Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 12 February 2014

CỬU BÌNH II

Bài bình luận số 5

Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc lợi dụng lẫn nhau để đàn áp Pháp Luân Công



Lời mở đầu

     Giang Trạch Dân thả chó cắn một em bé đang tập Pháp Luân Công. Chữ Hán trong tranh biếm họa nói "La Cán và phòng 610 - những con chó ác độc giết hại dân lành" (Epoch times
 
Trương Phó Trân, nữ, khoảng 38 tuổi, nguyên là nhân viên tại công viên Hiện Hà, thành phố Bình Độ, tỉnh Sơn Đông. Tháng 11/2000 cô lên Bắc Kinh để kêu oan cho Pháp Luân Công, và bị bắt giữ. Theo những người chứng, công an đã cưỡng chế lột sạch quần áo của cô Trương Phó Trân, cạo cô trọc đầu, đánh đập, làm nhục cô. Công an trói căng cô trên giường với chân tay giang ra hết. Cô bị ép buộc đi đại tiểu tiện ngay trên giường. Sau đó công an Trung Quốc tiêm vào người cô ta những thứ thuốc độc hại mà không rõ tên gì. Bị tiêm xong, cô đau đớn quằn quại trên giường cho đến chết. Trong suốt thời gian đó, quan chức lớn bé của “phòng 610” cũng có mặt tại hiện trường và chứng kiến tất cả. (theo báo cáo của website Minghui, 23/7/2004). [1]
Cô Dương Lệ Vinh, 34 tuổi, người dân tại phố Bắc Môn, thành phố Định Châu, địa khu Bảo Định, tỉnh Hà Bắc, một người tu luyện Pháp Luân Công. Gia đình cô thường bị cảnh sát quấy nhiễu và đe doạ. Tối 8/2/2003, sau khi cảnh sát “thăm viếng” nhà cô Dương Lệ Vinh, chồng cô, một tài xế lái xe tại Cục Đo Lường, vì sợ mất việc làm và không chịu được áp lực, sang ngày hôm sau, thừa lúc không còn ai ở nhà đã bóp cổ vợ chết. Cô Dương Lệ Vinh qua đời trong bi kịch, bỏ lại đứa con trai nhỏ 10 tuổi. Ngay sau đó, chồng cô đi báo cáo với chính quyền, và công an lập tức đến hiện trường để khám nghiệm tử thi cô Dương, lúc đó vẫn còn ấm. Chúng mổ và lấy nhiều nội tạng ra khỏi cơ thể cô, trong khi các bộ phận nội tạng vẫn còn nóng ấm và máu vẫn phun ra. Một nhân viên Sở Công an Định Châu nói “Đây không phải là khám nghiệm tử thi, mà là giải phẫu sống!” (trích dẫn từ một bài đăng trên trang website Minghui ngày 25/09/2004). [2]
Tại trại cải tạo lao động cưỡng bức Vạn Gia thuộc tỉnh Hắc Long Giang, một phụ nữ đang có thai khoảng 7 tháng bị treo lên trên một xà ngang. Cả hai tay cô ta bị trói bằng một sợi dây thừng thô vắt qua một cái ròng rọc gắn trên thanh xà. Cái ghế mà chúng để cô ta đứng lên đã bị lấy đi, và cô ta bị treo lủng lẳng trên không trung. Cây xà ngang ở trên mặt đất khoảng 3 đến 4 mét. Sợi dây thừng được vắt qua cái ròng rọc, và bọn cai ngục nắm một đầu dây. Khi bọn cai ngục kéo sợi dây, cô bị kéo lên trên không, khi chúng thả sợi dây ra, cô ta bị rơi ngay xuống đất. Người phụ nữ đang mang thai này bị đau đớn do tra tấn như thế này cho đến khi cô bị sẩy thai. Còn dã man hơn nữa là chúng bắt chồng cô chứng kiến cảnh người vợ bị tra tấn như vậy (trích dẫn từ một bài đăng trên trang web Minghui ngày 15/11/2004, một cuộc phỏng vấn với Cô Vương Ngọc Chi, người bị tra tấn hơn 100 ngày tại trại lao động cưỡng bức Vạn Gia). [3]
Những thảm án kinh tâm nổi bật này đang xảy ra hằng ngày ở Trung Quốc hiện đại. Nó xảy ra với những học viên Pháp Luân Công, những người đang bị chính quyền đàn áp vô cùng nghiêm trọng. Những trường hợp kể trên chỉ là một vài trong vô số các trường hợp tra tấn khác đã liên tục xảy ra trong hơn 5 năm qua.
Từ khi Trung Quốc bắt đầu cải cách nền kinh tế vào cuối những năm 1970, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã cố gắng tạo cho mình một hình ảnh tích cực, tự do trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, cuộc đàn áp đẫm máu với tính chất phi lý, đã lan tràn khắp nơi, thủ đoạn dã man và tàn nhẫn vô cùng đối với Pháp Luân Công diễn ra hơn 5 năm qua, cũng cho cộng đồng quốc tế một lần nữa chứng kiến bộ mặt thật sự của ĐCSTQ. Đây cũng là vết nhơ lớn nhất đối với lịch sử của ĐCSTQ trong lãnh vực nhân quyền. Dư luận xã hội ở Trung Quốc, đang ở trong một ảo tưởng rằng ĐCSTQ đã cải thiện và tiến bộ, họ đã trở nên quen thuộc với việc cho rằng chuẩn mực đạo đức thấp kém của cảnh sát là do sự tàn bạo của hệ thống luật pháp và bảo vệ pháp luật của Trung Quốc. Tuy nhiên, cuộc đàn áp tàn khốc và có hệ thống đối với Pháp Luân Công diễn ra ở tất cả các cấp trong xã hội Trung Quốc đã hoàn toàn làm tan vỡ ảo tưởng về việc cải thiện tình hình nhân quyền. Nhiều người đang tự hỏi làm sao mà một chiến dịch đàn áp đẫm máu và vô nhân đạo như vậy lại có thể đang diễn ra ở Trung Quốc. Trật tự xã hội vừa được ổn định từ 20 năm trước, sau những hỗn loạn của Đại Cách mạng Văn hoá, thì tại sao Trung Quốc lại bước vào một thời kỳ ác mộng tương tự nữa như vậy? Tại sao Pháp Luân Công, tuân theo nguyên lý “Chân Thiện Nhẫn”, đã được phổ biến ở hơn 60 quốc gia trên thế giới, lại chỉ bị đàn áp ở Trung Quốc, mà không bị đàn áp ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới? Trong cuộc đàn áp này, sự quan hệ giữa Giang Trạch Dân và ĐCSTQ là như thế nào?
Giang Trạch Dân không có đức và không có tài. Nếu không có guồng máy bạo lực vận chuyển tinh nhuệ như Ðảng Cộng sản Trung Quốc mà dựa trên cơ sở giết người và lừa dối, thì hắn sẽ không bao giờ có thể phát động chiến dịch diệt tuyệt một quần thể này, một cuộc diệt tuyệt quần thể được thực hiện trên toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc và ngay cả còn lan đến nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tương tự như vậy, ĐCSTQ sẽ khó mà đi ngược trào lưu lịch sử và môi trường mà nó đã tạo ra trong chính sách cải cách kinh tế thời gian gần đây, cộng với những nỗ lực hòa nhập với thế giới; chỉ có một kẻ độc tài cứng đầu cứng cổ như Giang Trạch Dân luôn luôn nhất quyết làm theo ý của mình mới có thể đưa ra và thực hiện chính sách diệt tuyệt quần thể này. Sự phối hợp với nhau và cộng hưởng giữa Giang Trạch Dân và tà linh Cộng sản đã khuếch đại tính tàn bạo của cuộc đàn áp đến một mức độ chưa từng có trong lịch sử. Nó tương tự như sự cộng hưởng giữa âm thanh dụng cụ của người leo núi và tuyết dày mà có thể gây nên một vụ lở tuyết và đem đến những hậu quả thảm khốc.
I. Lai lịch tương tự mang lại cùng một cảm giác nguy cơ
Giang Trạch Dân sinh năm 1926, một năm ứng với tai kiếp mà sinh ra. Giống như Ðảng Cộng Sản Trung Quốc cố che dấu lịch sử đẫm máu của nó, Giang Trạch Dân, trước Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc, cũng đã che đậy tiểu sử phản bội của hắn đối với Trung Quốc.
Vào năm Giang Trạch Dân 17 tuổi, chiến tranh chống phát-xít trên toàn thế giới đang đã lên tới đỉnh điểm. Khi những thanh niên yêu nước thay nhau lên đường ra tiền tuyến đánh Nhật để bảo vệ Trung Quốc, thì Giang Trạch Dân đã lựa chọn theo đuổi việc học lên cao vào năm 1942 tại Đại học Trung Ương, một trường đại học của chính phủ bù nhìn Uông Tinh Vệ ở Nam Kinh dưới quyền kiểm soát của quân Nhật. Theo nhiều nguồn tin điều tra thì lý do là vì cha của Giang Trạch Dân —Giang Sĩ Tuấn— đã từng là một sĩ quan cao cấp trong ban Tuyên Truyền phản Hoa của quân đội Nhật, sau khi Nhật chiếm đóng tỉnh Giang Tô trong cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc của Nhật. Giang Sĩ Tuấn đích thực là một tên Hán gian.
Về phương diện Hán gian bán nước, Giang Trạch Dân và Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) giống hệt nhau: đều không có một chút tình cảm nào đối với nhân dân Trung Quốc và dám tùy tiện giết hại thường dân vô tội.
Để hỗn nhập vào Ðảng mà mưu cầu quan chức sau khi ĐCSTQ chiến thắng trong cuộc nội chiến giữa Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng Sản, Giang Trạch Dân đã bịa đặt rằng hắn ta được người chú là Giang Thượng Thanh, người đã gia nhập vào Đảng từ trẻ và sau đó bị bọn cướp bắn chết, nhận làm con nuôi và nuôi dưỡng. Nhờ bịa đặt lý lịch gia đình, hắn ta đã được thăng chức từ một cán bộ cấp thấp lên Thứ trưởng Bộ Công Nghiệp Điện Tử chỉ trong vòng mấy năm. Việc thăng chức của Giang không phải là vì hắn có tài, mà là do quan hệ và thiên vị cá nhân. Trong thời kỳ hắn là Bí thư Thành ủy Thượng Hải, Giang Trạch Dân đã hết sức nịnh bợ các lãnh đạo kỳ cựu của Ðảng Cộng sản Trung Quốc như Lý Tiên Niệm và Trần Vân [4] vì hai người này đến Thượng Hải hàng năm vào dịp Tết. Thậm chí, với tư cách là Bí thư Thành ủy Thượng Hải, Giang đã từng đích thân đứng đợi trong tuyết dầy hàng giờ đồng hồ để tự tay trao bánh sinh nhật cho Lý Tiên Niệm.
Vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn vào ngày 4 tháng 6 năm 1989 là một bước rẽ nữa trong cuộc đời của Giang Trạch Dân. Giang trở thành Tổng Bí thư Ðảng Cộng sản Trung Quốc sau khi đàn áp một tờ báo dám nói tự do là World Economic Herald, ra lệnh bắt Chủ tịch Quốc hội Vạn Lý giam lỏng tại nhà riêng, và ủng hộ việc thảm sát. Thậm chí trước khi vụ thảm sát diễn ra, Giang Trạch Dân đã trao một bức thư mật cho Đặng Tiểu Bình, đề nghị rằng phải có “các biện pháp kiên quyết” đối với các sinh viên; nếu không “sẽ mất Đảng và mất nước”. Trong hơn 15 năm qua, Giang đã tiến hành đàn áp và giết hại bừa bãi tất cả những người bất đồng ý kiến hay các tập thể tín ngưỡng độc lập, dưới chiêu bài “ổn định là ưu tiên hàng đầu”.
Từ khi cả Nga và Trung Quốc bắt đầu hiệu chỉnh biên giới chung của họ vào năm 1991, Giang Trạch Dân đã hoàn toàn công nhận kết quả xâm lược Trung Quốc của Nga Hoàng và cựu Liên Bang Sô Viết, và hoàn toàn chấp thuận tất cả những hiệp ước bất công giữa Trung Quốc và Nga kể từ Hiệp ước Aigun. Lãnh thổ Trung Quốc khoảng hơn một triệu kilomét vuông đã vì thế bị Giang vĩnh viễn bán đứt.
Với tiểu sử của Giang Trạch Dân, giả vờ là một đứa con mồ côi của một liệt sĩ Ðảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), trong khi trên thực tế hắn là con cả của một tên phản bội Trung Quốc, bản thân Giang đã theo bí quyết "lường gạt" của Đảng cộng sản; trong việc ủng hộ vụ thảm sát học sinh “mùng 4 tháng 6” và đàn áp các phong trào đòi quyền dân chủ và tín ngưỡng tôn giáo, cá nhân hắn đã áp dụng bí quyết "giết người" của Đảng cộng sản. Cũng như việc ĐCSTQ đã từng ở dưới sự chỉ huy của Liên Bang Sô Viết như là một chi nhánh Viễn Đông của Cộng sản Quốc tế, Giang Trạch Dân hiện đang cho không lãnh thổ Trung Quốc; hắn đã theo bí quyết "phản bội, bán đứng" của Đảng Cộng Sản.
Giang Trạch Dân và Ðảng Cộng sản Trung Quốc cùng có chung nguồn gốc và lịch sử nhục nhã như nhau. Chính vì điều này, cả hai cùng có chung sự nhậy cảm về nỗi bất an đối với quyền lực của mình.

II. Cả Giang Trạch Dân và Ðảng Cộng sản Trung Quốc cùng sợ “CHÂN THIỆN NHẪN” như nhau

Lịch sử của phong trào Cộng Sản Quốc Tế được viết bằng máu của hàng trăm triệu người. Gần như mỗi nước Cộng Sản đều trải qua một quá trình tương tự như cuộc đàn áp các phần tử phản cách mạng do Stalin phát động ở Liên Bang Sô Viết. Hàng triệu, hay ngay cả hàng chục triệu người vô tội đã bị giết hại. Trong thập niên 1990, cựu Liên Bang Sô Viết đã bị giải thể, và khối Đông Âu đã trải qua những biến động lớn. Khối Cộng sản đã bị mất hơn một nửa giang sơn chỉ trong một đêm. Ðảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã học được bài học này và nhận ra rằng sự việc ngưng đàn áp và cho phép tự do ngôn luận là tương đương với tự chôn mình. Nếu người dân được tự do ngôn luận, thì Ðảng Cộng sản Trung Quốc làm sao có thể che đậy được sự tàn bạo đẫm máu của nó? Làm thế nào ĐCSTQ có thể biện hộ cho hệ thống tư tưởng lường gạt của chính nó? Nếu ngưng đàn áp và người dân không bị đe dọa và sợ hãi, chẳng phải họ sẽ dám chọn cho mình một lối sống và niềm tin khác với chủ nghĩa cộng sản hay sao? Vậy thì, làm sao Ðảng Cộng sản có thể duy trì được một nền tảng xã hội mà cần thiết cho sự sống còn của nó?
Ðảng Cộng sản Trung Quốc đến chết cũng vẫn không thay đổi bất kể là nó đã có những biến đổi gì trên bề mặt. Sau vụ thảm sát “mùng 4 tháng 6”, Giang Trạch Dân đã tuyên bố “tiêu diệt tất cả những yếu tố không ổn định ngay từ trong trứng nước”. Quá sợ hãi, hắn ta kết luận rằng hắn sẽ không bao giờ từ bỏ việc lừa dối công chúng, và hắn sẽ tiếp tục đàn áp người dân cho đến khi họ hoàn toàn bị trói chặt.
Cũng trong thời kỳ này, Pháp Luân Công xuất hiện ở Trung Quốc. Đầu tiên, nhiều người coi Pháp Luân Công là một loại khí công [5] với một khả năng đặc biệt tốt cho việc chữa bệnh và tăng cường sức khoẻ. Sau đó, mọi người dần dần nhận ra rằng chủ ý của Pháp Luân Công không phải chỉ là năm bài tập đơn giản, mà là dùng "Chân Thiện Nhẫn" để chỉ dạy người ta làm một người tốt.

1. Pháp Luân Công giảng “Chân Thiện Nhẫn”; Ðảng Cộng sản giảng “Giả dối, Ác độc, Đấu tranh”

Pháp Luân Công đề xướng “Chân” bao gồm nói lời chân thật và làm việc chân thật. Ðảng Cộng sản Trung Quốc thì dựa vào những lời dối trá lường gạt để tẩy não người dân. Nếu tất cả mọi người bắt đầu nói sự thật, công chúng sẽ biết rằng Ðảng Cộng sản Trung Quốc đã lớn lên bằng cách lấy lòng Liên-xô, giết người, bắt cóc, lợi dụng cơ hội, bỏ chạy, trồng thuốc phiện, cướp công trong cuộc chiến đấu chống quân Nhật xâm lược v.v… Ðảng Cộng sản Trung Quốc đã từng tuyên bố rằng “Không thể làm được việc gì lớn nếu không nói dối”. Sau khi Ðảng Cộng sản Trung Quốc nắm chính quyền, nó đã liên tiếp phát động các phong trào chính trị và đã gây ra vô số nợ máu. Vì vậy nói lời “Chân” chắc chắn sẽ kết liễu Ðảng Cộng sản Trung Quốc.
Pháp Luân Công dạy “Thiện” bao gồm nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình và đối xử tốt với người khác trong mọi trường hợp. Ðảng Cộng sản Trung Quốc thì luôn luôn chủ trương “đấu tranh tàn bạo và triệt hạ tàn nhẫn”. Người anh hùng mẫu mực của Ðảng Cộng sản Trung Quốc là Lôi Phong, có lần nói “Chúng ta nên đối xử tàn nhẫn với kẻ thù của chúng ta và phải lạnh lùng như mùa đông khắc nghiệt”. Thật ra, Ðảng Cộng sản Trung Quốc không chỉ đối xử với kẻ thù của họ như thế, mà họ cũng không đối xử với đảng viên của chính mình tốt hơn chút nào. Những người sáng lập ra Ðảng Cộng sản, những tư lệnh tối cao của quân đội, và ngay cả Chủ tịch nhà nước cũng đều bị Đảng của chính họ hỏi cung tàn nhẫn, đánh đập dã man và tra tấn cực kỳ tàn bạo. Chính sách tàn sát những người bị gọi là “kẻ thù giai cấp” dã man đến mức làm cho người ta chỉ cần nghe thấy đã dựng cả tóc gáy. Nếu “Thiện” mà thịnh hành trong xã hội, thì những phong trào chính trị  “tà ác” do Ðảng Cộng sản phát động sẽ không bao giờ có thể diễn ra.
Bản Tuyên ngôn Cộng sản tuyên bố rằng “lịch sử của tất cả các xã hội tồn tại cho đến nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp”. Ðiều này đại diện cho quan niệm của Đảng Cộng sản về lịch sử và thế giới. Pháp Luân Công dạy học viên phải tự tìm cho ra lỗi lầm của chính mình khi có mâu thuẫn xuất hiện. Quan điểm tự xét mình và tự kiềm chế này là hoàn toàn trái ngược với triết lý đấu tranh và tấn công của Ðảng Cộng sản Trung Quốc.
Ðấu tranh là thủ đoạn chủ yếu của Ðảng Cộng sản để chiếm đoạt quyền lực và duy trì sự sinh tồn. Ðảng Cộng sản phát động các phong trào chính trị có tính cách chu kỳ mà đàn áp những nhóm người nào đó để củng cố quyền lực và làm sống lại tinh thần đấu tranh cách mạng của nó. Quá trình này được lặp đi lặp lại cùng với bạo lực và lừa dối, để tăng cường và khơi lại nỗi sợ hãi của nhân dân, rồi để duy trì quyền lực của nó.
Trên hình thái ý thức mà nói, "triết học" mà Ðảng Cộng sản dùng để sinh tồn là hoàn toàn trái ngược với những gì Pháp Luân Công dạy.

2. Những người có chánh tín thì không sợ hãi, trong khi Ðảng Cộng sản Trung Quốc dựa vào sự sợ hãi của nhân dân để duy trì quyền lực chính trị

Những người hiểu và biết được chân lý thì không còn sợ hãi nữa. Cơ Đốc giáo bị đàn áp trong gần 300 năm. Nhiều người theo đạo Cơ Đốc bị chém đầu, thiêu sống, hay bị nhận chìm nước, hoặc ngay cả bị sư tử ăn thịt, nhưng họ đã không từ bỏ tín ngưỡng của mình. Khi Phật giáo trải qua thời kỳ Pháp nạn trong lịch sử, những Phật tử cũng đã biểu hiện sự thành tín trung kiên tương tự như vậy.
Tuyên truyền của những người theo thuyết vô Thần nhằm mục đích làm cho mọi người tin rằng không có thiên đường hay địa ngục, và không có Thiện Ác báo ứng, để mọi người không còn bị ràng buộc bởi lương tâm. Thay vào đó, họ sẽ xem trọng vinh hoa và hưởng thụ như là thực tại của thế giới này. Nhược điểm trong nhân tính, sau đó có thể bị thao túng, và sự đe dọa và cám dỗ mới có thể được dùng để khống chế con người hoàn toàn. Tuy nhiên, những người có lòng tin mạnh mẽ có thể nhìn thấu qua giới hạn của sinh tử. Những ảo ảnh của thế giới trần tục không lay chuyển được tâm của họ. Họ xem nhẹ những cám dỗ trần tục và những uy hiếp mạng sống, do đó làm cho Đảng Cộng sản trở nên bất lực trong các nỗ lực hòng khống chế họ.

3. Tiêu chuẩn đạo đức cao của Pháp Luân Công làm cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc khó mà chịu nổi.

Sau vụ thảm sát “mùng 4 tháng 6” năm 1989, hình thái ý thức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã hoàn toàn bị sụp đổ. Vào tháng 8/1991, Đảng Cộng sản Liên Bang Sô Viết sụp đổ, theo sau đó là những thay đổi lớn lao ở Đông Âu. Điều này đã đem đến cho ĐCSTQ nỗi sợ hãi và áp lực to lớn. Tính cách thống trị hợp pháp và hy vọng sống còn của ĐCSTQ phải đối mặt với những thử thách chưa từng có khi nó phải đương đầu với những khủng hoảng lớn cả ở trong và ngoài nước. Vào thời gian đó, ĐCSTQ đã không còn có thể thuyết phục các đảng viên của nó bằng những học thuyết xưa cũ của chủ nghĩa Marxism, Leninism và Maoism. Thay vào đó, nó đã trở nên hoàn toàn thối nát hư hỏng để đổi lấy sự trung thành của các đảng viên. Nói cách khác, bất cứ ai đi theo Đảng cũng sẽ được phép thu lợi cá nhân bằng cách tham nhũng và biển thủ, một món lợi không thể có đối với những ai không phải là đảng viên. Đặc biệt là sau khi Đặng Tiểu Bình đi thăm các địa phương ở phía nam Trung Quốc năm 1992 [6], sự đầu cơ trục lợi và tham nhũng của các viên chức chính quyền trong các lãnh vực bất động sản và thị trường chứng khoán đã trở nên không còn có thể kiểm soát và kiêng nể gì nữa. Hôn nhân bất hợp pháp và buôn lậu diễn ra ở khắp mọi nơi. Phim ảnh khiêu dâm, cờ bạc và ma túy đã trở thành tràn lan trên toàn bộ Trung Quốc. Mặc dù có thể không công bằng nếu nói rằng không có một người tốt nào trong Đảng Cộng Sản, nhưng dân chúng đã từ lâu mất lòng tin vào nỗ lực chống tham nhũng của Đảng, và cho rằng hơn một nửa các viên chức chính quyền thuộc trung cấp và cao cấp đều có liên quan đến tham nhũng.
Đồng thời, sự biểu lộ phong thái đạo đức cao của các học viên Pháp Luân Công tu luyện theo “Chân Thiện Nhẫn” đã khơi động được sự thiện lương trong tâm của dân chúng. Hơn một trăm triệu người đã chú ý đến Pháp Luân Công và bắt đầu tu luyện. Cái gương đạo đức của Pháp Luân Công, về mặt này, đã chiếu ra được tất cả những thứ bất chánh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

4. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cực kỳ ghen tỵ với sự phát triển và hoạt động của Pháp Luân Công

Phương thức phát triển của Pháp Luân Công là được truyền từ người qua người, từ tâm truyền qua tâm. Pháp Luân Công sử dụng phương thức quản lý là tự do, đến và đi tùy thích. Điều này rất khác với cách tổ chức nghiêm ngặt của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Bất chấp sự việc có tổ chức nghiêm ngặt thế nào, chuyện học chính trị và các hoạt động tập thể diễn ra hàng tuần hay nhiều hơn ở các chi bộ Đảng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc chỉ tồn tại trên hình thức.  Số đảng viên đồng ý với ý thức hệ của Đảng hầu như là con số không. Ngược lại, người tu luyện Pháp Luân Công tự giác thực hành theo nguyên lý “Chân Thiện Nhẫn”. Đồng thời Pháp Luân Công có thể cải thiện sức khỏe, thân thể và tâm tánh của con người, làm cho số người tu luyện Pháp Luân Công đã tăng lên nhanh chóng. Những người tu luyện tự nguyện, tự giác học các bài giảng của Ông Lý Hồng Chí và tình nguyện quảng bá Pháp Luân Công. Trong một thời gian ngắn khoảng 7 năm, số lượng học viên Pháp Luân Công đã từ số không lên đến có, rồi phát triển lên đến 100 triệu người. Khi họ tập luyện các bài công pháp vào buổi sáng, tiếng nhạc tập luyện của Pháp Luân Công vang lên tại hầu như tất cả các công viên ở Trung Quốc.
Đảng Cộng Sản nói rằng Pháp Luân Công “tranh đoạt” quần chúng với Đảng Cộng Sản Trung Quốc, và nói rằng Pháp Luân Công là một “tôn giáo”. Trên thực tế, những điều mà Pháp Luân Công đem đến cho mọi người là một loại văn hóa và cách thức sinh hoạt. Đó là gốc rễ của truyền thống và văn hóa của tổ tiên truyền lại mà người dân Trung Quốc từ lâu đã đánh mất. Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản sợ Pháp Luân Công bởi vì một khi đạo đức truyền thống này được công chúng chấp nhận, thì không một sức mạnh gì có thể ngăn cản việc nó được phổ biến rộng rãi một cách nhanh chóng. Các tín ngưỡng truyền thống của Trung Quốc đã bị bắt buộc phải cắt đứt và bị sửa đổi bởi Đảng Cộng Sản trong hàng chục năm. Quay trở về với truyền thống dân tộc chính là sự lựa chọn của lịch sử. Đó là con đường trở về được lựa chọn bởi đại đa số người dân sau khi đã trải qua những khổ nạn và đau đớn. Khi được cho một sự lựa chọn như thế, mọi người chắc chắn sẽ phân biệt rõ đúng hay sai và sẽ ruồng bỏ, rời xa tà ác. Điều này chắc chắn sẽ là một sự khước từ và vứt bỏ căn bản đối với những thứ mà Đảng cộng sản đã quảng bá. Đây như là một cú đánh vào yếu điểm chết người của ĐCSTQ. Khi số người tu luyện Pháp Luân Công vượt quá số lượng đảng viên của Đảng cộng sản, thì ai cũng có thể tưởng tượng ra được sự sợ hãi và ghen tỵ của ĐCSTQ là lớn như thế nào.
Đồng thời, ĐCSTQ thực hiện chính sách khống chế hoàn toàn đối với mọi hoạt động của xã hội. Ở nông thôn, các chi bộ của Đảng Cộng sản tồn tại ở tất cả các làng xã. Ở thành thị, các tổ chức Đảng có thể được tìm thấy ở tất cả các cơ quan hành chính khu vực, đường phố. Các tổ chức của Đảng vươn tới tận gốc rễ của quân đội, chính quyền và các doanh nghiệp. Lũng đoạn tuyệt đối và độc quyền điều khiển của nó là các thủ đoạn trọng yếu mà ĐCSTQ sử dụng để duy trì chính quyền. Trong "hiến pháp" gọi hiện tượng này một cách hoa mỹ là “sự kiên trì trong việc lãnh đạo của Đảng”. Những người tu luyện Pháp Luân Công, mặt khác, rõ ràng là lấy “Chân Thiện Nhẫn” làm tiêu chuẩn để hành xử. ĐCSTQ coi điều này như là từ chối sự lãnh đạo của Đảng và điều này là tuyệt đối không thể chấp nhận được đối với Đảng.

5. Đảng Cộng sản coi sự tin tưởng vào thuyết "hữu Thần" của Pháp Luân Công là mối đe dọa cho sự nắm chính quyền một cách hợp pháp

Một tín ngưỡng "hữu Thần" chân chính nhất định sẽ là một khiêu chiến trọng đại đối với Đảng Cộng Sản. Bởi vì sự nắm quyền hợp pháp của Đảng cộng sản được dựa trên cơ sở của cái gọi là “chủ nghĩa duy vật của lịch sử” và một mong muốn xây dựng một “thiên đường nhân gian”, nó chỉ có thể dựa vào “đội tiên phong" trên thế giới, cũng chính là các lãnh đạo của "Đảng Cộng sản". Đồng thời, sự thực hành thuyết "vô Thần" đã cho phép Đảng cộng sản diễn giải một cách tự do thế nào là đạo đức, thế nào là Thiện và Ác. Kết quả là, gần như không có chuẩn mực đạo đức hay phân biệt rõ ràng giữa thiện và ác để mà nói tới. Người dân chỉ cần ghi nhớ là Đảng luôn luôn “vĩ đại, vinh quang và chính xác”.
Tuy nhiên, thuyết hữu Thần đem lại cho con người một tiêu chuẩn không bao giờ thay đổi về Thiện và Ác. Đối với những người tu luyện Pháp Luân Công mà nói, thì đánh giá đúng hay không đúng, là dùng “Chân Thiện Nhẫn” để cân nhắc đo lường. Điều này rõ ràng đã gây trở ngại cho những nỗ lực trước sau như một của ĐCSTQ hòng “thống nhất tư tưởng" của người dân.
Tiếp tục với những phân tích này, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nữa. Tuy nhiên, bất cứ cái nào trong số năm nguyên nhân trên cũng đã đủ chí tử cho ĐCSTQ. Trên thực tế, Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công chính là vì những lý do đó. Giang Trạch Dân đã bắt đầu sự nghiệp của mình bằng những dối trá về quá khứ của mình, nên tất nhiên là hắn ta sợ “Chân”. Thông qua việc đàn áp nhân dân, hắn nhanh chóng trở nên thành đạt và có quyền hành trong tay, nên tất nhiên hắn ta ghét “Thiện”. Hắn duy trì quyền lực của mình thông qua những cuộc đấu tranh chính trị trong Đảng, nên tất nhiên hắn ta không thích nghe “Nhẫn”.
Từ một sự việc nhỏ, chúng ta có thể thấy Giang Trạch Dân cực kỳ nhỏ mọn và ghen ghét như thế nào. Viện bảo tàng Tàn Tích Văn Hóa Hà Mỗ Độ [7] ở huyện Dư Diêu (hiện giờ đã được chuyển thành thành phố), tỉnh Triết Giang là một địa danh văn hóa và lịch sử quan trọng được nhà nước bảo tồn. Đầu tiên, Kiều Thạch [8] viết lời đề tựa trên bảng hiệu của viện bảo tàng. Tháng 9/1992, Giang Trạch Dân nhìn thấy chữ của Kiều Thạch khi Giang đến thăm viện bảo tàng, và hắn đã sa sầm nét mặt lại. Những người đi theo rất lo lắng, vì họ biết rằng Giang không thể chấp nhận được Kiều Thạch, rằng Giang thích khoe khoang đến mức hắn đi đến đâu cũng viết lưu niệm, thậm chí ngay cả khi hắn đến thăm phòng cảnh sát giao thông thuộc Sở Công An thành phố Tế Nam và Hội Kỹ sư Hưu trí của thành phố Trịnh Châu. Nhân viên viện bảo tàng không dám coi thường tánh nhỏ mọn của Giang Trạch Dân. Vì vậy, vào tháng 5/1993, với cái cớ là nâng cấp, viện bảo tàng đã thay chữ của Kiều Thạch bằng chữ của Giang trước khi tái khánh thành.
Nghe nói Mao Trạch Đông có “Hùng văn tứ quyển”, còn "Đặng Tiểu Bình Văn Tuyển" có “lý thuyết mèo” [9] một tư tưởng chủ nghiã thực dụng. Giang Trạch Dân vắt kiệt óc mới chỉ có thể ra được ba câu, nhưng hắn còn dám nói rằng đã đưa ra học thuyết “Tam giảng”. Nó được xuất bản thành một cuốn sách và được ĐCSTQ quảng bá tại tất cả các cấp chính quyền, nhưng nó chỉ có thể bán được là vì mọi người bắt buộc phải mua nó. Tuy nhiên các đảng viên vẫn không tôn trọng Giang Trạch Dân một chút nào. Họ truyền nhau những lời bàn tán về quan hệ của hắn ta với một cô ca sĩ, các tình tiết đáng xấu hổ về việc hắn hát bài “O Sole Mio” khi đi công tác nước ngoài, và việc hắn chải đầu trước mặt Vua Tây Ban Nha. Khi người sáng lập Pháp Luân Công là Ông Lý Hồng Chí, xuất thân là một người dân bình thường, giảng bài, hội trường chật kín các giáo sư, chuyên gia và các sinh viên Trung Quốc du học ở nước ngoài. Nhiều người có học vị bác học tiến sĩ, thạc sĩ đã bay hàng ngàn dặm đến để nghe các bài giảng của ông. Khi Ông Lý giảng bài thì rất phong phú, rõ ràng trôi chảy trên bục giảng trong nhiều giờ đồng hồ, ông không phải dùng bất cứ một lời ghi chép nào. Sau đó, bài giảng có thể được ghi chép lại trên giấy và xuất bản thành sách. Tất cả những điều này là không thể chịu đựng được đối với một người rỗng tuếch nhưng lại đua đòi, ghen ghét và lòng dạ nhỏ mọn như Giang Trạch Dân.
Giang Trạch Dân sống một cuộc sống cực kỳ lãng phí, đầy dâm dục và thối nát. Hắn ta tiêu 900 triệu đồng yuan (hơn 110 triệu đô la Mỹ) để mua một chiếc máy bay xa xỉ để dùng cho mình. Giang thường rút tiền từ các công quỹ, khoảng hàng chục tỷ, để cho con trai của hắn làm ăn buôn bán. Hắn đưa bà con họ hàng và những kẻ bợ đỡ mình lên làm ở các chức vụ cao cấp trên cả cấp bộ trưởng, và hắn viện đến cả các biện pháp cực đoan và liều lĩnh để che đậy việc tham nhũng và các tội ác của phe cánh tay chân của mình. Với tất cả những lý do này, Giang sợ uy lực đạo đức của Pháp Luân Công, và hắn ta lại càng sợ rằng các đề tài về thiên đường, địa ngục, và nguyên lý thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo mà Pháp Luân Công đề cập đến là sự thật trên thực tế.
Mặc dù Giang nắm trong tay quyền lực cao nhất trong ĐCSTQ, nhưng bởi vì hắn thiếu thành tích và khả năng chính trị, nên thường xuyên lo lắng rằng hắn sẽ bị đánh bật ra khỏi vị trí quyền lực giữa những cuộc đấu tranh giành quyền lực tàn nhẫn của ĐCSTQ. Giang rất nhạy cảm về địa vị của mình là trung tâm của quyền lực. Để tiêu diệt những người bất đồng với mình, hắn lén lút bày mưu để trừ khử những kẻ thù chính trị của hắn ta là hai anh em Dương Thượng Côn và Dương Bạch Băng. Tại Đại hội lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương (BCHTƯ) của Đảng cộng sản năm 1997 và Đại hội lần thứ 16 của BCHTƯ năm 2002, Giang đã bắt buộc những đối thủ của hắn phải rời bỏ chức vụ. Nhưng mặt khác hắn đã phớt lờ những quy định liên quan và kiên quyết bám lấy vị trí của mình.
Năm 1989, Tổng bí thư mới của ĐCSTQ Giang Trạch Dân tổ chức một cuộc họp báo cho các phóng viên cả trong và ngoài nước. Một phóng viên người Pháp hỏi về câu chuyện của một nữ sinh viên, người mà có liên quan đến cuộc vận động mùng 4 tháng 6 của sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn đã bị đày đi cải tạo tại một nông trại ở tỉnh Tứ Xuyên để vác gạch từ chỗ này sang chỗ khác, và bị những nông dân địa phương hãm hiếp nhiều lần. Giang trả lời, “Tôi không biết điều ông nói có phải là sự thực hay không, nhưng cô ta là một kẻ gây rối bạo loạn. Vì vậy nếu điều đó là sự thực thì cô ta cũng đáng bị như vậy”. Trong Đại Cách mạng Văn hóa, Trương Chí Tân [10] cũng bị hãm hiếp tập thể và cổ họng của cô bị cắt khi bị giam trong tù (để lúc bị xử tử cô ta không hô to sự thật). Giang Trạch Dân có thể cũng nghĩ rằng cô cũng đáng bị đối xử như vậy. Chúng ta có thể dễ dàng thấy tính tàn bạo và tâm lý biến thái như một kẻ lưu manh côn đồ của Giang Trạch Dân.
Tóm lại, lòng ham muốn quyền độc tài, sự tàn bạo, và nỗi sợ hãi “Chân Thiện Nhẫn” của Giang Trạch Dân là những nguyên nhân để hắn phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công một cách phi lý. Điều này rất đi sát với tổ chức của Đảng cộng sản.

III. Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc lợi dụng lẫn nhau

Giang Trạch Dân được biết đến vì thói khoe khoang và các thủ đoạn chính trị của hắn. Giang nổi tiếng về bất tài, và ngu dốt. Mặc dù toàn tâm hắn có ý định “tiêu diệt” Pháp Luân Công mà xuất ra từ sự phẫn uất cá nhân, nhưng hắn đã không thể làm gì nhiều, bởi vì Pháp Luân Công có nguồn gốc từ văn hóa truyền thống Trung Quốc và đã trở nên phổ biến tới mức được quần chúng trong xã hội chấp nhận trên diện rộng. Tuy nhiên, các cơ chế bạo ngược sử dụng bởi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ), đã được cải tổ cho hoàn toàn qua nhiều phong trào chính trị, và đang hoạt động toàn bộ, vì ĐCSTQ có ý định nhổ tận gốc Pháp Luân Công. Giang Trạch Dân đã lợi dụng địa vị của hắn là Tổng bí thư của Đảng cộng sản và tự ý phát động chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công. Hiệu ứng của việc cấu kết và cộng hưởng giữa Giang Trạch Dân và ĐCSTQ giống như một trận tuyết lở gây ra bởi những tiếng hò hét của người leo núi.
Trước khi Giang chính thức ra lệnh đàn áp Pháp Luân Công, ĐCSTQ đã bắt đầu ngăn cấm, theo dõi, điều tra và bịa đặt với âm mưu nhằm buộc tội Pháp Luân Công. Bởi vì một tổ chức tà giáo tà linh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vốn có bản năng tà ác, đã cảm thấy bị đe dọa bởi sự tồn tại của “Chân Thiện Nhẫn”, chưa kể đến sự phổ biến nhanh chóng chưa từng có của pháp môn này. Những nhân viên công an mật của ĐCSTQ đã thâm nhập vào Pháp Luân Công ngay từ năm 1994, nhưng họ không thể tìm được một lỗi nào, và một số thậm chí đã bắt đầu tập luyện Pháp Luân Công một cách nghiêm chỉnh. Năm 1996, tờ Quang Minh Nhật Báo đã vi phạm “Ba Hạn chế”, một chính sách của nhà nước đối với khí công (có nghĩa là nhà nước không “ủng hộ, can thiệp hay lên án” các hoạt động khí công), và đăng một bài báo lăng mạ những tư tưởng của Pháp Luân Công. Sau đó, những chính trị gia xuất thân từ ngành công an và với danh hiệu là “khoa học gia” liên tục quấy nhiễu Pháp Luân Công. Vào đầu năm 1997, La Cán, Bí thư Ban Chính trị và Pháp luật của Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ lợi dụng quyền lực của mình và ra lệnh cho Văn phòng Công an thực hiện một cuộc điều tra trên toàn quốc đối với Pháp Luân Công, mục đích là tìm cho ra những lỗi để bào chữa cho sự việc ngăn cấm Pháp Luân Công. Sau khi được báo cáo lên từ mọi nơi là không tìm được bằng chứng hay vấn đề nào, La Cán đã ra thông tư số 555 – “Thông báo về việc bắt đầu một cuộc điều tra công khai đối với Pháp Luân Công” thông qua Văn phòng thứ nhất của Bộ Công an (còn gọi là Văn phòng An ninh Chính trị). Đầu tiên hắn buộc tội Pháp Luân Công là một “tà giáo” và sau đó ra lệnh cho các Sở Công an trên toàn quốc điều tra một cách có hệ thống đối với Pháp Luân Công, sử dụng các nhân viên mật trà trộn nằm vùng để thu thập chứng cứ. Cuộc điều tra đã không tìm thấy chứng cứ nào để hỗ trợ cho sự buộc tội của hắn ta.
Trước khi ĐCSTQ, một tổ chức của lũ tà ma, muốn bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công, nó cần phải có một người then chốt để phát động những cơ chế cho việc đàn áp. Lúc ấy việc người lãnh đạo ĐCSTQ xử lý vấn đề như thế nào sẽ có tác dụng rất quan trọng. Là một cá nhân, người đứng đầu Đảng Cộng Sản có thể có cả Thiện và Ác – hai mặt đối lập của nhân tính. Nếu ông ta chọn đi theo phần Thiện, thì ông ta có thể tạm thời ức chế được sự phát tác của Đảng tính tà ác; nếu không thì 'Đảng tính' tà ác sẽ hiển lộ ra tất cả.
Trong phong trào sinh viên đòi quyền dân chủ năm 1989, Triệu Tử Dương, lúc đó là Tổng bí thư của ĐCSTQ, hoàn toàn không có ý định đàn áp các sinh viên. Mà là tám đảng viên lão thành đang nắm quyền kiểm soát ĐCSTQ kiên quyết đàn áp sinh viên. Đặng Tiểu Bình lúc đó nói rằng, “(Chúng ta sẽ) giết 200 ngàn người để đổi lấy 20 năm ổn định”. Cái gọi là “20 năm ổn định” này, thực ra có ý nói là 20 năm nắm quyền của ĐCSTQ. Ý tưởng này phù hợp với mục đích căn bản trong sự độc tài chuyên chính của ĐCSTQ, vì vậy nó đã được ĐCSTQ chấp thuận.
Liên quan đến vấn đề Pháp Luân Công, trong số bảy Ủy viên Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ, Giang Trạch Dân là người duy nhất quyết định đàn áp. Cái cớ mà Giang đưa ra là nó liên quan đến “sự sống còn của Đảng và đất nước”. Điều này đã động đến dây thần kinh nhạy cảm nhất của ĐCSTQ và kích thích khuynh hướng đấu tranh của ĐCSTQ. Nỗ lực của Giang Trạch Dân nhằm duy trì quyền lực cá nhân của hắn và nỗ lực của ĐCSTQ nhằm duy trì quyền thống trị độc tài của một Đảng duy nhất là được thống nhất ở điểm này.
Buổi tối ngày 19/07/1999, Giang Trạch Dân chủ tọa một cuộc họp gồm những viên chức cao cấp nhất của ĐCSTQ. Giang với quyền lực chính trị của mình đã bất chấp luật pháp, một mình “thống nhất” nhận định của tất cả các thành viên có mặt, tự mình quyết định phát động một chiến dịch đàn áp đại quy mô đối với Pháp Luân Công. Hắn lấy danh nghiã chính quyền Trung Quốc để cấm ngặt Pháp Luân Công ở mọi phương diện và lừa dối người đời. Từ ĐCSTQ đến chính quyền và dân Trung Quốc, và những cơ chế bạo lực đã được sử dụng toàn bộ triệt để trong một cuộc đàn áp mà trải đến trời phủ cả đất đối với hàng triệu học viên Pháp Luân Công vô tội.
Nếu Tổng bí thư ĐCSTQ vào lúc đó là một ai khác chứ không phải Giang Trạch Dân, thì cuộc đàn áp Pháp Luân Công sẽ không xảy ra. Ở khía cạnh đó, chúng ta có thể nói rằng Đảng cộng sản đã lợi dụng Giang Trạch Dân.
Mặt khác, nếu Đảng cộng sản đã không gây ra quá nhiều nợ máu do bản tính lưu manh, vô đạo đức, và man rợ của nó, thì nó sẽ không coi Pháp Luân Công như là một hiểm họa. Nếu không có sự khống chế toàn diện và rộng khắp của ĐCSTQ đối với tất cả các bộ phận của xã hội, thì ý định đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân sẽ không đạt được sự tổ chức, nguồn tài chính, và sự tuyên truyền, hay ủng hộ của những người trong ngành ngoại giao, nhân lực và máy móc, hay sự hỗ trợ của hệ thống nhà tù, cảnh sát, Bộ An ninh Quốc gia, và quân đội, hay cái gọi là “sự ủng hộ” của giới tôn giáo, khoa học và kỹ thuật, các đảng dân chủ, các công đoàn lao động, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, v.v…Ở khía cạnh này, chúng ta có thể nói rằng Giang Trạch Dân đã lợi dụng Đảng cộng sản.

IV. Giang Trạch Dân lợi dụng Đảng Cộng Sản Trung Quốc như thế nào để đàn áp Pháp Luân Công

Bằng cách lợi dụng nguyên tắc tổ chức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là “toàn Đảng phải phục tùng Trung Ương”, Giang Trạch Dân đã lợi dụng guồng máy quốc gia do ĐCSTQ khống chế để phục vụ mục đích đàn áp Pháp Luân Công. Các tổ chức do ĐCSTQ khống chế bao gồm quân đội, các cơ quan truyền thông, công an, cảnh sát võ trang, các lực lượng an ninh quốc gia, hệ thống tư pháp, Quốc hội, các nhân viên ngoại giao, cũng như các nhóm ngụy tôn giáo. Quân đội và cảnh sát võ trang, công an tất cả đều thuộc quyền điều khiển của ĐCSTQ, đã trực tiếp tham gia vào việc bắt cóc và bắt giữ các học viên Pháp Luân Công. Các cơ quan truyền thông ở Trung Quốc đã giúp đỡ tập đoàn của Giang truyền bá những lời vu khống dối trá nhằm bôi nhọ Pháp Luân Công. Hệ thống an ninh quốc gia đã bị Giang Trạch Dân lợi dụng trên tư cách cá nhân để thu thập tài liệu và trình báo tin tức, bịa đặt ra những lời giả dối vu khống, và cung cấp các tin tình báo giả. Quốc hội và hệ thống tư pháp đã khoác lên cái vỏ "hợp pháp", và bộ trang phục “cai trị trong vòng  luật pháp” để bào chữa cho những tội ác của Giang Trạch Dân và ĐCSTQ, thực sự đã lừa dối được tất cả nhân dân. Họ đã tự biến mình thành một công cụ để phục vụ và bảo vệ Giang Trạch Dân. Đồng thời, hệ thống ngoại giao đã truyền bá những lời vu khống dối trá trong cộng đồng quốc tế và lôi kéo chính phủ ngoại quốc, các viên chức cao cấp và các cơ quan truyền thông quốc tế bằng những món mồi chính trị và kinh tế để họ giữ im lặng về vấn đề đàn áp Pháp Luân Công.
Trong phiên họp của Ban chấp hành Trung ương mà ở đó lệnh đàn áp Pháp Luân Công được đưa ra năm 1999, Giang Trạch Dân đã tuyên bố, “Tôi không tin rằng Đảng cộng sản không thể chiến thắng Pháp Luân Công”. Trong việc hoạch định chiến lược đàn áp, có ba phương châm lớn đã được đưa ra thực thi: “bôi nhọ thanh danh [các học viên Pháp Luân Công], vắt kiệt tài chính, và tiêu diệt thân thể”. Một chiến dịch đàn áp toàn diện sau đó đã được tiến hành.

1. Lợi dụng các phương tiện truyền thông để ngăn chặn thông tin

Chính sách “bôi nhọ thanh danh [các học viên Pháp Luân Công]” đã và đang được thực hiện bởi những phương tiện truyền thông nằm dưới quyền khống chế tuyệt đối của ĐCSTQ. Bắt đầu từ 22/07/1999, ngày thứ ba của chiến dịch bắt giữ các học viên Pháp Luân Công trên toàn quốc, những phương tiện truyền thông do ĐCSTQ điều khiển bắt đầu một cuộc công kích dữ dội toàn diện, tuyên truyền để chống Pháp Luân Công. Hãy lấy Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) có trụ sở ở Bắc Kinh làm ví dụ. Trong những tháng còn lại của năm 1999, CCTV phát 7 tiếng đồng hồ mỗi ngày những đoạn băng được dàn dựng trước, nhằm truyền bá những lời vu khống bịa đặt về Pháp Luân Công. Những người sản xuất các chương trình này bắt đầu bằng cách bóp méo và làm giả những lời giảng của Ông Lý Hồng Chí là người sáng lập Pháp Luân Công, rồi sau đó xen thêm vào những trường hợp của cái gọi là tự tử, giết người, và tử vong bởi từ chối điều trị y tế. Họ đã làm mọi điều họ có thể làm để bôi nhọ và vu khống về Pháp Luân Công và người sáng lập.
Trường hợp được truyền bá nhiều nhất là bỏ chữ “không” ra khỏi điều Ông Lý Hồng Chí đã từng nói trong một lần nói chuyện với mọi người, rằng “Sự kiện về cái gọi là trái đất nổ tung không tồn tại”. Chương trình của CCTV đổi câu nói này thành: “Việc trái đất nổ tung là có tồn tại”, và vì vậy đặt điều rằng Pháp Luân Công tuyên truyền về ngày tận thế. Những thủ đoạn dối trá cũng được dùng để lường gạt công chúng, ví dụ như trút tội của những phạm nhân bình thường sang các học viên Pháp Luân Công. Một vụ giết người do Phó Di Bân, một người bị loạn thần kinh gây ra ở Bắc Kinh, và một vụ đầu độc chết người do một kẻ ăn xin ở tỉnh Triết Giang đều bị đổ tội cho học viên Pháp Luân Công. ĐCSTQ sau đó dùng các phương tiện truyền thông để kích động sự thù hận trong công chúng là những người đã bị ĐCSTQ lừa gạt, để bào chữa và tìm sự ủng hộ cho cuộc đàn áp đẫm máu mà không được lòng dân này.
Hơn 2000 tờ báo, hơn 1000 quyển tạp chí, và hàng trăm đài phát thanh và truyền hình địa phương dưới quyền khống chế tuyệt đối của ĐCSTQ đã hoạt động quá mức vì chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ toàn diện để chống lại Pháp Luân Công. Những chương trình tuyên truyền này còn được truyền bá xa hơn nữa tới tất cả các nước khác thông qua các cơ quan thông tấn của chính phủ Trung Quốc như Tân Hoa Xã, Dịch vụ Tin tức Trung Quốc, Cơ quan thông tấn Trung Quốc Hồng Kông, và các tổ chức truyền tin khác ở hải ngoại do ĐCSTQ điều khiển. Dựa trên thống kê chưa hoàn tất, chỉ trong vòng 6 tháng, hơn 300 ngàn bài báo và chương trình nhắm vào việc bôi nhọ Pháp Luân Công đã được xuất bản hoặc phát đi trên làn sóng phát thanh và truyền hình, đầu độc tâm trí của vô số người mà đã bị ĐCSTQ lường gạt.
Tại các Sứ quán và Lãnh sự quán của Trung Quốc ở hải ngoại, một số lượng lớn các tập truyền đơn, đĩa CD, và bản tin phê bình và giả vờ “vạch trần” Pháp Luân Công đã được trưng bày. Các mục đặc biệt được thiết lập trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc để chỉ trích và “vạch trần” Pháp Luân Công. Hơn nữa, tại hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế Á Châu-Thái Bình Dương (APEC) vào cuối năm 1999 tổ chức ở New Zealand, Giang Trạch Dân đã hoàn toàn thêu dệt những lời giả dối và phân phát các cuốn sách nhỏ phỉ báng Pháp Luân Công cho tất cả các nguyên thủ quốc gia của hơn 10 nước tham gia hội nghị. Ở Pháp, Giang Trạch Dân trong sự vi phạm Hiến pháp Trung Quốc, đã gọi Pháp Luân Công là một “tà giáo” khi nói chuyện với các hãng thông tin quốc tế nhằm “bôi nhọ thanh danh [các học viên Pháp Luân Công]”.
Đám mây đen của cuộc đàn áp làm nghẹn quốc gia là dấu hiệu cho thấy rằng một cái gì đó khủng khiếp như Cách mạng Văn hóa lại sắp sửa bắt đầu lần nữa .
 Sự kiện đê tiện nhất để vu khống Pháp Luân Công là vụ “tự thiêu” dàn cảnh vào tháng 01/2001, đã truyền ra trên toàn thế giới với tốc độ chưa từng có thông qua Tân Hoa Xã. Sự kiện đó cho đến nay đã bị nhiều tổ chức quốc tế chỉ trích, gồm có cả Tổ chức Giáo dục và Phát triển Quốc Tế phi chính phủ (NGO) của Liên Hiệp Quốc ở Geneva, như là hành động do chính quyền của ĐCSTQ dàn cảnh, bịa đặt nhằm để lừa gạt người dân. Trong khi thẩm vấn, một nhân viên của nhóm làm chương trình truyền hình đó đã công nhận rằng một số cảnh trên CCTV, trên thực tế, là đã được quay lại sau này. Bản tính lưu manh của những kẻ đàn áp đã quá rõ ràng. Người ta không thể không tự hỏi làm sao mà những “đệ tử Pháp Luân Công không nao núng trước cái chết” này (nói đến những người tự thiêu) lại có thể hợp tác như vậy với các nhà chức trách ĐCSTQ để họ quay lại những cảnh tự thiêu một lần nữa.
Không có lời dối trá nào có thể tồn tại trong ánh sáng ban ngày. Trong khi tuyên truyền, chế tạo những lời giả dối, ĐCSTQ cũng đã làm tất cả những gì nó có thể làm với quyền lực của nó để phong tỏa tin tức. Nó không ngừng bịt miệng các bản tin ở nước ngoài về các hoạt động của Pháp Luân Công cũng như những lời thanh minh hợp lý của các học viên Pháp Luân Công. Tất cả các quyển sách của Pháp Luân Công và những tài liệu khác đã bị tiêu hủy hết không còn lại gì. Các biện pháp cực đoan đã được sử dụng để ngăn chặn không cho các hãng thông tin nước ngoài phỏng vấn các học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc, bao gồm cả việc trục xuất các ký giả ra khỏi Trung Quốc, tạo áp lực với các hãng thông tin nước ngoài, hay bắt buộc họ phải giữ im lặng bằng cách đe dọa sẽ cấm họ không được hoạt động ở Trung Quốc.
Đối với những học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc cố gắng gửi ra nước ngoài các sự thực về Pháp Luân Công, và những tài liệu ghi lại sự đàn áp vô nhân đạo của chính quyền Trung Quốc, ĐCSTQ cũng áp dụng các biện pháp cực kỳ tàn bạo để ngăn chặn và đàn áp họ. Lý Diễm Hoa, một phụ nữ khoảng 60 tuổi sống ở thành phố Đại Thạch Kiều tỉnh Liêu Ninh. Bà bị cảnh sát bắt cóc khi đang phân phát những tài liệu sự thực về cuộc đàn áp Pháp Luân Công ngày 01/02/2001, và bị cảnh sát đánh đập đến chết. Để che đậy những tội ác của họ, cảnh sát nói rằng bà bị chết là do “si mê Pháp Luân Công”.
Riêng ở Trường Đại học Tổng hợp Thanh Hoa, hơn một chục giảng viên và sinh viên bị phạt tù rất nặng vì phân phát tài liệu sự thực về Pháp Luân Công. Sau khi vạch rõ sự thực về việc cô Nguỵ Tình Diễm, một học viên Pháp Luân Công và là sinh viên cao học của Đại học Tổng hợp Trùng Khánh bị hãm hiếp trong khi bị giam giữ, bảy học viên Pháp Luân Công ở Trùng Khánh đã bị kết án hình sự và bị phạt tù rất nhiều năm.

2. Phạt tiền và kiểm kê lục soát nhà bừa bãi tước đoạt quyền lợi sinh tồn

Toàn bộ guồng máy quốc gia của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã thực hiện chính sách “vắt kiệt tài chính [của các học viên Pháp Luân Công]”. Trong hơn 5 năm kể từ khi cuộc đàn áp bắt đầu, hàng trăm ngàn học viên Pháp Luân Công đã bị phạt từ hàng ngàn đồng yuan cho đến hàng chục ngàn đồng yuan để đe dọa họ, và làm cho họ mất mát rất nhiều về mặt tài chính. Không có một lời giải thích nào, các chính quyền địa phương, các cơ quan, các đồn cảnh sát và sở công an đã tùy tiện áp dụng những hình phạt này. Những người bị ép buộc phải nộp phạt không nhận được bất cứ một hóa đơn thu tiền nào và không được giải thích là họ đã vi phạm luật lệ nào. Không có một thủ tục hành chính hợp lệ nào.
Kiểm kê lục soát nhà cửa là một hình thức khác của cướp bóc và dọa nạt các học viên Pháp Luân Công. Những người kiên định với tín ngưỡng của mình đã phải đối mặt với việc bị kiểm kê lục soát nhà cửa mà không có lệnh khám nhà. Cảnh sát có thể khám xét nơi ở của họ bất cứ lúc nào. Tiền mặt và những thứ giá trị khác của họ đã bị tịch thu mà không có một lời giải thích nào. Ở những khu vực nông thôn, ngay cả lúa gạo dự trữ và những sản phẩm lương thực khác cũng không thoát khỏi bị tịch thu. Cũng tương tự, không một thứ gì bị tịch thu từ các học viên Pháp Luân Công là được ghi chép vào sổ sách của chính quyền hay được cấp giấy biên nhận. Thường thường những kẻ tịch thu tài sản của các học viên giữ lại để làm của riêng cho mình.
Đồng thời, các học viên Pháp Luân Công cũng phải đối mặt với hình phạt là bị sa thải . Ở những khu vực nông thôn thì chính quyền đe dọa tịch thu đất đai của các học viên. ĐCSTQ cũng không bỏ qua những người già đã về hưu. Lương hưu trí của họ cũng bị ngưng trả, chính quyền cũng đuổi họ ra khỏi nhà. Một số học viên Pháp Luân Công có doanh nghiệp riêng đã bị tịch thu tài sản, và phong tỏa tài sản ngân hàng.
Khi chấp hành những biện pháp này, ĐCSTQ đã sử dụng lý do 'phạm tội vì liên đới'. Có nghĩa là, nếu họ tìm thấy các học viên Pháp Luân Công ở bất kỳ cơ quan, đơn vị hay công ty quốc doanh nào, thì lãnh đạo và nhân viên của những cơ quan này sẽ không được nhận thưởng và không được thăng chức. Mục đích là để xúi dục sự thù hận đối với các học viên Pháp Luân Công trong xã hội. Họ hàng thân nhân của các học viên Pháp Luân Công cũng phải đối diện với những đe dọa bị đuổi việc, con cái của họ sẽ bị đuổi học, và bị đuổi ra khỏi nhà. Tất cả những biện pháp này đều nhắm cùng một mục đích là cắt đứt tất cả các nguồn thu nhập của những học viên Pháp Luân Công để bắt buộc họ phải từ bỏ tín ngưỡng của mình.

3. Tra tấn tàn bạo và giết người bừa bãi

Chính sách rùng rợn “tiêu diệt thân thể [của các học viên Pháp Luân Công]” đã được thực hiện trước hết bởi cảnh sát, các cơ quan công tố [11] và hệ thống tòa án ở Trung Quốc. Dựa trên thống kê chưa hoàn toàn của website Minh Tuệ, ít nhất 1,143 [12] học viên Pháp Luân Công đã bị đàn áp đến chết trong 5 năm qua kể từ ngày 20-7-1999. Số trường hợp tử vong xảy ra ở trên 30 tỉnh, khu vực tự trị, và các thành thị dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của chính quyền trung ương. Khoảng 01/10/2004, tỉnh có số người bị giết chết được thống kê lớn nhất là Hắc Long Giang, theo sau là Cát Lâm, Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Tứ Xuyên, và Hồ Bắc. Người trẻ nhất bị giết hại tuổi chỉ mới 10 tháng, người nhiều tuổi nhất bị giết chết là 82 tuổi. Phụ nữ chiếm 51.3%. Những người hơn 50 tuổi chiếm 38.8%. Các viên chức ĐCSTQ đã bí mật công nhận rằng số học viên Pháp Luân Công trên thực tế đã chết vì bị đàn áp còn cao hơn nhiều.
Những thủ đoạn tra tấn cực kỳ tàn bạo đối với các học viên Pháp Luân Công là rất nhiều và đủ kiểu. Đánh đập, quất gậy, roi quất giật điện, bắt đứng ngoài tuyết, trói bằng dây thừng, còng tay và cùm chân trong thời gian dài, dùng lửa đốt, làm bỏng bằng thuốc lá đang cháy hoặc sắt nung đỏ, bị còng và treo lên không trung, bị bắt phải đứng hay quỳ trong thời gian dài, bị đóng tăm tre hoặc dây thép, bị xâm phạm tình dục, bị hãm hiếp… đây chỉ là một vài ví dụ. Vào tháng 10/2000, cai ngục ở Trại lao động cưỡng bách Mã Tam Gia ở tỉnh Liêu Ninh lột hết quần áo của 18 học viên nữ và quẳng họ vào xà-lim nam để tù nhân hãm hiếp và xâm phạm tùy thích. Tất cả những tội ác này đã được ghi lại đầy đủ và nhiều đến mức không thể liệt kê hết được.
Một kiểu phổ thông nữa trong số nhiều thủ đoạn tra tấn vô nhân đạo là việc lạm dụng “điều trị thần kinh”. Các học viên Pháp Luân Công bình thường, rất có lý trí và khỏe mạnh đã bị giam giữ bất hợp pháp trong các bệnh viện tâm thần và bị tiêm những loại thuốc không rõ tên, có khả năng hủy hoại hệ thần kinh trung ương của con người. Kết quả là một số học viên đã bị tàn phế một phần hoặc toàn bộ thân thể. Một số đã bị mù cả hai mắt hoặc điếc cả hai tai. Một số bị hủy hoại da thịt hoặc các cơ quan nội tạng. Một số đã bị mất một phần hoặc toàn bộ trí nhớ và bị trì trệ thần kinh. Các cơ quan nội tạng của một số học viên đã bị hủy hoại nghiêm trọng. Một số đã bị hoàn toàn suy sụp thần kinh. Ngay cả có một số bị chết sau khi bị tiêm thuốc không lâu.
Các thống kê cho thấy rằng các trường hợp học viên Pháp Luân Công bị đàn áp bằng thủ đoạn “điều trị thần kinh” đã lan ra đến 23 trong số 33 tỉnh, khu tự trị, và thành phố dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của chính quyền trung ương ở Trung Quốc. Ít nhất 100 bệnh viện thần kinh ở các cấp tỉnh, thành phố, quận huyện đã tham gia vào việc đàn áp. Dựa trên con số và sự phân phối của những trường hợp này, rõ ràng là việc lạm dụng thuốc thần kinh đối với các học viên Pháp Luân Công là một chính sách từ trên xuống, có kế hoạch kỹ càng và được thực hiện một cách có hệ thống. Ít nhất có 1000 học viên Pháp Luân Công có thần kinh hoàn toàn khỏe mạnh đã bị cưỡng chế đưa đến các bệnh viện thần kinh hay các trung tâm cai nghiện ma túy. Nhiều người trong số họ đã bị cưỡng chế tiêm hoặc nuốt nhiều loại thuốc có khả năng hủy diệt hệ thần kinh của con người. Các học viên Pháp Luân Công này cũng bị trói bằng dây thừng và bị tra tấn bằng dùi cui điện. Ít nhất 15 người đã bị chết vì bị tra tấn quá dã man riêng theo cách này.

4. Phòng 610 vượt qua cả giới hạn của luật pháp

Ngày 07/06/1999, cá nhân Giang Trạch Dân đã phỉ báng Pháp Luân Công một cách vô căn cứ trong một buổi họp của Bộ chính trị Trung Cộng. Hắn ta coi vấn đề Pháp Luân Công như là một vấn đề “đấu tranh giai cấp” để quyết định đàn áp toàn diện đối với Pháp Luân Công, gọi các học viên Pháp Luân Công là kẻ thù chính trị của Trung Cộng, kích thích thần kinh đấu tranh của Trung Cộng, và ra lệnh thiết lập “Phòng Xử lý Vấn đề Pháp Luân Công” thuộc Ban chấp hành Trung ương. Vì nó được thành lập vào ngày 10 tháng 6 nên nó được gọi là “Phòng 610”. Sau đó, các phòng 610 đã được thiết lập trên toàn quốc ở tất cả các cấp chính quyền, từ trên xuống dưới, chuyên phụ trách tất cả các vấn đề liên quan đến việc đàn áp Pháp Luân Công. Ủy ban Chính trị và Luật pháp, các cơ quan truyền thông, các cơ quan công an, các cơ quan công tố, tòa án, các cơ quan an ninh quốc gia, dưới sự lãnh đạo của Đảng Ủy Trung Cộng đều phải làm việc như những tên lưu manh đâm thuê chém mướn cho Phòng 610. Phòng 610 về mặt hình thức là chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng Quốc gia nhưng trên thực tế nó là một tổ chức Đảng được phép tồn tại ngoài khuôn khổ của quốc gia và chính phủ Trung Quốc, không phải chịu bất cứ giới hạn luật pháp, quy định hay chính sách quốc gia nào. Nó là một tổ chức toàn quyền rất giống với Gestapo của Đức Quốc xã có mọi quyền lực vượt trên cả các hệ thống luật pháp và tòa án, sử dụng các nguồn lực tài nguyên của đất nước một cách tùy ý. Ngày 22/07/1999, sau khi Giang Trạch Dân ra lệnh đàn áp Pháp Luân Công, Tân Hoa Xã đã công bố các bài phát biểu của những người phụ trách Ban tổ chức Trung ương ĐCSTQ và Ban Tuyên Truyền Trung ương ĐCSTQ hoàn toàn ủng hộ cuộc đàn áp Pháp Luân Công do Giang Trạch Dân phát động. Tất cả những cơ quan này hợp tác với nhau dưới sự tổ chức chặt chẽ của ĐCSTQ để thực thi mưu đồ độc ác của Giang Trạch Dân.
Đã có quá nhiều trường hợp chứng tỏ rằng các cơ quan công an, các cơ quan công tố, các tòa án nhân dân không có quyền quyết định đối với các trường hợp liên quan đến Pháp Luân Công. Họ phải tuân theo lệnh của Phòng 610. Khi các thân nhân của nhiều học viên Pháp Luân Công bị bắt, bị giam và bị tra tấn đến chết, họ chất vấn và khiếu nại các cơ quan công an, các cơ quan công tố, các tòa án nhân dân, họ được thông báo là Phòng 610 sẽ quyết định tất cả.
Tuy nhiên, sự tồn tại của Phòng 610 không dựa trên cơ sở pháp lý nào cả. Khi nó ra lệnh cho tất cả các cơ quan trong hệ thống của ĐCSTQ, thông thường là không có văn bản chỉ thị hay thông báo gì cả, mà chỉ có thông báo bằng miệng. Hơn nữa, nó quy định rằng tất cả những ai nhận lệnh đều bị cấm ghi âm, ghi hình và ngay cả cả không được ghi chép điều gì lên giấy.
Việc sử dụng loại cơ quan độc tài tạm thời này là một ngón đòn mà ĐCSTQ thường tái diễn, hoàn toàn bất chấp luật pháp. Trong tất cả các phong trào thanh trừ chính trị trước đây, Đảng luôn luôn sử dụng các thủ đoạn bất chính và thiết lập các cơ quan tạm thời bất chính như Đội Cách mạng Văn hóa Trung ương để chỉ huy và truyền rộng chính sách tàn bạo của Đảng Cộng Sản ra toàn bộ đất nước.
Trong quá trình cầm quyền bạo lực lâu dài và thống trị với đè nén mạnh mẽ, Đảng đã tạo ra một hệ thống khủng bố tà ác nhất và tàn bạo nhất của quốc gia, sử dụng bạo lực, chế tạo dối trá và phong tỏa thông tin. Sự vô nhân đạo và cấp độ lừa gạt của nó đã đạt đến mức chuyên nghiệp cao. Trình độ và sự sắp đặt theo qui củ của hệ thống khủng bố này là chưa từng có. Trong tất cả các cuộc vận động chính trị trước đó, Đảng đã tích lũy được các thủ đoạn và kinh nghiệm có hệ thống và có hiệu lực để phạt vạ, làm hại và giết hại người dân theo những thủ đoạn dã man nhất, xảo quyệt nhất và lật lọng nhất không thể tưởng tượng được. Trong một trường hợp được nhắc đến trước đây, người chồng đã không thể chịu đựng được những đe dọa và quấy nhiễu của cảnh sát, nên đã giết chết người vợ tốt bụng của mình. Đây là quả ác của chính sách khủng bố mang tính cách toàn quốc của ĐCSTQ, bao gồm việc lừa gạt dân chúng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tạo áp lực về mặt chính trị, đàn áp cả những người có liên quan, và đe dọa nhằm mục đích làm biến dị nhân tính và kích động lòng thù hận.

5. Sử dụng quân đội và các nguồn lực tài chính của quốc gia vào việc đàn áp

Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) khống chế tất cả các lực lượng quân đội của quốc gia, cho phép nó làm mọi thứ mà nó muốn mà không cần sợ sệt điều gì khi nó đàn áp nhân dân. Trong chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân không chỉ sử dụng cảnh sát và cảnh sát võ trang, mà còn trực tiếp sử dụng cả quân đội vào khoảng tháng bảy và tháng tám năm 1999, khi hàng trăm ngàn và ngay cả hàng triệu dân thường tay không từ khắp nơi trong toàn quốc định đến Bắc Kinh để thỉnh nguyện cho Pháp Luân Công, thì quân đội đã chực sẵn ở các vị trí trong thành phố Bắc Kinh. Tất cả các con đường lớn dẫn đến Bắc Kinh đều có quân lính đứng xếp hàng mang theo súng có đạn. Họ hợp tác với cảnh sát để ngăn chặn và bắt giữ các học viên Pháp Luân Công đến thỉnh nguyện. Sự kiện Giang Trạch Dân trực tiếp điều động quân đội của ĐCSTQ đã mở đường cho chiến dịch đàn áp đẫm máu.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc khống chế các nguồn lực tài chính của quốc gia. Điều này đã cung cấp khả năng tài chính cho Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công. Một viên chức cao cấp của Sở Tư pháp Tỉnh Liêu Ninh đã từng nói trong một cuộc họp ở Trại Lao Động Cưỡng Bách Mã Tam Gia ở tỉnh Liêu Ninh rằng, “Các nguồn lực tài chính được dùng để xử lý Pháp Luân Công đã vượt quá chi phí cho một cuộc chiến tranh”.
Vẫn chưa rõ là Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ) đã sử dụng bao nhiêu nguồn lực kinh tế quốc gia và kết quả lao động cực nhọc của người dân để đàn áp Pháp Luân Công. Nhưng, cũng không khó để chúng ta có thể thấy rằng nó là một con số khổng lồ. Năm 2001, tin tức từ bên trong Bộ Công An của Đảng Cộng Sản đã cho thấy rằng chỉ riêng ở quảng trường Thiên An Môn, chi phí để bắt giữ các học viên Pháp Luân Công là 1,7 đến 2,5 triệu đồng yuan mỗi ngày, hay 620 đến 910 triệu đồng yuan mỗi năm. Trên toàn quốc, từ thành thị cho đến các vùng nông thôn hẻo lánh, từ cảnh sát ở các đồn cảnh sát và các sở công an cho đến nhân viên của tất cả các chi nhánh của Phòng 610, Giang Trạch Dân đã sử dụng ít nhất một vài triệu người để đàn áp Pháp Luân Công. Chỉ riêng chi phí trả lương cũng đã có thể vượt quá 100 tỷ đồng yuan mỗi năm. Hơn nữa, Giang Trạch Dân đã tiêu một số lượng tiền khổng lồ để mở rộng các trại lao động cưỡng bách để giam giữ các học viên Pháp Luân Công, và xây dựng các trung tâm và cơ sở tẩy não. Ví dụ, vào tháng 12/2001, Giang Trạch Dân đã tiêu 4,2 tỷ đồng yuan chỉ riêng trong một lần chi để xây dựng các trung tâm và cơ sở tẩy não để “cải tạo” các học viên Pháp Luân Công. Giang Trạch Dân cũng sử dụng tiền thưởng để kích động và khuyến khích nhiều người hơn tham gia vào chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công. Ở nhiều khu vực, giải thưởng cho việc bắt giữ một học viên Pháp Luân Công là vài ngàn hoặc ngay cả mười ngàn đồng yuan. Trại lao động cưỡng bách Mã Tam Gia ở tỉnh Liêu Ninh là một trong những nơi tà ác nhất trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công. ĐCSTQ đã từng thưởng cho giám đốc trại tên là Tô 50 ngàn đồng yuan và phó giám đốc tên là Thiệu 30 ngàn đồng yuan.
Giang Trạch Dân, cựu Tổng bí thư của ĐCSTQ là người đã phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công và cũng là người hoạch định và chỉ huy cuộc đàn áp. Hắn đã lợi dụng các cơ chế của ĐCSTQ để phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Hắn ta không thể trốn thoát khỏi trách nhiệm đối với tội ác lịch sử này. Tuy nhiên, nếu không có ĐCSTQ với những cơ chế bạo lực của nó mà được hình thành qua nhiều cuộc vận động chính trị thì Giang Trạch Dân sẽ không có cách nào để phát động và thực hiện cuộc đàn áp tà ác này.
Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đã lợi dụng lẫn nhau. Họ đã liều lĩnh thử thời vận trong sự lên án của tất cả mọi người về cuộc đàn áp, vì quyền lợi của một người và một Đảng mà phản đối " Chân Thiện Nhẫn". Sự cấu kết của họ là nguyên nhân thực sự tại sao một trường tội ác đáng ghê tởm và ngu xuẩn như vậy lại có thể xảy ra.

V. Giang Trạch Dân đánh đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc từ nội bộ

 Vì lợi ích cá nhân thúc đẩy, Giang Trạch Dân đã lợi dụng sự tà ác mà Đảng cộng sản vốn có để phát động một cuộc đàn áp khổng lồ nhắm vào những người tu luyện vô tội tin theo “Chân Thiện Nhẫn”. Hắn đã phát động một phong trào trừng phạt một lực lượng mà có lợi nhất và không có hại cho xã hội. Cuộc đàn áp này không những chỉ lôi kéo cả quốc gia và dân chúng vào tội ác và thảm họa, mà cuối cùng còn đánh đổ Đảng Cộng Sản từ nền móng căn bản nhất của nó.
Giang Trạch Dân đã lợi dụng ĐCSTQ để sử dụng không ngừng tất cả các thủ đoạn tà ác nhất trên thế giới để đàn áp Pháp Luân Công. Luật pháp, đạo đức và nhân tính, tất cả đều phải chịu những sự phá hại nặng nề. Điều đó đã hủy hoại từ tận gốc các cơ sở thống trị của chính quyền quốc gia .
Tập đoàn của Giang đã sử dụng tất cả những nguồn lực tài chính, vật chất và con người để đàn áp Pháp Luân Công, gây ra một gánh nặng khổng lồ cho quốc gia và xã hội với áp lực vô cùng nặng nề lên hệ thống tài chính. ĐCSTQ không có cách nào để duy trì cuộc đàn áp mà chắc chắn là sẽ thất bại trong một thời gian dài. Nó chỉ có thể dùng tiền tiết kiệm của người dân, phát hành công trái, và thu hút đầu tư ngoại quốc để tiếp tục duy trì cuộc đàn áp.
Trong cuộc đàn áp, ĐCSTQ và Giang Trạch Dân đã nghĩ ra đủ các loại thủ đoạn xảo quyệt, lưu manh và tàn bạo, sử dụng hết tất cả những thủ đoạn lừa lọc dối trá và tà ác mà nó vốn có, để đàn áp Pháp Luân Công.
ĐCSTQ và Giang Trạch Dân đã sử dụng tất cả những công cụ tuyên truyền có thể có để bịa đặt vu khống và bôi nhọ Pháp Luân Công, và bào chữa cho cuộc đàn áp và bức hại. Tuy nhiên, không lời dối trá nào có thể kéo dài mãi mãi. Một khi những lời dối trá cuối cùng bị vạch trần, và khi tất cả những bản chất tà ác bộc lộ ra, sau khi cuộc đàn áp thất bại , mọi người đều thấy rõ những điều đó, thì các thủ đoạn tuyên truyền của họ sẽ không còn có thể lường gạt người ta được nữa. Đảng sẽ hoàn toàn mất đi lòng tin tưởng và sự tín nhiệm của người dân.
Vào lúc bắt đầu của cuộc đàn áp Pháp Luân Công năm 1999, Giang Trạch Dân định giải quyết vấn đề Pháp Luân Công trong vòng “ba tháng”. Nhưng, ĐCSTQ đã đánh giá quá thấp sức mạnh của Pháp Luân Công, đánh giá quá thấp sức mạnh của truyền thống và lòng tin.
Từ thời cổ xưa tới nay, Tà không áp chế được Chính. Tà ác là không thể “xóa sạch” thiện lương trong tâm của người ta. Năm năm đã trôi qua. Pháp Luân Công vẫn là Pháp Luân Công. Hơn nữa, Pháp Luân Công đã truyền bá rộng rãi trên toàn thế giới. Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản đã phải chịu một thất bại thảm hại trong cuộc chiến đấu giữa chính và tà này. Và bản tính tà ác, tàn bạo lưu manh và xảo quyệt của chúng đã bị vạch trần toàn bộ. Giang Trạch Dân khét tiếng giờ đây đã bị ngập trong rắc rối tại trong và ngoài nước, và đang phải đối mặt với nhiều vụ kiện và các yêu cầu đưa hắn ra trước công lý.
Đầu tiên Đảng Cộng Sản Trung Quốc định lợi dụng cuộc đàn áp để củng cố chính quyền bạo lực của nó. Tuy nhiên, kết quả là nó không thể “nạp điện” mà lại tiêu hết tất cả năng lượng của bản thân. Giờ đây, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đi quá mức mà không còn thuốc cứu. Nó bây giờ chỉ giống như là một cái cây héo tàn, hư hỏng. Tự nó sẽ phải ngã gục trong một cơn gió. Mọi hy vọng viễn vông hòng cứu vớt Đảng Cộng Sản Trung Quốc đều là đi ngược lại trào lưu lịch sử. Nó không chỉ ở trong vô vọng thôi, mà còn hủy diệt cả tương lai của những ai tham dự vào.

Lời kết

Cựu tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Giang Trạch Dân là người đã phát động, hoạch định, và chỉ huy cuộc đàn áp tà ác. Giang Trạch Dân đã lợi dụng tất cả quyền lực, địa vị, các thủ đoạn ép người vào kỷ luật, và cơ chế cho các cuộc vận động chính trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc để phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công này. Hắn phải chịu trách nhiệm cho tội ác lịch sử này. Mặt khác, nếu không có Đảng Cộng Sản Trung Quốc thì Giang Trạch Dân sẽ không thể phát động và tiến hành cuộc đàn áp tà ác này. Từ ngày được thành lập, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chống lại chính nghĩathiện lương. Lấy trấn áp làm thủ đoạn và bức hại làm chuyên môn, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đặt nền tảng thống trị trên việc khống chế chặt chẽ tư tưởng của người dân để họ phải theo một Đảng duy nhất. Với bản tính của Đảng cộng sản, nên nó sợ “Chân Thiện Nhẫn” và coi Pháp Luân Công như là kẻ thù. Do đó, việc nó đàn áp và bức hại Pháp Luân Công là không thể tránh khỏi. Trong khi tấn công “Chân Thiện Nhẫn”, Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã tạo cơ hội cho sự giả dối, tà ác, bạo lực, đầu độc, tàn bạo và tham nhũng thối nát được phát triển tràn lan. Theo sau đó là sự phổ biến của đạo đức tuột dốc ở Trung Quốc mà ảnh hưởng đến tất cả mọi người.
Sự lợi dụng lẫn nhau giữa Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Giang Trạch Dân đã trói số phận của cả hai với nhau. Pháp Luân Công hiện đang kiện Giang Trạch Dân. Ngày mà Giang bị đưa ra trước công lý, thì số phận của Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ hiển lộ rõ ràng.
 Trời Đất không dung tha những kẻ đã tiến hành cuộc đàn áp vô nhân tính, chống lại những người tốt và tu luyện theo “Chân Thiện Nhẫn”. Những hành động tà ác của Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng sẽ trở thành một bài học sâu sắc và vĩnh cửu cho nhân loại.

Chú Thích
[1] Tin tức chi tiết về trường hợp này có thể tìm thấy lại các địa chỉ sau: http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2004/7/23/50560p.html, http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2004/6/7/48981p.html
[2] Thông tin chi tiết về trường hợp này có thể tìm thấy lại các địa chỉ sau: http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2004/9/25/52796.html.
[3] Thông tin liên quan cũng có tại địa chỉ: http://search.minghui.org/mh/articles/2004/7/9/79007.html (tiếng Hán)
[4] Lý Tiên Niệm (1902 – 1992), cựu chủ tịch Trung Quốc (1983-1988) và chủ tịch Hội nghị Cố vấn Chính trị Nhân dân Trung Quốc (1988-1992). Ông ta là bố vợ của Giang Trạch Dân. Trần Vân (1905-1995), một trong những lãnh đạo có ảnh hưởng nhất của Cộng sản Trung Quốc. Trần Vân là Ủy viên thường trực Bộ Chính trị trong hàng thập kỷ và là chủ tịch của Ban Cố vấn Trung ương từ 1987 đến 1992.
[5] Khí công là một tên gọi chung để chỉ việc tu luyện. Có rất nhiều môn khí công, phần lớn bắt nguồn từ các tín ngưỡng tinh thần truyền thống. Pháp Luân Công là một môn khí công.
[6] Năm 1992, Đặng Tiểu Bình bước ra khỏi thời kỳ bán nghỉ hưu, và đi thăm Thẩm Quyến ở miền nam Trung Quốc gần Hồng Kông và có các bài phát biểu để xúc tiến nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Chuyến đi thăm của Đặng được coi là đã khởi động lại chính sách cải cách kinh tế của Trung Quốc sau khi tạm lắng xuống sau vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989.
[7] Được phát hiện năm 1973, Tàn tích Văn hóa Hà Mỗ Độ, 7 nghìn năm tuổi, là một tàn tích quan trọng của một ngôi làng ở thời kỳ đồ đá mới ở Trung Quốc.
[8] Kiều Thạch  là cựu chủ tịch quốc hội Trung Quốc.
[9] Đặng đã từng nói, “Mèo trắng hay mèo đen đều tốt nếu nó bắt được chuột”, ý nói rằng mục tiêu của cải cách kinh tế là đem lại sự thịnh vượng cho nhân dân bất kể với hình thức xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa.
[10] Trương Chí Tân là một nữ trí thức bị ĐCSTQ tra tấn đến chết trong Đại Cách mạng Văn hóa vì dám nói lên sự thực.
[11] Cơ quan nhà nước của Trung Quốc phụ trách việc khởi tố và giám sát luật pháp. Các chức năng của nó bao gồm quyết định bắt và khởi tố các vụ án hình sự nghiêm trọng, thực hiện việc điều tra, khởi đầu và hỗ trợ quá trình công tố, diễn giải luật pháp trong những trường hợp cụ thể, giám sát các quyết định của tòa án, theo dõi các thủ tục pháp lý, và giám sát các hoạt động của hệ thống nhà tù, trại giam và trại lao động cưỡng bức.
[12] Từ ngày 19 tháng 12 năm 2004

Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN

 

Bài bình luận số 6

Đảng Cộng Sản Trung Quốc phá hoại văn hoá dân tộc

Lời mở đầu



Bảng hiệu tuyên truyền cho chiến dịch "Phê bình Lâm Bưu và Khổng Tử" (AFP/Getty Images)
Văn hóa là linh hồn của một dân tộc. Đối với nhân loại yếu tố tinh thần này cũng quan trọng ngang như yếu tố vật chất là giống nòi và đất đai.
Lịch sử nền văn minh của một dân tộc là lịch sử của các sự phát triển văn hóa. Sự phá hủy hoàn toàn văn hóa của một dân tộc dẫn tới sự diệt vong của dân tộc đó. Những dân tộc cổ xưa sáng tạo ra các nền văn minh huy hoàng đã bị xem như biến mất khi văn hóa của chúng biến mất, mặc dù người của các dân tộc đó vẫn tồn tại. Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có nền văn minh cổ đã liên tục trải qua trên 5000 năm. Sự phá hủy nền văn hóa truyền thống là một tội ác không thể tha thứ.
Nền văn hóa Trung Quốc, được tin là do Trời truyền xuống, đã bắt đầu bởi những thần thoại như sự tạo ra trời và đất của Bàn Cổ [1], sự tạo ra con người của Nữ Oa [2], sự xác định hàng trăm cây thuốc của Thần Nông [3], và sự phát minh ra chữ Trung Quốc của Thương Hiệt [4]. “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo trời, Trời thuận theo Đạo, và Đạo thuận theo Tự nhiên”[5]. Sự uyên thâm về sự hòa hợp giữa người và trời của Đạo gia đã chảy trong huyết mạch của nền văn hóa Trung Quốc. “Cái đạo của Đại Học là rõ ràng ở chỗ Đức sáng”[6]. Khổng Tử đã mở một trường để dạy học hơn 2000 năm trước và đã truyền bá ra xã hội tư tưởng Nho gia mà đại biểu gồm năm đức hạnh chính là nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín. Trong thế kỷ đầu tiên, Phật pháp của Phật giáo đã truyền sang phương đông tới Trung Quốc với sự nhấn mạnh vào tính Thiện và sự cứu độ tất cả các chúng sinh, đó là “từ bi phổ độ”. Nền văn hóa Trung Quốc đã được phong phú thêm. Sau đó, Nho gia, Đạo gia, và Phật gia đã trở thành các niềm tin bổ xung cho nhau trong xã hội Trung Quốc, đưa triều đại nhà Đường (618-907 sau công nguyên) lên đến đỉnh của sự huy hoàng và thịnh vượng, được biết đến trên khắp thế gian.
Mặc dù dân tộc Trung Quốc đã trải qua nhiều lần bị phá hoại và đả kích trong lịch sử, nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc đã chứng tỏ là có sức sống, sức dung hợp cực kỳ to lớn, và tinh hoa của nó đã liên tục được truyền xuống. Sự hợp nhất giữa trời và người  đại biểu cho quan niệm về vũ trụ của tổ tiên chúng ta. Mọi người đều tin rằng ở hiền gặp lành, và ở ác gặp ác. Một đức hạnh cơ bản là 'đừng làm cho người khác những gì mình không muốn'. Trung, hiếu, tiết, nghĩa là tiêu chuẩn cho cách làm người trong xã hội, và năm đức hạnh chính của Nho gia là nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín đã đặt ra nền tảng đạo đức cho từng cá nhân và toàn xã hội. Văn hóa của Trung Hoa thể hiện ra Thành (thành thật), Thiện (lương thiện), Hòa (hòa vi quý), Dung (bao dung) những đặc điểm ưu tú này. Sự tưởng nhớ chung tới những người đã quá cố của người Trung Quốc cho thấy lòng sùng kính tới “trời, đất, vua, cha mẹ và thầy giáo”. Đây là sự biểu lộ văn hóa của các truyền thống gốc rễ của Trung Quốc, nó bao gồm sự kính trọng thần thánh, trời và đất (Thiên Địa), sự trung thành với quốc gia (Quân), các giá trị của gia đình cha mẹ (Thân), và sự kính trọng thầy giáo (Sư). Nội hàm vững chắc của văn hóa là “Tôn sư trọng đạo”. Văn hóa Trung Quốc truyền thống đã tìm kiếm sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, và đã chú trọng vào đạo đức và luân lý của từng cá nhân. Nó đã có cơ sở trên tín ngưỡng tu luyện của Đạo Khổng, Đạo Phật, và Đạo Lão, và đã cung cấp cho người Trung Quốc lòng khoan dung, sự tiến bộ xã hội, sự bảo vệ đạo đức con người, và niềm tin chân chính.
Không giống như pháp luật, mô tả các quy định cứng nhắc, văn hóa hoạt động như một chế ước mềm mại. Pháp luật thi hành trừng phạt sau khi một tội ác bị phạm phải, trong khi văn hóa, bằng cách giáo dục cho có đạo đức, ngăn ngừa các tội ác không cho xảy ra từ trong trứng nước. Giá trị luân lý đạo đức của một xã hội thường phản ảnh cụ thể từ bên trong văn hóa của nó.
Trong lịch sử Trung Quốc, văn hóa truyền thống đã đạt tới đỉnh điểm của nó trong triều đại nhà Đường thịnh vượng, hội tụ tới đỉnh cao quyền lực của quốc gia Trung Quốc. Khoa học cũng tiến bộ và có được danh tiếng độc nhất vô nhị với tất cả các quốc gia khác. Các học giả từ Châu Âu, Trung Đông, và Nhật Bản đã đến để học tập tại Trường An, kinh đô của triều đại nhà Đường. Những đất nước quanh Trung Quốc đã xem Trung Quốc như là nước tông chủ. “Nhiều quốc gia đã đến để triều cống Trung Quốc, dù rằng phải qua nhiều tầng phiên dịch và phải thông qua nhiều thủ tục.” [7]
Sau triều đại nhà Tần (221-207 trước Công Nguyên(CN)), Trung Quốc thường bị chiếm bởi những dân tộc thiểu số. Điều này đã xảy ra trong các triều đại nhà Tùy (581-618 sau CN), Đường (618-907 sau CN), Nguyên (1271-1361 sau CN) và Thanh (1644-1911 sau CN) và trong một số lần khác khi những dân tộc thiểu số thành lập chế độ của riêng họ. Tuy nhiên, hầu như tất cả các dân tộc này đã bị đồng hóa theo các cách của người Trung Quốc. Điều này cho thấy sức mạnh đồng hóa to lớn của văn hóa Trung Quốc truyền thống. Như Khổng Tử đã nói, “(Vì vậy) nếu người phương xa không tuân theo, thì thu phục họ bằng cách tu Văn và Đức (của chúng ta)”[8].
Từ khi nắm quyền lực năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã dành các tài nguyên quốc gia vào việc phá hủy nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc. Ý định xấu xa này tuyệt đối không đến từ nhiệt tâm công nghiệp hóa của ĐCSTQ, cũng không từ sự ngu dốt đơn giản trong việc tôn thờ văn minh phương Tây. Hơn thế, nó đã đến từ sự đối nghịch ý thức hệ cố hữu của ĐCSTQ đối với văn hóa truyền thống của dân tộc. Vì vậy sự phá hoại văn hóa Trung Quốc của ĐCSTQ đã được lập kế hoạch, tổ chức tốt, và hệ thống hóa, được hỗ trợ bởi sự sử dụng bạo lực của chính quyền. Từ khi được thành lập, ĐCSTQ chưa hề bao giờ ngưng “cách mạng hóa” nền văn hóa của Trung Quốc trong việc cố gắng phá hủy tinh thần của nó một cách triệt để.
Thậm chí còn đáng đê tiện hơn cả sự phá hoại văn hóa truyền thống của Trung Quốc là sự lạm dụng và thay đổi lừa lọc có chủ ý của ĐCSTQ đã phát huy những phần đồi bại từ lịch sử của Trung Quốc, những thứ đã xảy ra bất cứ khi nào con người xa rời các giá trị truyền thống, như là sự tranh giành quyền lực nội bộ bên trong hoàng tộc, sự sử dụng các thủ đoạn và âm mưu, và sự áp dụng chế độ độc tài và chuyên chế. Nó đã sử dụng các ví dụ lịch sử để giúp tạo thành một bộ chuẩn mực thiện ác, phương thức tư duy, và hệ thống đàm luận của nó. Bằng cách làm như vậy, khiến cho nhân dân hiểu lầm rằng đó là “văn hóa Đảng”, là một sự kế thừa của văn hóa truyền thống Trung Quốc. ĐCSTQ thậm chí đã lợi dụng sự ác cảm của một số người đối với “văn hóa Đảng” để khuyến khích hơn nữa sự từ bỏ văn hóa truyền thống Trung Quốc chân chính.
Sự phá hoại văn hóa truyền thống của ĐCSTQ đã mang tới các hậu quả thảm khốc cho Trung Quốc. Không chỉ con người mất các ước thúc về đạo đức của họ, họ cũng bị bắt buộc phải thấm nhuần các lý thuyết tà ác của ĐCSTQ.

I. Tại sao Đảng Cộng Sản muốn phá hoại văn hóa dân tộc?

1. Truyền Thống Lâu Dài của Văn Hóa Trung Hoa—Dựa Trên Tôn Trọng Tín Ngưỡng và Đạo Đức

Văn hóa chân chánh của người Trung Quốc đã bắt đầu khoảng 5000 năm trước được sáng tạo bởi Hoàng Đế, người được cho là ông tổ đầu tiên của nền văn minh Trung Quốc. Trên thực tế Hoàng Đế cũng là người sáng lập nên tư tưởng Đạo gia, cũng được gọi là trường phái tư tưởng Hoàng-Lão. Nho gia chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Đạo gia. Ngài Khổng Tử giảng: “Lập chí ở Đạo, căn cứ ở Đức, noi theo ở Nhân, học rộng ở Nghệ” và “Nếu một người nghe Đạo buổi sáng, người đó có thể chết mà không hối hận vào buổi chiều”[9]. Cuốn Kinh Dịch, một ghi chép về trời và đất, âm và dương, các thay đổi của vũ trụ, sự phát triển và suy tàn của xã hội, và các luật về cuộc sống con người, đã được Nho gia coi là “Số một trong số tất cả các tác phẩm kinh điển của Trung Quốc”. Sức mạnh tiên tri của cuốn sách đã vượt xa những gì khoa học hiện đại có thể nhận thức. Bên cạnh Đạo gia và Nho gia, tư tưởng Phật gia, đặc biệt tư tưởng phái Thiền tông, đã có một ảnh hưởng âm thầm lặng lẽ nhưng sâu xa đối với những nhà trí thức Trung Quốc.
Tư tưởng Nho gia là phần văn hóa Trung Quốc truyền thống đã đặt trọng tâm vào “nhập thế.” Nó chú trọng vào đạo đức luân lý gia đình, ở đó lòng hiếu thảo đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, dạy rằng “tất cả lòng tốt bắt đầu từ lòng hiếu thảo” (Bách thiện hiếu vi tiên). Khổng Tử đề cao “nhân, nghĩa, lễ, trí và tín,” nhưng cũng nói, “Chẳng phải lòng hiếu thảo và kính trên nhường dưới là gốc rễ của nhân đức?”
Luân thường đạo lý dựa trên nền tảng gia đình có thể được mở rộng một cách tự nhiên để hướng dẫn đạo đức xã hội. Lòng "hiếu thảo" có thể được khuyếch trương đến sự "trung thành" của quần thần đối với vua. Người ta nói rằng, “Hiếm khi một người có lòng hiếu để, mà lại phạm thượng với bề trên”[10]. "Để" là kính nhường bực huynh trưởng, là mối quan hệ giữa anh em, và có thể được mở rộng hơn nữa đến sự "nghĩa khí" và sự công bằng giữa bè bạn. Nho gia dạy rằng trong gia tộc phải là phụ từ, tử hiếu, huynh hữu, đệ cung, một người cha phải từ ái, một người con phải hiếu thảo, anh lớn phải thân thiện, và em nhỏ phải cung kính lễ phép. Ở đây, "từ tâm" của người cha có thể được mở rộng đến sự "nhân từ" của vua với quần thần. Chừng nào mà các truyền thống trong gia tộc có thể được duy trì, luân lý đạo đức xã hội tất nhiên có thể được giữ gìn. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” [11]
Tư tưởng Phật gia và Đạo gia là bộ phận xuất thế trong văn hóa Trung Quốc truyền thống. Sự ảnh hưởng của Phật gia và Đạo gia có thể thấy trong tất cả các khía cạnh cuộc sống của dân chúng bình thường.  Trung y, khí công, phong thủy, và bói toán. Những môn này có nguồn gốc liên qua đến tư tưởng của Đạo Gia rất sâu đậm, cũng như là những khái niệm trong tư tưởng Phật gia về thiên quốc và địa ngục, thiện ác báo ứng, cùng với đạo đức luân thường của tư tưởng Nho gia, đã tạo thành hạch tâm của văn hóa Trung Quốc truyền thống.
Tín ngưỡng Nho, Phật và Đạo đã đem lại cho người Trung Quốc một hệ thống tinh thần đạo đức rất ổn định, không thay đổi chừng nào trời đất còn tồn tại “Thiên bất biến, Đạo cũng bất biến”[12].  Sự bền vững, hòa bình và hài hòa trong xã hội, là dựa vào thế hệ đạo đức mà tồn tại.
Đạo đức thuộc về lãnh vực tinh thần; vì vậy, nó thường thuộc về trừu tượng, mà tác dụng trọng yếu của văn hóa chính là sự diễn đạt thể hệ đạo đức trong ngôn ngữ mà người thông thường có thể hiểu.
Hãy lấy “Bốn Tác Phẩm Cổ Điển Trung Quốc”, bốn tác phẩm nổi tiếng nhất trong văn hóa Trung Quốc, làm ví dụ. Tây Du Ký [13] là một chuyện thần thoại. Hồng Lâu Mộng [14] bắt đầu với hội thoại giữa một hòn đá có linh hồn và Mang Mang đạo sĩ, Diệu Diệu chân nhân cùng Không Không đạo nhân tại đỉnh Vô Kê, núi Đại Hoang, đoạn này đưa ra đầu mối về kịch tính được bộc lộ trong suốt tác phẩm. Thủy Hử [15] mở đầu với câu chuyện làm thế nào mà Hồng thái úy, người nắm binh quyền, đã bất cẩn giải phóng 108 yêu ma. Truyền thuyết này giải thích nguồn gốc của "108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc". Tam Quốc Diễn Nghĩa [16] bắt đầu với một điềm báo của trời về một thảm họa, và kết thúc bằng sự phán xét không thể tránh được của thiên mệnh: “Hợp rồi tan, tan lại hợp, đó cũng là lẽ nhiệm mầu của Trời Đất vậy”. Những câu chuyện nổi tiếng khác, như là Đông Chu Liệt Quốc [17] và Thuyết Nhạc Toàn Truyện (Chuyện đầy đủ về Nhạc Phi) [18], tất cả đều bắt đầu với những truyền thuyết tương tự.
Việc sử dụng thần thoại của những nhà viết tiểu thuyết này không phải là một trùng hợp, mà là sự phản ảnh triết lý cơ bản của người trí thức Trung Quốc với sự tự nhiên và con người. Những tiểu thuyết này có một ảnh hưởng sâu sắc lên tâm trí người Trung Quốc. Khi nói về “nghĩa”, mọi người nghĩ đến Quan Vũ (160-219 sau CN) trong Tam Quốc Diễn Nghĩa hơn chỉ là về khái niệm khô cứng của từ ngữ, ‘nghĩa’ của ông ta đối với bạn của mình đã vượt lên mây tới trời xanh như thế nào; lòng trung thành không thể lay chuyển của ông ta với bề trên của ông mà cũng là anh em kết nghĩa (Lưu Bị) đã đem lại cho ông sự kính trọng thậm chí từ kẻ thù của ông ta như thế nào; sự dũng cảm của ông ta trong chiến trận đã chiến thắng trong các tình huống thảm khốc nhất, sự thất bại cuối cùng của ông trong trận chiến tại Mạch Thành, và, cuối cùng là, sự gặp gỡ của ông ta với tư cách một vị thần với con trai của ông như thế nào. Khi nói tới chữ “trung” người Trung Quốc tự nhiên nghĩ tới Nhạc Vũ Mục (1103-1141 sau CN), một vị tướng nhà Tống người đã phục vụ đất nước của mình với tính chính trực và lòng trung thành hoàn toàn, và Khổng Minh (181-234 sau CN), thừa tướng của nước Thục trong thời Tam Quốc, người “hiến dâng cả đời cho đến tận khi trái tim ngừng đập.”
Sự ca ngợi lòng trung và nghĩa trong văn hóa Trung Quốc truyền thống đã được miêu tả đầy đủ trong những câu truyện đầy mầu sắc của các tác giả này. Những nguyên tắc tinh thần trừu tượng họ tán thành đã được làm rõ ràng và biểu hiện trong những thành ngữ văn hóa.
Đạo gia giảng Chân. Phật gia giảng Thiện, và Nho gia giảng Trung, Thứ (vị tha), Nhân, Nghĩa. “Mặc dù hình thức của chúng khác nhau, mục đích của chúng là như nhau… tất cả chúng đều truyền cảm hứng cho con người trở về với Thiện”[19]. Đây là những khía cạnh giá trị nhất của văn hóa truyền thống Trung Quốc dựa trên niềm tin vào Nho, Phật và Đạo.
Văn hóa truyền thống Trung Quốc đầy những khái niệm và nguyên tắc như là thiên, đạo, thần, phật, mệnh, duyên, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, liêm, sĩ, trung, hiếu, tiết và nhiều nữa như vậy. Nhiều người Trung Quốc có thể mù chữ, nhưng họ vẫn quen với hí kịch truyền thống. Những hình thức văn hóa này đã là những cách quan trọng đối với người thường để học các đức hạnh truyền thống. Do đó, sự phá hoại của ĐCSTQ đối với văn hóa Trung Quốc truyền thống là một sự tấn công trực tiếp vào đạo đức của người Trung Quốc và làm suy yếu nền tảng an định và hài hòa trong xã hội.

 Sự đối lập giữa Tà Thuyết Cộng Sản và Văn Hóa Truyền Thống

“Triết học” của Đảng Cộng Sản hoàn toàn mâu thuẫn với văn hóa truyền thống chân chánh của Trung Quốc. Văn hóa truyền thống là kính úy thiên mệnh, như Khổng Tử đã từng nói, “Tử sanh hữu mệnh, phú quý tại thiên.”[20]. Cả Phật gia và Đạo gia đều là hữu Thần, và tin vào sự luân hồi, và thuyết nhân quả nghiệp lực về cái thiện và ác. Đảng Cộng Sản, thì trái lại, không những chỉ tin vào thuyết vô Thần, mà còn “vô pháp vô thiên”. Nho gia coi trọng gia đình, nhưng Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản rõ ràng công bố sự thủ tiêu gia đình. Văn hóa Trung Quốc phân biệt người Trung Quốc với người nước ngoài, nhưng Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản chủ trương không có quốc gia. Văn hóa Nho gia đề cao lòng tốt với người khác, nhưng Đảng Cộng Sản cổ võ đấu tranh giai cấp. Nho gia khuyến khích lòng trung thành với bề trên và tình yêu đất nước, còn Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản đề xướng sự loại bỏ các quốc gia.
Để đạt được và duy trì quyền lực ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản đầu tiên đã gieo trồng những tư tưởng trái đạo đức trên mảnh đất Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã tuyên bố, “Nếu chúng ta muốn lật đổ một quyền lực, trước tiên chúng ta phải tạo ra sự tuyên truyền, và làm việc trong lãnh vực hệ tư tưởng”[21]. ĐCSTQ đã nhận ra rằng lý thuyết cộng sản bạo lực, mà được tồn tại với võ trang, đã bị tư tưởng phương Tây từ chối và không thể đứng vững trước lịch sử văn hóa 5000 năm sâu sắc của Trung Quốc. “Đã chót thì phải chét”. Vì vậy ĐCSTQ đã hoàn toàn hủy hoại văn hóa truyền thống Trung Quốc, và chỉ như vậy chủ nghĩa Mác-xít Lênin-nít mới có thể chiếm lấy chính trường Trung Quốc.

Văn hóa truyền thống là một chướng ngại đối với nền độc tài của ĐCSTQ

Mao Trạch Đông đã từng nói là ông ta không theo Đạo cũng không theo Trời [22]. Văn hóa Trung Quốc truyền thống không nghi ngờ gì nữa đã là một chướng ngại to lớn nên ĐCSTQ thách thức Đạo và chiến đấu với trời.
Lòng trung thành trong văn hóa Trung Quốc truyền thống không có nghĩa là sự trung thành một cách ngu muội. Trong con mắt của mọi người, Hoàng đế là “con của Trời”: có Trời ở bên trên ông ta. Hoàng đế không thể lúc nào cũng đúng. Do đó có nhu cầu cần những giám quan để chỉ ra những lỗi của hoàng đế vào mọi lúc. Hệ thống biên niên sử của Trung Quốc có những sử gia ghi chép lại mọi lời nói và hành động của hoàng đế. Các viên quan về giáo dục có thể trở thành thầy giáo vì lợi ích của vua, và hành vi của hoàng đế được phán quyết bởi các học giả Nho gia. Nếu hoàng đế trái đạo đức, không ngộ theo Đạo, mọi người có thể vùng lên để lật đổ ông ta, như là trường hợp khi Thành Thang phạt Kiệt, hoặc Vũ Vương phạt Trụ [23]. Những cuộc vùng lên đó, được phán quyết từ văn hóa truyền thống, không được coi là sự vi phạm lòng trung thành hoặc Đạo. Thay vào đó, chúng được xem như là thay Trời hành Đạo. Khi Văn Thiên Tường (1236-1283 sau CN) [24], một tướng lãnh nổi tiếng thời nhà Tống, bị bắt làm tù nhân, ông ta đã từ chối đầu hàng kẻ xâm lược Mông Cổ, ngay cả khi Hoàng Đế cố gắng thuyết phục ông ta đầu hàng. Điều này là bởi vì, là một người theo Nho gia, ông ta tin rằng “Dân là quan trọng bậc nhất; tiếp theo là quốc gia; cuối cùng mới là người cai trị.” (dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh) [25].
ĐCSTQ độc tài không cách nào có thể chấp nhận những niềm tin truyền thống như thế. ĐCSTQ đã muốn phong thánh những lãnh tụ của chính nó và đề cao sự sùng bái cá nhân, và như thế sẽ không theo những khái niệm lâu đời như là Trời, Đạo, Thần cai quản phía trên. ĐCSTQ nhận thấy rằng, nếu theo những tiêu chuẩn của văn hóa truyền thống thì những gì nó đã làm bị coi là tội ác to lớn và ghê tởm nhất chống lại Trời và Đạo. Họ cũng nhận thấy rằng chừng nào văn hóa truyền thống còn tồn tại, nhân dân sẽ không ca ngợi ĐCSTQ là “Đảng ta vĩ đại, quang vinh, và chính xác.” Các học giả sẽ tiếp tục truyền thống “hy sinh cuộc sống của họ để thủ nghĩa,” “duy trì sự công bằng với sinh mạng của họ”[26], và đặt dân lên trên những người cai trị. Vì vậy, nhân dân sẽ không trở thành những con múa rối của ĐCSTQ, và ĐCSTQ sẽ không thể bắt buộc người dân suy nghĩ theo ý mình.
Sự phản ảnh của văn hóa truyền thống đối với trời, đất và tự nhiên đã trở thành một chướng ngại vật ngăn cản “cuộc chiến với thiên nhiên” của ĐCSTQ trong một nỗ lực “thay thế Trời và Đất.” Văn hóa truyền thống trân trọng sinh mệnh con người, dạy rằng “bất kỳ tình huống nào liên quan đến sinh mệnh con người phải được xem xét với sự quan tâm lớn nhất". Sự nhận thức như vậy là trở lực đối với tội diệt tuyệt quần thể và thống trị bằng khủng bố của ĐCSTQ. Trong văn hóa truyền thống, “Đạo Trời” mới là tiêu chuẩn tột cùng của Thiện Ác trong đạo đức. Điều này cũng bằng như tước đoạt quyền giải thích về đạo đức của ĐCSTQ. Do đó, ĐCSTQ đã xem văn hóa truyền thống là một kẻ thù lớn trong nỗ lực duy trì quyền lực của nó.

Văn Hóa Truyền Thống Thách Thức Tính Hợp Pháp của Sự Cầm Quyền của Đảng Cộng SảnTrung Quốc

Văn hóa truyền thống Trung Quốc bao gồm “ hữu Thần luận” và “thiên mệnh luận”. Thừa nhận thiên mệnh là phải chứng minh được chính mình là “minh quân có Đạo”, “phụng thiên thừa vận”. Việc chấp nhận niềm tin vào Thần nghĩa là chấp nhận rằng quyền lực đối với dân tùy thuộc vào trời.
Tuy nhiên lý luận để nắm quyền của ĐCSTQ đã được tóm tắt là, “Dây xích truyền thống sẽ không bao giờ trói buộc chúng ta nữa, vùng lên các bạn những người lao động cần cù không bao giờ là nô lệ nữa. Trái đất sẽ phát triển trên các nền tảng mới; chúng ta không phải là không; chúng ta sẽ là tất cả.” [27]
ĐCSTQ tuyên truyền chủ nghĩa duy vật lịch sử, tuyên bố rằng chủ nghĩa cộng sản là một thiên đường nhân gian, con đường tới đó được lãnh đạo bởi giai cấp vô sản tiên phong, hoặc là Đảng Cộng Sản. Niềm tin vào Thần do đó đã trực tiếp thách thức tính hợp pháp trong sự cầm quyền của ĐCSTQ.

II. Đảng Cộng Sản Phá Hoại Văn Hóa Truyền Thống Thế Nào?

Mọi việc Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) làm, là để phục vụ một mục đích chính trị. Để nắm giữ, duy trì và củng cố sự chuyên chế bạo lực của nó, ĐCSTQ cần thay thế nhân tính bằng Đảng tính tà ác của nó, và thay thế văn hóa truyền thống Trung Quốc bằng văn hóa Đảng của nó là “giả dối, tà ác và đấu tranh”. Sự phá hoại và thay thế này không chỉ bao gồm các di tích văn hóa, di tích lịch sử và các cuốn sách cổ, chúng là hữu hình, và những thứ vô hình như là quan điểm truyền thống về đạo đức, cuộc sống và thế giới, mà tất cả các khía cạnh đời sống nhân dân đều dính líu tới, bao gồm các hành động, suy nghĩ và lối sống của dân. Cùng lúc, ĐCSTQ coi các biểu hiện văn hóa bề mặt, tầm thường như là “tinh hoa”, mà giữ lại chúng, và sau đó đặt thứ “tinh hoa” này lên như mặt chính. Đảng giữ vẻ bề ngoài của truyền thống trong khi thay thế truyền thống thực sự bằng văn hóa Đảng. Sau đó nó lừa dối dân chúng và xã hội quốc tế đằng sau bề ngoài “kế thừa và phát triển” văn hóa truyền thống Trung Quốc.

Cùng Một Lúc Tiêu Diệt ‘Tam Giáo’

Bởi vì trên thực tế, văn hóa truyền thống có gốc rễ dựa vào tư tưởng Khổng, Phật và Đạo, nên bước đầu tiên của ĐCSTQ trong việc phá hủy văn hóa truyền thống là tiêu diệt các thể hiện cụ thể của tôn giáo trong thế giới con người, tức là phải nhổ rễ tam giáo.
 ‘Tam giáo’ chính, Đạo Khổng, Đạo Phật và Đạo Lão, đã gặp phải sự phá hủy trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Lấy Đạo Phật làm ví dụ. Họ đã chịu bốn lần đại nạn chính trong lịch sử, lịch sử gọi là “Tam Vũ Nhất Tông” diệt Đạo Phật bởi bốn vị hoàng đế Trung Quốc. Hoàng Đế Thái Vũ[28] của triều đại Bắc Ngụy (386-534 sau CN) và Hoàng Đế Vũ Tông [29] của triều đại Đường (618-907 sau CN) cả hai đều đã cố gắng làm tiêu tan Đạo Phật để thay bằng Đạo Lão. Hoàng Đế Vũ [30] của triều đại Bắc Chu (557-581 sau CN) đã cố gắng làm tiêu tan cả Đạo Phật và Đạo Lão, để sùng kính Đạo Nho. Hoàng Đế Chu Thế Tông [31] của triều đại Hậu Chu (951-960 sau CN) đã cố gắng làm tiêu tan Đạo Phật chỉ để sử dụng các tượng Phật để đúc tiền, và đã không đụng chạm đến Đạo Lão hay Đạo Khổng.
 Duy có Đảng Cộng Sản Trung Quốc là tiêu diệt cả tam giáo cùng một lúc.
Ngay sau khi ĐCSTQ thành lập chính phủ, nó đã bắt đầu phá hủy các đền chùa, đốt kinh thư và bắt các tu sĩ và ni cô Phật giáo phải hoàn tục. Nó cũng không nhẹ tay hơn chút nào trong việc phá hủy các địa điểm của tôn giáo khác. Đến thập niên 1960, hầu như không còn lại bất cứ địa điểm tôn giáo nào ở Trung Quốc. Cuộc vận động Đại Cách Mạng Văn Hóa đã mang đến những tai ương cho văn hóa và tôn giáo thậm chí lớn hơn trong chiến dịch gọi là “Phá Tứ Cựu” [32] - nghĩa là: phá bỏ quan niệm cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, và thói quen cũ.
Ví dụ, ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc là Chùa Bạch Mã [33] được xây dựng trong triều đại nhà Đông Hán (25-220 sau CN) ở ngoại thành Lạc Dương, tỉnh Hồ Nam. Nó có vinh dự là “Cái nôi của Phật giáo Trung Quốc” và “Nhà của Người Sáng Lập”. Trong “Phá Tứ Cựu”, Đền Bạch Mã tất nhiên không thể thoát khỏi sự cướp phá.
Có một đội sản xuất của Chùa Bạch Mã ở gần ngôi chùa. Bí thư chi bộ Đảng đã dẫn nông dân tới đập tan ngôi chùa dưới danh nghĩa “cách mạng”. Những bức tượng Mười Tám Vị La Hán bằng đất sét 1000 năm tuổi được xây dựng dưới triều đại Liêu (916-1126 sau CN) đã bị phá hủy. Kinh Bối Diệp [34] mà một cao tăng Ấn độ mang tới đền 2000 năm trước đã bị đốt. Một vật quý hiếm, Ngựa Ngọc Bích, đã bị đập tan ra từng mảnh. Nhiều năm sau đó, vua Cămpuchia Norodom Sihanouk lưu vong đã có một yêu cầu đặc biệt muốn bày tỏ lòng kính trọng với Chùa Bạch Mã. Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc lúc bấy giờ, đã vội vã ra lệnh chuyển tới Lạc Dương kinh văn Bối Diệp mà được lưu trữ trong Hoàng Thành ở Bắc Kinh, và các bức tượng Mười Tám Vị La Hán được làm từ triều nhà Thanh từ Chùa Bích Vân ở vườn Hương Sơn[35] thuộc ngoại ô Bắc Kinh. Với sự thay thế giả này, một khó khăn ngoại giao đã được “giải quyết.” [36]
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa bắt đầu vào tháng 5, năm 1966. Nó thực sự là “cách mạng hóa” văn hóa Trung Quốc trong chiều hướng phá hủy. Bắt đầu từ tháng 8 năm 1966, ngọn lửa điên cuồng của “Phá Tứ Cựu” đã cháy trên toàn bộ vùng đất Trung Quốc. Những thứ bị xem là thuộc “chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xét lại”, các đền chùa Phật giáo, Đạo giáo, các tượng Phật, danh thắng cổ tích, tranh thư pháp, hội họa và các tác phẩm mỹ thuật cổ đã trở thành những cái đích chính để phá hủy của Hồng quân [37]. Lấy các tượng Phật làm ví dụ. Có 1000 tượng Phật được chạm khắc ngọc lưu ly trên đỉnh của Núi Vạn Thọ trong Cung Điện Mùa Hè (Di Hòa Viên) [38] ở Bắc Kinh. Sau “Phá Tứ Cựu”, tất cả chúng đã bị phá hủy, không có tượng nào còn nguyên ngũ quan nữa.
Thủ đô của đất nước là như thế, và trên toàn bộ các vùng còn lại của quốc gia cũng như vậy. Thậm chí cả những địa hạt ở xa cũng không thoát.
Có ngôi chùa Thiên Thai ở huyện Đại tỉnh Sơn Tây. Nó được xây dựng trong thời Thái Duyên của triều đại Bắc Ngụy 1600 năm trước, và có những bức tượng và bích họa rất quý giá. Mặc dù nó nằm ở một sườn đồi khá xa dân cư của địa hạt, những người dân tham gia vào “Phá Tứ Cựu” cũng không ngại gian nan hiểm trở mà đến dọn sạch các bức tượng và bích họa ở đó đi… Chùa Lạng Thiên [39], nơi mà Lão Tử đã giảng bài và để lại tác phẩm nổi tiếng 'Đạo Đức Kinh' 2500 năm trước, nằm ở huyện Chu Chí tỉnh Thiểm Tây. Xung quanh nơi mà Lão Tử giảng bài, trong vòng bán kính 10 dặm [40], có hơn 50 di tích lịch sử, bao gồm chùa Tông Thánh Cung (Tôn Kính Hiền Nhân) mà Hoàng Đế Đường Cao Tổ Lý Uyên Vi [41] đã xây dựng để bày tỏ lòng kính trọng Lão Tử 1300 năm trước. Bây giờ chùa Lạng Thiên và các di tích lịch sử khác đã bị phá hủy, và tất cả các đạo sĩ Đạo Lão đã bị bắt phải rời đi. Theo tiêu chuẩn của các Đạo sĩ, một khi một người trở thành Đạo sĩ, anh ta không bao giờ cạo râu hay cắt tóc. Tuy nhiên, bây giờ các Đạo sĩ bị bắt phải cắt tóc, bỏ áo choàng, và trở thành xã viên của công xã nhân dân [42].  Một số trong họ đã lấy con gái của các nông dân địa phương và trở thành con rể… Tại các thánh địa của Đạo Lão trong núi Lao Sơn ở tỉnh Sơn Đông, Thái Bình Cung, Thượng Thanh Cung, Hạ Thanh Cung, Đấu Mỗ Cung, Hoa Nghiêm Am, Ngưng Chân Quan, Quan Đế Miếu, ‘tượng thánh, bình cúng tế, các cuộn kinh điển Phật Giáo, di vật văn hóa, và miếu bia tất cả đều bị đập tan và đốt’… Văn Miếu ở Cát Lâm là một trong bốn miếu lớn nhất của Đạo Khổng tại Trung Quốc. Trong chiến dịch “Phá Tứ Cựu”, nó đã phải chịu thiệt hại nặng nề. [43]

Một Lối Đặc Biệt Phá Hủy Tôn Giáo

Lenin đã từng nói, “Cách dễ nhất để chiếm một thành lũy là công phá từ nội bộ.” Là một nhóm con cháu của chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít, ĐCSTQ hiểu điều này một cách tự nhiên và ngấm ngầm.
Trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn,” của Đại Thừa [44], đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán rằng sau khi Ngài nhập Niết Bàn, ma quỷ sẽ chuyển sinh làm hòa thượng, ni cô, và nam nữ cư sĩ phá hoại làm loạn Phật Pháp. Tất nhiên, chúng ta không thể xác nhận đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ngụ ý gì một cách chính xác. Tuy nhiên, sự phá hoại Đạo Phật của ĐCSTQ thực sự đã bắt đầu bằng cách thành lập một “mặt trận thống nhất” với một số tín đồ đạo Phật. Thậm chí họ đã gửi một số thành viên Đảng cộng sản bí mật tới xâm nhập tôn giáo trực tiếp và phá hoại nội bộ. Trong một cuộc họp phê bình trong Cách Mạng Văn Hóa, ai đó đã hỏi Triệu Phác Sơ, phó chủ tịch Hiệp Hội Phật Giáo Trung Quốc lúc đó, “Ông là một Đảng viên, tại sao ông lại tin vào Phật Giáo?”
 Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đạt Ngộ trọn vẹn và cao nhất qua “giới, định, và tuệ.” Vì thế trước khi Ngài nhập Niết Bàn, ngài đã hướng dẫn đồ đệ của ngài “giữ gìn và duy trì giới cấm, chớ để giảm bớt hay vi phạm”. Ngài cũng đã cảnh cáo, “Những người vi phạm Giáo Huấn bị trời, rồng, ma quỷ và thần ghê tởm. Tiếng xấu của họ sẽ lan xa và rộng... Khi cuộc sống của họ kết thúc, họ sẽ phải chịu đau khổ trong địa ngục để trả nghiệp, và gặp phải sự phán quyết cuối cùng không lay chuyển được. Sau đó họ sẽ xuất hiện. Họ sẽ tiếp tục chịu đau khổ bằng cách mang thân của ma đói và thú vật. Họ sẽ chịu đau khổ vô tận trong luân hồi như thế này mà không được giải thoát.” [45]
Các thầy tu Phật giáo chính trị vểnh những cái tai điếc trước những lời cảnh cáo của đức Phật. Năm 1952, ĐCSTQ gửi đại diện tới tham dự lễ ra mắt Hội Phật Giáo Trung Quốc. Tại buổi lễ này, nhiều tín đồ đạo Phật trong hội đề nghị bãi bỏ những giới luật của Phật giáo. Họ tuyên bố rằng những nguyên tắc này đã làm cho nhiều nam nữ thanh niên chết. Một số người thậm chí lại còn ủng hộ rằng “con người nên tự do tin vào bất kỳ tôn giáo nào. Nên cũng có tự do cho các thầy tu và nữ tu sĩ lập gia đình, uống rượu, và ăn thịt. Không ai nên can nhiễu vào những việc này.” Vào lúc đó, Sư Phụ Hư Vân có mặt tại buổi lễ và đã thấy rằng Phật giáo đang đối diện với nguy hiểm bị biến mất ở Trung Quốc. Ông ta đã bước ra chống đối lại những đề xuất này và kêu gọi gìn giữ những giáo huấn và hình thức của đạo Phật. Sư phụ Hư Vân sau đó đã bị vu khống, và bị gán nhãn hiệu là “phản cách mạng.” Ông bị giam giữ trong phòng trụ trì, và đã từ chối thức ăn và nước uống. Thậm chí ông không được ra khỏi phòng để sử dụng nhà vệ sinh. Ông cũng bị ra lệnh phải trao vàng, bạc và súng ngắn của ông. Khi Hư Vân trả lời rằng ông không có gì, ông đã bị đánh quá trầm trọng đến nỗi sọ của ông bị rạn và chảy máu, xương sườn của ông cũng bị gẫy. Hư Vân lúc đó đã 112 tuổi. Quân cảnh đã đẩy ông từ trên giường xuống đất. Khi họ quay trở lại ngày hôm sau và thấy rằng Hư Vân vẫn sống, họ lại đánh ông tàn nhẫn một lần nữa.
Hội Phật Giáo Trung Quốc được thành lập năm 1952 và Hội Đạo Sĩ Trung Quốc được thành lập vào năm 1957, cả hai đều rõ ràng công bố trong bản tuyên bố thành lập của mình rằng họ sẽ ở “dưới sự lãnh đạo của chính phủ Nhân Dân.” Trong thực tế, họ ở dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ vô Thần. Cả hai hội đều cho thấy rằng họ sẽ chủ động tham gia vào các hoạt động xây dựng và sản xuất, và thực thi các chính sách của chính quyền. Họ đã bị chuyển hóa thành các tổ chức thế tục hoàn toàn. Tuy vậy những tín đồ Đạo Phật và Đạo Lão, những người mà đã dành hết cho, và tuân theo các giáo huấn đã bị gán nhãn hiệu là ‘phản cách mạng’, hoặc là thành viên của những môn phái mê tín và các bang hội bí mật. Dưới khẩu hiệu cách mạng “làm trong sạch các tín đồ Đạo Phật và Đạo Lão”, họ đã bị bỏ tù, bắt phải “cải tạo qua lao động,” hoặc ngay cả bị xử tử. Thậm chí những tôn giáo truyền bá từ phương Tây, như là Cơ Đốc Giáo và Thiên Chúa Giáo cũng không được tha.
Dựa trên thống kê được đưa ra trong cuốn sách Đảng Cộng Sản Trung Quốc Đã Khủng Bố Tín Đồ Thiên Chúa Giáo Thế Nào được xuất bản năm 1958, ngay cả chỉ trong con số giới hạn các tài liệu đã được xuất bản, đã vạch ra cho thấy rằng trong số những mục sư mà bị gán là “địa chủ” hoặc “ác bá”, thì một con số gây sửng sốt, có 8.840 người bị giết và 39.200 người bị bắt vào các trại lao động. Trong số những mục sư bị gán là “phản cách mạng” có 2.450 người bị giết, và 24.800 người bị bắt vào những trại lao động. [46]
Các tôn giáo đều là các pháp môn mà con người rời bỏ ràng buộc của thế giới trần tục để tu luyện chính mình. Họ nhấn mạnh vào “bờ bên kia” (bờ của giác ngộ hoàn toàn) và “thiên đàng”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng là một vị hoàng tử Ấn Độ. Để tìm kiếm giải thoát [47], một trạng thái mà trong đó người tu luyện đạt được thanh tịnh trong tâm, trí tuệ cao hơn, giác ngộ hoàn toàn, và Niết Bàn, [48] Ngài đã từ bỏ ngai vàng và đi vào một ngọn núi có nhiều cây để tu luyện bằng cách trải qua kinh nghiệm những gian khổ và cực nhọc. Trước khi đức Chúa Giê su giác ngộ, ma quỷ mang ngài tới tột đỉnh của một ngọn núi, cho ngài thấy tất cả các vương quốc trên thế giới trong tất cả sự tráng lệ của nó. Ma quỷ nói, “Nếu ngài quỳ xuống và tôn thờ tôi, tôi sẽ cho ngài tất cả những thứ này.” Nhưng đức Chúa Giê su đã không bị dụ dỗ. Tuy vậy những thầy tu và mục sư chính trị, những người đã thành lập mặt trận thống nhất với ĐCSTQ, đã tạo ra hàng loạt những lừa đảo và dối trá như là “Nhân gian Phật giáo”, và “tôn giáo là chân thật, và chủ nghĩa xã hội cũng như vậy”. Họ tuyên bố rằng “không có sự mâu thuẫn giữa bờ bên này và bờ bên kia.” Họ khuyến khích các tín đồ Đạo Phật và Đạo Lão theo đuổi hạnh phúc, danh tiếng, sự tráng lệ, sự giàu có và địa vị trong cuộc đời này, và đã thay đổi các học thuyết tôn giáo và ý nghĩa của chúng.
Đạo Phật nghiêm cấm sát sinh. ĐCSTQ giết người như ruồi trong sự “ngăn chặn phản cách mạng.”[49]. Các thầy tu chính trị ngay sau đó đã giả mạo phán quyết rằng “giết những kẻ phản cách mạng là một việc thiện còn lớn hơn nữa”. Trong “Cuộc Chiến Chống Lại Sự Xâm Lược Của Mỹ và Giúp Đỡ Triều Tiên” (1950-1953)[50], ngay cả các thầy tu còn bị gửi trực tiếp tới chiến tuyến để chém giết.
Lấy Cơ Đốc giáo làm một ví dụ khác. Năm 1950, Ngô Diệu Tông[51] thành lập một giáo hội “Tam Tự”, nó theo nguyên tắc tự trị (quản), tự dưỡng và tự truyền. Ông ta tuyên bố rằng họ sẽ đập tan “chủ nghĩa đế quốc”, và chủ động tham ra “Cuộc Chiến Chống Lại Sự Xâm Lược Của Mỹ và Giúp Đỡ Triều Tiên”. Một người bạn tốt của ông ta đã bị tù hơn 20 năm vì từ chối tham gia Tam Tự và đã chịu đựng đủ loại tra tấn và làm nhục. Khi anh ta hỏi Ngô Diệu Tông, “Anh nghĩ thế nào về những sự mầu nhiệm mà đức Chúa Giêsu đã thực hiện?” Ngô đã trả lời, “Tôi vứt bỏ tất cả chúng”.
Không công nhận các sự mầu nhiệm của đức Chúa Giêsu là đồng nghĩa với không công nhận thiên đường của đức Chúa Giêsu. Làm thế nào mà một người có thể được coi là một tín đồ đạo Cơ Đốc khi người đó thậm chí không công nhận thiên đường mà đức Chúa Giêsu ngự trị? Tuy nhiên, là người sáng lập của giáo hội “Tam Tự”, Ngô Diệu Tông đã trở thành một thành viên của Ban Cố Vấn Chính Trị đương nhiệm. Khi ông ta đứng trước Đại Hội Trường Nhân Dân [52], ông ta chắc chắn đã hoàn toàn quên những lời của đức Chúa Giêsu: “Các con phải yêu kính Thượng Đế với tất cả trái tim của con, với tất cả linh hồn của con, và với tất cả ý chí của con. Đây là điều răn đầu tiên và vĩ đại nhất.” (Matthew, 22:37-38) “Trả lại Caesar những gì của Caesar; và trả lại Thượng Đế những gì là của Thượng Đế” (Matthew, 22:21)
ĐCSTQ đã sung công các tài sản của chùa, bắt các thầy tu và nữ tu nghiên cứu chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít để tẩy não họ, và thậm chí bắt họ phải lao động. Ví dụ, có một “công trường Phật Giáo” ở thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Hơn 25000 thầy tu và nữ tu đã từng bị bắt phải làm việc ở đó. Còn lố bịch hơn nữa là ĐCSTQ khuyến khích các thầy tu và nữ tu lập gia đình để làm tan rã Phật giáo. Ví dụ, ngay trước Ngày Phụ Nữ 8/3 năm 1951, Hội Phụ Nữ ở thành phố Tràng Sa, tỉnh Hồ Nam đã ra lệnh cho tất cả các nữ tu trong tỉnh phải quyết định lập gia đình trong một vài ngày. Thêm vào đó, các thầy tu trẻ và khỏe bị bắt tham gia quân ngũ và bị gửi tới chiến trường để phục vụ như là bia đỡ đạn!
Nhiều môn phái ở Trung Quốc đã bị tan rã dưới sự đàn áp bạo lực của ĐCSTQ. Những người ưu tú chân chính trong Đạo Phật và Đạo Lão cũng bị đàn áp. Trong số những người còn lại, nhiều người đã trở lại cuộc sống thế tục, và nhiều người khác đã là những Đảng viên bí mật chuyên mặc áo cà sa, [54] áo thụng của các Đạo sỹ, hoặc áo dòng của các linh mục để bóp méo kinh Phật, tiêu chuẩn Đạo Lão và Kinh Thánh, và để kiếm cách biện minh cho các chiến dịch của ĐCSTQ từ những lý luận căn cứ của nó.

Phá Hoại Văn Vật

Sự hủy hoại các di tích văn hóa là một phần quan trọng trong sự phá hoại văn hóa truyền thống của ĐCSTQ. Trong chiến dịch “Phá Tứ Cựu”, nhiều cuốn sách độc nhất, tranh thư pháp, và bức họa được sưu tập bởi những người trí thức đã bị đốt trong lửa hoặc cắt vụn thành bột giấy. Chương Bá Quân [55] có một bộ sưu tập gia đình trên 10,000 cuốn sách. Những người cầm đầu Hồng Vệ Binh đã dùng chúng để đốt lửa sưởi ấm cho họ. Những gì còn lại bị gửi tới nhà máy giấy, và bị xay vụn thành bột giấy.
Chuyên gia phục chế hội họa và tranh thư pháp, Hồng Thu Thanh, là một lão nhân được biết đến như là “thần y” đối với những bức tranh và bức thư pháp cổ. Ông đã phục chế vô số các kiệt tác nổi tiếng thế giới, như là tranh phong cảnh đời Tống Huy Tông [56], tranh tre của Tô Đông Pha [57], và các bức tranh của Văn Trưng Minh [58] và Đường Bá Hổ [59]. Qua nhiều thập niên, hầu hết hàng trăm bức tranh và bức thư pháp cổ mà ông đã cứu được, đã trở thành một bộ sưu tập đứng hàng đầu của quốc gia. Các bức tranh và bức thư pháp mà ông cứu chữa được trong lúc sưu tập đã bị gán nhãn là “Tứ Cựu”, và đã bị đốt trong lửa. Sau đó, ông Hồng đã khóc trong nước mắt, “Hơn 100 cân [60] (50 kg) tranh và bức thư pháp, phải mất lâu lắm mới đốt hết được!” [61]
“Việc đời thay thế nhau,
Luân chuyển thành kim cổ;
Non sông lưu danh tích,
Đời đời ta ngưỡng xem” [62]
Nếu nhân dân Trung Quốc ngày nay vẫn nhớ một số việc trong lịch sử của mình, họ sẽ có thể cảm thấy khác khi họ ngâm bài thơ này của Mạnh Hạo Nhiên. Các danh sơn thắng tích —địa điểm lịch sử bên các ngọn núi và dòng sông nổi tiếng nhất đã bị tàn phá, và đã biến mất trong cơn bão “Phá Tứ Cựu.” Không chỉ là Lan Đình, ở đó Vương Hy Chi [63] đã viết tác phẩm nổi tiếng Lan Đình Tập Tự [64] đã bị phá hủy, phần mộ của chính Vương Hy Chi cũng đã bị tàn phá. Nơi ở của tổ tiên của Ngô Thừa Ân [65] ở tỉnh Giang Tô cũng bị phá hủy. Nơi ở của tổ tiên của Ngô Kính Tử [66] ở tỉnh An huy cũng bị phá tan, bia đá mà Tô Đông Pha đã viết bài Túy Ông Đình Ký [67] cũng đã bị đẩy đi bởi “những nhà cách mạng trẻ” [68], và những chữ trên bia đá cũng bị cạo sạch.
Tinh hoa của văn hóa Trung Quốc đã được thừa kế và tích lũy qua nhiều ngàn năm. Một khi đã bị phá hủy, nó không thể được phục hồi lại. Nhưng ĐCSTQ đã man rợ phá hủy nó dưới danh nghĩa của “cách mạng” mà không có đau khổ hay xấu hổ gì. Khi chúng ta luyến tiếc vì Cung Điện Mùa Hè Cổ, được biết tới như là “cung điện của các cung điện”, bị đốt bởi Các Lực Lượng Đồng Minh Anh-Pháp, khi chúng ta luyến tiếc vì tác phẩm vĩ đại ‘Vĩnh Lạc Đại Từ Điển’ [69] bị phá hủy bởi ngọn lửa chiến tranh của những kẻ xâm lược, thì chúng ta lại có thể nghĩ được sự phá hủy của ĐCSTQ sẽ lan rộng nhiều hơn thế nữa, kéo dài hơn và triệt để hơn những sự phá hủy gây ra bởi bất cứ kẻ xâm lược nào khác, như thế nào không?

Sự Phá Hủy Các Niềm Tin Tinh Thần

Bên cạnh sự phá hủy các hình thức vật chất của tôn giáo và văn hóa, ĐCSTQ cũng sử dụng khả năng lớn nhất của nó để phá hủy các đặc tính tinh thần của người ta mà đã được tạo ra bởi tín ngưỡng và văn hóa.
Hãy lấy cách xử sự của ĐCSTQ đối với một số tín ngưỡng làm ví dụ. ĐCSTQ xem các truyền thống của những người theo đạo Hồi là một trong “Tứ Cựu” - tư tưởng, văn hóa, truyền thống và thói quen cũ. Do đó, nó đã bắt những người theo đạo Hồi phải ăn thịt. Những nông dân theo đạo Hồi và những nhà thờ Hồi giáo bị bắt phải nuôi heo, và mỗi gia đình phải cung cấp hai con heo cho nhà nước mỗi năm. Hồng vệ binh ngay cả còn bắt Đức Đệ Nhị Đại Hoạt Phật, Lạt Ma Ban Thiền, phải ăn phân người. Họ đã bắt ba thầy tu từ chùa Cấp Lạc ở thành phố Cáp Nhĩ Tân, tỉnh Hắc long giang, là ngôi chùa Phật giáo lớn nhất được xây dựng trong thời hiện đại (1921), phải dương một tấm bảng biểu ngữ viết, “Địa ngục với kinh - chỉ toàn là đồ bỏ đi”.
Vào năm 1971, Lâm Bưu [70], Phó Chủ tịch Ban Trung Ương của ĐCSTQ, đã cố gắng thoát khỏi Trung Quốc, nhưng đã bị giết khi máy bay của ông bị rơi ở Undurkhan, Mông Cổ. Sau đó, nơi ở của Lâm ở Bắc Kinh tại Mao Gia Loan, có một số đoạn trích văn của Khổng Tử được tìm thấy. Sau đó ĐCSTQ đã bắt đầu hành động điên rồ “Phê bình Khổng Tử”. Một nhà văn có bút danh Lương Hiệu[71] đã đăng một bài báo trên tạp chí Hồng Kỳ, là tạp chí mang tính biểu ngữ của ĐCSTQ, nhan đề “Khổng Tử là ai?” Bài báo mô tả Khổng Tử như là một “người điên muốn quay ngược lịch sử lại”, và là một “kẻ mị dân khôn ngoan và lừa đảo”. Một chuỗi các tranh vẽ châm biếm và bài hát theo sau đó, làm xấu xa danh tiếng Khổng Tử.
Theo cách này, sự cảm nhận thần thánh trang nghiêm của tôn giáo và văn hóa đã bị phá hủy tận cùng.

Sự phá hủy không có hồi kết thúc

Ở Trung Quốc xưa, chính quyền trung ương chỉ mở rộng các luật lệ của nó ở cấp tỉnh, ở cấp dưới là các thị tộc duy trì sự kiểm soát tự trị. Như vậy trong lịch sử Trung Quốc, sự phá hủy, như là “đốt sách và chôn các môn sinh Khổng giáo” của Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng[72] trong triều đại nhà Tần (221-207 trước CN), và bốn chiến dịch để loại bỏ đạo Phật giữa thế kỷ thứ năm và thứ mười của “Tam Vũ Nhất Tông”, tất cả đều được đánh từ trên xuống, và đã không thể nhổ tận rễ văn hóa. Các tư tưởng và tác phẩm kinh điển của đạo Phật và đạo Khổng đã tiếp tục tồn tại trong những không gian rộng lớn của xã hội. Đối ngược lại, chiến dịch “Phá Tứ Cựu” của những nam nữ sinh thanh thiếu niên được khuyến khích bởi ĐCSTQ là một hành động nhổ tận rễ trên toàn quốc với “sự hăng hái tự phát”. Sự mở rộng của ĐCSTQ tới mọi làng qua các chi bộ Đảng tại làng xã đã điều khiển xã hội chặt chẽ tới mức mà hành động “cách mạng” của ĐCSTQ đã mở rộng không có giới hạn và đã ảnh hưởng mọi người trên mọi tấc đất của Trung Quốc.
Không bao giờ trong lịch sử có bất cứ vị hoàng đế nào nhổ tận rễ khỏi đầu óc dân chúng những gì họ coi là tuyệt vời nhất và thần thánh nhất, sử dụng sự tuyên truyền sỉ nhục và vu khống cùng với bạo lực, như là ĐCSTQ đã làm. Sự tiêu diệt trên hình thái ý thức, có nhiều khi còn hữu hiệu hơn và kéo dài hơn sự tiêu diệt về vật chất.

Cải tạo trí thức

Chữ viết của người Trung Quốc là hiện thân của tinh hoa 5000 năm văn minh. Hình thức và phát âm của mỗi chữ, và các thành ngữ và ý nghĩa văn chương tạo thành từ sự kết hợp của các chữ, tất cả đều diễn đạt các ý nghĩa văn hóa sâu sắc. ĐCSTQ đã không những chỉ đơn giản hóa chữ viết Trung Quốc, mà còn cố gắng thay thế chúng bằng hệ thống “phiên âm” La tinh, là những thứ sẽ loại bỏ tất cả truyền thống văn hóa từ các chữ viết và ngôn ngữ Trung Quốc. Mặc dù kế hoạch đã bị thất bại, tuy thế tàn dư của nó đã gây thiệt hại cho ngôn ngữ Trung Quốc. Tuy nhiên, những người trí thức Trung Quốc thừa kế một văn hóa truyền thống đó đã không may mắn như vậy.
Trước năm 1949, Trung Quốc có khoảng hai triệu người trí thức. Mặc dù một số đã học tập ở những nước phương Tây, họ vẫn thừa kế một số tư tưởng Khổng giáo. Chắc chắn là ĐCSTQ không thể buông lơi việc kiểm soát họ, bởi vì là các thành viên của tầng lớp “học sĩ quý tộc” truyền thống, tư tưởng của họ đóng các vai trò quan trọng trong việc định hình ý thức của dân chúng.
Vào tháng 9 năm 1951, ĐCSTQ khởi xướng cuộc “vận động cải tạo tư tưởng” trên diện rộng bắt đầu với những phần tử trí thức tại trường Đại Học Tổng Hợp Bắc Kinh , và yêu cầu “tổ chức một phong trào (giữa các giáo viên trong các trường đại học, trung học và tiểu học, và giữa các sinh viên đại học) thú nhận lịch sử của họ một cách trung thành và thành thực, để thanh lý các phần tử phản cách mạng”[73].
Mao Trạch Đông không bao giờ thích những người trí thức. Ông ta nói, “Họ [những người trí thức] sẽ phải biết sự thực rằng trên thực tế nhiều người được gọi là trí thức, nói một cách tương đối, khá ngu dốt và những người công nhân và nông dân đôi khi biết nhiều hơn họ.” [74] “So sánh với những người công nhân và nông dân, những người trí thức chưa được cải tạo là không sạch sẽ, và phân tích đến cùng, thì những người công nhân và nông dân là những người sạch nhất, mặc dù tay của họ bẩn và chân của họ vấy phân bò…”[75]
Cuộc khủng bố những người trí thức của ĐCSTQ đã bắt đầu dưới nhiều hình thức kết tội, trải từ sự phê bình năm 1951 của Vũ Huấn [76] “làm trường học hoạt động bằng tiền xin được” (hành khất biện học) tới cuộc tấn công cá nhân của Mao Trạch Đông, năm 1955, kết tội nhà văn Hồ Phong phản cách mạng [77]. Ban đầu, giới trí thức không bị phân loại trong tầng lớp phản động, nhưng đến năm 1957, sau khi vài tôn giáo truyền thống chủ yếu đã đầu hàng qua cuộc vận động “mặt trận thống nhất”, ĐCSTQ đã có thể tập trung sức mạnh của nó vào giới trí thức. Hành động “đấu tranh chống cánh Hữu” sau đó đã được bắt đầu.
Cuối tháng hai năm 1957, với tuyên bố “trăm hoa đua nở, trăm phái tranh hót”, ĐCSTQ đã kêu gọi những người trí thức nói lên các đề xuất và phê bình của họ với Đảng Cộng Sản, hứa sẽ không có sự trả thù. Những người trí thức mà đã không hài lòng với ĐCSTQ trong một thời gian dài vì sự tàn phá của nó trên mọi lĩnh vực, cho dù nó không phải là chuyên gia trên những lĩnh vực đó, và vì sự giết hại thường dân vô tội của nó trong hành động “tiêu diệt phản cách mạng” thời kỳ 1950-1953 và để “loại bỏ phản cách mạng” thời kỳ 1955-1957. Họ đã nghĩ rằng ĐCSTQ cuối cùng đã trở lên cởi mở. Vì vậy họ đã bắt đầu nói ra cảm nghĩ thực sự của họ và sự phê bình của họ ngày càng lớn mạnh.
Nhiều năm sau đó, vẫn có nhiều người tin rằng Mao Trạch Đông chỉ bắt đầu tấn công những người trí thức sau khi đã trở nên thiếu kiên nhẫn với những lời phê bình quá gay gắt của họ. Tuy nhiên, sự thực là khác hẳn.
Ngày 15 tháng 5 năm 1957, Mao Trạch Đông đã viết một bài báo nhan đề “Sự Tình Đang Bắt Đầu Thay Đổi” và lưu hành nó giữa những viên chức cao cấp của ĐCSTQ. Bài báo viết: “Trong những ngày gần đây những người cánh Hữu… đã tự biểu lộ mình rõ ràng nhất và hung dữ nhất. Những người cánh Hữu, là những người chống cộng sản, đang thực hiện sự cố gắng chia rẽ để khuấy động một cơn bão trên lực lượng thứ bảy ở Trung Quốc… và có xu hướng phá hủy Đảng Cộng Sản như vậy”[78]. Sau đó, những quan chức này mà đã thờ ơ với chiến dịch “trăm hoa đua nở, trăm phái tranh hót” đột ngột trở nên hăng hái và “nghiêm chỉnh”. Trong hồi ký của mình “Quá khứ không biến mất như làn khói”, con gái của Chương Bá Quân đã kể lại:
“Lý Duy Hán, Bộ trưởng của Bộ Mặt Trận Thống Nhất, gọi cá nhân Chương Bá Quân để mời ông ta tham dự một cuộc họp về chỉnh phong để đưa ra ý kiến của ông ta về ĐCSTQ. Chương đã được sắp xếp để ngồi trên hàng ghế tràng kỷ đầu. Không biết đó là một cái bẫy, Chương nói rõ ràng các phê bình của ông về ĐCSTQ. Trong suốt buổi họp, “Lý Duy Hán có vẻ thư giãn. Chương có thể nghĩ Lý đồng ý với những gì ông ta nói. Ông ta không biết rằng Lý hài lòng khi thấy nạn nhân của mình rơi vào bẫy.” Sau cuộc họp, Chương được xếp vào loại cánh Hữu số một ở Trung Quốc.”
Chúng ta có thể dẫn ra một chuỗi các ngày tháng trong năm 1957 đã đánh dấu các đề nghị hay diễn văn của những người trí thức đưa ra các phê bình và đề nghị như “Viện Thiết Kế Chính Trị” của Chương Bá Quân vào ngày 21 tháng năm; “Các Quan Điểm Chống Sai Lầm Của Sô Viết” của Long Vân vào ngày 22 tháng năm; “Bình phản ủy viên hội” của La Long Cơ ngày 22 tháng năm; diễn văn của Lâm Hy Linh về “Phê Bình Chủ Nghĩa Xã Hội Phong Kiến của ĐCSTQ” tại trường đại học Bắc Kinh vào ngày 30 tháng năm; “Đảng Nên Ngừng Lãnh Đạo Nghệ Thuật” của Ngô Tổ Quan vào ngày 31 tháng năm; “Sự Thống Trị Của Đảng Trên Thế Giới” của Chư An Bình vào ngày mùng một tháng sáu. Tất cả những đề xuất và diễn văn này đã được mời, và đã được đem ra hiến tế sau khi Mao Trạch Đông đã mài sắc con dao đồ tể của mình.
Tất cả những trí thức này, có thể đoán được, sau đó đã bị gán nhãn cánh Hữu. Có hơn 550.000 những người “cánh Hữu” như vậy trên toàn quốc.
Truyền thống Trung Quốc có “Học sĩ thà chết chứ không chịu nhục”. ĐCSTQ lại có khả năng làm nhục những người trí thức bằng cách phủ nhận quyền sống của họ và thậm chí đổ trách nhiệm cho gia đình của họ nếu họ không chấp nhận sự nhục nhã. Nhiều trí thức đã đầu hàng. Trong suốt quá trình, một số họ tiếp tục nói những thứ [nhục nhã] khác để cứu chính mình, những thứ đã làm tan vỡ trái tim của nhiều người. Những người không chấp nhận sự nhục nhã đã bị giết, bị đem sử dụng như là ví dụ để hăm dọa các phần tử trí thức khác.
Tầng lớp “học sĩ” truyền thống, gương mẫu của đạo đức trong xã hội, đã bị tiêu mất như vậy. Mao Trạch Đông đã nói, “Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ giết 460 nho sinh, nhưng chúng ta đã giết 46.000 tên trí thức. Trong cuộc đàn áp phản cách mạng của chúng ta, chẳng phải chúng ta cũng đã giết một số phần tử trí thức phản cách mạng sao? Tôi đã tranh luận với những người phái dân chủ mà đã kết tội chúng ta hành động giống như Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng. Tôi đã nói họ đã sai. Chúng ta đã vượt hơn ông ta hàng trăm lần.” [79]
Kỳ thực, Mao đã làm còn hơn là giết các phần tử trí thức. Nói nghiêm trọng hơn, là ông ta đã hủy diệt cả tín ngưỡng và tâm linh của họ.

Tạo ra diện mạo của văn hóa bằng cách giữ lại vẻ bề ngoài truyền thống nhưng thay đổi nội dung

Sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thực hiện cải cách kinh tế và chính sách mở cửa, nó hồi phục lại nhiều nhà thờ cũng như là chùa Phật giáo và Đạo giáo. Nó cũng tổ chức một số hội lễ chùa ở Trung Quốc, cũng như là hội văn hóa ở hải ngoại. Điều này là nỗ lực cuối cùng của ĐCSTQ để tận dụng và phá hủy văn hóa truyền thống còn sót lại. Có hai lý do để ĐCSTQ làm như vậy. Một mặt, thiện lương trong nhân tính, mà Đảng Cộng Sản không có cách gì để trừ sạch, sẽ dẫn tới sự phá hủy “văn hóa Đảng”. Mặt khác, ĐCSTQ đã có ý định sử dụng văn hóa truyền thống để bôi mỹ phẩm trang điểm bộ mặt thật của chúng để che đậy bản tính tà của  “giả dối, tà ác và đấu tranh” của chúng.
Căn bản của văn hóa là các hàm nghĩa bên trong về đạo đức, còn các hình thức bề mặt chỉ có giá trị giải trí. ĐCSTQ đã hồi phục lại những yếu tố bề mặt của văn hóa, phục vụ giải trí, để che đậy mục đích phá hủy đạo đức. Cho dù có bao nhiêu cuộc triển lãm tranh thư pháp và nghệ thuật mà ĐCSTQ đã tổ chức, bao nhiêu lễ hội văn hóa với rồng hổ nhảy múa trên sân khấu, Đảng chỉ đơn giản hồi phục lại vẻ bề ngoài, mà không phải là phần tinh hoa của văn hóa. Trong khi đó, ĐCSTQ cũng lợi dụng các phần trình diễn văn hóa của nó cả trong và ngoài Trung Quốc, thực chất còn vì một mục đích để duy trì quyền lực chính trị.
Một lần nữa, lấy các chùa làm ví dụ. Các chùa có ý nghĩa là các địa điểm để con người tu hành, nghe chuông chùa buổi sáng và tiếng gõ mõ lúc hoàng hôn, lễ bái đức Phật dưới ngọn đèn dầu. Người ta trong xã hội người thường cũng có thể sám hối tội lỗi và lễ bái ở đó. Tu hành đòi hỏi một tâm thanh tịnh, không theo đuổi bất cứ điều gì. Sám hối tội lỗi và lễ bái cũng đòi hỏi một hoàn cảnh kính cẩn và nghiêm trang. Tuy nhiên, các chùa đã bị biến thành các nơi du lịch vì mục đích lợi nhuận kinh tế. Trong số những người thực sự thăm viếng các chùa ở Trung Quốc ngày nay, bao nhiêu người đến để suy nghĩ về những lỗi lầm của mình với một trái tim thành thật và kính cẩn trước Phật ngay sau khi tắm gội và thay quần áo?
Phục hồi lại vẻ bề ngoài nhưng phá hủy hàm nghĩa bên trong của văn hóa truyền thống là một thủ đoạn mà ĐCSTQ đã thực hiện để làm mê hoặc người đời. Dù đó là Phật giáo, các tôn giáo khác, hoặc các hình thức văn hóa xuất phát từ chúng, ĐCSTQ cố tình nhận chìm giá trị của văn hóa truyền thống trong cách này.

III. Văn hóa Đảng

Trong khi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đang phá hủy văn hóa nửa-Thần truyền thống, nó cũng thầm lặng thiết lập “văn hóa Đảng” của chính nó thông qua các cuộc vận động chính trị liên tục. Văn hóa Đảng đã cải tạo thế hệ già, đầu độc thế hệ trẻ và cũng có ảnh hưởng lên trẻ con. Ảnh hưởng của nó là cực kỳ thâm sâu và rộng khắp . Ngay cả khi nhiều người cố gắng phơi bày sự tà ác của ĐCSTQ, họ không thể không sử dụng tiêu chuẩn tốt hay xấu, cách phân tích, và từ vựng đã được phát triển bởi ĐCSTQ, những thứ chắn chắn mang dấu ấn của văn hóa Đảng.
Văn hóa Đảng không chỉ thừa kế cái ‘tà’ trong tà thuyết Mácxít-Lêninnít sinh ra ở ngoại quốc, mà còn phối hợp một cách khéo léo tất cả các nhân tố của phương diện Âm từ hàng ngàn năm văn hóa Trung Quốc với cách mạng bạo lực và triết lý đấu tranh từ sự tuyên truyền của Đảng Cộng Sản. Những thành phần mặt âm này bao gồm đấu tranh nội bộ để dành quyền lực bên trong các gia đình hoàng tộc, hình thành các phường hội để theo đuổi các lợi ích cá nhân, thủ đoạn gian trá chính trị để làm những người khác phải đau khổ, các mánh khóe và âm mưu bẩn thỉu. Trong suốt sự đấu tranh để sinh tồn của Đảng Cộng Sản trong các thập niên qua, đặc tính “giả dối, tà ác và tranh đấu” của nó đã được làm giàu thêm, nuôi dưỡng và chuyển sang trang mới.
Chuyên chế và độc tài là tính chất của văn hóa Đảng. Văn hóa này phục vụ Đảng trong các cuộc đấu tranh giai cấp và chính trị. Người ta có thể hiểu môi trường “nhân văn” khủng bố và chuyên chế của Đảng đã được nó lập ra như thế nào từ bốn khía cạnh:

Khía cạnh thống trị

A. Văn hoá bưng bít
Văn hóa của Đảng cộng sản là một độc quyền riêng rẽ mà không có tự do tư tưởng, ngôn luận, hiệp hội hay tín ngưỡng. Cơ chế thống trị của Đảng là tương tự như một hệ thống ống dẫn nước, dựa trên áp lực cao và sự cách ly để duy trì tình trạng kiểm soát của nó. Thậm chí một lỗ rò nhỏ xíu có thể dẫn tới sự sụp đổ của toàn hệ thống. Ví dụ, Đảng từ chối đối thoại với sinh viên trong biến động sinh viên ngày mồng 4 tháng sáu [80], sợ rằng nếu lỗ rò này phun ra, công nhân, nông dân, trí thức và quân đội cũng có thể đòi đối thoại, và rồi, Trung Quốc sẽ thực sự tiến tới dân chủ và nền chuyên chính một Đảng sẽ bị thay đổi. Do đó, họ đã chọn giết người hơn là thừa nhận đề nghị của sinh viên. Ngày nay ĐCSTQ sử dụng hàng chục ngàn “cảnh sát mạng lưới” để theo dõi mạng Internet và trực tiếp ngăn chặn bất kỳ mạng lưới điện tử ngoại quốc nào mà ĐCSTQ không thích.
B. Văn hóa khủng bố
Trong 55 năm qua, ĐCSTQ đã sử dụng khủng bố để đàn áp tâm trí của người dân Trung Quốc. Họ đã cầm và sử dụng roi da và dao đồ tể - nhân dân không bao giờ biết khi nào những thảm họa không thấy trước được, sẽ xảy ra với họ - để bắt nhân dân tuân theo. Người dân, sống trong sợ hãi, trở nên ngoan ngoãn. Những người chủ trương dân chủ, những nhà tư tưởng độc lập, những người hoài nghi trong hệ thống (của ĐCSTQ) và những thành viên của những nhóm tinh thần khác nhau đã trở thành những mục tiêu để giết như là một cách để răn đe công chúng. Đảng muốn đập tan bất kỳ sự đối lập nào từ trong trứng nước.
C. Một văn hóa theo mạng lưới khống chế
Sự khống chế xã hội của ĐCSTQ là bao gồm tất cả. Có hệ thống hộ khẩu hộ tịch, hệ thống ủy ban dân phố, và đủ loại uỷ ban của Đảng với tầng cấp cấu trúc khác nhau. “Các chi bộ Đảng được thiết lập tại tầng mức công ty”. “Mỗi một làng có chi bộ Đảng của mình”. Các thành viên của Đảng và Đội Thanh Niên Cộng Sản có những hoạt động đều đặn. ĐCSTQ cũng cổ võ một chuỗi các khẩu hiệu tương ứng. Một vài ví dụ: “Canh cửa nhà mình và theo dõi người của mình”. “Ngăn chặn người của mình không bị lôi cuốn”. “Kiên quyết thực thi chế độ để bắt nhận trách nhiệm, bảo đảm hoàn thành các trách nhiệm, và chắc chắn trách nhiệm chỗ nào. Canh gác và khống chế chặt chẽ. Nghiêm túc với kỷ luật và quy tắc và bảo đảm các biện pháp kiểm soát để duy trì và ngăn ngừa 24 giờ”. “Văn phòng 610[81] sẽ thành lập một ủy ban giám sát để kiểm tra và theo dõi các hoạt động trong mỗi vùng và đơn vị công tác vào những khoảng thời gian thất thường”.
D. Văn hóa vạ lây
ĐCSTQ đã hoàn toàn lờ đi các nguyên tắc cai trị theo luật pháp trong xã hội hiện đại và thúc đẩy mạnh mẽ các chính sách “liên luỵ”. Nó đã sử dụng quyền lực tuyệt đối của mình để trừng phạt họ hàng của những người bị gán nhãn là “địa chủ”, “giàu có”, “phản động”, “phần tử xấu” và “cánh Hữu” (địa, phú, phản, hoại, hữu). Nó đã đề xuất ra lý luận “xuất thân”. [82]
Ngày nay, ĐCSTQ sẽ “gắn liền tránh nhiệm của những nhà lãnh đạo hàng đầu và công khai khiển trách họ, nếu họ thất bại trong vai trò lãnh đạo của họ đối với việc có những biện pháp thích hợp để ngăn chặn các học viên Pháp Luân Công đi tới Bắc Kinh khuấy động rắc rối. Đối với những trường hợp nghiêm trọng, hành động kỷ luật sẽ được thực hiện”. “Nếu một người luyện tập Pháp Luân Công, mọi người trong gia đình sẽ bị sa thải”. “Nếu một nhân viên luyện tập Pháp Luân Công, tiền thưởng của mọi người trong toàn bộ công ty sẽ bị giữ lại.” ĐCSTQ cũng ban hành những chính sách rõ ràng phân loại trẻ em thành “có thể được giáo dục và chuyển hóa” hoặc “năm giai cấp đen” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu và cánh hữu). Đảng thúc đẩy việc tuân theo Đảng và “đặt đại nghĩa lên trên người thân thuộc.” Những hệ thống, như là hệ thống lưu trữ cá nhân và tổ chức, và hệ thống tạm trú, đã được thiết lập để bảo đảm sự thực thi các chính sách của nó. Người dân được khuyến khích tố cáo và vạch trần những người khác, và được thưởng cho những đóng góp với Đảng.

Khía cạnh tuyên truyền

A. Văn hóa tuyên truyền một chiều
Trong Cách mạng Văn Hóa, Trung Quốc đầy những khẩu hiệu như: “chỉ thị tối cao,” “Một câu (của Mao) nặng bằng mười ngàn câu, mỗi câu là một chân lý.” Tất cả các phương tiện truyền thông đều được khơi lên để phát những lời ca ngợi và tập thể ủng hộ Đảng. Khi cần, những lãnh đạo từ mọi tầng cấp của Đảng, chính phủ, quân đội, công nhân, đội thanh niên và các tổ chức phụ nữ sẽ được mang ra để bày tỏ sự ủng hộ của họ với Đảng. Mọi người đã phải đi qua thử thách đó.
B. Văn hóa khuyến khích bạo lực
Mao Trạch Đông đã nói, “Với 800 triệu dân, không đấu tranh thì làm sao có thể hoạt động được?” Trong sự khủng bố Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã nói, “Dẫu đánh những người luyện tập Pháp Luân Công tới chết thì cũng không bị trừng phạt.” ĐCSTQ chủ trương “chiến tranh toàn diện,” và “quả bom nguyên tử đơn giản chỉ là một con hổ giấy… thậm chí nếu một nửa dân số chết, nửa còn lại vẫn có thể xây dựng tổ quốc chúng ta từ đống đổ nát.”
C. Văn hóa kích động lòng căm thù
“Không quên sự đau khổ của giai cấp người nghèo, và nhất định nhớ sự thù hằn trong nước mắt và máu” đã trở thành một chính sách quốc gia cơ bản. Sự tàn bạo đối với các kẻ thù giai cấp đã được ngợi ca như một đức hạnh. ĐCSTQ đã dạy “Cắn vào lòng căm thù của bạn, nhai nó và nuốt nó xuống. Gieo căm thù trong lòng để nó nảy mầm.” [83]
D. Văn hóa lừa gạt và dối trá
Đây là một vài ví dụ về những lời dối trá của ĐCSTQ. “Thu hoạch trên mỗi mẫu [84] là quá mười ngàn cân” trong Đại Nhảy Vọt (1958). “Không một người nào bị giết trên quảng trường Thiên An Môn” trong cuộc tàn sát ngày 4 tháng 6 năm 1989. “Chúng ta đã khống chế vi trùng SARS” năm 2003, “Hiện tại là thời gian tốt nhất cho nhân quyền ở Trung Quốc”, và cái gọi là “Tam đại biểu” [85]
E. Văn hóa tẩy não
Đây là một số khẩu hiệu mà ĐCSTQ đã chế tạo để tẩy não nhân dân: “Không có Đảng Cộng Sản, thì không có một Trung Quốc mới.” “Lực lượng nòng cốt dẫn dắt niềm tin của chúng ta tiến lên là ĐCSTQ và cơ sở lý thuyết dẫn đường tư tưởng chúng ta là Mácxít - Lêninnít”[86], “Duy trì sự liên kết tối đa với Ban Trung Ương Đảng.” “Thực hiện lệnh của Đảng nếu hiểu nó. Ngay cả khi không hiểu, cứ thực hiện nó và sự hiểu biết sẽ sâu sắc trong khi thực hiện các mệnh lệnh.”
F. Văn hóa nịnh hót
“Thiên đường và trái đất là vĩ đại nhưng vĩ đại hơn vẫn là lòng tốt của Đảng;” “Chúng ta nợ Đảng tất cả những gì chúng ta đạt được;” “Tôi coi Đảng như mẹ của tôi;” “Dùng sinh mệnh mình để bảo vệ Ban Trung Ương Đảng.” “Đảng vĩ đại, vinh quang và chính xác.” “Đảng không thể thất bại”, và v. v.
G. Văn hóa giả dối để “qua cầu”
Đảng đã nắm lấy các mẫu người điển hình, và dựng nên tấm gương này tiếp đến gương mẫu khác, để nâng cao các phong trào “kiến thiết văn minh tinh thần của xã hội chủ nghĩa” và “giáo dục tư tưởng”. Kết quả, mọi người vẫn tiếp tục làm những gì họ đã làm trước khi có mỗi cuộc vận động. Tất cả các bài giảng công chúng, buổi học tập, và chia sẻ kinh nghiệm đều trở thành những việc giả vờ “nhận là thật để thông qua”, và tiêu chuẩn đạo đức xã hội tiếp tục có những bước nhảy lùi lớn.

Khía cạnh giữa cá nhân với nhau

A. Văn hóa ganh ghét
Đảng đã đẩy mạnh “chủ nghĩa quân bình tuyệt đối” để mà “bất cứ ai khác thường sẽ trở thành mục tiêu bị đả kích.” Người ta ghen tị với những ai có khả năng lớn hơn và những ai giàu có hơn - cái được gọi là “bệnh mắt Đỏ.” [87]
B. Văn hóa mọi người dẫm đạp lên nhau
ĐCSTQ đã khuyến khích “mặt đối mặt đấu tranh và lưng tựa lưng báo cáo”. Chỉ điểm những đồng nghiệp, viết những tài liệu để vu khống họ, bịa đặt ra các sự kiện và thổi phồng các lỗi lầm của họ - những hành vi lệch lạc này đã được sử dụng để đo lường sự gần gũi với Đảng và mong muốn tiến bộ.

Những ảnh hưởng vô hình lên tinh thần bên trong và hành vi bên ngoài

A. Một văn hóa chuyển con người thành máy móc
Đảng muốn nngười dân là “những con ốc không bao giờ hoen rỉ trong guồng máy cách mạng,” là “công cụ được thuần hóa cho Đảng,” hoặc để “Tấn công vào bất cứ hướng gì mà Đảng chỉ chúng ta.” “Những người lính của chủ tịch Mao nghe theo Đảng nhất, họ đi bất cứ chỗ nào cần họ và làm ổn định bất cứ chỗ nào có thử thách gay go”.
B. Một văn hóa điên đảo thị phi
Trong Cách Mạng Văn Hóa, ĐCSTQ muốn “có cỏ dại của chủ nghĩa xã hội hơn là vụ mùa của chủ nghĩa tư bản”. Quân đội bị ra lệnh bắn và giết trong cuộc tàn sát ngày 4 tháng 6 để “đổi lấy 20 năm ổn định”. ĐCSTQ cũng “Làm cho người khác những gì một người không muốn làm cho chính mình”
C. Một văn hóa tự mình tẩy não và tuyệt đối phục tùng
“Cấp dưới tuân lệnh cấp trên và toàn bộ Đảng tuân theo Ban Trung Ương Đảng.” “Đánh không thương xót để nhổ rễ bất kỳ tư tưởng ích kỷ nào nổi lên trong tâm trí bạn.” “Nổ ra một cuộc cách mạng tận sâu trong tâm hồn bạn.” “Duy trì liên kết tối đa với Ban Trung Ương Đảng.” “Thống nhất tư tưởng, thống nhất bước chân, thống nhất mệnh lệnh, và thống nhất chỉ huy.”
D. Một văn hóa bảo vệ vị trí của kẻ nô tài
“Trung Quốc sẽ bị hỗn loạn nếu không có Đảng Cộng Sản”; “Trung Quốc lớn như vậy. Ai có thể lãnh đạo Trung Quốc ngoại trừ Đảng Cộng Sản?” “Nếu Trung Quốc sụp đổ, nó sẽ là một thảm họa trên toàn thế giới, vì vậy chúng ta phải giúp Đảng Cộng Sản duy trì sự lãnh đạo của nó”. Do từ sợ hãi và tự bảo vệ, những nhóm người liên tục bị đàn áp bởi ĐCSTQ thường thường có vẻ khuynh Tả hơn là ĐCSTQ.
Những ví dụ quanh vấn đề này còn có rất nhiều. Mọi độc giả có thể tìm thấy những yếu tố khác nhau của văn hóa Đảng qua các kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người đã trải qua Cách Mạng Văn Hóa có thể vẫn nhớ một cách sống động “Vở Kịch Mẫu” của nhạc kịch hiện đại, các bài hát có lời của Mao, và Điệu Nhảy Trung Thành. Nhiều người vẫn nhắc lại các lời từ các cuộc hội thoại trong Bạch Mao Nữ [88], Chiến Tranh Địa Đạo [89], và Chiến Tranh Địa Lôi [90]. Qua những tác phẩm văn chương này, ĐCSTQ đã tẩy não người dân, nhồi nhét một cách bắt buộc vào tâm trí họ những thông điệp như Đảng “anh minh vĩ đại”; Đảng đã đấu tranh chống kẻ thù “gian khổ và dũng cảm” thế nào; những người lính của Đảng đã “hiến dâng tất cả cho Đảng” thế nào; họ đã vui sướng được hi sinh chính mình cho Đảng thế nào; và kẻ thù xấu xa và ngu ngốc thế nào. Ngày này qua ngày khác, sự tuyên truyền của bộ máy ĐCSTQ tiêm một cách bắt buộc vào mọi cá nhân sự tin tưởng mà Đảng Cộng Sản cần. Ngày nay, nếu người ta trở lại để xem bài thơ phổ nhạc thành màn khiêu vũ ca nhạc - “Phương Đông Màu Đỏ”, anh ta sẽ nhận ra rằng toàn bộ chủ đề và phong cách của màn trình diễn là về “giết, giết, và giết hơn nữa.”
Đồng thời, ĐCSTQ đã tạo ra hệ thống diễn văn và thuyết trình của nó, như là ngôn ngữ sỉ nhục trong sự phê bình số đông, những lời tâng bốc để hát những lời ca ngợi Đảng, và những quy phạm chính thức sáo rỗng tương tự như là “tiểu luận tám đoạn.”[91]. Nhân dân bị làm cho nói một cách không ý thức theo các mô hình suy nghĩ mà khuyến khích khái niệm “đấu tranh giai cấp”, và để “ca tụng Đảng”, và sử dụng ngôn ngữ độc đoán thay vì lập luận bình tĩnh và lý trí.
Một bước tiến trước chân lý là sai lầm. Văn hóa Đảng cũng lạm dụng đạo đức truyền thống tới một mức độ nhất định. Ví dụ, văn hóa truyền thống coi trọng “tín”, Đảng Cộng Sản cũng vậy. Tuy nhiên những gì nó đề xướng là “trung thành và trung thực với Đảng”. Văn hóa truyền thống nhấn mạnh “hiếu”. ĐCSTQ có thể bỏ người ta vào nhà tù nếu họ không chu cấp cho cha mẹ của họ, nhưng lý do thực sự là nếu không những người cha mẹ này sẽ trở thành “gánh nặng” cho chính quyền. Tuy nhiên, khi phù hợp với nhu cầu của Đảng, thì con cái đòi hỏi phải vạch ranh giới ngăn chia họ với cha mẹ của họ. Văn hóa truyền thống nhấn mạnh vào “trung”. Hơn nữa, “dân là quan trọng bậc nhất, quốc gia theo sau, cuối cùng mới là những người cai trị” (quân khinh dân quý, xã tắc vi trọng). “Trung” mà ĐCSTQ ưa thích là “sự hiến dâng mù quáng” - hoàn toàn mù quáng tới mức dân bị đòi hỏi phải tin vào ĐCSTQ vô điều kiện và tuân theo nó mà không có một thắc mắc gì.
Những lời thường được sử dụng bởi ĐCSTQ là rất mê lạc. Ví dụ, nó đã gọi nội chiến giữa Quốc Dân Đảng và Cộng Sản là “Chiến Tranh Giải Phóng”, như thể là người dân đã được giải phóng khỏi sự áp bức. ĐCSTQ đã gọi thời kỳ sau 1949 là “sau khi thành lập quốc gia”, khi mà, trong thực tế, Trung Quốc đã tồn tại lâu trước đó. ĐCSTQ đơn giản chỉ là kẻ đảo chính thành lập một chế độ chính trị mới. Ba năm Đại Đói Kém [92] được gọi là “ba năm thảm họa thiên nhiên,” trong khi, thực tế là, nó không phải thảm họa thiên nhiên chút nào, mà hoàn toàn là tai họa do con người gây ra. Tuy nhiên, nghe những lời này mà được sử dụng trong cuộc sống thường ngày, và bị chúng ảnh hưởng một cách vô hình, người dân vô tình chấp nhận những khái niệm mà ĐCSTQ đã có ý định truyền cho họ.
Trong văn hóa truyền thống, nhạc được xem là một phương thức để kiềm nén dục vọng. Trong Lạc Thư (Nhạc Thư), Tập 24 của Sử Ký, Tư Mã Thiên (145-85 trước CN) [93] đã nói rằng bản tính của con người là hòa bình; cảm giác với những vật chất bên ngoài ảnh hưởng cảm xúc của người ta, và khuấy động tình cảm yêu và ghét dựa trên đặc tính và trí tuệ của con người. Nếu những tình cảm này không bị kiềm nén, một người sẽ bị cám dỗ bởi vô vàn các cám dỗ bên ngoài, và sẽ bị đồng hóa bởi những nội tâm xấu và phạm vào nhiều hành động xấu. Vì vậy Tư Mã Thiên đã nói, các hoàng đế trong quá khứ sử dụng sách dạy lễ nghi và nhạc để tiết chế dân. Các bài hát nên “vui vẻ nhưng không tục tĩu, buồn nhưng không quá đau thương”. Người ta nên bày tỏ cảm giác và mong muốn, mà vẫn khống chế được những tình cảm này. Khổng Tử đã nói trong Luận Ngữ, “Ba trăm câu thơ của Kinh Thi (một trong sáu tác phẩm kinh điển được thu thập và diễn giải bởi Khổng Tử) có thể tóm tắt trong một câu, ‘không nghĩ tà’.
Một thứ đẹp như là nhạc, tuy nhiên, đã bị ĐCSTQ sử dụng như là một thủ đoạn để tẩy não người dân. Những bài hát như là “Chủ nghĩa xã hội là tốt,” “Sẽ không có Trung Quốc mới nếu không có Đảng Cộng Sản,” và nhiều bài khác, đã được hát từ lớp mẫu giáo cho đến đại học. Khi hát lên những bài hát này, người dân đã vô tình chấp nhận những ý nghĩa bên trong của lời hát. Hơn nữa, ĐCSTQ đã ăn trộm giai điệu của những bài dân ca du dương nhất và thay thế chúng bằng lời ca ngợi Đảng. Điều này đã phục vụ cả việc phá hủy văn hóa truyền thống và đề cao Đảng.
Một trong những tài liệu kinh điển của ĐCSTQ, “Diễn văn tại tọa đàm Duyên An về Văn học và Nghệ thuật” [94] đã đặt các nỗ lực văn hóa và quân đội như là “hai chiến tuyến”. Nó đã tuyên bố rằng chỉ có quân đội võ trang thì chưa đủ; còn phải có “quân đội văn hoá” nữa. Nó đã quy định rằng “ văn học nghệ thuật nên phục vụ chính trị” và “ văn học nghệ thuật của lớp giai cấp vô sản… là “các bánh xe và đinh ốc” của cỗ máy cách mạng.” Một hệ thống hoàn thiện “văn hóa Đảng” đã được phát triển từ điều này, với “thuyết vô Thần” và “đấu tranh giai cấp” là tinh hoa của nó. Hệ thống này hoàn toàn đi ngược lại văn hóa truyền thống.
“Văn hóa Đảng” thực chất đã phục vụ xuất sắc trong việc giúp đỡ ĐCSTQ đạt được quyền lực và khống chế xã hội. Giống như quân đội, nhà tù và lực lượng cảnh sát của nó, văn hóa Đảng cũng là một bộ máy bạo lực, nó cung cấp một loại bạo lực khác - “bạo lực văn hóa”. Sự bạo lực văn hóa này, bằng cách phá hủy 5000 năm văn hóa truyền thống, đã làm thui chột ý chí của người dân, và phá hoại ngầm sự liên kết của quốc gia Trung Quốc.
Ngày nay, nhiều người Trung Quốc hoàn toàn không biết tinh hoa của văn hóa truyền thống. Một số thậm chí còn đặt ngang hàng 50 năm “văn hóa Đảng” với 5000 năm văn hóa truyền thống Trung Quốc. Đây là một điều đau buồn cho người Trung Quốc. Nhiều người không nhận ra rằng khi đối chọi với cái gọi là văn hóa truyền thống thực tế họ đang đối lập với “văn hóa Đảng” của ĐCSTQ, không phải là văn hóa truyền thống thực sự của Trung Quốc.
Nhiều người hy vọng thay thế hệ thống của người Trung Quốc hiện tại bằng hệ thống dân chủ phương Tây. Thực tế, dân chủ phương Tây cũng đã được thành lập trên cơ sở văn hóa, đáng kể là Cơ Đốc giáo, cái mà, giữ quan điểm rằng “mọi người đều bình đẳng trong con mắt của Chúa”, tôn trọng nhân tính và các sự chọn lựa của con người. Làm sao mà một “văn hóa Đảng” vô nhân tính, bạo ngược của ĐCSTQ lại có thể được sử dụng như là nền tảng của một hệ thống dân chủ theo kiểu Phương Tây?

 

Kết luận

Trung Quốc đã bắt đầu đi lệch khỏi văn hóa truyền thống của nó trong triều đại nhà Tống (960-1279 sau CN), và văn hóa đó đã trải qua sự phá phách không ngớt kể từ đó. Sau Biến Động 4 tháng Năm năm 1919 [95], một số trí thức háo hức muốn có thành công nhanh và ích lợi ngay đã cố gắng tìm một con đường cho Trung Quốc bằng cách quay lưng lại với văn hóa truyền thống mà hướng về văn minh phương Tây. Tuy nhiên, các xung đột và thay đổi trong lĩnh vực văn hóa vẫn còn là một tiêu điểm của tranh cãi học thuật mà không có sự tham gia của các lực lượng mang tính quốc gia. Nhưng, khi ĐCSTQ xuất hiện, nó đã nâng cao các xung đột văn hóa thành vấn đề đấu tranh sống và chết của Đảng. Vì vậy ĐCSTQ đã bắt đầu thực hiện một cuộc tấn công trực tiếp vào văn hóa truyền thống, sử dụng các phương tiện phá hủy cũng như là sự lạm dụng gián tiếp trong hình thức “chấp nhận cặn bã và loại bỏ tinh hoa”.
Sự phá hủy văn hóa quốc gia cũng là quá trình thành lập “văn hóa Đảng”. ĐCSTQ đã phá vỡ phán quyết đạo đức và lương tâm con người, vì vậy dẫn nhân dân quay lưng lại với văn hóa truyền thống. Nếu văn hóa quốc gia bị phá hủy hoàn toàn, tinh hoa của quốc gia sẽ biến mất cùng với nó, dẫn đến chỉ còn có cái tên của quốc gia. Đây không phải là một cảnh cáo phóng đại.
Cùng lúc, sự phá hủy văn hóa truyền thống đã đem đến cho chúng ta những thiệt hại vật chất không ngờ.
Văn hóa truyền thống coi trọng sự hợp nhất giữa người và trời, và sự đồng tồn tại hài hòa giữa người và tự nhiên. ĐCSTQ đã tuyên bố niềm vui vô tận từ “đấu với trời và đất.” Văn hóa này của ĐCSTQ đã dẫn trực tiếp tới sự giảm giá trị trầm trọng của môi trường tự nhiên mà gây bệnh dịch cho Trung Quốc ngày nay. Lấy các nguồn nước làm ví dụ. Người dân Trung Quốc, đã từ bỏ giá trị truyền thống “một người quý tộc quý trọng sự giàu có, nhưng anh ta làm giầu một cách đúng khuôn phép,” đã cố tình tàn phá và làm ô nhiễm môi trường tự nhiên. Hiện tại, hơn 75 % của 50.000 kilômét (khoảng 30.000 dặm) sông của Trung Quốc là không phù hợp cho cá sinh sống. Hơn một phần ba nước ngầm đã bị ô nhiễm thậm chí là từ một thập niên trước, và bây giờ tình hình tiếp tục xấu hơn. Một “kỳ quan” thuộc loại lạ đã xảy ra ở dòng sông Hoài: Một trẻ em nhỏ đang chơi bên dòng sông phủ đầy dầu tạo một tia lửa mà, sau khi chạm bề mặt của dòng sông, đã cháy thành một ngọn lửa cao 5 mét. Khi ngọn lửa dâng lên không khí, hơn mười cây liễu trong vùng lân cận đã bị đốt khô [96]. Người ta có thể dễ dàng thấy rằng ai uống nước đó không thể không phát triển bệnh ung thư hay các bệnh tật lạ. Các vấn đề môi sinh khác, như là sự tạo thành sa mạc và muối hóa ở vùng Tây Bắc Trung Quốc, và ô nhiễm công nghiệp ở những vùng phát triển, tất cả có quan hệ tới việc xã hội mất sự tôn trọng với thiên nhiên.
Văn hóa truyền thống phản ảnh cuộc sống. ĐCSTQ đề xuất rằng “nổi loạn là có thể bào chữa được,” và “đấu tranh chống con người là đầy thích thú.” Dưới danh nghĩa cách mạng, Đảng có thể giết người và bỏ đói tới chết hàng chục triệu người. Điều này đã dẫn người dân tới chỗ giảm giá trị cuộc sống, mà sau đó khuyến khích sự gia tăng các sản phẩm giả và độc hại trên thị trường. Ví dụ, ở thành phố Phụ Dương của tỉnh An huy, nhiều trẻ sơ sinh khỏe mạnh đã phát triển thành có chân tay ngắn, thân thể yếu và gầy, và có cái đầu to trong thời kỳ bú sữa mẹ của chúng. Tám trẻ sơ sinh đã chết bởi vì căn bệnh lạ này. Sau khi nghiên cứu, người ta đã phát hiện ra rằng căn bệnh này gây ra bởi sữa bột có chất độc được sản xuất bởi một nhà sản xuất tham lam và có trái tim đen tối. Một số người nuôi cua, rắn và rùa mà cho ăn kích thích tố và thuốc kháng sinh, trộn cồn công nghiệp vào rượu vang để uống, đánh bóng gạo bằng cách sử dụng dầu công nghiệp, và làm trắng bột mì bằng tác nhân làm sáng của công nghiệp. Trong tám năm, một nhà sản xuất ở tỉnh Hà Nam đã sản xuất hàng ngàn tấn dầu ăn mỗi tháng sử dụng các chất liệu chứa chất gây ung thư như là dầu bị thải đi, dầu trích từ các bữa ăn bị bỏ lại, hoặc đất sét bị thải ra mà chứa dầu còn dư sau khi nó đã được sử dụng. Sản xuất thức ăn độc hại không phải là một hiện tượng giới hạn hay cục bộ, mà đã là phổ biến trên toàn Trung Quốc. Điều này tương quan với hậu quả của sự phá hoại văn hóa, nhân tâm không còn đạo đức ước thúc, chỉ còn truy cầu hưởng lạc vật chất.
Không giống như tính độc quyền tuyệt đối và độc nhất của văn hóa Đảng, văn hóa truyền thống có một khả năng bao dung rất lớn. Trong triều đại thịnh vượng nhà Đường, tư tưởng Phật gia, Cơ Đốc giáo, và các tôn giáo phương Tây khác đồng tồn tại một cách hài hòa với tư tưởng Nho gia, Đạo gia. Văn hóa truyền thống Trung Quốc đích thực sẽ giữ một thái độ khoan dung và rộng mở với văn minh phương Tây hiện đại. Bốn “con rồng” của Châu Á (Singapore, Đài Loan, Nam Hàn và Hồng Kông) đã tạo ra một đặc tính văn hóa “Tân Nho gia”. Nền kinh tế đang vút lên của họ đã chứng minh rằng văn hóa truyền thống không là một cản trở với sự phát triển xã hội.
Cùng lúc, văn hóa truyền thống đích thực đo lường chất lượng cuộc sống con người dựa trên cơ sở của sự hạnh phúc từ bên trong hơn là sự thoải mái vật chất từ bên ngoài. “Tôi mong không có ai khiển trách sau lưng tôi, hơn là có ai đó ca tụng tôi trước mặt; tôi mong có bình yên trong tâm trí, hơn là có sự thoải mái nơi thân thể.” [97] Đào Uyên Minh (365-427 sau CN) [98] đã sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng ông đã giữ một tinh thần vui sướng và đã hưởng thời gian thư nhàn “hái hoa cúc tây ở hàng rào phía đông, lặng ngắm núi Phương Nam ở đằng xa”.
Văn hóa không đưa ra những câu trả lời cho các câu hỏi như là làm thế nào để mở rộng sản xuất công nghiệp hoặc đi theo hệ thống xã hội gì. Đúng hơn, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp các chỉ dẫn và ước thúc đạo đức. Sự hồi phục thực sự của văn hóa truyền thống sẽ là sự khôi phục của khiêm nhường với Trời, Đất và Tự nhiên, tôn trọng cuộc sống, và kính úy thần linh của con người. Nó sẽ cho phép nhân loại với Trời, Đất, và Tự Nhiên ở cùng trong một xứ sở hài hòa, và bảo dưỡng những năm trời cho.

Chú Thích 
[1] Bàn Cổ (Bành Tổ) là sinh mệnh sống đầu tiên và là người sáng tạo ra tất cả trong thần thoại Trung Quốc.
[2] Nữ Oa là nữ thần mẹ người đã tạo ra nhân loại trong thần thoại Trung Quốc.
[3] Thần Nông là một nhân vật truyền thuyết trong thần thoại Trung Quốc người đã sống 5000 năm trước. Ông đã dạy dân làm nông. Ông cũng được công nhận là dành cuộc đời mình để tìm hàng trăm cây thuốc (và độc) và nhiều thực vật tự nhiên, những cây quan trọng cho sự phát triển y học Trung Quốc truyền thống.
[4] Thương Hiệt là một nhân vật truyền thuyết từ Trung Quốc cổ, là người sáng tạo ra chữ viết, công nghệ Trung Quốc. Phương pháp Thương Hiệt để đưa dữ liệu vào tính toán ký hiệu Trung Quốc được đặt tên theo tên ông.
[5] Từ Đạo Đức Kinh, một trong những văn bản quan trọng nhất của Đạo Lão, được viết bởi Lão Tử.
[6] Các lời bình ngỏ từ sách Đại Học của Khổng Tử.
[7] Từ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145-85 sau CN), người là nhà sử học lớn đầu tiên của Trung Quốc. Nó ghi chép lịch sử của Trung Quốc và các quốc gia lân cận từ thời kỳ cổ đại tới thời gian của ông. Hình mẫu việc chép sử của Tư Mã Thiên là độc nhất vô nhị và được dùng như là một mô hình lịch sử chuẩn chính thức của các triều đại hoàng đế trong 2000 năm tiếp theo.
[8] Từ tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử.
[9] Từ tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử.
[10] Từ tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử.
[11] Khổng Tử đã nói trong sách Đại Học ông đã viết, “Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ”.
[12] Đổng Chung Chu (ca. 179-104 trước CN), một nhà tư tưởng Khổng giáo trong thời nhà Hán, đã nói trong một chuyên luận Ba cách để hài hoà người với trời (Thiên Nhân Tam Sách) “trời còn tồn tại, Đạo không đổi.”
[13] Tây Du Ký, viết bởi Ngô Thừa Ân, là một trong những tiểu thuyết Trung Quốc kinh điển nổi tiếng nhất. Nó dựa trên một câu chuyện có thật về một nhà sư Trung Quốc nổi tiếng triều đại nhà Đường, Huyền Trang (602-664), người đã đi bộ tới vùng đất thuộc Ấn Độ ngày nay, là nơi sinh ra Phật Giáo, để tìm kinh. Trong tiểu thuyết, Ngộ Không, Bát Giới và Sa Tăng đã được Phật sắp xếp để trở thành các đệ tử của Huyền Trang và hộ tống ông tới Tây Trúc để lấy kinh. Họ đã trải qua 81 nạn trước khi tới được Tây Trúc và đắc Chính Quả.
[14] Hồng Lâu Mộng, viết bởi Tào Tuyết Cần (1715?-1763) vào triều đại nhà Thanh. Đó là một bộ truyện tình yêu buồn trên nền tảng sự suy tàn của một gia đình quý tộc. Lấy đó làm chủ đề trung tâm, tiểu thuyết đã mở ra một bức tranh toàn cảnh sống động và rộng lớn về lịch sử xã hội. Nó cũng mô tả các nhân vật chói lọi và đáng ghi nhớ mà trung tâm là Giả Bảo Ngọc và Lâm Bảo Thoa. Cấu trúc tỉ mỉ và trải rộng của nó cùng với giá trị văn chương của nó trong hình thức ngôn ngữ trang nhã đã làm cho nó được phổ biến rộng khắp như là hình ảnh thu nhỏ của nghệ thuật tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc.
[15] Thủy Hử, một trong những tiểu thuyết cổ điển lớn của Trung Quốc, được viết vào thế kỷ 14 bởi Thi Nại Am. Một trăm lẻ tám nam nữ đã tụ họp với nhau sống ngoài vòng pháp luật trên một đầm lầy. Mưu đồ, mạo hiểm, tàn sát, chiến tranh, và những câu chuyện lãng mạn được kể một cách hồi hộp bởi người kể chuyện truyền thống.
[16] Tam Quốc Diễn Nghĩa, một trong những tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nổi tiếng nhất viết bởi La Quán Trung (1330?-1400?) dựa trên lịch sử thời Tam Quốc (220-280 trước CN). Nó mô tả các cuộc đấu tranh rắc rối và phức tạp để giành ngai vàng giữa ba lực lượng chính trị hùng mạnh: Lưu Bị, Tào Tháo, và Tôn Quyền, và tập trung vào nhiều nhân tài lớn và những chiến lược sâu đậm trong thời kỳ đó.
[17] Đông Chu Liệt Quốc, một tiểu thuyết ban đầu được viết bởi Yu Shaoyu vào triều đại nhà Minh, được hiệu đính và viết lại bởi Feng Menglong vào cuối triều đại nhà Minh, và sau đó được tiếp tục hiệu đính bởi Cai Yuanfang vào triều đại nhà Thanh. Nó bao phủ một lích sử hơn 500 năm trong thời Xuân Thu (770-476 trước CN) và thời Chiến Quốc (475-221 trước CN).
[18] Thuyết Nhạc Toàn Truyện, được viết bởi Qian Cai vào triều đại nhà Thanh. Nó mô tả cuộc đời của Nhạc Phi (1103-1142) sống ở triều đại Bắc Tống, một trong những vị tướng và anh hùng yêu nước nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Tướng Nhạc Phi xuất sắc trong những trận chiến chống quân xâm lược miền bắc từ nước Yên. Ông đã bị đổ tội oan, tống vào tù và xử tử khi mà thừa tướng Tần Cối cố gắng loại bỏ phe chủ chiến. Sau đó Nhạc Phi giải oan và một ngôi đền đã được xây để tưởng nhớ ông. Bốn bức tượng bằng gang đã được đúc cho mộ của ông. Với những bộ ngực trần và tay bị trói sau lưng và quỳ trước nó [ngôi mộ], chúng đại diện cho những người chịu trách nhiệm cho cái chết của Nhạc Phi. Nhạc Phi đã trở thành một mẫu hình trong văn hóa Trung Quốc về lòng trung với nước.
[19] Đoạn trích này lấy từ Toát yếu của các kinh văn Đạo Giáo chọn lọc được biên soạn vào thời nhà Thanh.
[20] Xem [8].
[21] Từ diễn văn của Mao tại phiên họp thứ tám của Đại hội lần thứ 10 của ĐCSTQ.
[22] Những lời nguyên gốc của Mao trong tiếng Trung Hoa sử dụng một sự chơi chữ: Tôi thích một thày tu cầm một cái ô - không Đạo (hoặc Pháp, chơi chữ với “tóc”) hay trời (chơi chữ với “bầu trời”)
[23] Kiệt là tên của vua cuối cùng triều đại nhà Hạ (thế kỷ 21-16 trước CN), và Trụ là vua cuối cùng đời Thương (thế kỷ 16-11 trước CN). Cả hai đều là những bạo chúa.
[24] Văn Thiên Tường (1236-1283 sau CN), một tướng lĩnh chống lại quân Mông Cổ để bảo vệ lãnh thổ triềi đại nhà Nam Tống. Sau khi bị nhốt trong tù, ông đã bị giết vào ngày 9 tháng giêng năm 1283 sau khi đã từ chối không đầu hàng quân Mông Cổ.
[25] Từ Mạnh Tử.
[26] Từ một câu rất nổi tiếng trong Mạnh Tử, “Cuộc sống, ước muốn của tôi; công bằng, cũng là ước muốn của tôi. Khi tôi không thể có cả hai cùng một lúc, tôi sẽ duy trì công bằng với cái giá cuộc đời tôi.”
[27] Từ Cộng Sản Quốc Tế Ca. Dịch sang tiếng Trung Quốc thì nghĩa đen của nó là: “Không bao giờ có một đấng cứu rỗi, và chúng ta cũng không dựa vào Chúa; để tạo ra hạnh phúc cho con người, chúng ta dựa hoàn toàn vào chính chúng ta.”

[28] Hoàng Đế Thái Vũ đời Bắc Ngụy, (424-452 sau CN).
[29] Hoàng Đế Vũ Tông đời Đường, (840-846 sau CN).

[30] Hoàng Đế của triều đại Bắc Chu, (561-579 sau CN).
[31] Hoàng Đế Chu Thế Tông của triều đại Hậu Chu, (954-959 sau CN).
[32] Một biểu ngữ được sử dụng giữa những năm 1960 trong Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Quốc.

[33] Chùa Bạch Mã, chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc, được xây dựng vào năm 68 sau CN, năm thứ 7 của Yong Ping của triều đại Đông Hán (25-220 sau CN).
[34] Bối Diệp trong tiếng Dai gọi là Talan. Bối Diệp là loại thực vật nhiệt đới thuộc họ cây cọ. Nó là một loại cây cao có lá mỏng, không bị con nhậy cắn và rất chậm bị khô hoàn toàn. Thời cổ khi giấy chưa được phát minh, người Dai cổ đã in thư hay các bài viết trên lá cây đó. Các bức thư được khắc trên lá cũng được gọi là Bối Diệp thư, và kinh trên đó, là Tanlan (Bối Diệp kinh).
[35] Xiangshan Park, cũng được gọi là Fragrant Hills Park, nằm cách Bắc Kinh 28 km về phía tây nam. Được khởi công vào năm 1186 dưới triều Jin, nó trở thành nơi nghỉ mùa hè của hoàng gia vào các triều Nguyên, Minh và Thanh.
[36] Từ Các di vật văn hóa đã bị đốt thế nào của Ding Shu.
[37] Hồng Quân là nói đến những người dân tiên phong của Đại Cách Mạng. Hầu hết là những người trẻ tuổi ở giữa tuổi thanh thiếu niên (13 đến 19 tuổi).
[38] Cung điện Mùa Hè, nằm cách Bắc Kinh 15 km, là vườn hoàng gia lớn nhất và được giữ gìn tốt nhất ở ở Trung Quốc, có lịch sử hơn 800 năm…
[39] Chùa Lạng Thiên là một điện thờ nổi tiếng ở Trung Quốc. Nó được tôn kính như là “vùng đất đầu tiên được ban phước dưới trời” Chùa ở bên sườn đồi phía bắc của nói Zhongnan, cách huyện Zhouzhi 15 km về phía đông bắc, và cáhc thành phố Tây An 70 km.
[40] dặm là một đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc (1 dặm bằng 0.5 km).
[41] Hoàng Đế Cao Tổ của triều đại nhà Đường, tên hiệu là Lý Uyên, (khoảng 618-626 sau CN), vị hoàng đế đầu tiên của nhà Đường.
[42] Các công xã Nhân Dân, trước đây là cao nhất trong ba cấp quản trị ở các khu vực nông thôn từ năm 1958 tới khoảng 1982 ở Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Các công xã có các chức năng quản lý, chính trị và kinh tế. Chúng là các đơn vị tập thể lớn nhất và được chia nhở hơn thành các đội sản xuất và đoàn sản xuất. Sau năm 1982, chúng đã được thay bằng các thành phố nhỏ.
[43] Xem [36].
[44] Nội dung của Đại Thừa Niết Bàn Kinh là kinh Đại thừa cuối cùng của Phật, được giảng trong những ngày cuối cùng của ông trên trái đất. Nó cho là cấu thành tinh túy của tất cả các kinh Đại Thừa.
[45] Từ Taisho Tripitaka tập. T01, số 7, Đại Thừa Đại Niết Bàn kinh. Dịch tạm thời sẽ được cải tiến.
[46] Từ Lý Thuyết và Thực Hành Đàn Áp Tôn Giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc của Bai Zhi. Website: http://www.dajiyuan.com/gb/3/4/15/n300731.htm (tiếng Trung).
[47] Giải thoát biểu thị Niết bàn và cũng là tự do đạt được nhờ Định, nó cũng nhằm thoát khỏi sự luân hồi.
[48] Niết bàn, trong Đạo Phật hoặc Ấn độ giáo, là một trạng thái an lạc và hài hòa vượt khỏi đau khổ và tình; một trạng thái duy nhất linh hồn bất diệt.
[49] Một chiến dịch Đàn Áp Phản Cách Mạng đã xử lý các thành viên của xã hội tâm linh, hội tôn giáo, và Quốc Dân Đảng một cách bạo lực vào đầu năm 1951.
[50] “Cuộc chiến chống Mỹ bành chướng và giúp đỡ Triều Tiên”, như ĐCSTQ gọi nó, nổ ra vào năm 1950.
[51] Ngô Diệu Tông (1893-1975 sau CN) và những người khác đã xuất bản cái gọi là “Các phương tiện cho Cơ Đốc giáo Trung Quốc sử dụng các nỗ lực để xây dựng Trung Quốc mới” cũng được gọi là “Bản tuyên ngôn sáng tạo của Tam tự” vào năm 1950 và đã thành lập giáo hội “Tam Tự” sau đó.
[52] Đại Hội Trường Nhân Dân, xây vào năm 1959, tại phía tây của quảng trường Thiên An Môn. Là nơi hội họp của Quốc hội Trung Quốc.
[53] Xem [46].
[54] Áo cà sa, là áo choàng của thày tu.
[55] Chương Bá Quân (1895-1969 sau CN) là một trong những người sáng lập “Liên đoàn dân chủ Trung Quốc” một đảng dân chủ ở Trung Quốc. Ông đã bị Mao Trạch Đông liệt vào “cánh hữu số một” vào năm 1957, và là một trong những “người cánh hữu” đã không được khôi phục thanh danh sau Cách Mạng Văn Hóa.
[56] Hoàng Đế Huy Tông đời Tống, hiệu Zhao Ji (khoảng 1100-1126 sau CN).
[57] Tô Đông Pha, (1036-1101 sau CN), một nhà thơ, văn Trung Quốc nổi tiếng đời Tống. Một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi đời Đường và Tống”.
[58] Văn Trưng Minh, (1470-1559 sau CN) họa sĩ Trung Quốc đời Minh.
[59] Đường Bá Hổ, (1470-1523) là một học giả, họa sĩ, nhà thơ nổi tiếng đời Minh.
[60] cân là một đơn vị trọng lượng sử dụng ở Trung Quốc.Một cân bằng 0.5 kg.
[61] Xem [36].
[62] Từ một bài thơ của Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740 sau CN) là một nhà thơ nổi tiếng đời Đường.
[63] Vương Hi Chi (321-379 sau CN), là nhà thư pháp nổi tiếng nhất trong lịch sử đời Đường.
[64] Lan Đình Tập Tự nguyên thủy, được cho là viết bởi Vương Hi Chi tại thời kỳ đầu sự nghiệp thư pháp của ông (51 tuổi, 353 sau CN), được công nhận chung như là phần quan trọng nhất trong lịch sử thư pháp Trung Quốc.
[65] Ngô Thừa Ân (1506?-1582? sau CN), Nhà thơ, nhà tiểu thuyết Trung Quốc đời Minh, tác giả của Tây Du Ký, một trong bốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất Trung Quốc.
[66] Ngô Kính Tử (1701-1754 sau CN), một nhà văn đời Thanh, tác giả của Học giả (Rulin Waishi, cũng được biết như là Lịch sử không chính thức của giới học giả).
[67] Văn xuôi viết bởi Ouyang Xiu (1007-1072 sau CN), một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi đời Đường và Tống” Ouyang Xiu tự gọi mình là “túy ông”.
[68] Tên khác của Hồng Quân.
[69] The Yongle Encyclopedia or Yongle Dadian được ủy thác bởi Hoàng đế đời Minh Trung Quốc Yongle vào năm 1403. Nó được coi là cuốn bách khoa lớn nhất và sớm nhất thế. Hai ngàn học giả đã làm việc trong dự án, tích hợp 8000 văn bản từ thời cổ đại tới thời nhà Minh. Cuốn Bách khoa, hoàn thành vào năm 1408, bao gồm trên 22000 tập viết tay chiếm 40 mét khối.
[70] Lâm Bưu (1907-1971), một lãnh tụ cao cấp trong Đảng Cộng sản, dưới thời Mao Trạch Đông, đã là uỷ viên Bộ Chính trị, là Phó Chủ tịch nước (1958), và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1959). Lâm Bưu được coi là kiến trúc sư của Cách mạng Văn hoá. Lâm Bưu từng được chọn là người kế nhiệm Mao Trạch Đông năm 1966 nhưng sau đó bị thất sủng vào năm 1970. Thấy bị xuống dốc, Lâm Bưu (theo một số báo cáo) đã định làm một vụ tầy đình và định đào tẩu sang Liên Xô sau khi âm mưu bại lộ. Khi chạy trốn khỏi trừng phạt, máy bay đã nổ tại Mông Cô, kết thúc cuộc đời Lâm Bưu.

[71] “Lương Hiệu” đại biểu cho một nhóm cây bút đã được chỉ định.
[72] Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng (259-210 trước CN), hiệu Doanh Chính, là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nước Trung Quốc thống nhất. Ông đã chuẩn hóa luật pháp, ngôn ngữ viết, tiền tệ, trọng lượng và đo lường, và đã cho xây Vạn Lý Tường Thành. Tất cả đều những thứ này ảnh hưởng sâu và lớn lên lịch sử và văn hóa Trung Quốc. Ông đã ra lệnh đốt sách của nhiều trường phái bao gồm cả Nho gia và Đạo gia, và một lần đã r a lệnh chôn sống 460 nhà Nho. Những sự kiện lịch sử này được gọi là “đốt sách và chôn Nho sĩ” Ông đã xây một lăng tẩm khổng lồ cho chính mình và Đội quân canh mồ bằng đất nung của Hoàng Đế Tần được biết đến như là kỳ quan thứ 8 của thế giới.
[73] Từ Các tác phẩm của Mao Trạch Đông 1949-1976 (tập 2)
[74] “Chỉnh lại phong cách làm việc của Đảng” (1942) của Mao.
[75] “Nói chuyện tại diễn đàn Diên An về văn học và nghệ thuật” (1942) của Mao.
[76] Vũ Huấn (1838-1896 sau CN), tên gốc là Wu Qi, sinh tại Tangyi thuộc tỉnh Sơn Đông. Mất cha từ thủa nhỏ, gia đình ông rất nghèo. Ông phải xin thức ăn để nuôi mẹ và được biết đến như là người ăn mày hiếu thảo. Sau khi mẹ ông mất, ăn xin trở thành phương tiện kiếm sống duy nhất của ông. Ông mở các trường học miễn phí bằng tiền tích lũy xin được.
[77] Hồ Phong (1902-1985), nhà phê bình văn chương và học giả, chống lại chính sách văn chương giáo điều của ĐCSTQ. Ông đã bị khai trừ khỏi Đảng năm 1955 và kết án 14 năm tù.
[78] Từ Các Tác phẩm chọn lọc của Mao Trạch Đông (Tập. 5), “Sự tình đang thay đổi” (1957)
[79] Qian Bocheng, Văn hóa phương Đông, ấn bản thứ tư (2000).
[80] Cuộc vận động Ngày mồng 4 tháng 6 của sinh viên được khởi xướng bởi các sinh viên đại học tán thành cải tạo dân chủ ở Trung Quốc giữa 15 tháng 4 và ngày 4 tháng 6 năm 1989. Sau đó nó đã bị đàn áp bởi Quân đội giải phóng nhân dân, và được cộng đồng thế giới gọi là cuộc tàn sát ngày mùng 4 tháng 6.
[81] “Phòng 610”: một tổ chức được tạo ra chuyên khủng bố Pháp Luân Công, có quyền lực tuyệt dối tại mỗi cấp quản lý trong đảng và tất cả các hệ thống pháp luật và chính trị khác.
[82] “Xuất thân luận” (or bloodline or pedigree) là một lý thuyết tuyên bố rằng bản tính của một người là do tầng lớp của gia đình mà anh ta sinh ra quyết định.
[83] Từ bài hát của nhạc kịch hiện đại “Huyền thoại đèn lồng đỏ”, một “Vở kịch mẫu” chính thức phổ biến được phát triển trong thời “Đại cách mạng văn hóa” (1966-76).
[84] Mẫu là một đơn vị đo diện tích ở Trung Quốc.

[85] Học thuyết tam đại biểu của Giang Trạch Dân được nhắc đến lần đầu trong bài phát biểu của Giang tháng 2 năm 2000, đại ý là Đảng cộng sản Trung Quốc phải luôn luôn (1) đại biểu cho quyền lợi dân tộc Trung Hoa, (2) đại biểu cho sự phát triển hiện đại, (3) đại biểu cho nền văn hoá tiên tiến của Trung Quốc.
[86] Diễn văn mở đầu Phiên họp thứ nhất của Quốc hội nhân dân toàn quốc lần thứ nhất của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Tháng 9 năm 1954).
[87] “Bệnh mắt đỏ” được sử dụng ở đây để mô tả một người mà khi thấy người khác làm tốt hơn mình, anh ta liền cảm thấy bất bình và khó chịu, và nghĩ rằng anh ta đáng lẽ phải là người đang làm tốt hơn.

[88] Một “Vở kịch mẫu” chính thức phổ biến được phát triển trong thời “Đại cách mạng văn hóa” (1966-76). Trong huyền thoại dân gian Trung Quốc, Bạch Mao Nữ là một câu chuyện về một tiên nữ sống trong một hang động có các khả năng siêu thường có thể thưởng cho những người làm việc tốt và phạt những kẻ làm điều ác, ủng hộ chính nghĩa và trấn áp tà ác. Tuy nhiên, trong các vở kịch, opera và ba-lê ở Trung Quốc hiện đại cô bị mô tả như một cô gái buộc phải chạy trốn đến một cái hang sau khi bố cô bị đánh đến chết vì từ chối không gả cô cho một người địa chủ già. Cô bị bạc tóc vì thiếu dinh dưỡng. Dưới ngòi bút của các nhà văn theo ĐCSTQ, huyền thoại này đã bị biến thành một trong những vở kịch “hiện đại” nổi tiếng nhất ở Trung Quốc nhằm để kích động lòng hận thù giai cấp đối với những người chủ sở hữu đất đai.
[89] Địa Đạo Chiến, một phim đen trắng làm năm 1965 trong phim ĐCSTQ tuyên bố rằng quân du kích của mình ở Nội địa Trung Quốc đã đánh quân xâm lược Nhật qua nhiều đường hầm dưới lòng đát trong những năm 1940.
[90] Địa Lôi Chiến, một bộ phim đen trắng làm năm 1962 trong phim ĐCSTQ tuyên bố rằng quân du kích của mình ở tỉnh Hà Bắc đã đánh quân xâm lược Nhật Bản bằng mìn tự làm lấy trong những năm 1940.
[91] Một cách hành văn quy định trong các bài kiểm tra tuyển dụng công chức nhà nước. được biết là cứng nhắc về hình thức và nghèo nàn về nội dung.
[92] Đại Đói Kém 1959-1961 ở Trung Quốc là nạn đói lớn nhất trong lịch sử con người. Con số ước tính “người chết bất thường” trong nạn đói trải từ 18 tới 43 triệu.
[93] Xem [7].
[94] Của Mao Trạch Đông (1942).
[95] Biến Động 4 tháng Năm là biến động lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, bắt đầu từ mùng 4 tháng 5 năm 1919.
[96] Chen Guili, Cảnh báo của sông Hoài (1995).
[97] Từ “Mở đầu xem xét Li Yuan trở về Bàn Cổ” của Han Yu (768-824 sau CN), một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi đời Đường và Tống”.
[98] Đào Uyên Minh (365-427 sau CN), cũng được biết là Tao Qian, một nhà thơ lớn trong văn hóa Trung Quốc.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
 



Bài bình luận số 7

Lịch sử giết người của Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Lời Mở Đầu

     

  
Ảnh tài liệu cho thấy bọn tay sai của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang đánh đập và sỉ nhục một "phần tử phản Cách Mạng" (AFP/Getty Images)

Lịch sử 55 năm của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) được viết bằng máu và những lời dối trá. Những câu chuyện đằng sau lịch sử đầy máu này vừa cực kỳ bi đát vừa ít được biết đến. Dưới chế độ thống trị của ĐCSTQ khoảng 60 đến 80 triệu người dân Trung Quốc vô tội đã bị giết hại, để lại đằng sau những gia đình tan nát của họ. Nhiều người không hiểu tại sao ĐCSTQ lại giết người. Trong khi ĐCSTQ đang tiếp tục sự đàn áp tàn bạo của nó đối với các học viên Pháp Luân Công và gần đây áp bức các đám người biểu tình ở Hán Nguyên bằng súng đạn, nhiều người tự hỏi liệu họ có thể sẽ thấy một ngày mà ĐCSTQ sẽ học cách nói bằng lời thay vì bằng súng đạn.
Mao Trạch Đông tóm tắt mục tiêu của Cách Mạng Văn Hóa, “…sau khi thiên hạ đại loạn, thế giới sẽ tiến đến hòa bình, nhưng cứ khoảng 7 hoặc 8 năm, sự hỗn loạn lại cần phải xảy ra một lần”[1]. Nói cách khác, nên có một cuộc cách mạng về chính trị cứ 7 hoặc 8 năm một lần và một đám người cần bị giết chết trong khoảng 7 hoặc 8 năm một lần.
Đảng Cộng Sản giết người là có những lý luận để căn cứ vào, và có các nhu cầu hiện thực.
Theo lý luận mà nói, thì Đảng Cộng Sản tin vào “chính quyền chuyên chế của giai cấp vô sản” và cần phải “cách mạng liên tục dưới sự chuyên chính của giai cấp vô sản”.  Do đó sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền tại Trung Quốc, nó đã giết chết những người địa chủ để giải quyết vấn đề quan hệ sản xuất ở các khu vực nông thôn. Nó đã giết hại các nhà tư bản để đạt mục đích cải cách công thương và giải quyết các mối quan hệ sản xuất ở khu vực thành thị. Sau khi hai giai cấp này bị loại trừ, các vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế đã được giải quyết trên căn bản. Tương tự vậy, để giải quyết các vấn đề liên quan đến kiến trúc thượng tầng cũng cần phải giết người. Việc đàn áp 'Nhóm Hồ Phong chống Đảng' và cuộc 'Vận động chống cánh Hữu' đã tiêu diệt các thành phần trí thức. Việc giết hại những tín đồ đạo Cơ đốc, những người theo Đạo giáo, những người theo đạo Phật và các bang hội được dân ưa chuộng là để giải quyết vấn đề tôn giáo. Các cuộc tàn sát trên diện rộng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa đã giải quyết vấn đề quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng về chính trị và văn hóa. Vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989 được dùng để ngăn chặn nguy cơ về chính trị và giải quyết các vấn đề đòi hỏi dân chủ. Chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công nhằm để giải quyết các vấn đề về tín ngưỡng và phương pháp truyền thống để làm thân khỏe mạnh. Tất cả những hành động này đều cần thiết để Đảng Cộng Sản củng cố quyền lực và duy trì sự thống trị, khi liên tục phải đối mặt với các nguy cơ về tài chính (giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng vọt sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền và nền kinh tế Trung Quốc gần như đã sụp đổ sau Cách mạng Văn hóa), nguy cơ chính trị (một số người không nghe theo lệnh của Đảng hoặc một số người muốn chia sẻ quyền lực chính trị với Đảng) hoặc nguy cơ về niềm tin tưởng (sự tan rã của cựu Liên Bang Sô Viết, các biến động chính trị ở Đông Âu, và vấn đề Pháp Luân Công). Trừ vấn đề Pháp Luân Công ra, gần như tất cả các phong trào chính trị trước đó đều được dùng để làm sống lại bóng ma tà linh của Đảng Cộng Sản và kích động tham vọng cách mạng của nó. Đảng cũng sử dụng những phong trào chính trị này để thử các đảng viên ĐCSTQ, tiêu diệt những người không đạt đủ các đòi hỏi của Đảng.
Đồng thời việc giết người của Đảng Cộng Sản cũng do từ các nhu cầu hiện thực mà ra. Bởi vì Đảng Cộng sản xây dựng cơ nghiệp bởi những tên lưu manh vô lại mà đi giết người để chiếm đoạt quyền lực. Một khi tiền lệ này đã được đặt ra thì không có đường lui. Khủng bố liên miên đã được dùng để dọa nạt người dân và bắt buộc họ vì sợ hãi mà chấp nhận quyền thống trị tuyệt đối của Đảng Cộng Sản.
Nhìn bề ngoài, tưởng như là Đảng cộng sản "bị động phải giết người” và tưởng chừng như những sự kiện 'ngẫu nhiên' trong xã hội là "ngẫu nhiên" kích động tà linh Đảng cộng sản, và tình cờ châm ngòi cho cơ chế tổ chức giết người của Đảng cộng sản. Trên thực tế những sự kiện này được dùng để ngụy trang nhu cầu sát nhân của Đảng, và ĐCSTQ cần phải giết chóc định kỳ. Nếu không có những bài học đau đớn này, người ta có thể bắt đầu nghĩ rằng Đảng Cộng Sản đang tiến bộ, và sẽ bắt đầu đòi hỏi dân chủ như những sinh viên lý tưởng hóa trong cuộc vận động dân chủ năm 1989 đã làm. Việc giết người cứ 7 hay 8 năm một lần là để gợi lại sự khủng bố trong tâm trí người dân, và có thể cảnh cáo thế hệ trẻ: bất cứ ai chống lại ĐCSTQ, muốn thách thức quyền lãnh đạo tuyệt đối của ĐCSTQ, hoặc cố nói ra sự thực về lịch sử Trung Quốc, sẽ phải nếm mùi “nắm tay sắt của chính quyền chuyên chế của giai cấp vô sản”.
Giết người đã trở thành một trong những thủ đoạn cần thiết nhất để Đảng Cộng Sản duy trì sự thống trị. Với sự leo thang nợ máu của ĐCSTQ, thì việc buông lưỡi dao đồ tể của nó xuống sẽ khuyến khích người dân báo thù cho những tội ác đã làm. Do đó, ĐCSTQ không những chỉ giết hại nhiều người mà còn sử dụng thủ đoạn tàn nhẫn nhất để đe dọa người dân một cách hiệu lực, đặc biệt là vào thời kỳ đầu khi ĐCSTQ đang thiết lập sự thống trị của nó.
Bởi vì mục đích giết người là để chế tạo khủng bố tối đa, ĐCSTQ đã lựa chọn thành phần bị tiêu diệt một cách rất vô lý. Trong lịch sử của mỗi lần vận động chính trị, ĐCSTQ đều sử dụng chính sách diệt tuyệt. Hãy lấy việc “Đàn áp các phần tử phản Cách mạng” làm ví dụ. ĐCSTQ đã không thực sự đàn áp những "hành vi” phản Cách mạng mà chỉ đàn áp những “phần tử” mà họ gọi là phản Cách mạng. Nếu ai đã đầu quân và phục vụ vài ngày trong quân đội của Quốc Dân Đảng nhưng tuyệt đối không làm gì liên quan đến chính trị sau khi Đảng Cộng Sản chiếm được quyền lực, người này vẫn phải bị giết chết vì “lịch sử phản Cách Mạng” của mình. Trong quá trình cải cách ruộng đất, để gỡ bỏ “gốc rễ của vấn đề”, ĐCSTQ thường giết cả gia đình của người địa chủ.
Từ năm 1949 khi nắm chính quyền đến nay, ĐCSTQ đã bức hại hơn một nửa nhân dân Trung Quốc. Ước tính khoảng 60 đến 80 triệu người đã chết vì các nguyên nhân không chính đáng. Con số này vượt trên cả tổng số người chết trong cả hai cuộc Chiến tranh Thế Giới cộng lại.
Giống như những nước Cộng Sản khác trên thế giới, việc giết người tùy tiện của ĐCSTQ cũng bao gồm thủ đoạn giết hại cực kỳ tàn bạo những đảng viên của chính nó để tiêu diệt những người bất đồng ý kiến, coi trọng ý thức về 'nhân tính' hơn 'Đảng tính'. Sự thống trị bằng khủng bố của ĐCSTQ nhắm đều vào dân chúng và các đảng viên của nó để duy trì một “pháo đài chiến đấu không thể thất bại”.
Trong một xã hội của chính đảng, mọi người bày tỏ sự quan tâm và tình cảm với nhau, sống trong sự tôn kính và biết ơn Thượng Đế hay Thần linh. Ở phương Đông, mọi người nói, “Đừng bao giờ gây ra cho người khác điều gì mà chính bản thân mình không muốn nhận nó [2].” Ở phương Tây, mọi người nói, “Hãy yêu quý hàng xóm láng giềng như yêu chính bản thân mình” [3]. Ngược lại, Đảng Cộng Sản cho rằng “Lịch sử của tất cả xã hội cho đến ngày nay là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp” [4]. Để các cuộc "đấu tranh” được tồn tại trong xã hội thì phải sinh ra sự thù hận. Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ) không những chính nó phải giết người mà nó còn phải khuyến khích dân chúng giết hại lẫn nhau. Nó cố làm cho người ta trở nên thờ ơ lãnh đạm với nỗi đau khổ của người khác bằng cách bao vây người ta trong giết chóc liên miên. Nó muốn mọi người trở nên tê liệt do thường xuyên phải đối mặt với những hành động  tàn nhẫn vô nhân đạo, và hình thành một tâm lý rằng “điều tốt nhất ta có thể hy vọng là tránh khỏi bị đàn áp”. Tất cả những bài học về sự đàn áp dã man này khiến cho ĐCSTQ duy trì được quyền thống trị của nó.
Cùng với việc hủy diệt vô số nhân mạng, ĐCSTQ cũng hủy diệt tinh thần của người dân Trung Hoa. Có rất nhiều người, ở trong cuộc đấu tranh tàn khốc, đã hình thành một loại phản xạ có điều kiện. Chỉ cần ĐCSTQ dơ con dao đồ tể lên, là họ hoàn toàn vứt bỏ tất cả nguyên tắc, vứt bỏ tất cả khả năng phán đoán. Về một khía cạnh ý nghĩa nào đó, tinh thần của những người này đã chết, đó là một điều còn đáng sợ hơn cả cái chết của thể xác.

I. Những cuộc thảm sát khủng khiếp

Trước khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lên nắm quyền, Mao Trạch Đông đã viết, “Chúng ta tuyệt đối không áp dụng chính sách nhân từ đối với các phần tử phản động và đối với các hành vi phản động của giai cấp phản động [5].” Nói cách khác, thậm chí trước khi ĐCSTQ chiếm được Bắc Kinh, nó đã quyết tâm thực hành "chính quyền bạo lực" dưới cách nói tránh của “Chính quyền chuyên chế Nhân dân Dân chủ” (People’s Democratic Dictatorship). Sau đây là một vài ví dụ.

1. Đàn áp những phần tử  Phản động và Cải cách ruộng đất

Vào tháng 3 năm 1950, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) công bố “Lệnh đàn áp nghiêm khắc các phần tử phản động”, được biết đến trong lịch sử như một phong trào “đàn áp các phần tử phản động”.
Không như các hoàng đế trong lịch sử thường ân xá cho thiên hạ sau khi họ lên ngôi, ĐCSTQ bắt đầu giết người ngay giây phút nó lên nắm quyền. Mao Trạch Đông nói trong một tài liệu, “Còn có rất nhiều nơi mà nhân dân bị đe dọa và không dám giết các phần tử phản Cách Mạng một cách công khai trên diện rộng [6].” Vào tháng 2/1951, Trung Ương Đảng của ĐCSTQ nói rằng ngoại trừ tỉnh Triết Giang và phía nam tỉnh An Huy, “các khu vực nào mà vẫn chưa giết đủ người, đặc biệt là ở các thành phố lớn và trung bình, thì nên tiếp tục bắt giữ và giết người với một số lượng lớn và không nên dừng sớm quá.”   Mao thậm chí khuyến nghị rằng “ở các khu vực nông thôn, để giết các phần tử phản động, nên giết hơn một phần ngàn tổng số dân… ở các thành phố, nên giết ít hơn một phần ngàn. [7]” Dân số Trung Quốc vào thời gian đó là khoảng 600 triệu người; “ mệnh lệnh hoàng gia” này của Mao sẽ giết chết ít nhất 600 ngàn người. Không một ai biết tỉ lệ một phần ngàn này là ở đâu ra. Có thể là Mao chợt nảy ra ý nghĩ mà quyết định rằng 600 ngàn nhân mạng là đủ để đặt một nền tảng mà tạo nỗi sợ hãi trong dân chúng, nên đã ra lệnh thực hiện như thế.
Những người bị giết có thực sự đáng phải chết hay không, đó không phải là mối quan tâm của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Theo Quy định của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa về việc trừng phạt các phần tử phản động công bố năm 1951 nói rằng những người “phao tin đồn” có thể bị “tử hình ngay lập tức”.
Trong khi việc 'Đàn áp các phần tử phản động' đang được thực hiện mãnh liệt, thì cải cách ruộng đất cũng đang diễn ra trên diện rộng. Trên thực tế, ĐCSTQ đã bắt đầu cải cách ruộng đất trong các khu vực do nó chiếm đóng vào cuối thập niên 1920. Trên bề mặt, cải cách ruộng đất, trông có vẻ như ủng hộ một lý tưởng tương tự như ở Thái Bình Thiên Quốc [8], gọi là 'tất cả mọi người đều sẽ có đất để trồng trọt' nhưng thực ra nó chỉ là một cái cớ để giết người. Đào Chú, đứng thứ tư trong hàng lãnh đạo của ĐCSTQ, sau đó có một khẩu hiệu cho cải cách ruộng đất là: “Làng nào cũng đổ máu, nhà nào cũng đánh nhau,” cho thấy rằng trong làng nào cũng có những người địa chủ phải chết.
'Cải cách ruộng đất' đã có thể được thực hiện mà không cần phải giết người. Nó đã có thể được thực hiện đúng theo đường lối mà chính phủ Đài Loan đã thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của mình, bằng cách mua lại đất từ các địa chủ. Tuy nhiên, bởi vì Đảng cộng sản bắt nguồn từ một nhóm những kẻ lưu manh côn đồ vô sản, nó chỉ biết cướp bóc. Sợ rằng nó có thể bị trả thù do cướp bóc, Đảng cộng sản đã giết các nạn nhân, để loại trừ nguồn gốc của các rắc rối có thể có sau này.
Cách giết người phổ biến nhất trong thời kỳ cải cách ruộng đất được biết đến là “đấu tố”. ĐCSTQ đưa ra các tội danh giả tạo, rồi quy tội cho các địa chủ hoặc những phú nông. Sau đó dân làng được hỏi xem những người này nên bị trừng phạt như thế nào. Một số đảng viên hoặc những tên tay sai cho ĐCSTQ đã được gài trước vào trong những đám đông để la to “Chúng ta nên giết họ!”, rồi các địa chủ hoặc những phú nông sau đó bị xử tử ngay tại chỗ. Vào thời gian đó, bất cứ ai làm chủ đất đai trong làng đều bị coi là “bá hộ”. Những người thường lợi dụng nông dân bị gọi là “cường hào ác bá”; những người thường giúp sửa chữa các tiện nghi công cộng và tặng tiền cho các trường học và cho các cuộc cứu trợ nạn nhân thiên tai thì gọi là “ thiện bá hộ”; những người không làm gì cả thì gọi là “ bất bá hộ”. Việc phân loại như thế này không có ý nghĩa gì cả, bởi vì tất cả các “bá hộ” cuối cùng đều bị xử tử ngay lập tức bất kể là họ thuộc vào loại “bá hộ” nào.
Vào khoảng cuối năm 1952, số "phần tử phản cách mạng" bị xử tử do ĐCSTQ công bố là khoảng 2,4 triệu người. Thực ra, tổng số người chết bao gồm các cựu viên chức của chính phủ Quốc Dân Đảng dưới cấp huyện và các địa chủ, là ít nhất 5 triệu người.
Việc "Đàn áp các phần tử phản động" và "Cải cách ruộng đất" có ba kết quả trực tiếp. Thứ nhất là, các cựu quan chức địa phương mà đã được lựa chọn thông qua sự tự trị dựa trên cơ sở thị tộc đã bị tiêu diệt. Thông qua việc đàn áp các phần tử phản cách mạng và cải cách ruộng đất, ĐCSTQ đã giết hại tất cả những nhân viên quản lý trong chế độ trước và thực hiện được sự khống chế toàn bộ đối với các khu vực nông thôn bằng cách thiết lập các chi bộ Đảng trong từng làng xã. Thứ hai là, chiếm được số lượng của cải khổng lồ bằng con đường trộm cướp trong việc đàn áp các phần tử phản cách mạng và cải cách ruộng đất. Thứ ba là, sự đàn áp tàn khốc các địa chủ và phú nông đã khủng bố tinh thần của người dân.

2. “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống”

Việc 'Đàn áp các phần tử phản cách mạng và Cải cách ruộng đất' chủ yếu nhắm vào các khu vực nông thôn, còn “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống” theo sau đó có thể được coi là sự diệt tuyệt gốc tương ứng ở thành thị.
“Chiến dịch Ba chống” bắt đầu vào tháng 12/1951 và nhắm vào nạn tham nhũng, phí phạm và quan liêu trong nội bộ của những cán bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Một số viên chức tham nhũng của ĐCSTQ đã bị tử hình. Sau đó không lâu, ĐCSTQ cho rằng sự việc thối nát, tham nhũng của các viên chức chính quyền của nó là do sự cám dỗ của các nhà tư bản. Vì vậy “Chiến dịch Năm chống” nhằm để chống hối lộ, trốn thuế, trộm cắp tài sản quốc gia, xây cất dối trá cẩu thả bằng vật liệu xấu, và làm gián điệp thu thập các tin tức kinh tế quốc gia, được phát động vào tháng 1 năm 1952.
“Chiến dịch Năm chống” trên thực tế, chính là để ăn cắp tài sản của các nhà tư bản hay đúng hơn là giết hại các nhà tư bản để lấy tiền của họ. Trần Nghị, thị trưởng Thượng Hải lúc bấy giờ, được báo cáo vắn tắt tình hình trên ghế sô-fa với một cốc trà trong tay mỗi đêm. Ông ta hỏi một cách nhàn nhã, “Có bao nhiêu người nhảy dù hôm nay?”, có nghĩa là “Có bao nhiêu thương gia nhảy lầu tự tử hôm nay?” Không một nhà tư bản nào có thể trốn thoát “Chiến dịch Năm chống”. Họ bị đòi hỏi phải đóng thuế  mà “đã trốn nợ” kể từ thời vua Quang Tự (1875-1908) của triều đại nhà Thanh (1644-1911), là khi thị trường thương mại Thượng Hải bắt đầu được thành lập. Các nhà tư bản đã không thể có cách nào để trả những thứ "thuế” như vậy, ngay cả với tất cả tài sản của họ. Họ không còn cách nào khác ngoài việc tự kết liễu cuộc đời của mình, nhưng họ không dám nhảy xuống sông Hoàng Phố tự tử. Nếu xác của họ không được tìm thấy, ĐCSTQ sẽ buộc tội họ là chạy sang Hồng Kông, và người nhà của họ vẫn phải chịu trách nhiệm trả những khoản thuế đó. Các nhà tư bản đành phải nhảy lầu và để lại xác cho ĐCSTQ thấy bằng chứng cái chết của họ. Người ta nói rằng mọi người không dám đi bộ bên cạnh các tòa nhà cao tầng ở Thượng Hải thời bấy giờ vì sợ bị những người nhảy từ trên xuống sẽ rơi vào mình.
Theo tài liệu "Sự thực của các vận động chính trị sau khi thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa" được đồng biên soạn bởi bốn cơ quan chính phủ bao gồm cả Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử của ĐCSTQ thì vào năm 1996, trong thời kỳ “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống”, hơn 323.100 người đã bị bắt giữ và hơn 280 người đã tự tử hay mất tích. Trong “Chiến dịch chống Hồ Phong” năm 1955, hơn 5.000 người đã bị buộc tội, hơn 500 người đã bị bắt, hơn 60 người đã tự tử, và 12 người đã chết vì các nguyên nhân mờ ám. Trong cuộc 'đàn áp các phần tử phản cách mạng' theo sau đó, hơn 21.300 người đã bị tử hình, và hơn 4.300 người đã tự tử hoặc mất tích [9].

3. Đại mất mùa (Nạn đói khủng khiếp)

Số người chết cao nhất được ghi lại trong Nạn đói khủng khiếp ( hoặc gọi là Đại mất mùa) của Trung Quốc ngay sau chiến dịch Đại Nhảy Vọt. Bài “Nạn đói khủng khiếp” trong quyển sách Hồ sơ lịch sử của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa báo cáo rằng “Số lượng người chết do những nguyên nhân không chính đáng và số lượng trẻ em sơ sinh bị giảm đi từ năm 1959 đến năm 1961 được ước tính là khoảng 40 triệu… sự giảm thiểu 40 triệu người của Trung Quốc rất có thể là nạn đói khủng khiếp nhất trên thế giới trong thế kỷ này.” [10]
"Nạn đói khủng khiếp" đã bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dán một cái nhãn hiệu sai lạc là “ 3 năm tai họa tự nhiên”. Trên thực tế, 3 năm đó có thời tiết tốt mà không có bất cứ một tai họa tự nhiên lớn lao nào như lũ lụt, hạn hán, bão, sóng thần, động đất, sương giá, mưa đá, hay dịch châu chấu. “Tai họa” đó hoàn toàn do con người gây nên. Chiến dịch Đại Nhảy vọt đòi hỏi mọi người ở Trung Quốc phải tham gia vào việc luyện thép, bắt buộc nông dân phải bỏ hoa màu thối rữa ở ngoài đồng. Không kể điều này, các viên chức khu vực lại còn báo cáo giả tạo để làm tăng số thu hoạch của sản lượng. Hạ Diệc Nhiên, Bí thư thứ nhất của Đảng bộ quận Liễu châu tự bịa đặt lượng sản xuất là “65.000 cân thóc trên một mẫu ruộng [11]” ở huyện Hoàn Giang. Đây là ngay sau 'Hội nghị toàn thể Lư sơn' khi phong trào chống cánh Hữu của ĐCSTQ lan ra toàn quốc. Để chứng tỏ rằng ĐCSTQ luôn luôn đúng, lúa gạo bị chính quyền sung công trong một hình thức đánh thuế theo sản lượng được thổi phồng lên này. Hậu quả là, khẩu phần lúa gạo, hạt giống và lương thực chủ yếu của nông dân tất cả đều bị sung công. Khi đòi hỏi vẫn chưa được đáp ứng đủ, thì nông dân bị buộc tội là đã giấu lúa gạo của mình.
Hạ Diệc Nhiên đã từng nói rằng họ phải tranh đấu giành giải nhất trong cuộc thi đua sản xuất số lượng cao nhất, không kể bao nhiêu người ở Liễu Châu sẽ phải chết. Một số nông dân đã bị cướp đi tất cả, chỉ còn lại một chút gạo được giấu ở trong chậu nước tiểu. Đảng bộ quận Thuần Lạc, huyện Hoàn Giang thậm chí còn ra lệnh cấm nấu cơm, để ngăn nông dân không được ăn lúa gạo. Việc tuần tra được thực hiện bởi dân quân vào ban đêm. Nếu họ thấy ánh lửa họ sẽ tiến hành lục soát và vây bắt. Nhiều nông dân thậm chí không dám nấu thảo mộc dại hoặc vỏ cây ăn được, và bị chết đói.
Trong quá khứ, vào những lúc có nạn đói kém, quan phủ sẽ phát chẩn cháo và lúa gạo, và cho phép các nạn nhân di tản khỏi những khu vực có nạn đói. Còn ĐCSTQ coi việc chạy khỏi nơi có nạn đói là một điều ô nhục cho uy tín của Đảng, và ra lệnh cho dân quân chặn đường không cho các nạn nhân chạy thoát khỏi khu vực của nạn đói. Khi các nông dân bị đói quá phải cướp ngũ cốc ở các kho lương thực, ĐCSTQ ra lệnh bắn vào đám đông để đàn áp việc cướp bóc và dán cái nhãn cho những người bị chết là các 'phần tử phản cách mạng'. Một số lớn nông dân bị chết đói ở nhiều tỉnh bao gồm Cam Túc, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Hồ Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên, và Quảng Tây. Nông dân bị đói nhưng vẫn bị bắt buộc tham gia làm các việc tưới nước ruộng, xây đập và luyện thép. Nhiều người bị ngã xuống đất trong khi làm việc và không bao giờ đứng lên được nữa. Cuối cùng thì những người sống sót không còn sức để chôn những người đã chết. Nhiều làng bị chết toàn bộ khi từng gia đình lần lượt bị chết đói.
Trong các nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc trước thời ĐCSTQ, có những trường hợp các gia đình phải trao đổi con cho nhau để ăn thịt nhưng không ai từng ăn thịt chính con của mình. Tuy nhiên dưới thời ĐCSTQ, mọi người buộc phải ăn thịt những người bị chết, ăn những người chạy trốn đến từ những khu vực khác, và thậm chí phải giết chết và ăn thịt con của chính mình. Nhà văn Sa Thanh đã mô tả cảnh này trong quyển sách của ông Y Hy Đại Địa Loan (Một vùng đất hoang vu nơi đầm lầy)[12] rằng: Trong một gia đình nông dân, người cha chỉ còn lại một người con trai và một người con gái trong vụ 'Nạn đói khủng khiếp'. Một hôm, người cha đuổi người con gái ra khỏi nhà. Khi cô trở về, cô không thể tìm thấy người em trai mà chỉ nhìn thấy mỡ trắng nổi ở trong chảo và một đống xương ở cạnh bếp. Vài ngày sau, người cha thêm nước vào chảo, và gọi người con gái đến gần. Cô gái sợ quá, và van xin cha cô từ ngoài cửa, “Xin ba đừng ăn thịt con. Con có thể nhặt củi và nấu cơm cho ba. Nếu ba ăn thịt con, thì sẽ không còn ai làm việc này cho ba nữa.”
Mức độ lan tràn cuối cùng và số lượng thảm kịch như thế này thì không được biết đến. Thế nhưng Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn xuyên tạc nó như là một vinh dự cao quý và tự cho rằng ĐCSTQ đã lãnh đạo nhân dân một cách dũng cảm chống lại “tai họa tự nhiên” và tiếp tục tự khen mình là “vĩ đại, quang vinh và chính xác”.
Sau Hội nghị toàn thể Lư Sơn năm 1959, tướng Bành Đức Hoài đã bị tước quyền vì lên tiếng bênh vực nhân dân. Một nhóm viên chức và cán bộ chính quyền dám nói sự thực đã bị bãi chức, bị tống giam hoặc bị điều tra. Sau đó, không còn ai dám nói lên sự thực nữa. Vào thời gian của vụ 'Nạn đói khủng khiếp', thay vì báo cáo sự thực, người ta lại che dấu sự kiện về số người chết đói để bảo vệ chức vụ của họ. Tỉnh Cam Túc thậm chí còn từ chối viện trợ lương thực của tỉnh Sơn Tây, nói rằng Cam Túc đã có dư lương thực rất nhiều.
"Nạn đói khủng khiếp" này cũng là một cuộc thi về khả năng cho các cán bộ mới gia nhập của ĐCSTQ. Theo tiêu chuẩn của ĐCSTQ, những cán bộ mà không nói lên sự thực về sự kiện hàng chục triệu người chết đói chắc chắn là “đạt tiêu chuẩn”. Với cuộc trắc nghiệm này, ĐCSTQ sau đó sẽ tin rằng không có gì như tình người hay đạo Trời mà có thể trở thành một gánh nặng tâm lý ngăn cản những cán bộ này đi theo Đảng. Sau "Nạn đói khủng khiếp", các viên chức chịu trách nhiệm cấp tỉnh chỉ phải tham gia vào thủ tục hình thức tự kiểm thảo. Lý Tỉnh Tuyền, Bí thư tỉnh ủy của ĐCSTQ ở Tứ xuyên nơi mà hàng triệu người bị chết đói, đã được thăng chức lên làm Bí thư thứ nhất Văn phòng khu vực tây nam của ĐCSTQ.

4.  Từ Cách mạng văn hóa và Vụ thảm sát tại Thiên An Môn cho đến Pháp Luân Công   

Cách mạng văn hóa chính thức bắt đầu ngày 16/05/1966 và kéo dài cho đến tận năm 1976. Thậm chí chính bản thân Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng gọi thời kỳ này là “Thảm họa 10 năm”. Sau này trong một cuộc phỏng vấn với một phóng viên Nam-tư, Hồ Diệu Bang nguyên tổng bí thư ĐCSTQ đã nói rằng, “Vào thời gian đó, gần 100 triệu người bị liên can, tức là một phần mười dân số Trung Quốc.”
Tài liệu "Sự thực của các vận động chính trị sau khi thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa" báo cáo rằng, “Vào tháng 5/1984, sau 31 tháng tập trung điều tra, thẩm tra và tính toán lại bởi Ủy ban Trung Ương của ĐCSTQ, các con số liên quan đến Cách mạng Văn hóa là: hơn 4.2 triệu người bị giam giữ và điều tra; hơn 1.73 triệu người chết mờ ám; hơn 135.000 người bị dán nhãn 'phản cách mạng' và bị tử hình; hơn 237.000 người bị giết và hơn 7.03 triệu người bị tàn phế trong các cuộc tấn công vũ trang; và 71.200 gia đình bị tiêu diệt.” Thống kê tổng hợp từ các ghi chép lịch sử của các huyện cho thấy rằng 7.73 triệu người chết vì những nguyên nhân không chính đáng trong Cách mạng Văn hóa.
Bên cạnh việc đánh đập người ta đến chết, sự khởi đầu Cách mạng Văn hóa cũng gây ra một làn sóng tự tử. Nhiều nhà trí thức nổi tiếng, bao gồm Lão Xả, Phó Lôi, Tiễn Bá Tán, Vũ Hán và Trữ An Bình tất cả đều tự kết liễu cuộc đời của mình trong thời kỳ đầu của Cách mạng Văn hóa.
Cách mạng Văn hóa là thời kỳ cực Tả điên cuồng nhất ở Trung Quốc. Giết người đã trở thành một lối cạnh tranh để bày tỏ lập trường của cá nhân trong cuộc cách mạng, cho nên việc tàn sát các “kẻ thù giai cấp” là cực kỳ tàn bạo và độc ác.
Chính sách “cải cách và mở cửa” đã làm cho sự trao đổi thông tin được tiến triển khá nhiều, với nhiều phóng viên ngoại quốc đã có thể chứng kiến vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và được chiếu trên các chương trình truyền hình cho thấy xe tăng đuổi theo và cán chết các sinh viên.
Mười năm sau, vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, Giang Trạch Dân bắt đầu chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công của hắn. Khoảng cuối năm 2002, tin tức nội bộ từ các nguồn tin chính phủ ở Trung Quốc Đại lục đã xác nhận việc che dấu sự thật của hơn 7.000 người bị chết trong các trại giam, các trại lao động cưỡng bách, các nhà tù và các bệnh viện thần kinh, với trung bình khoảng 7 người bị giết mỗi ngày.
Ngày nay ĐCSTQ có khuynh hướng giết người rất ít hơn so với trong quá khứ khi mà hàng triệu hay hàng chục triệu người đã bị giết hại. Điều này có hai nguyên nhân quan trọng . Một mặt, Đảng đã làm biến dị đầu óc tư tưởng của nhân dân Trung Quốc bằng văn hóa Đảng để họ giờ đây dễ phục tùng hơn. Mặt khác, do các viên chức ĐCSTQ cực kỳ thối nát và tham nhũng, nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành một nền kinh tế  "theo kiểu truyền máu” và hầu hết dựa vào vốn đầu tư ngoại quốc để duy trì tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. ĐCSTQ nhớ như in sự trừng phạt kinh tế sau 'Vụ thảm sát tại Thiên An Môn', biết rõ rằng việc giết người công khai sẽ dẫn đến hậu quả là vốn đầu tư ngoại quốc sẽ bị rút ra khỏi Trung Quốc, mà sẽ gây nguy hiểm cho sự thống trị độc tài của nó.
Tuy nhiên, ĐCSTQ chưa hề từ bỏ việc giết người ở đằng sau. Có khác chăng là ĐCSTQ ngày nay cực lực che giấu các hành vi dơ bẩn đẫm máu của nó.

II. Các thủ đoạn giết người cực kỳ tàn nhẫn

Tất cả mọi việc mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) làm chỉ nhắm một mục đích: chiếm đoạt quyền lực và duy trì quyền lực. Mà giết người đã thành một thủ đoạn rất quan trọng để ĐCSTQ duy trì quyền lực của nó. Phương pháp càng độc ác tàn nhẫn, số người bị giết trong dân chúng càng nhiều, thì mới có thể tạo sự khủng bố trong nhân dân càng lớn. Mà sự khủng bố như thế đã bắt đầu từ trước thời kỳ chiến tranh kháng Nhật.

1. Thảm sát ở miền Bắc Trung Quốc trong chiến tranh Trung-Nhật

Khi giới thiệu cuốn sách Kẻ Nội Thù của Linh Mục Raymond J. De Jaegher [13], cựu tổng thống Mỹ Hoover bình luận rằng cuốn sách đã vạch trần bản chất khủng bố của các cuộc vận động cho chủ nghĩa Cộng Sản. Ông giới thiệu nó cho bất kỳ ai muốn hiểu rõ lực lượng tà ác đó trên thế giới này.
Trong quyển sách này, De Jaegher kể lại các câu chuyện về việc ĐCSTQ sử dụng bạo lực để khủng bố và khuất phục nhân dân như thế nào. Ví dụ như, một hôm ĐCSTQ yêu cầu tất cả mọi người đi ra một khu đất rộng trong làng. Các giáo viên dẫn các em nhỏ đi từ trường ra khu đất rộng. Mục đích của việc tập trung là để chứng kiến việc giết chết 13 thanh niên yêu nước. Sau khi đọc các tội danh giả tạo của các nạn nhân, ĐCSTQ ra lệnh cho một giáo viên đang khiếp sợ đánh nhịp cho các em nhỏ hát các bài hát yêu nước. Đứng trên sân khấu giữa các bài hát không phải là các vũ công, mà là một tên đao phủ đang cầm lăm lăm chiếc mã tấu sắc bén trong tay. Đao phủ là một tên lính cộng sản trẻ tuổi khỏe mạnh và hung tợn với đôi tay chắc nịch khỏe mạnh. Tên lính đi đến đằng sau nạn nhân đầu tiên, nhanh chóng giơ cao thanh mã tấu sắc bén và chém xuống, và cái đầu thứ nhất rơi xuống đất. Máu phun ra như một cái vòi phun nước trong khi cái đầu lăn lông lốc trên mặt đất. Các em nhỏ đang ca hát một cách kích động liền gào khóc hoảng loạn. Người giáo viên vẫn giữ nhịp và cố giữ cho các em tiếp tục hát; cái chuông của cô vẫn tiếp tục rung lên trong hoảng loạn.
Tên đao phủ chém 13 lần và 13 cái đầu rơi xuống đất. Sau đó, nhiều tên lính cộng sản đi đến, mổ tung lồng ngực của các nạn nhân và moi tim họ ra để làm một bữa tiệc. Tất cả những cảnh dã man đó diễn ra trước mắt của các em nhỏ. Các em bị khủng bố tái xanh cả mặt và một số bắt đầu nôn ọe. Cô giáo la hét học trò và bảo các em xếp thành hàng trở về trường.
Sau đó, Linh Mục De Jaegher thường thấy các em nhỏ bị bắt buộc phải xem cảnh chém giết. Các trẻ em đã trở nên quen thuộc với các cảnh đổ máu và rồi không phản ứng với việc giết người; một số thậm chí còn bắt đầu cảm thấy thích thú.
Khi ĐCSTQ cảm thấy rằng việc giết người đơn giản là chưa đủ rùng rợn và kích động, chúng bắt đầu phát minh ra các kiểu tra tấn tàn bạo. Ví dụ như, bắt người ta nuốt một lượng muối lớn mà không cho họ uống một chút nước nào -- nạn nhân sẽ phải chịu đựng cho đến khi bị chết vì khát; hoặc lột trần truồng người ta và bắt họ phải lăn trên thủy tinh vỡ; hoặc là đào một lỗ trên mặt sông đóng băng trong mùa đông, rồi ném nạn nhân vào trong lỗ-- nạn nhân sẽ bị chết cóng hoặc bị chết đuối.
Linh Mục De Jaegher viết rằng, một đảng viên Cộng Sản ở tỉnh Sơn Tây phát minh ra một kiểu tra tấn khủng khiếp. Một hôm, khi hắn đang đi lang thang trong thành phố, hắn dừng lại trước cửa một nhà hàng và nhìn chằm chặp vào một thùng nước sôi lớn. Sau đó, hắn mua nhiều thùng lớn, và ngay lập tức bắt một số người chống lại Đảng cộng sản. Trong phiên tòa vội vã, các thùng được đổ đầy nước và đun sôi. Ba nạn nhân bị lột trần truồng và bị quăng vào thùng nước sôi, rồi bị đun sôi cho đến chết sau phiên tòa. Ở Bình Sơn, ông De Jaegher đã chứng kiến một người cha bị lột da khi vẫn còn sống. Các đảng viên  bắt người con trai của nạn nhân xem và tham gia vào cảnh tra tấn vô nhân đạo đó, chứng kiến cha mình chết trong đau đớn tột cùng và phải nghe những tiếng gào thét của cha mình. Các đảng viên ĐCSTQ đổ giấm và át-xít lên thân thể người cha và sau đó toàn bộ da trên thân thể nạn nhân bị nhanh chóng lột ra. Chúng bắt đầu từ lưng rồi lên hai vai và chẳng mấy chốc da trên toàn thân thể của ông bị lột ra, chỉ còn lại da đầu là còn nguyên vẹn. Người cha đã chết trong vài phút.

2.  Khủng bố Đỏ trong “Tháng Tám Đỏ” và ăn thịt người ở Quảng Tây

Sau khi chiếm được quyền thống trị tuyệt đối trên toàn bộ đất nước, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn không chấm dứt bạo lực. Trong thời Cách mạng Văn hóa, hành động bạo ngược như vậy còn trở nên tồi tệ hơn.
Ngày 18/8/1966, Mao Trạch Đông gặp các đại diện “Hồng vệ binh” trên vọng lâu của cổng thành Thiên An Môn. Tống Bân Bân, con gái của lãnh tụ Cộng Sản Tống Nhiệm Cùng, cài cho Mao một huy hiệu “Hồng vệ binh” trên tay áo. Khi Mao biết tên của Tống Bân Bân, cái tên có nghĩa là nho nhã lễ phép, Mao nói rằng “Chúng ta cần nhiều bạo lực hơn nữa.” Do đó cô Tống đổi tên của cô ta thành Tống Yếu Vũ (có nghĩa là “muốn bạo lực”.)
Các cuộc tấn công võ trang một cách bạo lực không lâu sau đó đã nhanh chóng lan ra toàn bộ đất nước. Thế hệ trẻ bị sự giáo dục theo tư tưởng vô Thần của chủ nghĩa Cộng Sản không còn nể sợ hay quan tâm đến điều gì. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng Sản và hướng dẫn bởi các chỉ thị của Mao, “Hồng vệ binh” ngông cuồng và điên loạn tự đặt mình lên trên cả luật pháp, bắt đầu đánh đập nhân dân và lục soát nhà cửa trên toàn quốc. Ở nhiều khu vực, tất cả “năm giai cấp đen” (địa chủ, phú nông, phần tử phản Cách mạng, các phần tử xấu, và những người thuộc cánh Hữu) và các thành viên gia đình của họ đều bị tiêu diệt theo chính sách diệt tuyệt. Một ví dụ điển hình là Huyện Đại Hưng gần Bắc Kinh, nơi mà từ 27/8 đến 1/9 năm 1966, tổng số có 325 người bị giết trong 48 nhóm của 13 Công Xã. Người già nhất bị giết là 80 tuổi, và người trẻ nhất bị giết chỉ mới được 38 ngày. Hai mươi hai gia đình bị giết không còn ai sống sót.
“Đánh đập một người đến chết là một cảnh thường thấy. Trên đường phố Sa Than, một nhóm đàn ông thuộc lực lượng “Hồng vệ binh” tra tấn một bà già bằng xích sắt và thắt lưng da cho đến khi bà không thể cử động được nữa, nhưng một cô “Hồng vệ binh” vẫn nhảy lên người bà và dẫm đạp lên bụng bà ta. Bà già chết ngay tại chỗ… Gần Sùng Vân Môn, khi “Hồng vệ binh” lục soát nhà của vợ một địa chủ (một góa phụ sống một mình), chúng bắt buộc mỗi nhà hàng xóm phải mang một nồi nước sôi đến nơi và chúng đổ nước sôi lên người bà từ cổ trở xuống cho đến khi thân thể bà ta bị nấu chín. Nhiều ngày sau, người ta tìm thấy bà ta bị chết ở trong phòng, thân người bà ta bị giòi bâu kín… Lúc đó có nhiều phương pháp giết người khác nhau, bao gồm dùng gậy đánh đến chết, dùng liềm cắt và dùng dây thừng thắt cổ đến chết… Cách giết trẻ sơ sinh là tàn nhẫn nhất: kẻ giết người giẫm lên một chân của đứa bé và giật chân kia, xé thân thể ra làm đôi”. ("Điều tra về Thảm sát Đại Hưng" của Ngộ La Văn) [14]
Ăn thịt người ở Quảng Tây thậm chí còn vô nhân đạo hơn cả Vụ thảm sát ở Đại Hưng. Nhà văn Trịnh Nghĩa, tác giả của cuốn sách Kỷ niệm Đỏ mô tả việc ăn thịt người diễn ra trong ba giai đoạn [15].
Thứ nhất-- giai đoạn mở đầu:  giai đoạn bắt đầu khi khủng bố vẫn còn diễn ra bí mật trong bóng tối. Biên niên sử của huyện ghi lại một cảnh điển hình: vào lúc nửa đêm, những tên giết người rón rén đi tìm nạn nhân của chúng và mổ bụng moi tim và gan. Bởi vì chúng chưa có kinh nghiệm và vẫn còn sợ, chúng cắt nhầm phải phổi, sau đó chúng phải quay lại. Một khi chúng nấu chín tim và gan rồi, một số mang rượu từ nhà đến, một số đem gia vị, rồi sau đó tất cả bọn giết người cùng ăn các cơ quan nội tạng của người ta một cách  lặng lẽ trong ánh lửa từ trong lò hắt ra.
Thứ hai-- giai đoạn cao trào: giai đoạn hai là đỉnh điểm, khi khủng bố trở nên công khai. Trong giai đoạn này, những tên giết người lâu năm đã có kinh nghiệm làm sao moi tim gan khi nạn nhân vẫn còn sống, và chúng dạy lại cho những người khác, làm kỹ thuật của chúng được khéo léo hơn. Ví dụ, khi mổ bụng một người sống, bọn giết người chỉ cần cắt chéo trên bụng nạn nhân, dẫm lên người (nếu nạn nhân bị trói vào cây, bọn giết người sẽ lên gối vào bụng dưới nạn nhân) và tim và các cơ quan nội tạng khác sẽ tự động rơi ra. Tên trùm giết người sẽ được lấy tim, gan và các cơ quan sinh dục và những tên khác sẽ lấy các phần còn lại. Những cảnh tượng khủng khiếp này được trang hoàng bởi cờ bay và khẩu hiệu.
Thứ ba-- giai đoạn quần chúng với tánh điên cuồng: ăn thịt người đã trở thành một cuộc vận động quần chúng. Ở huyện Vũ Tuyên, như những con chó hoang ăn thịt những xác chết trong một bệnh dịch, người ta ăn thịt người khác một cách điên cuồng. Đầu tiên, các nạn nhân thường bị “phê bình công khai”, theo sau đó luôn luôn là bị giết, rồi bị ăn thịt. Ngay khi nạn nhân ngã xuống đất, bất kể là còn sống hay đã chết, mọi người lấy ra những con dao họ đã chuẩn bị trước và vây quanh nạn nhân, cắt bất cứ bộ phận thân thể nào mà họ có thể túm lấy được. Ở giai đoạn này, những công dân bình thường đều tham gia vào việc ăn thịt người. Cơn bão lốc của “đấu tranh giai cấp” đã thổi khỏi đầu óc của người ta tất cả những ý thức về tội lỗi và nhân tính. Ăn thịt người lan ra như một bệnh dịch và người ta còn thích thú các buổi tiệc ăn thịt người. Bộ phận nào trong thân người cũng có thể ăn được, bao gồm cả tim, thịt, gan, thận, khuỷu tay, bàn chân, và gân. Cơ thể người được nấu chín bằng các cách khác nhau, bao gồm luộc, hấp, xào, nướng, chiên rán, và nướng trên lửa… Người ta uống rượu và chơi các trò chơi trong khi ăn thịt người. Trong đỉnh cao của phong trào này, thậm chí nhà ăn của cơ quan chính quyền cấp cao nhất, Ủy ban Cách mạng Huyện Vũ Tuyên cũng bán các món ăn làm từ thịt người.
Độc giả không nên nhầm lẫn mà nghĩ rằng những buổi tiệc hội họp ăn thịt người đó chỉ đơn thuần là hành vi tự phát sinh giữa dân chúng. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là một tổ chức cực kỳ độc tài, khống chế từng mỗi tế bào của xã hội. Nếu không có sự khuyến khích và thao túng của ĐCSTQ thì phong trào ăn thịt người đã hoàn toàn không thể xảy ra.
Một bài hát biên soạn bởi ĐCSTQ để tự ca ngợi bọn chúng có đoạn, “xã hội cũ [16] đã biến người thành quỷ, xã hội mới biến quỷ thành người.” Tuy nhiên, những vụ giết người và các buổi tiệc ăn thịt người này cho chúng ta thấy rằng ĐCSTQ có thể khiến cho con người biến thành quỷ hoặc quái vật, bởi vì bản thân ĐCSTQ là tàn bạo hơn bất cứ con quỷ nào hay con quái vật nào.

3.  Cuộc đàn áp Pháp Luân Công

Khi nhân dân Trung Quốc bước vào thời đại của máy điện toán và du hành không gian, và có thể nói chuyện riêng với nhau về nhân quyền, tự do và dân chủ, rất nhiều người còn mê ngủ nghĩ rằng những hành động bạo ngược với mức độ cực kỳ ác tâm và rùng rợn khủng khiếp đều đã trở thành quá khứ. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã khoác lên mình một bộ quần áo văn minh và sẵn sàng kết giao với thế giới.
Nhưng điều đó là quá xa với sự thật. Khi ĐCSTQ phát hiện ra rằng có một tập thể không sợ những hành động tra tấn và giết người tàn bạo như vậy của bọn chúng, thì bọn chúng càng trở nên điên cuồng hơn nữa, mà tập thể đang bị đàn áp này chính là những học viên Pháp Luân Công.
Nếu nói rằng những hành động bạo lực của “Hồng vệ binh” và phong trào ăn thịt người ở tỉnh Quảng Tây là nhắm tiêu diệt thân thể của đối phương, thì việc giết người chỉ kéo dài trong vài phút hoặc vài giờ. Tuy nhiên, việc đàn áp các học viên Pháp Luân Công là để bắt buộc họ từ bỏ tín ngưỡng của mình vào “Chân, Thiện, Nhẫn”. Hơn nữa, sự tra tấn tàn nhẫn thường kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm. Ước tính khoảng hơn 10.000 học viên Pháp Luân Công đã chết vì bị tra tấn.
Những học viên Pháp Luân Công mà phải chịu đựng đủ loại tra tấn và đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần đã ghi lại hơn 100 thủ đoạn tra tấn tàn bạo; sau đây chỉ là vài ví dụ.
Đánh đập tàn nhẫn là thủ đoạn tra tấn được thường dùng nhất để làm hại các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát và các đầu sỏ trong tù trực tiếp đánh đập các học viên và cũng xúi giục những tù nhân khác đánh đập các học viên. Nhiều học viên đã trở nên điếc do bị đánh đập, tai của họ bị gẫy rời ra, con ngươi mắt của họ bị vỡ, răng cũng bị gãy, và xương sọ, xương sống, xương sườn, xương cổ, xương hông, tay và chân của họ bị gẫy rời; chân và tay họ đã bị cắt bỏ do bị đánh đập. Một số những tên  tra tấn đã tàn nhẫn bóp nát tinh hoàn của các học viên nam và đá vào chỗ sinh dục của các học viên nữ. Nếu các học viên không chịu khuất phục, những kẻ tra tấn sẽ tiếp tục đánh đập cho đến khi các học viên bị rách da hở thịt.
Giật điện là một thủ đoạn khác mà thường được dùng ở các trại lao động cưỡng bách tại Trung Quốc để tra tấn các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát dùng dùi cui điện để cho điện giật các chỗ nhậy cảm trên thân thể, bao gồm miệng, đỉnh đầu, ngực, cơ quan sinh dục, mông, đùi, gan bàn chân, nhũ hoa của các học viên nữ, và dương vật của các học viên nam. Một số cảnh sát còn dùng nhiều dùi cui điện cùng một lúc để cho điện giật các học viên cho đến khi có thể ngửi thấy mùi thịt cháy và các chỗ bị thương bị thâm tím. Có khi đầu và hậu môn cũng bị giật điện cùng một lúc. Cảnh sát thường dùng 10 hoặc hơn dùi cui điện cùng một lúc để đánh đập các học viên trong thời gian dài. Thông thường mỗi dùi cui điện có điện áp khoảng hàng chục ngàn volt. Khi nó phát điện, nó phát ra ánh sáng xanh và tiếng kêu như tĩnh điện. Khi dòng điện đi qua cơ thể người, cảm giác như là bị bỏng hoặc bị rắn cắn. Mỗi lần giật rất là đau đớn. Da nạn nhân trở nên đỏ, nứt ra và bị cháy và vết thương bị rữa ra. Thậm chí còn có những dùi cui điện mạnh hơn có điện áp cao hơn làm cho nạn nhân cảm thấy như đầu bị búa bổ vào. Cơ thể của các học viên đã bị hoàn toàn dị dạng do bị tra tấn và dính be bét máu, vậy mà bọn cai ngục vẫn còn đổ nước muối lên người họ và tiếp tục dùng dùi cui điện để tra tấn họ. Mùi máu và thịt cháy trộn lẫn vào nhau và tiếng gào thét đau đớn nghe rất thương tâm. Trong khi đó, những kẻ tra tấn cũng dùng túi ny-lông trùm đầu các học viên để làm cho họ khuất phục vì sợ bị ngạt thở.
Cảnh sát cũng dùng thuốc lá đang cháy để đốt tay, mặt, gan bàn chân, ngực, lưng, núm vú của các học viên v.v… Chúng dùng bật lửa để đốt tay và cơ quan sinh dục của các học viên. Các thanh sắt chế tạo đặc biệt được nung nóng trong lò điện cho đến khi chúng trở nên nóng đỏ. Sau đó chúng được dùng để đốt cháy chân của các học viên. Cảnh sát cũng dùng than nóng đỏ để đốt cháy mặt của các học viên. Cảnh sát đã đốt cháy đến chết một học viên sau khi học viên này đã phải chịu đựng các thủ đoạn tra tấn tàn khốc và vẫn còn thoi thóp thở và tim vẫn còn đập yếu ớt. Cảnh sát sau đó nói rằng cái chết của anh ta là do “tự thiêu”.
Cảnh sát đánh các học viên nữ vào ngực và khu vực cơ quan sinh dục. Chúng đã hãm hiếp và hãm hiếp tập thể các học viên nữ. Hơn nữa, cảnh sát còn lột trần truồng các học viên nữ và quẳng họ vào các xà-lim đầy các nam tù nhân để chúng sau đó hãm hiếp họ. Chúng dùng dùi cui điện để cho điện giật nhũ hoa và cơ quan sinh dục của họ. Chúng dùng bật lửa để đốt cháy núm vú của họ, và chọc dùi cui điện vào âm đạo của các nữ học viên để cho điện giật họ. Chúng còn buộc 4 cái bàn chải đánh răng lại và sau đó chọc vào âm đạo của các học viên nữ, rồi chà xát và ngoáy các bàn chải. Chúng dùng các móc sắt để móc các chỗ kín của các học viên nữ. Tay của các học viên nữ bị còng ở đằng sau lưng, và núm vú của họ bị móc vào dây điện và cho dòng điện chạy qua.
Chúng bắt các học viên Pháp Luân Công mặc “áo vét thẳng [17]”, và sau đó trói chéo hai tay họ ra đằng sau lưng. Chúng kéo cánh tay của họ lên qua vai đến trước ngực, trói hai chân họ lại và treo họ ra ngoài cửa sổ. Cùng lúc đó, chúng nhét rẻ vào miệng các học viên, đặt đồ nghe vào tai họ và liên tục bật các đoạn băng phỉ báng Pháp Luân Công. Theo mô tả của các nhân chứng, những người bị tra tấn theo cách này bị gãy tay, dây chằng, vai, cổ và khuỷu tay một cách nhanh chóng. Những người bị tra tấn lâu dài theo cách này đã bị gẫy xương sống hoàn toàn và chết trong đau đớn tột cùng.
Chúng cũng quẳng các học viên vào các hầm chứa đầy nước thải. Chúng dùng búa đóng que tre vào dưới móng tay của các học viên và bắt họ ở trong các phòng ẩm thấp đầy mốc meo xanh, đỏ, trắng, vàng, đủ loại ở trên trần, sàn và tường mà làm cho các vết thương của họ bị thối rữa. Chúng cũng cho chó, rắn và bò cạp cắn các học viên và chích vào người các học viên với các thuốc hủy hoại thần kinh. Trên đây chỉ là một vài trong số rất nhiều thủ đoạn tra tấn mà các học viên phải chịu trong các trại lao động.

III. Đấu tranh tàn khốc trong nội bộ Đảng

Vì Đảng Cộng Sản hợp nhất các đảng viên của nó dựa trên cơ sở của 'Đảng tính' thay vì dựa trên đạo đức và công lý, nên câu hỏi quan trọng là sự trung thành của các đảng viên, đặc biệt là các viên chức cao cấp, đối với người lãnh đạo cao nhất. Đảng cần tạo ra một bầu không khí khủng bố bằng cách giết chết các đảng viên của chính nó. Những người sống sót sau đó thấy rằng khi kẻ độc tài cấp cao nhất muốn ai phải chết, thì người đó sẽ chết một cách bi thảm.
Việc tranh đấu trong nội bộ các Đảng cộng sản là điều nổi tiếng. Tất cả các ủy viên của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Nga trong hai nhiệm kỳ đầu, ngoại trừ Lê-nin đã chết và bản thân Stalin, đều đã bị tử hình hoặc tự sát. Ba trong số năm nguyên soái đã bị tử hình, ba trong số năm Tổng tư lệnh đã bị tử hình, tất cả 10 Phó Tổng tư lệnh quân đội đã bị tử hình, 57 trong số 85 tư lệnh quân đoàn đã bị tử hình, và 110 trong số 195 tư lệnh sư đoàn đã bị tử hình.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) luôn luôn chủ trương “đấu tranh tàn bạo và tấn công không nương tay”. Những chiến thuật như thế không chỉ nhắm vào những người ở ngoài Đảng mà thôi. Ngay từ thời kỳ Cách mạng ở tỉnh Giang Tây, ĐCSTQ đã giết rất nhiều người trong Đoàn chống Bôn-sê-vích (Anti-Bolshvik Corps) đến mức chỉ còn lại một số rất ít người sống sót để chiến đấu trong cuộc chiến tranh. Ở thành phố Diên An, Đảng đã thực hành một chiến dịch “Chỉnh đốn”. Sau này khi đã trở nên vững chắc về mặt chính trị, nó đã diệt trừ Cao Cương, Nhiêu Thấu Thạch, Hồ Phong, và Bành Đức Hoài. Vào thời kỳ Cách mạng Văn hóa, hầu hết tất cả các đảng viên cao cấp trong Đảng đã bị tiêu diệt. Không một cựu Tổng bí thư nào của ĐCSTQ gặp kết thúc tốt đẹp.
Lưu Thiếu Kỳ[18], một cựu chủ tịch nhà nước của Trung Quốc, người đã từng là nhân vật số 2 của quốc gia đã chết bi thảm. Vào ngày sinh nhật lần thứ 70 của ông ta, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đặc biệt căn dặn Uông Đông Hưng (vệ sỹ trưởng của Mao) đem cho Lưu Thiếu Kỳ một món quà sinh nhật, một cái radio, để cho ông ta nghe bản báo cáo chính thức của 'Phiên họp Toàn thể lần thứ 8' của Ủy ban Trung ương khóa 12 nói rằng, “vĩnh viễn khai trừ tên phản bội, gián điệp và nổi loạn Lưu Thiếu Kỳ ra khỏi Đảng, rồi tiếp tục vạch trần và chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và các tội phản bội, mưu phản của những tay sai của hắn.”
Lưu Thiếu Kỳ bị suy sụp về mặt tinh thần và bệnh tình của ông ta càng tệ hại một cách nhanh chóng. Bởi vì ông ta đã phải nằm liệt giường trong một thời gian dài và không thể cử động, cho nên các dấu nằm trên cổ, lưng, mông, và gót chân của ông ta bị rữa ra đau đớn. Khi ông ta cảm thấy đau quá, ông ta phải nắm lấy chăn đệm, đồ vật hoặc tay người khác, mà không chịu buông ra, nên mọi người phải để các chai nhựa cứng vào tay ông ta. Khi ông ta chết, hai chai nhựa cứng đã có hình thù của chai 'đồng hồ cát'  do ông ta nắm tay lại mà thành.
Khoảng tháng 10/1969, thân thể của Lưu Thiếu Kỳ đã bắt đầu thối rữa mọi chỗ và mủ nhiễm trùng có mùi rất mạnh. Ông ta gầy như một cái que và ở bên bờ cái chết. Nhưng một thanh tra đặc biệt của Ủy ban Trung ương Đảng không cho phép ông ta được tắm hay lật người để thay quần áo. Thay vào đó, chúng lột bỏ tất cả quần áo của ông ta, quấn ông ta trong một cái chăn, và đưa ông ta bằng máy bay từ Bắc Kinh đi thành phố Khai Phong, và khóa trái ông ta trong một tầng hầm của một lô-cốt kiên cố. Khi ông ta bị sốt cao, chúng không những không cho ông ta thuốc mà còn chuyển các nhân viên y tế đi chỗ khác. Khi Lưu Thiếu Kỳ chết, thân thể ông ta đã hoàn toàn bị huỷ hoại và mái tóc bạc của ông ta xõa ra dài 60 phân. Hai ngày sau, vào lúc nửa đêm, ông ta bị hỏa thiêu như một người bị bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Bộ giường nệm, gối và các thứ còn lại khác của ông ta đều bị đốt hết. Trên tấm phiếu khai tử của ông ta đọc là, 'Tên: Lưu Vệ Hoàng; Nghề nhiệp: thất nghiệp; Nguyên nhân bị chết: bị bệnh chết'. Đảng đã bức hại một vị chủ tịch nhà nước đến chết như vậy mà còn không đưa ra một lý do rõ ràng.

IV. Xuất cảng Cách Mạng---Giết người ở các nước khác

Ngoài việc hứng thú giết người bằng nhiều cách ở Trung Quốc và trong nội bộ Đảng, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng tham dự vào việc giết người ở các nước khác, bao gồm cả các Hoa kiều hải ngoại, bằng cách xuất cảng “cách mạng”. Khờ-me Đỏ là một ví dụ điển hình.
Khờ-me Đỏ do Pôn-Pốt cầm đầu chỉ tồn tại trong 4 năm ở Cam-pu-chia. Tuy vậy, từ 1975 đến 1978, có hơn hai triệu người, bao gồm cả hơn 200.000 người Hoa, đã bị giết chết ở đất nước nhỏ bé này với dân số chỉ có 8 triệu dân.
Các tội ác của Khờ-me Đỏ là không đếm xuể, nhưng chúng tôi sẽ không bàn luận về vấn đề đó ở đây. Tuy nhiên chúng tôi phải nói về quan hệ của nó với ĐCSTQ.
Pôn-Pốt đã tôn thờ Mao Trạch Đông. Đầu năm 1965, hắn viếng thăm Trung Quốc 4 lần để đích thân nghe lời chỉ dẫn của Mao Trạch Đông. Ngay từ tháng 11/1965, Pôn-Pốt đã ở lại Trung Quốc 3 tháng. Trần Bá Đạt và Trương Xuân Kiều[19] đã đàm luận với hắn về các lý thuyết như “quyền lực chính trị lớn lên từ nòng súng”, “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô sản” v.v… Sau đó, những điều này đã trở thành cơ sở cho cách thức hắn thống trị Cam-pu-chia. Sau khi quay trở về Cam-pu-chia, Pôn-Pốt đổi tên Đảng của hắn thành Đảng Cộng sản Cam-pu-chia, và dựng lên các căn cứ cách mạng theo khuôn thức vây tròn thành phố từ các vùng nông thôn của ĐCSTQ.
Năm 1968, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia chính thức thành lập quân đội. Đến cuối năm 1969, nó có khoảng hơn 3.000 người một chút. Nhưng năm 1975, trước khi tấn công và chiếm đóng thành phố Nam Vang, nó đã trở thành một lực lượng được trang bị tốt và sẵn sàng chiến đấu với 80.000 lính. Đây hoàn toàn là nhờ vào sự ủng hộ và tiếp tay của ĐCSTQ. Cuốn sách Tài liệu về việc hỗ trợ Việt nam và chiến đấu với Mỹ của Vương Hiền Căn [20] nói rằng: trong năm 1970 Trung Quốc cho Pôn-Pốt các vũ khí trang bị cho 30 ngàn lính. Tháng 4/1975, Pôn-Pốt chiếm được thủ đô của Cam-pu-chia, và 2 tháng sau, hắn đến Bắc Kinh để thăm ĐCSTQ và nghe chỉ thị. Rõ ràng rằng, nếu tội ác diệt chủng của Khờ-me Đỏ mà không dựa vào các lý thuyết và hỗ trợ vật chất của ĐCSTQ, thì nó đã không thể thực hiện được.
Ví dụ, sau khi hai người con trai của Thái tử Sihanouk bị Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết chết, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia đã ngoan ngoãn đưa Sihanouk đến Bắc Kinh theo lệnh của Chu Ân Lai. Ai cũng biết rằng, khi Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết hại nhân dân, chúng sẽ “thậm chí giết cả bào thai” để ngăn chặn những rắc rối có thể xảy ra trong tương lai. Nhưng theo yêu cầu của Chu Ân Lai, Pôn-Pốt đã tuân lệnh mà không hề phản đối.
Chu Ân Lai có thể cứu Sihanouk chỉ bằng một lời nói, nhưng ĐCSTQ đã không phản đối việc hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết hại. Vào lúc đó, những người Cam-pu-chia gốc Hoa đã đến Sứ quán Trung Quốc để cầu cứu nhưng Sứ quán đã phớt lờ những tiếng cầu cứu của họ.
Tháng 5/1998, khi việc giết hại và cướp bóc, hãm hiếp người Hoa thiểu số diễn ra trên diện rộng ở Nam Dương, ĐCSTQ đã không nói một lời nào. Nó đã không giúp đỡ bất cứ điều gì, mà thậm chí còn bưng bít tin tức ở bên trong Trung Quốc. Dường như chính quyền Trung Quốc không quan tâm về số phận của những người Hoa hải ngoại; thậm chí nó còn không giúp đỡ một chút gì về phương diện nhân đạo.

 V. Hủy diệt gia đình

Chúng ta không có cách nào để đếm xem bao nhiêu người đã bị giết chết trong các cuộc vận động chính trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Giữa dân chúng, không có cách nào để làm một cuộc điều tra thống kê bởi vì những trở ngại và rào cản thông tin giữa các khu vực, các dân tộc và các thổ ngữ địa phương khác nhau. Chính quyền của ĐCSTQ sẽ không bao giờ thực hiện cuộc điều tra loại này bởi vì nó sẽ giống như là đào mồ chôn chính nó. ĐCSTQ thích bỏ quên những chi tiết này khi viết lại lịch sử của bản thân nó.
 Ngay cả số lượng các gia đình bị ĐCSTQ hủy hoại còn khó biết hơn. Trong vài trường hợp, một người chết và gia đình của người đó bị tan vỡ. Trong những trường hợp khác, cả gia đình bị chết hết. Ngay cả khi không có ai bị chết, thì nhiều người cũng bị buộc phải ly dị. Cha con, mẹ con bắt buộc phải từ bỏ các mối quan hệ giữa họ. Một số người đã bị tàn phế, một số phát điên, và một số đã chết sớm vì bệnh nặng sinh ra bởi tra tấn. Hồ sơ của tất cả các thảm kịch gia đình này là rất không đầy đủ.
 Báo Yomiuri News của Nhật bản đã từng tường thuật rằng hơn một nửa dân số Trung Quốc đã bị ĐCSTQ đàn áp. Nếu đó là sự thật, thì số lượng các gia đình bị ĐCSTQ hủy diệt ước tính khoảng hơn 100 triệu.
Trương Chí Tân đã trở thành một cái tên quen thuộc với mọi người vì mức độ tin tức tường thuật về câu chuyện của bà. Nhiều người biết rằng bà bị tra tấn về mặt thể xác, bị hãm hiếp tập thể, và tra tấn về mặt tinh thần. Cuối cùng, bà ta bị phát điên và bị bắn chết sau khi cổ của bà ta bị rạch ra. Nhưng nhiều người có thể không biết rằng có một câu chuyện thảm khốc nữa đằng sau bi kịch này--ngay cả người nhà của bà ta đã phải tham dự một “buổi học tập cho các gia đình của những người tử tù”.
Lâm Lâm, con gái của Trương Chí Tân nhớ lại rằng vào đầu xuân 1975:
“Một người ở Tòa án Thẩm Dương nói lớn rằng, “Mẹ của ngươi là một tên phản cách mạng thực sự ngoan cố.  Bà ta từ chối không chấp nhận cải tạo, và rất ngang bướng không dễ bị lung lạc. Bà ta chống lại Mao Chủ tịch, lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, chống lại Tư tưởng 'chiến đấu không thể bại' của Mao Trạch Đông, và chống lại đường lối cách mạng vô sản của Mao Chủ tịch. Với tội ác chồng chất, chính quyền của chúng ta đang cân nhắc việc tăng hình phạt. Nếu bà  ta bị tử hình, thái độ của ngươi là gì?”  Tôi bị ngạc nhiên và không biết trả lời như thế nào. Trái tim tôi tan vỡ. Nhưng tôi đã giả vờ bình tĩnh, cố giữ cho khỏi bị rơi nước mắt. Cha tôi đã nói với tôi rằng chúng tôi không thể khóc trước mặt người khác, nếu không chúng tôi sẽ không có cách nào để từ bỏ mối quan hệ của chúng tôi với mẹ tôi. Bố đã trả lời thay cho tôi, “Nếu đây là sự thật, chính quyền cứ tự do làm những gì mà thấy cần thiết”.
Người đó lại hỏi, “Ngươi sẽ nhận xác bà ta nếu như bà ta bị tử hình chứ? Ngươi sẽ nhận tư trang của bà ta trong tù chứ?” Tôi cúi đầu và không nói gì cả. Bố lại trả lời thay cho tôi, “Chúng tôi không cần gì cả”… Bố nắm lấy tay tôi và em tôi rồi chúng tôi bước ra khỏi nhà nghỉ của huyện. Cùng bị choáng váng, chúng tôi đi bộ trở về nhà trong cơn bão tuyết đang gào thét. Chúng tôi không nấu cơm; bố bẻ đôi chiếc bánh ngô tồi tàn duy nhất còn lại trong nhà và đưa cho em tôi và tôi. Ông nói, “Ăn đi rồi đi ngủ sớm.” Tôi nằm im trên chiếc giường đất. Bố ngồi trên chiếc ghế đẩu và nhìn chằm chặp vào ánh lửa một cách thẫn thờ. Sau một lúc, ông nhìn vào giường và tưởng rằng chúng tôi đã ngủ. Ông đứng lên, nhẹ nhàng mở chiếc va-li chúng tôi mang từ nhà cũ ở Thẩm Dương, và lấy ra một bức ảnh của mẹ. Ông nhìn nó và không thể cầm được nước mắt.
Tôi ngồi dậy, dựa đầu vào cánh tay bố và bắt đầu khóc to lên. Bố vỗ về tôi và nói, “Đừng làm thế, chúng ta không thể để hàng xóm nghe thấy được.” Em tôi tỉnh dậy sau khi nghe thấy tôi khóc. Bố ôm chặt em tôi và tôi trong vòng tay. Đêm nay, chúng tôi không biết chúng tôi sẽ rơi bao nhiêu nước mắt, nhưng chúng tôi không thể khóc một cách tự do.” [21]
Một giảng viên đại học có một gia đình hạnh phúc, nhưng gia đình ông đã phải đối mặt với một tai họa trong quá trình khôi phục cho những người khuynh Hữu. Vào thời gian của phong trào chống cánh Hữu, vợ ông yêu một người bị cho là thuộc cánh Hữu. Người yêu của bà sau đó bị đưa đến một vùng xa xôi và đã phải chịu đựng rất thống khổ. Bởi vì bà, là một cô gái trẻ, không thể đi cùng, nên đành phải bỏ người yêu và lấy người giảng viên. Khi người yêu cũ của bà cuối cùng đã quay trở lại quê hương họ, bà, giờ đã là mẹ của mấy đứa con, đã không có cách nào khác chuộc lại sự phản bội của mình trước kia. Bà kiên quyết ly dị chồng để chuộc lại lương tâm cắn rứt của mình. Vào lúc này, người giảng viên đã hơn 50 tuổi; ông không thể chấp nhận sự thay đổi bất ngờ và bị điên lên. Ông cởi hết quần áo và chạy khắp nơi để tìm một chỗ bắt đầu một cuộc sống mới. Cuối cùng, vợ ông đã bỏ ông và các con của họ. Sự ngăn cách đau khổ do Đảng ra lệnh là một vấn đề không thể giải quyết và là một căn bệnh không thể chữa được của xã hội, mà chỉ có thể thay sự chia tay này bằng sự chia tay khác.
Gia đình là kết cấu cơ bản khởi đầu của xã hội Trung Quốc. Nó cũng là hàng rào phòng thủ cuối cùng của văn hóa truyền thống chống lại văn hóa Đảng. Bởi đó mà tại sao phá hoại gia đình lại là vết xấu tàn bạo nhất trong lịch sử giết người của ĐCSTQ.
Bởi vì ĐCSTQ độc quyền kiểm soát tất cả nguồn tài nguyên xã hội, khi một người bị coi là đứng ở phe chống đối sự độc tài của Đảng, người đó sẽ phải đối mặt ngay lập tức với nguy cơ trong cuộc đời, và bị tất cả mọi người trong xã hội buộc tội, và bị tước đi phẩm giá con người. Bởi vì họ bị đối xử không công bằng, nên gia đình là nơi ẩn náu an toàn duy nhất để an ủi những con người vô tội này. Nhưng chính sách liên lụy của ĐCSTQ không cho phép những người trong gia đình an ủi lẫn nhau; nếu không họ cũng sẽ phải chịu rủi ro bị dán cái nhãn là chống đối sự độc tài của Đảng. Ví dụ như Trương Chí Tân bị bắt buộc phải ly dị. Đối với nhiều người, sự phản bội của thân nhân —tố cáo, đấu tố, công khai phê bình, hay lên án— là cọng rơm cuối cùng đè xuống làm cho tinh thần mong manh của họ xụp đổ. Nhiều người vì thế đã phải tự tử.

VI. Các kiểu mẫu giết người và hậu quả của nó

1.  Lý luận chỉ đạo cho sự giết người của Đảng Cộng Sản

Đảng Cộng Sản luôn luôn tự khen mình là tài tình và sáng tạo trong việc phát triển chủ nghĩa Marxism-Leninism, nhưng trên thực tế chúng đã phát triển với tính cách sáng tạo một thứ tà linh chưa từng thấy trong lịch sử và trên khắp thế giới. Nó sử dụng tư tưởng đại đồng của chủ nghĩa Cộng Sản để lừa gạt dân chúng và những người trí thức. Nó lợi dụng niềm tin của mọi người vào khoa học và kỹ thuật để quảng bá tư tưởng vô Thần. Nó sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để cấm tư hữu cá nhân, lại dùng lý luận và sự thực hành cách mạng bạo lực của Lê-nin để thống trị quốc gia. Đồng thời, nó kết hợp và củng cố mạnh hơn phần tà ác nhất của văn hóa Trung Quốc mà đã sai lệch khỏi các truyền thống chính của dân tộc Trung Hoa.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã phát minh  ra một bộ các lý luận và kiểu mẫu hoàn chỉnh về “cách mạng” và “liên tục cách mạng” dưới sự chuyên chính của giai cấp vô sản; nó đã sử dụng hệ thống này để thay đổi xã hội và bảo đảm sự độc tài của Đảng. Lý luận của nó có hai phần: cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng dưới chế độ chuyên chính vô sản, trong đó cơ sở kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng, trong khi kiến trúc thượng tầng đến lượt mình lại hoạt động trên cơ sở kinh tế.
Để củng cố kiến trúc thượng tầng, đặc biệt là chính quyền của Đảng, đầu tiên nó phải bắt đầu từ nền tảng kinh tế để tiến hành cách mạng, bao gồm:
(1)              Giết hại địa chủ để giải quyết các quan hệ sản xuất [22] ở nông thôn, và
(2)              Giết chết các nhà tư bản để giải quyết các quan hệ sản xuất ở thành thị.
Về mặt kiến trúc thượng tầng, việc giết người cũng được thực hiện lặp đi lặp lại để bảo đảm sự lũng đoạn tuyệt đối của Đảng trên hình thái ý thức. Điều này bao gồm:
a.  Giải quyết vấn đề về thái độ chính trị của các nhà trí thức đối với Đảng
Qua một thời gian dài, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã khởi xướng nhiều lần "vận động nhằm cải tạo tư tưởng của các phần tử trí thức". ĐCSTQ buộc tội các nhà trí thức là theo chủ nghĩa cá nhân giai cấp tư sản, có tư tưởng của giai cấp tư sản, có quan điểm vượt khỏi chính trị, có tư tưởng vượt khỏi giai cấp, theo chủ nghĩa tự do, v.v… ĐCSTQ tước đi nhân phẩm của các nhà trí thức thông qua việc tẩy não và hủy diệt lương tâm của họ. ĐCSTQ đã gần như hủy diệt hoàn toàn những tư tưởng độc lập và nhiều phẩm chất tốt khác của các nhà trí thức, bao gồm truyền thống bênh vực công lý và cống hiến cả cuộc đời để bảo vệ công lý. Truyền thống đó dạy rằng: “Không được sống buông thả khi giàu có và vinh quang hay mất phương hướng khi nghèo khó, và không được cúi đầu trước cường quyền [23]”; “Phải là người đầu tiên lo cho đất nước và là người cuối cùng đòi hỏi hạnh phúc cho cá nhân mình. [24]”; “Mỗi người dân bình thường đều phải có trách nhiệm đối với sự thành bại của đất nước. [25]”; và “Khi vô danh đấng trượng phu tự hoàn thiện mình, còn khi thành danh thì đấng trượng phu làm hoàn thiện cả đất nước.” [26]
b. Phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa giết người để chiếm quyền lãnh đạo tuyệt đối về văn hóa và chính trị cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ) phát động các cuộc vận động quần chúng từ bên trong Đảng đến bên ngoài Đảng, bắt đầu giết người trong các lãnh vực văn học, nghệ thuật, kịch nghệ, lịch sử và giáo dục. ĐCSTQ nhắm những cuộc tấn công đầu tiên vào những người nổi tiếng như: “Làng ba người” [27], Lưu Thiếu Kỳ, Vũ Hán, Lão Xả, và Tiễn Bá Tán[28]. Sau đó, số người bị giết hại đã tăng đến “một nhóm nhỏ trong Đảng”, rồi “một nhóm nhỏ trong quân đội”, và cuối cùng thì sự tàn sát lẫn nhau đã lan tràn tới toàn bộ Đảng, và toàn quân đội cho đến tất cả mọi người trên toàn bộ đất nước. Tranh đấu bằng võ khí thì tiêu diệt thân thể con người; còn các cuộc đấu tranh về văn hóa thì tiêu hủy linh hồn của người ta. Đó là một thời kỳ hỗn loạn và cực độ bạo ngược dưới sự khống chế của Đảng. Phương diện tà  ác trong nhân tính cần phải được phóng đại lên đến mức tối đa bởi vì nguy cơ của Đảng. Ai cũng có thể tùy ý giết người khác nhân danh “cách mạng” và “bảo vệ đường lối cách mạng của Mao chủ tịch”. Đó là một lần thao luyện không tiền khoáng hậu của giai cấp vô sản để diệt tuyệt nhân tính của toàn dân.
c. Đảng Cộng Sản Trung Quốc bắn vào những sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989 để giải quyết những đòi hỏi dân chủ sau Cách mạng Văn hóa
Đây là lần đầu tiên quân đội của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) công khai giết hại thường dân để đàn áp sự phản đối của nhân dân đối với các tệ nạn biển thủ, tham nhũng và thông đồng giữa các viên chức chính quyền và các nhà doanh nghiệp, và đàn áp những đòi hỏi của họ đối với quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và tự do hội họp. Trong vụ thảm sát tại Thiên An Môn, để gây thù hận giữa quân đội và dân thường, ĐCSTQ thậm chí còn dàn cảnh thường dân đốt xe quân đội và giết quân nhân, và còn đạo diễn thảm kịch Quân đội Nhân dân thảm sát người dân của nước mình.
d. Tàn sát những người không cùng tín ngưỡng
Lãnh vực tín ngưỡng chính là vận mệnh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Để cho các tà thuyết với lý luận sai lệch của nó có thể lường gạt mọi người trong một thời, ĐCSTQ bắt đầu tiêu diệt tất cả các tôn giáo và các hệ thống tín ngưỡng vào lúc khởi đầu sự thống trị của nó. Nhưng đối diện với một tín ngưỡng tinh thần trong thời đại mới —Pháp Luân Công trong quần chúng— ĐCSTQ lại một lần nữa rút lưỡi dao đồ tể của nó ra. Chiến lược của ĐCSTQ là lợi dụng những nguyên tắc “Chân, Thiện và Nhẫn” của Pháp Luân Công và sự kiện mà các học viên Pháp Luân Công không nói dối, không sử dụng bạo lực, và sẽ không làm gì gây bất ổn định xã hội. Sau khi có kinh nghiệm trong việc đàn áp Pháp Luân Công, ĐCSTQ sẽ khéo léo hơn trong sự tiêu diệt tất cả các tín ngưỡng khác. Lần này, chính Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản đã đi ra trước sân khấu để giết người thay vì sử dụng người khác hay nhóm khác.
e. Giết người để che dấu tin tức
Quyền được biết của con người là một chỗ yếu khác của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ); ĐCSTQ cũng vì phong tỏa tin tức mà giết người. Quá khứ, “nghe đài phát thanh của kẻ thù"” là một trọng tội bị bỏ tù. Hiện nay đối với các loại đột nhập vào hệ thống truyền hình của nhà nước để giải thích sự thật về cuộc đàn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã bí mật ra mệnh lệnh “giết ngay không tha”[29]. Lưu Thành Quân, người đã thực hiện một cuộc xâm nhập vào sự truyền bá tin tức như vậy, đã bị tra tấn đến chết. ĐCSTQ đã huy động ‘Phòng 610’ (một tổ chức tương tự như Gestapo của Đức Quốc Xã được lập ra chuyên để đàn áp Pháp Luân Công), cảnh sát, các công tố viên, hệ thống tòa án, và một hệ thống cảnh sát trên mạng lưới điện tử Internet khổng lồ để theo dõi từng hoạt động của quần chúng.
f. Cướp đoạt quyền sinh tồn của nhân dân chỉ vì tư lợi của Đảng
Lý luận 'cách mạng liên tục' của Đảng Cộng Sản, kỳ thực là vấn đề không thể buông bỏ quyền lãnh đạo của nó. Trong giai đoạn hiện tại, nạn biển thủ và tham nhũng trong nội bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã phát triển thành các xung đột giữa một bên là quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng và một bên là quyền sinh tồn của người dân. Khi dân chúng đứng lên để bảo vệ các quyền này trong phạm vi của pháp luật, thì lại thấy Đảng Cộng Sản động dụng bạo lực, không ngừng vung lưỡi dao đồ tể của nó lên về phía những người mà nó gọi là “kẻ cầm đầu” của những phong trào này. ĐCSTQ đã chuẩn bị sẵn hơn một triệu cảnh sát có võ trang cho mục đích này. Ngày nay, ĐCSTQ được chuẩn bị khá hơn để sẵn sàng chém giết rất nhiều so với thời kỳ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989, là khi nó phải tạm thời huy động quân đội để đàn áp. Tuy nhiên, khi bắt buộc dân chúng phải ở trên con đường cùng, đồng thời ĐCSTQ cũng đã buộc mình đi trên con đường không có lối thoát. ĐCSTQ đã đi đến một giai đoạn cực kỳ nguy hiểm đến nỗi nó thậm chí “ khi gió thổi còn xem cả cỏ cây như kẻ thù”, như một câu nói của người Trung Quốc.
Trên đây chúng ta có thể thấy rằng Đảng Cộng Sản trên bản chất là một tà linh, bởi vì quyền khống chế tuyệt đối của nó, dẫu biểu hiện của nó vào từng lúc hay từng nơi có biến hóa là gì đi nữa,  thì lịch sử của Đảng Cộng Sản với quá khứ giết người, hiện tại đang giết người, và tương lai còn sẽ giết người, lịch sử đó vẫn không hề thay đổi.

2. Tình huống khác nhau thì kiểu giết người khác nhau

a.  Đi đầu bằng tuyên truyền
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sử dụng các loại các kiểu phương pháp khác nhau để giết người tùy theo thời kỳ. Trong phần lớn các trường hợp giết người, chúng đều sử dụng tuyên truyền trước tiên. Một câu mà Đảng Cộng Sản thường nói là “không giết thì không làm yên cơn phẫn nộ của dân chúng”, cứ như thể là Đảng Cộng Sản phải theo yêu cầu của dân chúng mà giết người như vậy. Trên thực tế, “sự phẫn nộ của dân chúng” tức là sự kích động quần chúng nổi dậy do ĐCSTQ làm.
Lấy ví dụ, vở kịch “Bạch mao nữ” hoàn toàn là một sự xuyên tạc đối với truyền tụng dân gian khi nói về chuyện xưa tích cũ, và câu chuyện bịa đặt chỗ cho thuê mướn và hầm nước được kể trong vở kịch “Lưu Văn Thải”, cả hai đều được sử dụng như các công cụ “giáo dục” nhân dân để họ thù ghét những người địa chủ. ĐCSTQ thường nói về những kẻ thù như là ma quỷ, như trong trường hợp của cựu Chủ Tịch Nhà Nước của Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ. Đối với Pháp Luân Công thì càng sử dụng ngụy tạo hơn nữa,  ĐCSTQ đã dàn cảnh tự thiêu trên quảng trường Thiên An Môn vào tháng 01/2001 để làm cho dân chúng thù ghét Pháp Luân Công, và sau đó tăng gấp đôi chiến dịch diệt tuyệt khổng lồ của chúng chống lại Pháp Luân Công. Loại kiểu mẫu giết người này, Đảng Cộng Sản không những đã không thay đổi mà còn phát triển càng ngày càng khéo léo hơn qua việc sử dụng các kỹ thuật thông tin mới. Trong quá khứ ĐCSTQ lường gạt dân Trung Quốc, nhưng bây giờ nó cũng lường gạt dân chúng của các quốc gia khác.
b.  Phát động quần chúng giết người
Đảng Cộng Sản không chỉ giết hại nhân dân thông qua bộ máy chính quyền độc tài của nó mà còn tích cực phát động quần chúng chém giết lẫn nhau. Nếu như nói rằng lúc đầu nó có những câu về điều lệ quy tắc của pháp luật, nhưng đến lúc nó đã kích động dân chúng tham gia vào việc giết người thì không gì có thể làm dừng lại sự tàn sát. Ví dụ, khi ĐCSTQ đang thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của nó, thì Ủy ban Cải cách ruộng đất có thể quyết định sự sống chết của các địa chủ
c.  Giết linh hồn của người ta trước, rồi giết thân xác của họ sau
Một cách giết người khác là giết chết người ta về mặt tinh thần trước, rồi giết chết thân xác của họ sau. Trong lịch sử Trung Quốc, ngay cả vua Tần tàn bạo nhất (221 – 207 BC) cũng không tàn sát tinh thần của dân chúng. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chưa bao giờ cho người ta có cơ hội mà khẳng khái dõng dạc chết một cách có ý nghĩa. Chúng ban hành các chính sách như “khoan dung những người nhận tội và trừng phạt nặng nề những kẻ chống đối”, và “cúi đầu nhận tội là lối thoát duy nhất”. ĐCSTQ bắt buộc người dân phải từ bỏ những tư tưởng và tín ngưỡng của chính mình, làm cho họ chết nhục nhã như những con chó; bởi vì một cái chết khẳng khái dõng dạc sẽ có tác dụng khích lệ những người theo sau. Chỉ khi người ta không thể chết trong sự tôn quý nghiêm trang thì ĐCSTQ mới có thể đạt được mục đích của nó là “giáo dục” những người ngưỡng mộ nạn nhân đó. Nguyên nhân mà ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công một cách cực kỳ tàn bạo là vì các học viên Pháp Luân Công coi trọng tín ngưỡng của họ hơn cả mạng sống của chính mình. Khi ĐCSTQ không thể hủy hoại sự tôn nghiêm của họ, nó đã làm tất cả những gì nó có thể làm để tra tấn thân xác của họ.
d. Giết người bằng cách gây chia rẽ và tạo bè phái
Khi giết người, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sử dụng cả hai thủ đoạn dụ dỗ và đe dọa, làm ra vẻ thân thiện với một số người và làm cho người ta xa lánh những người khác. ĐCSTQ luôn luôn cố tấn công một phần nhỏ của toàn bộ dân số, với tỷ lệ là 5%. “Phần đa số” của toàn bộ dân số là luôn luôn tốt, luôn luôn là đối tượng của “giáo dục”. Loại giáo dục này bao gồm khủng bố và chăm sóc. "Khủng bố" là khiến cho người ta thấy là những người chống đối Đảng Cộng Sản sẽ không có kết cục tốt đẹp, làm cho họ tránh xa những ai đã từng bị Đảng tấn công trước kia. "Chăm sóc" là khiến cho người ta thấy rằng nếu họ có thể có được sự tin cậy của Đảng và đứng về phía Đảng, họ sẽ không những được an toàn mà còn được trọng dụng hoặc có được các lợi ích khác. Lâm Bưu đã từng nói, “Một bộ phận nhỏ [bị đàn áp] hôm nay và một phần nhỏ ngày mai, không bao lâu sẽ tổng cộng thành một phần lớn.” Những người sung sướng sống sót qua một cuộc vận động thường trở thành những nạn nhân của cuộc vận động khác.
e. Tiêu diệt những hiểm họa tiềm tàng từ trong trứng nước và bí mật giết người một cách bất hợp pháp
Gần đây Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã phát triển một kiểu giết người là diệt trừ các vấn đề từ trong trứng nước và giết người một cách bí mật ở ngoài vòng luật pháp. Ví dụ như, khi những cuộc đình công của công nhân hoặc các cuộc biểu tình phản đối của nông dân trở nên phổ biến hơn ở nhiều nơi, ĐCSTQ vốn có nguyên tắc 'tiêu diệt các phong trào trước khi các phong trào có thể phát triển' bằng cách bắt giữ những người được gọi là “kẻ cầm đầu” và trừng phạt họ rất nặng. Trong một ví dụ khác, khi tự do và nhân quyền càng ngày càng trở nên một trào lưu được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới, ĐCSTQ không xử tử hình bất kỳ một học viên Pháp Luân Công nào, nhưng dưới sự xúi dục của Giang Trạch Dân là “không ai phải chịu trách nhiệm về việc giết chết các học viên Pháp Luân Công”, thì các học viên Pháp Luân Công thông thường bị tra tấn đến chết rất thảm thương ở khắp nơi trên toàn bộ Trung Quốc. Mặc dù Hiến pháp Trung Quốc qui định rằng các công dân có quyền kháng cáo nếu phải chịu đựng sự bất công. Tuy nhiên, ĐCSTQ sử dụng cảnh sát mặc thường phục hoặc thuê các kẻ lưu manh ở địa phương để ngăn chặn, bắt giữ, và đưa những người dân đi kháng cáo về nhà, và ngay cả nhốt họ lại ở trong những trại lao động.
f. Giết người để cảnh cáo những người khác
Việc bức hại Trương Chí Tân, Ngộ La Khắc và Lâm Chiêu [30] là tất cả những ví dụ mhư thế.
g. Dùng đàn áp để che đậy việc giết người
Những người nổi tiếng mà có ảnh hưởng trên quốc tế thường hay bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đàn áp nhưng không bị giết chết. Mục đích của việc này là để che dấu việc giết hại những người mà cái chết của họ không bị dân chúng để ý đến. Ví dụ, trong chiến dịch "Đàn áp các phần tử phản cách mạng", ĐCSTQ đã không giết các tướng lãnh cao cấp của Quốc Dân Đảng như Long Vân, Phó Tác Nghĩa và Đỗ Duật Minh, mà thay vào đó là giết chết các viên chức cấp thấp và các binh sĩ của Quốc Dân Đảng.
Việc giết người qua một thời gian dài đã biến tâm hồn của người ta thành quái dị. Hiện nay ở Trung Quốc, nhiều người có khuynh hướng giết người. Khi bọn khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001, nhiều người Trung Quốc đã ăn mừng vụ khủng bố trên các diễn đàn của Internet ở Trung Quốc Đại lục. Những người kêu gọi “chiến tranh không hạn chế” đã lên tiếng ở khắp nơi làm cho mọi người run lên vì sợ.

 

Lời Kết

Do sự bưng bít tin tức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ), chúng tôi không có cách nào để biết chính xác bao nhiêu người đã chết trong những cuộc đàn áp khác nhau đã xảy ra trong thời kỳ ĐCSTQ cầm quyền. Ít nhất 60 triệu người đã chết trong các cuộc vận động mà chúng tôi đã đề cập đến trên đây. Hơn nữa ĐCSTQ cũng đã giết hại các dân tộc thiểu số ở Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông Cổ, Vân Nam và các nơi khác; rất khó tìm được tin tức về những việc này. Báo Washington Post đã từng ước tính rằng số người đã bị ĐCSTQ đàn áp đến chết lên tới 80 triệu [31]
Bên cạnh số người chết, chúng tôi không có cách nào để biết được bao nhiêu người đã bị tàn phế, bị rối loạn tinh thần, phát điên, trầm uất, hay sợ chết khiếp sau khi họ bị đàn áp. Mỗi một cái chết là một thảm kịch cay đắng để lại những đau đớn khôn nguôi cho thân nhân của các nạn nhân.
Như hãng thông tấn Yomiuri News của Nhật đã từng tường thuật [32], chính quyền Trung ương Trung Quốc đã mở một cuộc điều tra về thương vong trong Cách mạng Văn hóa ở 29 tỉnh và quận lỵ trực thuộc chính quyền trung ương. Kết quả cho thấy rằng gần 600 triệu người đã bị đàn áp hoặc bị tội liên can trong Cách mạng Văn hóa mà tổng số thành khoảng một nửa số dân Trung Quốc.
Stalin đã từng nói rằng “Cái chết của một người là một bi kịch, nhưng cái chết của một triệu người thì chỉ đơn giản là một con số thống kê”. Khi được thông báo rằng nhiều người dân đã bị chết đói ở tỉnh Tứ Xuyên, Lý Tỉnh Tuyền, nguyên Bí thư Đảng ủy tỉnh Tứ Xuyên nhận xét “Triều đại nào mà không có người chết?”. Mao Trạch Đông nói, “Thương vong là không thể tránh khỏi trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào. Chết chóc thường xảy ra.” Đấy là thái độ về sinh mạng của bọn Cộng sản vô Thần. Đấy là lý do tại sao 20 triệu người đã chết do bị đàn áp trong thời gian Stalin nắm quyền, chiếm 10% tổng số dân của Liên Bang Sô Viết trước kia. ĐCSTQ đã giết hại ít nhất 80 triệu người hay cũng vào khoảng 10% tổng số dân Trung Quốc [tính cho đến lúc kết thúc Cách mạng Văn hóa]. Khờ-me Đỏ đã giết chết 2 triệu người, hay 1 phần tư của tổng số dân Cam-pu-chia lúc bấy giờ. Ở Bắc Triều Tiên, số người bị chết vì đói kém ước tính khoảng hơn 1 triệu. Đây là tất cả món nợ máu của các Đảng Cộng Sản.
Các tà giáo dùng máu của kẻ bị giết chết để cúng tế tà linh. Ngay từ đầu Đảng Cộng sản đã liên tục giết người--khi nó không thể giết những người ngoài Đảng, nó thậm chí sẽ giết cả những người ở trong Đảng-- tất cả để tế lễ các tà thuyết “đấu tranh giai cấp”, “đấu tranh về đường lối” của nó. Nó thậm chí đặt các tổng bí thư Đảng, các tướng lãnh, các bộ trưởng, và những đảng viên khác của chính nó lên bàn cúng tế của tà giáo.
Nhiều người nghĩ rằng nên để cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có thời gian để tự biến đổi thành tốt hơn; nói rằng hiện giờ nó đã rất kiềm chế trong việc giết người rồi. Tuy nhiên, giết một người vẫn làm cho người đó trở thành kẻ giết người, nên từ bình diện to lớn hơn mà nói, thì bởi vì giết người là một trong những thủ đoạn mà ĐCSTQ dùng để thống trị với chế độ khủng bố của nó, như vậy ĐCSTQ sẽ tăng giảm việc giết người tùy theo nhu cầu của nó. Việc giết người của ĐCSTQ nói chung, khó đoán trước. Khi biểu hiện của người dân là ít sợ hãi, thì ĐCSTQ có thể giết nhiều người hơn để tăng cảm giác sợ hãi của họ lên; khi mọi người đã sợ rồi, thì giết một vài người cũng có thể nâng cao sự khủng bố; khi mọi người đã quá sợ rồi, nó chỉ cần tuyên bố ý định giết người chứ chưa cần giết thật thì cũng có thể duy trì tình trạng khủng bố. Sau khi trải qua vô số các chiến dịch giết người cho chính trị, người dân đã hình thành một 'phản xạ có điều kiện' đối với sự khủng bố của ĐCSTQ. Do đó, ĐCSTQ thậm chí không cần phải nhắc đến việc giết người, chỉ cần luận điệu phê phán gay gắt của bộ máy tuyên truyền thì cũng đủ để gợi lại ký ức sự khủng bố cho mọi người.
ĐCSTQ sẽ điều chỉnh mức độ giết người của nó một khi cảm giác sợ hãi của người dân thay đổi. Do đó giết người nhiều hay ít, tự nó không phải là mục đích của ĐCSTQ; mà chủ yếu là thói quen giết người của nó. ĐCSTQ chưa bao giờ trở nên ôn hòa. Nó cũng sẽ không bao giờ buông lưỡi dao đồ tể của nó xuống. Ngược lại, người dân đã trở nên phục tùng hơn. Một khi nhân dân đứng lên yêu cầu điều gì vượt quá sức chịu đựng của ĐCSTQ, thì ĐCSTQ sẽ không ngần ngại mà giết người.
Cũng bởi vì muốn duy trì bầu không khí khủng bố, nên việc giết người tùy tiện chính là cách làm có hiệu quả tối đa để duy trì sự khủng bố. Trong những chiến dịch giết chóc trên bình diện rộng lớn diễn ra trước đây, ĐCSTQ có chủ ý mập mờ về nhân dạng, tội danh và tiêu chuẩn buộc tội đối với các mục tiêu của nó. Để tránh bị trở thành mục tiêu tàn sát, mọi người thường tự giới hạn mình trong một “khu vực an toàn” dựa trên sự đánh giá của chính họ. Một “khu vực an toàn” như vậy, nhiều khi thậm chí còn hẹp hơn cả giới hạn mà Đảng Cộng Sản định đặt ra. Đó là lý do tại sao trong mỗi một phong trào, mọi người có khuynh hướng hành động như “một người khuynh Tả hơn là khuynh Hữu”. Kết quả là, một phong trào thường được “mở rộng” hơn so với phạm vi chủ định ban đầu, bởi vì người dân ở các cấp tự đặt ra những giới hạn cho mình để đảm bảo cho sự an toàn của họ. Cấp càng thấp, thì phong trào càng trở nên tàn bạo hơn. Sự khủng bố tự động phóng đại trong toàn xã hội như vậy là xuất phát từ việc giết người tùy tiện của Đảng Cộng Sản.
Trong lịch sử sát nhân lâu dài của nó, ĐCSTQ đã tự biến mình thành một kẻ cuồng điên giết người hàng loạt. Thông qua việc giết người, nó đã thỏa mãn cảm giác biến thái của nó là nắm được quyền sinh sát trong tay. Thông qua việc giết người, nó làm nguôi đi sự sợ hãi sâu thẳm trong thâm tâm của nó. Thông qua việc giết người, nó trấn áp sự không ổn định trong xã hội và bất mãn do những giết chóc trước kia của nó gây ra. Ngày nay, những món nợ máu chồng chất của ĐCSTQ đã khiến cho các giải pháp thiện lành là không thể áp dụng được nữa. Nó chỉ có thể dựa trên áp lực lớn và chế độ độc tài để duy trì sự tồn tại của nó cho đến thời khắc cuối cùng. Cho dù có những lúc nó sử dụng kiểu mẫu "giết người rồi sau đó sửa sai", bồi thường cho các nạn nhân đã bị chính nó giết hại, làm mê hoặc người ta, thì bản chất khát máu của ĐCSTQ vẫn chưa bao giờ biến đổi, thậm chí lại càng không thể thay đổi trong tương lai.

Chú thích: 
[1] Thư của Mao Trạch Đông gửi cho vợ là Giang Thanh (1966).
[2] Luận Ngữ của Khổng tử.
[3] Leviticus 19:18. (quyển giáo sĩ thứ 3 của Kinh Cựu Ước/chú thích của người dịch sang tiếng Việt)
[4] Karl Marx and Frederick Engels, Bản tuyên ngôn Cộng sản (1848).
[5] Mao Trạch Đông, Chế độ Độc Tài Dân chủ Nhân dân (1949).
[6] Mao Trạch Đông, “Chúng ta phải tận tình khuyến khích [việc đàn áp các phần tử phản cách mạng] để mọi gia đình đều được biết đến.” (30/03/1951).
[7] Mao Trạch Đông, “Chúng ta phải tấn công những phần tử phản cách mạng thật mạnh mẽ và chính xác.” (1951)
[8] Thái Bình Thiên Quốc (1851-1864), còn gọi là Cuộc nổi dậy Thái Bình, là một trong những cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nó là cuộc chạm trán giữa các lực lượng của Triều Đình Trung Quốc (nhà Thanh) và những người do Hồng Tú Toàn, một người thần bí tự xưng của nhóm văn hóa Hakka, lãnh đạo. Hồng Tú Toàn cũng là một người đã chuyển sang theo đạo Cơ Đốc. Người ta tin rằng ít nhất đã có 30 triệu người đã chết trong cuộc xung đột này.
[9] Những dữ liệu lấy từ phần trích của cuốn sách do tạp chí Chengming ở Hồng Kông xuất bản (www.chengmingmag.com), số ra tháng 10, 1996.
[10] Tài Liệu Lịch Sử về Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc ( Nhà xuất bản Cờ Đỏ, 1994).
[11] Đơn vị đo lường đất đai của Trung Quốc. 1 mẫu Trung Quốc = 0.165 mẫu Anh.
[12] Sa Thanh, Y Hy Đại Địa Loan (Vùng Đất Hoang Vu Nơi Đầm Lầy) (1988)
[13] De Jaegher, Raymond J., Kẻ Thù Bên Trong. Guild Books, Catholic Polls, Incorporated (1968).
[14] Thảm sát Đại Hưng xảy ra vào tháng 8/1966 trong khi thay đổi nhân sự cho vị trí Bí thư Thành ủy Bắc Kinh. Vào thời gian đó, Bộ trưởng Bộ Công an Xie Fuzhi có một bài phát biểu trong một cuộc họp với Nha Công an Bắc Kinh về việc không can thiệp vào các hoạt động của “hồng vệ binh” chống lại “năm giai cấp đen”. Bài phát biểu đó sớm được chuyển đến cuộc họp của Ban thường trực của Phòng Công an huyện Đại Hưng. Sau buổi họp, Phòng Công an huyện Đại Hưng ngay lập tức hành động và lập một kế hoạch kích động quần chúng nhân dân ở huyện Đại Hưng giết chết những người thuộc “năm giai cấp đen”.
[15] Trịnh Nghĩa, Kỷ Niệm Đỏ (Đài Bắc: Nhà xuất bản Truyền hình Trung Quốc, 1993). Cuốn sách này cũng đã được xuất bản bằng tiếng Anh: Kỷ Niệm Đỏ: Các câu chuyện ăn thịt người ở Trung Quốc hiện đại, của tác giả Yi Zheng, dịch và biên soạn bởi T. P. Sym (Boulder, Colorado: Westview Press, 1998.)
[16] “Xã hội cũ” theo cách nói của ĐCSTQ, dùng để chỉ thời kỳ trước năm 1949 và “xã hội mới” dùng để chỉ thời kỳ sau năm 1949 khi ĐCSTQ lên nắm quyền ở Trung Quốc.
[17] Áo bó là một dụng cụ tra tấn hình chiếc áo bó chặt. Hai tay của nạn nhân bị vặn chéo vào nhau và bị trói lại bằng dây thừng ở đằng sau lưng rồi sau đó bị giật qua đầu ra phía đằng trước; thủ đoạn tra tấn này có thể ngay lập tức làm què hai tay nạn nhân. Sau đó, nạn nhân bị đặt vào trong áo bó và bị treo hai tay lên. Hậu quả trực tiếp nhất của thủ đoạn tra tấn tàn bạo này là nạn nhân bị gẫy xương vai, xương khuỷu tay, xương cổ tay và lưng, làm cho nạn nhân bị chết trong đau đớn tột cùng. Rất nhiều học viên Pháp Luân Công đã chết vì bị tra tấn như thế này. Hãy đến các địa chỉ trên Internet sau đây để biết thêm thông tin:
Tiếng Hán: http://minghui.org/mh/articles/2004/9/30/85430.html
Tiếng Anh: http://clearwisdom.net/emh/articles/2004/9/10/52274.html
[18] Lưu Thiếu Kỳ, Chủ Tịch Nhà Nước của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc từ 1959 đến 1968, đã từng được xem là người kế vị của Mao Trạch Đông. Trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976), ông ta bị chính ĐCSTQ kết tội là phản bội, gián điệp, và phản động. Ông ta chết năm 1868 sau khi bị hành hạ cực kỳ tàn nhẫn trong lao tù của ĐCSTQ. 
[19] Trần Bá Đạt (1904-1989) đã từng là Thư Ký Chính Trị của Mao Trạch Đông và là Chủ Biên của báo Cờ Đỏ của ĐCSTQ. Họ Trần là người cầm đầu của nhóm Cách Mạng Văn Hóa và đã viết trên Nhật Báo Nhân Dân bài xả thuyết “Quét Sạch Bọn Quái Vật và Ác Qủy” năm 1966. Bài này được đánh dấu là bắt đầu của một trong những cuộc thanh trừng lớn nhất trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa. Trương Xuân Kiều (1917) đã từng là Đệ Nhị Phó Thủ Tướng năm 1975. Họ Trương là một trong Băng Đảng Bốn Người, nhóm lãnh đạo trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa. Bài viết nổi tiếng nhất của họ Trương là “ Hãy Sử Dụng Độc Tài Toàn Diện đối với Bọn Phản Động”.
[20] Vương Hiền Căn, Tài liệu về ủng hộ Việt nam và Đánh Mỹ. (Bắc Kinh: Công ty Xuất bản Văn hóa Quốc tế, 1990)
[21] Từ Báo cáo ngày 12/10/2004 của Viện nghiên cứu Laogai: Trẻ Em Trong Những Nạn Nhân của Cuộc Đàn Áp Pháp Luân Công.
http://www.laogai.org/news2/newsdetail.php?id=391 (tiếng Hán).
[22] Một trong ba công cụ (phương tiện sản xuất, phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất) do Mác dùng để phân tích giai cấp xã hội. Quan hệ sản xuất dùng để chỉ mối quan hệ giữa những người sở hữu công cụ sản xuất và những người không sở hữu công cụ sản xuất, ví dụ, mối quan hệ giữa những người chủ sở hữu đất đai và dân cày hoặc mối quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân.
[23] Từ Mạnh Tử, Quyển 3. Bộ Kinh điển Penguin, do D.C. Lau biên dịch.
[24] Tác giả Fan Zhongyan (989-1052), một nhà giáo dục, nhà văn và là một vị quan xuất chúng của Trung Quốc dưới Triều đại Bắc Tống. Đoạn trích này được lấy từ bài văn nổi tiếng của ông với nhan đề “Trèo lên tháp Nhạc Dương.”
[25] Tác giả Gu Yanwu (1613-1682), một học giả xuất sắc vào đầu Triều đại Thanh.
[26] Từ Mạnh Tử, Quyển 7. Bộ Kinh điển Penguin, do D.C. Lau biên dịch.
[27] Làng Ba Nhà là bút danh của ba nhà văn trong những năm 1960 là Deng Kuo, Wu Han và Liao Mosha. Wu là tác giả của vở kịch, “Hai Rui từ chức” mà Mao coi là một sự châm biếm chính trị về mối quan hệ của ông ta với tướng Bành Đức Hoài.
[28] Lão Xả (1899-1966) là một nhà văn Trung Quốc được nổi tiếng qua việc mô tả cuộc đời của người dân Trung Quốc trong những năm chiến tranh. Nhiều tác phẩm của ông ta được diễn trên những tuồng TV và các phim điện ảnh. Ông ta bị hành hạ dã mang trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa và đã tự tử bằng cách nhảy xuống hồ năm 1966. Jian Bozan (1898-1968) đã từng là Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Bắc Kinh và là một giáo sư sử học. Mao đã đặc biệt ra lệnh là phải dùng ông ta như một thí dụ xấu của thành phần trí thức phàn cách mạng. Ông ta và vợ cùng tự tử bằng cách uống thuốc ngũ quá liều vào tháng 12 năm 1968.
[29] Theo như Clearwisdom.net, mạng lưới chính thức của Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã hạ lệnh rằng những người tập Pháp Luân Công thì phải bị giết chết không nhân nhượng và những cái chết này được tính là tự tử. Xin xem “Thụy Điển: Lá thư của hội Pháp Luân Đại Pháp gởi cho Tổng Trưởng Ngoại  Giao trong Hội Nghị Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ở Geneva”.    
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2003/3/18/33461.html.
[30] Ngộ La Khắc là một nhà tư tưởng và đấu tranh vì nhân quyền bị ĐCSTQ giết chết trong Cách mạng Văn hóa. Bài tiểu luận bất hủ của ông “Về lịch sử gia đình” viết ngày 18/01/1967 được lưu truyền rộng rãi nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất trong tất cả các bài tiểu luận phản ánh các tư tưởng không tuân theo đường lối của ĐCSTQ trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Lâm Chiêu, một sinh viên khoa báo chí trường Đại học Tổng hợp Bắc Kinh bị coi là một người hữu khuynh năm 1957 vì cô đã có những tư tưởng độc lập và phê phán thẳng thắn đối với phong trào cộng sản đó. Cô bị buộc tội là có âm mưu lật đổ chế độ chuyên chính dân chủ nhân dân và bị bắt năm 1960. Năm 1962, cô bị kết án 20 năm tù. Cô bị ĐCSTQ giết hại ngày 29/04/1968 với tội danh là phản cách mạng.
[31] Dữ liệu dựa trên http://www.laojiao.org/64/article0211.html (tiếng Hán).
[32] Từ “Một bức thư ngỏ của Song Meiling gửi Liao Chengzhi” (17/08/1982).
Nguồn tin: http://www.blog.edu.cn/more.asp?name=fainter&id=16445 (tiếng Hán).
  Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
 



Bài bình luận số 8

Bản chất tà giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Lời Mở Đầu
     

Cách Mạng Văn Hóa là thời kỳ mà "Mặt Trời đỏ nhất" trong khi "Thế giới tối tăm nhất". Mọi người đều phải học các tác phẩm của Mao Trạch Đông (Getty Images)
Sự sụp đổ của khối Cộng Sản do Liên Bang Sô Viết dẫn đầu vào đầu thập niên 90 đã đánh dấu sự thất bại cho các cuộc vận động của Cộng Sản quốc tế sau gần một thế kỷ. Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ ) không ngờ đã sống sót và vẫn khống chế Trung Quốc, một quốc gia với 1/5 dân số thế giới. Một vấn đề không thể né tránh được chính là: ' Đảng Cộng Sản ngày nay có còn là Đảng Cộng Sản thật sự hay không?'
Không ai ở Trung Quốc ngày nay, bao gồm cả các đảng viên, còn tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Sau 50 năm đi theo chủ nghĩa Xã Hội, ĐCSTQ bây giờ đã chấp nhận quyền tư hữu và ngay cả còn có thị trường cổ phiếu. ĐCSTQ còn tìm kiếm đầu tư của ngoại quốc để thành lập các doanh nghiệp mới, trong khi vẫn bóc lột công nhân và nông dân đến mức độ tối đa. Điều này hoàn toàn trái ngược với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù thỏa hiệp với chủ nghĩa tư bản, ĐCSTQ vẫn duy trì quyền lãnh đạo tuyệt đối với người dân Trung Quốc. Hiến pháp sửa đổi năm 2004 vẫn cứng ngắc quy định rằng “Nhân dân Trung Quốc gồm các giống dân khác nhau sẽ tiếp tục kiên trì theo chế độ chuyên chính Dân chủ Nhân dân và đường lối Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và sự dẫn lối của chủ nghĩa Mácxít-Lêninít, tư tưởng của Mao Trạch Đông, lý luận của Đặng Tiểu Bình và tư tưởng chủ yếu trong ‘Tam đại biểu’…”
“Con báo đã chết, vẫn còn lưu lại bộ da” [1]. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ngày nay chỉ còn lại “bộ da” của Đảng Cộng Sản. ĐCSTQ kế thừa bộ da này và dùng nó để duy trì quyền thống trị của Đảng Cộng Sản.
Như vậy, 'bộ da' của Đảng Cộng Sản, tức là tổ chức của Đảng Cộng Sản mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc kế thừa, bản chất của nó là gì đây?

 

I. Các đặc trưng của Tà giáo Đảng Cộng Sản

Bản chất của Đảng Cộng Sản, kỳ thực là một tà giáo làm hại nhân loại

Mặc dù Đảng Cộng Sản chưa bao giờ tự gọi mình là một tôn giáo nhưng nó có tất cả các sắc thái của một tôn giáo. Xem Bảng 1. Khi mới bắt đầu thành lập, nó coi chủ nghĩa Mác-xít là chân lý tuyệt đối trên thế giới. Nó sùng bái tôn thờ Marx như vị thánh tinh thần của mình, và hô hào nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh suốt đời với mục đích để xây dựng một “thiên đường nhân gian” của chủ nghĩa cộng sản.
Bảng 1. Các sắc thái tôn giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc:

Các hình thức cơ bản của một tôn giáo
Các hình thức tương ứng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
1.
Nhà thờ hay giảng-đàn.
Tất cả các cấp Đảng ủy; các diễn thuyết gồm từ các buổi họp Đảng cho đến các phương tiện thông tin đều bị khống chế bởi Đảng Cộng Sản.
2.
Giáo nghĩa.
Chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận của Đặng Tiểu Bình và tư tưởng ‘Tam Đại biểu’ của Giang Trạch Dân và Hiến chương của Đảng.
3.
Nghi thức nhập giáo.
Buổi lễ tuyên thệ trung thành vĩnh viễn với Đảng Cộng Sản
4.
Chuyên nhất với một tôn giáo.
Đảng viên phải tuyệt đối tin theo Đảng Cộng Sản.
5.
Giáo sĩ, linh mục, thượng toạ, …
Các bí thư và nhân viên phụ trách các công tác Đảng ở các cấp.
6.
Thờ Thần, Phật, Thượng đế…
Chửi rủa tất cả chư Thần và sau đó tự tôn mình làm một vị "Thần” vô danh.
7.
Chết được gọi là “lên thiên đường hoặc xuống địa ngục”.
Chết được gọi là “đi gặp Karl Marx”.
8.
Kinh sách.
Lý thuyết và các bài viết của các lãnh tụ Đảng.
9.
Giảng đạo.
Các thể loại họp hành và phát biểu của lãnh đạo.
10.
Đọc kinh; học và trau dồi kinh sách.
Học chính trị, họp nhóm thường kỳ hoặc các hoạt động của các đảng viên.
11.
Thánh ca.
Các bài hát ca ngợi Đảng.
12.
Tự nguyện đóng chi phí.
Đảng phí bắt buộc; phân bổ ngân sách nhà nước bắt buộc phải cho Đảng là tiền từ mồ hôi và máu của dân.
13.
Giới luật, kỷ luật.
Kỷ luật Đảng bao gồm “quản thúc tại nhà”, điều tra, và “khai trừ khỏi Đảng” cho đến các thủ đoạn tra tấn chết người và ngay cả trừng phạt người thân và bạn bè.


Đảng Cộng Sản rất khác biệt với bất cứ chính giáo nào. Bởi vì các tôn giáo chính thống đều tin vào Thần, tin vào từ bi, và lấy sự giáo hóa đạo đức con người và cứu rỗi linh hồn người ta làm mục đích. Tuy nhiên Đảng Cộng Sản không tin vào thần linh, mà còn đi ngược lại đạo đức truyền thống.
Những việc Đảng Cộng Sản làm, đã chứng minh rằng nó là một tà giáo. Trung tâm cho các giáo điều của Đảng Cộng Sản là đấu tranh giai cấp, cách mạng bạo lực và sự chuyên chính của giai cấp vô sản, đã tạo ra cái gọi là “Cách mạng của Cộng Sản” đầy tàn sát và bạo lực đẫm máu. Khủng bố nhuộm Đỏ dưới chính quyền của Đảng Cộng sản đã kéo dài khoảng một thế kỷ, đem đến thảm họa cho hàng chục quốc gia trên thế giới và cướp đi hàng chục triệu sinh mạng con người. Tín ngưỡng của Đảng cộng sản mà đã tạo ra địa ngục nhân gian như thế thì thực ra là một tà giáo to lớn số một của thế gian con người.
Từ các đặc trưng của tà giáo Đảng Cộng Sản, chúng ta có thể tóm tắt chúng dưới sáu mục như sau:

1. Sự bịa đặt giáo điều -- tiêu diệt những người không giống mình

Đảng Cộng Sản lấy chủ nghĩa Karl Marx làm giáo điều và khoe trương nó như là “chân lý không thể phá vỡ.” Giáo điều của Đảng Cộng Sản thiếu nhân ái và khoan dung. Thay vào đó, nó chứa đầy cuồng vọng tự cao tự đại. Chủ nghĩa Mác-xít là một sản phẩm thời ban đầu của chủ nghĩa tư bản khi sự sản xuất thấp và khoa học vẫn còn kém phát triển. Nó không có nhận thức chính đáng về mối quan hệ căn bản giữa con người và xã hội, giữa con người và tự nhiên. Rủi thay, một tà thuyết dị đoan như thế đã phát triển thành một phong trào cộng sản quốc tế và đã làm hại thế gian con người hơn một thế kỷ, cho mãi đến khi bị chứng minh là hoàn toàn sai lầm trong thực tiễn, rồi bị thế nhân ruồng bỏ.
Các lãnh tụ Đảng từ thời Lê-nin đã liên tục thêm vào nội dung mới trong giáo điều của tà giáo cộng sản. Từ lý luận cách mạng bạo lực của Lê-nin cho đến lý luận về cách mạng liên tục dưới chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản của Mao Trạch Đông, đến “Tam đại biểu” của Giang Trạch Dân, lịch sử của Đảng Cộng Sản đầy rẫy những loại tà thuyết mà có lý luận sai lệch như thế. Mặc dù những tà thuyết này đã liên tục gây ra những thảm họa trong thực tiễn và tự mâu thuẫn với nhau, Đảng Cộng Sản vẫn tự cho rằng nó giải thích đúng và bắt buộc nhân dân phải học tà thuyết của nó.
Tiêu diệt những người mà khác với mình là thủ đoạn truyền giáo hữu hiệu nhất của tà giáo cộng sản. Bởi vì giáo điều và hành vi của tà giáo cộng sản này cực kỳ sai lầm, cho nên Đảng Cộng Sản chỉ dựa vào bạo lực để tiêu diệt những người khác với mình thì mới có thể cưỡng ép người dân chấp nhận nó. Sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chiếm đoạt chính quyền ở Trung Quốc, nó bắt đầu việc thực hiện “cải cách ruộng đất” để tiêu diệt giai cấp địa chủ, “cải tạo chủ nghĩa xã hội” trong công nghiệp và thương nghiệp để tiêu diệt các nhà tư bản, “phong trào tiêu diệt phản động” để tiêu diệt những tôn giáo truyền thống và những nhân sĩ trong chính quyền trước , “phong trào chống cánh Hữu” để bịt miệng những người trí thức và “Đại Cách mạng Văn hóa” để tiêu diệt văn hóa truyền thống của Trung Quốc. ĐCSTQ đã có thể thống nhất Trung Quốc dưới tà giáo cộng sản và đạt được một tình thế mà tất cả mọi người phải đọc Sách Đỏ, nhảy “điệu trung thành”[2] và “xin chỉ thị của Đảng buổi sáng và báo cáo lên Đảng vào buổi tối.” Vào thời kỳ sau chế độ của Mao Trạch Đông và của Đặng Tiểu Bình, ĐCSTQ đánh giá rằng Pháp Luân Công, một phương pháp tu luyện truyền thống tin vào “Chân, Thiện, và Nhẫn” sẽ cạnh tranh với nó để thu hút quần chúng, và do đó có ý định tiêu diệt Pháp Luân Công, vì vậy nó bắt đầu một cuộc đàn áp mang tính cách diệt tuyệt đối với Pháp Luân Công cho đến tận bây giờ.

2. Sùng bái Giáo chủ --- Chỉ có ta là nhất

Từ Karl Marx đến Giang Trạch Dân, bức hình của các lãnh tụ Đảng cộng sản được treo lên rõ ràng để cho người ta quỳ lạy. Quyền lực tuyệt đối của các lãnh tụ Đảng cộng sản là không dung tha kẻ khiêu chiến. Mao Trạch Đông được dựng lên làm “mặt trời đỏ” và là người “đại cứu tinh”. Đảng cộng sản tán dương một cách thái quá những câu nói của Mao rằng là “một câu nêu cao bằng 10 ngàn câu bình thường”. Với tư cách là một “đảng viên phổ thông”, Đặng Tiểu Bình đã từng làm chúa tể nền chính trị Trung Quốc dưới hình thức 'thái thượng hoàng'. Lý thuyết “Tam đại biểu” của Giang Trạch Dân chỉ dài có hơn 40 chữ một chút bao gồm cả dấu chấm, nhưng Đại hội kỳ 4 của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã thổi phồng lên là “đem đến câu trả lời sáng tạo cho những vấn đề như chủ nghĩa xã hội là gì, làm thế nào để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta xây dựng loại Đảng nào và xây dựng Đảng như thế nào.”  ĐCSTQ cũng tán dương thái quá về tư tưởng của “Tam đại biểu”, mặc dù khi nói rằng nó là sự tiếp nối và phát triển của chủ nghĩa Marxít-Leninnít, tư tưởng Mao Trạch Đông và lý luận Đặng Tiểu Bình thì thực ra là chế nhạo nó.
Việc giết người vô tội một cách vô nhân đạo của Stalin,  tai kiếp từ phong trào “Đại Cách mạng Văn hóa” của Mao Trạch Đông, lệnh thảm sát Thiên An Môn của Đặng Tiểu Bình và cuộc đàn áp Pháp Luân Công vẫn đang tiếp diễn của Giang Trạch Dân là những kết quả tàn ác của loại giáo chủ độc tài này.
Một mặt,  Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong Hiến Pháp quy định rằng, “Tất cả quyền lực trong Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa thuộc về nhân dân. Các cơ quan mà nhân dân thi hành quyền lực quốc gia là Quốc hội đại diện nhân dân và các Hội đồng địa phương các cấp”. “Không một tổ chức hay cá nhân nào có đặc quyền vượt trên Hiến pháp và pháp luật”[3]. Nhưng mặt khác, trong "Đảng chương" của ĐCSTQ quy định rằng ĐCSTQ là "trung tâm lãnh đạo cho sự nghiệp của xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc", làm cho Đảng vượt trên cả quốc gia và nhân dân. Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội có “những bài phát biểu quan trọng” trên khắp cả nước nói rằng Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia, phải tuân theo "sự kiên trì lãnh đạo của Đảng". Theo nguyên tắc của “chế độ tập trung dân chủ” của ĐCSTQ, toàn Đảng phải phục tùng Ban chấp hành Trung ương Đảng. Nói thực ra, điều mà Quốc hội thực sự nhấn mạnh là "sự độc tài của Tổng bí thư",  mà dùng hình thức luật pháp để bảo vệ "sự độc tài của Tổng bí thư".

3. Tẩy não bằng bạo lực, khống chế tinh thần, tổ chức nghiêm ngặt, và có thể vào Đảng nhưng không thể ra khỏi Đảng

Tổ chức của Đảng cộng sản rất là nghiêm ngặt: người ta phải có giới thiệu của 2 đảng viên trước khi được nhận vào Đảng; vào Đảng phải thề trung thành vĩnh viễn với Đảng ; đảng viên phải đóng đảng phí, phải tham dự các hoạt động của tổ chức, và tham gia học chính trị tập thể. Các tổ chức của Đảng thâm nhập tất cả các cấp chính quyền. Tổ chức cơ tầng của Đảng có mặt ở mỗi một làng, thị trấn, chỗ láng giềng… Đảng cộng sản khống chế không chỉ các đảng viên và các công tác của Đảng mà cả những dân chúng không phải là đảng viên bởi vì toàn bộ chính quyền phải “kiên trì theo sự lãnh đạo của Đảng”. Tuy nhiên trong những năm, khi các chiến dịch đấu tranh giai cấp đang diễn ra, các “thần giao”(người giảng bài) của giáo hội Đảng cộng sản, gọi là các "bí thư Đảng" trong tổ chức ở mọi cấp, thường là không biết làm gì khác hơn ngoài việc ép người ta theo kỷ luật.
“Phê bình và tự phê bình mình” trong các buổi sinh hoạt của Đảng là một loại thủ đoạn phổ biến và trường kỳ để khống chế tinh thần của đảng viên. Trong lịch sử, Đảng Cộng Sản đã phát động nhiều lần các phong trào chính trị để "thanh lọc đảng viên", “chỉnh đốn không khí trong  Đảng”, “bắt kẻ phản bội”, “giết 'tập đoàn chống Bolshevik' (AB Đoàn) và “chỉnh đốn Đảng”, thỉnh thoảng lợi dụng khủng bố bằng bạo lực để bồi dưỡng "Đảng tính” của các đảng viên, khiến cho họ phải trung thành mãi mãi với Đảng.
Gia nhập Đảng cộng sản như là ký một hợp đồng bán thân xác và linh hồn mà không thể hủy bỏ. Gia pháp của Đảng luôn luôn ở trên luật pháp của quốc gia, Đảng có thể khai trừ cá nhân đảng viên, trong khi các đảng viên không thể thoát ly khỏi Đảng cộng sản mà không bị trừng phạt nghiêm trọng. Nếu như thoái Đảng thì bị coi là kẻ phản bội và sẽ đưa đến những hậu quả tệ hại. Trong thời kỳ Cách Mạng dưới sự thống trị tuyệt đối của tà giáo Đảng cộng sản, nếu Đảng muốn người nào chết thì người đó không thể sống, nếu Đảng muốn người nào sống thì người đó không thể chết. Nếu như tự sát thì người đó sẽ bị dán cái nhãn hiệu là “sợ bị nhân dân trừng phạt vì tội lỗi của mình” và người nhà của họ cũng sẽ bị liên lụy và bị trừng phạt.
Quyết định sách lược bên trong Đảng hoạt động như một cái hộp đen và đấu tranh trong nội bộ Đảng phải tuyệt đối giữ bí mật. Tất cả các tài liệu của Đảng đều là văn kiện cơ mật. Làm chuyện xấu thì sợ nhất bị vạch trần, cho nên Đảng cộng sản thường xuyên xử lý những người khác với mình bằng cách gán cho họ tội danh “tiết lộ cơ mật quốc gia”.

4. Xúi giục bạo lực, tôn sùng máu tanh, và khích lệ hy sinh cho tà giáo Cộng Sản

Mao Trạch Đông nói: “Cách mạng không phải là một bữa tiệc buổi tối, hoặc viết một bài văn, hoặc vẽ một bức tranh, hoặc là làm công việc thêu thùa; nó không thể tao nhã như vậy, nhẹ nhàng và nhàn hạ như vậy, ôn hòa, tử tế, lịch thiệp, cần kiệm và nhượng bộ như vậy. Cách mạng là bạo lực, là hành động bạo lực mãnh liệt của một giai cấp dùng để lật đổ một giai cấp khác.”[4]
Đặng Tiểu Bình nói: “Giết chết 200 ngàn người để đổi lấy 20 năm ổn định”.
Giang Trạch Dân ra lệnh: “Tiêu diệt thân xác (các học viên Pháp Luân Công), bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính.”
Đảng cộng sản xúi giục bạo lực và đã giết vô số người trong lịch sử các lần vận động chính trị trước kia của nó. Nó giáo dục người dân đối xử "với kẻ thù phải lạnh lẽo vô tình”. Lá cờ đỏ được hiểu là màu đỏ tượng trưng cho “máu tươi của những liệt sĩ.” Đảng cộng sản sùng bái màu đỏ, trên thực tế là nó sùng bái máu tươi.
Đảng cộng sản trưng bày những ví dụ "anh hùng" để khuyến khích người ta hy sinh cho Đảng. Khi Trương Tư Đức chết trong lúc đang làm việc tại lò sản xuất thuốc phiện, Mao Trạch Đông đã ca ngợi cái chết của anh ta là “nặng như Núi Thái sơn [5].” Trong những năm điên cuồng đó, những lời như “Một không sợ khổ, hai không sợ chết” và “Vì có hy sinh mạnh mẽ quyết tâm bao nhiêu, nên chúng ta dám làm mặt trời và mặt trăng chiếu sáng những khung trời mới” chứa đầy cuồng vọng, và thiếu thốn trầm trọng về vật chất.
Vào cuối thập niên 70, Việt Cộng mang quân đi lật đổ chính quyền Khờ me Đỏ mà Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ủng hộ, gây ra các tội ác tầy trời. Mặc dù ĐCSTQ rất tức giận nhưng không thể đưa quân đến hỗ trợ Khờ me Đỏ bởi vì Trung Quốc và Cam-pu-chia không có chung đường biên giới. Thay vào đó, ĐCSTQ bắt đầu một cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam dọc theo biên giới Trung-Việt để trừng phạt Việt Cộng dưới chiêu bài “tự vệ”. Hàng chục ngàn lính Trung Quốc vì đó đã hy sinh cả máu và mạng sống cho cuộc chiến tranh giữa các Đảng cộng sản. Cái chết của họ thực ra không liên quan gì đến lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Tuy vậy vài năm sau, ĐCSTQ trâng tráo gợi nhớ lại sự hy sinh vô nghĩa của bao nhiêu sanh mạng trẻ tươi sáng khờ dại mà làm thành “tinh thần anh hùng cách mạng”, mượn từ bài hát “cử chỉ đẹp đẽ nhuộm máu”. Mặc dù 154 binh sĩ Trung Hoa đã chết năm 1981 trong khi chiếm lại núi Pháp Ca ở tỉnh Quảng Tây, ĐCSTQ đã tùy tiện trả nó lại cho Việt Nam sau khi hai bên phân chia lại biên giới.
Khi sự lan rộng hoành hành của bệnh dịch SARS đã đe dọa tánh mạng người dân vào đầu năm 2003, ĐCSTQ sẵn sàng nhận vào các nữ y tá trẻ. Sau đó những phụ nữ này nhanh chóng bị ép ở trong bệnh viện để chăm sóc các bệnh nhân SARS. ĐCSTQ đã đẩy những người trẻ tuổi vào nơi tiền tuyến nguy hiểm nhất để tạo dựng “hình ảnh vinh quang” trong khẩu hiệu “không sợ gian khổ , không sợ cái chết” của Đảng cộng sản. Tuy nhiên những người còn lại trong số 65 triệu đảng viên hiện có thì đang ở đâu và đã đem lại hình ảnh như thế nào cho Đảng, thì ĐCSTQ không có lời giải thích.

5. Phủ nhận đức tin vào thần thánh và bóp chết nhân tính

Đảng cộng sản tuyên truyền lý luận vô Thần, nói rằng tôn giáo là “thuốc phiện tinh thần” có thể đầu độc người dân. Nó dùng quyền lực của nó để tiêu diệt hoặc đè bẹp tất cả các tôn giáo ở Trung Quốc, và sau đó thần thánh hóa chính mình, thực hiện sự thống trị tuyệt đối của tà giáo Cộng Sản.
Cùng lúc với việc Đảng cộng sản đàn áp tôn giáo, nó cũng phá hoại văn hóa truyền thống. Nó nói rằng truyền thống, đạo đức và luân lý là phong kiến, mê tín và phản động, rồi dùng danh nghĩa cách mạng để diệt trừ tất cả. Trong thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, xuất hiện các hiện tượng xấu tràn lan đi ngược lại truyền thống Trung Quốc, như vợ chồng tố cáo lẫn nhau, học trò đánh đập thầy cô, cha con thành thù địch với nhau, Hồng vệ binh giết bừa bãi những người vô tội, và quân nổi loạn đánh đập, đập phá và cướp bóc. Đây chính là kết quả sự việc bóp chết nhân tính của ĐCSTQ.
Sau khi thành lập chế độ, ĐCSTQ đã cưỡng bức các dân tộc thiểu số phải theo sự lãnh đạo của cộng sản, làm tổn hại đến nền văn hóa dân tộc mà họ đã tạo dựng rất phong phú và đầy màu sắc.
Ngày 4/6/1989, cái gọi là “Quân đội Giải phóng của Nhân dân” đã thảm sát rất nhiều sinh viên ở Bắc Kinh. Việc này đã làm cho người dân Trung Quốc hoàn toàn mất hy vọng vào tương lai chính trị của Trung Quốc. Từ đó trở đi, toàn thể dân chúng tập trung vào việc kiếm tiền. Từ năm 1999 cho đến nay, ĐCSTQ đã đàn áp tàn khốc Pháp Luân Công, và đi ngược lại với “Chân, Thiện và Nhẫn” , vì vậy tăng thêm sự suy đồi nhanh chóng về chuẩn mực đạo đức.
Từ đầu thế kỷ này, một chiến dịch chia đất[6], chiếm giữ tiền bạc và tài nguyên vật chất một cách bất hợp pháp của các viên chức chính quyền tham nhũng mà thông đồng với kẻ kiếm lợi đã làm cho rất nhiều người dân trở thành bần cùng và vô gia cư. Số người kháng cáo lên chính quyền để đòi hỏi giải quyết bất công, đã tăng lên rất cao, và mâu thuẫn xã hội cũng phát triển mạnh mẽ. Các cuộc phản kháng trên diện rộng diễn ra thường xuyên, và đã bị cảnh sát và quân đội đàn áp dã man. Bản chất phát-xít của “nuớc Cộng hòa” đã trở nên rõ rệt, và xã hội lại càng mất đi chuẩn mực đạo đức.
Trước kia, một kẻ ác không bao giờ làm hại hàng xóm láng giềng, hoặc như câu nói "cáo chỉ săn mồi xa nhà". Bây giờ, khi người ta muốn lừa gạt người nào, họ càng muốn nhắm vào họ hàng và bạn bè của chính mình và gọi đó là “giết người quen thuộc”.
Trong quá khứ, người dân Trung Quốc quý trọng chữ trinh tiết lên hàng đầu, còn ngày nay người ta khinh người nghèo, chứ không khinh kẻ bán dâm. Lịch sử phá hoại nhân tính và đạo đức của dân tộc Trung Hoa được mô tả sống động trong các câu sau:
“Trong thập niên 50 người ta giúp đỡ nhau,
Trong thập niên 60 người ta chỉnh lý nhau,

Trong thập niên 70 người ta lừa đảo lẫn nhau,
Trong thập niên 80 người ta chỉ lo cho chính mình,
Trong thập niên 90 người ta lợi dụng bất kể ai mà họ gặp”.

6. Dùng quân đội để chiếm quyền lực, độc quyền hóa nền kinh tế và các tham vọng điên cuồng về chính trị và kinh tế

Tôn chỉ thành lập của Đảng cộng sản là cướp chính quyền bằng bạo lực và sau đó tạo ra một hệ thống quốc doanh trong đó nhà nước nắm giữ độc quyền nền kinh tế thiết kế. Tham vọng điên cuồng của Đảng cộng sản vượt xa các tà giáo thông thường khác là họ chỉ có mục đích gom tiền.
Trong một quốc gia với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản thống trị, các tổ chức của Đảng mà quyền lực rất lớn (có nghĩa là các Đảng ủy và các chi bộ Đảng ở mọi cấp) nắm quyền hoặc sở hữu các cơ cấu thông thường của quốc gia. Các tổ chức "phụ thể Đảng" khống chế bộ máy quốc gia, và rút tiền trực tiếp từ ngân sách chính phủ ở các cấp khác nhau. Đảng cộng sản như một con quỷ hút máu, không hiểu đã hút biết bao nhiêu của cải xã hội của quốc gia.

II. Những nguy hại mà tà giáo Đảng Cộng Sản gây ra

Khi những sự việc như giết người bằng khí độc hủy hoại thần kinh 'sarin' của giáo phái Aum Shinri Kyo, tự sát để lên thiên đường của giáo phái " Thái Dương", hoặc vụ tự sát tập thể của hơn 900 người theo giáo phái “Nhân dân” do Jim Jones lập ra được nhắc đến, tất cả mọi người run lên vì sợ và căm phẫn. Nhưng Đảng cộng sản là một tà giáo với tội ác rùng rợn hơn hàng ngàn lần, làm hại tính mạng của không biết bao nhiêu người. Điều này là bởi vì Đảng cộng sản có những chỗ độc đáo sau đây mà một tà giáo bình thường không có:

Tà giáo Đảng Cộng Sản được quốc giáo hóa

Trong một quốc gia bình thường, nếu quý vị không tin theo một tôn giáo nào đó thì quý vị vẫn có thể sống vui vẻ mà không phải đọc sách hay nghe những lý luận của tôn giáo đó. Tuy nhiên sinh sống ở Trung Hoa Đại Lục, quý vị không thể không học tập thường xuyên những giáo điều của tà giáo Đảng cộng sản, không thể không nghe tà giáo tuyên truyền, bởi vì chính quyền cướp đoạt của Đảng cộng sản đã biến tà giáo Cộng Sản thành quốc giáo rồi.
Đảng cộng sản nhồi nhét những thuyết giáo chính trị của nó vào đầu ngay từ khi bắt đầu mẫu giáo và trường tiểu học. Người ta không được học cao hơn hay được thăng chức mà không thi đậu kỳ thi chính trị. Không một câu hỏi nào trong kỳ thi chính trị cho phép học sinh được suy nghĩ độc lập. Thí sinh ép buộc phải ghi nhớ câu trả lời mẫu của Đảng cộng sản thì mới có thể thi đậu. Những người dân Trung Quốc đáng thương kia bị bắt buộc phải nhắc lại những thuyết giáo của Đảng cộng sản từ khi còn nhỏ, phải tự tẩy não chính mình lần này tới lần khác. Khi một cán bộ được thăng chức trong chính quyền, bất kể người đó là đảng viên Cộng sản Trung Quốc hay không, họ bắt buộc phải theo học trường Đảng. Người đó sẽ không được thăng chức nếu không hội đủ điều kiện tốt nghiệp của trường Đảng.
Ở Trung Quốc, nơi Đảng cộng sản là quốc giáo, các đoàn thể khác ý kiến không được dung tha. Ngay cả các “đảng phái dân chủ” được dựng lên bởi Đảng cộng sản để làm bình phong chính trị, và giáo hội bị cải tạo “TamTự” (có nghĩa là tự quản, tự lực và tự phát triển) cũng phải chính thức tiếp nhận sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trung thành với Đảng cộng sản là điều kiện đầu tiên trước khi muốn theo bất cứ tín ngưỡng nào, đây là lối suy nghĩ của tà giáo Đảng cộng sản.

Khống chế xã hội một cách cực đoan

Cơ sở tà giáo này có thể trở thành quốc giáo là vì Đảng cộng sản khống chế nhân dân và cướp đi quyền tự do của con người. Loại khống chế này là vô tiền khoáng hậu, bởi vì Đảng cộng sản đã cướp đoạt quyền tư hữu tài sản của người dân, mà quyền tư hữu tài sản là nền tảng của tự do. Trước thập niên 80, người dân thành thị chỉ có thể kiếm sống bằng cách làm việc trong các doanh nghiệp Đảng cộng sản khống chế. Nông dân ở nông thôn phải sống dựa vào đất ruộng thuộc công xã nông nghiệp của Đảng. Không ai có thể thoát khỏi sự khống chế của Đảng cộng sản. Trong một quốc gia theo chủ nghĩa xã hội như Trung Quốc, các tổ chức của Đảng cộng sản có mặt ở khắp nơi – từ chính quyền trung ương cho đến các đơn vị xã hội nhỏ nhất bao gồm cả làng, xã và láng giềng. Thông qua các Đảng uỷ, các chi bộ, các tổ chức của Đảng ở mọi cấp, Đảng cộng sản khống chế xã hội thật vững chắc. Kết quả của sự khống chế nghiêm ngặt như vậy đã hoàn toàn bóp nghẹt quyền tự do cá nhân – quyền tự do đi lại (hệ thống đăng ký hộ tịch), quyền tự do ngôn luận (500 ngàn người thuộc cánh Hữu bị đàn áp bởi ĐCSTQ vì họ thực thi quyền tự do ngôn luận), quyền tự do tư tưởng (Lâm Chiêu[7] và Trương Chí Tân[8] bị tử hình vì nghi ngờ ĐCSTQ) và quyền tự do về thông tin (đọc sách cấm hoặc nghe đài “địch” là bất hợp pháp; xem Internet cũng bị theo dõi).
Người ta có thể nói rằng hiện nay Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã cho phép chế độ tư hữu nhưng chúng ta không nên quên rằng chính sách cải cách khai phóng này chỉ được đưa ra khi chủ nghĩa xã hội đi đến mức mà người dân đã không còn đủ ăn và nền kinh tế của quốc gia đang bên bờ sụp đổ. Đảng cộng sản phải lùi một bước để tự cứu mình khỏi bị diệt vong. Tuy nhiên, ngay cả sau khi cải cách và khai phóng, ĐCSTQ chưa bao giờ nới lỏng việc khống chế người dân. Cuộc đàn áp tàn khốc đối với các học viên Pháp Luân Công đang diễn ra chỉ có thể xảy ra ở một quốc gia bị thống trị bởi Đảng cộng sản. Nếu như ĐCSTQ  thực sự trở thành một thế lực kinh tế to lớn như ý nguyện của nó, điều có thể chắc chắn là sự khống chế nhân dân của Đảng cộng sản chỉ có tăng gia càng  ngày càng mạnh.

Tôn sùng bạo lực và coi thường mạng sống

Gần như tất cả các tà giáo khống chế tín đồ hoặc chống lại áp lực bên ngoài, đều dùng bạo lực. Tuy nhiên, rất ít tà giáo đã từng sử dụng đến những thủ đoạn bạo lực tới mức độ như Đảng cộng sản đã từng làm một cách không hối hận. Ngay cả tổng số người chết vì tất cả các tà giáo khác trên thế giới cũng không thể so sánh được với số người bị tà giáo Đảng cộng sản giết hại. Theo cái nhìn của tà giáo Đảng cộng sản, thì con người chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích, và giết người cũng chỉ là một thủ đoạn. Do đó, Đảng cộng sản không đắn đo ngần ngại gì trong việc đàn áp người dân. Bất cứ người nào, kể cả những người ủng hộ, đảng viên và người lãnh đạo của Đảng đều có thể trở thành đối tượng của sự đàn áp.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) ủng hộ Khờ me Đỏ, một trường hợp điển hình cho sự tàn bạo và coi rẻ nhân mạng của tà giáo cộng sản. Trong vòng 3 năm 8 tháng cầm quyền, Đảng Cộng sản Campuchia do Pol Pot cầm đầu, cảm hứng bởi tư tưởng của Mao Trạch Đông, đã giết chết 2 triệu người – khoảng một phần tư dân số của quốc gia nhỏ bé này – nhằm “tiêu diệt chế độ tư hữu”. Trong tổng số người chết, hơn 200 ngàn người thuộc gốc Hoa.
Để ghi lại những tội ác của Đảng Cộng sản và tưởng niệm các nạn nhân, Cam-pu-chia đã thành lập một viện bảo tàng để ghi lại và trưng bày sự tàn bạo của Khờ me Đỏ. Viện bảo tàng này được đặt tại một nhà tù cũ của Khờ me Đỏ. Đầu tiên đó là một trường học do Pol Pot dùng làm Nhà tù S-21 để đối phó đặc biệt với các tù nhân bất khuất. Rất nhiều người trí thức đã bị giam cầm ở đó và bị tra tấn đến chết. Trưng bày dọc theo các bức tường nhà tù và các loại dụng cụ tra tấn là các bức ảnh đen trắng của những nạn nhân trước khi họ bị giết chết. Có rất nhiều cách tra tấn tàn khốc đã được ghi lại như cắt cổ, khoan sọ, trẻ em bị ném xuống đất và bị giết chết v.v… Được biết là tất cả các lối tra tấn này đều được các “chuyên gia và kỹ thuật viên chuyên nghiệp” do ĐCSTQ gửi đến để hỗ trợ Khờ me Đỏ truyền dạy. ĐCSTQ ngay cả còn đào tạo những người chụp hình để chuyên chụp hình các tù nhân trước khi họ bị giết chết để lưu lại làm tài liệu hoặc là để giải trí.
Chính tại nhà tù S-21 này, một chiếc máy khoan đầu người đã được đặc chế để lấy óc người làm thức ăn bổ dưỡng cho các người lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia. Những tù nhân bất khuất bị trói vào một chiếc ghế đặt trước máy khoan đầu người. Nạn nhân sẽ phải chịu nỗi sợ hãi cùng cực khi chiếc mũi khoan quay nhanh chọc thủng đầu từ phía đằng sau và lấy óc ra một cách mau lẹ và hiệu lực trước khi nạn nhân chết.

III. Bản chất tà giáo của Đảng Cộng sản

Điều gì đã khiến cho Đảng Cộng sản tàn bạo như vậy, và tà ác như vậy? Khi âm hồn của Đảng Cộng sản đến thế giới này, nó mang theo một sứ mạng đáng sợ. Bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản phần cuối cùng có một đoạn rất nổi tiếng là:
" Người Cộng sản chẳng thèm che đậy quan điểm và ý đồ của bọn họ. Họ công khai tuyên bố rằng các mục đích của bọn họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực để lật đổ toàn bộ chế độ xã hội hiện tại. Hãy để cho giai cấp thống trị run sợ vì cách mạng của chủ nghĩa cộng sản. Trong cách mạng này, những người vô sản không có gì để mất ngoài xiềng xích của mình. Họ có cả thế giới để chinh phục."
Sứ mạng của âm hồn này là dùng bạo lực để công khai khiêu chiến xã hội loài người, để đập nát thế giới cũ, để “tiêu diệt chế độ tư hữu”, “tiêu diệt cá tính, tính độc lập và tự do của các nhà tư bản”, tiêu diệt sự bóc lột, tiêu diệt gia đình, và để những người vô sản thống trị thế giới.
Đảng phái chính trị này, mà công khai tuyên bố ước muốn “đánh đập, đập phá và cướp bóc”của nó, không những không thừa nhận quan điểm tà ác của chính mình mà còn tự tuyên cáo trong Bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng “Cách mạng của chủ nghĩa cộng sản là cùng phá tan sự thực hành mối quan hệ truyền thống một cách triệt để nhất; không ngạc nhiên rằng trong tiến trình phát triển của chính nó phải cùng dứt bỏ khỏi sự thực hành quan niệm truyền thống một cách triệt để nhất.”
Các quan niệm truyền thống của xã hội là từ đâu đến? Chiếu theo luật tự nhiên của lý luận vô Thần mà nói, các quan niệm truyền thống là điều tất nhiên giữa qui luật tự nhiên với qui luật xã hội. Chúng là kết quả của qui luật vận động của vũ trụ. Tuy nhiên, chiếu theo quan điểm hữu Thần mà nói, truyền thống và luân lý đạo đức của nhân loại là do thần thánh truyền cho con người. Bất kể là đến như thế nào, luân lý đạo đức căn bản nhất của con nqười, khuôn mẫu quy định hành vi, và tiêu chuẩn Thiện Ác đều tương đối có tính chất không biến đổi ; là nền tảng cho cách cư xử của loài người và để duy trì trật tự xã hội trong hàng ngàn năm qua. Nếu nhân loại không có các khuôn mẫu quy định đạo đức và chuẩn mực Thiện và Ác, thì chẳng phải con người sẽ thoái hóa trở thành con vật hay sao? Khi bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tuyên bố rằng nó sẽ “dứt bỏ tận gốc sự thực hành các quan niệm truyền thống”, nó đã đe dọa đến nền tảng của sự tồn tại bình thường trong xã hội nhân loại, Đảng cộng sản chủ định là một tà giáo phá hoại nhân loại.
Toàn bộ văn kiện của bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, mà đặt ra các nguyên tắc chỉ đạo cho Đảng cộng sản, tràn đầy những tuyên bố cực đoan, không một chút nhân ái và khoan dung nào cả. Marx và Engels nghĩ rằng họ đã tìm ra quy luật phát triển xã hội thông qua chủ nghĩa duy vật. Do đó, với “chân lý” trong tay, họ đặt câu hỏi cho tất cả và phủ nhận tất cả. Họ khăng khăng áp đặt ảo tưởng chủ nghĩa Cộng sản lên con người và không ngần ngại chủ trương dùng bạo lực để huỷ diệt các cấu trúc xã hội và nền tảng văn hóa hiện có. Bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản  có hiệu quả là tiêm nhiễm vào Đảng Cộng sản mới sinh, một tà linh mà phản lại Trời Đất, hủy diệt nhân tính, cuồng vọng tự cao tự đại, cực kỳ ích kỷ và hoàn toàn hành động theo dục vọng.

IV. Lý thuyết về ngày tận thế của Đảng Cộng Sản – Nỗi lo sợ về ngày "Đảng bị diệt mất"

Marx và Engels đã tiêm nhiễm một tà linh vào Đảng Cộng sản. Lenin thành lập Đảng Cộng sản ở Nga, và thông qua bạo lực của những kẻ vô lại, ông ta đã lật đổ chính phủ chuyển tiếp được thành lập sau Cách mạng tháng Hai[9], rồi bóp chết cách mạng giai cấp tư sản ở Nga, cướp đoạt chính quyền, và chiếm được một chỗ đứng cho tà giáo Cộng sản ở thế gới con người. Tuy nhiên, sự thành công cách mạng của Lê-nin đã không giúp được những người vô sản chinh phục thế giới. Mà trái lại, như trong đoạn đầu của bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói, “Tất cả mọi quyền lực của cựu Âu châu đã vào tay một liên minh thần thánh để xua đuổi âm hồn này…”  Sau khi sinh ra, Đảng Cộng sản đã lập tức phải đối mặt với nguy cơ về sự sinh tồn của nó và lo sợ bị diệt trừ bất cứ lúc nào.

Sau Cách mạng tháng Mười[10], bọn Cộng sản Nga hay còn gọi là bọn Bôn-sê-vích, đã không đem lại hòa bình hay bánh mì cho người dân, mà chỉ có giết người bừa bãi. Tiền tuyến thì đang thua trận còn sự khó khăn của kinh tế hậu phương thì càng vì cuộc cách mạng mà trở nên tồi tệ thêm. Do đó, dân chúng bắt đầu nổi dậy. Nội chiến lan nhanh ra toàn bộ đất nước và nông dân từ chối cung cấp lương thực cho các thành phố. Bạo loạn xảy ra ở khắp nơi, khởi đầu giữa những người Cossacks ở gần sông Don; cuộc chiến của họ với Hồng quân đã gây ra đổ máu tàn khốc. Bản chất man rợ và tàn khốc của cuộc tàn sát xảy ra trong cuộc chiến này có thể được nhìn thấy qua các tác phẩm văn học như “Sông Đông êm đềm” của Sholokhov và các tuyển tập truyện Sông Don khác của ông. Đội quân do nguyên đô đốc của Bạch quân Aleksandr Vailiyevich Kolchak và tướng Anton Denikin cầm đầu có lúc gần như đã lật đổ Đảng Cộng sản Nga. Ngay cả khi còn là một chính quyền sơ sinh, Đảng Cộng sản đã kích động sự phản đối của hầu hết toàn bộ dân chúng, có thể bởi vì tà giáo cộng sản quá tà ác nên không thể đạt được lòng dân.
Cảnh ngộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) cũng tương tự như Đảng Cộng sản Nga. Từ “Sự kiện Mari” và “Vụ thảm sát ngày 12 tháng Tư”[11], cho đến việc bị trấn áp năm lần ở những khu vực do cộng sản Trung Quốc kiểm soát, và cuối cùng là việc bị bắt buộc phải thực hiện một cuộc “trường chinh” dài 25 ngàn cây số - ĐCSTQ đã luôn luôn phải đối mặt với nguy cơ bị tiêu diệt.
Đảng Cộng sản được thành lập với một quyết tâm phá hủy thế giới cũ bằng tất cả mọi thủ đoạn. Sau đó chính nó đã phải đối mặt với một vấn đề hiện thực: làm sao tiếp tục sinh tồn  mà không bị tiêu diệt. Như vậy Đảng Cộng sản phải sống trong một hoàn cảnh luôn luôn lo sợ bị tiêu diệt. Sinh tồn đã trở thành mối lo ngại hàng đầu, luôn luôn ám ảnh tà giáo Đảng cộng sản. Dưới tình huống mà Liên minh Cộng sản Quốc tế toàn bộ tan rã, nguy cơ sống còn của Đảng cộng sản Trung Quốc càng thêm nghiêm trọng. Từ năm 1989, lý luận về kiếp nạn "Đảng bị diệt vong" càng ngày càng trở nên hiện thực .

V. Vũ khí bửu bối cho sự sống còn của Tà giáo Cộng sản – Đấu tranh tàn bạo

Đảng Cộng sản luôn luôn nhấn mạnh kỷ luật sắt thép, trung thành tuyệt đối và các nguyên tắc của tổ chức.  Đảng viên của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) khi gia nhập Đảng bắt buộc phải tuyên thệ:
 “Tôi muốn gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, ủng hộ cương lĩnh của Đảng, tuân theo điều lệ của Đảng, hoàn thành các nghĩa vụ của đảng viên, thi hành các quyết định của Đảng, nghiêm chỉnh tuân theo các kỷ luật của Đảng, giữ gìn các bí mật của Đảng, trung thành với Đảng, làm việc chăm chỉ, cống hiến toàn bộ cuộc đời mình cho chủ nghĩa Cộng sản, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Đảng và nhân dân, và không bao giờ phản bội Đảng.”[12]
Đảng cộng sản gọi loại tinh thần hiến thân này khi gia nhập giáo phái  là “Đảng tính”. Nó yêu cầu một đảng viên cộng sản phải sẵn sàng vứt bỏ tất cả niềm tin và nguyên tắc cá nhân bất cứ lúc nào để tuyệt đối phục tùng ý muốn của Đảng và ý muốn của người lãnh đạo. Nếu Đảng muốn quý vị làm người tốt thì quý vị làm người tốt; nếu muốn làm chuyện ác thì quý vị làm chuyện ác. Nếu không làm thì không đạt tiêu chuẩn của đảng viên, và không biểu hiện Đảng tính được mạnh mẽ.
Mao Trạch Đông nói, “Triết học của chủ nghĩa Marx là triết học đấu tranh”. Để nuôi dưỡng và duy trì Đảng tính, Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) dựa vào cơ chế đấu tranh có tính cách chu kỳ bên trong Đảng. Thông qua việc phát động liên tục các cuộc đấu tranh tàn khốc ở trong và ngoài Đảng, một mặt Đảng cộng sản tiêu diệt những người không giống nó, tạo ra sự khủng bố đầy màu đỏ, mặt khác Đảng liên tục khai trừ đảng viên, làm cho các nội quy luật lệ của tà giáo cộng sản chặt chẽ hơn, và bồi dưỡng Đảng tính của đảng viên, để tăng cường sức lực chiến đấu cho các tổ chức Đảng. Điều này trở thành một vũ khí bửu bối mà Đảng cộng sản dùng để bảo trì sự sống còn của nó.
Trong số các lãnh tụ của ĐCSTQ, Mao Trạch Đông là người lão luyện nhất trong việc dùng thứ vũ khí bửu bối này cho các cuộc đấu tranh tàn bạo trong Đảng. Thủ đoạn tàn bạo của cuộc đấu tranh như thế và sự độc ác của các phương thức nó dùng đã bắt đầu từ những năm 1930 trong những khu vực do Cộng sản Trung Quốc khống chế,  gọi là “Khu vực Sô-viết”.
Năm 1930, Mao Trạch Đông khởi xướng một cuộc khủng bố cách mạng toàn diện trong Khu vực Sô viết ở tỉnh Giang Tây, được biết đến như một cuộc truy quét những người thuộc đoàn thể chống Bôn-sê-vích (Anti-Bolshevik Corps, gọi là đoàn AB). Hàng ngàn lính Hồng quân, Đảng viên và Đoàn viên và thường dân ở trong những căn cứ Cộng sản đã bị giết chết một cách dã man. Sự kiện đó xảy ra là do sự khống chế độc tài của Mao. Sau khi Mao thành lập Khu vực Sô viết ở Giang Tây, không lâu sau đó ông ta đã bị thách thức bởi các tổ chức Đảng và Hồng quân địa phương ở khu vực tây nam tỉnh Giang Tây do Lý Văn Lâm cầm đầu. Mao không thể chấp nhận bất cứ một lực lượng đối lập có tổ chúc nào ở ngay trước mũi, nên ông ta đã dùng các thủ đoạn cực đoan nhất để đàn áp các đồng chí trong Đảng mà thuộc lực lượng đối lập. Để tạo ra một bầu không khí cứng rắn cho cuộc tiêu diệt, Mao không ngần ngại khởi đầu đội quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông ta. Từ cuối tháng 11 cho đến giữa tháng 12, Hồng quân tiền tuyến đã đi qua một cuộc "chỉnh đốn quân đội nhanh chóng”. Các tổ chức chuyên diệt trừ những người phản cách mạng được thành lập tại mỗi một cấp trong quân đội bao gồm sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, và trung đội, bắt bớ và giết chết những đảng viên xuất thân từ những gia đình địa chủ hay phú nông và những người dám phàn nàn. Trong vòng chưa đầy một tháng, trong số hơn 40 ngàn lính Hồng quân, có 4400 người bị cho là các phần tử của đoàn AB bao gồm cả hơn 10 đoàn trưởng (đoàn trưởng của đoàn AB); tất cả đã bị tử hình.
Trong thời kỳ tiếp theo, Mao bắt đầu trừng phạt những người khác ý kiến đó ở Khu vực Sô-viết. Vào  tháng 12/1930, ông ta ra lệnh cho Lý Thiều Cửu, Tổng bí thư của Tổng cục Chính trị của Hồng quân tiền tuyến và Chủ tịch của Ủy ban Thanh trừng đại diện cho Tổng Ủy Biên giới và đi đến thị trấn Phú Điền ở tỉnh Giang Tây nơi chính quyền cộng sản đặt trụ sở. Lý Thiều Cửu bắt giữ các thành viên của Ủy ban Hành động tỉnh và 8 chỉ huy trưởng của Hồng quân thuộc đoàn 20, bao gồm Đoàn Lương Bật và Lý Bạch phương. Ông ta dùng nhiều thủ đoạn tra tấn dã man như đánh đập và đốt thân thể - những người bị tra tấn như vậy có thương tích khắp thân thể, các ngón tay bị rạn nứt, bị bỏng toàn thân và không thể di chuyển. Theo các chứng cớ tài liệu, thì lúc đó các nạn nhân gào khóc to như xé trời; các thủ đoạn tra tấn tàn khốc cực kỳ vô nhân đạo.
Ngày 8/12, các bà vợ của Bạch Phương, Mã Minh và Chu Miện đến thăm các ông chồng bị giam giữ, nhưng họ cũng bị bắt như các thành viên của đoàn AB và bị tra tấn tàn bạo. Họ bị đánh đập nghiêm trọng, thân thể và âm hộ của họ bị đốt và phần vú bị cắt bằng dao. Trong khi bị tra tấn dã man, Đoàn Lương Bật đã thú nhận rằng Lý Văn Lâm, Kim Vạn Bang, Lưu Địch, Chu Miện, Mã Minh và những người khác là lãnh đạo của đoàn AB và rằng có nhiều thành viên của đoàn AB trong các trường học của Hồng quân.
Từ 7/12 cho đến tối 12/12, chỉ trong 5 ngày, Lý Thiều Cửu và những người khác đã bắt giữ hơn 120 người bị cho là các thành viên của đoàn AB và hàng chục người chủ chốt chống cách mạng trong cuộc càn quét tận cùng đoàn AB ở Phú Điền; hơn 40 người đã bị tử hình. Hành động tàn bạo của Lý Thiều Cửu cuối cùng đã kích động thành “Sự kiện Phú Điền” [13] ngày 12/12/1930 làm kinh hoàng Khu vực Sô-viết.
Từ Khu vực Sô-viết cho đến Diên An, Mao dựa vào học thuyết của ông ta và thực hành đấu tranh , dần dần tìm kiếm và thiết lập địa vị lãnh đạo tuyệt đối của mình ở trong Đảng. Sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đoạt được chính quyền năm 1949, Mao tiếp tục dựa vào hình thức đấu tranh trong nội bộ Đảng này. Ví dụ, trong cuộc họp hội nghị toàn thể lần thứ 8 của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản, tổ chức ở Lư sơn năm 1959, Mao Trạch Đông bất ngờ tấn công tướng Bành Đức Hoài và bãi chức ông ta [14]. Tất cả các lãnh đạo trung ương tham dự cuộc họp được yêu cầu phải bày tỏ quan điểm của mình; một vài người dám bày tỏ những quan điểm khác biệt đều bị dán một nhãn hiệu là thuộc nhóm 'Bành Đức Hoài chống Đảng'. Trong Cách mạng Văn hóa, các cán bộ lâu năm trong Ủy ban Trung ương ĐCSTQ lần lượt bị trừng phạt, nhưng tất cả họ đều nhượng bộ mà không tranh đấu gì cả. Có ai dám nói một chữ chống lại Mao Trạch Đông? Đảng cộng sản luôn luôn nhấn mạnh trung thành với Đảng, nhấn mạnh tính cách tổ chức và kỷ luật sắt thép,  nhấn mạnh phải tuyệt đối phục tùng giáo chủ lãnh tụ . Loại Đảng tính này đã được khắc sâu vào đầu óc qua các cuộc đấu tranh chính trị không ngừng nghỉ.
Lý Lập Tam, đã từng là một lãnh tụ của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ),trong thời Cách mạng Văn hóa đã bị dồn vào chân tường. Ở tuổi 68, ông bị hỏi cung trung bình 7 lần một tháng. Vợ ông, Lý Sa bị coi là một gián điệp của “nhóm Sô viết xét lại”, cũng bị bỏ tù và bị mất tích. Không còn lựa chọn nào khác, trong nỗi tuyệt vọng tột cùng ông Lý đã tự tử bằng cách uống một lượng lớn thuốc ngủ. Trước khi chết, Lý Lập Tam viết một lá thư cho Mao Trạch Đông, thật sự phản ảnh Đảng tính, có nghĩa là một đảng viên cộng sản không dám đầu hàng ngay cả khi gần kề cái chết:
Chủ tịch,
Tôi đang bước vào con đường phản bội Đảng bằng cách tự sát và không có cách nào để bào chữa cho tội lỗi của mình. Chỉ có một điều, rằng toàn thể gia đình tôi và tôi chưa bao giờ hợp tác với các quốc gia thù địch. Chỉ riêng về vấn đề này, tôi đề nghị chính quyền trung ương cho điều tra và nghiên cứu thực tế và kết luận dựa trên sự thực…
Lý Lập Tam

22/06/1967 [15]
Trong khi triết lý đấu tranh của Mao Trạch Đông cuối cùng đã kéo Trung Quốc vào một đại tai kiếp chưa từng có,  loại vận động chính trị "cứ 7 hay 8 năm một lần" và cuộc đấu tranh trong Đảng diễn ra tràn lan đã bảo đảm sự sống còn của Đảng cộng sản. Mỗi lần có   cuộc vận động, một thiểu số 5% sẽ bị đàn áp, và đa số còn lại 95% sẽ phải ngoan ngoãn thống nhất theo đường lối của Đảng, bởi đó tăng cường sức tập trung và sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Những cuộc đấu tranh này cũng tiêu diệt những phần tử “không kiên định” mà không sẵn lòng từ bỏ lương tri của họ, và tấn công bất cứ lực lượng nào dám chống lại. Thông qua cơ chế đấu tranh như vậy, những người có nhiều tinh thần đấu tranh nhất và giỏi nhất trong việc sử dụng các thủ đoạn lưu manh bên trong Đảng cộng sản thì mới chiếm được sự khống chế. Nói một cách khác, các giáo chủ của tà giáo Đảng cộng sản bảo đảm đều là những phần tử không biết sợ, đầy kinh nghiệm đấu tranh và đầy Đảng tính. Loại đấu tranh tàn khốc này cũng đem lại cho những người từng trải qua một “bài học bằng xương máu”, và tẩy não bằng bạo lực. Đồng thời, đấu tranh liên tục đem đến sức sống cho Đảng cộng sản, làm mạnh mẽ thêm tinh thần đấu tranh của Đảng, bảo đảm Đảng không bị tiêu diệt, và ngăn không cho Đảng trở thành một tập thể ôn hòa mà buông bỏ đấu tranh.
Loại Đảng tính mà Đảng cộng sản đòi hỏi chính là từ bản chất tà giáo của Đảng cộng sản diễn biến mà ra . Để thực hiện mục đích của chính mình, Đảng cộng sản quyết tâm vứt bỏ tất cả các nguyên tắc truyền thống, quyết tâm sử dụng tất cả các thủ đoạn để chiến đấu không do dự với bất cứ lực lượng nào cản trở nó. Do đó, nó cần phải đào tạo và nô lệ hóa các đảng viên để họ trở thành công cụ vô tình vô nghĩa vô tín ngưỡng của Đảng. Bản chất này của Đảng cộng sản bắt nguồn từ sự thù hận của nó đối với xã hội và truyền thống loài người, từ cái ảo tưởng tự hào của nó, và tính cực kỳ ích kỷ và coi thường mạng sống người khác của nó. Để đạt được cái gọi là lý tưởng của chính mình, Đảng cộng sản đã sử dụng bạo lực bằng mọi giá để đập tan thế giới và tiêu diệt tất cả những người khác ý kiến. Một tà giáo độc ác như vậy sẽ phải đối diện với sự phản đối của những người có lương tri, nên nó phải tiêu diệt lương tri và ý niệm thiện lành của mọi người thì mới có thể làm cho người ta tin vào tà thuyết của nó. Do đó, để bảo đảm cho sự sống còn của nó, Đảng cộng sản trước hết phải tiêu diệt lương tri, ý niệm thiện lành và tiêu chuẩn đạo đức của con người, biến người ta thành công cụ và nô lệ thuần phục. Theo lý luận của Đảng cộng sản, sinh mạng của Đảng và lợi ích của Đảng vượt lên trên tất cả mọi thứ khác; ngay cả vượt lên trên lợi ích tập thể của tất cả các đảng viên, do đó bất cứ đảng viên nào cũng phải sẵn sàng hy sinh cho Đảng.
Nhìn vào lịch sử của Đảng cộng sản Trung Quốc, những người vẫn còn giữ được lối nghĩ của những nhà trí thức truyền thống như Trần Độc Tú và Cù Thu bạch, hoặc những người vẫn còn quan tâm đến quyền lợi của nhân dân như Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, hoặc những người kiên quyết làm cán bộ trong sạch và thực sự phục vụ nhân dân như Chu Dung Cơ – cho dù họ đã đóng góp cho Đảng cộng sản nhiều như thế nào, và cho dù họ không quan tâm đến tham vọng cá nhân như thế nào, họ cũng không tránh khỏi bị khai trừ, bị ném sang một bên, hoặc bị giới hạn bởi lợi ích và kỷ luật của Đảng.
Qua nhiều năm đấu tranh, Đảng tính đã được bồi dưỡng ăn sâu vào xương tủy của họ, làm cho họ thường thường thỏa hiệp và đầu hàng vào những giây phút nguy kịch, bởi vì trong tiềm thức của họ, sự sống còn của Đảng là lợi ích lớn nhất. Họ chẳng thà hy sinh chính mình và nhìn lực lượng tà ác trong Đảng giết người, họ cũng không dám vì lương tri và ý niệm thiện lành mà ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng. Đây chính là kết quả cơ chế đấu tranh của Đảng cộng sản: nó biến người tốt thành công cụ để sử dụng, và dùng Đảng tính để giới hạn và ngay cả tiêu diệt lương tri con người đến mức độ tối đa. Hàng chục cuộc "đấu tranh đường lối" của Đảng cộng sản Trung Quốc đã đánh hạ hơn 10 lãnh tụ cao cấp nhất của Đảng hoặc là những người được chỉ định làm người kế nhiệm; không một lãnh tụ cao nhất nào của Đảng cộng sản có một kết cục tốt đẹp. Mặc dù Mao Trạch Đông đã làm vua 43 năm, ngay sau khi ông ta chết, vợ và cháu trai của ông ta đã bị bỏ tù, và điều này được toàn bộ Đảng ăn mừng như là một thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mao. Đây có phải là trò hề chăng?  Là hài kịch chăng?
Sau khi Đảng cộng sản cướp đoạt chính quyền, các cuộc vận động chính trị diễn ra liên tục, từ đấu tranh trong Đảng đến đấu tranh ngoài Đảng. Giống như dưới thời Mao Trạch Đông, và giống hệt như trong thời “cải cách và khai phóng” sau đó. Trong thập niên 80, khi người dân vừa mới bắt đầu được tự do suy nghĩ một chút thì Đảng cộng sản khởi xướng một chiến dịch “phản đối sự tự do hóa của giai cấp tư sản”, và đề xuất “Bốn nguyên tắc cơ bản”[16], bởi vì Đảng cộng sản cần giữ quyền lãnh đạo tuyệt đối. Năm 1989, những sinh viên yêu cầu dân chủ một cách hòa bình đã bị đàn áp đẫm máu bởi vì Đảng cộng sản không dung tha các trào lưu tư tưởng về dân chủ. Thập niên 90 chứng kiến một sự tăng nhanh về số lượng các học viên Pháp Luân Công tin vào Chân, Thiện, Nhẫn, và họ đã phải chịu một cuộc bức hại có tính cách diệt tuyệt bắt đầu năm 1999, bởi vì Đảng cộng sản không thể chấp nhận nhân tính và ý niệm thiện lành, mà nhất định dùng bạo lực để hủy diệt lương tri trong tâm của người ta thì mới có thể bảo đảm quyền lực của chính nó. Từ khi bước vào thế kỷ 21, Internet đã nối liền thế giới với nhau nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc đã tiêu một số tiền khổng lồ để dựng nên những trạm kiểm soát trên mạng điện toán để đánh bẫy những nhân sĩ tự do trên mạng lưới, bởi vì Đảng cộng sản rất sợ sự việc người dân được tự do thông tin .

VI. Sự biến đổi thành ác của tà giáo Đảng Cộng Sản

Tà giáo Đảng cộng sản trên bản chất là phủ nhận đạo lý của Trời, và bóp chết nhân tính. Bản tính của Đảng cộng sản là cuồng vọng, tự cao tự đại, cực kỳ ích kỷ, và có các hành động dã man, không còn kiêng nể gì nữa. Tuy rằng trên thực tế, Đảng cộng sản không ngừng phạm tội ác đem lại tai họa cho quốc gia và dân chúng, nhưng nó vĩnh viễn không thừa nhận những tội ác của chính mình, cũng vĩnh viễn không dám để cho người dân nhìn thấy rõ bản chất của chính nó . Mặt khác Đảng cộng sản từ trước đến nay cũng không ngần ngại thay đổi khẩu hiệu và chiêu bài của nó, bởi vì theo Đảng cộng sản nhìn thì tất cả những sự việc này đều là thủ đoạn để duy trì quyền lực; chỉ cần có lợi cho sự sinh tồn của Đảng cộng sản, thì nó sẽ làm bất cứ việc gì mà không màng đến nguyên tắc đạo nghĩa, công lý và nhân mạng.
Một tà giáo mà chế độ hóa và xã hội hóa như vậy, theo phương hướng phát triển, thì chỉ có hướng đến sụp đổ hoàn toàn. Bởi vì sự tập trung cao độ về quyền lực, và vì các cơ chế có thể giám sát và đốc thúc dư luận xã hội đã bị bóp chết, nên không có bất cứ lực lượng nào để ngăn chặn Đảng cộng sản đi vào sa đọa và thối nát.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) ngày nay đã sa đọa đến trở thành “Đảng tham ô" và "Đảng thối nát” lớn nhất trên thế giới. Theo thống kê chính thức ở Trung Quốc, trong số 20 triệu viên chức, hoặc cán bộ trong chính quyền thuộc ĐCSTQ suốt 20 năm qua, có 8 triệu người đã phạm tội tham nhũng, thối nát và bị trừng phạt hoặc khai trừ theo kỷ luật của Đảng hoặc luật pháp chính quyền. Nếu những phần tử thối nát tham nhũng chưa bị phát hiện cũng được tính đến thì các quan viên thối nát trong chính quyền của Đảng ước khoảng hơn 2 phần 3, nhưng chỉ có một phần nhỏ trong số đó đã bị điều tra và phanh phui.
Tham ô thối nát, vì mình mà tống tiền kẻ khác, vơ vét chỗ tốt, loại vật chất này chính là lực tập trung lớn nhất của một đoàn thể mà Đảng cộng sản Trung Quốc ngày nay ôm giữ. Bọn tham nhũng biết rằng, không có Đảng cộng sản, thì không có cơ hội cho bọn họ làm chuyện thối nát, và nếu như Đảng cộng sản sụp đổ, bọn họ không những chỉ mất quyền lực và địa vị mà còn phải đối diện với sự nguy hiểm bị điều tra. Trong "Sự phẫn nộ của Trời", một tiểu thuyết vạch trần những sự việc đằng sau của các viên chức ĐCSTQ, tác giả Trần Phương đã chỉ ra điều tối mật của 'một Đảng' qua miệng của Hác Tương Thọ, một phó giám đốc văn phòng thành phố của ĐCSTQ rằng “tham nhũng thối nát khiến cho chính quyền của chúng ta càng thêm ổn định”.
 Dân chúng thấy rất rõ điều đó, “nếu chúng ta chống tham nhũng thối nát, Đảng sẽ diệt vong; nếu chúng ta không chống tham nhũng thối nát, thì quốc gia sẽ diệt vong.” Tuy nhiên Đảng cộng sản sẽ không liều lĩnh chống tham nhũng thối nát để rồi phải đối diện với nguy hiểm bị mất Đảng. Cái mà Đảng sẽ làm, là giết một số cá nhân tham nhũng làm vật hy sinh tượng trưng nhằm bảo vệ hình ảnh của nó, điều này sẽ kéo dài sự tồn tại của nó thêm vài năm nữa. Tà giáo Đảng cộng sản cho đến hôm nay, tôn chỉ duy nhất chính là bảo vệ quyền lực và ngăn ngừa Đảng bị diệt vong.
Ở Trung Quốc ngày nay, đạo đức luân lý đã bị phá hoại đến mức cực kỳ nghiêm trọng thê thảm. Hàng hóa giả mạo, mãi dâm, ma túy, thông đồng giữa các viên chức và băng đảng, bọn băng đảng hung hăng ngang ngược, cờ bạc, hối lộ, tham nhũng thối nát đủ loại diễn ra tràn lan. Đảng cộng sản đã phớt lờ những bại hoại về mặt đạo đức như thế, trong khi nhiều viên chức cao cấp cũng là những tên trùm đằng sau đang moi móc tiền bảo vệ cho những người dân yếu đuối. Sài Thiếu Khánh, một chuyên gia nghiên cứu về xã hội đen và các tổ chức tội phạm ở trường Đại học Tổng hợp Nam Kinh, ước tính rằng tổng số bọn tội phạm băng đảng ở Trung Quốc là khoảng 1 triệu. Mỗi một tên tội phạm trong băng đảng, khi bị bắt luôn luôn khai ra những phần tử thối nát của Đảng cộng sản ở đằng sau là các viên chức chính quyền, quan tòa hoặc cảnh sát.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) sợ rằng người dân có lương tri và ý niệm thiện lành, cho nên nó không dám để cho dân chúng có tự do tín ngưỡng. Nó sử dụng tất cả những nguồn lực của nó để đàn áp những người tốt có tín ngưỡng, như là những người bí mật theo Thiên Chúa Giáo mà tin vào Chúa Giê-su và Thượng Đế và những học viên Pháp Luân Công muốn trở nên Chân, Thiện và Nhẫn. ĐCSTQ sợ rằng chính trị dân chủ sẽ kết liễu chế độ chuyên chính một Đảng của nó nên nó không dám để cho nhân dân có tự do  chính trị. Nó hành động mau lẹ và bắt giam những nhân sĩ có tư tưởng độc lập tự do và những người hoạt động đề cao nhân quyền. Tuy nhiên, nó cho người dân Trung Quốc một loại tự do khác, là chỉ cần người ta không quan tâm đến chính trị và không phản đối sự lãnh đạo của Đảng, thì họ có thể muốn làm gì thì làm, thậm chí người ta có thể làm những điều tà ác hoặc những sự việc tàn nhẫn, vô nhân đạo. Kết quả là ĐCSTQ sa đọa rất nhanh và đạo đức xã hội ở Trung Quốc đang xuống dốc nhanh chóng ở mức báo động.
“Bịt lấp đường lên thiên đàng và mở cửa xuống địa ngục” là câu mô tả rõ nhất việc tà giáo Đảng cộng sản Trung Quốc đã phá hủy xã hội Trung Quốc ngày nay như thế nào.

VII. Kiểm lại sự thống trị của tà giáo Đảng Cộng Sản

Đảng Cộng sản là gì?

Vấn đề nhìn có vẻ đơn giản này lại không có cách trả lời đơn giản. Dưới chiêu bài “vì công chúng” và dùng danh nghĩa một đảng phái chính trị để xuất hiện, Đảng Cộng sản trên thực tế đã lừa dối hàng triệu người. Hơn nữa Đảng cộng sản không phải là một đảng phái chính trị theo ý nghĩa thông thường, mà là một tà giáo hại người, và bị phụ thể tà linh điều khiển. Đảng Cộng sản là một sanh mạng sống: tổ chức của Đảng, tức là biểu tượng của tà giáo trên thế gian, là cơ thể của sinh mạng đó. Trên căn bản, chủ tể của Đảng Cộng sản chính là tà linh đó mà đã nhập vào Đảng ngay từ đầu, và tà linh đó quyết định bản chất tà giáo của Đảng Cộng sản.
Bọn lãnh tụ của Đảng Cộng sản, với thân phận giáo chủ của tà giáo Cộng sản, chỉ là cái miệng lưỡi của tà linh và của Đảng. Khi mục đích và ý chí của bọn chúng nhất trí với Đảng và có thể  dùng cho Đảng, thì bọn chúng sẽ được chọn là người lãnh đạo. Nhưng khi bọn chúng không thể thỏa mãn đòi hỏi của Đảng nữa thì bọn chúng sẽ bị lật đổ một cách vô tình. Cơ chế đấu tranh của Đảng bảo đảm rằng chỉ những phần tử nào giảo hoạt, dối trá nhất, tà ác nhất và hung hãn man rợ nhất mới có thể trụ vững được ở địa vị giáo chủ của Đảng Cộng sản. Trong lịsh sử của Đảng cộng sản Trung Quốc, khoảng hơn một chục lãnh tụ Đảng bị hạ bệ đã chứng minh cho vấn đề này. Lãnh đạo cao nhất của Đảng, kỳ thực đang đi trên một sợi dây thừng rất hạn hẹp. Họ có thể hoặc là bứt ra khỏi giáo phái Đảng và để lại tiếng tốt trong lịch sử như Gorbachev đã làm, hoặc là trở thành nạn nhân của Đảng giống như nhiều Tổng bí thư Đảng.
Quần chúng là đối tượng bị biến thành nô lệ và đàn áp của Đảng cộng sản. Bên trong phạm vi khống chế của Đảng cộng sản, dân chúng không có quyền cự tuyệt Đảng cộng sản. Thay vào đó, họ bị cưỡng ép phải chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng và phải gánh vác việc duy trì (sự cúng bái) nghĩa vụ của Đảng cộng sản. Dân chúng, dưới sự đe dọa cưỡng bức sắt máu của Đảng, phải chấp nhận sự tẩy não thường xuyên theo hình thức tà giáo. Đảng cộng sản ở tại Trung Quốc cưỡng ép toàn dân phải tin vào tà giáo, cúng bái tà giáo; điều này là hiếm thấy trên thế giới ngày nay, thậm chí có thể nói rằng đây là kỹ thuật vô địch của Đảng cộng sản trong những áp bức như vậy.
Đảng viên được dùng để lấp đầy cơ thể nhân quần của Đảng cộng sản. Có những người trong số đó là người trung thực và lương thiện, thậm chí có thể là rất thành đạt trong sự nghiệp của mình. Càng là những người như thế thì Đảng cộng sản Trung Quốc  (ĐCSTQ) càng thích chiêu dụ bởi vì thanh danh và năng lực của họ đã bị lợi dụng để phục vụ cho Đảng. Nhiều người khác, vì muốn trở thành quan chức hoặc thụ hưởng lợi ích riêng tư , sẽ cố gắng gia nhập Đảng cộng sản và giúp đỡ sinh mạng tà ác đó. Cũng có người vì muốn làm được điều gì đó trong đời và nhận ra rằng, dưới sự thống trị của Đảng cộng sản, họ sẽ không có cơ hội phát triển như vậy trừ khi họ gia nhập Đảng. Một số người vào Đảng là vì họ muốn được chia cho một chỗ ở hay chỉ đơn giản là vì muốn có một hình ảnh tốt hơn. Do đó, trong số hàng chục triệu đảng viên có cả người tốt lẫn người xấu. Nhưng cho dù gia nhập Đảng với động cơ gì đi nữa, một khi họ thề trung thành trước cờ Đảng, tự nguyện hay không, thì nghĩa là họ đã tự nguyện hiến thân cho Đảng. Sau đó họ sẽ phải đi qua một quá trình tẩy não liên tục bằng cách tham gia sinh hoạt của tổ chức và học tập chính trị hàng tuần. Phần lớn đảng viên có rất ít ý chí của chính mình, nếu có, và bị mê hoặc bởi Đảng tính "thống nhất tư tưởng" mà hoàn toàn bị chủ tể tà linh điều khiển . Những người như vậy sẽ hoạt động ở trong Đảng giống như những tế bào của cơ thể con người, và sẽ làm việc không ngưng nghỉ vì sự tồn tại của Đảng, mặc dù chính họ cũng là một phần của quần chúng bị biến thành nô lệ bởi Đảng cộng sản. Còn đáng buồn hơn là, sau khi sự bó buộc của “Đảng tính” được áp đặt trên đầu thì rất khó vứt bỏ nó đi. Một khi người ta biểu hiện phần "nhân tính" của mình, thì sẽ bị loại trừ hoặc bị bức hại. Người ta không thể tự ra khỏi Đảng, ngay cả nếu họ muốn thế,  bởi vì chính sách 'vào-được ra-không' của tà giáo Đảng cộng sản sẽ coi họ như là kẻ phản bội. Vì vậy người ta thường thấy hai nhân cách trên thân đảng viên của Đảng cộng sản Trung Quốc: một mặt là "Đảng tính" trong trường hợp chính trị , còn mặt kia là "nhân tính" trong sinh hoạt thường ngày.
Các cán bộ đảng là nhóm người nắm quyền trong số những đảng viên. Mặc dù họ có thể biểu hiện giữa thiện và ác hoặc làm ra quyết định cá nhân trong những hoàn cảnh riêng biệt, vào những thời gian riêng biệt và những sự kiện riêng biệt, toàn thể bọn họ phải đi theo ý chí của Đảng, đó gọi là “toàn Đảng phục tùng Ban chấp hành Trung ương”. Các cán bộ Đảng, nhận lệnh từ bên trên và thi hành ở dưới, là lực lượng trung kiên của Đảng cộng sản, nhưng bọn họ cũng chỉ là công cụ cho Đảng. Họ cũng bị lừa đảo, lợi dụng và trở thành nạn nhân trong các phong trào chính trị trước kia. Qui tắc tiêu chuẩn đằng sau này là xem người ta có một lòng đi theo giáo chủ hay không.

Tại sao người dân vẫn không giác ngộ?
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) thống trị Trung Quốc trong suốt hơn 50 năm, làm rất nhiều chuyện ác, tà ác không gì sánh bằng. Nhưng tại sao toàn dân Trung Quốc thiếu nhận thức thực tế về bản chất tà giáo của Đảng cộng sản? Có phải vì người Trung Quốc ngu ngốc chăng?  Không phải. Người Trung Quốc là một trong những dân tộc thông minh nhất trên thế giới, mà lại có một nền văn hóa truyền thống lâu dài 5000 năm. Nhưng người Trung Quốc vẫn đang phải sống dưới sự thống trị của Đảng cộng sản, mà hoàn toàn không dám nói lên sự bất mãn. Nguyên nhân chủ chốt là tư tưởng của người dân đã chịu sự trói buộc của tà linh Đảng cộng sản.
Nếu như người dân Trung Quốc có được tự do ngôn luận và có thể công khai thảo luận về giá trị và tội lỗi của Đảng cộng sản, thì chúng ta cũng không khó tưởng tượng rằng người Trung Quốc từ lâu đã có thể thấy rõ được bản chất tội ác của Đảng cộng sản và giải phóng cho chính mình thoát khỏi tà giáo Đảng cộng sản. Không may là, dưới sự thống trị của Đảng cộng sản Trung Quốc trong hơn nửa thế kỷ, nhân dân Trung Quốc đã bị mất đi quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận. Mục đích đằng sau việc đàn áp những người cánh Hữu trong số những phần tử trí thức năm 1957 là để kiềm chế quyền tự do ngôn luận và để trói buộc tư tưởng của người dân. Trong một xã hội mà không có những quyền tự do căn bản như vậy, đối với những thanh niên đã thành tâm nghiên cứu các tác phẩm của Karl Marx và Engels trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa, phần lớn họ cũng bị dán cái mác trớ trêu là “tập đoàn phản Đảng”, và sau đó bị đàn áp. Việc thảo luận về đúng hay sai của Đảng cộng sản lại càng không được đặt ra.
Không mấy người Trung Quốc dám nghĩ đến việc gọi Đảng cộng sản là tà giáo. Tuy nhiên, nhưng một khi theo lập luận, những người đã từng sống ở Trung Quốc sẽ thấy không khó khăn gì trong việc tìm ra đầy đủ chứng cớ lý luận để chứng minh cho nhận định đó, từ cảnh ngộ của bản thân, của gia đình và bạn bè.
Người dân Trung Quốc không những chỉ bị tước đi quyền tự do tư tưởng, mà họ còn bị rót vào đầu đầy những văn hóa Đảng và tà thuyết của Đảng cộng sản. Do đó, tất cả những gì mà người dân có thể nghe thấy là những lời ca tụng 'công đức' của Đảng và đầu óc của họ đã bị nghèo nàn đáng thương đến mức chỉ còn lại những thứ của Đảng cộng sản. Hãy lấy vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn làm ví dụ. Khi súng bắt đầu nổ hôm 4/6/1989, nhiều người theo bản năng chạy trốn. Một lúc sau, bất chấp rủi ro, họ dũng cảm bước ra khỏi chỗ ẩn náu và cùng nhau hát bài “Quốc tế ca”. Những người Trung Quốc này thực sự dũng cảm, vô tội và đáng kính trọng, nhưng tại sao họ lại hát bài “Quốc tế ca” của Đảng cộng sản, khi phải đối diện với sự tàn sát do Đảng cộng sản gây ra? Nguyên nhân cũng rất đơn giản: bị giáo dục trong văn hóa của Đảng, tất cả những điều mà các người đáng thương đó biết chỉ là chủ nghĩa cộng sản. Những người ở trên quảng trường Thiên An Môn lúc đó không biết bất cứ một bài hát nào khác hơn là bài “Quốc tế ca” và một số bài hát ca tụng Đảng cộng sản.

Đâu là lối thoát?

Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) đang tiến đến một sụp đổ hoàn toàn của nó. Đáng buồn là, trước khi tà giáo này diệt vong, nó đang còn cố gắng trói buộc số phận của nó với dân tộc Trung Quốc.
Đảng cộng sản Trung Quốc đang giãy chết, rõ ràng nó đang yếu dần; sự kiềm chế tư tưởng của người dân cũng bắt đầu càng ngày càng không linh nghiệm nữa. Với sự phát triển của viễn thông và Internet, ĐCSTQ thấy khó mà kiểm soát thông tin và áp bức quyền tự do ngôn luận. Khi các viên chức tham nhũng thối nát ngày càng cướp bóc và áp bức nhân dân, dân chúng đã bắt đầu thức tỉnh từ những ảo tưởng của mình về ĐCSTQ, và nhiều người trong dân gian đã bắt đầu con đường tranh đấu kháng cự. ĐCSTQ không những đã thất bại trong các cố gắng gia tăng sự kiềm chế tư tưởng trong sự việc đàn áp Pháp Luân Công, mà trái lại càng làm tiêu nhanh nguyên khí của ĐCSTQ, bộc lộ rõ ràng sự tàn bạo của ĐCSTQ. Một hoàn cảnh như vậy đã làm cho dân chúng suy xét lại Đảng cộng sản, mở đường cho dân tộc Trung Hoa tự giải phóng, trừ sạch sự kiềm chế tư tưởng và hoàn toàn thoát khỏi sự khống chế của tà linh Đảng cộng sản.
Sau khi đã sống dưới sự thống trị của tà giáo Đảng cộng sản Trung Quốc hơn 50 năm qua, người Trung Quốc không cần 'Cách mạng bạo lực'; mà họ cần cứu giúp đòi lại linh hồn của mình. Điều này có thể đạt được bằng cách tự cứu mình, và bước đầu tiên tiến tới mục đích đó là việc phải nhận ra bản chất tà giáo của Đảng cộng sản.
Ngày đó sẽ đến khi nhân dân vứt ra từng tổ chức của Đảng cộng sản mà đang gắn liền với hệ thống hành chính quốc gia, để cho các hệ thống xã hội hoạt động một cách độc lập, và được trợ giúp bởi các lực lượng nòng cốt của xã hội. Với sự ra đi của các tổ chức độc tài của Đảng, hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan chính quyền sẽ được cải thiện và đề cao. Và ngày đó đang đến gần. Thực ra, từ hồi đầu thập niên 80, những người theo đường lối cải cách ở trong Đảng ủng hộ ý tưởng “tách Đảng ra khỏi chính quyền”, trong một nỗ lực để loại trừ Đảng cộng sản ra khỏi chính phủ. Nhưng nếu không thể phủ nhận ý thức về "sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng", thì các nỗ lực cải cách bên trong thể hệ tà giáo này, sự thực đã chứng minh là không đủ và cũng khó tiến hành.
Văn hóa Đảng là tổ chức của tà giáo Đảng cộng sản mà cần thiết cho hoàn cảnh tồn tại của nó. Trừ sạch văn hóa Đảng và dấu vết của tà giáo Đảng cộng sản trong tư tưởng, tức là trừ sạch phụ thể Đảng trong trí óc, có thể nhiều khó khăn hơn việc gỡ bỏ sự khống chế của Đảng cộng sản trong các cơ cấu hành chính quốc gia, nhưng đó là cách duy nhất để thực sự trừ sạch tà giáo Đảng cộng sản. Điều này chỉ có thể đạt được bằng nỗ lực của chính người dân Trung Quốc. Với tư tưởng của họ được điều chỉnh lại cho ngay chánh như ban đầu, nhân tính của họ trở về với trạng thái chân thật vốn có ban đầu, thì mới có thể thực hiện sự xây dựng một xã hội đạo đức và thành công trong việc chuyển tiếp thành một xã hội lương thiện mà không có Đảng cộng sản. Cách tốt nhất để giải trừ phụ thể khống chế này là việc nhận ra bản chất và sự độc hại của tà linh đó, rồi quyết liệt quét sạch nó ra khỏi trí óc, để cho phụ thể tà linh đó không còn chỗ để trốn. Đảng Cộng sản nhấn mạnh việc khống chế "hình thái ý thức" bởi vì Đảng cộng sản không gì khác hơn là một loại hình thái ý thức. Khi tất cả nhân dân Trung Quốc, trong tâm linh, phủ nhận các tà thuyết trong lý luận sai lệch của Đảng cộng sản, chủ động trừ sạch văn hóa Đảng, trừ sạch mọi ảnh hưởng của tà giáo Đảng cộng sản trong quan niệm và cuộc sống của chính mình, thì hình thái ý thức của Đảng cộng sản phải kề cận sự tan vỡ. Khi người dân tự cứu mình, thì Đảng cộng sản sẽ tan rã.
Các quốc gia dưới quyền thống trị của Đảng cộng sản, phần nhiều đi kèm với nghèo đói, độc tài, và áp bức. Chỉ còn lại vài nước như vậy bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt nam, và Cuba. Những chế độ đó đang sống những ngày còn lại cuối cùng.
Với trí tuệ của người Trung Quốc, chiếu sáng trên lịch sử huy hoàng của dân tộc Trung Hoa, một Trung Quốc được giải thoát khỏi sự khống chế của phụ thể tà linh Đảng cộng sản sẽ trở thành một xã hội đầy hứa hẹn.

 

Lời kết

Đảng cộng sản không còn tin vào chủ nghĩa cộng sản nữa. Linh hồn của nó đã chết, nhưng cái bóng âm hồn của nó vẫn còn. Đảng cộng sản Trung Quốc đã kế thừa “bộ da” của Đảng cộng sản, nhưng vẫn tràn đầy bản tính của một tà giáo: cuồng vọng, tự cao tự đại, cực kỳ ích kỷ, và hành động theo dục vọng. Đảng cộng sản Trung Quốc, ở trong cái tà giáo mà truyền nhau sự phủ nhận đạo lý Trời và bóp chết nhân tính của Đảng cộng sản, thì vẫn không hề thay đổi.
Ngày nay, Đảng cộng sản Trung Quốc tiếp tục thống trị Trung Quốc với các thủ đoạn đấu tranh tích lũy được qua nhiều năm của Đảng cộng sản, sử dụng hệ thống tổ chức chặt chẽ của chế độ, cộng với hình thức thống trị “phụ thể Đảng”, để tuyên truyền cho cái tà giáo mà được quốc giáo hóa này. Sáu đặc trưng tà giáo của Đảng Cộng sản được nêu ra trên đây, đã đặt Đảng cộng sản Trung Quốc ngày nay chặt chẽ trong định nghĩa của một “tà giáo”: nó không làm gì tốt lành cả, chỉ toàn làm những việc tà ác.
Khi tà giáo Đảng cộng sản này, trên con đường cùng, càng gần với sự diệt vong, thì lại gia tăng tốc độ thối nát và sa đọa của nó. Một điểm đáng sợ nhất chính là nó không cam chịu tà giáo bị diệt vong, mà vẫn cố làm những gì mà nó có thể làm,  để đưa xã hội Trung Quốc rơi cùng xuống một vực thẳm của thối nát và sa đọa.
Người Trung Quốc cần phải tự cứu chính mình, cần phải kiểm điểm lại những gì đã qua, cần phải thoát khỏi Đảng Cộng Sản.

Chú thích
[1] “Con báo đã chết, vẫn còn lưu lại bộ da” được trích từ một quyển sách tiên tri cổ của Trung Quốc, bài thơ Hoa Mai của Shao Yong (1011-1077). Con báo ở đây là để nói đến lãnh thổ của Liên xô cũ trên thực tế trông giống như hình một con báo đang chạy. Với sự sụp đổ của Liên xô cũ, cốt lõi của hệ thống cộng sản đã tan rã, chỉ còn để lại “bộ da” (hình thức) mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thừa kế.
[2] Một lối hợp vũ rất phổ thông trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hoá để bày tỏ lòng trung thành với Mao và với Đảng. Xin xem hình về màn vũ trêm mạng lưới
hay http://www.chinaphotocenter.com/pop-photo/2004-2/2004-2p40-4.jpg.
[3] Hiến pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (bản dịch chính thức, 1999).
 [4] Trích từ “Báo cáo về việc điều tra phong trào nông dân ở Hồ Nam” của Mao (1927).
[5] Trích từ một bài thơ của Tư Mã Thiên ( khoảng 140-87 trước Tây Lịch), một Sử Gia và là một Học Giả vào thời Tây Hán. Bài thơ nổi tiếng của ông ta nói: “Mọi người đều phải chết; có người xem cái chết nhẹ như lông hồng hay nặng hơn núi Thái Sơn.” Núi Thái Sơn là một trong những ngọn núi chính ở Trung Quốc.
[6] Phong Trào Thu Hồi Đất liên quan đến mặt đen tối của cải cách kinh tế của Trung Quốc. Tương tự như cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh (1760-1850), đất nông nghiệp ở Trung Quốc ngày nay đã bị phân bổ để xây dựng các khu vực kinh tế khác nhau ở tất cả các cấp (huyện, thành phố, tỉnh và quốc gia). Kết quả của thu hồi đất là nông dân Trung Quốc đã bị mất đất canh tác. Ở các thành phố, dân cư ở các quận của thị trấn và thành phố cổ thường xuyên bị bắt buộc di dời để lấy đất cho việc phát triển các khu thương mại với đền bù tối thiểu cho dân cư. Muốn tin chi tiết hơn có tại:
http://www.uglychinese.org/enclosure.htm.
[7] Liz Zhao, một sinh viên theo học về nghành báo chí, đã bị chụp mũ là người thiên Hữu trong năm 1957 về sự suy nghĩ độc lập và công khai chỉ trích đảng cộng sản của cô.  Cô đã bị buộc tội âm mưu lật đổ chế độ Cộng Hòa nhân dân độc tài và bị giam giữ năm 1960.  Vào năm 1962, cô đã bị xử án 20 năm tù đày.  Ngày 29 tháng 4 năm 1968, cô đã bị ĐCSTQ tử hình về tội phản cách mạng.
[8] Trương Chí Tân là một người trí thức bị ĐCSTQ tra tấn đến chết trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa vì cô chỉ trích Mao Trạch Đông đã thất bại trong phong trào “- Đại Nhảy Vọt” và cô đã nói thẳng sự thật.  Bọn canh tù đã lột quần áo cô nhiều lần, còng tay cô sau lưng và quăng vào tù của nam giới để cô bị hãm hiếp tập thể cho đến khi cô trở nên điên loạn.  Nhà giam đã cắt cổ cô trước khi xử tử vì sợ cô la lên những khẩu hiệu phản đối.
[9] Nói đến cách mạng tư sản Nga tháng 2/1917 lật đổ ngai vàng của Sa hoàng.
[10] Cách mạng tháng Mười, hay Cách mạng Bôn-sê-vích do Lênin lãnh đạo xảy ra tháng 10/1917. Cuộc cách mạng đã giết chết những người cách mạng của giai cấp tư sản mà đã lật đổ Sa hoàng, bởi đó đã bóp chết cách mạng tư sản Nga.
[11] Cả hai “Sự kiện Mari” và “Vụ thảm sát 12/4” nói đến các vụ tấn công ĐCSTQ của Quốc Dân Đảng. “Sự kiện Mari” xảy ra ngày 21/5/1927 ở thành phố Trường sa của tỉnh Hồ Nam. “Vụ thảm sát 12/4” xảy ra ngày 12/4/1927 ở Thượng Hải. Trong cả hai trường hợp, một số đảng viên ĐCSTQ và những người hoạt động ủng hộ ĐCSTQ bị tấn công, bị bắt hoặc bị giết chết.
[12] Xin xem Hiến Pháp của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Chương Một, Điều Sáu.
[13] Lưu Địch, một chính trị viên của Hồng quân thứ 20 bị buộc tội là thành viên của “AB Đoàn”, lãnh đạo một cuộc cuộc nổi dậy ở Phú Điền buộc tội Lý Thiều Cửu là một người phản cách mạng. Họ cướp quyền kiểm soát thành phố Phú Điền và thả hơn 100 người bị bắt vì “AB Đoàn”, và hô khẩu hiệu “Đả đảo Mao Trạch Đông”.
[14] Bành Đức Hoài (1898-1974): một tướng và lãnh đạo chính trị cộng sản Trung Quốc. Bành là Tư lệnh trưởng trong chiến tranh Triều Tiên, Phó thủ tướng của Hội đồng Quốc Gia, ủy viên Bộ chính trị, và Bộ trưởng quốc phòng từ 1954-1959. Ông ta bị sa thải khỏi các chức vụ của mình sau khi bất đồng với cách tiếp cận kiểu cánh Tả của Mao tại Hội nghị toàn thể Lộc sơn của ĐCSTQ năm 1959.
[15] Từ “Lý Lập Tam: Người được truy điệu bốn lần”.
[16] Bốn nguyên tắc là: con đường xã hội chủ nghĩa, độc tài vô sản, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, và chủ nghĩa Mác-xít – Lê-nin-nít và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN
 

 

No comments:

Post a Comment