Biên tập: Ngô Nhân Dụng, Võ Ngàn Sông, Đinh Quang Anh Thái
Có
thể ĐÈN CÙ sẽ không hấp dẫn những độc giả khác như tôi bởi các nhân vật
trong cuốn sách hoàn toàn xa lạ với họ hoặc vì họ không quan tâm đến
chính trị. Nhưng với tôi, người coi việc chổng Cộng sản Việt Nam như ý
nghĩa chính của cuộc đòi mình thì cuốn sách này vô cùng bổ ích. Thêm
nữa, khá nhiều nhân vật xuất hiện trong đó đã có những lần gặp gỡ với
tôi. Đọc ĐÈN CÙ là dịp gặp lại họ, cả người đã khuất núi lẫn những ai
đang tồn tại. Một đoạn đường lịch sử của Việt nam được phản ánh qua các
trang viết. Đọc, để thêm một lần nữa, khẳng định rằng con đường đấu
tranh cho dân chủ là con đường duy nhất có thể thay đổi vận mạng của dân
tộc, và con đường ấy phải đi qua nấm mồ chôn chủ nghĩa cộng sản cùng
các di sản thối rữa cùa nó.
Dương Thu Hương, tác giả Thiên Đường Mù
Trần
Đĩnh là một trong rất ít nhân chứng còn lại có thẩm quyền nhất để kể
những câu chuyện này. Nhưng Đèn Cù là một cuốn tự truyện, giá trị ưu
tiên của nó không phải là tư liệu mà là sự chia sẻ những trải nghiệm
lịch sử hết sức con người.
Huy Đức, tác giả Bên Thắng Cuộc
Trần
Đĩnh là nhà văn cung đình, như ông tự nhận. Nhưng nhờ có ông, người may
mắn được "gần mặt trời" trong lịch sử Việt Nam cận đại nên mới thấy
được những vết đen trên bề mặt nó, nay hào phóng kể lại cho bàn dân
thiên hạ được biết trong đống rác cung đình nọ có cái gì. Dưới dạng đặc
biệt của thể loại ký mà ông gọi là "truyện tôi" người đọc sẽ được biết
nhiều sự kiện, đôi khi là động trời, với những con người, đôi khi được
coi là thánh và á thánh, có hình thù ra sao. Tác giả dùng lối kể tếu táo
của người chứng kiến, không cần đưa ra dữ liệu, ai tin thì tin, không
tin thì thôi, mặc. Thế nhưng tác phẩm của ông lại rất đáp ứng nhu cầu
của người đọc muốn biết những gì đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử
không có lịch sử".
Trung
thu này không thấy con nít rước đèn cù mà chỉ thấy cư dân mạng rước
sách "Đèn Cù" của Trần Đĩnh. Cụ Trần Đĩnh vốn Tây học, nên viết lách gãy
gọn, linh hoạt và chính xác. Cụ viết từ gan ruột, hoàn toàn theo ý
mình. Trước nay, những "Đêm giữa ban ngày" của Vũ Thư Hiên, "Hoa xuyên
tuyết" của Bùi Tín, "Đỉnh cao chói lọi" của Dương Thu Hương... mới chỉ
tập trung vẽ chân dung một ông... Judas. Nay cụ Trần Đĩnh chơi tuốt luốt
cả 13 ông... ông nào cũng Judas cả nên có thể nói cụ không chỉ lật đồ
thần tượng mà cụ đã đốt đền, giống Herostratos ngày xưa đốt Artemis. Tất
nhiên, cụ Trần Đĩnh "đốt đền" không vì háo danh như Herostratos mà vì ở
"trong chăn" cụ biết quá nhiều sự thật về "ngôi đền cộng sản Việt Nam",
và tinh thần "sĩ phu Bắc Hà" thục ép cụ phải nói ra. Đám cháy này nhờ
ngọn gió internet nên nó bốc đùng đùng, cháy lan khắp nơi tới cả "khu
mật viện" của mấy bác Ba Đình. Không biết cỏ phải gỡ chút sĩ diện mà các
bác (Ba Đình) dại dột cho triển lâm Cải cách ruộng đất không? Nhưng rõ
ràng gậy ông lại đập lưng ông.
Nhật Tuấn, tác giả Đi Vê Nơi Hoang Dã.
Đế
"trục độc" những ai muổn hiểu ra cái ác lại đầu nguồn của đảng cộng sản
Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới sau này thì
nên đọc - và đọc kỹ - bộ "Đèn Cù" của Trần Đĩnh. Những ai muốn thế giới
nhìn ra sự lầm lạc của nhiều người về Việt Nam thì nên phiên dịch bộ
sách ra ngoại ngữ, vì nội dung còn vượt xa những gì Boris Souvarine đã
viết về chế độ Stalin tại Liên Xô.
Nguyễn Xuân Nghĩa, Chuyên gia Kinh tế.
Với
một bút pháp linh động và riêng biệt, Trần Đĩnh kể từng mẩu chuyện của
riêng mình suốt cuốn "Đèn cù". Từng mảng nối tiếp nhau hồn nhiên không
theo một bố cục trước. Nhưng khi nhìn toàn bộ cuốn sách thì những mảng
ấy kết thành một bức tranh vĩ đại mô tả chính xác và nghệ thuật cảnh vật
của chiếc đèn kéo quân ngót 70 năm qua trên đất nước Việt Nam: Một bức
tranh cực tả bản chất của đảng Cộng sản với các đặc tính bất biến Dối
trá, Bạo lực và Vô nhân.
Phạm Xuân Đài, Chủ bút Thể Kỷ 21 Online.
Ngòi
bút Trần Đĩnh với khẩu ngữ sắc mạnh, chấm phá, khoan đục vào xã hội một
thời để bật ra cái đồi bại chen lẫn cái cao quí nhất của con người. Hãy
khoan lục bới những giai thoại "chống cộng" trong tác phẩm, mà hãy mở
lòng ra quằn quại với nỗi đớn đau trên từng trang giấy của tác giả và
của dân tộc. Chúng ta thường than vãn về sự thiếu vắng môt tác phẩm lớn
cho một giai đoạn lớn, nhưng thực ra, chúng ta đã có sẵn tâm và tâm để
nhận ra sự xuất hiện của nó hay chưa?
Phan Quốc Tâm, Tiến sĩ Tâm lý
"Đèn
Cù" không chỉ là quyển sách nên đọc, mà là quyển sách cần phải đọc. Trở
ngại duy nhất khi cầm quyển sách cần đọc này là nếu đã giở trang đầu,
phải đọc một mạch cho đến trang cuối cùng mới buông ra được.
Nguyễn Văn Khanh, Giám đốc ban Việt ngữ RFA
Ngoài
giá trị lịch sừ, giá trị chính trị và nhất ỉà giá trị văn học, điều làm
cho cuốn sách vượt trên tất cả chính là mỗi câu chuyện, mỗi giai đoạn,
mỗi sự kiện đều được tác giả viết lại bằng tấm lòng. Dưới tàn bạo và đàn
áp, nhân cách con người nhất thời có thể bị chà đạp, vấy bẩn, nhưng tấm
lòng tử tế còn ở lại khiến những trang sách quay vòng của Đèn Cù gây
xúc động và hy vọng.
Hòa Bình Lê, nhà báo, California.
Nhận
xét tinh tế, chi tiết, bút pháp chắc nịch và đậm ngôn ngữ điện ảnh, Đèn
Cù soi rọi cận cảnh mọi khuôn mặt chính trị, văn hóa, văn nghệ, một
thời thao túng xã hội Việt Nam mà di hại đến nay vẫn còn mồn một. Đèn Cù
là tự truyện chính trị khắc họa rõ nét một xã hội lệch trong hành xử và
bệnh trong tư cách - hệ quả của thứ văn hóa cộng sản bắt nguồn từ
thượng tầng. Một tác phẩm cực kỳ quan trọng để tìm hiểu "số phận Việt
Nam". Với độc giả: Đừng chờ đợi sẽ có thêm một Đèn Cù thứ hai.
Phạm Phú Thiện Giao - Chủ bút Nhật báo Người Việt California.
Với
lối hành văn khắc họa tài tình, Đèn Cù là sự diễn đạt ý tường bằng ảo
thuật đậm thẫn thái của thư pháp gia. Dứt khoát, đứt đoạn, tùy ý, dửng
dưng... cốt để phác họa một giai đoạn mông muội máu lửa. Ánh sáng của
"Đèn Cù" cứ lênh loang soi tận vào những góc tăm tối nhất của cái bệ thờ
được Trung Quốc dàn dựng nhằm nhát ma dân tộc Việt Nam mấy chục năm
qua. Có thể nói, "Đèn Cù" là tư liệu lịch sử được viết bằng thứ văn
chương nghệ thuật mang tính độc nhất vô nhị để hoàn thành sứ mệnh làm
nhân chứng mà trên mình đang còn mang đầy thương tích.
Trân Đông Đức, Chủ nhiệm Tuân báo Người Việt Đông Bắc Mỹ
Đèn
Cù với tôi như một cuốn Sử văn chương với ngồn ngộn chi tiết, thú vị
như đọc Tư Mã Thiên phần Liệt truyện vậy. Dù có những tranh cãi về tính
xác thực của nó, nhưng có điều chắc chắn rằng dù tin hay không vào Đèn
Cù người ta cũng phải nhìn lại về một lớp người đã ảnh hưởng vô cùng to
lớn đến lịch sử cận đại Việt Nam.
Ngô Nhật Đăng, blogger Việt Nam
Đèn
Cù vạch ra rất rõ những xung đột về tư tưởng chính trị và những tranh
chấp quyền lợi nhơ nhớp trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng một
lúc, Đèn Cù cũng cho ta thấy "...một dẻo thung lũng rất êm ả, hết sức êm
ả... đã chìm vào bóng chiều xẫm lại..." trước đêm đánh vào Đông Khê. Và
từ đó, Trần Đĩnh đã cho ta thấy sự phi lý cũa chiến tranh từ cặp mắt
cũa những người mẹ đã mất con từ phía bên kia. Đèn Cù hiếm hoi là vì
những mẩu chuyện đầy ắp tình người như vậy.
Vũ Minh Hải, khoa học gia chuyên nghiên cứu bệnh ung thư.
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đèn
Cù cuốn I của Trần Đĩnh xuất hiện giữa mùa Thu năm nay đã được chiếu cố
và hoan nghênh từ nước ngoài về lại trong nước. Cuốn sách, với lối văn
nói, trình bày nội dung phóng khoáng, rất người và rất thực, đã thu hút
người đọc với vô số chuyện xảy ra mà tác giả là vai chính hay ít ra là
nhân chứng. Chuyện "cung đình" cộng sản, điều mà ai trong chúng ta, tò
mò hay không tò mò, cũng đều muốn biết. "Truyện tôi" của Trần Đĩnh kể
lại với cái tôi của người viết, đương nhiên, và chỉ một; người viết này
mới có cái tôi như thế... "Một lối kể tếu táo của người chứng kiến,
không cần đưa ra dữ liệu, ai tin thì tin, không tin thì thôi..." như
nhận xét của nhà văn Vũ Thư Hiên.
Trần
Đĩnh cho biết từ ngày Đèn Cù I xuất hiện, cuộc sống (của ông) quả có
gặp "khó khăn". Các mối giao dịch xưa nay trử nên "lạ lùng, kỳ quái,"
theo lời của tác giả. Cũng còn là may vì đừng quên rằng tác giả vẫn còn
sổng dưới chế độ "kỳ quái" được mô tả rành rọt trong cuốn sách. Vì may
mắn nào mà Đèn Cù II vẫn còn được tiếp tục xuất hiện và hy vọng tới lay
bạn đọc?
Không,
không có gì thay đổi cả. vẫn giọng văn ấy, vẫn "lội kể tếu táo" ấy, và
với những muộn phiền ấy trong cuộc sống của chế độ mà tác giả cố gắng
luồn lách qua ngày... Những điều trông thây mà đau đớn lòng... Trải dài
trên mấy trăm trang giấy, đọc mệt luôn!
Cuốn II tiếp tục tiết lộ nhiều chuyện ly kỳ... xin trưng dẫn vài chuyện:
Chuyện
ông Hồ, đúng ra chuyện giả cụ Hồ. Ở nước nào, cộng sản hay không cộng
sản, lãnh tụ nào cũng sự bị ám sát, chết không kịp ngáp. Thế nên mới có
chuyện nhờ người giả dạng lúc xuất hiện trước công chúng, chuyện nghe
cũng bình thường thôi và không có chi lạ. Vậy lạ ở đây là cái gì? Xin
nghe tác giả thuật lại chuyện của người đã giả ông Hồ theo lời kể của
Xương.
"Chuyện của Xương nói chung rẩt khác người. Rất bông phèng"
"Có
lần anh hỏi tôi năm 1946, lúc còn là thiếu niên tiền phong... có ra ga
Hàng Cỏ đón ông Bác đi tàu thủy ở Pháp về Hải Phòng rồi lên Hà Nội bằng
xe lửa. À, có đón hả?
"Xương
cười nói tiếp: Thế thì cậu hoan hô với vẫy hão rồi. Hôm ấy ở xe lửa
xuống, cụ lên dự cuộc đón tiếp công khai xong là có người dắt đi, bịt
râu, đi tắt trong sân ga đến chỗ thằng Qua, thằng này sau là Cục trưởng
Cục trại giam, chờ sẵn lái đưa cụ đi.
"Sợ
phản động nó xơi mà. Còn Bác trên xe chính thức diễu phố là một cậu lâu
ngày tớ quên tên nó mất rồi, thằng này giống ông cụ kinh khủng, nó đeo
râu giả làm ông cụ, nhòm ra vẫy đồng bào. phản động phơ thì thằng này
hứng...
"Đến
Cải cách ruộng đất, tay hình nhân này bị đấu tố là địa chủ phản động
gian ác, suýt ngỏm. Nó khóc: Tôi từng đóng thay Bác Hồ để phản động có
bắn thì tôi chết thay bác, thế nhưng phản động không bắn mà nay Đảng lại
bắn tôi, ôi bác Hồ ơi, hu hu..."
Chuyện
thứ hai liên quan đến cuộc sống của công nông trong cái "thiên đường
cộng sản" đó. Ly kỳ lắm vì rằng lương của họ chỉ đủ sõng 10 ngày... mà
vẫn sống. Lương chỉ đủ sống 10 ngảy, người nói câu đó không phải là "một
tên phản động, tàn dư Mỹ ngụy..." mà là Trường Chinh, Tổng bí thư đảng.
Trần Đĩnh viết:
"Tái xuất giang hồ, Trường Chinh có một câu quá hay: Lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống trong mười ngày.
"Hoàng
Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với
mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột.
Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày. Trường Chinh
cau mày khó tin - bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả
đế quốc đến thế?
"Hôm
sau (Trường Chinh) bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không
có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn
mười ngày.
"Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cẩp công nhân!
"Hay
thật! Ở một nước do giai cấp công nhân lãnh đạo mà đảng phải cứu giai
cẩp công nhân ra khỏi đòng lương bóc lột? Tôi thấy ở đó một khẩu lệnh
hành động. Trường Chinh rất giỏi đề khẩu lệnh. Nhưng ông không nói cứu
công nhân khỏi tay ai? Và thằng khốn nào nó bóc lột công nhân?
"Song
dân biết rất rõ cái Cơ chế gà què mổ lẫn nhau nó cho phép bộ máy với
lương sống mười ngày vẫn cù cưa được cả tháng, tất nhiên ở mức khốn
nạn..."
Thế
là xong, hết thắc mắc. Nói chung cho cả nước. Gia đình Trần Đĩnh còn
gặp khó khăn hơn với nạn đánh Hoa Kiều sau khi đương sự bị đuổi. Tại
sao? Bà Trần Đĩnh là người Hoa.
"Tôi
bị đuổi việc so với cái họa của Hồng Linh vợ tôi, còn sướng hơn nhiều.
Một sáng, phó phòng tổ chức Nhà hát giao hưởng - hợp xướng - Nhạc vũ
kịch Việt Nam gọi Linh đến bảo:
"Chị
phải đi khỏi Việt Nam. Và đi một mình, vì Trần Đĩnh không được phép đi
đâu cả, còn con gái chị là người Việt Nam nên phải ở lại. Chị không đi,
mai kia phòng tuyến Bắc Giang vỡ là sẽ tập trung các người Hoa như chị
vào một khu vực xa lắm, khổ ra".
Tại
sao Trần Đĩnh tiếc nuối chế độ? Bị cho nghỉ việc, không lương, vợ bị
trục xuất". Trong biên bản khai cung năm 1968, tôi (tác giả) viết:
"Chân lý Mác Lê nay như một vòm pha lê vỡ vụn, mỗi anh nhận một mãnh và bảo đó là chân lý chung.
"Tôi
nhìn đảng như một quái vật hai đầu. Một đầu của cô gái xinh đẹp là cuộc
Tổng khỏi nghĩa và một đầu nghiệt ngã dữ dằn là đảng hiện nay. Có khi
muốn đẩy cái đầu dữ đi thì đầu cô gái mà tôi mê lại khuyên ráng chịu".
Một
chế độ công an trị đang vây bủa. Một lưới trời (thiên võng) đang chụp
trên đầu cả nước, chỉ có internet, họa hoằn lắm, mới qua lọt.
Vẫn
từng đó người trong từng đó chức vụ, của đảng, của chính phủ, của quốc
hội, của đoàn... nối tiếp nhau... Voi giây ối a, ngựa giấy ơi tít mù nó
chạy vòng quanh...
Nhà xuất bản Người Việt
"ĐÈN CÙ" MỘT NỖ LỰC "TRỤC ĐỘC"
Giới thiệu của Nguyễn Xuân Nghĩa
Vế
"trục độc", ai muôn hiểu ra cái ác tại đầu nguồn của đảng Cộng sản Việt
Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới mãi sau này, thì
nên đọc - và đọc kỹ - bộ Đèn Cù của Trần Đĩnh.
Trong
cả ngàn cuốn sách mà người Việt Nam và ngoại quốc đã viết về hiện tượng
Cộng sản tại Việt Nam, cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh có một vị trí riêng.
Đó là sách thuộc loại bán chạy trong năm dù ở trong nước còn là bán chui
và bị tịch thu. Mãi sau này, Đèn Cù sẽ là tài liệu tham chiếu của rất
nhiều người. Đọc hết quyển I cuốn Đèn Cù, mỗi độc giả lại có một cách
thẩm định. Chỉ riêng phân ứng "không thế đọc chơi rồi bỏ" của nhiều độc
giả cũng đủ nói lên giá trị đặc biệt của tác phẩm. Chẳng những vậy, đọc
rồi, không ít người đã viết ra và lưu truyền nhận xét của mình.
Trong
số này, một số độc giả còn may mắn... hài tội tác giả để nói về sự khôn
ngoan tinh tế của họ. Nhẹ là "sao giờ này mới viết cái chuyện ai cũng
biết?". Nặng hơn thì "có ý chạy tội cho Hồ Chí Minh". Thậm chí còn chạy
tội cho Trung Cộng. Hoặc cuốn sách ra đời trong một âm mưu mờ ám để cho
thấy là so với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam ở đâu nguồn thì thế hệ ngày
nay đã đổi mới, v.v...
Đôi
ba người tinh quái lại xoáy vào nội tâm tác giả - hay của chính mình.
Họ nói đến phản ứng tình dục lồng trong chính trị. Biết đâu chừng, bản
năng thâm sâu ấy khiến một người bị kết tội "chống đảng" như Trần Đĩnh
lại chỉ đi cải tạo thay vì bị tù đầy như các "đội bạn" của nhóm "Nhân
văn Giai phẩm", hoặc các nhân vật lãnh tội "xét lại chống đảng" ngày
xưa. Vẫn biết rằng khi đã xuất bản, tác phẩm hết còn là của tác giả, mọi
người đều có quyền phán xét khen chê như vậy. Nhưng sự khen chê ấy cũng
tùy trình độ - và cả giác độ - của người đọc. Được một cái là càng bị
đây đó dị nghị thì cuốn sách lại bán càng chạy...
Thế
rồi, do nhà xuất bản Người Việt ưu ái yêu cầu - có thể là với sự đồng ý
của tác giả - người viết này may mắn được đọc bản thảo của quyển hai.
"May mắn" cũng là một phán xét! Cái giá phải trả là viết đôi lời giới
thiệu. Cung kính bất như tuân lệnh.
Giữa
đám đông còn om xòm về quyển I, người viết xin chỉ vạch ra hai tội của
Trần Đĩnh: một là mê văn hóa Trung Hoa, như nhiều người có học khác. Hai
là mê lý tưởng cộng sản, ban đầu kết tinh vào Hồ Chí Minh hay Trường
Chinh. Là người uyên bác - làm không ít độc giả hụt hơi khi đọc và phải
đọc lại - Trần Đĩnh có biệt tài ngôn ngữ của một nhà văn lớn. Nhưng
trước hết, ông hiển nhiên biết nhiều ý của chữ "mê".
Ban
đầu, ông chỉ là con mê, một loại nai, bị khớp đèn của các lãnh tụ trên
rừng xanh khi họ chưa có dân trong tay để xiết. Trong tuổi thanh xuân
ấy, mê có thể là thích, ai chẳng biết vậy? Những mê quá cũng làm ta mờ
trí, chẳng mê tín thì mê thất ỉà lạc đường, đầu óc mụ mị. Trong cõi mê
hoang mờ mịt ấy, người ta khó thấy được thực hư và có khi là đồng lõa
của tội ác. Mê còn hàm ý mân mê sờ soạng - Lê Đức Thọ hiểu cảm giác này ở
trong tù. Sợ quá thì mất luôn cảm giác, như tê mê, hoặc mê như bị chất
ether trên giường bệnh. Hay bê bết dơ dáy như "chân minh đầy cứt mê
mê"...
Đọc lại Đèn Cù I và đọc qua quyển II, chúng ta sẽ thấy ra ngần ấy nét mê!
Người
viết này không nói quá mà vẽ rắn thêm chân. Ở chương 49 trong quyển II,
chúng ta sẽ thấy ông luận bàn đầy tâm đắc với một người trong Nam,
thuộc Việt Nam Cộng Hoà, về tiến trình phơi bày bản chất ô uế của đảng
Cộng sản Việt Nam như "mở nắp bô".
Việt
cộng mải mê vùi cứt cho ông anh (là Trung Cộng) nên không dọn được cứt
mình ngập hết bản thân mình và... - Và đang được nhân dân bới ra, vâng,
chính xác, dân đang mở nắp bô đấy".
Mê
như vậy từ khi còn trai trẻ, sau cùng thì Trần Đĩnh đã tĩnh dần sau
nhiều lãn choáng váng. Mà không chỉ tình lẩy một mình. Từ hơn hai chục
năm nay, ông muốn viết lại cả tiến trình giải thoát của bản thân và giải
độc cho người khác. Nên người viết xin đề nghị một từ là "trục độc".
Để
"trục độc", những ai muốn hiểu ra cái ác tại đầu nguồn của đảng Cộng
sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới mãi sau
này, thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ Đèn Cù của Trần Đĩnh.
Người
sính văn chương có thể cất công xếp loại Đèn Cù là tự truyện hay hồi
ký, bút ký, v.v... Qua quyển II, ta mới nhận ra nét chung là Trần Đĩnh
nhớ gì kể nấy, như người viết tùy bút. Khổ nỗi, đây không là tùy bút của
Mai Thảo hay Nguyễn Tuân để giải trí mà nhằm giải độc... ông lần giở ký
ức như con tầm nhả tơ vì cái nghiệp, những sợi tơ rướm máu bạn bè và
người thân, hoặc đầy mùi xú uế của đàng.
Nếu
quyển 1 của Đèn Cù có những chương tập trung về các thủ phạm của cái
ác, quyển II viết nhiều về các nạn nhân, trong đó có những người đáng
kính trọng, ít ra là đáng được thông cảm. Trần Đĩnh kể lại thế giới của
ông qua cà trăm giai thoại, với nhiều nhân vật còn xa lạ cho những ai
không sinh hoạt trong môi trường hắc ám đó. Nhưng nếu cứ tưởng ông rút
ruột viết ra từng đoạn rã rời thì người đọc vẫn chưa thấy được công phu
trục độc.
"Sợi
chỉ xuyên suốt" những đoạn tùy bút u ám vẫn là cái gian và cái ác của
"Việt cộng". Dùng từ này, Trần Đĩnh trả lại ngữ nghĩa nguyên thủy và
chính xác là Cộng sàn Việt Nam. Y như khi ông viết về Trung Cộng.
Nhưng
nếu chỉ là về từng nhân vật ngẫu hứng nhớ lại thì tùy bút Đèn Cù chưa
đi tới tận cùng của trục độc - hay mở nắp bô để xả mùi xú uế.
Trần
Đĩnh đọc nhiều, thuộc sử đảng và không hề quên mối quan hệ với Liên Xô
cùng Trung Cộng từ thời Đệ tam Quốc tế cho đến ngày nay. Cho nên về từng
người hay từng việc, ông đều nhắc lại dẫn chứng, nhất là trong báo đảng
hay từ người trong cuộc.
Với
nhiều độc giả thuộc thế hệ về sau, khung cảnh lịch sử ấy là một mê cung
ngoắt ngoéo nên quyển II của Đèn Cù còn bắt người đọc phải nhớ tới hoặc
đọc lại lịch sử cận đại. Trong từng mô tả về sự gian ác, đôi khi ông có
cái lý "giảm khinh" là cái ngu của mấy kẻ trên chóp bu. Dù là ngu thì
được cái gian bù lại. Xin đọc Trần Đĩnh kề lại về hậu trường của "Cách
mạng Tháng Tám" năm 1945 ở Chương 50:
"Chỉ
hai việc đầu não cách mạng Tân Trào mù tịt tin Hà Nội khởi nghĩa thành
công và Việt Minh vũ trang phải được Nhật cho phép qua cầu Đuống mới vào
được Hà Nội đã đủ cho thấy vận hội khách quan vô cùng tốt đẹp của đất
nước. Nói lại: vận hội của toàn dân nhưng cuối cùng đã bị Việt cộng ẵm
gọn làm vốn liếng riêng của mình. (Chữ in nghiêng là cùa tác giả Trần
Đĩnh).
"Tân
Trào ba ngày không biết Hà Nội đã khởi nghĩa thắng lợi và Quân Chiến
Khu về phải xin Nhật cho qua cầu Đuống, chỉ hai việc ấy thôi đủ nói Việt
Minh chả có đuối Nhật gì hết. Và tuy ngày 23 tháng 8 mới vào Hà Nội, Cụ
Hồ vẫn cảnh giác bắt đi vòng qua sông Hồng ở mạn cây đa làng Sọi có Vũ
Đình Huỳnh chờ đón Cụ lên xe hơi quacầu Sông Cái rồi rẽ phố Hàng Khoai
và thế là Cụ đã được ngắm thủ đô ở cái góc mang tên thứ lương thực tiêu
biểu nhất của dân ta - đúng là nông thôn bao vây thành thị... Rồi Cụ hài
lòng ra ngay chỉ thị tiếp tục hòa hoãn với Nhật, tha Bảo Đại, một lần
nữa mặc nhiên thừa nhận Quân lệnh sõ 1 yêu cầu tiến công Nhật, đàn áp
chính quyền Trần Trọng Kim và tiêu diệt đảng phái phản động, là duy ý
chí kiểu con ếch nằm trong đáy giểng. (Hết trích).
Từ những hồi tưởng đó, Trần Đĩnh mới kết luận là theo Việt cộng thì "bốn phương vô sản đều là anh em.. "vô tổ quổc" như thế!"
Đầy
rẫy trong Đèn Cù, ta gặp nhiều chuyện cực khó tin mà chỉ người trong
cuộc mới thấm được theo lối "nóng lạnh tự biết". Trong mạch đó, độc giả
có thể nhớ tới truyện giả tưởng "Đỉnh Cao Toang Hoác" (Yawning Heights
hay Les Hauteurs Béantes) của nhà văn bất đồng chính kiến Alexander
Zinoviev khi ông ta chơi chữ và châm biếm xã hội Xô viết. Nhưng Zinoviev
còn phải dựng truyện giả tưởng, Trần Đĩnh viết về người thật, việc
thật. Và xuyên qua hơn ngàn trang sách của hai quyển, Đèn Cù bổ dọc từ
Marx tới Lenin, Staiine, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, cho chí Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ - và cả Nguyễn Văn Linh với thành tích bái Tầu để chặn Duẩn
và ngăn Thọ. Còn kinh hãi hơn giả tưởng.
Tuy
nhiên, và đây mới là một kỳ thú của tác phẩm, Trần Đĩnh lại viết về Hồ
Chí Minh như một nạn nhân hàng đầu. Những ai cho rằng Đèn Cù có dụng tâm
chạy tội cho Hồ Chí Minh thì nên đọc quyển II để nắm lấy "tang vật". Dù
là cán bộ trước sau đã qua sáu năm đào tạo của Đệ tam Quốc tế, và sau
nảy được quốc tế trao cho Trung Quốc dìu dắt, Hồ lần lượt là nạn nhân
của Staline, rồi Mao và vì vậy mà từng có thòi ở nhà cũng là nạn nhân
của Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ trong vụ tranh đoạt quyền bính nội
bộ. Phần nào đó, Bác Hồ cùa Trần Đĩnh có thể là "vô can" trong nhiều
chuyến động lớn chỉ vì cái tội vô tài. Vậy mà ngày nay Việt cộng còn nói
mãi về thắng lợi của "Tư tưởng Hồ Chí Minh". Cho nên Trần Đĩnh mới
phang thành tích họ Hồ: "Bịa! Chính là thất bại! Vâng, thất bại đầu tay
lập đảng và thất bại đầu tay lập nước!"
Rất
đáng ngạc nhiên từ một người mắc bệnh mê Hồ khi còn trẻ. Đáng ngạc
nhiên hơn nữa là Trần Đĩnh không hết lời ngợi ca cụ Trần Trọng Kim. Từ
đó, thế hệ ngày này ở trong nước phải tìm hiểu xem Trần Trọng Kim là ai -
và vì sao Cách mạng Tháng Tám chỉ là một trò bịp...
Quyển
II của Đèn Cù được tác giả đặt tựa là "Vén Mây Giữa Trời", đọc mãi
người viết này mới đoán ra Trần Đĩnh có ý phân công lao động. Bác Hồ và
đảng ta chỉ là những vì sao, còn lại, Mặt Trời là những lãnh tụ xa lạ
của Liên Xô hay Trung Cộng, như Lenin, Staline hay Mao... Vén mây lên,
Trần Đĩnh bắn rụng cả mặt trời lẫn ngần ấy vì sao...
Mà vì sao dân ta lại khổ vậy? Cũng vì cái tội mê...
Sau
khi cả dân tộc đã trả giá đắt đỏ, Trần Đĩnh viết ra chuyện mê muội ấy.
Những ai muốn thế giới nhìn ra sự lầm lạc của nhiều người ngoại quốc về
Việt Nam thì nên phiên dịch Đèn Cù ra ngoại ngữ. Nó cần xuất hiện bên
những tác phẩm giải ảo lừng danh của thiên hạ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
California, ngày 11-11-2014
Vén mây giữa trời tặng bạn bè và Hồng Linh bị trừng trị
NGHI LỄ MỘT LỜI MỞ SÁCH
Viết
này vất vả. Lười là rõ. Cứ mượn "nguồn im ấy cổ nhân" của Nguyễn Trãi
mà lần khân. Nhưng còn có giằng nhau giữa nhận thức và hư vô.
Nhận
thức thôi thúc viết. Tuy nó biến đổi không ngừng. Một quá trình tự phủ
định, tự mở mắt thấy mình đã mù lòa. Phủ định cái bùa mê đã dắt díu mình
bội phản lại thiên chất của mình. Viết ra sự thoát bỏ nhọc nhằn ấy đòi
ngay thẳng. Dĩ nhiên là không dễ.
Còn
hư vô. Từ nhiều năm nay trong tôi hư vô ngày một mở rộng. Nhiều đêm
không ngủ, ngoái nhìn lại sau lưng chẳng thấy gì. Không người, không
việc, không ý, không cảm. Một thung lũng sương vần vũ, một màn u linh
bạc xoá. Thò tay khoắng vợt: rách rưới mấy vạt sương mù... Giật mình
chứng kiến trạng thái hơi khói của đòi mình. Ngỡ có ai đã bắt tôi cày
cuốc lên cuộc sống mình rồi nộp hết tô đời cho hắn: trỏng trơ cái thân
vô dụng.
Và làm hại.
Tôi đã viết vài hồi ký "cách mạng" quá được hoan nghênh. Vài câu thơ đến nay tôi vẫn hài lòng. "Con người ném gương lên treo giữa các vì sao, Ngửng đâu soi thấy mình đẹp quá..." (Vệ tinh đầu tiền lên trời, 1957).
Đặc biệt quyển hồi ký về Côn Đảo đã đua tôi lên thành pháo hoa rực rỡ.
Các đơn vị lính xuyên Trường Sơn vào Rờ, đêm thường nghe cán bộ văn nghệ
đọc những trang hồi ký này. Đi quanh Hồ Gươm, tôi hay được chỉ trỏ hoặc
chào hỏi.
Và
rồi tôi ngượng khi được giới thiệu là tác giả. Cho tới một hôm tại nhà
một giáo sư hiệu phó một đại học ở Sài Gòn, một số bạn giáo sư khen tôi
viết hồi ký kia hay. Và lần đầu tiên trước chừng hai chục trí thức, nghệ
sĩ, tôi nói đúng ra tôi chĩ là một anh bồi bút. Cũng là anh hèn giỏi
viết chuyện người bị đàn áp còn chuyện tang thương của mình thì lờ đi.
Dĩ nhiên lúc ấy quyến sách bạn đang đọc đây đã xong, song tôi không thể
thổ lộ. Sau buổi liên hoan, ra bến xe bus vắng tanh chờ, tôi tình cờ
nhìn thấy một vỏ côn trùng lột xác khẽ đung đưa ở trước mặt. Tôi hứng nó
vào lòng bàn tay và chợt mừng lạ lùng, ngỡ như vừa nhận về tấm mặt nạ
bản thân tôi vừa gỡ xuống. Tôi càng lột bỏ mặt nạ trên tôi thì tôi mới
càng là tôi.
Giá
như tôi được viết những trang dưới đây như đã viết trong nhật ký những
dòng về cây, về lá, về ánh đèn, bóng nước quanh Hồ Gươm, về con công
nhốt trong Nhà Kèn sáu cạnh ở ngang hông Bắc Bộ Phủ một tối chớm xuân
bỗng rùng mình phóng tiếng kêu vào đêm gọi mái? ồ... ộ... ộ... Thèm khát
như thanh sắt nhọn lao vút đi hừng hực trong mưa lạnh. Tôi chợt cay
mắt. Ôi, người thày dạy cô đơn. Một chấm vàng bên má công loé thắp, điểm
nạp đứa học trò tha thẩn.
Từ
đấy ra ghế đá với bạn bè, tôi thường từ xa đã hướng tìm đốm lửa rừng,
vương sót trên thân con công thăm thẳm một vùng khinh mạn khiến nhiều
phen tôi chợn. Nếu các trang này chỉ viết cái đẹp của trời đất?
Người
ta đã cất công xây dựng tôi nên một cái bị ăn mày. Phải chi li rằng
chất liệu tạo nên bị là tôi. (Ra mới dai bền thế!) Còn nội dung của bị
là các thứ người ta thả cửa quăng vào cho mà tôi ngụp lặn ở trong và cấm
không được đê chúng hư hao suy suyển.
Hình như một đạo diễn điện ảnh tên tuổi đã nói: Cái gì bạn không thay đổi được thì ít ra bạn hãy lột tả mặt mũi nó.
Vâng,
tôi xin cố. Coi như trẻ con mở bị đồ chơi bầy hàng. Song hàng người ta
ném vào bị ăn mày khá nhiều nên bày ra hơi la liệt, có khi nhiều lần
hàng đụng nhau, vi phạm yêu cầu mỹ học. Chỉ xin nhớ giúp cho rằng khi
quãng rác vào bị tôi, người ta đâu có tính đến mỹ học hay các thứ học xa
xỉ. Tồi thì lại muốn sòng phẳng. Ít ra cũng một đổi một nghìn, mong bày
cho đủ.
Có một tục ngữ da đỏ: Ban thờ của người này là tha ma của người kia.
Vậy tha ma tôi là ban thờ của HỌ.
Cái
nào đẹp? Tùy chỗ đứng của người nhìn. Thông thường ở tha ma ta mủi lòng
thương cảm. Còn trước ban thờ không chắc ta đều muốn cúi đầu.
Trân Đĩnh
Phần I
Chương 1
Một
sáng, Hữu Thọ Trưởng ban nông nghiệp (Phan Quang được Hoàng Tùng đưa
sang làm Tổng giám đốc Đài phát thanh truyền hình) bảo tôi thôi ở ban
nông nghiệp mà về Thư viện.
Nguyễn
Hữu Chỉnh lúc ấy Trưởng ban quốc tế và với tư cách ủy viên Ban biên tập
kiêm phụ trách cả Thư viện đã đề nghị Hoàng Tùng gặp tôi.
Hoàng Tùng lập tức cau có:
-
Tôi đối xử với anh tử tế như thế nào từ ngày còn ở trên rừng mà anh hại
tôi. Từ nay anh về Thư viện, ngồi đó, không được cho ai mượn sách báo,
tài liệu gì... Tại sao điều anh đi? Anh Hữu Thọ báo cáo với tôi rằng để
anh viết bài thì nơm nớp sợ anh phạm chính sách mà để anh chữa bài thì
anh chị em họ không chịu cho anh chữa với tư cách chính trị như thế đụng
đến bài vở người ta.
Tôi không nói lại. Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch.
Hữu
Thọ không thể hàng ngày giáp mặt tôi, người không có đạo đức chính trị
nhất trí với Đảng như anh. Hơn nữa, biết tạng tôi, anh thấy nên phòng
bệnh: tôi là sự cố tiềm ẩn "bĩnh" ra trò gì thì cái ghế của anh sẽ khốn.
Từ nay ban nông nghiệp là cứ địa để Thọ nhảy lên ủy viên biên tập rồi
phó tống biên tập rồi tổng và như thế là lọt tới Thiên đình - Trung ương
đảng. Thọ phải dọn dẹp nó cho "thuần chủng" theo nhỡn quan đảng. Mà với
Thọ thì việc này không khó. Như Thọ từng chế biến cái chết của Thorez
và Togliatti, hai Tổng bí thư đảng cộng sản Ý và Pháp ra thành tin chó
Tây chết rồi hân hoan rú lên ở giữa sân báo Đảng cộng sản Việt Nam: "Hô
hô, hai con Tô Tô chết rồi!"
Ngoài
ra, Thọ không thích tôi vi phạm quy định là tôi không được chơi với
thanh niên cơ quan đế "đầu độc" anh chị em trẻ trong ban. Họ thường
thích hỏi tôi cách "viết cho ra văn, văn học ấy chứ không phải văn xã
luận pha loãng chỉ thị, nghị quyết đọc ngán bỏ con bà".
Thế
mà tôi, kẻ phản động không được phép chơi với thanh niên vẫn cứ đem
"phản nhận thức luận" giảng giải cho đám viết trẻ! Chẳng hạn bảo người
viết nên là một giống cây đầy gai để đến đâu cũng bị mắc vào đấy. Mắc
vướng là ta đã đem con dục hay cái đẹp trong óc ta xâm thực sang sự vật
khách quan và khi sự vật khách quan được nhà văn cấy chủ quan hay phóng
tinh vào thì nó mới trở thành hiện thực văn học hay nghệ thuật. Các cậu
gọi ở trong hang, tiếng vang có nguồn từ cậu nhưng dội lại thì không còn
y như tiếng của cậu nữa. Nhà văn là môi trường hang động làm biến dạng
đi hiện thực, ý này là của tớ chứ chá có sách nào nói hay được bằng thế
đâu, bốc lên tôi nói đại. Michel Ange đã nói: "Người ta vẽ bằng đầu, không bằng tay". Câu hay đến nỗi tớ thuộc cả nguyên văn: Si dipinge col cervello e non con le mano.
Không áp đặt vào sự vật cái đẹp hay trí tuệ của mình thì mình phải copy
cái nhìn của người khác. Mà văn học là độc đáo, là sắc thái tinh tế,
sai một li đi một dặm. Thí dụ chữ này, mạn phép các cậu vì nó nói rõ hơn
cả. Ta biết khi dương vật cứng thì ông cha đều nói cửng, song nay bỗng
né đi, ít nhất là trên sách báo, mà nói là cương, cương dương. Cương là
văn báo cáo, cửng mới là văn học. Đấy, xem chữ nào có mặt mũi, có hồn,
có tính cách? Gốc nó, cửng ấy, ở chữ cứng, có lẽ thế, nhưng sao lại biến
hóa đi? Ừ, tìm lý do của biến hóa này rất lý thú đây. Đấy, tạm nói đến
cung bậc, sắc thái của chữ để thí dụ về văn học. Các cậu cứ nói khi viết
chỗ này em rất chân thành, chảy cả nước mắt mà nó cứ... Đúng, nhưng
phải biết trong tin học hay trong văn chương, chân thành là gì? Là bất
ngờ, là cái mà người nhận tin chưa từng biết đến. Thí dụ "cửa son đỏ loét tùm lum nóc"
là chân thật nhất, vỉ nó được độc nhất Hồ Xuân Hương thông báo với làng
nước ở hình thái đó. Cửa son đă được nhà thơ nhồi con dục huy hoàng vào
đế biến thành đền miếu. Kinh Thánh gọi bụng của người tình nữ là cái
quạt xòe, mở của tháng ngày; còn vú là lò luyện hồng ngọc, kinh chưa?
Lượng thông tin là bất ngờ chứ đâu là số lượng tin nhiều ít (Hôm qua,
Thép Mới khoe Tố Hữu vừa ký chỉ thị tăng lượng thông tin báo chí. Tôi
bảo báo đảng thêm hẳn hai trang cấy dãy nửa vẫn cứ không có lượng thông
tin là vì không có bất ngờ gì cả nhưng hôm nay tôi không nói lại chuyện
đó với anh em. Ngại chọc vào Ban bí thư trung ương).
Một
trưa, tôi đã làm loạn nhà ăn ở xế Ban nông nghiệp của Hữu Thọ. Mang bát
đũa vào, tôi hỏi mấy chục anh chị em ở đó: "Các cậu có muốn làm thơ
không, tớ bảo? Ba nguyên tắc thôi. Một là vào đầu câu nào cũng ôi lên
một cái để tỏ ra thiết tha. Hai là đối tượng nào đã vào thơ đều gọi là
Em để tó rõ quan hệ yêu thương. Ba là chêm vào vài ba ý ngô nghê để tỏ
ra suy nghĩ có chất triết.
Cả nhà ăn kêu lên:
- Làm đi... làm thử đi xem.
- Tớ vừa đọc tài liệu về phân bón, vậy làm luôn thế này: "Ôi, những gánh phân, Em đặt ở đầu bờ, Em có thấy các lâu đài lang thang là những tòa mây trắng?"
Tiếng giậm chân, tiếng đập bát xuống bàn, tiếng reo hét. Làm nữa đi, anh Trần Đĩnh.
- Đây, làm về cái quạt trần này...
Tôi đọc luôn: "Ôi, Em nằm đó giơ bó cánh tay lạnh cóng, Bụng căng đày trữ lượng gió ngày mai".
Cái áo len của Hữu Hạnh cạnh tôi hoá thành "Ôi em mênh mông / thiên đường lý tưởng không đỏ mà xanh /của những đàn bò nông trường Mộc Châu kinh niên bị đọi".
Và
một lô ứng khẩu tại trận tiền như vậy nữa. Các trò ấy không thể không
đến tai Hữu Thọ. Nhất là cậu Duy Phùng, Trưởng ban bạn đọc, ngay sau đó
cười cười bảo tôi ở cửa nhà ăn:
- Biết anh chơi nhà thơ nào rồi đấy ạ.
Tôi đọc thấy hai chữ Tố Hữu ở đôi môi Phùng đang cười.
Nhưng
con sâu đo quăng mình vươn lên cao là có lập trình. Nó phải gạt đi
trước những gì có thể phá bĩnh công trình vươn tới của nó.
Còn Hoàng Tùng? Anh nói tôi hại anh nhiều lắm. Hại vì tai tiếng "cưng thằng xét lại?" Có.
Song
có lẽ có ai xui bẩy anh, hay tự anh hiểu lầm rằng tôi đã đứng đằng sau
vụ Cung Kim Châu, vợ Thép Mới kiện chồng tới Trường Chinh, Tố Hữu.
Không
hề. Thép Mới đã khẩn khoản nhờ tôi giúp cho vợ anh đừng đòi bỏ anh. Anh
đang lâm thế kẹt: Cung Kim Châu, vợ anh dọa li hôn thì các em anh, từ
Hồng Hà lại đòi anh bỏ vợ vì chị luôn kiện thủ trưởng tờ báo mà họ thì
cần bảo vệ thủ trưởng. Khổ là Thép Mới vẫn yêu vợ. Nhưng sợ Hồng Hà.
Người em luôn biết bảo vệ đảng hơn hết mọi sự. Nên đã mếu máo đúng lúc
để biết ơn Mao Chủ tịch đã mờ mắt ra cho biết Liên Xô là đại phản động,
nên sau đó được Hoàng Tùng đưa đi bôi dầu thánh cùng Phan Quang tại Bắc
Kinh.
Một sáng tôi đang ngồi với Thép Mới tại phòng làm việc của anh. Thình lình anh thất sắc bảo tôi:
- Mày đi ra đi, thằng Hồng Hà nó đến tao kìa.
Tôi
quay lại: Hồng Hà đang ở giữa sân to đi đến. Nhưng tôi lủi thì ra làm
sao? Nhác thấy tôi, Hồng Hà rẽ. Thép Mới từ từ chui ở trong gầm bàn ra,
anh rúc vào lúc nào tôi không rõ. Ngày nào mới rời khoa luật đại học bốn
năm lên An toàn khu anh nêu thuyết "câm, què, mù, điếc". Thụ động phòng thân nhưng vẫn cứ triềng mặt. Quyền và lợi chưa chiếm lĩnh chân trời khiến cho phải giấu đầu cất mặt.
Sau
đó hai hôm, Hồng Hà mời tôi ra ghế đá gốc đa. Nói từ nay tôi không được
dính vào chuyện vợ chồng anh Thép Mới vì đây là "việc của tổ chức". Tôi
nói tất cả là Thép Mới cầu van tôi giúp, Còn nay đã thành việc của tổ
chức các anh thì tôi thiết gì dính vào cho... (ngừng lại kịp).
Với đảng viên, tổ chức là tất cả. Hãy im đi mà tuân theo nó. Nó sẽ bảo đảm cho mày tiền đồ sáng sủa. Và chính vì là chuyện của tổ chức tôi mới nói đến nó ở đây.
Thép
Mới còn điêu đứng. Đằng thằng anh sẽ lên Tổng biên tập nhưng Hoàng Tùng
muốn Hồng Hà vốn biết sẵn sàng giơ thân cứu chúa. Thế là lấy cớ có
nhiều thư tố giác Thép Mới này nọ, đảng ủy và ban biên tập thình lình mở
một đợt toàn đảng bộ và cơ quan phê phán riêng mình Thép Mới. Quang
Thái, Trưởng ban văn hóa và Thọ Ốt khích tôi:
- Trần Đĩnh lên tiếng thì Thép Mới sặc gạch chuyến này.
Kết
quả, Thép Mới không được cấp thẻ đảng. Nhận một quyết định nói sẽ thôi ở
báo, trong khi chờ đi nơi khác thì tạm lĩnh lương ở báo.
Vũ Hạnh Hiên trong Sài Gòn ra bảo tôi: Anh Thép Mới nói cả cơ quan chúng nó đánh tao, trừ mỗi thằng Trần Đĩnh.
Thép
Mới chẳng phải buồn lâu. Hoàng Tùng vào Ban bí thư thì Hồng Hà vào ghế
tổng biên tập. Và Thép Mới lại nhận thẻ đảng. Đế làm phó cho em.
Một năm sau, Thép Mới bảo tôi:
- Cần ủng hộ thằng Hồng Hà. Nó triển vọng Ban bí thư đấy mày ạ.
Khi các em và Hồng Hà ép anh bỏ vợ thì một sáng, có vẻ hả hê, anh bảo tôi:
-
Tối qua mẹ tao ở Nam Định lên, tao gọi chúng nó đến ăn cơm. Nhân đó tao
bảo chúng nó: "Quan nhất thời, dân vạn đại, tôi không thể cứ vạn đại
như các người đòi đâu".
Bây giờ anh mong hai nhiệm kỳ thập tải trung ương cho em.
Thời
gian tôi ngồi chơi xơi nước ở thư viện, Thép Mới hay mời tôi ăn cơm
trưa. Một bữa, vừa thái thịt lợn luộc đế ăn với dưa mua tại cửa hàng
trước chợ Hôm gần khu tập thể 96 phố Huế của văn nghệ sĩ, anh bỗng day
mạnh dao chửi: Sư thằng Gia-ve..., Sư thằng Gia-ve. (Javert, cò thanh
tra trong tác phẩm Les misérables của Victor Hugo - BT)
Tôi hất hàm, không hiểu. Anh nói:
-
Là thằng Hồng Hà chứ thằng nào. Nó bắt tao bỏ vợ nhưng tao đến ăn uống ở
nhà nó thì nó kêu bận này bận nọ. Tao nấu trong buồng làm việc đây thì
hễ vừa đặt nồi lên bểp điện nó đã đấm cửa: "Ông nấu thế mùi mắm muối nó
bay sang chỗ sếp thì sếp tiếp khách làm sao được? Mẹ nó, mà chỉ Hoàng
Tùng mới cần Gia-ve".
Năm
1957, sang Bắc Kinh, Phạm Văn Khoa đưa cho tôi một thư của Thép Mới.
Tôi đọc nó ở bến xe buýt Địa An Môn, trên đường đi xem The Kid của
Chariot. Thư khoe "tao vừa làm dược hai trường ca, một là Cây tre Việt
Nam, hai là tìm ra một bông hoa tím quý".
Bông
hoa ấy là Cung Kim Châu, vợ anh sau này. Chiều vợ mới cưới, anh lấy
giấy mời lên dự kỷ niệm 15 năm thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
tận trên lễ đài Ba Đình, nhưng sợ đứng với vợ quá trẻ trên lễ đài, anh
đã nhờ tôi làm hình nhân thế mạng anh cái sáng lễ hội ấy. Mắt cô kỹ sư
thủy lợi còn long lanh ánh sinh viên mà suốt năm năm qua tôi thấy hàng
ngày ở Bắc Kinh. Tôi mới về Hà Nội được mươi ngày.
Tôi
sẽ không nói đến chuyện vợ chồng Thép Mới nếu Hồng Hà không nâng cấp nó
lên thành công việc của tổ chức. Tồ chức này đánh tôi phi pháp thì tôi
phải lên án nó chứ! Với chuyện vợ chồng Thép Mới, "tổ chức" cũng đã can
thiệp hết sức thô bạo, xấu xa. Đế lên án nó tất phải nhắc đến nhiều tình
tiết.
Thép
Mới cuối đời viết hồi ký cho Lê Duẩn. Bị bạn đọc ầm ầm phản đối. Một
đại tá gọi điện thoại đến xưng danh tính xong chửi một câu rất tục rồi
mắng mày hạ Cụ Hồ xuống đấy à? Vì anh viết: "Vận mệnh miền Nam trông cậy
vào chiếc ghe ba lá lênh đênh trên các kênh rạch miền Nam". Tức là Cụ
Hồ đêm không ngủ, ngày không ăn cũng chẳng bằng Lê Duẩn nằm ghe.
Thép
Mới tâm sự với Lửa Mới. Lửa Mới nói lại với tôi. Nó bảo nó có biết gì
đâu. Gặp nghe ông Duẩn hai buổi rồi ông ấy bảo anh làm việc tiếp với anh
Sáu Thọ, anh ấy sê nói về tôi. Nó viết là theo ý và tài liệu của Sáu
Thọ.
- Làm dân công tải đạn ra chiến trường nhưng Thép Mới không biết, tôi nói.
- Nghĩa là thế nào?
-
Nó thừa biẽt Duẩn ốm, sẽ có đổi ngôi, thế mà nghe Sáu Thọ nói những
chuyện làm cho nghĩ Lê Duẩn tung hê Cụ Hồ nó lại không chột dạ.
- Nhưng cũng không oan, Lửa Mới cắt lời tôi. Năm 1970, Duẩn viết Bốn mươi năm vẻ vang của Đảng ta.
Trong một cuộc họp trưởng phó ban báo, tán về bài này, Hoàng Tùng nói
Duẩn là Lê-nin của Việt Nam, Lê-nin của thời đại! Cụ Hồ có bao giờ được
danh hiệu ấy? Lại còn nói năm 1957 phát hiện ra sai lầm Cải cách ruộng
đất, anh Duẩn đã cứu Đảng ta. Nghe Hoàng Tùng, Thép Mới sùng bái Ba Duẩn
lắm.
-
Đúng, tôi nói. Chọi nhau dữ với Hoàng Tùng, phó ban Anh Vũ đã lên báo
cáo Trường Chinh chuyện này. Trường Chinh nói bài viết của anh Lê Duẩn
là tập thể Bộ chính trị góp ý nên. (Anh Vũ nói: Vâng, tôi thấy chữ anh
chữa đỏ lòe ra mà!) Cần đề cao Tổng bí thư nhung đề cao như thế này thì
để Bác Hồ vào đâu, Trường Chinh hỏi.
- A, friction - cọ nhau cũng ghê nhỉ, Lửa Mới gật gù.
Một
hôm cùng ăn điểm tâm với tôi, Thép Mới nói: Tao ngồi máy bay lên thẳng
với Chu Huy Mân (xem như tổng cố vấn của Lào) và Nuhak bay dọc sông Mê
Kông. Mân chỉ tay sang phía Thái Lan hỏi Nuhak: các đồng chí cần cánh
đồng Đông Bắc Thái Lan thì chúng tôi lấy giúp? Xuất thân hào lý mà khẩu
khí ghê chưa?
Tôi chợt hỏi:
- Muốn đọc Kierkegaard không?
- Là thằng nào?
- Tổ sư bồ đề của chủ nghĩa hiện sinh. Biết không?
- Không. Có cái gì hay mày?
-
Có câu này: - Mày là thế nào thì hãy sống hết lòng như thế. Sois de
tout coeur ce que tu es. (Chả lẽ nói Việt Nam ta nên như thế!) ông ta
cũng định nghĩa chữ nực cười.
- Là sao mày?
- Là khi ta chắp một lý tưởng rực rỡ vào một thực tại mục nát thì nực cười xuất hiện.
Tôi
vẫn cố có một lời. Tôi còn dư vị Thép Mới những ngày anh hết lòng là
một sinh viên yêu văn và tự do phóng khoáng. Hè 1950 lần đầu tiên xuất
dương đi Berlin dự Liên hoan thanh niên quốc tế, trở về anh tặng tôi
quyến sử đảng bằng tiếng Pháp bìa cứng Liên xô xuất bản với dòng chữ:
Thân mến tặng Trần Đĩnh, tràn đày hy vọng. Tặng nhau Đảng sử là hết sức
có ý nghĩa lúc ấy.
Truy
điệu Thép Mới ở báo Nhân Dân, tôi mặc niệm hai lần. Một lần cùng cơ
quan. Một lần vì vụt bồi hồi nhớ lại những ngày Việt Bắc, những ngày mọi
cái nói hết được với nhau, tôi trở lại đứng một mình trước ảnh anh. Nhớ
một lần Thép Mới đưa tôi xem một biên bản gốc của mật thám Pháp ở Nam
Định trong có đánh máy lần lượt tên mười thành viên Việt Minh vừa bị bắt
mà Hà Văn Lộc, tức Thép Mới, đứng đầu. "Mày xem, hồi ấy tao đứng trên
Hoàng Tùng (Trần Văn Khánh) những năm sáu bậc". Chỉ vào tên Phạm Văn
Cương, Thép Mới nói:
-
Nguyễn Cơ Thạch đây. Tao bị bắt, bố tao đem tao đến nhà ông đốc học Nam
Định, bố thằng Hoàng Ngọc Hiến, biếu chai rượu Con Mèo và hộp bánh
biscuit Pháp xin nói hộ. Hôm sau bố tao đưa tao lên Hà Nội học lại ở
Bưởi. Lên xe lửa, đến đầu một cái toa, tao thấy thằng Cương bị còng tay
ngồi cạnh một cảnh sát. Theo sau bố đi qua nó, tao lấy mũ cát che kín
mặt xấu hổ quá.
Bây giờ, Cương - Nguyễn Cơ Thạch - vào Bộ chính trị; Hoàng Tùng, Ban bí thư và Thép Mới, đảng viên thường.
Chợt
nghĩ không gì biến thiên dữ bằng ở quan lộ cách mạng. Lại nhớ những
ngày Nguyễn Cơ Thạch, thư ký của Võ Nguyên Giáp ghé báo Sự Thật tán
phét, vẫn thường khoe: "Sáng nay chủ nhật, tớ ra suối giặt cho anh Giáp
bao nhiêu quần áo... này, tay còn nhợt đi đây này, mùa đông mà". Nhưng
Đại hội 7 (1991,) bong hết khỏi Trung ương, Giáp lên có ý kiến về đảng
căn phát huy dân chủ thì cậu thư ký hay giặt áo quần ngày nào nay vào Bộ
chính trị và ngồi trên chủ tịch đoàn liền giơ tay cắt lời Giáp: "Đồng
chí nói quá mất mấy phút rồi, xin thôi. Đồng chí hãy chú ý cho là đảng
ta rất chú ý phát huy dân chủ". Lúc này người hùng của Thạch là Lê Duẩn.
Nghe
Lê Trọng Nghĩa kể lại chuyện này, tôi đã kêu lên; "Sao Giáp không nói
to lên, thưa Đại hội, xin hãy cứu tôi thoát khỏi vụ án chính trị này".
Truy
điệu Thép Mới lần hai xong đi ra, tôi nhác thấy T. đứng khóc ở một góc
cửa. T. người nữ sinh trinh tiết Thép Mới yêu hồi 1953-54 ở Berlin vê,
sau khi đưa tôi quyến sử Đảng, anh xuống Khu Ba tìm T. Vừa đến cổng nhà
thi thấy T. đang ngồi với H, chồng T. sau này. Thép Mới lẳng lặng quay
ra, lên đê, lẳng lặng ngoầi tay ra sau xe đạp, lần lượt giật các gói quà
toan đem cho T. liệng xuống sông Đáy.
Cũng
chỉnh ở cái chỗ T. đứng khóc ấy, năm ngoái, kỷ niệm báo, Thép Mới không
lên nói theo chương trỉnh mà nhờ một người đốt hộ anh bánh pháo rồi anh
kéo tôi lên sân thượng nhìn ra hồ, ra phía sồng Hồng mưa bụi. Tự nhiên
tôi nghĩ đến một sự tiêu tan rất sương khói. Những ngày ngay thẳng sôi
nổi của Thép Mới nay đâu?
- Nói làm gì mày nhỉ? Đốt pháo hay...
- Ừ, thay được việc giằng xé, giậm chân bứt tai khó làm.
- Mày ơi, hò quá đẹp, anh đánh trống lảng.
- Vĩ hồ bao giờ cũng đàn bà, không chính trị.
- Mày thôi làm thơ à? Này, chép cho tao bài Chùa Hương.
Tôi khẽ đọc. Bài thơ cuối cùng. Nâng hành vi tính giao lên thành lễ hội. "Khe Giải Oan đầm sương, Cành ngọc rùng mình cửa động, Thuyền mắt lạc trầm Bến Đục, Hương khói rước em vào Chùa Hương..."
- Làm nữa đi mày. Ít ra đỡ buồn.
-
Khỏng phải để vui hay buồn. Thôi làm vì thấy không vượt được cái mình
hôm qua. Tớ đã bảo Lê Đạt như thế. Mỗi người một cách phát nghĩa. Tớ
không đốt pháo.
- Mày bốc đống - impulsif, đếch biết im.
Trước
đó không lâu, ở giữa sân báo một lần vừa họp xong chi bộ ban văn hoá có
Tháp Mới, Nguyễn Địch Dũng, họa sĩ Thọ Ốt, Hồ Vân, vợ Nguyễn Văn Bổng,
anh trầm giọng bào tôi:
- Mày chết vì mày quá lý tưởng.
Trong
cuộc họp, tôi nói ở trong Đảng tôi thấy áy náy, không được làm những
cái lòng mình mong mỏi. Tôi cảm thấy ở trong đảng cũng như vào làng Tây
để kiếm lợi cho nên đã có những lúc muốn xin ra đảng. Tại sao quần chúng
không quản lý, kiếm tra chúng ta mả chúng ta lại kiểm tra, quản lý quần
chúng, tháng tháng họp nhận đjnh quần chúng tốt xấu ra sao?
Thép Mới vội bảo Hồ Vân, thư ký cuộc họp:
- Đề nghị chị Hồ Vân đừng ghi vào biên bản những lời anh Trần Đĩnh vừa nói.
Nguyễn
Nguyên (bút danh của Nguyễn Ngọc Lương) cho tôi biết Thép Mới trước khi
chết một hai nãm đã "nói những câu ghê lắm", những câu mà Nguyễn Nguyên
không dám thuật lại. Rồi thỉnh thoảng Nguyên xì dần. Thí dụ: "Đất nước
này sao mà có người tài được. Có tài thì thường có nhân cách, họ không
chịu uốn theo và thế là bị triệt. Quốc xã và Đệ tam quốc tế, hai đối thủ
chí mạng đã học nhau đế làm y hệt nhau.
Năm
ấy theo yêu cầu của Cục 35, Nguyên phải tường trình rõ tại sao làm tình
báo mà anh lại lấy vợ là con nhà giàu cao sang và làm việc ở sứ quán
Mỹ. Khai sao bây giờ? Một người bạn nhưng ở cấp trên bào anh cứ khai đại
là lấy đế tiện dò tin của Mỹ. Nguyên làm theo. Ai ngờ vợ anh đọc được,
Chị đòi bỏ, đưa hai con sang Mỹ. 'Thép Mới bảo sao, Nguyên nói, ông biết
không? Thép Mới khuyên tôi đế vợ và hai con sang bên ấy, vì chúng sẽ
được học hành tử tế, chúng sẽ có một lòng yêu nước khác kiểu chúng ta".
Có
một chuyện nhỏ Lê Bình kể tôi nghe. Ngày Thép Mới chưa chét, một hôm
Hữu Thọ, phó tổng biên tạp Nhân Dân hớn hở nói với mấy anh em Ban biên
tập trong có Lê Bình: "Chuyến này xua bằng hết cánh Nam Định ra khỏi
Trung ương đây", Anh em vẫn biết Hữu Thọ là trong số gia nhân gần gũi
nhất của Đỗ Mười nên im lặng, đoán sê có chuyện lớn. Khi Thép Mới chết,
Hà Dăng tức Đặng Ha, tổng biên tập phân công Lê Bình, ủy viên biên tập
vào Sài Gòn tổ chức truy điệu thì Hữu Thọ tranh lấy. Lê Bình bảo:
-
Tôi rất lạ tại sao báo tin đám Nam Định sẽ bị xua hết khỏi Trung ương,
ngụ ý Hồng Hà sẽ re mà hắn (Hữu Thọ) lại xăm xắn với Thép Mới thế? Thì
ra rồi Hồng Hà vào Ban bí thư.
Hồng
Hà chắc rất cảm động thấy Hữu Thọ khép nép bên người anh xấu số của
mình, thỉnh thoảng lại sụt sịt lấy tay gạt mũi. Đại hội tới, Hồng Hà chả
lẽ lại nỡ không bỏ một phiếu cho Hữu Thọ.
Xin
trở lại một chút Cung Kim Châu. Tự sát hai lẫn không chết, chị mở cửa
cho tôi vào thăm. "Anh cùng hội cùng thuyền tôi mới gặp chứ người ở báo
đảng là tôi không đâu. Gián điệp cả đấy".
Vẫn
hai gian phòng đầy gió ngày xưa. vẫn chiếc đi văng hình vành trăng kiểu
thuyền gondoìe và trên đó vẫn bức tượng Vệ Nữ bằng ngọc trắng sữa vân
khói Thép Mới 'mang ở Cuba về năm 1960.
- Ô hay, sao lại khuyên tôi đừng nhỉ? Anh bảo tôi dại à? Rồi ai mà chả đến chỗ đấy? - Kim Châu vừa nói vừa cười, mắt rất nghịch.
Kim
Châu đã thử lần thứ ba và đi trót lọt. Một tối đạp xe từ sau Bệnh viện
Việt Xô đến nhà tôi ở cạnh Chùa Hà, chị hỏi: "Ông bà có biết tôi mất cái
gì không? Đời con gái!" Kim Châu bảo tôi Hoàng Tùng chỉ mới sàm sỡ
thôi. Tôi hỏi: Thế có biết kiện ghê thế mà sao Hoàng Tùng vẫn thoát
không? À, vợ Hoàng Tùng đến nhờ bác sĩ Nguyễn Bách và vợ là Bích Hường,
biên tập viên Ban quốc tế báo Nhân Dân, chỗ thân cận của Trường Chinh,
thanh minh hộ cho là Hoàng Tùng bị đổ oan. Bích Hường bảo tôi: "Tại cái
tay Bách này, cứ nói thôi giúp ông bà ấy nên tôi phải lên nhân danh cán
bộ báo minh oan cho Hoàng Tùng. Không thì re Trung ương, Ban bí thư là
cái chắc".
Cùng
đi B (vào Nam) năm 1964 như Thép Mới là Ngô Y Linh, Nguyễn Vũ, chốn
thân thiết của tôi. Chúng tôi chia tay nhau trước nhà Phú Gia. Mưa rươi
phía hồ rắc lười nhác xuống những sợi thủy tinh ngăn ngắn vào nền nắng
mỏng trong như nắng được quang dầu. Y Linh bảo tôi: Tao không thích
chính trị, mày biết. Tao nghe mày chửi Mao thấy rất hay nhưng ở trại
chuẩn bị đi B nghe anh em tập kết đề cao Mao, chủ trương đánh Mỹ để giải
phóng miền nam, tao lại thấy chúng nó có lý. Tôi nghe và buồn. Định hỏi
Y Linh "Mày ở bên đó thấy họ giết đồng chí và dân như ngóe mà chưa tỉnh
ra ư, nhưng thương Linh vào chiến trường nên im.
Mười
năm sau, Y Linh và vợ con ra Hà Nội. Bụng cổ chướng to tướng, cổ bé như
cái cổ gà, gầy nhẳng, nhăn nheo. Tôi đưa Y Linh đến bệnh viện 108 cho
Đào Công Phát (anh ruột Lê Đạt) chủ nhiệm khoa tiêu hoá, khám giúp. Đến
giữa sân bệnh viện vắng tanh, Y Linh nắm tay tôi giữ lại:
-
Mày nhớ hồi nào tao nói gì trước Phú Gia với mày chứ? Bây giờ ở đây chỉ
có trời đất và tao với mày, tao nói cái này: mày đúng, Đảng sai, theo
Mao là bậy.
Cũng
bữa đó Y Linh cho hay vợ anh không bị vào tù Phú Lợi và nhà tù không bị
bỏ thuốc độc như dạo nào ta tố rùm beng và Y Linh cũng chưa từng đến
Trường múa Bắc Kinh lên khóc tố cáo tội ác của Diệm do ta hư cấu nên.
Cũng như gọi xa lộ Sài Gòn mới xây lúc đó là sân bay cho máy bay Mỹ đỗ.
Cô ấy bị một cú kinh hoàng thật nhưng là thế này, Y Linh nói. Được điều
ra R (Trung ương cục miền Nam) để đi khỏi nhà không lộ tông tích, cô ấy
gom vàng bạc, kim cương vào một mùi soa rồi gửi một cô bạn cùng ra Rờ.
Đến chỗ hẹn, cô bạn mất tăm. Nghèo mới làm cách mạng, nay giàu rồi đi
làm gì?
Tiện
đây, tôi muốn nói đến Nguyễn Quang Sáng ở phương diện có lẽ phần nào
dính đến tâm trạng Ngô Y Linh. Cuối những năm 1980, Sáng kể Nguyễn Thi
đã mấy phen giơ súng lên thái dương. Bọn nhà văn nhà báo lại phải quỳ
lạy xin. Thi bèn đi chống càn để toại nguyện. Nguyễn Quang Sáng bảo tôi:
Sau đó anh biết thế nào không? Tôi cũng mấy phen dí súng vào thái dương
rồi cuối cùng sợ nên nộp lại súng cho cơ quan. Thì ra, đêm lơ tơ mơ
chuyện bỏ về Sài Gòn.
Bữa
ấy Sáng và Trịnh Công Sơn chiêu đãi tôi thịt trút (loài bò sát, ăn kiến
- BT) trên sân thượng Hội điện ảnh. Trăng vẳng vặc. Chín giờ tối, tôi
xin đi có việc. Bảo tôi chờ một lát, Sơn chui vào cửa tum biến mất. Lát
sau lại từ cái lỗ tối thui ló ra, tiếng ghi ta trong veo "Tôi mới làm
bài này, Sơn nói, tôi hát nha". Mùa thu Hà Nội... Tôi ngẩn ngữ một lúc.
Nói lảng:
- Mắt ông fragile, mong manh, không ngăn được các cơn lũ đàn bà.
Năm
1975, sau hoà bình chừng vài tháng, Từ Chi, Lê Đạt, Chính Yên và tôi
nghe cát-xét nhạc Trịnh Công Sơn ở nhà Đỗ Hải. Máy Grundig. Tự đáy lòng,
tôi nhận ngay người phi công "ngụy" chết trận là em mình. Thương nó đã
lỡ vui chơi trong cuộc đời này để "bạn bè rồi quên, người tình rồi xa"
chứ không phải khóc nó để tôn thờ học cập nó. Bên cạnh các nghĩa trang ở
mỗi làng ngoài Bắc, tôi đã thấy có một nghĩa trang khác cất bằng tiếng
hát Khánh Ly. "Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa..."
Lần
đầu nghe Sơn, tôi thấy rõ thêm văn nghệ sĩ Sài Gòn đã được chút nào tự
do tri thức: được thảng thốt lo ngại cho phận con người! Nên Sơn mới có
bài Gia tài của mẹ đếm hai mươi năm nội chiến từng ngày. Nội chiến đặt
ngang đồng cân với nghìn năm Bắc thuộc và trăm năm thuộc địa Pháp.
Bữa
nghe máy ghi âm Grundig đầu tiên ấy tôi thấy nó như một tòa cao ốc ở
New York thu nhỏ. Nhưng ấn tượng hơn vần là chiếc máy quay đĩa Philips
của Kỳ Nam. Ở Pháp làm phim Cụ Hồ về, anh rủ tôi đến nhà uống vang Pháp
nghe nhạc. Tôi đã không thể rời mắt khỏi chiếc Philips. Kỳ Nam Jặt một
đĩa vào:
- Nghe tí nhá...
Un
sourire en tes grandsyeux. Một nụ cười trong đôi mắt to của em.
Sérénata. Nước mắt ứa ra. Thổn thức một thời mười lăm mười sáu.
Rồi nói:
-
Với mình, cái quay đĩa kia là lăng mộ của một nền văn hoá bị khóa kín,
trong quan tài kính của nó những bras và tête de lecture - tay quay, đầu
đọc - rất cung đình kia lom như những nhân sư ra câu đố cho mình nhưng
mình bị cấm bước vào.
Hà
Nội, váy vàng dài kéo sau như con lũ sông Hằng cuồn cuộn trên hè Tràng
Tiền, Jane Fonda gặp Kỳ Nam, hứa sẽ đóng phim cho anh. Kỳ Nam nhờ tôi
viết kịch bản.
Viết. Một nhà báo nữ Mỹ đến Sài Gòn, (cô đã bay theo trên một máy bay cánh quạt rà mặt đường xem xả súng máy, strapng a gogo)
một cô du kích làm tiếp viên ở khách sạn nhà báo Mỹ ở đó. Đặc công đánh
mìn nhưng cô tiếp viên đã cứu cô nhà báo ham tìm sự thật rồi theo lệnh
trên đưa cô nhà báo ra thăm khu giải phóng).
Thanh Tú bảo tôi:
- Em đọc rất thích. Em thấy anh có cho em một vai đấy.
-
Jane Fonda vào vai cô nhà báo Mỹ, Tú sẽ là cô tiếp viên nằm vùng. Hai
mụ đàn bà đẹp đi với nhau suốt một chặng li xì. Có cả một lính Mỹ đào
ngũ đi cày thích cô tiếp viên - du kích.
- Đẹp mà sao lại nói hai mụ? - Tú nhăn mặt đùa.
Bữa cơm tối ấy, Kỳ Nam khẽ bảo tôi:
- Trần Đĩnh ơi, bớt our - trong sạch - đi một tí đi. Không thì khổ lắm. Kỳ Nam biết tôi cúi đầu thì lại nổi phao câu.
Nhưng rồi Jane Fonda, Jean Paul Sartre... đã lên án Việt Cộng. Kịch bản sau đến Hà Xuân Trường và... mất!
|
No comments:
Post a Comment