NS TUẤN KHANH * CHUYỆN KỂ
Chuyện kể (như đùa) nhân 17-2
Đêm trước đó, ngày 16, tôi ghé lên Đà Lạt và gọi nhà thơ Nguyễn Tấn Cứ ra tán gẫu. Anh Cứ uống bia, còn tôi ăn phở và uống cafe. Mọi thứ thật bình an và tẻ nhạt vì khắp nơi lúc đó - hiện trên facebook - là những lời kêu gọi và tuyên bố sẽ tham gia tuần hành kỷ niệm ngày Cộng sản Trung Quốc tấn công biên giới Việt Nam. Một cuộc chiến tranh đẫm máu dân lành từ chủ trương giết tất diệt tận của "người anh em" Bắc Kinh.
Thời sự sôi động lan sang cuộc trò chuyện văn nghệ của chúng tôi. Ở đâu, lúc nào, người ta cũng có thể nghĩ về quê hương mình và cái ác của chế độ cộng sản, phải không?
Trước khi chia tay, chúng tôi chụp tấm ảnh lưu niệm. Hẹn nhau mai gặp lại, để cùng xem tin tức, để biết ngày 17-2 đó là chỉ riêng của nhân dân hay may mắn là của chính quyền và nhân dân.
Anh Cứ post tấm ảnh kỷ niệm đó trước giờ đi về, nhà ai nấy về ngủ, mà anh Cứ gọi đùa là giờ G. Anh viết trên facebook "ngồi với nhau trước giờ G".
Sáng sớm hôm sau, ngày 17-2, khi trời còn mờ sương. Nhà của anh Cứ có tiếng đập cửa dồn dập. Hơn chục người, cả công an, mật vụ, dân phòng, uỷ ban, tổ dân phố... đứng đầy trước cửa nhà anh Cứ và đòi kiểm tra hộ khẩu. Nhà chức trách nghĩ tôi ngủ lại nhà anh Cứ nên muốn "bắt tận tay, day tận mặt".
Phần mình, tôi dạo sớm ở chợ Đà Lạt và bất ngờ thấy xe môtô 113, công an, dân phòng rãi rác một cách bất thường. Khi gặp nhau cafe sáng, tôi và anh Cứ kể lại cho nhau nghe, và bật cười - cười khẩy.
Hoá ra an ninh theo dõi Facebook của anh Cứ và lo rằng anh ấy và tôi sẽ làm một cái gì đó, cam kết cùng nhau trước giờ G nào đó. Có thể là một giờ G, mà tất cà người dân đều mang trong mình lời nguyện cầu bí ẩn khiến mọi thế lực bạo ác khi đối diện thật sự, chỉ còn là tro bụi.
Ngày 17-2 năm nay. Chúng tôi lại chụp bức ảnh mô phỏng ngày ấy. Và cùng cười.
Chúng tôi - dù có mỏi mòn - nhưng vẫn còn đó. Sự rình rập của bộ máy toàn trị thì cũng vẫn còn đó. Nhưng hôm nay, con người Việt Nam và nhận thức đã khác, đã mới mẻ và quyết liệt hơn. Bạn có nhận ra sự đổi thay đó?
Đính kèm | Dung lượng |
---|---|
16681795_10154362925278181_2795820726029450477_n (1).jpg |
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cường Quyền & Nhân Sĩ
Với tất cả trân trọng và thương cảm, nhà văn Ngô Thế Vinh vừa
gửi đến cho mọi người một tin buồn lớn: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã
từ trần vào hôm 29 tháng 1 năm 2017.
Ông để lại một sự nghiệp đồ sộ, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam (gồm 6 quyển, hai tập) với lời đề tặng:
Những trang viết kế tiếp của nhà văn Ngô Thế Vinh, với nhiều dòng chữ nghẹn ngào, đã giúp cho tôi lý giải những câu hỏi vừa nêu:
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925 hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ 4 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây...
Chỉ trong vòng 9 năm [1966 - 1975] với công lao xây dựng của hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại Học Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL...
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng như GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần lễ thì chính quyền Miền Nam xụp đổ, TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa ra Bắc ... đã chết trong tù cải tạo Hà Nam Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Tôi đã có lần nhìn thấy tấm ảnh chụp bia thờ 626 linh hồn tử vong (từ năm 1975 đến năm 1988) của trại tù này, trên trang web của blogger Phạm Thanh Nghiên.
Có lẽ tên tuổi của giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng được ghi trên tấm bia này vì ông từ trần vào năm 1986, thời điểm mà giới truyền thông nhà nước vẫn xưng tụng (không tiếc lời) về sự “dũng cảm nhìn vào sự thực” và “quyết tâm đổi mới của ĐCSVN.
Nếu “dũng cảm nhìn vào sự thực” thì đây chỉ là sự quyết tâm “bẻ lái con tầu đất nước” theo hướng Trung Nam Hải – như nhận xét và cảnh báo của blogger Trần Huỳnh Duy Thức:
Trung Quốc và Việt Nam tạo ra một phiên bản khác về sự vi phạm tính toàn vẹn của các quyền con người. Hai nước này đã thừa nhận quyền kinh tế cho người dân nhưng vẫn tước đoạt không khoan nhượng quyền chính trị của họ, gây nên một kiểu tự do què quặt khác. Mặc dù mô hình này có thể tạo nên sự tiến bộ kinh tế và các thành tích ấn tượng về xóa đói giảm nghèo, nhưng nó cũng đồng thời nuôi dưỡng bất bình và suy thoái xã hội rồi nhốt chúng lại.
Khi sự trầm trọng này trở nên mục rỗng thì nó sẽ dẫn tới việc bộ máy chính trị tự dân chủ hóa hoặc sẽ kết thúc trong sụp đổ toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị và một chế độ bị lật nhào. Đây là tiến trình tất yếu vì nó phá vỡ sự toàn vẹn của các quyền con người vốn thuộc về luật của Tạo hóa. Dưới tác động của toàn cầu hóa và xã hội Internet, tiến trình này sẽ diễn biến rất nhanh, nhanh hơn đã từng chứng kiến trong thời gian chiến tranh lạnh dẫn đến sự tan rã của hệ thống Đông Âu và Liên Xô.
Lời cảnh báo này, tiếc thay, đã bị những người đứng đầu chế độ hiện hành coi như là một “lời nguyền” hay “trù ẻo.” Tuy mang tiếng là theo chủ nghĩa duy vật nhưng họ lại là những kẻ rất dị đoan. Vốn bệnh tật nên họ sợ “tiếng cú,” và đã vu vạ cho Trần Huỳnh Duy Thức đủ loại tội danh (trộm cắp cước điện thoại, hoạt động chính trị nhằm lật đổ chính quyền) cùng một bản án nặng nề –16 năm tù và 5 năm quản chế, vào ngày 20 tháng 1 năm 2010 – qua một phiên toà mà đại diện của Hội Ân Xá Quốc Tế đã mô tả như là “sự nhạo báng công lý.”
Hơn bẩy năm đã trôi qua nhưng chưa bao giờ người tù nhân lương tâm quả cảm này bị công luận lãng quên. Ông vẫn luôn được nhắc đến với rất nhiều trân trọng, qúi mến, cùng quan ngại:
Ông để lại một sự nghiệp đồ sộ, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam (gồm 6 quyển, hai tập) với lời đề tặng:
- Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
- Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
- Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào.
Những trang viết kế tiếp của nhà văn Ngô Thế Vinh, với nhiều dòng chữ nghẹn ngào, đã giúp cho tôi lý giải những câu hỏi vừa nêu:
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925 hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ 4 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây...
Chỉ trong vòng 9 năm [1966 - 1975] với công lao xây dựng của hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại Học Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL...
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng như GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần lễ thì chính quyền Miền Nam xụp đổ, TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa ra Bắc ... đã chết trong tù cải tạo Hà Nam Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Tôi đã có lần nhìn thấy tấm ảnh chụp bia thờ 626 linh hồn tử vong (từ năm 1975 đến năm 1988) của trại tù này, trên trang web của blogger Phạm Thanh Nghiên.
Có lẽ tên tuổi của giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng được ghi trên tấm bia này vì ông từ trần vào năm 1986, thời điểm mà giới truyền thông nhà nước vẫn xưng tụng (không tiếc lời) về sự “dũng cảm nhìn vào sự thực” và “quyết tâm đổi mới của ĐCSVN.
Nếu “dũng cảm nhìn vào sự thực” thì đây chỉ là sự quyết tâm “bẻ lái con tầu đất nước” theo hướng Trung Nam Hải – như nhận xét và cảnh báo của blogger Trần Huỳnh Duy Thức:
Trung Quốc và Việt Nam tạo ra một phiên bản khác về sự vi phạm tính toàn vẹn của các quyền con người. Hai nước này đã thừa nhận quyền kinh tế cho người dân nhưng vẫn tước đoạt không khoan nhượng quyền chính trị của họ, gây nên một kiểu tự do què quặt khác. Mặc dù mô hình này có thể tạo nên sự tiến bộ kinh tế và các thành tích ấn tượng về xóa đói giảm nghèo, nhưng nó cũng đồng thời nuôi dưỡng bất bình và suy thoái xã hội rồi nhốt chúng lại.
Khi sự trầm trọng này trở nên mục rỗng thì nó sẽ dẫn tới việc bộ máy chính trị tự dân chủ hóa hoặc sẽ kết thúc trong sụp đổ toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị và một chế độ bị lật nhào. Đây là tiến trình tất yếu vì nó phá vỡ sự toàn vẹn của các quyền con người vốn thuộc về luật của Tạo hóa. Dưới tác động của toàn cầu hóa và xã hội Internet, tiến trình này sẽ diễn biến rất nhanh, nhanh hơn đã từng chứng kiến trong thời gian chiến tranh lạnh dẫn đến sự tan rã của hệ thống Đông Âu và Liên Xô.
Lời cảnh báo này, tiếc thay, đã bị những người đứng đầu chế độ hiện hành coi như là một “lời nguyền” hay “trù ẻo.” Tuy mang tiếng là theo chủ nghĩa duy vật nhưng họ lại là những kẻ rất dị đoan. Vốn bệnh tật nên họ sợ “tiếng cú,” và đã vu vạ cho Trần Huỳnh Duy Thức đủ loại tội danh (trộm cắp cước điện thoại, hoạt động chính trị nhằm lật đổ chính quyền) cùng một bản án nặng nề –16 năm tù và 5 năm quản chế, vào ngày 20 tháng 1 năm 2010 – qua một phiên toà mà đại diện của Hội Ân Xá Quốc Tế đã mô tả như là “sự nhạo báng công lý.”
Hơn bẩy năm đã trôi qua nhưng chưa bao giờ người tù nhân lương tâm quả cảm này bị công luận lãng quên. Ông vẫn luôn được nhắc đến với rất nhiều trân trọng, qúi mến, cùng quan ngại:
- BBC (21/01/2010) Người Có Án Nặng Nhất Nói Bị Bức Cung
- BBC (21/01/2010) Các Nhóm Nhân Quyền Chỉ Trích Bản Án
- RFI (30/01/2010) Bốn Nhà Bất Đồng Chính Kiến Ở Việt Nam Kháng Án
- Bauxite VN (14/06/2013) Duy Thức Đã Không Ngủ Suốt 10 Ngày Biệt Giam
- RFA (15/10/2013) Trần Huỳnh Duy Thức Được Vinh Danh Giải Nhân Quyền
- RFA (07/05/2016) Tù Nhân Trần Huỳnh Duy Thức Bị Chuyển Trại Giam
- BBC (17/05/2016) Ông Trần Huỳnh Duy Thức Sẽ Tuyệt Thực
- Ba Sàm (28/05/2016) Trí Thức Tuyệt Thực Cùng Trần Huỳnh Duy Thức
- VOA (31/01/2017) Ông Thức Nhất Quyết Không Lưu Vong
Tôi chưa bao có cái hân hạnh được giao tiếp với ông Trần Huỳnh
Duy Thức. Tôi chỉ được biết người tù nhân lương tâm bất khuất
này qua công luận. Và công luận thì đã vạch rõ sự ác độc và
tính man rợ của những kẻ đứng đầu chế độ công an trị hiện
hành. Họ đã gây ra không biết bao nhiêu là cái chết đớn đau và
oan khuất:
Những người bị giết đều là những tinh hoa, là danh sĩ đạo cao đức
trọng, yêu nước thương dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho
nền văn hiến nước nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách đau xót và hàm oan:
Nhà văn Lan Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố bị bức cho
treo cổ tự vẫn, Khái Hưng bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ đáng
gờm của thực dân Pháp bị xử tử, Tạ Thu Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn;
nàng thơ nữ sĩ Thu Hồng bị bắn lén từ sau lưng; Nhượng Tống dịch giả tài
hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng Hàm vị giáo sư đáng kính ra khỏi nhà đi
mãi không về; vị bồ tát Thiều Chửu bị bức hại nhảy xuống sông tự tận...
Đó là tất cả sự thực về những cái chết tức tưởi oan khuất của các
nhà văn, nhân sĩ mà bọn gieo ác vẫn sống nhởn nhơ trên pháp luật với bộ
mặt người lương thiện! Nguyên tắc bất di bất dịch nằm trong ý thức hệ tư
tưởng của những kẻ sát nhân lương thiện này là: yêu nước và chính kiến
là độc quyền của tao, mày không đi với tao, mày là kẻ thù của tao. Đã là
kẻ thù thì mày không có quyền tồn tại! (“Thái Doãn Hiểu – Những Cái Chết Tức Tưởi Của Nhà Văn, Chuyện Bây Giờ Mới Kể”).
Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố, Khái Hưng, Dương Quảng Hàm sinh vào cuối thế
kỷ XIX. Lan Khai, Thu Hồng, Nhượng Tống, Nguyễn Duy Xuân sinh vào
đầu thế kỷ XX. Kể từ khi cướp được quyền bính đến nay, những
người cộng sản Việt Nam đã giết chết bao nhiêu là anh tài và
nhân sĩ (thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau) rồi?
Chúng ta bắt buộc phải luôn quan ngại (và canh thức) về sinh
mệnh của Trần Huỳnh Duy Thức, cùng hàng trăm tù nhân lương tâm
khác, đang nằm trong vòng tay của cường quyền và bạo lực!NGUYỄN THIÊN THỤ * ĐẤU TRANH GIAI CẤP
ĐẤU TRANH GIAI CẤP
NGUYỄN THIÊN THỤ
I. CHỦ THUYẾT MARXMarx cho rằng giai cấp là nguyên nhân của mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử, và cuộc đấu tranh này đưa đến một đổi thay tốt đẹp hoặc cả hai bị tiêu diệt. Ông cho rằng lịch sử có hai giai cấp là giai cấp áp bức và giai cấp bị áp bức, hai giai cấp này đấu tranh với nhau. Vào thời ông xuất hiện hai giai cấp đấu tranh với nhau là giai cấp tư bản và giai cấp vô sản.
Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội là thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau (TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN * I.1).
II. GIAI CẤP LÀ GÌ?
Những ngôi nhà Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều ngôi nhà trên thế
giới, thường có thềm, có từng bậc từ thấp lên cao, từ cao xuống thấp.
Hình ảnh cái thềm là ý nghĩa giai cấp. Giai cấp xã hội là những
thứ bậc cao thấp trong xã hội. Theo Wikipedia, giai cấp xã hội đề cập
đến các thứ bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người
trong các xã hội hoặc các nền văn hóa. Các sử gia và các nhà xã hội học
coi giai cấp là phổ quát (là sự phổ biến), mặc dù những điều xác định
giai cấp là rất khác nhau từ xã hội này đến xã hội khác. Thậm chí ngay
cả trong một xã hội, các cá nhân khác nhau hoặc những nhóm người khác
nhau cũng có rất nhiều ý tưởng khác nhau về những điều gì làm nên thứ
bậc cao hay thấp trong trật tự xã hội.
Nhìn chung, những người cùng địa vị, cùng có gia sản tương đương. . .
là cùng một một giai cấp. Nhưng đó là cách nhìn đơn giản. Nếu như ta
chấp nhận rằng xã hội cổ Á Đông chia ra bốn giai cấp sĩ, nông , công
thương thì không phải các sĩ, các thương đều cùng một giai cấp. Cổ nhân
nói:"Của ba loài, người ba đứng", nghĩa là xã hội rất khác biệt. Thật vậy. Ngay trong giai cấp sĩ phu, ta đã có thể thấy ba loại:
-Hiển nho : làm quan
-Hàn nho: nho sinh nghèo
-Ẩn nho: nho sĩ ẩn dật.
Trong hiển nho cũng có nhiều hạng. Hạng nhất phẩm cho đến hạng cửu phẩm có cả thảy 18 bậc. Nếu chia theo trung nịnh, tốt xấu, thiện ác. . . thì lại còn phức tạp hơn.
Theo Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
-Hiển nho : làm quan
-Hàn nho: nho sinh nghèo
-Ẩn nho: nho sĩ ẩn dật.
Trong hiển nho cũng có nhiều hạng. Hạng nhất phẩm cho đến hạng cửu phẩm có cả thảy 18 bậc. Nếu chia theo trung nịnh, tốt xấu, thiện ác. . . thì lại còn phức tạp hơn.
Theo Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Sự khác biệt giai cấp là do nhiều yếu tố: giáo dục, gia đình, nghề
nghiệp, địa vị, ngôn ngữ, tín ngưỡng, chủng tộc. . .Người ta thường
chia xã hội ra ba giai cấp chính là giai cấp thương lưu, giai cấp trung
lưu và giai cấp hạ lưu. Người ta còn chia ra nhiều giai cấp như giai
cấp trung lưu bậc cao, trung lưu bậc trung và trung lưu bậc hạ. Tại Ấn
Độ, thời đức Phật tại thế, xã hội Ấn Độ chia ra bốn giai cấp : giai cấp
tăng lữ (Brahmins or priests ), giai cấp quý tộc (Kshatriyas or rulers
and warriors ), giai cấp công thương (The Vaishyas or business people
and originally farmers) và giai cấp nô lệ (The Shudras or common
laborers).
Bốn giai cấp này chỉ là quan niệm theo tôn giáo. Có kẻ thuộc giai cấp quý tộc mà rất nghèo khổ cũng như tại Việt Nam ta, một số các ông tôn thất rất nghèo.".
Nhà văn bị cộng sản xem là trọng tội đứng đầu (Trí phú địa hào) nhưng nhà văn Việt Nam đa số là khốn khổ. Hàn Mặc Tử kêu:
"Trời hỡi làm sao cho khỏi đói"
Còn Nguyễn Vỹ than:"Nhà văn An Nam khổ như chó"
Ấy mà cộng sản lại bạc đãi, hành hạ trí thức và Mao bảo "Trí thức không bằng cục phân."
Bốn giai cấp này chỉ là quan niệm theo tôn giáo. Có kẻ thuộc giai cấp quý tộc mà rất nghèo khổ cũng như tại Việt Nam ta, một số các ông tôn thất rất nghèo.".
Ra đường cậu ấm, ông Chiêu,
Về nhà móng tay mỏ sẻ cạy niêu đã mòn. Nhà văn bị cộng sản xem là trọng tội đứng đầu (Trí phú địa hào) nhưng nhà văn Việt Nam đa số là khốn khổ. Hàn Mặc Tử kêu:
"Trời hỡi làm sao cho khỏi đói"
Còn Nguyễn Vỹ than:"Nhà văn An Nam khổ như chó"
Ấy mà cộng sản lại bạc đãi, hành hạ trí thức và Mao bảo "Trí thức không bằng cục phân."
Điều này cho thấy quan niệm giai cấp của cộng sản là hồ đồ!
Người ta chia xã hội Anh, Mỹ ra ba giai cấp, là thượng lưu, trung lưu và hạ lưu:
+thượng lưu: gồm các nhà tư bản, có tài sản lớn, hoặc được hưởng tài sàn, có đặc quyền, đặc lợi và không cần phải làm việc.
+ trung lưu:chiếm đa số, gồm những người chuyên nghiệp, kỹ nghệ gia, thương gia, chủ tiệm. . .
+ hạ lưu: nông dân và thợ thuyền các loại.
Nhưng đó là cách chia đơn giản.
Tại Anh quốc, sau đệ nhị thế chiến nảy sinh nhiều giai cấp như là giai cấp thượng lưu, trung lưu và và hạ lưu, giai cấp thợ thuyền có kỹ xão, thợ thuyền không kỹ xão cùng giai cấp nông dân. Rồi còn hạng trẻ con lao động khoảng 14 tuổi, rời ghế nhà trường để mưu sinh, và trẻ con thượng lưu, được đi học, và vào đại học. Xe cộ, trường học, các rạp hát đều có những phân biệt giai cấp. Nhưng chính phủ Anh đã có những biện pháp làm giảm hố ngăn cách trong xã hội như là công bằng về y tế, giáo dục, thuế má. . .
Theo Wikipedia, ngày nay, người ta chia ra tám giai cấp trong xã hội Anh Quốc:
1. Thượng lưu: Những gia đình quý phái, nói với giọng đặc biệt, học các trường danh tiếng như Eton, Harrow, Winchester.
2. Trung lưu bậc cao: các chuyên gia, kỹ nghệ gia, thương gia, tốt nghiệp đại học.
3. Trung lưu bậc trung: những người chuyên môn, thương gia tốt nghiệp đại học nhưng gốc gác kém hơn nhưng lợi tức cao hơn trung bình.
4.Trung lưu bậc hạ: Có thể không tốt nghiệp đai học nhưng làm văn phòng.
5. Lao động bậc cao: Không tốt nghiệp đại học, nhưng có tay nghề và kinh nghiệm như đốc công, thợ mộc, thợ nề, thợ điện, lái tàu. . .
6. Lao động: Học thức it, có chút tay nghề, làm việc như xây cất, kỹ nghệ, khoan, ráp máy móc..
7. Lao động bậc hạ: như nghề quét dọn, bán hàng quán. . .
8. Bậc cuối: ăn trợ cấp xã hội.
Tuy nhiên có nhiều cách phân chia giai cấp do nhiều nhà xã hội có quan điểm khác nhau. Nhìn chung, giai cấp thường là chỉ một số người có địa vị và tài sản giống nhau, và trong xã hội có nhiều giai cấp. Lại nữa, sự phân chia nào cũng chỉ là tương đối. Ông kỹ sư, sinh viên tốt nghiệp đại học là trung lưu nhưng có khi thất nghiệp phải xin trợ cấp xã hội, thành ra đứng bậc cuối nấc thang xã hội.
Nếu nói chơi hay viết văn làm báo viết sao cũng được, còn khi đưa vào pháp luật thì phải rõ ràng, chứ không phải lập tòa án nhân dân, kết tội không cần chứng cớ cụ thể, và do bà Sáu, ông Năm là dân i tờ ngồi ghế chánh án như kiểu cộng sản.
+thượng lưu: gồm các nhà tư bản, có tài sản lớn, hoặc được hưởng tài sàn, có đặc quyền, đặc lợi và không cần phải làm việc.
+ trung lưu:chiếm đa số, gồm những người chuyên nghiệp, kỹ nghệ gia, thương gia, chủ tiệm. . .
+ hạ lưu: nông dân và thợ thuyền các loại.
Nhưng đó là cách chia đơn giản.
Tại Anh quốc, sau đệ nhị thế chiến nảy sinh nhiều giai cấp như là giai cấp thượng lưu, trung lưu và và hạ lưu, giai cấp thợ thuyền có kỹ xão, thợ thuyền không kỹ xão cùng giai cấp nông dân. Rồi còn hạng trẻ con lao động khoảng 14 tuổi, rời ghế nhà trường để mưu sinh, và trẻ con thượng lưu, được đi học, và vào đại học. Xe cộ, trường học, các rạp hát đều có những phân biệt giai cấp. Nhưng chính phủ Anh đã có những biện pháp làm giảm hố ngăn cách trong xã hội như là công bằng về y tế, giáo dục, thuế má. . .
Theo Wikipedia, ngày nay, người ta chia ra tám giai cấp trong xã hội Anh Quốc:
1. Thượng lưu: Những gia đình quý phái, nói với giọng đặc biệt, học các trường danh tiếng như Eton, Harrow, Winchester.
2. Trung lưu bậc cao: các chuyên gia, kỹ nghệ gia, thương gia, tốt nghiệp đại học.
3. Trung lưu bậc trung: những người chuyên môn, thương gia tốt nghiệp đại học nhưng gốc gác kém hơn nhưng lợi tức cao hơn trung bình.
4.Trung lưu bậc hạ: Có thể không tốt nghiệp đai học nhưng làm văn phòng.
5. Lao động bậc cao: Không tốt nghiệp đại học, nhưng có tay nghề và kinh nghiệm như đốc công, thợ mộc, thợ nề, thợ điện, lái tàu. . .
6. Lao động: Học thức it, có chút tay nghề, làm việc như xây cất, kỹ nghệ, khoan, ráp máy móc..
7. Lao động bậc hạ: như nghề quét dọn, bán hàng quán. . .
8. Bậc cuối: ăn trợ cấp xã hội.
Tuy nhiên có nhiều cách phân chia giai cấp do nhiều nhà xã hội có quan điểm khác nhau. Nhìn chung, giai cấp thường là chỉ một số người có địa vị và tài sản giống nhau, và trong xã hội có nhiều giai cấp. Lại nữa, sự phân chia nào cũng chỉ là tương đối. Ông kỹ sư, sinh viên tốt nghiệp đại học là trung lưu nhưng có khi thất nghiệp phải xin trợ cấp xã hội, thành ra đứng bậc cuối nấc thang xã hội.
Nếu nói chơi hay viết văn làm báo viết sao cũng được, còn khi đưa vào pháp luật thì phải rõ ràng, chứ không phải lập tòa án nhân dân, kết tội không cần chứng cớ cụ thể, và do bà Sáu, ông Năm là dân i tờ ngồi ghế chánh án như kiểu cộng sản.
Một số triết gia và nhà xã hội học cho rằng chủ nghĩa Marx chia xã hội thành ba giai cấp chính:
-Tiểu tư sản: làm chủ phương tiện sản xuất, họ làm cho họ, không thuê nhân công.
-Vô sản hay lao động: không có phương tiện sản xuất, bán sức lao động để sống.
-Tư sản hay tư bản: làm chủ phương tiện sản xuất, mua sức lao động của công nhân.
III. PHẢI CHĂNG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI LÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP? -Tiểu tư sản: làm chủ phương tiện sản xuất, họ làm cho họ, không thuê nhân công.
-Vô sản hay lao động: không có phương tiện sản xuất, bán sức lao động để sống.
-Tư sản hay tư bản: làm chủ phương tiện sản xuất, mua sức lao động của công nhân.
Từ khi khai thiên lập địa con người chưa có giai cấp . Chúng ta
có thể nói ban sơ, xã hội con người cũng giống xã hội loài vật không có
giai cấp.
Nếu có sự phân chia là phân chia giới tính, già trẻ và mạnh yếu. Ở đây có sự tranh đấu giữa mạnh và yếu là chính. Cọng thêm nữa là đấu tranh giữa thiện và ác. Phải sau khi thành lập cộng đồng, tạo lập xã hội, lúc đó mới có giai cấp trên dưới, kẻ cai trị, người bị trị. Nhưng sau giai đoạn này, tất cả cuộc chiến đều không chỉ là đấu tranh giai cấp. Anh em tranh đấu nhau, cha con xâu xé nhau, bộ lạc mạnh ức hiếp bộ lạc yếu, nước lớn chiếm nước nhỏ không phải là đấu tranh giai cấp. Cuộc thánh chiến thời trung cổ không phải là đấu tranh giai cấp.
Napoléon và Hitler chiếm các nước, là cuộc chiến tranh giữa nước mạnh và nước yếu, không phải là đấu tranh giai cấp. Hai họ Trịnh Nguyễn đánh nhau là cuộc đấu tranh của hai vị chúa, của hai giòng họ, không phải đấu tranh giai cấp. Cuộc chiến giữa Liên Xô và Trung Quốc trước đây về biên giới , và cuộc chiến Việt Trung năm 1979 , và việc Việt Nam đánh Cao Miên không có phải là cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư bản và vô sản mà là cuộc chiến tranh giữa hai đồng chí anh em cùng thuộc giai cấp vô sản. Nguỳễn Duy có câu thơ châm biếm về cuộc chiến Việt Trung:
A. Q. túm tóc Chí Phèo
Để hai bác lính nhà nghèo cùng thua (Lạng sơn 1989)
Lenin giết cộng đảng Mensheviks, Stalin giết hàng ngàn đại biểu quốc hội và tướng lãnh Hồng quân Liên Xô đau phải là vô sản giết tư sản?
Nếu có sự phân chia là phân chia giới tính, già trẻ và mạnh yếu. Ở đây có sự tranh đấu giữa mạnh và yếu là chính. Cọng thêm nữa là đấu tranh giữa thiện và ác. Phải sau khi thành lập cộng đồng, tạo lập xã hội, lúc đó mới có giai cấp trên dưới, kẻ cai trị, người bị trị. Nhưng sau giai đoạn này, tất cả cuộc chiến đều không chỉ là đấu tranh giai cấp. Anh em tranh đấu nhau, cha con xâu xé nhau, bộ lạc mạnh ức hiếp bộ lạc yếu, nước lớn chiếm nước nhỏ không phải là đấu tranh giai cấp. Cuộc thánh chiến thời trung cổ không phải là đấu tranh giai cấp.
Napoléon và Hitler chiếm các nước, là cuộc chiến tranh giữa nước mạnh và nước yếu, không phải là đấu tranh giai cấp. Hai họ Trịnh Nguyễn đánh nhau là cuộc đấu tranh của hai vị chúa, của hai giòng họ, không phải đấu tranh giai cấp. Cuộc chiến giữa Liên Xô và Trung Quốc trước đây về biên giới , và cuộc chiến Việt Trung năm 1979 , và việc Việt Nam đánh Cao Miên không có phải là cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư bản và vô sản mà là cuộc chiến tranh giữa hai đồng chí anh em cùng thuộc giai cấp vô sản. Nguỳễn Duy có câu thơ châm biếm về cuộc chiến Việt Trung:
A. Q. túm tóc Chí Phèo
Để hai bác lính nhà nghèo cùng thua (Lạng sơn 1989)
Lenin giết cộng đảng Mensheviks, Stalin giết hàng ngàn đại biểu quốc hội và tướng lãnh Hồng quân Liên Xô đau phải là vô sản giết tư sản?
Như vậy lịch sử nhân loại có nhiều cuộc đấu tranh không phải chỉ là đấu tranh giai cấp.
IV. TẠI VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC CÓ GIAI CẤP TƯ BẢN VÀ VÔ SẢN KHÔNG?
Trong thời Pháp đô hộ, giai cấp tư sản Việt Nam rất hiếm hoi. Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, tư bản Pháp đầu tư kiếm lợi nhuận vì nhân công Việt Nam rẻ. Pháp chỉ coi Việt Nam là nơi tiêu thụ hàng hóa cho nên công nghiệp không phát triển. Bên cạnh Pháp, có người Trung Quốc chiếm giữ vai trò quan trọng trong lãnh vực thương mãi hơn là công nghệ. Tại Bắc Kỳ có Bạch Thái Bưởi nhưng rồi cũng thất bại. Tại Nam Kỳ có bốn cự phú "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định" nhưng chúng ta không rõ có mấy ông là tư bản.
Nói chung, tư bản nước ta chưa phát triển. Còn về giai cấp công nhân, lực lương cũng non yếu. Theo Đào Duy Anh, lực lượng thợ thuyền Việt Nam thời Pháp có khoảng 150 ngàn (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, 68). Theo Nguyễn Thế Anh , lực lượng thợ thuyền có khoảng 200 ngàn kể cả trẻ con. Ông cho ta số liệu như sau:
Nguyễn Thế Anh cho rằng những con số trên chỉ có một giá trị tương đối: chúng chỉ bao gồm số công nhân được dùng trong các xí nghiệp tư bản Pháp chứ không kể đến số người làm việc trong những xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi hay nông nghệ Hoa kiều hay của người Việt, chúng lại không bao gồm các công nhân giao thông. hầu hết là phu bắt ở các đia phương, trả theo công nhật. Mặt khác, đa số công nhân không phải là thợ chuyên nghiệp, mà chỉ làm phu, làm thợ theo từng giai đoạn mà thôi. ( Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, 1970, 256).
Lúc bấy giờ dân số Việt Nam là 20 triệu.
Theo như tài liệu Nguyễn Thế Anh, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm
khoảng 1% dân số. Nếu tính theo Marx và Engels, nghĩa là loại bỏ công
nhân nông nghiệp, công nhân thương mại, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ
có khoảng 100 ngàn mà thôi, tức là chiếm tỷ lệ 0,5% dân số .
Giai cấp công nhân Nga và Trung Quốc có lẽ cũng tương tự.Ngay tại Nga
và Trung Quốc đều chưa có giai cấp tư sản và vô sản như Marx quan niệm.
Và cuộc khởi nghĩa tháng 10 Nga là do toàn dân, lực lượng chủ yếu là
trí thức và nông dân nổi dậy lật đổ Nga hoàng chứ không phải là cách
mạng vô sản vùng lên tiêu diệt tư sản như Marx mong muốn.Trong thời Pháp đô hộ, giai cấp tư sản Việt Nam rất hiếm hoi. Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, tư bản Pháp đầu tư kiếm lợi nhuận vì nhân công Việt Nam rẻ. Pháp chỉ coi Việt Nam là nơi tiêu thụ hàng hóa cho nên công nghiệp không phát triển. Bên cạnh Pháp, có người Trung Quốc chiếm giữ vai trò quan trọng trong lãnh vực thương mãi hơn là công nghệ. Tại Bắc Kỳ có Bạch Thái Bưởi nhưng rồi cũng thất bại. Tại Nam Kỳ có bốn cự phú "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định" nhưng chúng ta không rõ có mấy ông là tư bản.
Nói chung, tư bản nước ta chưa phát triển. Còn về giai cấp công nhân, lực lương cũng non yếu. Theo Đào Duy Anh, lực lượng thợ thuyền Việt Nam thời Pháp có khoảng 150 ngàn (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, 68). Theo Nguyễn Thế Anh , lực lượng thợ thuyền có khoảng 200 ngàn kể cả trẻ con. Ông cho ta số liệu như sau:
Nguyễn Thế Anh cho rằng những con số trên chỉ có một giá trị tương đối: chúng chỉ bao gồm số công nhân được dùng trong các xí nghiệp tư bản Pháp chứ không kể đến số người làm việc trong những xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi hay nông nghệ Hoa kiều hay của người Việt, chúng lại không bao gồm các công nhân giao thông. hầu hết là phu bắt ở các đia phương, trả theo công nhật. Mặt khác, đa số công nhân không phải là thợ chuyên nghiệp, mà chỉ làm phu, làm thợ theo từng giai đoạn mà thôi. ( Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, 1970, 256).
Về con số thì quá ít mà về ý chí tranh đấu cũng không có. Chính giai cấp
tiểu tư sản, hay nói đúng hơn giai cấp trí thức đã kích thích, xúi dục
thợ thuyền đứng lên tranh đấu. Bọn trí thức và con quan lại đã dùng
công nông làm lực lượng quân sự mà chiếm quyền. Họ cũng dùng chiêu bài
dân tộc để kêu gọi quần chúng. Cộng sản chỉ thành công tại các nước
nghèo đói và bị thực dân cai trị. Còn tại các nước văn minh , giàu
mạnh, công nhân thờ ơ với chủ thuyết cộng sản.
Ấy thế mà trong cải cách, Việt Cộng theo lời cố vấn Trung cộng, quy kết 5% dân chúng là địa chủ (Wikipedia).
Cả nước ta thời Pháp thuộc dân số có 20 triệu, như vậy là ta có 1 triệu địa chủ hay sao?
Cả nước ta thời Pháp thuộc dân số có 20 triệu, như vậy là ta có 1 triệu địa chủ hay sao?
Trung Quốc là một nước lạc hậu
như Việt Nam, nông dân tuyệt đại đa số còn công nhân thiểu số. Bởi vậy
mà Mao chống lại Marx, chủ trương công nông đều là giai cấp tiên
phong, chứ không phải chỉ có công nhân là giai cấp tiên tiến. Thực tế là
đúng như vậy nhưng lý thuyết của Marx coi nông dân, trí thức, thương
gia, thợ thủ công là loại lưng chừng, có thể là bạn mà cũng có thể là kẻ
thù của giai cấp vô sản.. Nga cũng là một nước nông nghiệp lạc hậu,
chưa có giai cấp tư bản mà cũng chẳng có giai cấp vô sản, cho nên Lenin
cưỡng lại Marx chủ trương tiến lên cộng sản chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
Không có tư bản, cũng không có vô
sản, vậy thì lập đảng cộng sản làm gì? Đấu tranh giai cấp với ai? Rõ
ràng là Lenin, Stalin, Mao, Hồ làm chuyện vô nghĩa mà thiên hạ chạy
theo rầm rầm!Đảng Cộng sản là đảng của một bọn nhiều tham vọng, hiếu
sát, hiếu chiến, gồm đa số là trí thức, con nhà tư bản, ( Karl Mărx,
Engels) ,phong kiến (Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh, Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp) mượn danh đấu tranh cho giai cấp vô sản để nắm
quyền bính. Giai cấp vô sản lúc bấy giờ là hữu danh vô thực, nếu có thì
rất it, đã được người ta tuyên truyền, thổi phồng . Giai cấp vô sản thật
ra là một sự phóng đại, một bóng ma, một danh từ được đánh bóng để dối
lừa thiên hạ. Ấy thê những trí thức như Trần Đức Thảo, Albert Camus,
J.Paul Sartre bái phục như thần, như thánh.
Người Trung Quốc và Việt Nam nghĩ
giai cấp vô sản là giai cấp nghèo (ai mà chẳng nghèo). Người cộng sản
còn lợi dụng danh từ giai cấp lao động ( ai mà chẳng lao động). Người
cộng sản còn gọi vô sản là giai cấp thợ thuyền cho nên thợ mộc, thơ nề,
thợ hoạn lợn...) đều cho mình là giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng.
Trong kháng chiến, đa số người Việt tin rằng mình là giai cấp vô sản
được đảng chiếu cố, nhưng sau 1954, mâm cỗ bày ra, họ bị gạt ra ngoài,
vì họ không được đảng cho là giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản bây giờ mới
đem định nghĩa của Engels, giai cấp vô sản
là giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp vô sản có trình
độ lao động công nghiệp cao, là đứa con của nền đại công nghiệp hiện
đại (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995, tập 2, trang 393).
Nói rõ ra giai cấp vô sản là một số người
phải có nhiều kiện, chứ không phải ai cũng là thợ, ai cũng là vô sản, ai
cũng là giai cấp công nhân.
(1). Làm việc cho tư bản trong lãnh vực công nghiệp là
giai cấp công nhân công nghiệp. Như vậy, thợ thiến heo ( như bác Đỗ
Mười) , thợ quét vôi ( như cụ Võ Chí Công) , thợ mộc, thợ nề là thợ cá
thể, làm việc trong các xóm làng, không phải trong các hãng ,các công
xưởng như làm trong nhà máy dệt Nam Định hay hãng Bason? Bác Hồ con
nhà phong kiến, làm bồi tàu, không phải là công nhân. Trần Quốc Hoàn
nguồn gốc là vô sản lưu manh! Cộng sản kê khai lý lịch láo toét. Thân
phụ bác Hồ làm quan say rượu sai lính đánh chết người lại bảo là ông bị
sa thải vì chống Pháp. Sau CCRD, Trường Chinh bị cách chức (thế mạng cho
bác Hồ), bác hỏi Võ NGuyên Giáp:
-Chú làm Tổng bí thư nhé. Giáp biết mánh
của Bác đề phòng Giáp và Trường Chinh cướp ngôi, nên từ chối. Hồ hỏi:Lê
Duẩn làm Tổng Bí thư được không? Giáp nói:Thằng giáo làng đó sao mà làm
nổi Tổng Bí thư! (Vậy Đỗ Mười, Võ Chí Công, Lê Đức Anh thì xứng đáng làm
gì?).Như vậy Lê Duẩn là giáo làng, khai là thợ bẻ ghi đường sắt cho ta
vẻ công nhân. Tôn Đức Thắng là đi lính cho thực dân nhưng khai là công
nhân Bason, cho có màu công nhân, không biết đích thực cụ làm gì!
(2). Phải có tay nghề cao. Như vậy đàn bà, trẻ con phụ việc, không phải là công nhân.
Về thành phần giai cấp, ta thấy có nhiều điều trớ trêu:
(1). Như đã nói, bọn trí thức, con nhà tư
sản, địa chủ, phong kiến thành lập đảng cộng sản chứ đảng cộng sản lúc
đầu không do công nhân đích thực lãnh đạo. Đa số lãnh tụ đảng đều không
thuộc giai cấp vô sản. Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng con nhà quan lại, không phải là công nhân...Một
số đảng viên con nhà bình dân như Tôn Đức Thắng, Đỗ Mười, Võ Chí Công,
Trần Quốc Hoàn...là về sau mới được kết nạp cho có mùi vô sản, và cũng
vì bọn này có thành tích giết người hơn tất cả!
(2).Đảng cộng sản do trí thức con nhà tư
sản, phong kiến mà lại kết tội tư sản, phong kiến và trí thức như Marx,
Engels, Lenin, Hồ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng , Pol Pot..Họ cũng trí
thức, con nhà tư sản, phong kiến thì họ có quyền gì giết, bỏ tù các trí
thức, các gia đình quan lại, các nhà tư sản,và địa chủ ?
Hàng chục ngàn đảng viên cộng sản bi giết và thanh trừng trong CCRD và Chỉnh huấn đau phải là ngụy quân, ngụy quyền và tư bản bóc lột?
Khoảng một triệu người bị giết, tra tấn, tù đầy và vợ con họ cũng bị trừng trị trong CCRD thì họ có tội tình gì?Nhất là trong số đó có những tư sản dân tộc, tư sản cách mạng, và trung nông, bần nông bị đôn lên cho đủ chỉ tiêu 5% dân số, là "dấu tgranh giai cấp" ư?
Phan Khôi là một nho sĩ chống Cộng mặc dù vì hoàn cảnh ông phải sống với cộng sản. Ông gọi Hồ Chí Minh là "đồ chó đẻ" khi ông nói về " cây cộng sản".
" Có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiềụ Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc, không chỗ nào là không có ".
Đầu tiên, Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại " như rừng, ken kít nhau ". Nơi gọi là Cỏ Bù-Xít vì nó có mùi hôi như con bọ xit', nơi gọi là Cây Cứt Lợn, nơi gọi là Cây Chó Đẻ. " Tên đều không nhã tí nào hết " thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt Lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản. Phan Khôi bịa rằng trước kia xứ ta không có cây này (cứt lợn dại), người Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê, cao su, để che đất cho mát gốc. " Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái tình trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đảng bắt đầu hoạt động, phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khữ được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền dặt tên nó là " herbe communiste ", đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là cây Cộng sản. Nó còn một tên nữa rất lạ..." Phan Khôi bịa ra rằng y gặp một ông già người Thổ: " Hởi ông tên nó là cây gì, ông nói tên ó là " Cỏ cụ Hồ ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy ". Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt Lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ Xít, " toàn những tên không nhã tí nào hết " để gọi nó là Cây Cộng sản, và Cỏ cụ Hồ?
Ông thẳng thắn bảo Việt Nam không có giai cấp bóc lột, chủ tớ đều lao động như nhau, cùng chia cơm sẻ áo. Phan Khôi ghi lại đời sống của những người nuôi vịt, cách chăm, cách lấy trứng v.v... gọi theo tiếng miền Nam là "Cầm vit.". Cuộc sống phiêu lưu, nay ở vùng này mai ở vùng khác, chủ cũng như người làm công, đều làm lụng cực khổ như nhau, ăn uống có thịt gà như nhau, không có chi là phân biệt đối xử, không ai bóc lột ai cả.
"Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế thì đầy đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không thế thì không thuê được người, chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối mùa còn phải chia hoa hồng cho anh em nữa, vì thế, tuy được lãi nhiều mà vào tay người chủ không còn mấy". Quả như thế, thì xã hội này, vấn đề đấu tranh giai cấp, quan hệ giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột, quan hệ giữa chủ và người làm công đặt ra cho có chuyện chăng? Chủ và khách quí và người làm công cùng ngồi uống chè Tân Cương, mua tận bên Thái, nói chuyện tự do mang sẵn gà theo để thay đổi thức ăn cho người làm công khỏi chán, chẳng những trả tiền công mỗi tháng mà cuối mùa còn chi hoa hồng cho người làm công: "Tuy được lãi nhiều mà vào tay người chủ không còn mấy"
( Hoàng Văn Chí chủ biên, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, Sài Gòn 1959, tr. 54.)
V. ĐẤU TRANH GIAI CẤP, TIÊU DIỆT TƯ BẢN, BÃI BỎ TƯ HỮU CÓ DIỆT ĐƯỢC GIAI CẤP BÓC LỘT, GIAI CẤP THỐNG TRỊ KHÔNG?Hàng chục ngàn đảng viên cộng sản bi giết và thanh trừng trong CCRD và Chỉnh huấn đau phải là ngụy quân, ngụy quyền và tư bản bóc lột?
Khoảng một triệu người bị giết, tra tấn, tù đầy và vợ con họ cũng bị trừng trị trong CCRD thì họ có tội tình gì?Nhất là trong số đó có những tư sản dân tộc, tư sản cách mạng, và trung nông, bần nông bị đôn lên cho đủ chỉ tiêu 5% dân số, là "dấu tgranh giai cấp" ư?
Phan Khôi là một nho sĩ chống Cộng mặc dù vì hoàn cảnh ông phải sống với cộng sản. Ông gọi Hồ Chí Minh là "đồ chó đẻ" khi ông nói về " cây cộng sản".
" Có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiềụ Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc, không chỗ nào là không có ".
Đầu tiên, Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại " như rừng, ken kít nhau ". Nơi gọi là Cỏ Bù-Xít vì nó có mùi hôi như con bọ xit', nơi gọi là Cây Cứt Lợn, nơi gọi là Cây Chó Đẻ. " Tên đều không nhã tí nào hết " thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt Lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản. Phan Khôi bịa rằng trước kia xứ ta không có cây này (cứt lợn dại), người Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê, cao su, để che đất cho mát gốc. " Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái tình trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đảng bắt đầu hoạt động, phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khữ được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền dặt tên nó là " herbe communiste ", đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là cây Cộng sản. Nó còn một tên nữa rất lạ..." Phan Khôi bịa ra rằng y gặp một ông già người Thổ: " Hởi ông tên nó là cây gì, ông nói tên ó là " Cỏ cụ Hồ ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy ". Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt Lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ Xít, " toàn những tên không nhã tí nào hết " để gọi nó là Cây Cộng sản, và Cỏ cụ Hồ?
Ông thẳng thắn bảo Việt Nam không có giai cấp bóc lột, chủ tớ đều lao động như nhau, cùng chia cơm sẻ áo. Phan Khôi ghi lại đời sống của những người nuôi vịt, cách chăm, cách lấy trứng v.v... gọi theo tiếng miền Nam là "Cầm vit.". Cuộc sống phiêu lưu, nay ở vùng này mai ở vùng khác, chủ cũng như người làm công, đều làm lụng cực khổ như nhau, ăn uống có thịt gà như nhau, không có chi là phân biệt đối xử, không ai bóc lột ai cả.
"Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế thì đầy đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không thế thì không thuê được người, chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối mùa còn phải chia hoa hồng cho anh em nữa, vì thế, tuy được lãi nhiều mà vào tay người chủ không còn mấy". Quả như thế, thì xã hội này, vấn đề đấu tranh giai cấp, quan hệ giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột, quan hệ giữa chủ và người làm công đặt ra cho có chuyện chăng? Chủ và khách quí và người làm công cùng ngồi uống chè Tân Cương, mua tận bên Thái, nói chuyện tự do mang sẵn gà theo để thay đổi thức ăn cho người làm công khỏi chán, chẳng những trả tiền công mỗi tháng mà cuối mùa còn chi hoa hồng cho người làm công: "Tuy được lãi nhiều mà vào tay người chủ không còn mấy"
( Hoàng Văn Chí chủ biên, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, Sài Gòn 1959, tr. 54.)
Trong Tuyên ngôn của đảng Cộng Sản, Marx viết:
Muốn giữ vững chính quyền và xây dựng
một xã hội mới không có bóc lột, giai cấp công nhân phải lập lên nhà
nước của mình, đó là Nhà nước chuyên chính vô sản.
Nhà nước vô sản dùng vũ lực đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản đã bị đánh đổ nhưng vẫn mưu toan cướp lại chính quyền, chuyên chính vô sản chủ trương đàn áp thiểu số bóc lột để phục vụ lợi ích của đại đa số cần lao. “Dựa vào nhà nước của mình, giai cấp công nhân tập hợp xung quanh mình tất cả tất cả những người lao động và xây dựng một xã hội mới không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Không còn bóc lột, không còn các giai cấp đối địch nhau, một xã hội thực hiện được sự tiến triển mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội và kết quả lao động dồi dào. Do đó, chuyên chính vô sản là cần thiết để đưa cuộc cách mạng vô sản đến đích, đưa cách mạng thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội”.
Nhà nước vô sản dùng vũ lực đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản đã bị đánh đổ nhưng vẫn mưu toan cướp lại chính quyền, chuyên chính vô sản chủ trương đàn áp thiểu số bóc lột để phục vụ lợi ích của đại đa số cần lao. “Dựa vào nhà nước của mình, giai cấp công nhân tập hợp xung quanh mình tất cả tất cả những người lao động và xây dựng một xã hội mới không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Không còn bóc lột, không còn các giai cấp đối địch nhau, một xã hội thực hiện được sự tiến triển mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội và kết quả lao động dồi dào. Do đó, chuyên chính vô sản là cần thiết để đưa cuộc cách mạng vô sản đến đích, đưa cách mạng thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội”.
Làm sao mà có được xã hội không giai cấp,
không còn bóc lột? Như Cộng sản lý luận, xã hội có hai giai cấp chính
là giai cấp tư bản và giai cấp vô sản, giai cấp thống trị và giai cấp
bị tri. Nhưng khi giai cấp vô sản cướp chính quyền, tiêu diệt giai cấp
tư bản thì giai cấp vô sản đã thành giai cấp thống trị, còn giai cấp tư
sản tụt xuống thành giai cấp bị trị, giai cấp nô lệ. Như vậy, sau cuộc "
cách mạng", xã hội vẫn có hai giai cấp, không bao giờ san bằng được
bất công. Tất cả chỉ là " dịch nô tái chủ". Cái việc xây dựng một xã hội mới không có bóc lột là một
hoang tưởng, một sai lầm nếu không là dối trá! Sau chính biến tháng 10
Nga, Lenin và đồng bọn trở thành giai cấp mới, tàn ác, xảo quyệt hơn
thời Nga hoàng. Tài sản quốc gia lọt vào tay một thiểu số, dân chúng
phải làm nô lệ trong cảnh đói rét và phải chết trong các nông trường,
công trường và trại tập trung. Con số nạn nhân là hàng chục triệu!
Sau
khi Đông Âu và Liên Xô tan vỡ, người ta thấy rõ các cung điện của các
vua chúa cộng sản. Nay tại Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam, dân chúng đói
khổ, trong khi bọn cộng sản trở thành tư sản đỏ, có hàng tỷ mỹ kim
trong các ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Âu M; chúng , mua xe hơi triệu
Mỹ kim, có cơ ngơi hàng triệu Mỹ kim tại Việt Nam và ngoại quốc. Cha
con, vợ chồng, anh em cộng sản gộc nắm độc quyền kinh tế, chính trị
trong nước. Cộng sản hô hào diệt trừ tư hữu và xoá bất công xã hội
nhưng chính cộng sản ngày nay công khai cướp tài sản nhân dân và quốc
gia, bán nước,hại dân. Tài sản quốc gia trở thành quốc doanh là mồi béo
bỡ cho gian tham, trộm cướp. Đảng cộng sản ngày nay với chính sách độc
quyền kinh tế, chính trị, và chính sách khủng bố cướp bóc chính là đại
họa của dân tộc Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn...
Trần Đức Thảo nói Cộng sản không xóa được giai cấp, không san bằng bất công xã hội. Cộng sản trở thành giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột, thành tư sản đỏ.
"Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp, khi kết thúc, thì nó đã không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới này, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!
Trần Đức Thảo nói Cộng sản không xóa được giai cấp, không san bằng bất công xã hội. Cộng sản trở thành giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột, thành tư sản đỏ.
"Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp, khi kết thúc, thì nó đã không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới này, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!
Kết quả là “thế giới đại đồng” ấy đã không hiển hiện trong một chế độ xã
hội chủ nghĩa nào cả. Sau này thì “cuộc cách mạng long trời lở đất ấy”
đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín! Và bộ mặt thật của ý
thức hệ ấy là đã dụng cụ hoá, đã nô lệ hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp,
giam hãm, tuyên truyền xảo trá, chứ chẳng phải là đã giải phóng con
người! Con người lao động đã chẳng hề được làm chủ, kể ca làm chủ bản
thân minh. Vì mình cũng là của… “đảng”!
Vì trong thực tại của xã hội chủ nghĩa mới, vẫn còn giai cấp bóc lột. Đó
là giai cấp chuyên chính, chuyên quyền của đáng cộng sản cầm quyền! Đó
là giai cấp tư sản đỏ phát, sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh
cướp lại quyền lực trong tay giai cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản
vùng lên cướp đoạt chính quyền, đồng thời nó cũng đã cướp đoạt tài sản
của giai cấp tư sản để tự nó trở thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn
bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất, nắm toàn bộ guồng máy quản lý xã
hội, vừa nặng tính chuyên quyền, vừa toàn quyền lũng đoạn kinh tế! Trước
mắt giờ đây, là một nhà nước tư bản đỏ độc quyền bóc lột kiểu mới, mang
danh hiệu là “chế độ dân chủ nhân dân”, được quảng bá là “dân chủ gấp
ngàn lần dân chủ tư sản”! Mà rồi mãi sau này người ta đặt cho chế độ ấy,
cho thời ấy một cái tên có tính khinh thị là “Chế độ bao cấp! Thời bao
cấp”.
Đặc biệt là ngay ở trong chế độ “vô sản” mới này, con người vô sản ở
khắp nơi, đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản! Họ gậm nhấm, xâm
chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất
đai của nông dân… làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ đo làm ăn cần cù, do
tích luỹ lâu dài mà có được, này đã bị xoá bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu
kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với
quyền lực. Con người vô sản cầm quyền nay tha hồ bòn mót của công, cướp
đoạt của tư, để tạo cho minh một tài sản vừa nhiều, vừa nhanh! Vì cái
gì cũng là của chung, đặc biệt là “đất đai là sở hữu của toàn dân”, nên
ai cũng nghĩ rằng toàn dân có quyền nhúng tay vào cái sở hữu chung ấy!
Bởi là của chung nên, trong thực tế, nó không được bảo vệ như của riêng.
Rừng, núi, sông ngòi, ao hồ… bị con người mới trong xã hội vô sản mới
ấy phá phách, lấn chiếm vô tội vạ! Con người vô sản đã tỏ ra là con
người tham lam, phá phách, gậm nhấm, xâm chiếm những gì là của chung bất
kể luật pháp! Vì là của chung nên ai cũng nghĩ là mình cũng có quyền
xâm phạm, nhưng không thấy ai có nhiệm vụ phải bảo vệ, bảo trì! Trong
thực tế trước mắt, con người, vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu
để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, đã trở thành nhà
tư sản kiểu mới. Đấy là thứ tư sản đỏ, do tham nhũng, do hối mại quyền
thế mà có: họ chia chác tài sản tập thể của xã hội cho gia định, họ
hàng, cho đồng chí, đảng viên, bằng chữ ký của quyền lực trong tay họ!
Khi thấy của công, của tập thể bị xâm phạm, người ta không có phản ứng
quyết liệt và nghiêm chỉnh như khi thấy sự xâm phạm của tư! Thói thường
của xã hội, và nay đã thành một thứ tư duy phổ biến, một suy nghĩ tự
nhiên rằng “lấy của tập thể, lấy của nhà nước không phải là ăn cắp”! Vì
đấy là của chung!
Marx đã không ngờ rằng một giai cấp tư bản đỏ sẽ ra đời ngay trong xã
hội xã hội chủ nghĩa như thế. Giai cấp tư bản độ ấy đã phát triển một
cách lộng hành, nó xâm chiếm, do cướp đoạt vừa nhiều, vừa trắng trợn,
gấp bội lần thứ tư bản tư sản cổ điển! Một điều khủng khiếp nữa mà Marx
không thể ngờ là bởi tham lam quyền lực và quyền lợi, chính các lãnh đạo
trong “đảng”, cũng đã trắng trợn triệt hạ nhau, quy chụp cho nhau những
tội lỗi tày trời để diệt nhau, để tranh nhau địa vị, để được sống đế
vương trên đầu nhân dân, để rồi tìm cách truyền ngôi, truyền gia tài cho
con cái!
Thực tại cho thấy trong xã hội mới “xã hội chủ nghĩa”, các phe cánh vô
sản kình chống nhau. Trong khi đó, giai cấp công nông vẫn còn bị bóc
lột, thật là trái ngược với biện chứng và hứa hẹn của Marx! Và kẻ bóc
lột đây lại là những người của “đảng”, của nhà nước, một nhà nước nắm
toàn bộ vốn liếng, tư liệu sản xuất và mọi hình thức sinh hoạt khác
trong xã hội, nhất là về mặt kinh tế! Trong thực tế, tất cả mọi thứ, từ
đất đai cho đền con người, tất cả đều là “của đảng”! Các cá nhân, hội
đoàn, các thành viên của nhà nước, các định chế như toà án, viện kiểm
soát, các tổ chức tập thể… tất cả đều phải thề trung thành với “đảng”!
Trong chế độ vô sản nay có một ông chủ toàn quyền, toàn năng! Bởi nay
“đảng” là ông chủ lớn nhất, duy nhất, sở hữu tất cả, từ vật chất tới
tinh thần! “Đảng” đứng trên hết mọi quyền lực, trên cả công lý! Và
”đảng” tự tuyên xưng “đảng” là nhân dân! Những ai chống lại “đảng” là
chống lại nhân dân! Cụm từ “nhân dân” từ đây là nhãn hiệu độc quyền của
nhà nước cộng sản!
“Đàng” còn ngang nhiên tuyên bố: “Yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước”
Quan sát những hiện tượng đã xảy ra trước mắt, ngay tại Hà Nội sau nhất
là tại Sài Gòn sau năm 1975, là nhũng nơi chế độ tư bản, tư hữu kiểu cũ
đã bị đánh gục bằng bạo lực cách mạng, người dân bừng tỉnh, và kinh ngạc
trước hiện tượng phát sinh và bành trướng một tư bản đỏ: chưa bao giờ
thấy xuất hiện những đảng viên cao cấp, cùng phe cánh, đã trở thành
những nhà giàu mới, vơ vét nhiều và nhanh đến thế. Những cơ ngơi bất
động sản không lồ đã lọt vào tay “giai cấp tư sản đỏ”, nó thống trị một
cách trắng trợn, như chưa từng thấy ở đất nước nghèo nàn, lạc hậu này.
Mà những cơ ngơi và vốn liếng của giai cấp mới ấy đã được đánh giá hàng
bao nhiêu tỉ đô-la Mỹ! [....]. Ý thức “đấu tranh giai cấp” là cái gốc
của mọi sai lầm, cái gốc của mọi hành động quá trớn, cái gốc của bế
tắc. Vì đấu tranh giai cấp để xoá bỏ giai cấp bóc lột, nhưng rồi lại
nảy sinh một giai cấp bóc lột mới. Chính cái học thuyết; cái ý thức “đấu
tranh giai cấp” ấy đã dẫn tới tình trạng con người vẫn bị bóc lột. Và
con người không hề được “cách mạng” giải phóng.
VI. MỤC ĐÍCH CỦA CHỦ TRƯƠNG GIAI CẤP ĐẤU TRANH
Ỷ thức đã sai vì nó kìm kẹp con người, dụng cụ hoá con người. Con người mới” ấy đã bị chủ nghĩa cuồng tín (fenatisme) và chủ nghĩa ngu tín (obscurantisme)
xỏ mũi lôi vào con đường của giáo điều, theo một thứ “tín ngưỡng cộng
sản… Vì thế trên đường đấu tranh giai cấp để đi tới tương lai và hạnh
phúc, nhưng cứ đi hoài mà không bao giờ tới đích! Đấy là thảm kịch lớn
nhất của thế kỷ XX, tức là của chính chúng ta. Tác giả của học thuyết,
của ý thức hệ ấy chính là ông Marx. Chính Marx là thủ phạm đã gây ra mọi
sai lầm và tội ác!(Tri Vũ. Ch.XIV)
Trần Đức Thảo đã hé lộ tâm tư với Tri Vũ, với nhân dân ta và thế giới , và đoạn văn này là một bia văn khác trên núi đá vcho hiện tại và hậu thề nghiền ngẫm:
Dẹp bỏ giai cấp mà vẫn còn giai cấp! Dẹp bỏ bóc lột này thì lại mọc ra thứ bóc lột khác, tàn nhẫn hơn, kinh khủng hơn bao giờ! Bởi sự bùng phát tư bản đỏ là một tội hình của “đảng”, phát xuất từ gợi ý của Marx. Mà “đảng” sai thì bất trị, không có một cơ chế nào hay một đạo luật nào trừng trị được “đảng”. Nay người ta nói tới tư bản chủ nghĩa man rợ, nhưng người ta quên rằng cái gốc của nó, chính là do cái xã hội chủ nghĩa ấy, là do cái ý thức thô bạo của “đấu tranh giai cấp” ấy!
Trần Đức Thảo đã hé lộ tâm tư với Tri Vũ, với nhân dân ta và thế giới , và đoạn văn này là một bia văn khác trên núi đá vcho hiện tại và hậu thề nghiền ngẫm:
Dẹp bỏ giai cấp mà vẫn còn giai cấp! Dẹp bỏ bóc lột này thì lại mọc ra thứ bóc lột khác, tàn nhẫn hơn, kinh khủng hơn bao giờ! Bởi sự bùng phát tư bản đỏ là một tội hình của “đảng”, phát xuất từ gợi ý của Marx. Mà “đảng” sai thì bất trị, không có một cơ chế nào hay một đạo luật nào trừng trị được “đảng”. Nay người ta nói tới tư bản chủ nghĩa man rợ, nhưng người ta quên rằng cái gốc của nó, chính là do cái xã hội chủ nghĩa ấy, là do cái ý thức thô bạo của “đấu tranh giai cấp” ấy!
Mục
đích chính là lợi dụng giai cấp công nông để cướp chính quyền và nắm
chính quyền. Vì đường lối này, cộng sản Việt Nam, Trung Quốc đã đánh
đuổi, đấu tố "trí phú địa hào" và đưa nông dân lên nắm chính quyền các
cấp xã thôn, bộ viện và trung ương mặc dầu tuyệt đại đa số là ngu dốt và
tàn ác.
Mục đích thứ hai với danh nghĩa diệt trừ giai cấp tư sản, cộng sản giết người cướp của.
đuổi không có quy định rõ rệt ai là tư sản, là địa chủ, chúng rất vô lý
khi đặt ra tiêu chuẩn là xã thôn có bao nhiều bần cố là có bấy nhiêu
địa chủ (Nguyễn Văn Trấn, 167) ...Chúng đã bắt nông dân nghèo mang tội
địa chủ, tư sản...Cuộc chém giết, bỏ tù, trừng phạt là một cuộc khủng bố làm cho toàn dân sợ hãi mà cúi đầu làm nô lệ.
Mục
đich thứ ba là cướp tài sản nhân dân. Ban đầu chúng chia ruộng đất cho
nông dân nhưng sau chúng tịch thu tất cả ruộng đất và bắt mọi người
vào tập đoàn, nghĩa là làm nô lệ cho cộng sản. Tại Liên Xô, Trung Quốc,
CCRĐ, cải tạo công thương nghiệp, bài trừ văn hóa đồi trụy là cướp vàng
bạc, tiền của, ruộng đất, cơ xưởng, xí nghiệp của nhân dân để làm giàu
cho các ông vua cộng sản. Tài sản toàn quốc bấy giờ tập trung vào tay
các cộng sản gộc, họ tha hồ bỏ túi, tha hồ chi tiêu, không sợ cơ quan
nào kiểm tra, báo chí phê bình, đảng phái khác chống đối. Cộng sản độc
tài một mình một chợ tha hồ bóc lột, cướp bóc. Cộng sản trở thành một
đại tư bản không một tư bản nào ở Âu Mỹ địch kịp.
Mục
đích thứ tư là phá vỡ truyền thống tương thân tương trợ, nhân nghĩa,
bác ái của nhân dân ta, tạo ra cảnh chia rẽ hận thù trong chính sách
gây căm thù và chia để trị của cộng sản.
Ngoài ra Marx còn có âm mưu sâu độc khác. Đó là bơm ma túy vào lũ chó săn để chúng điên cuồng đuổi bắt, cắn xé hưu nai theo lệnh chủ nhân. Và chủ trương này cũng để gây chia rẽ, tàn sát trong khối đoàn kết dân tộc làm lợi cho cộng sản.
Ngoài ra Marx còn có âm mưu sâu độc khác. Đó là bơm ma túy vào lũ chó săn để chúng điên cuồng đuổi bắt, cắn xé hưu nai theo lệnh chủ nhân. Và chủ trương này cũng để gây chia rẽ, tàn sát trong khối đoàn kết dân tộc làm lợi cho cộng sản.
Tóm lại, đấu tranh giai cấp là một chính sách lừa bịp công nông và toàn dân, rốt cuộc cộng sản nắm quyền bính, bắt toàn dân làm nô lệ, giai cấp công nông đã nghèo lại nghèo hơn, tài sản quốc gia lọt vào tay bọn độc tài gian tham tàn ác mệnh danh là đảng cộng sản .Thảm kịch này còn ghi dấu ấn mạnh mẽ trong các tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Chí Thiện, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương, Tô Hoài, Nguyễn Văn Trấn , Lê Lựu, Nguyễn Khoa Đăng.. .
Nói tóm lại, chủ trương đấu tranh giai cấp là một sự dối trá vĩ đại, một
tội ác kinh hoàng và ghê tởm của bọn cộng sản mà khởi đầu từ Karl Marx.
Theo Trần Đức Thảo, Marx đưa ra thuyết "đấu tranh giai cấp" để lừa dối,
khuynh loát quốc gia và khủng bố nhân loại. Đấu tranh giai cấp là dùng
Bạo lực và hận thù để nắm quyền, để xiết cổ dân chúng.
Vì chính trị và chiến tranh cách
mạng là cơ hội thao túng của quỷ. Quỷ nó quậy trong đầu những người nắm
quyền lực để làm chính trị, làm chiến tranh. Quỷ lộng hành vì không cơ
chế nào kiểm soát được nó! Nó bảo đảm với con người chính trị, con người
chiến tranh là mau trí của nó sẽ mang lại chiến thắng để tồn tại lâu
dài. Bi kịch của ta là do nó đã tạo ra niềm tin tất thắng khi tận dụng
bạo lực và hận thủ! Chính cái niềm tin tất thắng ấy đã đầy đoạ con
người, đã xoá đi tính nhân bản trong chính sách! có lúc phải mở chiến
tranh, như để giành độc lập, là đúng. (Ch. XIII)
Sự tàn ác và dối trá của cộng sản trong cuộc đấu tranh giai cấp của cộng sản ở Việt Nam là những minh chứng cụ thể.
Cái vô lý nhất là Việt Cộng theo lệnh Trung Cộng kết tội 5% nhân dân là địa chủ. Vì vậy số dân nghèo, có khi là bần nông bị kích lên làm địa chủ. Theo phương pháp tính toán khoa học nào để đi đến kết luân 5% dân chúng là địa chủ. Nhiều nơi hăng tiết vịt tăng số địa chủ lên 5-7%.
Cái vô lý nhất là Việt Cộng theo lệnh Trung Cộng kết tội 5% nhân dân là địa chủ. Vì vậy số dân nghèo, có khi là bần nông bị kích lên làm địa chủ. Theo phương pháp tính toán khoa học nào để đi đến kết luân 5% dân chúng là địa chủ. Nhiều nơi hăng tiết vịt tăng số địa chủ lên 5-7%.
Cộng sản dấu diếm, bưng bít nên ta khó biết rõ con số nạn nhân CCRD.
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng người bị giết dao động khá lớn:
-Theo Wikipedia, tổng số người bị quy trong Cải cách ruộng đất đã được
thống kê là 172.008 người; số người bị oan sai là 123.266 người, chiếm
tỷ lệ 71,66%. Theo
tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp
trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch
lũng đoạn".
-Theo tuần báo Time ngày 1 tháng 7 năm 1957 thì khoảng 15.000 người bị xử tử.
-Theo Gareth Porter: từ 800 đến 2.500;
-Theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000;
-Theo giáo sư sử học James P. Harrison: vào khoảng 1.500 cộng với 1.500 bị cầm tù.
-Theo soạn giả Arthur Dommen thì cho rằng tính đến năm 1956 có khoảng 32.000 người bị hành hình trong vụ cải cách ruộng đất.
Đài RFA cho biết: Năm 1956 cũng là năm mà Việt Cộng công khai lên tiếng
nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi
thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê
chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế…”
- Michel Tauriac, nhà văn người Pháp đưa ra 500.000 Con số nầy cũng hợp lý nếu kể cả người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử” (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006)
Theo sách Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004, tức là một tài liệu mới của nhà cầm quyền Hà Nội, cho biết cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172,008 người, trong đó có 123, 266 người (71,66%) sau nầy được xác nhận đã bị giết oan.
- Michel Tauriac, nhà văn người Pháp đưa ra 500.000 Con số nầy cũng hợp lý nếu kể cả người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử” (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006)
Theo sách Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004, tức là một tài liệu mới của nhà cầm quyền Hà Nội, cho biết cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172,008 người, trong đó có 123, 266 người (71,66%) sau nầy được xác nhận đã bị giết oan.
Trần Đức Thảo cũng cho biết việc " đấu tranh giai cấp" là cuộc chiến
không hồi kết giữa cộng sản với nhau và giữa cộng sản và nhân dân. Tác
phẩm "Vấn Đề Con Người và Chủ Nghĩa Lý Luận Không có Con Người " là một
tiến bộ của Trần Đức Thảo. Ông chỉ trích chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa
"không có con người." Dù bênh Marx, Trần Đức Thảo đưa ra những sai lầm
trầm trọng của cộng sản hiện đại.
1. Cộng sản coi một số người là kẻ
thù giai cấp, coi họ không còn là con người.Ông phê phán quan điểm giai
cấp của cộng sản là lối lý luận ''không con người'' nghĩa là lối lý luận
bất nhân:Quan điểm giai cấp là hoàn toàn đúng và căn bản. Nhưng nếu
tuyệt đối hóa quan điểm giai cấp, tựa hồ như ngoài giai cấp thì không
còn gì nữa, tức là phủ định con người theo nghĩa chung của loài, phủ
định con ngừơi nói chung (122).Ông cho rằng chỉ có lối lý luận ''có con
người'' hay chủ nghĩa nhân đạo mới giải phóng con người. Ông viết:Trong
tình cảnh như thế thì chỉ có danh nghĩa con người, là có thể bảo đảm cho
người bị quy oan một chỗ đứng tối thiểu để tự thanh minh. Bất cứ người
nào cũng là một con người. Và không ai có thể tước đoạt cái định nghĩa
ấy của bất kỳ ai (122)
2.Trong chế độ cộng sản, chữ ''giai cấp''
hay ''kẻ thù của giai cấp'' được dùng tùy tiện. Cộng sản lợi dụng từ ''
giai cấp'' và dùng các danh từ '' phản động'', ''kẻ thù giai cấp'' để
chụp mũ những ai mà họ không ưa thích, ngay cả đồng chí họ. Stalin giết
Trotsky, Mao giết Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ, bỏ tù Đặng Tiểu Bình và gán cho
họ tội đi theo tư bản chủ nghĩa, là kẻ thù của giai cấp. Trần Đức Thảo
đã đưa ra một thí dụ:Ví dụ trong một cơ quan, một cán bô không đồng ý
với thủ trưởng, và do một số điều kiện hay sự kiện nào đãy thì sự bất
đồng phát triển thành mâu thuẫn nghiêm trọng, đối kháng gay gắt. Thế là
thủ trưởng nói:'' Anh không nghe tôi, tức là anh không chịu quyền lãnh
đạo của đảng. Tức là anh không cộng nhận quyền lãnh đạo của giai cấp
công nhân. Như thế là anh chống nhân dân [..]. Anh chống nhân dân, tức
là anh là kẻ thù của nhân dân (123)
3.. Ông đề cao chủ nghĩa dân tộc, phê phán sai lầm của chủ nghĩa giai cấp.
Ông viết:Dân tộc là môt cộng đồng lịch sử (145). Quan hệ dân tộc là một
hình thái mở rộng quan hệ bộ lạc trên phạm vi đất nước và cộng đồng dân
tộc. Quan hệ bộ lạc là phát xuất từ lao động sản xuất và hợp tác trên
một bình diện tương đối rộng. . . (147)Lý luận của Althusser và Trần Đức
Thảo cho ta thấy tư tưởng Marx đã gây ra những tai hại trong tư tưởng
cũng như hành động của những người cộng sản. Đó là một hệ thông phi nhân
bản, không có tính người và tình người.
Trước 1945 cho đến khi về Việt Nam, bị bắt đi chăn bò, bị sa thải, Trần Đức Thảo vẫn say mê mùi mắm tôm của chủ nghĩa Marx. Vào năm 1946, Trần Đức Thảo đưa ra một tiểu luận in trong Revue Internationale nhan đề "Chủ nghĩa Mác và hiện tượng luận" khởi thảo việc nghiên cứu đối chiếu và phê phán, và năm 1951, trong "Hiện tượng luận và chủ nghïa duy vật biện chứng", Trần Đức Thảo xác quyết: Chủ nghïa Mác cho chúng ta giải pháp duy nhất có thể quan niệm được về những vấn đề mà chính hiện tượng luận đề ra (tr.5).Trong Chû Nghïa Hiện Sinh và Duy Vật Biện Chứng Pháp, ông ca tụng vai trò cûa vô sän trong cuộc đấu tranh giai cấp: Điều đáng để ý nữa là nhận định rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học chưa bao giờ trông cậy vào loại luận cứ lý thuyết để mộ quân cho chính nghĩa của giai cấp vô sản. Người ta có thể nói rằng thế giới tư sản là một thế giới tha hoá, rằng ở đó cả nhà tư sản lẫn người vô sản đều bị huyễn hoặc, lừa phỉnh. Thứ luận cứ này chỉ có thể mang tới một sự dấn thân cửa miệng, và kinh nghiệm cho ta thấy với một sự đều đặn đáng kể, rằng nó cũng sẽ chỉ dẫn đến sự phản bội lúc phải hành động quyết liệt. Một giá trị chỉ được đảm nhận thực hiệu nếu nó nảy ra từ hoàn cảnh thực hiệu. Giai cấp vô sản sẽ được tăng cường, không phải nhờ những cuộc đàm luận trí thức, mà qua một sự kiện khách quan thiết yếu cho sự tiến hoá của xã hội tư bản : sự vô sản hoá các giai tầng trung lưu. (Phạm Trọng Luật dịch)<http://www.viet-studies.org/TDThao
Tác phẩm "Vấn Đề Con Người và Chủ Nghĩa Lý Luận Không Có Con Người (Le Problème de l'Homme et l'Antihumanisme Théorique] (1988). In lần thứ hai có viết thêm. Saigon: Nxb TP Hồ Chí Minh, 1989.là một tiến bộ nhưng con người vượn Trần Đức Thảo vẫn còn cái đuôi dài mang dấu ấn Marx. Trong quyển sách này, ông chỉ trích Marx nhưng ông nói:" Quan điểm giai cấp là hoàn toàn đúng và căn bản ".(tr.122)
Đến cuối đời, Trần Đức Thảo mới thật sự cởi bỏ xich xiềng của chủ nghĩa Marx. Tử thực tế bản thân ông và xã hội Việt Nam, ông cay đắng thú nhân lúc trẻ ông đã tôn thờ Marx, cố đấm ăn xôi chạy về Việt Nam dù ông Hồ ghẻ lạnh , rốt cuộc một triết gia Marxist lừng danh đã bị ông Hồ hóa phép thần thông biến thành một thằng chăn bò ở Ba Vì, và một " thằng bù nhìn giữa ruộng dưa "!Từ thực trạng Việt Nam, Trần Đức Thảo đã hiểu thấu chủ nghĩa cộng sản man rợ khắp hoàn cầu. Ông kết tội Marx, Lenin, Stalin, Mao.....
Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không còn giai cấp! Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ý niệm siêu hình của một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất. Trong mô hình ảo ấy, giới công nông được giải phóng, được làm chủ chính mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cuộc cách mạng tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với một đảng cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng sản”. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không còn cảnh người bóc lột người vì quyền tư hữu đã bị bãi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập thể. Đặc điểm là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lý luận như công nông nào mà không mê.[...].. Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù! Lý thuyết cách mạng hay hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu, diệt giai cấp bóc lột làm vũ khí! Không cần lý luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là sẽ thắng, sẽ là đại thắng!
Trước 1945 cho đến khi về Việt Nam, bị bắt đi chăn bò, bị sa thải, Trần Đức Thảo vẫn say mê mùi mắm tôm của chủ nghĩa Marx. Vào năm 1946, Trần Đức Thảo đưa ra một tiểu luận in trong Revue Internationale nhan đề "Chủ nghĩa Mác và hiện tượng luận" khởi thảo việc nghiên cứu đối chiếu và phê phán, và năm 1951, trong "Hiện tượng luận và chủ nghïa duy vật biện chứng", Trần Đức Thảo xác quyết: Chủ nghïa Mác cho chúng ta giải pháp duy nhất có thể quan niệm được về những vấn đề mà chính hiện tượng luận đề ra (tr.5).Trong Chû Nghïa Hiện Sinh và Duy Vật Biện Chứng Pháp, ông ca tụng vai trò cûa vô sän trong cuộc đấu tranh giai cấp: Điều đáng để ý nữa là nhận định rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học chưa bao giờ trông cậy vào loại luận cứ lý thuyết để mộ quân cho chính nghĩa của giai cấp vô sản. Người ta có thể nói rằng thế giới tư sản là một thế giới tha hoá, rằng ở đó cả nhà tư sản lẫn người vô sản đều bị huyễn hoặc, lừa phỉnh. Thứ luận cứ này chỉ có thể mang tới một sự dấn thân cửa miệng, và kinh nghiệm cho ta thấy với một sự đều đặn đáng kể, rằng nó cũng sẽ chỉ dẫn đến sự phản bội lúc phải hành động quyết liệt. Một giá trị chỉ được đảm nhận thực hiệu nếu nó nảy ra từ hoàn cảnh thực hiệu. Giai cấp vô sản sẽ được tăng cường, không phải nhờ những cuộc đàm luận trí thức, mà qua một sự kiện khách quan thiết yếu cho sự tiến hoá của xã hội tư bản : sự vô sản hoá các giai tầng trung lưu. (Phạm Trọng Luật dịch)<http://www.viet-studies.org/TDThao
Tác phẩm "Vấn Đề Con Người và Chủ Nghĩa Lý Luận Không Có Con Người (Le Problème de l'Homme et l'Antihumanisme Théorique] (1988). In lần thứ hai có viết thêm. Saigon: Nxb TP Hồ Chí Minh, 1989.là một tiến bộ nhưng con người vượn Trần Đức Thảo vẫn còn cái đuôi dài mang dấu ấn Marx. Trong quyển sách này, ông chỉ trích Marx nhưng ông nói:" Quan điểm giai cấp là hoàn toàn đúng và căn bản ".(tr.122)
Đến cuối đời, Trần Đức Thảo mới thật sự cởi bỏ xich xiềng của chủ nghĩa Marx. Tử thực tế bản thân ông và xã hội Việt Nam, ông cay đắng thú nhân lúc trẻ ông đã tôn thờ Marx, cố đấm ăn xôi chạy về Việt Nam dù ông Hồ ghẻ lạnh , rốt cuộc một triết gia Marxist lừng danh đã bị ông Hồ hóa phép thần thông biến thành một thằng chăn bò ở Ba Vì, và một " thằng bù nhìn giữa ruộng dưa "!Từ thực trạng Việt Nam, Trần Đức Thảo đã hiểu thấu chủ nghĩa cộng sản man rợ khắp hoàn cầu. Ông kết tội Marx, Lenin, Stalin, Mao.....
Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không còn giai cấp! Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ý niệm siêu hình của một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất. Trong mô hình ảo ấy, giới công nông được giải phóng, được làm chủ chính mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cuộc cách mạng tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với một đảng cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng sản”. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không còn cảnh người bóc lột người vì quyền tư hữu đã bị bãi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập thể. Đặc điểm là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lý luận như công nông nào mà không mê.[...].. Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù! Lý thuyết cách mạng hay hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu, diệt giai cấp bóc lột làm vũ khí! Không cần lý luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là sẽ thắng, sẽ là đại thắng!
Với niềm tin tất thắng, ai cũng có thể
tưởng tượng ra đủ thứ kết quả tốt đẹp… Để rồi cuồng tín đến độ sùng bái ý
thức hệ ấy như là một thứ thánh kinh, “đảng” trở thành linh hồn của
cách mạng, là “hội thán”, lãnh tụ là vị giáo hoàng! Khát vọng phát triển
cuộc cách mạng xã hội theo ý thức hệ ấy làm cho con người sẵn sàng hi
sinh tất cả cho nó! Vì nó!
Thế nhưng cho tới nay, những ai đã từng
sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách mạng do Lenin phát động, do
Stalin triệt để khai thác, do Mao hò hét vận động… đều đã thấy rõ kết
quả tồi tệ của một tổ chức mang danh “đảng của giai cấp công nông”, là
một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền… Tất cả mọi người đã được
thấy tận mắt, đã được tận tay tham dự vào công cuộc xây dựng “con người
mới xã hội chủ nghĩa” là như thế nào! Thực tế là tất cả đã nhận ra một
cách khách quan và đau đớn rằng việc xay dựng xã hội mới ấy gây ra quá
nhiều vấp váp, phạm quá nhiều tội ác, vì đã trắng trợn dẫm lên quyền
sống của con người, đã trói buộc, giam hãm con người. Kết quả là con
người trong công cuộc đấu tranh giai cấp, khi kết thúc, thì nó đã không
hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao
động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới này, thành phần công nông vẫn
chỉ là thành phần thiệt thời nhất!
Kết quả là “thế giới đại đồng” ấy đã không
hiển hiện trong một chế độ xã hội chủ nghĩa nào cả. Sau này thì “cuộc
cách mạng long trời lở đất ấy” đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa
cuồng tín! Và bộ mặt thật của ý thức hệ ấy là đã dụng cụ hoá, đã nô lệ
hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp, giam hãm, tuyên truyền xảo trá, chứ
chẳng phải là đã giải phóng con người! Con người lao động đã chẳng hề
được làm chủ, kể ca làm chủ bản thân minh. Vì mình cũng là của… “đảng”!
Vì trong thực tại của xã hội chủ nghĩa
mới, vẫn còn giai cấp bóc lột. Đó là giai cấp chuyên chính, chuyên quyền
của đáng cộng sản cầm quyền! Đó là giai cấp tư sản đỏ phát, sinh từ
tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh cướp lại quyền lực trong tay giai
cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản vùng lên cướp đoạt chính quyền,
đồng thời nó cũng đã cướp đoạt tài sản của giai cấp tư sản để tự nó trở
thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản
xuất, nắm toàn bộ guồng máy quản lý xã hội, vừa nặng tính chuyên quyền,
vừa toàn quyền lũng đoạn kinh tế! Trước mắt giờ đây, là một nhà nước tư
bản đỏ độc quyền bóc lột kiểu mới, mang danh hiệu là “chế độ dân chủ
nhân dân”, được quảng bá là “dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư sản”!...
Ông đưa ra nhiều thủ phạm nhưng ông tuyên án Marx là chánh phạm, kẻ đã đưa ra cghủ trương đấu tranh giai cấp:
Xét cho cùng thì thủ phạm, gây sai lầm cơ bản ấy không phải là Lenin, không phải Stalihe, hay là Mao. Cũng không phải là Pol Pot… vì tất cả những nhà “lãnh đạo dân tộc” ấy, đều do ý thức hệ mác-xít dẫn lối, do “đảng” nhào nặn ra… tất cả đều do một “thiện ý”(!) muốn xây dựng một xã hội không giai cấp như Marx đã chỉ ra, để cho loài người được hưởng thứ thiên đường không giai cấp của giới vô sản trên trái đất!
Ông đưa ra nhiều thủ phạm nhưng ông tuyên án Marx là chánh phạm, kẻ đã đưa ra cghủ trương đấu tranh giai cấp:
Xét cho cùng thì thủ phạm, gây sai lầm cơ bản ấy không phải là Lenin, không phải Stalihe, hay là Mao. Cũng không phải là Pol Pot… vì tất cả những nhà “lãnh đạo dân tộc” ấy, đều do ý thức hệ mác-xít dẫn lối, do “đảng” nhào nặn ra… tất cả đều do một “thiện ý”(!) muốn xây dựng một xã hội không giai cấp như Marx đã chỉ ra, để cho loài người được hưởng thứ thiên đường không giai cấp của giới vô sản trên trái đất!
Phải thẳng thắn mà ghi nhận rằng cho tới
nay, chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất đã thực hiện được đúng một hình
thức xã hội không giai cấp mà Marx mơ ước. Đó là một chế độ vô sản, một
xã hội không có tư hữu, không có tiền tệ để đừng làm dụng cụ bóc lột. Đó
chính là cuộc cách mạng mà Pol Pot đã xây dựng tại Campuchia, sau năm
1970. Trong suốt những năm tồn tại của chế độ Pol Pot, các chế độ xã hội
chủ nghĩa khác đã im lặng đồng tình, đồng ý, vì tin là trong chế độ Pol
Pot ấy thật sự là chỉ có giai cấp vô sản. Vì thế lúc ấy, không một nước
xã hội chủ nghĩa nào đã dám lên tiếng phê phán, bắt bẻ để phản biện lại
cuộc cách mạng của Pol Pot! Kể cả Liên Xô, Trung Quốc, đặc biệt là
Trung Quốc đã ủng hộ nó triệt để, và cả Việt Nam cũng đã nhìn nhận chế
độ ấy! Tất cả khối xã hội chủ nghĩa và nhiều nước trên thế giới, kể cả
Liên Hiệp Quốc, cũng đã nhìn nhận chế độ của Pol Pot, trong suốt mấy năm
nó tồn tậi! Đấy là một thử nghiệm cụ thể cao nhất của tư lưởng Marx
trong công cuộc cách mạng vô sản. Nhưng…Nhưng cho tới cuối năm 1977, khi
Pol Pot bắt đầu công khai gây căm thù mang tính chủng tộc với Việt Nam,
coi người Việt là kẻ thù của người Khmer, và bắt đầu thực thi chính
sách phân biệt chủng tộc để bài xích, rồi sau là gây xung đột ở biên
giới với Việt Nam, thì chính quyền xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội mới xua
quân đánh chiếm thủ đô Phnom Penh, và áp đặt ở đó một chế độ xã hội chủ
nghĩa theo kiểu thông thường của khối “xã hội chủ nghĩa”, mà ở đó vẫn
còn mâu thuẫn giai cấp, vẫn còn mầm mống tư sản bóc lột… Lúc đó người ta
mới dám phát giác chế độ Khmer đỏ của Pol Pot là chế độ diệt chủng đẫm
máu. Dù sao thì đấy cũng là chế độ thuần tuý vô sản duy nhất đã thành
hình trên trái đất! Tuy nó đã là một chế độ của tội ác không thể tha
thứ!
Thủ phạm, kẻ gợi ý, kẻ chuyển lửa của niềm
tin đấu tranh giai cấp cho các nhà lãnh đạo, trong: đó có cả Poi Pot,
để đi vào con đường cuồng tín đến đẫm máu ấy chính là Marx! Lời tiên tri
sẽ “xoá bỏ giai cấp” của Marx đã mê hoặc nhiều thế hệ. Và họ đã lao
mình vào tội ác! Tại những nước đã có chính quyền vô sản triệt để “của
giai cấp công nông” (Sự thực là của “đảng” cầm quyền, của nhà nước do
đảng cộng sản nắm giữ), chính giai cấp công nông trung thực, tại các chế
độ ấy đã bị bóc lột và đàn áp một cách vô tội vạ! Vì đã không còn được
ai bảo vệ, nên giai cấp công nông đã ngậm ngùi, nguyền rủa Marx, coi
Marx là một nhà tiên tri khốn nạn, đã lừa đảo, lấy cái khát vọng thế
giới đại đồng không có bóc lột làm bả lừa dối công nông!(Ch.XIV)
Nhìn vào chiến tranh Việt Nam khi kết thúc, cộng sản chiếm đoạt, tàn sát, dân chúng bị giết, bị tù đày mà phải bỏ nước ra đi. Những hành trình bi thảm đó đều do "đấu tranh giai cấp". Ông nói :
Người ta bỏ đi vì họ không muốn bị hi sinh, mà là họ muốn tìm tự do hạnh phúc, ở nơi công an không canh chừng dân chúng như canh tù, không làm khổ nhân dân vì thủ đoạn vu khống, chụp mũ. Phải biết rằng: chỉ có quỷ mới kiêu căng, mới vui khi làm khổ, làm nhục con người. Kẻ vênh váo, cảm thấy vui khi làm khổ, làm nhục con người thì không phải là người mà là quỷ, là kẻ bị con quý quyền lực nó ám trong đấu. Mà quỷ ấy là ai? Là gì? Quỷ ấy là thứ đầu óc đầy ý đồ gian xảo, hung bạo của quyền lực. Quỷ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín của bạo lực và hận thù, là những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con người, nó thúc đẩy con ngườì lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi thủ đoạn của tội ác, bằng đủ thứ quỷ kế, để mưu đồ cùng cố cho chế độ độc tài, độc đảng. Những vinh quang độc tài, độc đảng ấy đều là phù phiếm, vì chúng đã làm khổ con người!
(Ch.XIV)[...]. Vả lại, chính lãnh tụ các đảng cộng sản cầm quyền, cũng sống theo băn năng của những con người đại tư sản, với sự hưởng thụ những đặc quyền, đặc lợi. Họ dẫm lên chủ nghĩa tập thể mà sống, nhưng họ bắt dân phải tôn thờ chủ nghĩa ấy! Tư duy cách mạng đâu phải là làm như vậy? Vô sản gì cái lũ gian dối, tham lam ấy! Công nông gì cái lũ cán bộ mang ban chất nhà giàu kếch sù, ưa sống xa hoa hỗn xược ấy! Chúng chỉ là những tay chính trị gian tà quý quái, tận dùng thủ đoạn dối trá, đội lốt công nông, để giữ chuyên quyền chính trị cho phe, cho “đảng” và cho chính chúng mà thôi.[...].Phát động hận thù giai cấp là đã đẩy lùi còn người trở về với bản năng muông thú, phải cắn nhau để giành ăn ở thời nguyên thuỷ, dù là nói “để tạo niềm tin tất thắng”! Lý thuyết đấu tranh giai cấp ấy trong thực té là một sự phản tiến bộ, phản văn minh, văn hoá.[...]..Nay tối thấy phải can đảm, phải khách quan mà phân tích kỹ lại tất cả, qua sự hiểu biết về vận động của sự kiện thời gian hoá (mouvement de la temporisation), bằng cách soạn ra một cuốn sách, để cho thấy con người và xã hội đã biến thái tồi tệ như thế nào trong ý thức “đấu tranh giai cấp”. Và rồi sau này còn cần có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá thật khách quan, vô tư khác nữa về những tiết lộ của lịch sử, từ các hồ sơ mật, cất giấu kỹ trong các kho lưu trữ của các đảng cộng sản cầm quyền nữa, để cho nhân loại thấy rõ tầm tác hại vô cùng, vô tận của ý thức hệ “đấu tranh giai cấp” ấy.(Ch.XIV)
Nhìn vào chiến tranh Việt Nam khi kết thúc, cộng sản chiếm đoạt, tàn sát, dân chúng bị giết, bị tù đày mà phải bỏ nước ra đi. Những hành trình bi thảm đó đều do "đấu tranh giai cấp". Ông nói :
Người ta bỏ đi vì họ không muốn bị hi sinh, mà là họ muốn tìm tự do hạnh phúc, ở nơi công an không canh chừng dân chúng như canh tù, không làm khổ nhân dân vì thủ đoạn vu khống, chụp mũ. Phải biết rằng: chỉ có quỷ mới kiêu căng, mới vui khi làm khổ, làm nhục con người. Kẻ vênh váo, cảm thấy vui khi làm khổ, làm nhục con người thì không phải là người mà là quỷ, là kẻ bị con quý quyền lực nó ám trong đấu. Mà quỷ ấy là ai? Là gì? Quỷ ấy là thứ đầu óc đầy ý đồ gian xảo, hung bạo của quyền lực. Quỷ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín của bạo lực và hận thù, là những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con người, nó thúc đẩy con ngườì lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi thủ đoạn của tội ác, bằng đủ thứ quỷ kế, để mưu đồ cùng cố cho chế độ độc tài, độc đảng. Những vinh quang độc tài, độc đảng ấy đều là phù phiếm, vì chúng đã làm khổ con người!
(Ch.XIV)[...]. Vả lại, chính lãnh tụ các đảng cộng sản cầm quyền, cũng sống theo băn năng của những con người đại tư sản, với sự hưởng thụ những đặc quyền, đặc lợi. Họ dẫm lên chủ nghĩa tập thể mà sống, nhưng họ bắt dân phải tôn thờ chủ nghĩa ấy! Tư duy cách mạng đâu phải là làm như vậy? Vô sản gì cái lũ gian dối, tham lam ấy! Công nông gì cái lũ cán bộ mang ban chất nhà giàu kếch sù, ưa sống xa hoa hỗn xược ấy! Chúng chỉ là những tay chính trị gian tà quý quái, tận dùng thủ đoạn dối trá, đội lốt công nông, để giữ chuyên quyền chính trị cho phe, cho “đảng” và cho chính chúng mà thôi.[...].Phát động hận thù giai cấp là đã đẩy lùi còn người trở về với bản năng muông thú, phải cắn nhau để giành ăn ở thời nguyên thuỷ, dù là nói “để tạo niềm tin tất thắng”! Lý thuyết đấu tranh giai cấp ấy trong thực té là một sự phản tiến bộ, phản văn minh, văn hoá.[...]..Nay tối thấy phải can đảm, phải khách quan mà phân tích kỹ lại tất cả, qua sự hiểu biết về vận động của sự kiện thời gian hoá (mouvement de la temporisation), bằng cách soạn ra một cuốn sách, để cho thấy con người và xã hội đã biến thái tồi tệ như thế nào trong ý thức “đấu tranh giai cấp”. Và rồi sau này còn cần có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá thật khách quan, vô tư khác nữa về những tiết lộ của lịch sử, từ các hồ sơ mật, cất giấu kỹ trong các kho lưu trữ của các đảng cộng sản cầm quyền nữa, để cho nhân loại thấy rõ tầm tác hại vô cùng, vô tận của ý thức hệ “đấu tranh giai cấp” ấy.(Ch.XIV)
Ông ghứa hẹn sẽ ra mắt một quyển sách lột trần Marx. Trong
cuốn sách đó, tôi thẳng thắn đánh giá lại tư tưởng Marx khi soạn ra
phương pháp cách mạng đấu tranh giai cấp, dùng hận thù giai cấp đánh gục
giai cấp tư sản, để xây dựng thế giới đại đồng với một xã hội không còn
giai cấp bóc lột. Lénine, Staline, Mao, rồi Hồ Chí Minh, Kim Nhật
Thành, Fidel Castro cho tới Pol Pot…mỗi con người ấy, ở vị trí lãnh đạo,
đã tùy tiện khai triển cách mạng theo lời dạy của Marx. Qua những kinh
nghiệm lịch sử ấy, cùng những di sản thảm khốc của nó, tôi đã giải mã
Marx, Lénine, mao, Hồ Chí Minh, Pol…để chỉ ra rằng ý thức cách mạng đã
sai từ gốc, nghĩa là từ Marx!...[...]. Chính
tôi, trong những bước đầu nghiên cứu, đã thấy giai đoạn mình tự nguyện
làm môn đệ của Marx, sùng bái Marx, với tất cả lòng nhiệt thành của tuổi
trẻ, là giai đoạn cuồng tín, cứ nghĩ mình phải một lòng đi theo Marx
như một tín đồ tin theo vị chúa cứu thế trên con đường giải phóng con
người khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Bởi cuộc cách mạng
này đã dựng lên cả một hệ thống chính trị chuyên quyền giam hãm, kìm kẹp
con người. Hệ thống chính trị ấy lại còn bóc lột giai cấp lao động gấp
bội phần so với sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Mà quyền lực
chuyên chính lại không cho phép công nông dân phản đối sự bóc lột ấy.
Tại sao kỳ lạ vậy?
– Nay già rồi tôi mới nhận ra là tất cả
những sai trái ấy đều là do sự cuồng tín vào lý thuyết, vào ý thức hệ
nên đã dẫn lối tới những bước quá trớn… Thế rồi các lãnh tụ, từ Lénine
trở đi, đều đã tùy tiện theo cảm hứng mà suy diễn, mà đề ra những chính
sách, những phương pháp triệt để, những hành động tuyệt đối, để rồi gây
ra những tội ác của cách mạng!
Khởi đầu, nhà tư tưởng đã tung ra một học
thuyết thật hấp dẫn, thật là cuốn hút nhân loại, nhất là thành phần nhân
loại lao động nghèo khổ… Nhưng rồi học thuyết ấy, ý thức hệ ấy đã làm
khổ con người, đã nô dịch con người, đã phản bội con người và đã không
hề giải phóng con người!
Kết thúc buổi tâm sự với Tri Vũ, và kết thúc cuộc đời ông đó là các câu
“Thủ phạm gây ra đại bi kịch này cho nhân loại, chính là Marx!”
- " Chính Marx là thủ phạm đã gây ra mọi sai lầm và tội ác"
- "Marx là nhà tiên tri khốn nạn đã lừa đảo, lấy cái khát vọng thế giới đại đồng không có bóc lột làm bả lừa dối công nông! " (Ch.XIV)
No comments:
Post a Comment