Tôi được sanh ra và lớn lên ở Xã Thường Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Phong Dinh, cách Thị Trấn Cái Răng 5 km, cách thành phố Cần Thơ 10 km. Mời đọc " Đôi điều tâm sự " dưới đây sẽ rõ.
Nay kính,
Đỗ chiêu Đức
Đôi điều Tâm Sự
Tôi xuất thân là con nhà nghèo, ở xã Thường Thạnh, Thị Trấn Cái Răng, huyện Châu Thành, Tỉnh Phong Dinh. Là người Việt gốc Hoa, nhà đông anh em, nên chữ Hoa chỉ học có 5 năm, rồi ra học chữ Việt. Lúc đó Ba tôi đã than rằng : " Chữ Hoa mà chỉ học có 5 năm thì đâu có ra gì ! Bây giờ đi học chữ Việt, chắc nó sẽ quên hết chữ Hoa quá, mất gốc là cái chắc ! " Nghe ba tôi than, tôi cũng rất buồn, nên để dành tiền mua sách dạy chữ Nho về học chữ Hoa bằng từ Hán Việt, điều này cũng phù hợp với bà con lối xóm, họ nói : " Cái thằng nầy nó học chữ Tàu, nên nó biết chữ Nho !". Trong ấp Yên Thượng của tôi ở lại có ngôi chùa Linh Thạnh Tự, tôi đến đó để học chữ Nho với ông Thầy Thừng, là Thầy trụ trì của ngôi chùa, nên chữ Nho cũng biết kha khá. Có một điều trở ngại là chữ Nho là chữ Hán Cổ, không phù hợp với tiếng Hán hiện đại, nên vẫn không xem báo và đọc tiểu thuyết Quỳnh Dao hay truyện võ hiệp của Kim Dung được, vả lại tôi chỉ biết phát âm bằng âm Việt Hán, chứ đâu biết phát âm bằng tiếng Quan Thoại.....
Lớp tôi chuyển sang học tiếng Việt 11 đứa, luyện thi 3 tháng, đi thi Bằng Tiểu Học, đậu 10 đứa, Bà con trong chợ đều khen, " Mấy đứa học trò trường Hoa chuyển sang học tiếng Việt giỏi thiệt !". Mười đứa thi đậu lại tiếp tục học lớp luyện thi vào Đệ Thất của Trường Phan Thanh Giản, một tháng sau đi thi, chỉ có mình ên tôi trúng tuyển vào Đệ Thất của năm học 1962-1963. Đến giữa năm Đệ lục PTG, thì có lớp luyện thi Trung Học Đệ Nhất Cấp cho học sinh Lục, Ngũ, Tứ của thầy Thiều Quang Minh, tôi đánh liều cả gan ghi danh vào lớp luyện thi, 6 tháng sau, hè năm 1964, Trời xui đất khiến tôi đi thi và đậu ngay bằng Trung học Đệ Nhất Cấp. Cuối năm Đệ Lục mà đã đậu Bằng Trung Học ĐNC, vấn đề là ở đây, đậu TH rồi không lẽ lại vào học lớp Đệ Ngũ, Còn xin học Đệ Tam thì Trường PTG đâu có cho, ra học ngoài trường tư thì đâu có tiền đóng học phí, cuối cùng....
Tôi lên Chợ Lớn làm lao công trong trường Trung Tiểu học PHƯỚC ĐỨC của ban Phước Kiến, ban đêm đi học lớp Tam Nhị luyện thi Tú Tài 1 ở trường Chu Văn An.... Chính trong thời gian nầy, tôi học cách phát âm bằng tiếng Quan Thoại với các thầy cô trong trường, cuối tuần chui vào các rạp chiếu bóng bình dân chiếu thường trực 2 phim cũ nói tiếng Quan thoại, thường là một phim xưa cổ trang 古装, và một phim thời đại mới 时代装 để học nghe tiếng Quan Thoại cả xưa lẫn nay, dần dần tôi nói năng trôi chảy, cộng thêm số vốn văn học Hán Việt có sẵn, lại có hoa tay, viết chữ đẹp nên ông Sự Vụ Trưởng 事務主任 của trường Phước Đức giới thiệu tôi lên Ban Mê Thuộc để dạy học, năm đó là năm 1966, tôi vừa tròn 18 tuổi....
Vì lý do như thế, cho nên tôi đâu có dám về trường Tân Hưng ở Cái Răng xin dạy học.... Chỉ đem chuông đi đấm xứ người, mãi cho đến ngày miền Nam thất thủ (1975), ông thầy cũ của tôi đang là Hiệu Phó của trường Tân Hưng mới kêu tôi xuống trường Tân Hưng dạy học....
Vì thế, ý tôi muốn trình bày là : Tất cả những kiến thức Văn Hóa Hoa Việt của tôi, đa phần là từ tiếng Việt học ngược qua tiếng Hoa. Như giai thoại về Câu đối trong Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung chẳng hạn, tôi chỉ xem bằng bản dịch tiếng Việt, rồi dịch ngược trở lại ( hồi đó đâu có tiền mà mua hoặc mướn sách chữ Tàu mà xem, muốn mướn phải đi tới Cần Thơ mới có, hơn nữa xem cũng chưa chắc đã hiểu hết, cứ lật Tự Điển mãi thì xem tới chừng nào ! ) cho nên mới có những trục trặc về kiến thức lộn xộn không giống ai cả ! Còn về việc học thi Tú Tài thì mãi đến sau biến cố năm Mâu Thân, khi đi lính theo lệnh Tổng động viên rồi, mới mua sách về tự học, nhờ có điểm lính nên năm 1970 mới đậu được Tú Tài I và năm sau 1971 đậu luôn Tú Tài II, tất cả đều là ban D cổ ngữ. Ghi danh vào Ban Việt Hán của Đại Học Văn Khoa Sài Gòn ở số 12 Đinh Tiên Hoàng Quận Nhứt, nhưng đâu có thời gian về trường nghe giảng, chỉ lấy tài liệu về tự học mà thôi. Năm 1972 là năm Mùa Hè Đỏ Lửa, nên không về trường thi được, mãi đến hè 1973 mới đậu được Chứng Chỉ Dự Bị Năm Thứ Nhất, Hè 1974 mắc bận lu bu với công tác Trao đổi tù binh, nên cũng không có thi cử gì cả. Năm 1975 thì khỏi phải nói ... "sự nghiệp học hành" chấm dứt luôn từ đó !
Sau nầy , tôi được thỉnh giảng dạy Đại Học là nhờ tôi.... học đại... những kiến thức của Đại Học Bắc Kinh gởi qua cho nhà trường làm tài liệu giảng dạy. Luôn luôn tôi phải học ngày trước, dạy lại ngày sau, nếu không , lấy ra đâu kiến thức mà dạy, nhờ sinh viên yêu mến, nên tôi cũng lây lất qua ngày cho đến ngày định cư ở Mỹ 1998 ....tôi lại làm lại cái nghề lúc mới ra đời : Lao công trường học, nhưng ở đây là trường học Mỹ , công việc tương đối nhẹ nhàng và thoải mái hơn lao công trường học ở VN nhiều, vì không có ai dám xem thường hay sai bảo mình điều gì cả ....
Hiện tôi đã về hưu được hơn 3 năm rồi và đang sống ở thành phố Houston bang Texas của Hoa Kỳ để chờ ngày về với ông bà tiên tổ ! ....
Trước khi đọc tiếp phần hồi ký THA PHƯƠNG CẦU THỰC, xin mời cùng đọc bài thơ Cung Oán nổi tiếng sau đây :
Trường Tín Thu Từ của Vương Xương Linh gồm ba bài, nhưng bài giữa là bài hay nhất và có nhiều người biết nhất, bài nầy còn có tên là Trường Tín Oán, được trích trong số 300 bài của tập Đường Thi Tam Bá Thủ. Bây giờ thì ta cùng đọc bài thơ nầy nhé !
長信怨 TRƯỜNG TÍN OÁN
王昌齡 Vương Xương Linh
奉帚平明金殿開, Phụng trữu bình minh kim điện khai,
暫將團扇共徘徊。 Tạm tương đoàn phiến cộng bồi hồi.
玉顏不及寒鴉色, Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc,
猶帶昭陽日影來。 Do đái chiêu dương nhật ảnh lai
Chú thích :
1. Trường Tín, Chiêu Dương : Tên của 2 cung trong hoàng cung của nhà vua.
Trường Tín Oán : là nỗi oán hờn trong cung Trường Tín.
2. Phụng Trữu : Phụng : là bưng, là cầm. Trữu : là cây chổi.
3. Tạm Tương : Tạm : là đở, là tạm thời. Tương : là đem, là lấy. Tạm Tương ở đây có nghĩa là Cầm đở, không có cái gì để cầm thì cầm tạm cái gì đó.
4. Đoàn Phiến : Đoàn : là tròn trịa, Phiến là cây quạt. Đoàn Phiến là Cây quạt hình tròn.
5. Ngọc Nhan : là chỉ Dung nhan đẹp như ngọc, thường dùng để ví với nhan sắc của các giai nhân người đẹp.
6. Hàn Nha : Hàn là Lạnh, Nha là Con Quạ. Hàn Nha là Con quạ lạnh lẽo trong đêm thu.
7. Do là Liên từ, có nghĩa là Còn. Đái : là mang, là xách, là dẫn dắt.
8. Nhựt Ảnh : là Bóng mặt trời, ở đây có nghĩa là Ánh Nắng, ánh sáng mặt trời.
Dịch nghĩa :
Cầm cây chổi để quét lá thu vàng rụng trong buổi bình minh khi điện vàng vừa mở cửa,( sau đó ) nàng mân mê cánh quạt lụa tròn theo thói quen cầm tay, nhưng đã hết công dụng trong mùa thu mát mẻ nầy. Oán hận vì thương cho nhan sắc đẹp như ngọc của mình lại không bằng được con quạ lạnh lẽo trong đêm vừa bay đến, vì con quạ tuy lạnh lẽo, nhưng còn mang được ánh nắng ấm áp của điện Chiêu Dương, nơi mà nhà vua đang ngự, còn mình thì....
Diễn nôm :
Điện vàng, tay chổi, sáng mờ sương,
Quạt lụa bâng khuâng nỗi đoạn trường,
Vẻ ngọc không bằng con quạ lạnh,
Còn mang ánh nắng điện Chiêu Dương !
Lục bát :
Điện vàng mở, chổi cầm tay,
Bâng khuâng quạt lụa ai hoài xót thương.
Không bằng quạ lạnh kêu sương,
Còn mang ánh nắng Chiêu Dương đến gần
Đỗ Chiêu Đức.
THA PHƯƠNG CẦU THỰC 1
Năm 1964, sau khi thi đậu BằngTrung học Đệ Nhất cấp, vì nhà nghèo, nên tôi phải khăn gói lên Sài Gòn kiếm sở để vừa làm vừa học. Được sự giới thiệu của người thầy cũ, xưa làm Hiệu Trưởng ở trường Tiểu học Tân Hưng Cái Răng giới thiệu vào làm lao công cho trường Trung Tiểu Học PHƯỚC ĐỨC ở đường Khổng Tử trong Chợ Lớn. Đó là thầy Trần, nay là Tổng Giám Thị của Trường Phước Đức, còn Bà Trần, vợ thầy, cũng là cô giáo cũ của tôi, làm Giám Thị của khu Nữ Trung học. Hai ông bà còn kinh doanh riêng một trường Tiểu Học tư thục Phước Dân, tọa lạc ở đường Học Lạc.
Tôi và một anh bạn học cũ nữa, cũng là dân Cái Răng. Ban ngày thì làm lao công quét dọn trường học, ban đêm thì đi học luyện thi Tú Tài 1 ở Trường Trung Học Chu Văn An. Chúa nhật, thì hai đứa cùng chui vào rạp chiếu bóng bình dân thường trực xem 2 phim Hồng Kông nhập một để học nghe và nói tiếng Quan Thoại.
Có một Chúa Nhật, Ông bà Trần nhờ 2 đứa đến giúp dọn dẹp và làm vệ sinh trường riêng của ông bà . Thỉnh thoảng ông bà vẫn thường nhờ như thế. Hôm ấy, vì mới đọc được bài " Trường Tín Oán " của Vương Xương Linh nêu trên, nên sau khi quét dọn xong, tôi bèn nổi hứng, cầm phấn viết ngay lên bảng bài thơ trên, nhưng đã được cải biên như sau :
校工怨 HIỆU CÔNG OÁN
王猖伶 Vương Xương Linh
奉帚平明課室開, Phụng trữu bình minh khóa thất khai,
暫將垃圾共徘徊。 Tạm tương lạp cấp cộng bồi hồi.
校工不及痰盂福, Hiệu công bất cập đàm vu phúc,
猶帶先生吐出來。 Do đái tiên sinh thổ xuất lai !
Ghi Chú :
1. Hiệu Công : Hiệu là trường học. Công là lao công. Hiệu Công : là Lao công trường học.
2. Khóa Thất : là Lớp học, là phòng học.
3. Lạp Cấp : là rác rến. trong bài thơ bị ẩn hết 1 chữ chỉ : Thùng xúc rác.
4. Đàm Vu : là cái ống nhổ để khạc đàm.
5. Tiên Sinh : là Thầy giáo, là ông ,là Ngài.
6. Thổ Xuất : là nhổ ra.
Dịch nghĩa :
Cái oán của Lao công trường học.
Buổi sáng đã phải xách cây chổi khi lớp học vừa mới mở ra , xách cái thùng rác để quét rác vào mà lòng cảm thấy bồi hồi.( Tự cảm thấy rằng ) Lao công trường học không có phước bằng cái ống nhổ, ( Vì cái ống nhổ ) còn mang được những cái gì mà thầy giáo nhổ ra.
Diễn nôm :
Xách chổi ban mai lớp mở ra,
Bùi ngùi quét rác tủi ru mà !
Lao công thua cả cái ống nhổ,
Còn chứa những gì thầy nhổ ra !
Viết xong những câu trên, tôi vô cùng đắc ý. Thứ nhất là các từ dùng để thay thế vào bài thơ đều đúng luật bằng trắc và rất tự nhiên như chính mình làm ra. Thứ hai là các từ đó cũng diễn đạt được ý mình muốn nói lại còn gởi gấm được tâm sự tủi hổ của cái nghề nghiệp thấp hèn của mình. Thứ ba là cái tự hào, cái ngông của tuổi mới lớn, muốn chứng tỏ cho Thầy Bà biết rằng Lao Công cũng có thể đọc hiểu và thưởng thức văn chương như ai, chứ đâu phải... đồ bỏ ! Thế nhưng...
Thế nhưng, sáng Thứ hai, khi học sinh vừa vào giờ học xong, thì có lịnh của văn phòng Tổng Giám Thị mời... anh lao công Đỗ Chiêu Đức lên văn phòng làm việc. Tuổi trẻ chóng quên, lúc đó tôi rất ngạc nhiên không biết là chuyện gì, chừng bước vào Văn Phòng, thấy đầy đủ cả chức sắc của Ban Giám Thị đều có mặt, tôi cúi đầu chào tất cả rồi đứng nép một bên. Ông thầy tôi, Ngài Tổng Giám Thị, vẻ mặt giận dữ, chìa một tấm giấy trước mặt tôi và hỏi :
- Bài thơ nầy phải của em viết không ?. Tôi khép nép :
- Thưa thầy, phải ạ.
- Ai dạy và xúi giục em viết bài thơ nầy ?
- Thưa thầy, tự em viết chớ không ai xúi cả à.
- Em đọc được Đường Thi ?. Em thử đọc lại nguyên bản khi chưa sửa xem !
Tôi đọc lại bài thơ xong, ông càng giận dữ hơn :
- Em sửa bài thơ lại với ý gì ? Em oán trách chúng tôi bốc lột và đối xử tệ bạc với em chứ gì ?.
- Dạ thưa thầy, em không dám, em chỉ sửa cho hợp với hoàn cảnh của mình, và...
-...Và muốn khoe tài giỏi chứ gì ?. Tôi ức lắm, nhưng cũng trình bày :
-... Và em muốn gởi gắm tâm sự của mình trong đó !. Tôi nói theo những gì đã học trong trường. Thường thì các tác giả mình học hay gởi gắm tâm sự, hoài bão qua thơ văn. Không ngờ quý thầy trong phòng đều bật cười, một thầy hỏi :
- Gởi gắm tâm sự gì qua cái ống nhổ vậy ?. Một thầy khác nói :
- Tâm sự dơ dáy, mất vệ sinh ! Bộ hết cách gởi gắm tâm sự rồi hay sao ?.
Tôi ức đến muốn trào nước mắt, định tìm lời nói lại, thì ông thầy tôi đã quát :
- Thôi ! Đi ra ngoài làm việc đi ! Kỳ sau đừng sửa thơ bậy bạ nữa, cả tên tác giả cũng viết sai, may mà không có ý đồ xấu, nếu không thầy Hiệu Trưởng sẽ cho Cảnh Sát điều tra làm việc với em đó !
Bước ra khỏi phòng Tổng Giám Thị, nước mắt tôi mới trào ra. Tôi tức tối và khinh bỉ họ quá. Một lũ thầy giáo dốt ! Họ đã vô tình chà đạp lên nhân cách của một người nghèo, cười cợt trên sự tủi hổ của tôi. Họ đâu có biết, hoặc không thèm biết rằng, ở lứa tuổi 16 của tôi, nếu gia đình khá giả , thì giờ nầy tôi cũng cấp sách đến trường, chớ đâu phải cầm cây chổi quét rác dọc theo hành lang trong giờ vào học, để nhìn các người cùng trang lứa với mình đang vui vẻ cười đùa trong lớp.....
Tâm sự dơ dáy ư ? Họ là thầy giáo dạy tiếng Hoa mà quên hết chữ nghĩa của Thánh Hiền. Cái ống nhổ chỉ là giả tá, mượn để so sánh với thân phận thấp hèn của mình, còn cái mà Thầy Cô nhổ ra , phun ra ở đây, đâu phải là đờm rải dơ dáy, chữ THỔ còn có nghĩa là nói ra mà, ví dụ như Thổ Lộ là bày tỏ vậy . Tôi chỉ buồn tủi cho thân phận của mình không bằng được cái ống nhổ, vì cái ống nhổ còn chứa đựng được những gì mà Thầy Cô nói ra, là những khuôn vàng thước ngọc, là kim ngôn ngọc ngữ, là kim ngọc lương ngôn, là những đạo lý làm người, là lẽ phải ở đời.... Sao họ không hiểu gì hết vậy ?. Họ chỉ biết có đờm rải dơ dáy mất vệ sinh mà thôi ! Hỡi ôi !!!!....
Còn Cảnh Sát điều tra ư ?. Tôi có xúc phạm gì đến Ngài Hiệu Trưởng Tăng Kim Đông sắp lên làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Thủ Tướng Lộc ( 1965 ) của họ đâu mà lại hù dọa !. Tôi muốn dọn đồ xin nghỉ làm ngay ngày hôm sau. Thời may tối hôm đó, Thầy Tổng Sự Vụ Trưởng của trường đến gặp tôi, thầy an ủi và khuyên tôi hãy ráng ẩn nhẩn vừa làm vừa học, rồi thầy sẽ giới thiệu cho tôi đi dạy học trong tương lai.... Và nhờ vậy mà tôi trở thành thầy giáo khi mới tròn 18 tuổi.
THA PHƯƠNG CẦU THỰC 2
... Sau vụ sửa bài thơ " Trường Tín Oán " của Vương Xương Linh, mặc dù bị Văn Phòng TGT giũa cho một trận, nhưng tiếng tăm của anh lao công Đỗ Chiêu Đức giỏi văn thơ cổ lại nổi như cồn. Các bậc chức sắc và một số thầy cô tìm đến phòng trọ của lao công ở trong trường để đọc những bài thơ, văn bằng tiếng Hán Cổ mà anh đã viết và dán nhan nhản khắp phòng...
Giữ đúng lời hứa, Ngài Tổng Vụ Chủ Nhiệm Hà Đức Phương tốt bụng đã giới thiệu anh ta đi Ban Mê Thuộc để dạy ở trường Tiểu học DỤC ANH, mặc dù năm đó anh ta thi rớt Tú Tài 1. Từ lao công trường học, phủi chân cái rụp, nhảy lên làm thầy giáo, anh ta cảm thấy lâng lâng như bước trên mây, niềm vui phơi phới, cảm thấy cuộc đời sao lại đẹp đẽ thế nầy ?!.... Thì ra giữa những kẻ xấu còn có người tốt, giữa những đứa ác còn có những ông thiện...
Từ một đứa bé quê mùa ở xã Thường Thạnh Đông, mười tuổi ra Thị Trấn Cái Răng học mới thấy được chiếc xe hơi, mười lăm tuổi tha phương cầu thực lên Sài Gòn mới thấy được cảnh phồn hoa đô hội, với ngựa xe như nước, áo quần như nen. Bây giờ lại được ngồi máy bay từ Sài Gòn đi Nha Trang, rồi từ Nha Trang mới đáp xe đò lên Ban Mê Thuộc. ( Trong thời buổi chiến tranh, tuyến đường xe Sài Gòn- Ban Mê Thuộc thường xuyên bị cắt, nên vé máy bay SG- BMT đã được các thương gia chiếu cố hết rồi. Nha Trang nhiều chuyến bay hơn, nên phải đi vòng như thế ! ) .
Chàng thanh niên nhà quê Lục Tỉnh lần đầu tiên thấy được cảnh núi rừng hùng vĩ hiễm ác, với vách đá cheo leo, với cỏ cây rừng bí hiểm, với những khe suối róc rách bên đường.... không khỏi xúc động tâm tình, nhất là khi xe lên đèo Rù Rì, ở trên cao, xa xa lại nhìn thấy biển cả mênh mông ngút ngàn, trời nước như liền nhau với một màu xanh bát ngát.... Trước kia, có nằm mơ anh ta cũng không bao giờ thấy được những cảnh trí như thế nầy, nên quá xúc động tâm tình, bèn rút cây viết bấm mà thằng bạn lao công mới mua tặng anh ta trước khi lên đường, mò mẫm viết bài thơ Ngũ Ngôn sau đây :
芽邦途中作 NHA BAN ĐỒ TRUNG TÁC
綠綠青青峯, Lục lục thanh thanh phong,
銀銀海色重. Ngân ngân hải sắc trùng.
奔流溪裡水, Bôn lưu khê lý thủy,
颯吹野外風. Táp xúy dã ngoại phong.
山道嶂嵐襲, Sơn đạo chướng lam tập
前途煙雨中. Tiền đồ yên vũ trung.
他鄉尋食者, Tha hương tầm thực giả,
忽覺感懐濃. Hốt giác cảm hoài nùng.
Chú Thích :
1. Phong 峯: Chữ Phong nầy có bộ Sơn phía trên , chỉ phần trên của núi, ta thường gọi là Ngọn núi.
2. Trùng 重: là Chồng lên, là lặp lại, Chữ nầy còn đọc là TRỌNG : Có nghĩa là nặng.
3. Bôn lưu : là chảy xiết, chảy cuồn cuộn.
4. Táp xúy : là Thổi phần phật, thổi ào ào.
5. Chướng Lam : là Sơn Lam Chướng Khí, những hơi độc và mây mù trong núi. TẬP : là đánh ụp, là tấn công : như Tập công. Ở đây chỉ lấn chiếm.
6. Tiền đồ : Tiền là phía trước, Đồ là con đường. Tiền Đồ : có nghĩa là Con đường trước mắt, nghĩa bóng là chỉ con đường trong tương lai.
7. Tha Hương Tầm Thực : Xa quê để kiếm cái ăn, chỉ những người đi làm ăn xa quê hương xứ sở.
8. Nùng : là nồng, là đậm.
Dịch nghĩa :
Cảm tác trên đường từ Nha Trang đi Ban Mê Thuộc.
Những ngọn núi xanh xanh chập chùng nối tiếp nhau, và biển trời mênh mông trắng xóa như nối tiếp chồng lên nhau ở phía chân trời. Bên đường, dòng suối trong khe chảy ra cuồn cuộn và gió ngoài rừng trống phần phật rít từng cơn. Sơn lam chướng khí mịt mù lấn chiếm cả con đường đèo trên núi và con đường trước mắt chìm trong mưa khói mông lung. ( Không biết tương lai sẽ ra sao ? ). Khiến cho người cầu thực tha phương, bỗng nhiên càng thấy niềm cảm xúc dào dạt dâng trào !
Diễn nôm :
Xanh xanh rừng núi thẳm,
Trắng xóa biển mênh mông.
Nước khe tuôn róc rách,
Gió núi rít não nùng.
Sơn lam đường mờ mịt,
Mây khói nẽo mông lung.
Kẻ tha phương cầu thực,
Nghe cảm khái ngập lòng !
Lục bát :
Chập chùng rừng núi xanh rì,
Mênh mông biển cả thấy gì chân mây.
Suối tuôn róc rách bên tai,
Gió rừng rít mạnh khiến ai chạnh lòng.
Đường đèo mờ mịt vời trông,
Tương lai sương khói mịt mùng biết đâu !
Tha phương cầu thực nghe sầu,
Lòng càng cảm khái, lần đầu xa quê !
Thấy anh ta hí hoáy viết, ông Hiệu Trưởng ngồi bên liếc nhìn rồi ngạc nhiên hỏi : Anh biết làm thơ ?!. Sau khi đọc xong bài thơ trên, ông tỏ vẻ rất hài lòng và khi vừa về đến Ban Mê Thuộc, ông bèn gởi bài thơ ngược trở về Sài Gòn để đăng trên báo Á Châu tiếng Hoa bấy giờ. Chính lòng tốt nầy của ông đã cứu ông khỏi một phen rắc rối, vì một tuần sau, Ban Quản Trị của Hội Phụ Huynh Học Sinh chất vấn ông là : Bộ hết người rồi sao mà phải mướn một thằng nhỏ miệng còn hôi sửa về làm thầy giáo thế nầy ?!.
Ông ta bèn chìa bài thơ được đăng báo ra và giải thích : " Anh ấy còn trẻ nhưng có khả năng, lại viết chữ rất đẹp ! ". Sẵn ông ta cũng cho xem luôn bản viết tay của bài thơ mà anh thầy giáo trẻ đã nắn nót viết tặng cho ông khi vừa về tới trường.
Sẵn đây, cũng xin trình bày luôn để mọi người được biết là : Trước đây, tất cả các trường Hoa ở khắp Miền Nam, trừ một vài trường của tư nhân lập ra ở Chợ Lớn, còn tất cả đều là TRƯỜNG CÔNG LẬP , do Ngũ Ban ( Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến, Hải Nam và Ban Hẹ ). với Hội Phụ Huynh học sinh đứng ra tổ chức, xây dựng và điều hành mọi sinh hoạt và hỗ trợ toàn bộ kinh phí hoạt động của nhà trường.
Đối với Nhà Nước, thì là trường Tư Thục, còn đối với đồng bào người Hoa, là trường Công Lập. Ban Quản Trị của Hội phụ huynh học sinh chịu trách nhiệm tìm người giỏi, có học thức, có kinh nghiệm tổ chức điều hành giáo dục làm Hiệu Trưởng. Hiệu Trưởng chịu trách nhiệm đi tìm giáo viên về hợp tác với mình. Nên cứ Hè đến là tất cả Hiệu Trưởng của các trường Hoa ở các Tỉnh đều đổ xô về Sài Gòn Chợ Lớn để tìm thêm giáo viên về dạy cho trường mình. Thường thì, Hợp đồng của BQT Hội PHHS ký với Hiệu Trưởng là 2 năm. Nếu điều hành không có thành tích, thì sau 2 năm, Hiệu Trưởng sẽ tự động rút lui, còn nếu là HT giỏi thì Hội PHHS sẽ giữ lại tiếp tục 2 năm nữa !. Vì thế, nên HT tìm được giáo viên, thì chỉ ký hợp đồng 1 năm mà thôi, sau 1 năm, nếu là GV giỏi, thì Hiệu Trưởng sẽ ký tiếp 1 năm nữa, còn nếu HT nín thinh, thì GV tự động cuốn gói đi tìm trường khác ! Nguyên tắc là thế, nhưng có nhiều Hiệu Trưởng trụ lại 8 năm, 10 năm hoặc định cư lập nghiệp luôn ở địa phương đó cũng là chuyện thường.
Đối với Bộ và Ty giáo dục, thì mỗi địa phương đều phải tìm một người địa phương có bằng cấp thích hợp ( Tú Tài 1, 2, hoặc Đại học ) để đứng tên làm Hiệu Trưởng và phụ trách tất cả giấy tờ và thủ tục hành chánh của nhà trường. Trước đây vì chiến tranh, nam phải đi lính, nên thường là nữ đứng tên làm Hiệu Trưởng ( Như trường hợp Cô Nguyễn Kim Quang là Hiệu Trưởng Hành Chánh của trường Tân Hưng Cái Răng vậy ). Vì thế mà mỗi trường HOA đều có 2 vị Hiệu Trưởng, một điều hành bên chuyên môn tiếng Hoa, và một chịu trách nhiệm về thủ tục hành chánh bên tiếng Việt.
Đôi hàng giải thích, để mọi người hiểu được là tại sao anh lao công Đỗ Chiêu Đức phủi chân cái rụp là nhảy lên thành thầy giáo trong nháy mắt liền một khi !....
Đỗ Chiêu Đức
No comments:
Post a Comment