BS. NGUYỄN LƯƠNG TUYỀN * NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI
NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI -VIỄN ẢNH MỘT NƯỚC VIỆT THỨ HAI TẠI HẢI NGOẠI, Ở NGOÀI GIẢI ĐẤT HÌNH CHỮ S
BS. NGUYỄN LƯƠNG TUYỀN
Biến cố tháng 4 năm 1975 đã khiến hàng triệu người dân Việt phải rời quê hương để trốn chạy chế độ Cộng Sản , sống ở hầu như khắp mọi nơi trên thế giới tự do. Cuộc chiến do người CSVN gây ra đã khiến hơn 3 triệu người Việt bị chết. Sau bgày 30/4/1975, người Việt vẫn tiếp tục ra đi, từ chối sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản. Đó cũng là một hình thức phủ nhận sự hiện hữu của chế độ phi nhân, man rợ này ở quê hương.Cho tới những năm đầu thập niên 80, số người vượt biên, vượt biển dảm dần dần. Hàng trăm, trăm ngàn người đã bỏ mình trên đường vượt biên. Thảm cảnh vượt biên- boat poeple - đã làm rúng động lương tâm nhân loại.
Một trong những Thống Kê đầu tiên nói về Người Việt Tỵ nạn CS là Thống Kê năm 2001. Theo Thống Kê này, vào thời điểm đó có từ 2 tới 3 triệu người Việt tỵ nạn CS định cư tại các nước tự do. Họ định cư rải rác tại nhiều quốc gia tự do. Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Anh Pháp...là những quốc gia nhận nhiều người tỵ nạn CS định cư
Tây Tạng là hơn 7 triệu người, nhưng gồm đa số là người Hán sang địinh cư. Dân Tây
_ Dân tộc Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương : đa số là người Hồi Giáo. Tân Cương trở thành 1 Đặc Khu
Hình 3 tên đại phản quốc, bán nước ( từ trái qua phải ): Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng và Đỗ Mười
BS. NGUYỄN LƯƠNG TUYỀN
Biến cố tháng 4 năm 1975 đã khiến hàng triệu người dân Việt phải rời quê hương để trốn chạy chế độ Cộng Sản , sống ở hầu như khắp mọi nơi trên thế giới tự do. Cuộc chiến do người CSVN gây ra đã khiến hơn 3 triệu người Việt bị chết. Sau bgày 30/4/1975, người Việt vẫn tiếp tục ra đi, từ chối sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản. Đó cũng là một hình thức phủ nhận sự hiện hữu của chế độ phi nhân, man rợ này ở quê hương.Cho tới những năm đầu thập niên 80, số người vượt biên, vượt biển dảm dần dần. Hàng trăm, trăm ngàn người đã bỏ mình trên đường vượt biên. Thảm cảnh vượt biên- boat poeple - đã làm rúng động lương tâm nhân loại.
Một trong những Thống Kê đầu tiên nói về Người Việt Tỵ nạn CS là Thống Kê năm 2001. Theo Thống Kê này, vào thời điểm đó có từ 2 tới 3 triệu người Việt tỵ nạn CS định cư tại các nước tự do. Họ định cư rải rác tại nhiều quốc gia tự do. Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Anh Pháp...là những quốc gia nhận nhiều người tỵ nạn CS định cư
Ông Lâm Văn Bé và phu nhân
Một vài
cuốn sách viết về Người Việt tỵ nạn CS - rất hiếm hoi - la cuốn Giá Tự
Do với ấn bản tiếng Anh được xuất bản năm 2014 bởi Nhà Xuất Bản Truyền
Thông . Tác giả là Ông Lâm Vĩnh Bình tức ông Lâm Văn Bé. Ông Lâm là một
giới chức cao cấp trong ngành Giáo Dục cũa VN Cộng Hoà trước ngày
30/4/1975. Sách đã được tái bản năm 2015. Theo ông Lâm vĩnh Bình , US
Bureau of Census làm Thống Kê về Người tỵ nạn Việt Nam mỗi 10 năm. Nhưng
giữa 2 lần Thống Kê chánh thức, US Census cũng làm Thống Kê mỗi 1 năm,
mỗi 3 năm và mỗi 5 năm để cập nhật hóa một số dữ kiện
Theo US Census , năm 2015 tại Hoa Kỳ , có 1 710 547 Người Việt Tỵ nạn CSVN định cư ở Hoa Kỳ. Nếu kể cả các con lai đa chủng, con số này sẽ lên đến 1 928 363 người.
Khi chế độ CS xụp đổ ở Nga, ở Đông Âu, một số lớn các
lao động VN được CSVN gửi sang các nước đó làm '' lao nô '' đã vượt
biên giới sang sinh sống tại các nước tữ do. Con số này lên đến 1.4
triệu người kể cả các du học sinh . Theo ông Lâm Vĩnh Bình, chúng ta
phải phân biệt sự khác nhau giữa Người Việt Tỵ nạn Công Sản và đám người
này.
Người Việt Hải Ngoại đã rất thành công trong cuộc sống hội nhập mới. Hàng trăm ngàn chuyên viên kỹ thuật rất có khả năng đã và đang đóng góp tích cực vào quê hương thứ hai . Chính Người Việt tỵ nạn CS - ( bọn đĩ điếm trốn nợ quê hương theo các người Cộng Sản Việt Nam ) - đã cứu nền kinh tế của CSVN khỏi bị xụp đổ vào những năm 80. Cũng chính các '' khúc ruột ngàn dậm '' ( CSVN gọi người tỵ nạn CS bằng ngôn từ mới ) đã gửi về VN hơn 12 tỷ Mỹ Kim mỗi năm .
Người Việt Hải Ngoại đã rất thành công trong cuộc sống hội nhập mới. Hàng trăm ngàn chuyên viên kỹ thuật rất có khả năng đã và đang đóng góp tích cực vào quê hương thứ hai . Chính Người Việt tỵ nạn CS - ( bọn đĩ điếm trốn nợ quê hương theo các người Cộng Sản Việt Nam ) - đã cứu nền kinh tế của CSVN khỏi bị xụp đổ vào những năm 80. Cũng chính các '' khúc ruột ngàn dậm '' ( CSVN gọi người tỵ nạn CS bằng ngôn từ mới ) đã gửi về VN hơn 12 tỷ Mỹ Kim mỗi năm .
Trước Thế
Chiến thứ hai, rất nhiều nước trong đó có VN, bị các Đế Quốc đô hộ ,nên
hoàn toàn mất chủ quyền. Hiện nay vẫn còn vài nước bị đô hộ, dân tộc bị
đồng hóa, bị diệt chủng .
Các nước hiện còn bị đô hộ, đồng hóa; dân tộc bị tiêu diệt bởi các hình thức đế quốc, thực dân :
Các nước hiện còn bị đô hộ, đồng hóa; dân tộc bị tiêu diệt bởi các hình thức đế quốc, thực dân :
Đế quốc Nga đã tan vỡ, các nước trong Liên Bang Sô
Viết cũ đã được hoàn toàn độc lập. Các đế quốc khác như Anh, Pháp, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha.... đã trao trả độc lập cho các thuộc địa cũ. Chỉ
còn một đế quốc duy nhất là Trung Cộng.. TC đang đô hộ, đồng hóa và diệt
chủng từ từ các sắc dân sau đây:
- Tây Tạng , TC chiếm Tây Tạng năm 1952. Văn minh Tây Tạng cũng như các di tích
Học Viện Larung Gar - một chứng tích của văn minhy Tây Tạng - , mặc dù có nhiều sự phản đối cũng như cầu xin đến từ mọi nơi trên thế giới.
Trước khi bị TC chiếm, dân số Tây Tạng khoảng 3 triệu người. Hiện nay số người định cư ở
_ Dân tộc Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương : đa số là người Hồi Giáo. Tân Cương trở thành 1 Đặc Khu
Tàu từ năm 1826. Hiện nay người Duy Ngô Nhĩ chi còn độ 8,3 triệu . Số còn lại của 21 triệu 8
là người Hán đến định cư ở Tân Cương và một số nhỏ các sắc dân khác.
- Nội Mông Cổ là Khu Tự Tri thuộc Trung Hoa từ năm 1947.. Dân Nội Mông Cổ bây giờ là dân
thiểu số trên chính quê hương của họ: 3 triệu 7 versus 21 triệu 7 sau hơn 70 năm bị người Hán đô hộ.
Tham vọng kế tiếp của TC là biến VN thành một Đặc
Khu nằm trong nước Đại Hán. Dân Việt chắc chắn sẽ bị Đại Hán diệt chủng
từ từ.
Những dân tộc đang đi tìm một tổ quốc
Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ thứ 21, nhưng trên
thế giới vẫn còn có những dân tộc vẫn đang tìm, trong tuyệt vọng, một
giải đất dung thân, để họ gọi là Tổ Quốc như:
* những người Arméniens: khoảng hơn 11 triệu. Họ sống rải rác tại nhiều nước trên thế
giới như tại nước Pháp có độ 1/2 triệu người Améniens nhưng đông nhứt là tại vùng Russia Armeny
( khoảng hơn 3 triệu người )
* người Kurdes : khoảng 23 triệu. Họ hiện sống ở vùng biên giới phía Bắc của Irak, Syria, Thổ
Nhĩ Kỳ
* người Palestine. Hiện nay Do Thái đã trao trả cho người Palestine, giải đất Gaza và vùng
West Bande.Tại Gaza có hơn 1 triệu người Palestine định cư trong khi tại vùng West Bande
có độ từ 1 đến 2 triệu. Ngoài ra,người Palestine sống rải rác tại nhiều quốc gia , kể cả Hoa
Kỳ, Gia Nã Đại...... Sau khi có 1 giải đất để làm tổ quốc,các cuộc tấn công của người
Palestine nhắm vào người Do Thái đã giảm thiểu rất nhiều .
Trường hợp dân tộc Do Thái
Lịch sử lập quốc của người Do Thái là một lịch sử đầy
máu và nước mắt cũng như những vinh quang.Dân tộc Do Thái bị phát vãng
khắp nơi. Hơn 6 triệu người Do Thái định cư ở Âu Châu, đã bị Đức Quốc
Xãr tàn sát trong thế chiến thứ 2. Quốc gia Do Thái hiện nay được Liên
Hiệp Quốc cho thành lập tại Trung Đông vào năm 1948, ngay tại một vùng
Đất Thánh của nhiều sắc tộc Ả Rập. Cả nước Israel chỉ rộng độ hơn 20
000km2. ( Trước khi mất Ải Nam Quan và mất một giải đất vùng biên giới
vào tay Trung Hoa, VN có diện tích 330 000 km2, gấp 17 lần nước Do Thái
hiện nay )
Lịch sử tái
hồi nước Do Thái được khởi đầu vào năm 1948 khi Liên Hiệp Quốc dành
giải đất ngay tại vùng Địa Trung Hải để Dân Do Thái có một tổ quốc. Khối
Ả Rập không chấp nhận sự kiện nước Do Thái hiện hữu ở vùng Trung Đông ,
một vùng đầy dân Ả Rập rất bài Do Thái. Nhiều cuộc đại chiến đã xẩy ra
giữa Do Thái và khối Ả Rập. Do Thái đã toàn thắng tất cả các trận chiến ,
đã mở rộng đất đai của nước Israel. Hiện nay dân số của Israel có
khoảng dưới 6 triệu nhưng đại đa số người Do Thái sống ở Hoa Kỳ ( hơn 6
triệu ) Anh, Pháp và Canada và một số nước ở Âu Châu.
Người Do Thái rất thông minh, tài giỏi. Họ luôn luôn hỗ trợ rất tích cực quê hương Israel. Người ta có thể nói không ngoa là lực lượng bảo vệ nước Israel hữu hiệu nhất chính là khối người Do Thái sống ở bên ngoài chính quốc. Họ rất thành công : tại Mỹ, Gia Nã Đại ..Ban Giảng Huấn tại các Đại Học nổi tiếng phần lớn là người Do Thái. Người Do Thái cũng chi phối đời sống chính trị , kinh tế và văn học tại các nước mà họ định cư : Cựu Tổng Thống Pháp Nicolas Sarcozy, Thủ Tướng Pháp ( nay là Ngoại Trưởng ) Laurent Fabius là người gốc Do Thái. Nhiều người Do Thái được giải thưởng Nobel về mọi lãnh vực nhất là khoa học hơn bất kỳ một sắc dân nào trên thế giới. Độ 160 người Do Thái được giải Nobel kể từ ngày giải thưở ng cao quí này được thiết lập ( 1/5 tổng số giải Nobel được trao tặng ), trong khi cả khối người Ả Rập chỉ được trao tặng giải thưởng này có 11 lần.
Người Do Thái rất thông minh, tài giỏi. Họ luôn luôn hỗ trợ rất tích cực quê hương Israel. Người ta có thể nói không ngoa là lực lượng bảo vệ nước Israel hữu hiệu nhất chính là khối người Do Thái sống ở bên ngoài chính quốc. Họ rất thành công : tại Mỹ, Gia Nã Đại ..Ban Giảng Huấn tại các Đại Học nổi tiếng phần lớn là người Do Thái. Người Do Thái cũng chi phối đời sống chính trị , kinh tế và văn học tại các nước mà họ định cư : Cựu Tổng Thống Pháp Nicolas Sarcozy, Thủ Tướng Pháp ( nay là Ngoại Trưởng ) Laurent Fabius là người gốc Do Thái. Nhiều người Do Thái được giải thưởng Nobel về mọi lãnh vực nhất là khoa học hơn bất kỳ một sắc dân nào trên thế giới. Độ 160 người Do Thái được giải Nobel kể từ ngày giải thưở ng cao quí này được thiết lập ( 1/5 tổng số giải Nobel được trao tặng ), trong khi cả khối người Ả Rập chỉ được trao tặng giải thưởng này có 11 lần.
Dù sống ở
bất kỳ ở đâu, họ luôn luôn giữ sắc thái ''Do Thái '' của họ. Có lẽ Tôn
Gíao, Ngôn ngữ, Văn Tự .... là keo sơn thắt chặt người Do Thái ở khắp
mọi nơi trên thế giới với nhau.
Trương hợp Việt Nam
Cũng như
dân tộc Do Thái, Lịch Sử của dân Việt là lịch sử các cuộc chiến để bảo
vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lấn , rồi đồng hóa của Người Tầu ở phương
Bắc. Bị Tầu đô hộ , có khi kéo dài hơn 1000 năm , nhưng dân Việt không
bị đồng hóa hay nói đúng hơn không đồng hóa được.
Khởi thủy , Tổ Tiên của người Việt - nhóm Bách Việt -
cư ngụ ở bên trong nước Tầu, ở vùng Thiểm Tây, Tứ Xuyên, phía Nam sông
Dương Tử. Các nhóm Bách Việt bị người Hán đồng hóa. Chỉ còn một nhóm
chạy xuống lập nghiệp ở phía Nam, ngay tại Châu thổ sông Hồng Ha , là
còn tồn tại, không bị đồng hóa. Họ lập ra nước Văn Lang vào khoảng năm
700 trước Công Nguyên. Đó là khởi thủy lập quốc của Việt Nam. Trong quá
khứ, Tầu đã đô hộ VN nhiều lần. Lần đô hộ lâu nhất kéo dài hơn 1000 năm
nhưng người Tầu không đồng hóa được dân Việt. Tuy vậy văn hóa của Đại
Hán đã ảnh hưởng sâu rộng lên dân Việt.
Trong suốt
chiều dài lịch sử của dân Việt và ngay cả cho đến ngày nay, ý định xâm
lăng, chiếm đóng , để rồi đồng hóa VN, lúc nào cũng ám ảnh người Tầu.
Cơ may cho họ đã đến khi Hồ Chí Minh và Đảng CSVN cầu cứu Tầu viện trợ
về mọi phương diện trong 2 cuộc chiến tranh Đông Dương để áp đặt chế độ
Cộng Sản lên dân tộc .
Thực ra '' cam kết dâng nước Việt cho TC '' đã được
Hồ Chí Minh ký bằng '' lời hứa danh dự '' của Ông Hồ với 2 Đại Tướng TC
Trần Canh, Vi Quốc Thanh , thay mặt cho Mao Trạch Đông, vào năm 1926..
Khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930, Hồ lại xác định một lần
nữa với Thủ Tướng TC Châu Ân Lai : ''Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một nền văn hóa Một phong tục.....''
Hồ đâu có ngờ - hay cố tình giả mù, giả điếc - hay
không biết đến dã tâm của Đại Hán, trong lịch sử, từ cổ chí kim: đó là
sát nhập VN vào nước Trung Hoa.
Bản đồ Trung Hoa vẽ lại năm 1954 tại Bắc Kinh sau khi
Cộng Sản Tầu của Mao Trạch Đông hoàn toàn chiếm cứ nước Tầu, cho thấy
TC vẫn coi VN là 1 phần lãnh thổ của Trung Hoa.
Bản
đồ Đại Hán do Cộng Sản Trung Hoa vẽ năm 1954 tại Bắc Kinh . Theo TC,
nước Tầu bao gồm cả các nước ở Đông Nam Á, Đài Loan, bán đảo Triều Tiên,
tất cả Biển Đông.
Sau
khi CS xụp đổ ở Nga và tại các nước ở Đông Âu, để sống còn, CSVN bèn
quay sang '' lạy lục '' TC để giao hảo lại . Mối giao tình đã trở nên
lạnh nhạt sau cuộc chiến biên giới năm 1979. Nguyễn Văn Linh, người kế
vị Lê Duẩn ( chết năm 1987 ) trong chức vụ Tổng Bí Thư của Đảng CSVN, đã
sang TC nhiều lần để bàn bạc với các thủ lãnh của TC như Đặng Tiểu
Bình, Hồ Diệu Bang để : '' cắt
đất, cắt biển để sau cùng sát nhập VN vào Trung Quốc một cách êm ả qua
chiến thuật : hòa bình , hữu nghị , chầm chậm, êm ả, kín đáo ''
Nguyễn Văn
Linh, Phạm Văn Đồng va Đỗ Mười , đã dấu nhân dân VN để ký với các lãnh
tụ TC một Hiệp Ước bán nước tại Thành Phố Thành Đô nên được họ gọi là
HIÊP ƯỚC THÀNH ĐÔ. Nguyễn Văn Linh nổi tiếng với câu nói để đời trong
lịch sử của dân tộc Việt : '' Tôi biết rằng đi với TQ là mất nước nhưng thà mất nước còn hơn mất Đảng ''
Nội dung của Mật Ước Thành Đô được giữ kín , nhưng
các rò rỉ cho thấy việc sát nhập VN vào nước Đại Hán sẽ qua 3 giai đoạn ,
mỗi giai đoạn 20 năm kể từ năm 2020.
Đỗ Mười
|
Trên thực tế, tới giờ phút này ( cuối tháng 12/2016 ), VN đã bị TC hoàn toàn xâm chiếm mà TC không cần nổ một tiếng súng nào:
* ở vùng biên giới, TC đã chiếm cứ hàng ngàn km2 vùng biên giới. Ải Nam Quan, Thác Bản
Giốc....nay thuộc TC.
* các biển, đảo của VN ( quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như toàn Biển Đông đều bị TC
chiếm cứ.
* người Hán đã có mặt trên toàn cõi VN. Các Đặc Khu Tầu mọc lên như nấm trên quê hương
Việt Nam.
* bên cạnh sự có mặt đông đảo của người Hán tại VN, TC còn '' bao vây '' VN bằng những
gọng kìm hiểm độc khiến VN bị bốn bề thọ địch :
- phía Tây , giòng sông Mekong ,
huyết mạch của sự sống của cả Miền Nam nước
Việt. Họ kiểm soát lưu lượng nước chảy xuống hạ nguồn của giòng sông
khiến miền
châu thổ của sông Cửu Long ở Miền Nam bị muôn
vàn khốn đốn , ảnh hưởng đến sự sống còn của vài
chục triệu người dân Việt.
- Biển Đông bị TC chiếm đóng. Nghề đánh cá cũng như các hoạt động ngư nghiệp
khác của ngư dân ở Miền Trung đang bị Hải Quân của TC cản trở.. Về phương
diện quân sự , Hải Quân TC coi Biển Đông thuộc về TC. Lãnh Hải của VN bị thu hẹp
lại, chỉ còn là một giải nước chật hẹp dọc bờ biển Miền Trung.
Trong nội địa của nước Việt : TC đã gần như chiếm toàn cõi nước Việt bằng kinh
tế , bằng di dân cũng như tàn phá môi trường quê hương cũng để giết hại người
Việt trong ý đồ diệt chủng của họ .bằng các chất độc. Điển hình là vụ Formosa ỡ
Hà Tĩnh đã khiến biển Miền TRung bị triền miên nhiễm độc. 90% các dịch vụ đấu
thầu đều rơi vào tay cá nhà thầu TC. Người ta thấy
đầy chất độc trong các thực phẩm,
các dụng cụ, đồ dùng hàng ngày nhập cảng từ TC . Vụ Formosa là 1 trong
muôn vàn thí dụ TC đang tàn phá môi trường của sự sống ở VN .
Tóm lại cả dân tộc Việt đang bị đầu độc để rồi bị
tiêu diệt từ từ bởi người Đại Hán Người ta tin rằng TC có cả một chiến
dịch để tiêu diệt giòng giống Lạc Hồng như họ đã và đang thi hành ở Tây
Tạng, Tân Cương, Nội Mông ....Dân số 90 triệu của VN sẽ còn lại độ bao
nhiêu sau vài chục năm Hán thuộc ?
Việt Nam ngày nay: sau gần 1 thế kỷ Xã Hội Chủ Nghĩa
Hai cuộc
chiến tranh tàn hại trên nước VN do Hồ Chí Minh và Đảng CSVN gây ra chỉ
để nhuộm đỏ toàn nước Việt theo lệnh của CS Quốc Tế . Đó không phải là
cuộc chiến giải phóng như CSVN thường tuyên truyền . Hậu quả của 2 cuộc
chiến đó là :
* khoảng trên dưới 3 triệu người bị thiệt mạng
* quê hương bị tàn phá , tan nát không bút nào tả xiết vì '' chiến tranh giải phóng '' của các
đồng chí CSVN.
* người Việt bỏ xứ ra đi . Các hiểm nguy trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do không
làm họ sờn lòng. Hàng triệu người đã bỏ mạng trên đường vượt thoát chế độ CS bất nhân,
bạo tàn. Thiên hùng ca ''vượt biên, vượt biển '' đã kéo dài hàng chục năm nhất là 5-6 năm
đầu
sau ngày định mạng 30/4/1975. Trong lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ
người dân lại phải bỏ quê hương, đi tha phương cầu thực đông như vậy,
mặc dù quê hương đã im tiếng súng
Hàng triệu người đã chết tức tưởi trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do, rời bỏ
''thiên đường '' Cộng Sản. Hàng triệu, triệu gia
đình tan nát, chia lìa... vì cuộc chiến - mộtcuộc chiến vô ích, không
cần thiết chỉ nhằm thiết lập một chế độ man rợ, đi ngược lạ lương tâm
con người bình thường.
* năm 1975, ngay sau khi chiếm được Miền Nam, CSVN đã hành sử như những quân ăncướp , thổ phỉ đến từ một nước ngoại quốc . Họ đã ăn cướp bằng đủ loại chiến dịch nhưđổi tiền, đánh tư sản, tịch thu các cơ sở thương mại kỹ nghệ của Miền Nam.... Quân CS
* năm 1975, ngay sau khi chiếm được Miền Nam, CSVN đã hành sử như những quân ăncướp , thổ phỉ đến từ một nước ngoại quốc . Họ đã ăn cướp bằng đủ loại chiến dịch nhưđổi tiền, đánh tư sản, tịch thu các cơ sở thương mại kỹ nghệ của Miền Nam.... Quân CS
đến từ Miền Bắc quả là những tên ăn cướp, như những tên thổ phỉ đang bị đói, thiếu ăn,
đến từ một nước khác. Quả thực '' cuộc giải phóng ''
miền Nam của quân Bắc Viện Cộng Sản quả là một cuộc xâm lăng theo
đúng nghĩa của 2 chữ này. CSVN đã lập ra những nhà tù trên khắp nước để cầm tù khổ sai trên 1 triệu Quân , Cán, Chính của Miền Nam.
* Văn hóa CS đã được ông Hồ và các đồng chí của ông trong Đảng CS xâm nhập bằng võ
lực sắt máu để bắt người dân phải theo. Đó là một nền văn hóa của nói dối, của lường
gạt , chỉ tạo ra những kẻ ăn cắp ăn cướp giết người không gớm tay. Tất cả chỉ để tận
diệt một nền văn hóa tiến bộ dung hòa giữa văn
hóa Tây Phương và văn hóa cổ truyềcủa dân Việt * hậu quả của gần 100
năm dưới chế độ CS,, xã hội VN là xã hội của ăn cắp, ăn cướp : ăn
cắp từ trên xuống dưới. Quan lớc CS ăn cắp lớn, quan nhỏ ăn cắp nhỏ. Người Việt đượ nổi tiếng vì ăn cắp trên thế giới vì khi ra ngoại quốc hay đi ăncắp. Ngày nào các cơ
quan truyền thông cũng loan tin các vụ ăn cắp, ăn cướp, các hành động cướp của giết
người không gớm tay cũng như các vụ đâm chém nhau hàng loạt hầu như xẩy ra mỗi
ngày. Con người trở nên hoàn toàn vô cảm trước các tệ đoan xã hội, vô cảm hơn bao giờ
hết. Vô cảm ngay đối với đại hoạ mất nước đang từ từ xẩy ra cho quê hương.
CSVN đang hủy hoại hoàn toàn không thương tiếc đất nước yêu quí này
* CSVN , với lực lượng Công An, Cảnh Sát khổng lồ đang bắt cả dân tộc làm con tin cho Chủ
* CSVN , với lực lượng Công An, Cảnh Sát khổng lồ đang bắt cả dân tộc làm con tin cho Chủ
Nghĩa Cộng Sản. Người dân bị cấm doán , không được nói lên tiếng nói yêu quê hương
của mình. Nền giáo dục, Y Tế đang bị hoàn toàn phá sản. Trong khi đó CSVN cố ru ngủ
dân chúng bằng các chương trình văn nghệ giải trí, ăn chơi . Một số văn nghệ sĩ ở hải
ngoại , đã tạm quên hay cố quên hẳn những ngs2y vượt
biên, vượt biển đầy gian quên cái quá khứ tỵ nạn, để về VN tiếp tay
cho CS để tiếp tục hành hạ dân tộc.
* Sau hơn 40 năm '' thống nhứt đất nước '', nền giáo dục CS chỉ sản xuất thật nhiều kẻ
cắp. Người dân Việt, khi ra khỏi đất nước du lịch hay vì công vụ, đều bị người bản xứ
khinh khi vì người Việt hay ăn cắp . Đó là một sự thực sau nửa thế kỷ Cộng Sản trên quê hương.
Người Việt tại Hải Ngoại: nguồn hy vọng độc nhứt cho dân tộc Việt.
Khối người
Việt tại Hải ngoại ( bọn '' đĩ điếm '' của ngày nào theo các đồng chí
CSVN ) đã rất thành công trong non một nửa thế kỷ. Khả năng kinh tế, tài
chánh của 3 triệu Việt Kiều ( theo Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc kiêm Ủy
Viên Bộ Chính Trị Nguyễn Thiện Nhân thì con số người Việt sống ở nước
ngoài lên đến 4 triệu rưỡi ) hơn hẳn khả năng kinh tế của hơn 90 triệu
người tại quê hương VN. Số lượng các chuyên viên kỹ thuật, tài chánh
vv...... có thừa khả năng thay thế các đồng chí để điều khiển cả quốc
gia với hơn 90 triệu người như VN hiện nay. Người Việt Tỵ nạn CS, tại
khắp mọi nơi trên thế giới tự do, đã thành công trong mọi lãnh vực, hòa
nhịp vào đời sống của xã hội mà họ được nhận vào định cư. Hoa mắt
trước những thành công của Người Việt Hải Ngoại, chóa mắt vì những ''
đồng dollars '' của '' bọi đĩ điếm , bọn trốn nợ quê hương của ngày nào
'' , các đồng chí CSVN bèn đổi ngay thái đô, chuyển sang ve vãn các
Người Việt đã từng là nạn nhân của các đồng chí, bằng tất cả các '' mỹ
từ '' để gọi các người đã bị '' các đồng chí '' làm cho khốn khổ '' khi
còn ở quê nhà.
Khối
Người Việt Hải ngoại là nguồn hy vọng :
- cho sự sống còn của giòng giống Lạc Hồng.
- cho việc duy trì và phát triển văn hóa của giống nòi Việt. Trong khi đó tại quê nhà, văn hóa cổ
truyền của dân Việt từ ngàn xưa bị Cộng Sản Việt Nam thay thế dần dần bằng văn hóa Mác
Xít - Lênin , văn hóa của nói dối, lường gạt, văn hóa của ăn cắp.
- cho sự sống còn của quê hương trước sự xâm lăng của người Tầu từ phương Bắc. Các người
cầm đầu của Đảng CSVN đang hiến dâng quê hương cho kẻ thù truyền kiếp. Mọi biểu lộ công
khai lòng yêu nước đều bị CSVN cấm đoán,đàn áp dã man
Ngay từ những ngày bắt đầu cuộc sống ly hương chạy
trốn chế độ Cộng Sản, Người Việt , được định cư tai các nước tự do trên
quả địa cầu, đã tìm về sống gần bên nhau, những mong tìm được hơi ấm của
tình đồng hương . Hô lập ra các Cộng Đồng Người Việt. Tại rất nhiều
nơi, với sự giúp đỡ của các chính quyền sở tại, các Cộng Đồng Người Việt
với lá cờ vàng ba sọc đỏ được chánh thức nhìn nhận là các đại diện cho
tập thể Việt Kiều Quốc Gia, không Cộng Sản. Tại bất kỳ ở đâu, một Ban
Đại Diện của Cộng Đồng được thành lập một cách dân chủ tự do .
Nhiệm vụ của các người lãnh đạo Cộng Đồng là giúp các đồng bào ổn định cuộc sống đồng thời duy trì và phát triển Cộng Đồng, gìn giữ và phát triển nền văn hóa dân tộc. CSVN tìm mọi cách xâm nhập các CĐ Việt ở Hải Ngoại để phá hoại nhưng cho tới bây giờ họ vẫn không thành cộng. Trong số hàng trăm Tổ chức Cộng Đồng Việt ở Hải Ngoại, không có một Tổ Chức Cộng Đồng nào trở thành một Cộng Đồng thân Cộng hay có những hành động cổ động cho chế độ phi nhân Cộng Sản. Các nhân vật CS đặt chân tới các CĐ Hải Ngoại đều bị đồng bào tẩy chay. Thậm chí tại nhiều nơi có đông đảo người gốc Việt định cư, các thành phần CS còn bị cấm cửa, không cho đặt chân tới.
Nhiệm vụ của các người lãnh đạo Cộng Đồng là giúp các đồng bào ổn định cuộc sống đồng thời duy trì và phát triển Cộng Đồng, gìn giữ và phát triển nền văn hóa dân tộc. CSVN tìm mọi cách xâm nhập các CĐ Việt ở Hải Ngoại để phá hoại nhưng cho tới bây giờ họ vẫn không thành cộng. Trong số hàng trăm Tổ chức Cộng Đồng Việt ở Hải Ngoại, không có một Tổ Chức Cộng Đồng nào trở thành một Cộng Đồng thân Cộng hay có những hành động cổ động cho chế độ phi nhân Cộng Sản. Các nhân vật CS đặt chân tới các CĐ Hải Ngoại đều bị đồng bào tẩy chay. Thậm chí tại nhiều nơi có đông đảo người gốc Việt định cư, các thành phần CS còn bị cấm cửa, không cho đặt chân tới.
Các Cộng
Đồng Người Việt tỵ nạn Cộng Sản đã thành lập ra một nước Việt thứ hai ở
ngoài giải đất hình chữ S. Giải đất này đang dần dần mất vào tay ngoại
bang với sự tiếp tay đắc lực của những người Cộng Sản Việt Nam.
Để tạo thành một quốc gia, ta cần nhiều yếu tố như :
- lãnh thổ
- dân tộc
- một chánh quyền
- ............................
Ngoài ra yếu tố văn hóa cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng.
Người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở Hải Ngoại có đầy đủ những yếu tố này để tạo thành một nước Việt Nam khác, hoàn toàn ở Hải Ngoại,
Lãnh thổ
Hiện nay với các phương tiện giao thông hiện đại, các
phương tiện thông tin cực ky tối tân, con người đã có mạt tại khắp mọi
nơi. Biên giới quốc gia bị thu nhỏ lại. Ta có quyền gọi một nơi nào đó
trên thế giới là lãnh thổ của dân Việt bất cứ nơi nào có Cộng Đồng Việt
sinh sống
Dân tộc
Bất cứ một Công Đồng Việt tỵ nạn CS trên thế giới cũng là một phần của dân tộc. Thật đúng như người CSVN đang rêu rao : người tỵ nạn là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt. Không ngờ người CSVN lại đồng thuận với ''một'' quan niệm , một cái nhìn về nước Việt của Người Việt Quốc Gia về quê hương.
Chánh quyền
Tại các
Cộng Đồng Việt tỵ nạn Cộng Sản trên khắp thế giới, những người lãnh đạo
của Cộng Đồng chính là một hình thức chánh quyền. Chánh quyền này được
bầu ra một cách hết sức dân chủ. Chánh quyền này được dân chúng bầu ra
để thực sự phục vụ Cộng Đồng . Không phải một loại ''chánh quyền của
Đảng CS, được Đảng đặt ra , theo kiểu Đảng cử dân bẩu - không qua một
cuộc bầu cử dân chủ và công bằng tối thiểu nào.
Các Cộng Đồng Người Việt di tản tại Hải Ngoại càng
ngày càng vững vàng và hùng mạnh đầy khả năng, an cư lạc nghiệp trong
một xã hội mới.
Giai đoạn an cư lạc nghiệp của Người Việt Hải Ngoại đã đầy thàng công rực rỡ. Chỉ trong có vài chục năm, Người Việt , nạn nhân của Cộng Sản, sống ở Hải Ngoại đã có mặt và thành công rực rỡ trên mọi lãnh vực của đời sống, ngay cả trong lãnh vực chánh trị, khiến người CSVN vô cùng thèm muốn , pha lẫn ganh tỵ.
Giai đoạn an cư lạc nghiệp của Người Việt Hải Ngoại đã đầy thàng công rực rỡ. Chỉ trong có vài chục năm, Người Việt , nạn nhân của Cộng Sản, sống ở Hải Ngoại đã có mặt và thành công rực rỡ trên mọi lãnh vực của đời sống, ngay cả trong lãnh vực chánh trị, khiến người CSVN vô cùng thèm muốn , pha lẫn ganh tỵ.
Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn của phát triển và hội nhập hoàn toàn.
Hơn lúc nào hết, vì tương lai của sự sống còn của giòng giồng Việt,
tương lai của văn hóa của giòng giống Lạc Hồng, các Cộng Đồng Việt tại
khắp nơi trên thế giới sẽ phải hướng các hoạt động của tập thể Việt vào
các lãnh vực này. Nước Việt ở ngoài quê hương ở Bán đảo Đông Dương sẽ
là một nước hùng mạnh, có khả năng lấy lại quê hương đag bị CSVN và CS
Trung Quốc dầy xéo.
Khối Người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở ngoài nước Việt đã
hình thành một Tổ Quốc Việt Nam hùng mạnh, đầy khả năng trong khi quê cũ
đang bị mất dần về tay Trung Cộng . Dĩ nhiên Đảng Cộng Sản Việt Nam là
những kẻ đồng loã tiếp tay cho ngoại bang ở phương Bắc..
Người Việt
Hải Ngoại đã thành công, bảo vệ lý tưởng quốc gia tại bất cứ nơi nào họ
lập nghiệp. CSVN không thể xâm nhập vào các CĐ Việt để phá hoại. Một vài
hoạt động chống CS đã gây được tiếng vang không những trong tập thể
Người Việt tại khắp mọi nơ trên thế giới mà còn đạt được sự ngưỡng mộ và
thán phục tại nhiều quốc gia có người Việt tỵ nạn CS lập nghiệp như :
- phá vỡ huyền thoại Hồ Chí Minh khiến y không được Liên Hiệp Quốc vinh danh là vĩ nhân của
- phá vỡ huyền thoại Hồ Chí Minh khiến y không được Liên Hiệp Quốc vinh danh là vĩ nhân của
thế giới
- ngày 11/5 mỗi năm được Quốc Hội Hoa Kỳ xác định là Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam
- cờ vàng ba sọc đỏ đã được nhiều Tiểu Bang của Hoa Kỳ, Gia Nã Đại .......công nhận là cờ của tập thể người Việt tỵ nạn Cộng Sản.
- nhiều nơi ở Hoa Kỳ đã cấm nhân viên CSVN đặt chân
tới cũng như mọi hình thức tuyên truyềnnhư cờ đỏ..... đều bị cấm bằng
các đạo luật do Quốc Hội sở tại ban hành
- nhiều người Việt trở thành Quan Toàn Quyền, Bộ
Tưởng Nghị Sĩ , các khoa học gia tại các ĐH nổi tiếng. Nhiều Tướng Tá
gốc Việt đã và đang chiến đấu trong Quân Đội Hoa Kỳ, Quân Đội Úc, Quân
Đội Gia Nã Đại......
Nhiệm vụ
của mỗi Người Việt tỵ nạn CS là phải tiếp nối những người đi trước trong
công cuộc bảo vệ, duy trì giòng giống Việt. Chỉ có Nước Việt tại Hải
Ngoại mới có khả năng , ý chí cũng như khát vọng bảo tồn và phát huy
văn hóa Việt, một nền văn hóa đang bị CS tiêu diệt để giúp ngoại bang
mau chóng đô hộ quê hương, diệt chủng giống Lạc Hồng.
Phát triển bền vững Cộng Đồng để tạo nên sức mạnh cần thiết cho việc quang phục quê hương để giải cứu giống bòi.
CSVN
đã tàn phá quê hương , giết người hàng loạt trong vòng gần 100 năm để
rồi họ dâng đất nước cho ngoại bang ở phương Bắc. Cuộc diệt chủng nhắm
vào người Việt của TC đã và đang được tiến hành ( như họ đã và đang làm
tại Tây Tạng, Tân Cương, Nôi Mông Cổ ) trong khi đó CSVN đã làm tê liệt
sức đối kháng , làm thui chột lòng yêu nước của toàn dân ở trong nước.
Chỉ còn Người Việt ở Hải Ngoại là nguồn hy vọng độc nhứt của giống nòi.
Cuộc kháng chiến để cứu quê hương, cứu giòng giống Lạc Hồng mới chỉ
được bắt đầu. XIN MỜI BẠN ! !
Montreal, CANADA
( 12/2016 )
Tuesday, January 3, 2017
NGUYỄN THỊ TỪ HUY* VIỆT CỘNG ĐỘC TÀI
Nền chính trị độc tài Việt Nam còn tồn tại dài lâu ? (I)
Thứ Năm, 12/29/2016 - 11:46 — nguyenthituhuy
Trong những ngày cuối cùng này của năm 2016, nhìn vào tình hình chính trị Việt Nam có thể nói gì ?
Tôi tạm đưa ra đây ba cách nhìn nhận khác nhau, đúc kết từ sự quan sát cá nhân của tôi về các ý kiến lưu hành trong dư luận xã hội (opinion publique) : 1/ Chế độ chính trị hiện hành còn tồn tại lâu dài, 2/ Đảng cộng sản sẽ tự chuyển hoá để tự bảo tồn và để tiếp tục lãnh đạo dân tộc, 3/ Chế độ độc tài cộng sản sẽ nhanh chóng sụp đổ.
Nguyễn Thị Từ Huy
Tôi tạm đưa ra đây ba cách nhìn nhận khác nhau, đúc kết từ sự quan sát cá nhân của tôi về các ý kiến lưu hành trong dư luận xã hội (opinion publique) : 1/ Chế độ chính trị hiện hành còn tồn tại lâu dài, 2/ Đảng cộng sản sẽ tự chuyển hoá để tự bảo tồn và để tiếp tục lãnh đạo dân tộc, 3/ Chế độ độc tài cộng sản sẽ nhanh chóng sụp đổ.
Xin nói rõ, đây là sự tổng kết về các cách nhìn nhận đang tồn tại trong
dư luận xã hội mà tôi trình bày lại dưới hình thức điểm tình hình, mỗi
quan niệm sẽ được phân tích trong một bài riêng, để tiện theo dõi.
Bài đầu tiên này giới thiệu quan niệm cho rằng chế độ chính trị hiện hành ở Việt Nam còn tồn tại lâu dài.
Có thể xếp những người nhìn nhận theo cách này vào hai nhóm : 1/ Nhóm
thứ nhất gồm các lãnh đạo cộng sản và các chuyên gia lý luận cao cấp của
đảng cộng sản. 2/Nhóm thứ hai gồm những người bi quan về chính trị. Mỗi
nhóm đều có căn cứ và lập luận riêng của mình.
1. Trong số các lãnh đạo cộng sản đang cố tìm mọi cách để duy trì chế
độ, không ít người chỉ vì lợi ích cá nhân. Tuy nhiên (dù điều này có thể
gây ngạc nhiên) cũng có những người muốn duy trì chế độ vì bản thân chế
độ, cái chế độ mà họ coi như là « cái bình quý », nếu mượn lại hình ảnh
ẩn dụ của Tổng bí thư. Số người này có thể là rất ít, nhưng vẫn tồn tại
ở Việt Nam, vậy đó !!!
« Hy vọng » về sự trường tồn của chế độ được duy trì, một phần là nhờ
công lao to lớn của các nhà lý luận cao cấp của đảng. Hồi tháng 3 năm
2016, trong hội thảo « Viet Nam : Après le 12e congrès du PCV, rupture ou continuité ? » (Việt Nam : sau đại hội 12 của Đảng cộng sản Việt Nam, từ bỏ hay tiếp tục ?)
do Quỹ Gabriel Péri tổ chức tại Paris, Giáo sư Vũ Minh Giang có phát
biểu với một xác tín không gì lay chuyển được : « chừng nào dân tộc còn
tồn tại thì đảng còn tồn tại, đảng sẽ trường tồn cùng dân tộc ». Cần
phải thừa nhận rằng, các chuyên gia lý luận cao cấp của đảng đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong việc củng cố sự «kiên định » chủ nghĩa
Marx-Lê Nin và con đường xã hội chủ nghĩa nơi các lãnh đạo Việt Nam
đương nhiệm. (Đến đây mở ngoặc để thêm vào một bình luận cá nhân : nếu
các chuyên gia cao cấp như ông Vũ Minh Giang có cái nhìn biện chứng hơn
và thực tế hơn một chút thì có lẽ viên thuốc ngủ mà các ông cung cấp cho
đảng sẽ ít ngọt ngào hơn, và đảng sẽ tỉnh táo hơn).
Dựa vào đâu để có thể nghĩ rằng chế độ sẽ trường tồn ? Dưới đây là một
vài dẫn chứng và lập luận mà các chuyên gia lý luận cộng sản và các lãnh
đạo cộng sản sử dụng để chứng minh cho vai trò lãnh đạo không thể thay
thế của đảng và biện minh cho con đường mà họ lựa chọn :
- Chính là với chủ nghĩa cộng sản và với sự lãnh đạo của đảng cộng sản
mà Việt Nam đã thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, đã tự giải phóng khỏi
vị thế thuộc địa và giành độc lập, đã giành thắng lợi trong hai cuộc
chiến tranh.
- Giai đoạn đổi mới bắt đầu từ 1986 đã chứng tỏ khả năng thay đổi và
thích ứng với tình hình của đảng cộng sản Việt Nam, và vì thế mà ĐCSVN
xứng đáng giữ vai trò lãnh đạo, dù có được dân thực sự bầu hay không.
Thành tựu của ba mươi năm đổi mới là mở cửa kinh tế mà vẫn ổn định và
giữ vững chính trị.
- Nếu đổi mới lần một thành công, thì đổi mới lần hai, tính từ thời điểm
này, cũng sẽ thành công, dù có nhiều khó khăn. Và vì thế, ĐCSVN sẽ tiếp
tục giữ vai trò lãnh đạo để củng cố hệ thống chính trị hiện hành.
Những lập luận và dẫn chứng trên đây được phản ánh đầy đủ trong nghị quyết Trung ương Đảng.
2. Những người thuộc nhóm bi quan chính trị cũng nhìn nhận rằng chính
trị Việt Nam còn rất lâu mới có thể thay đổi. Tuy nhiên, dẫn chứng và
lập luận của họ khác hẳn nhóm thứ nhất. Sau đây là một số điểm khiến họ
bi quan :
- Quyền lực của ĐCSVN hiện đang rất vững chắc. Toàn bộ các công cụ quyền
lực đều nằm trong tay ĐCSVN : nhà nước, công an, quân đội, truyền
thông, giáo dục, pháp luật…
- Với bộ máy quyền lực đó, sự đàn áp không ngừng gia tăng trong những năm qua.
- Phong trào dân chủ quá yếu. Hoạt động chủ yếu vẫn chỉ là truyền thông,
đưa tin, tố cáo. Các tổ chức và đảng phái chính trị không hình thành
được. Xã hội dân sự manh mún, các tổ chức không có thực lực, không tập
hợp được với nhau, luôn trong tình trạng chia rẽ. Không có các phong
trào chính trị rộng lớn.
- Số người quan tâm chính trị quá ít. Đa số trí thức và người dân, kể cả
thanh niên (là tầng lớp vốn được xem là giàu nhiệt huyết và lý tưởng)
chỉ quan tâm đến vấn đề mưu sinh.
- Các quốc gia, kể cả các quốc gia dân chủ, vì lợi ích của nước họ, sẵn
sàng hợp tác với Việt Nam và bỏ qua vấn đề nhân quyền, vấn đề dân chủ.
Đây là điều đã khiến cho nhiều người trong giới đấu tranh dân chủ ở Việt
Nam không che giấu sự thất vọng của mình : Tổng thống Mỹ Obama, trong
chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5/2016, một mặt vừa phát biểu rằng sẽ tôn
trọng thể chế chính trị Việt Nam, mặt khác đã không thể làm gì trước
những vi phạm nhân quyền thô bạo diễn ra ngay trong chính những ngày ông
có mặt tại Việt Nam. Sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế hay văn
hoá, nghịch lý thay, lại là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại của chế độ
chính trị độc tài ở Việt Nam. Đây là điều gây thất vọng và gây bi quan
một cách sâu sắc.
- Đa số các trí thức Việt Nam ở nước ngoài (tạm dùng chữ trí thức Việt
kiều theo nghĩa tôn trọng) không tham gia vào cuộc đấu tranh cho dân
chủ, vì họ muốn hợp tác với chính quyền, và họ hy vọng rằng sẽ giúp cho
Việt Nam thay đổi và phát triển thông qua sự hợp tác của họ (hợp tác để
mở một viện nghiên cứu, một trường đại học, một trung tâm hội thảo…).
Tuy nhiên, nếu đối diện với thực tế thì cần phải thừa nhận điều này : sự
hợp tác sẽ chỉ có ý nghĩa tích cực khi mà họ được độc lập hoạt động
theo các tiêu chí của sự tiến bộ, theo các tiêu chí công bằng, công
khai, minh bạch, trung thực, hay xây dựng một môi trường học thuật, môi
trường giảng dạy trong sạch, như họ mong muốn. Và các tiêu chí tiến bộ
ấy được áp dụng, được lan toả trong xã hội. Còn trong trường hợp ngược
lại, sự hợp tác buộc họ phải tuân thủ những « luật ngầm, bất thành văn »
của chế độ, thì chẳng những họ sẽ không thực hiện được mong muốn phát
triển và làm thay đổi Việt Nam, mà tệ hơn, họ sẽ góp phần vào việc củng
cố chế độ bất công và thối nát hiện tại. Danh tiếng của họ, uy tín khoa
học và uy tín cá nhân của họ, lại được sử dụng như những phương tiện để
đánh bóng và tô vẽ cho bề ngoài của một hệ thống chính trị đang mục rữa
cùng cực từ bên trong. Tóm lại, trong trường hợp này, sự hợp tác của họ
sẽ giúp chế độ độc tài hiện hành tồn tại lâu dài hơn, và các vấn đề mà
họ muốn giải quyết thì lại không thể giải quyết được, bởi vì những vấn
đề ấy chỉ có thể được giải quyết trong một chế độ chính trị dân chủ.Tóm
lại, có những lý do khiến cho ĐCSVN lạc quan về sự tồn tại của mình
(nhưng sự tồn tại của đảng có thể sẽ phải gắn liền với sự huỷ hoại chung
của dân tộc), và khiến cho những người yếm thế cảm thấy bi quan.
Paris, 29/12/2016Nguyễn Thị Từ Huy
Nền chính trị độc tài Việt Nam còn tồn tại dài lâu ? (II)
Thứ Sáu, 12/30/2016 - 18:39 — nguyenthituhuy
Có những người mong muốn thể chế chính trị Việt Nam được cải cách một
cách căn bản để chuyển đổi sang một cơ chế dân chủ, tạo điều kiện cho sự
phát triển, bởi vì cơ chế độc tài hiện hành đang kìm hãm phát triển và
là nguyên nhân của hầu như tất cả các vấn nạn xã hội. Tuy nhiên, bộ phận
này mong muốn đảng cộng sản cải tổ để có thể tiếp tục giữ vai trò lãnh
đạo, để tiếp tục là « đảng của dân tộc », theo như cách nói của họ.
Những người thuộc nhóm này có lẽ không nhiều, họ là những đảng viên kỳ
cựu hoặc là « đảng viên có lương tri », cho đến giờ phút này vẫn ở trong
đảng, dù rằng họ nhìn thấy rất rõ sự suy thoái của đảng, và nhìn thấy
rất rõ trách nhiệm của đảng đối với các vấn đề hiện tại mà đất nước và
nhân dân phải gánh chịu. Họ đã viết nhiều đơn thư, kiến nghị, nhằm góp ý
cho đảng trong hy vọng rằng tiếng nói của họ sẽ có một ảnh hưởng nhất
định.
Xin dẫn một ví dụ, ông Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, trong loạt bài "Về đại hội XII" của ĐCSVN, có đoạn viết:
« Đảng hôm nay tiếp tục tha hóa về phẩm chất, trí tuệ và năng lực; tổ chức của đảng ngày càng bất cập trước sự phát triển, trước tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước nói chung và của đảng nói riêng; năng lực lãnh đạo của đảng ngày càng mờ nhạt vì bế tắc về quan điểm đường lối; hệ quả là đảng đang rơi tiếp trong xu thế từ một đảng lãnh đạo xuống thành một lực lượng chính trị độc quyền.
Toàn bộ tình hình trên đặt ra đòi hỏi sống còn: Cải cách thể chế chính trị và triệt để đổi mới đảng là lối thoát duy nhất để đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển năng động mới, đáp ứng đòi hỏi cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời để có thực lực đối mặt được với mọi thách thức mới. »
Có thể thấy, những kiến nghị mà ông Nguyễn Trung đưa ra trong loạt bài này, một mặt, nhằm đề xuất những cải tổ cơ bản về cơ chế chính trị, và những cải tổ này, nếu thực hiện được, sẽ củng cố vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Ngoài ra nếu đọc các đơn thư, kiến nghị của nhóm đảng viên trong đó có ông Nguyễn Trung, ông Nguyễn Trọng Vĩnh, ông Tương Lai... thì thấy rằng họ rất thống nhất ở quan điểm này. Và đó là một quan điểm đầy thiện chí đối với ĐCSVN.
Tuy nhiên, đảng không hiểu thiện chí của bộ phận đảng viên này đối với đảng. Trong Nghị quyết trung ương 4, khoá XII, do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016, có dành một phần nội dung quan trọng để định nghĩa các biểu hiện « tự diễn biến », « tự chuyển hoá » trong nội bộ, các biểu hiện khiến cho Tổng bí thư phải lo ngại và đảng phải cương quyết chống lại. Trích nguyên văn :
3. Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ
1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
Đọc phần định nghĩa về các biểu hiện « tự diễn biến » trong nội bộ đảng, thì có thể thấy rằng đảng không những từ chối các góp ý mang tính xây dựng của nhóm đảng viên có tâm huyết với đất nước và với đảng, mà còn xếp họ vào loại đã « tự chuyển hoá » mà đảng cần phải chống cho bằng được.
Vấn đề là, ngoài nhóm đảng viên vẫn hay viết kiến nghị, nếu còn có một bộ phận khác trong đảng cũng nghĩ như vậy, nhưng không nói ra một cách công khai, thì nỗi lo lắng của Tổng bí thư lại là một dấu hiệu cho thấy nhu cầu cải cách là một nhu cầu nội tại, một nhu cầu đến từ bên trong nội bộ ĐCSVN. Nếu nhu cầu cải cách này là có thật ở một bộ phận trong đảng hiện đang nắm các chức vụ quyền lực, thì có thể hy vọng một ngày nào đó, sự cải cách sẽ được hiện thực hoá.
Nhưng nếu bản Nghị quyết trung ương 4 không chỉ thể hiện ý chí của riêng Tổng bí thư, mà thể hiện ý chí của toàn thể Bộ Chính trị và toàn đảng, thì có thể nói rất khó có hy vọng cải cách, và, mượn cách nói của ông Nguyễn Trung, đảng sẽ lại tiếp tục tha hoá.
Paris, 31/12/2016
Nguyễn Thị Từ Huy
Xin dẫn một ví dụ, ông Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, trong loạt bài "Về đại hội XII" của ĐCSVN, có đoạn viết:
« Đảng hôm nay tiếp tục tha hóa về phẩm chất, trí tuệ và năng lực; tổ chức của đảng ngày càng bất cập trước sự phát triển, trước tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước nói chung và của đảng nói riêng; năng lực lãnh đạo của đảng ngày càng mờ nhạt vì bế tắc về quan điểm đường lối; hệ quả là đảng đang rơi tiếp trong xu thế từ một đảng lãnh đạo xuống thành một lực lượng chính trị độc quyền.
Toàn bộ tình hình trên đặt ra đòi hỏi sống còn: Cải cách thể chế chính trị và triệt để đổi mới đảng là lối thoát duy nhất để đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển năng động mới, đáp ứng đòi hỏi cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời để có thực lực đối mặt được với mọi thách thức mới. »
Có thể thấy, những kiến nghị mà ông Nguyễn Trung đưa ra trong loạt bài này, một mặt, nhằm đề xuất những cải tổ cơ bản về cơ chế chính trị, và những cải tổ này, nếu thực hiện được, sẽ củng cố vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Ngoài ra nếu đọc các đơn thư, kiến nghị của nhóm đảng viên trong đó có ông Nguyễn Trung, ông Nguyễn Trọng Vĩnh, ông Tương Lai... thì thấy rằng họ rất thống nhất ở quan điểm này. Và đó là một quan điểm đầy thiện chí đối với ĐCSVN.
Tuy nhiên, đảng không hiểu thiện chí của bộ phận đảng viên này đối với đảng. Trong Nghị quyết trung ương 4, khoá XII, do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016, có dành một phần nội dung quan trọng để định nghĩa các biểu hiện « tự diễn biến », « tự chuyển hoá » trong nội bộ, các biểu hiện khiến cho Tổng bí thư phải lo ngại và đảng phải cương quyết chống lại. Trích nguyên văn :
3. Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ
1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
Đọc phần định nghĩa về các biểu hiện « tự diễn biến » trong nội bộ đảng, thì có thể thấy rằng đảng không những từ chối các góp ý mang tính xây dựng của nhóm đảng viên có tâm huyết với đất nước và với đảng, mà còn xếp họ vào loại đã « tự chuyển hoá » mà đảng cần phải chống cho bằng được.
Vấn đề là, ngoài nhóm đảng viên vẫn hay viết kiến nghị, nếu còn có một bộ phận khác trong đảng cũng nghĩ như vậy, nhưng không nói ra một cách công khai, thì nỗi lo lắng của Tổng bí thư lại là một dấu hiệu cho thấy nhu cầu cải cách là một nhu cầu nội tại, một nhu cầu đến từ bên trong nội bộ ĐCSVN. Nếu nhu cầu cải cách này là có thật ở một bộ phận trong đảng hiện đang nắm các chức vụ quyền lực, thì có thể hy vọng một ngày nào đó, sự cải cách sẽ được hiện thực hoá.
Nhưng nếu bản Nghị quyết trung ương 4 không chỉ thể hiện ý chí của riêng Tổng bí thư, mà thể hiện ý chí của toàn thể Bộ Chính trị và toàn đảng, thì có thể nói rất khó có hy vọng cải cách, và, mượn cách nói của ông Nguyễn Trung, đảng sẽ lại tiếp tục tha hoá.
Paris, 31/12/2016
Nguyễn Thị Từ Huy
No comments:
Post a Comment