản-đối công-khai trước
một đại-hội toàn-quốc, do Tổng Giám-Ðốc
chủ-tọa, nhưng chưa ngã-ngũ ra sao.
Với
tôi, anh Long
đã chịu nhượng-bộ: nếu gặp nhân-viên
Ðặc-Cảnh liên-can đến các vụ hình, anh để
tùy tôi xét trước, để tránh oan-ức,
trở-ngại cho công-tác chìm. Ấy là nhờ anh
hiểu rõ phương-thức tình-báo và đặt
nhu-cầu chống Cộng lên hàng ưu-tiên. Ðó là
quyết-định linh-động duy-nhất trong cương-vị
Chánh Sở Pháp-Cảnh của anh Long.
*
KỶ-NIỆM
đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long
là
vụ rút lui ra khỏi Ðà-Nẵng,
thành-lũy cuối cùng của Quân-Khu I Việt-Nam
Cộng-Hòa.
Lúc
ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975.
Trên
máy vô-tuyến truyền-tin thuộc hệ Cảnh-Sát
Sắc-Phục nội-thành Ðà-Nẵng,
tôi nghe một đài gọi đài trung-ương, nhưng
không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác
cất tiếng: “Ðừng gọi vô-ích,
bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài
hồi nãy, thì được báo-cáo là có nhiều người
ăn mặc lộn-xộn, vũ-khí cầm tay, đang nép
hai bên lề đường từ hướng Hòa-Cường
tiến vào.
Tôi
dùng làn sóng của hệ Ðặc-Cảnh ra lệnh cho
Sở Tác-Vụ Vùng và Sở Ðặc-Cảnh
sở-tại đối-phó, đồng-thời gọi máy
điện-thoại cho Đại-Tá Nguyễn
Xuân Lộc,
Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng
có mặt với các Chánh-Sở cấp Vùng và một số
Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực cấp Tỉnh
tập-trung tại đây.
Lát
sau, anh Long
đến ngồi tại phòng truyền-tin Ðặc-Cảnh
Vùng của tôi ― nơi đây có máy âm-thoại của cả 2
hệ nổi+chìm địa-phương lẫn hệ toàn-quốc,
và máy điện-thoại bưu-điện, điện-thoại
quân-sự ― cách dăm mười phút lại gọi
hỏi tôi tình-hình thế nào.
Vì
máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng-giấy của Đại-Tá
Lộc
để cùng theo-dõi diễn-biến tình-hình chung.
Khoảng
sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc-Cảnh Vùng I Trung-Tá
Long
gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên,
lời-lẽ trịnh-trọng khác thường: “Tôi xin mời ông Phụ-Tá,
hiện là cấp chỉ-huy cao chức nhất, đến đây ngay để tổ-chức phòng-tuyến và
điều-khiển đội-ngũ tử-thủ cùng với anh+em
chúng tôi!” (Tử-thủ là lời
cam-kết của Trung-Tướng Ngô
Quang Trưởng
đọc trên Ðài Phát-Thanh Ðà-Nẵng
suốt chiều hôm nay).
Tôi
hỏi về Đại-Tá Lộc
thì anh đáp gọn với giọng bực-tức và chán-chường:
“Các ngài đào-ngũ hết
rồi!”
Anh
Long
kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng
với mọi người có mặt tại trụ-sở
Vùng ― Chánh-Sở các Sở, Chỉ-Huy-Trưởng của
một số Tỉnh, có cả mấy viên đại-tá
quân-đội ― theo Đại-Tá
Lộc
xuống bến
Giang-Cảnh, lên tàu Giang-Cảnh, rời bến hướng
ra biển Ðông.
Anh
hỏi đi đâu thì Đại-Tá Lộc
trả lời: “Chúng ta di-tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông
lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn-công,
thuộc-viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ-huy
đã lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc
cố giải-thích: “Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn
đã rút đi rồi. Trong tình-huống này chúng ta
đành phải phụ lòng anh+em mà thôi!” Long
bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người
với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào
bờ cho anh trở lui.
Và
anh đã về trụ-sở, để cùng chiến-đấu,
sống chết có nhau với anh+em.
TÔI
tin-tưởng và kính-phục anh Long
vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở
thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều-động
hoạt-động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp.
Anh xin mượn tôi một máy vô-tuyến cầm tay, và
đòi đến họp với tôi.
Tôi
kéo Thiếu-Tá Ngô
Phi Ðạm,
Chánh Sở Tác-Vụ, ra xe. Ðến bến Bạch-Ðằng
quả thấy xe Jeep xanh+trắng [của CSQG] và ô-liu [của
QLVNCH] bỏ đậu
nghênh-ngang; gọi máy vô-tuyến trên hệ
Sắc-Phục đến Đại-Tá Lộc
ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn
chỉ-thị Trung-Tâm Hành-Quân Ðặc-Cảnh Vùng báo-cáo
sự-việc lên Trung-Ương.
Anh
Long
đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp
là đến Ðặc-Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư-Lệnh
Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi
đáp là vào phi-trường, nhưng tôi đến
Sở An-Ninh Quân-Ðội; nơi đây cũng chẳng còn
ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại
dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến
khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin
của dân-nhân.
Ðến
sau nửa đêm thì cả thành-phố đổ dồn
qua cầu Trịnh
Minh Thế
để qua bến cảng, bãi biển Quận III, để
mong chạy vào Sài-Gòn.
Tôi cùng Ngô
Phi Đạm,
Chánh Sở Tác-Vụ, và Trần
Văn Phú,
Chỉ-Huy-Phó Thám-Sát Ðặc-Biệt Vùng, quan-sát xong tình-hình bên
đó, len lách trở về thành-phố thì thoáng dưới
ánh đèn pha thấy rõ hình-dáng của anh Nguyễn
Văn Long,
mặc cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi,
mặt-mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy
cương-nghị, lái xe ngược chiều chạy vụt qua.
ÐÓ
là hình-ảnh cuối cùng của Trung-Tá Nguyễn
Văn Long,
mãi mãi hằn sâu trong ký-ức tôi.
*
GẦN
sáng, ngày 29-3-1975,
Việt-Cộng pháo-kích hải-cảng, phi-trường.
Mờ sáng, đặc-công từ hướng Núi Non-Nước
bắt đầu tấn-công vào. Ðến trưa, tôi
gọi máy về cho Đại-Úy Nguyễn
Văn Tuyên,
Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó còn ngồi tại
chỗ, ra lệnh giải-tán Trung-Tâm Hành-Quân của Ðặc-Cảnh
Vùng I, là bộ-phận sau rốt của Chính- Quyền
VNCH còn hoạt-động đến phút cuối cùng, và
cho phép thuộc-viên tự tìm phương-tiện thoát thân.
Xế
chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng,
rời bờ, liều-lĩnh trước các làn đạn
pháo-kích của địch và trực-xạ của chính
bạn mình.
Và
tôi không còn gặp lại anh Long.
*
*
*
CÁI
chết của Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn
Văn Long
làm tôi suy-nghĩ rất nhiều.
Anh
đã phục-vụ dưới nhiều chế-độ
khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực
khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung-chính khiết-liêm.
Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ-trung trong
lối sống và trong công việc, không bị lứa
trẻ sau này vượt qua.
Trong
lúc nước nhà đang bị cộng-sản xâm-lăng,
anh ý-thức được chúng là kẻ thù số
một của toàn-dân, sự-nghiệp chống Cộng
phải là ưu-tiên số một của mọi người
yêu quý Tự-Do, nên anh phải góp phần vàọ thành-quả
chống Cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ
được nhiều tên cộng-tặc hơn cả con
số chúng bị thiệt-hại trên chiến-trường,
do đó, anh tự nhận lãnh vào bản-thân mình một
phần trách-nhiệm đối với đối-phương
về những tổn-thất mà chúng hứng chịu
nặng-nề; nhưng trên tất cả là sự sụp
đổ thảm-khốc của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà
đối với Tổ-Quốc, Dân-Tộc,
Lịch-Sử, và Thế-Giới, thì cái trách-nhiệm vô
cùng lớn-lao ấy nhất-định là của mọi
người, trong đó có anh; nên anh tự xử ― cũng như các anh-hùng
Nguyễn
Khoa Nam, Phạm
Văn Phú,
Lê Văn
Hưng, Lê
Nguyên Vỹ,
Trần
Văn Hai,
Hồ
Ngọc Cẩn,
vân vân ― để tạ
tội với Tiền-Nhân và Quốc-Dân, và để nói
lên tinh-thần bất-khuất của người
chiến-sĩ Tự-Do, không chịu hạ mình đầu-hàng
kẻ thù.
CÁI
chết của anh Long
làm tôi hãnh-diện vô cùng. Tuy người chết không
mong được đời nhắc đến, nhưng
bổn-phận của người sống là phải phát-huy
những tấm gương trí-dũng ngời sáng ấy,
để nhờ đó mà mình tin-tưởng và
phấn-khởi tiếp-tục lo toan sự-nghiệp chung.
Bây
giờ, đối với toàn-dân, Nguyễn
Văn Long
không còn là một trung-tá, là một Chánh-Sở Tư-Pháp,
là một viên-chức An-Ninh, là những gì gì khác nữa
... mà anh đã là và vẫn còn là đại-diện cho
bất-cứ chiến-hữu ưu-tú nào, không phân-biệt
cấp/bậc, chức-vụ, ngành/nghề, hình-sự hay
phản-gián, phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đã
vinh-quang đi vào Lịch-Sử với tư-cách một
anh-hùng của Dân-Tộc
Việt-Nam
nói chung và Lực-Lượng
Cảnh-Sát Quốc-Gia
nói riêng.
Ghi-Chú:
Nguyễn
Văn Long sinh ngày 1 tháng 6 năm 1919 tại Phú-Hội, Huế,
tuẫn-tiết tại Thủ-Đô Sài-Gòn của Việt-Nam
Cộng-Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
<CSH
No comments:
Post a Comment