HOÀNG VĂN HOAN
Ông Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979
- 9 giờ trước
Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới Việt - Trung 1979, BBC đăng lại bài
của tiến sĩ Balazs Szalontai về số phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng
là lãnh đạo cao cấp nhưng bị 'tử hình vắng mặt' vì chạy theo Trung
Quốc:
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo
vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước
ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt - Trung, có tới
300.000 đảng viên thân Trung Quốc bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại
bỏ.
Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ
sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.
Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các “phần tử thân TQ” thật sự và
tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế - xã hội
ăn sâu ở VN.
Vai trò cá nhân
Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to
lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo
buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.
Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở
TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.
Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.
Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm
1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh
đạo chủ chốt nhất.
Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội,
và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông
bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt - Trung, khi so với
Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù
Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.
Được biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp
vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong
tranh chấp Liên Xô - TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị
thay bằng Xuân Thủy (thân TQ hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên
lạc đối ngoại Trung ương Đảng.
Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô - Việt bắt đầu cải thiện, cùng
lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường
mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan
bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân TQ trước đây của
ban lãnh đạo Hà Nội.
Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt - Trung.
Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó
khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội
đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia. Năm 1974, ông Hoàng Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ để “chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt - Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.
Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt - Campuchia và Việt - Trung lan rộng thành
chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng 6,
ông quyết định đào tẩu.
Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.
Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách
nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là
đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối
xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa
trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định
giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.
Hiệp ước Việt - Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.
Nhưng mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là
năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng
việc cải thiện quan hệ VN - Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập
Asean trong tương lai.
Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.
Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc
Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông
Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt - Trung sẽ vỡ đầu”.
Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”, nhiều người Việt Nam đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.
Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.
Khủng hoảng xã hội
Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.
Quyết loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp
khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải
ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương
trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành
an ninh.
Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc
Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị
buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban
mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông
Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.
Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.
Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.
Giai đoạn 1970 - 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Việc trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11-1979
tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại,
và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và
các hành vi tội phạm.
Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng,
giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình
cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền
Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng
quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.
Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải
đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh
trừng chính trị to lớn.
Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã
phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết
quả.
Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở
thành “quân dự bị gồm những kẻ tội phạm”. Không có việc làm, nhiều người
lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.
Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt
với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công
chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời, ông cũng đã "hết hạn sử dụng" đối với nước chủ nhà
TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau
quanh những sự kiện của quá khứ.
Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà nghiên cứu độc lập ở
Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ
Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006).
Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng
của tác giả. Bài do Lê Quỳnh dịch, đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-39032605NGUYỄN TUÂN * TẢN ĐÀ MỘT KIẾM KHÁCH
TẢN ĐÀ MỘT KIẾM KHÁCH
NGUYỄN TUÂN
NGUYỄN TUÂN
Ông Tản Ðà mất. Ðến như ai mà chả thương, chả khóc. Cái đó là sự dĩ
nhiên. Ai mà cấm ai khóc ai được. Thứ nhất là khi giọt nước mắt chính
đáng kia được dịp để chan hòa. Vả chăng, nếu lúc hấp hối, biết mình sắp
về và lại biết người sống rục rịch sắp khóc mình, nếu ông Tản Ðà còn đủ
cái tỉnh táo làm lá chúc thư có một khoản xin đời đừng nên thương tiếc
mình và nhún mình, khuyên người sống để dành cái nước mắt gừng ấy dùng
vào những việc khác to hơn, thiêng hơn, người ta cũng cứ không kiêng nể
những cái ý muốn cuối cùng của ông và cứ khóc lóc như thường. Không cho
người bây giờ khóc Tản Ðà, thì định bắt người bây giờ phải khóc những
tên bán nước ở cái buổi giao thời còn kéo dài mãi này hay sao?
(...)
Tôi tiếc rằng, thời tiết lúc này, không cho tôi đốt được một lò hương để ngồi cho được ung dung mà kể chuyện người ngày xưa.
Người ngày xưa... lôi thôi lắm.
Tôi hãy bắt đầu bằng cái lôi thôi của Nguyễn Khắc Hiếu đi tắm bể Sầm
Sơn. Thứ đến là cái lôi thôi của Tản Ðà khi cuốc cả nền nhà người ta lên
để làm vườn trồng rau thơm. Rồi thứ nữa là đem ra giới thiệu một ông
Tản Ðà múa kiếm!
Gánh văn lên bán Chợ Giời, gửi thư lên Thiên đình cầu hôn, xuống bể Sầm
Sơn bơi đứng và ăn hải sản sống, lên rừng tịch cốc, uống rượu sâm-banh
với nem chua trên toa xe lửa tốc hành, đi thăm mả vua Tây Sơn (...) làm
náo động cả quan nha một vùng địa phương Bình Ðịnh (1), quái gở ôi là
quái gở vậy thay. Chưa cho là đủ ngông, cái “quái tướng” ấy lại còn cầm
đốc một thanh kiếm múa may quay cuồng nữa. Có đáng sợ không? Thật là
“Ðời chưa chán tớ, tớ còn chơi” có như thế, vong linh ạ.
Nhà thi sĩ của chúng ta là một người hoàn toàn của thời cũ, vốn không
quen với sự Âu hóa về phục sức, hôm đi tắm bể, đã hết sức cẩu thả. Người
ta đừng vội tưởng thi sĩ đã hiện nguyên hình trên bãi cát bể Sầm Sơn
đâu.
Thi sĩ cởi trần trùng trục, cái quần vải tây-cổng (?) có dây lưng lụa
buộc hở (?) ngoài, được buông hẳn cạp lá tọa xuống. Con người ta đã nặng
về phần ăn, thì nhẹ về phần mặc, thường là thế.
Nơi dây lưng lụa, một bên thi sĩ cột một be rượu một bên giắt một con dao nhọn mũi.
Thế rồi là ông Tản Ðà từ từ đi xuống nước mặn. Tây và đầm, buổi chiều
đó, đã nguýt một lên chài lưới bản xứ bơi gần họ và dám gạt cái quả bóng
cao-su xanh đỏ mà họ đang tung ném cùng nhau nô rỡn. Họ có biết đâu
rằng đây là một cái nhân tài của nước Nam ta.
Thế rồi ông Tản Ðà cứ bơi đứng - bơi đứng, xin nhớ kỹ cho tôi - ra mãi
ngoài xa, tìm được những tảng đá sống trâu nổi lên mặt nước mới chịu
nghỉ. Ðấy là những miếng đá thừa thãi của mũi bể Cổ Rùa, ngoi xa ra
biển. Chỉ có những người biết bơi lặn mà mạo hiểm lắm thì mới dám ra nơi
ấy. Ông Tản Ðà có bơi ra tận đấy để uống ngay tại trận một bữa rượu.
Ông mở nút chai rượu giắt ở dây lưng, vừa nhìn cái sóng bạc đầu, vừa tu
ừng ực. Lấy mũi dao nhọn, ông cậy những con hầu bám vào đá giống như một
vục (?) khoáng chất, bổ đôi từng con ra, múc lấy ruột sống, ăn rất ngon
lành, thỉnh thoảng lại chép miệng vì thiếu mất ít gia vị. Chả nhẽ giờ
lại cất công vào bờ vì một múi chanh, nhúm hồ tiêu sọ quên mang theo!
Bóng tịch dương phía bờ cát đã nhuộm đỏ ối cánh rừng phi lao đang rung
động nổi một cuộc hòa nhạc với cái hải triều âm. Bóng tịch dương viền
cái hình thù ông Tản Ðà một màu đỏ gắt. Ðỏ gần được như mặt người say
rượu. Mầu đá lúc bấy giờ tím, nước xanh như cánh chim trả, sóng trắng
như thủy ngân. Giữa cái ầm ầm không mỏi mệt và có mầu sắc lạnh lùng như
thế đang va đụng vào nhau, ông Tản Ðà ngồi yên lặng nậy những con hầu
với một cái mặt đỏ gay. Chúng ta đã có cả một ông Lý Thiết Quài cổ quái
đang ngồi ấp một cái su đá, vọng ra cái mênh mông của bể Ðông. Ăn no tắm
mát rồi, lúc đặt chân lên dải cát vàng, thi sĩ của chúng ta nhìn cái
mây nước vô hạn cảm, và muốn át cả tiếng bể Ðông, nói rất to:
- Nhất sinh, chưa bao giờ ta được hả đến như thế.
Lại một lần, vào giữa hồi thất thế, tiên sinh được một người bạn liền
tài vời ra dưỡng nhàn tại vùng Quảng Yên. Cuộc đi ở đậu này là một cuộc ở
nhờ dài hạn. Chủ và khách rất tương đắc.
Nhân một buổi chủ nhân vắng nhà, không biết buồn tay buồn chân thế nào
mà ông Tản Ðà cho dẹp hết cả bàn ghế bầy ở phòng tiếp khách lại một góc
tường. Rồi cầm lưỡi thuổng, tiên sinh đã cậy bật hết mấy lượt gạch đá
hoa nơi nền nhà. Chợt thấy chủ nhân về, tiên sinh chống thuổng cười hề
hề, chỉ cái đống đất và cát ngổn ngang trong lòng một thước vuông diện
tích gạch hoa bị lật tung, hình như muốn ai cũng phải như mình, phải
cùng thưởng thức với mình một công trình phá hoại nho nhỏ như thế. Thấy
chủ nhân chậm lĩnh hội, tiên sinh phải cắt nghĩa:
- Ấy, định trồng ít vài (?) húng láng. Ăn uống thiếu rau cỏ, nhiều khi bực đến chết. Chén rượu nào cũng cứ nhạt phèo.
*
Bây giờ mới đến chuyện ông Tản Ðà múa kiếm.
Hồi năm ngoái, vào tiết sen tàn đã cụp lại trên mặt ao những chiếc nong
rách, pha vào cái già nua của cây cỏ một màu gỉ sắt, tôi và vài ông bạn
nữa kéo nhau vào làng Hà Trì ở gần tỉnh Ðơ. Ông Tản Ðà đã đính ước cùng
chúng tôi là gặp nhau ở đấy, hôm chủ nhật, để đánh chén. Gặp ông Tản Ðà,
thường bao giờ cũng lấy rượu ra làm đầu sai, nếu không đãi yến thì ít
ra cũng phải tiểu ẩm. Hôm ấy, thịnh soạn. Thi nhân khoe rằng vừa mới
lĩnh được một món tiền nhuận bút. Thảo nào, ruợu hôm ấy có lẫn mùi đẳng
sâm. Và sáng hôm ấy, tôi thấy được một ngày không có giờ. Trong lúc chủ
khách thụ ẩm, sự đời cứ chầm chậm, nhà nho như cái hồi nước cổ Việt Nam
chưa bị nhà nước Pháp tới ở, có những người vào lớp cha anh chúng ta, ăn
bữa gỏi cá sinh cầm mất những một ngày một đêm.
Lúc gần triết soạn, tôi nằn nì với chủ nhân:
- Người ta đồn cụ múa kiếm có nhiều đường đẹp lắm. Anh em hôm nay muốn được xem.
Mỗi người thêm một câu. Rút cùng, Phục - người con thứ của thi sĩ - đã
đưa cho cha một con dao phay. Nhưng trước khi bình thân, ông Tản Ðà đã
thét người nhà lấy mấy tấm liếp bằng cót che kín mặt nhà trước lại. Và
đóng kín cả hai tấm cửa sổ ở phía sau nhà trông ra vườn nữa.
Tôi đã hiểu thầm tại sao ông Tản Ðà có sự cẩn thận này. Ðấy là dớp sợ
hãi của những năm Ðông Du và Ðông Kinh Nghĩa Thục còn để sót lại trong
người thi nhân. Cái sự đó, cái cẩn thận đó là những cái lo lắng chính
đáng của những nhà nho sống vào thời cụ Quận Thái Xuyên Hoàng Cao Khải,
vào thời quan Khâm sai Lê Hoan, mà vẫn nhớ luôn là trong nhà mình có
quyển sấm Trạng Trình, một cuốn binh thư và trong cái đòn ống gác bếp,
vẫn có một thanh quất ép lưỡi vào tấm bìa một cuốn sách tính số Thái
Ất.(2) Trước khi múa kiếm, ông Tản Ðà nghiêm trang như một võ sĩ sắp lên
tỉ thí trận lôi đài, nói với mọi người:
- Môn kiếm này của Tư Ðạt truyền cho tôi.
- Tư Ðạt?
- Con ông Ðô thống Thuật ấy mà.(3) Ngày xưa, tôi năng tập, công phu lạ.
Bỏ đã lâu lắm, chả biết bây giờ có đi được cả bài không. Ấy thế mà dù có
nhớ, cũng khó mà đi hết được.
Trong gian nhà tối lờ mờ, mọi người nhận thấy một cái bóng trắng lượn
múa trên hai bộ ngựa ghép sát lại,. Ông Tản Ðà mặc áo trắng dài. Cũng
tiến lên, lùi xuống, bước đi gò theo một luật phép rất khắc khổ. Cũng
múa trên, đỡ dưới. Chưa bao giờ, tôi tập đánh kiếm. Nhưng hồi còn ở lao,
có mấy người tù đàn anh đã đi cho tôi xem cả môn độc kiếm, cả môn song
kiếm, và giảng sơ sơ cho tôi về kiếm thuật. Căn cứ vào những nhời xa xôi
ấy, tôi thấy ông Tản Ðà hôm ấy múa tròn lắm, đường kiếm lúc nào cũng
che kín người. Và có những đoạn loạn đả, ông Tản Ðà có những miếng sả và
tuốt cũng lợi hại lắm. Chả biết lúc sự thực phải cho đổ máu thì kiếm
thuật sẽ như thế nào, nhưng ở phút múa kiếm sau cơn rượu, tôi thấy thi
nhân đẹp lắm. Và nhớ tới trong một cuộc bút chiến, ông Tản Ðà đã lên án
chém ông Phan Khôi mà tôi sợ.
Tôi nhìn xuống nhà dưới thì ở khung cửa nhà ngang, bà Tản Ðà đang thập
thò với vẻ khiếp sợ rõ rệt. Nghỉ múa kiếm, ông Tản Ðà gọi thứ nam:
- Phục ơi! Con bỏ quần áo vào va-li cho cậu. Chiều nay cậu ra Hà Nội.
Rồi quay lại phía chúng tôi, ông nói về chuyện kiếm:
- Tứ phương, bát diện, những lúc tứ diễn thu dinh, những lúc hồi chiến, thanh kiếm sát phạt đã nhiều lắm chư vị ạ!
Vẫn không quên sắp hành lý để trẩy ra Hà Nội, thi nhân bỏ vào va-li một
cái nghiên mực, một đĩa son và một tập cổ thi. Cái va-li ấy là một cái
va-li cũ kỹ đã bật cả khóa, chẳng khác gì cái va-li của một ông đồ Nghệ
mới ra Bắc làm thuốc. Say rượu, rồi múa kiếm, cất kiếm rồi hỏa tốc sắm
va-li lên đường như là một khách không nhà, sao người ta không sống vào
thời Trung Cổ để làm một kẻ hiệp sĩ nhỉ? Chưa bao giờ, tôi buồn một cách
rất thi vị như buổi chiều ấy.
Cái buổi chiều ấy là một buổi chiều ông Tản Ðà khởi hành ra Hà Nội để
rồi đi mãi mãi, đi... thẳng luôn vào lịch sử, của nước Việt Nam văn
chương.
Bãi bể Cửa Lò, tết Ðoan Ngũ
(Trong Chén rượu vĩnh biệt (nhiều tác giả), nxb. Văn Hóa, Hà Nội, VN, 1989)
___________
(1) Xem bài Thăm Di Tích Tây Sơn của Tản Ðà, trên trang gocnhin.net.
(2) Hoàng Cao Khải và Lê Hoan là hai tên quan bán nước. Ðây ý nói vào thời hai tên ấy đang giúp giặc Pháp bình định nước ta, những người Việt Nam yêu nước phải hết sức cẩn thận. (TT)
(3) Chắc là Nguyễn Thiện Thuật, một lãnh tụ Cần Vương nổi bật ở Bắc kỳ.
Monday, February 20, 2017
TRẦN NHẬT PHONG * CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Việt Nam muốn thay đổi, chỉ còn chờ... đổ máu
Trần Nhật Phong (Danlambao) - Cậu nghĩ với tình thế hiện nay, liệu CS có sụp đổ trong vài năm tới hay không?
Ông anh “tiền bối” từ Seathle gọi xuống “xả bầu tâm sự” về tình hình
“Năm Châu Bốn Bể”, từ chuyện tổng thống Donald Trump cho đến các cuộc
biểu tình khởi kiện Formosa, đột nhiên đưa ra câu hỏi khiến tôi… chới
với.
Tôi không phải tiên thánh, cũng không phải thầy bói hay nhà tử vi, có
thể đoán được số mệnh của một dân tộc, một câu hỏi quá lớn và tôi tin
rằng, nhiều người vẫn đang cố gắng tìm… câu trả lời.
Tôi nhớ lịch sử của Trung Hoa cận đại, khi quốc gia này chính thức dẹp
bỏ chế độ phong kiến và lập ra một nền Cộng Hòa đầu tiên, do còn quá non
trẻ và một xã hội đầy nhiễu nhương, Trung Hoa đã từng bị bể thành hai
mảnh, chính quyền Bắc Kinh do Viên Thế Khải cầm đầu, muốn tái lập chế độ
quân chủ và chính quyền Nam Kinh dưới sự lãnh đạo của Quốc Dân Đảng
muốn thực thi theo chủ thuyết Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên.
Kết quả nước Trung Hoa rơi vào tình trạng quân phiệt, mỗi tỉnh, mỗi nơi
đều có một ông tướng quân là “vua” một khu vực, tình trạng loạn lạc đã
khiến Trung Hoa trở nên rối rắm, trước khi có sự xâm lăng của quân đội
Nhật Bản ở khu vực Đông Bắc Trung Quốc, tạo cơ hội cho Mao Trạch Đông và
đảng CS Trung Quốc trổi lên, đánh bật Tưởng Giới Thạch ra khỏi Trung
Quốc, và kiến lập chính quyền CS từ năm 1949.
Cuộc nhiễu nhương kéo dài sau Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 đến năm 1949,
được xem là thời kỳ hỗn loạn, tình trạng vô luật pháp ở mỗi địa phương,
binh lính, cảnh sát sách nhiễu dân chúng, các tập đoàn tội ác thống trị ở
mỗi địa phương, liên kết với các ông “vua” nắm quân đội ở mỗi vùng,
chia chát địa bàn để khai thác tài nguyên, dẫn đến những cuộc xung đột
giữa các tướng quân “lãnh chúa” từng khu vực.
Cuối cùng Trung Hoa rơi vào một cuộc đổ máu trước khi quốc gia này bước sang một trang sử khác.
Nếu nhìn lại lịch sử, những gì đang xảy ra tại Việt Nam hôm nay, cũng
tương tự giai đoạn nhiễu nhương của Trung Hoa năm xưa, có khác chăng chỉ
là những “tên gọi”.
Nếu năm xưa các tướng quân “lãnh chúa” ở Trung Hoa nắm quyền sinh sát
bằng họng súng của quân đội, thì hôm nay các “lãnh chúa” ở Việt Nam
chính là các “lãnh đạo ban ngành”, những kẻ được gọi là “bộ trưởng”.
Thời điểm nhiễu nhương của Trung Hoa, mỗi tên cảnh sát đều đi “thu thuế”
những người làm ăn một cách trắng trợn, thì hôm nay, mỗi kẻ mặc áo công
an đều tìm đủ mọi cách để moi tiền của người dân.
Thượng Hải thời điểm nhiễu nhương, cảnh sát liên kết với các băng đảng
tội ác, buôn người, buôn lậu từ nha phiến cho đến vũ khí, thì hôm nay ở
Sài Gòn, Hà Nội, công an liên kết với côn đồ, xã hội đen sách nhiễu
người dân, hà hiếp, đánh đập, hút sạch máu của dân chúng.
Những kẻ làm ăn dưới thời hỗn loạn của Trung Hoa Dân Quốc, hầu hết đều
phải “chung chi” cho thị trưởng, cho cảnh sát và cho cả quân đội để
“mua” sự bình an trong việc làm ăn, nó không khác gì những kẻ làm ăn hôm
nay ở Việt Nam, phải “chung chi” cho ban ngành, cho công an và cho cả
những ông “bí thư” từ tỉnh, thành phố lớn cho đến địa phương.
Các tay “lãnh chúa” luôn nhân danh nhu cầu “an ninh xã hội”, nhân danh
phát triển để trưng thu thuế má, tăng giá những nhu cầu của dân chúng
thời đó như gạo, nước, muối v.v… Tạo cơ hội cho các con buôn trục lợi,
thì hôm nay ở Việt Nam, những “quan chức’ địa phương cũng nhân danh
“Nhân Dân” nhân danh “phát triển” nhân danh “yêu nước” để hút máu người
dân từ giá điện, giá xăng, và buộc con cháu của dân đen phải đi “nghĩa
vụ quân sự” trong khi con cháu của các “lãnh đạo ban ngành” thì nhỡn nhơ
khoe xe hiệu, hàng hiệu và “tự sướng” ở Las Vegas, ở Paris ở New York.
Và khi không còn gì để “ăn” để khai thác, thì các “lãnh chúa” bắt đầu
tìm cách “ăn thịt” lẫn nhau để dành địa bàn, lãnh thổ. Nó không khác gì
hôm nay những cuộc thu tóm ngân hàng, những Nguyễn Công Danh, Bầu Kiên,
Hồ Thị Kim Thoa, Đặng Thị Hoàng Yến, Trịnh Xuân Thanh, đều bị “cướp
sạch” và nhân danh “luật pháp” để tước đoạt tài sản của những kẻ “đồng
loại” của họ.
Kết quả nhờ cuộc xâm lăng của quân đội Thiên Hoàng nhật Bản, mà nước
Trung Hoa đã bước sang một bước ngoặc khác sau một cuộc đổ máu lớn.
Tôi cho rằng tình hình Việt Nam cũng vậy, sự bành trướng của CS Trung
Quốc hiện nay trên Biển Đông, thao túng toàn bộ nền kinh tế của Việt
Nam, muốn thoát khỏi cục diện nhiễu nhương hiện nay, Việt Nam cũng sẽ
khó tránh một cuộc đổ máu, và cuộc đổ máu này chính là cơ hội cho cả dân
tộc, ít nhất thoát khỏi vòng kềm tỏa của CS Trung Quốc.
Đương nhiên không ai muốn dân tộc đổ máu, vì tất cả đều là máu thịt của
người Việt Nam, nhưng với thể chế cầm quyền hiện nay của đảng CS và
những “trò dơ bẩn”, để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền cai trị, Việt Nam đã
không còn một cơ hội nào để thay đổi trong hòa bình, dân tộc Việt Nam
chỉ có thể vươn ra thế giới bên ngoài nếu chính họ thay đổi toàn bộ thể
chế cai trị hiện nay, nhưng với tình hình hiện tại, khi người CS nắm
quận đội và công an với súng đạn trong tay để giữ quyền lãnh đạo, thì
vĩnh viễn sẽ không có một cuộc thay đổi ôn hòa, do đó việc đổ máu sẽ là
một điều không thể tránh khỏi.
Đó là quan điểm của cá nhân tôi, người Việt Nam cần cù, chịu làm việc,
thông minh và biết tôn trọng các giá trị lâu dài, cùng với dải non sông
một bên là biển và một bên là rừng bao la bát ngát, không lý nào suốt
mấy mươi năm qua lại chịu thua kém cho mặt bằng của thế giới, thua cả
Lào và Cam Bốt, đó chính là do thể chế cai trị “tàn tật”, dẫn đến nền
giáo dục “vô bổ”, và từ nền giáo dục “vô bổ’ đã đẩy xã hội vào nền “văn
hóa bệnh hoạn” nhiễu nhương hiện nay.
Các bạn trẻ ở Việt Nam, các bạn hãy suy nghĩ thật kỹ cho thân phận của
chính các bạn và gia đình các bạn, suy nghĩ đến tiền đồ của cả dân tộc
mà chọn quyết định đứng đắn cho cuộc sống và tương của chính các bạn
nhé, tôi là công dân Hoa Kỳ, tôi không còn nhu cầu gì ở Việt Nam, và Hoa
Kỳ đã chính thức trở thành quê hương của tôi, do đó đừng nghe các DLV
“chụp mũ” rằng tôi có động cơ chính trị ở Việt Nam, nên” kích động” gây
‘thù hằn dân tộc” nhé, tôi tri ân Hoa Kỳ đã cưu mang và tạo cho tôi có
một cuộc sống tốt đẹp, nhưng từ sâu trong tâm khảm, tôi vẫn yêu Việt
Nam, nhưng yêu Việt Nam không có nghĩa là yêu cái chế độ “thổ tả” hiện
nay, nên đừng cho rằng tôi “thù hằn” dân tộc Việt Nam nhé. Chào các
bạn.
21.2.2017
MAI THANH TRUYẾT * ĐỘC TÀI SANG DÂN CHỦ
Sự thay đổi thể chế đột ngột từ độc tài sang dân chủ
Mai Thanh Truyết (Danlambao) - Trong bài viết trước, vấn đề đặt ra là cần phải “Thay đổi hay thay thế CSVN”.
Kết luận của người viết là cần phải THAY THẾ, và không có một giải pháp
hay con đường trung gian nào khác cả. Và Đảng CSVN chính là một Đảng
độc tài đặt cơ chế chuyên chính vô sản làm phương châm hành động và cai
trị.
MAU hay CHẬM?
Lý luận của khuynh hướng thay đổi:
Thay đổi thể chế đột ngột sẽ gây xáo trộn xã hội hay có thể xảy ra xung
đột địa phương làm tình hình đất nước trở nên bi thảm, đời sống người
dân xáo trộn hơn. Dân Việt Nam đã trải qua thời gian dài chiến tranh, ai
cũng muốn có cuộc sống an bình lo cho gia đình. Đấu tranh lật đổ một
nhà cầm quyền cho dù có ôn hòa cách mấy cũng gây xáo trộn xã hội và tình
trạng bất ổn còn có thể kéo dài.
Chắc gì một chính quyền mới lên không có tham nhũng hay không độc tài?
Đây chính là câu hỏi đầu môi của những người chủ trương thay đổi.
Những ông cộng sản cũ chắc chắn sẽ tìm đường trở lại với chiêu bài mới
và độc tài mới như Putin hiện giờ thì sao? Họ có nhiều khả năng làm được
vì có tiền, có quan hệ chính trị rộng rãi và đảng viên ĐCS vẫn còn đông
đảo trong các chức vụ cao cấp ở mọi cơ quan chính quyền, công an và
quân đội.
Ngoài ra, thời gian chuyển tiếp từ lúc chế độ CS sụp đổ tới xây dựng các
cơ chế cầm quyền dân chủ hẳn phải có nhiều nhiễu nhương khó có thể dự
đoán do tranh chấp quyền lực giữa các thế lực. Điều này sẽ gây bất ổn
chính trị, như trường hợp Ai Cập và Lybia hiện nay.
Lý luận của khuynh hướng thay thế:
Sự thay đổi thể chế từ độc tài sang dân chủ không bao giờ là một tiến trình êm thắm.
Sự không êm thắm là đương nhiên (nói theo kiểu VC là “tất yếu”) vì con
thú dữ độc tài (CSVN) bao giờ cũng giãy giụa mãnh liệt gây nhiều thiệt
hại và làm xáo trộn xã hội trước khi tắt thở. Việc này sẽ thể hiện qua
sự kiện những phe cánh độc tài tìm đường trở lại nắm quyền với những thủ
đoạn bất chính.
Tuy nhiên, đây là cái giá bắt buộc phải trả để có được dân chủ, và dân chủ là con đường duy nhất đưa Việt Nam tới phú cường.
Người dân Việt Nam phải có can đảm chấp nhận bất ổn hay xã hội bị xáo
trộn trong giai đoạn chuyển tiếp để đổi lấy một tương lai sáng lạn cho
con cháu và đất nước, nhất là khi có dân chủ thì người dân có cơ hội để
chống lại sự xâm lăng tiệm tiến của Tàu cộng.
Chắc chắn người dân Việt sẽ không có cuộc sống yên bình dưới ách đô hộ
của Tàu cộng? Mặt khác, sự bất ổn xã hội do chính phe cánh cộng sản bị
lật đổ muốn quay trở lại nắm quyền nhằm bảo vệ quyền lực và quyền lợi,
gây ra chứ không phải từ sự tranh đấu dân chủ. Điều này cũng là bằng
chứng để phủ nhận lập luận rằng một chế độ độc tài có thể bỏ bớt độc tài
và thực thi dân chủ từng bước. Một khi đã là độc tài… chỉ có độc tài
sắt máu thêm nữa chứ không bao giờ… bớt độc tài, trừ khi bị thay thế
bằng một cuộc nổi dậy của toàn dân.
Đứng trước hai khuynh hướng đối cực trên, chúng ta lại thấy một sự khác
biệt nữa là sự hiện diện của “những đảng viên CS cấp tiến hay phản tỉnh”
có thể làm cho tiến trình thay đổi có tính cách êm dịu hơn vì không làm
xáo trộn xã hội và đưa đến khủng hoảng.
Vì vậy: Khuynh hướng thay đổi nhận định là nội bộ ĐCSVN vẫn còn nhiều những đảng viên yêu nước sẽ không nhẫn tâm bán nước cho TC hay để đất nước suy sụp (?).
Thực tế cho thấy thỉnh thoảng có vài đảng viên CS yêu nước lên tiếng
“bức xúc” về thái độ của bộ chính trị ĐCSVN trước hiện tình TC xâm lăng
cũng như nạn tham nhũng. Nhưng những đảng viên này chưa có dịp nổi lên
chỉ vì họ còn đang trong thế yếu. Nếu khuyến khích, cổ động họ thì họ sẽ
là nhân tố thay đổi rất hữu hiệu trong nội tình đảng CS và kéo ĐCS về
với lợi ích dân tộc.
Từ đó ĐCS sẽ tự “diễn biến” và trở thành dân chủ, như trường hợp Yeltsin
ở Liên Xô. Nếu một đảng có uy tín, có ưu thế chính trị và làm được công
việc đưa đất nước tới cường thịnh thì phải là điều đáng hoan nghinh,
còn hơn nhiều đảng mà chỉ tranh cãi với nhau và thiếu quyết tâm lãnh
đạo, như trường hợp đảng Hành Động Nhân Dân (People’s Action Party) của
Singapore dưới quyền Lý Quang Diệu. Lãnh đạo tốt là điều Việt Nam cần để
đưa đất nước thoát khỏi cộng sản và một nền kinh tế cường thịnh.
Tuy nhiên, khuynh hướng thay thế phản bác suy nghĩ trên qua cung cách đặt vần đề như sau: "Dĩ
nhiên không thể phủ nhận rằng trong bất cứ tập thể xấu nào cũng có phần
tử tốt nhưng lập luận cho rằng các phần tử tốt trong nội bộ ĐCSVN có
thể nắm quyền chủ động và thay đổi đảng từ độc tài sang dân chủ là
chuyện không thể xảy ra”.
Vì sao?
Vì cơ cấu tổ chức của ĐCS ngày nay không khác gì đảng Phát Xít của
Hitler, là một đảng chính trị mafia. Vào đảng là phải tuân phục một
nguyên tắc chung, đi ngược lại nguyên tắc này là sẽ bị khai trừ và mất
tất cả qua cơ chế chuyên chính vô sản, một hình thức độc tài sắt máu.
Chúng ta thấy có một số cựu đảng viên lên tiếng phản đối đường lối của
ĐCSVN nhưng chúng ta chưa bao giờ thấy đảng viên tại chức lên tiếng. ĐCS
không muốn trừng phạt những cựu đảng viên hưu trí này vì một phần hầu
hết cũng đã tới tuổi sắp quy tiên, có nói cũng chẳng còn mấy hơi sức
nữa, phần khác là nếu có trừng phạt họ thì chỉ mang tiếng vắt chanh bỏ
vỏ, chẳng lợi gì.
ĐCSVN đã thấy và “học” trường hợp Yeltsin và đã đề phòng, và sẽ không thể có Yeltsin Việt Nam.
Ngoài ra sự tự chuyển hóa của một đảng từ độc tài sang dân chủ là chuyện
chưa bao giờ xảy ra. Đảng viên gắn kết với nhau từ quyền lợi, mất đảng
sẽ mất quyền lợi nên tất cả phải cùng nhau bảo vệ đảng. Bởi thế mà ĐCSVN
có câu châm ngôn “vì đảng vì mình”. Mong chờ một lãnh đạo tốt từ ĐCS chỉ là mỵ dân, người tốt, ngay thẳng sẽ không bao giờ vào ĐCSVN.
Hơn nữa, so sánh để bắt chước Singapore là chuyện không bảo đảm. Điều
trước tiên là ĐCSVN đã bị lún quá sâu vào quỹ đạo của ĐCSTC, ĐCSVN chỉ
có một con đường duy nhứt là làm tay sai bán nước trước mặt.
- Chuyện chăm lo cho đất nước không nằm trong nghị trình làm việc của ĐCSVN.
- Kế đến là ĐCSVN không có nhân tài do quy chế độc tài đã đào thải tất cả nhân tài từ bao năm nay, chỉ còn toàn kẻ xu nịnh.
- Sau cùng ĐCSVN chẳng còn chính nghĩa, bất cứ lãnh đạo nào từ ĐCS sẽ không được người dân tin theo và ủng hộ.
Kết luận khẳng quyết là trông chờ vào sự cải cách từ ĐCS là chuyện sẽ
không xảy ra và ĐCSVN không còn tư cách để lãnh đạo đất nước.
Câu hỏi được đặt ra là lực lượng đối kháng hiện nay có đủ mạnh và có đủ
uy tín để lật đổ chế độ CS cũng như nắm quyền lãnh đạo chưa?
Đối với khuynh hướng thay đổi, câu trả lời là: "Chưa có lực lượng đối kháng đủ mạnh để lật đổ ĐCSVN."
- Ngày xưa VNCH với sự trợ lực của cường quốc Hoa Kỳ cũng phải thua thì
làm sao có thể lật đổ được CSVN khi họ đã chiếm hoàn toàn miền Nam?
- Ngày nay, không quốc gia nào đứng ra cung cấp vũ khí cho lực lượng du kích đối kháng để đánh lại một nhà cầm quyền.
- Còn nếu sử dụng phương pháp đấu tranh bất bạo động như các cuộc cách
mạng Mùa Xuân Ả Rập thì cũng không phải dễ. Điển hình tổ chức biểu tình ở
VN với 2, 3 trăm người là điều khó thực hiện.
- Trước sự kiểm soát của ĐCSVN quá chặt chẽ và tinh vi cộng thêm sự vô
cảm của người dân VN với vấn đề chính trị, thì việc xây dựng một vài tổ
chức đối kháng là rất khó và tìm cách trở nên lớn mạnh để có thể lật đổ
chế độ lại càng khó hơn.
Nhưng, khuynh hướng thay thế lại có cái nhìn tích cực và lạc quan hơn qua những lập luận dưới đây:
- Quả thực lật đổ chế độ CSVN là một việc vô cùng khó. Nhưng so
sánh VNCH và CSVN là một chuyện lạc đề, vì hôm nay cuộc chiến là giữa
người dân và đảng CS, là chuyện đòi hỏi quyền được làm người, đòi toàn
vẹn lãnh thổ.
- Cuộc đấu tranh này sẽ được thực hiện bằng phương pháp bất bạo
động nên việc so sánh tương quan lực lượng bằng quân đội hay công an là
không đúng chỗ. Đấu tranh bất bạo động chủ yếu nhờ vào lòng dân và sức
dân. Dân chúng chính là người trao quyền lực cho nhà cầm quyền bằng cách
tuân phục nhà cầm quyền. Hay nói cách khác, nhà cầm quyền chỉ có quyền lực thực sự khi người dân nghe theo.
- Nếu người dân không chấp nhận nhà cầm quyền và không nghe theo
thì nhà cầm quyền mất hết quyền lực. Lực lượng đối trọng với nhà cầm
quyền độc tài là dân chúng. Chưa bao giờ có nhà cầm quyền nào có thể giữ
vững ngôi vị của mình khi không có sự chấp nhận của người dân. Đây
chính là mục tiêu tranh đấu của phong trào đấu tranh lật đổ chế độ CSVN.
Vì thế lực lượng đối kháng là toàn dân Việt Nam. Vấn đề cho những nhà
tranh đấu là làm sao khơi dậy khối đa số thầm lặng này đứng lên dứt bỏ
chủng tử “sợ”.
Kết luận: từ đó đi đến quyết tâm
Sự quyết tâm hay ý chí trong việc chuyển đổi một chính thể quốc gia quan
trọng hơn tính xác tín của vấn đề. Sự quyết tâm trong đấu tranh chống
CSVN là lật đổ, hủy bỏ chế độ CS, không phải tìm cách thay đổi nó. Sự
quyết tâm sẽ giúp loại trừ tâm trạng mất tự tin hay yếm thế và dẫn đến
tính ỷ lại. Sự giúp đỡ bên ngoài của ngoại quốc chỉ là phụ thuộc, có thì
tốt, không có cũng không sao.
Vì quyết tâm cho nên cần phải làm những điều sau đây:
- Không yêu cầu, kiến nghị, van xin CSVN thay đổi hiến pháp, thực thi dân chủ...
- Không chỉ dẫn cho CSVN xây dựng đảng vững mạnh hay tránh nguy
cơ sụp đổ (đảng) bằng cách vạch ra con đường trở về với dân tộc, chống
lại Tàu, thực thi dân chủ.
- Không bao giờ tin tưởng vào thiện ý của ĐCSVN. ĐCSVN có ăn
năn hối lỗi và muốn chuộc tội cũng không chấp nhận. ĐCSVN bắt buộc phải
ra đi.
- Không kỳ vọng vào bất cứ sự thay đổi cải cách dân chủ nào từ ĐCSVN.
- Đừng bao giờ đóng vai bàng quan, chỉ quan sát hay bình phẩm sự giao chiến giữa hai dân chủ và phe độc tài CS.
Sau cùng, chúng ta nên dứt khoát với mục tiêu đấu tranh rằng, ĐCSVN phải ra đi, biến mất, không chấp nhận thay đổi, không chấp nhận biến thể (đề phòng vỏ dân chủ mà trong ruột thì vẫn là độc tài).
Và, cũng vì quyết tâm cho nên chúng ta cần:
- Tin tưởng vào sức mạnh và khả năng của người dân. Người dân Việt Nam có khả năng lật đổ được độc tài CSVN.
- Góp bàn tay đấu tranh và kêu gọi mọi người dân đấu tranh.
- Đau với cái đau của đất nước và dân tộc.
- Học hỏi phương pháp đấu tranh bất bạo động và loan tải kiến
thức đấu tranh cho những người chung quanh để mọi người đều trở thành
chiến sĩ dân chủ.
- Tố cáo với Quốc Tế về những hành vi khủng bố của CSVN và Trung Cộng.
Cần đưa CSVN vào CPC (Countries of Particular Concern - Các quốc gia đặc
biệt đáng quan tâm).
Vẫn biết công cuộc đấu tranh lật đổ ĐCSVN là con đường chông gai, nhiều
khó khăn và phải mất thời gian. Do đó, sự thành công chỉ có thể đến được
với một phong trào dân chủ đối kháng vững mạnh. Công việc thành lập,
nuôi dưỡng phong trào và huấn luyện thành viên là tối quan trọng. Bước
đầu tiên, hẳn nhiên là phải xác định lập trường, mục tiêu đúng đắn và sự
quyết tâm. Nên nhớ CSVN luôn nắm vững quyết tâm thực thi “độc tài toàn
trị”, vì vậy cho nên mọi phản kháng đều bị đàn áp dã man, và bị triệt
tiêu hoàn toàn.
Quyết tâm là chấp nhận “cái chết” trong tranh đấu “bất bạo động” toàn vẹn và làm viên gạch nối cho công cuộc cách mạng dân tộc!
Your (CSVN) oppression is our revolution!
Mục tiêu duy nhất cần phải nhắm tới là chế độ CSVN sẽ không còn hiện hữu trên mảnh đất thân yêu của dân tộc nữa.
21.02.2017
Bạn nghĩ là mình biết cả bảy lục địa trên hành tinh này? Có lẽ bạn nên
nghĩ lại vì có thể ứng viên rất tiềm tàng trở thành một châu lục thêm
vào bảy châu lục chúng ta vốn từng biết.
Xin mời bạn đến với Zealandia, một vùng đất mênh mông nhưng gần như ngập hoàn toàn dưới mặt nước ở phía tây nam Thái Bình Dương.Nó không phải là một cái gì hoàn toàn xa lạ, bạn có thể đã nghe nói về những đỉnh núi cao nhất trên vùng đất náy nhưng chỉ có một phần của nó là nhô lên khỏi mặt nước mà thôi: đó là New Zealand.
Trong một bài báo đăng trên tạp chí Hội địa chất Mỹ, các nhà khoa học giải thích rằng Zealandia rộng 5 triệu km vuông, tức là bằng 2/3 lục địa Úc láng giềng.
Bạn có thể cho rằng yếu tố nổi trên mặt nước là tối quan trọng để được coi là một châu lục, nhưng các nhà nghiên cứu lại nhìn nhận vào những phạm vi khác mà tất cả những yếu tố đó thì ứng viên mới này có đầy đủ.
- nhô lên so với khu vực xung quanh
- có địa chất đặc biệt
- là một vùng được định hình rõ ràng
- có lớp vỏ dày hơn đáy đại dương thông thường
Tác giả chính của bài báo, nhà địa chất New Zealand Nick Mortimer, nói các khoa học gia đang tìm kiếm dữ liệu để chứng mình Zealandia là một châu lục từ hơn hai mươi năm nay.
"Giá trị khoa học của việc phân loại Zealandia là một lục địa nhiều hơn là chỉ thêm một danh hiệu vào danh sách," các nhà nghiên cứu giải thích.
"Một châu lục có thể chìm dưới nước nhưng không bị vỡ thành những mảnh vụn" khiến nó có ích trong việc "khám phá sự gắn kết hay rạn nứt của vỏ lục địa".
Trên thực tế không có một cơ quan khoa học nào chính thức công nhận các lục địa. Vì thế nó chỉ có thể thay đổi qua thời gian nếu các nghiên cứu trong tương lai chấp nhận Zealandia cũng bằng với các lục địa khác và cuối cùng chúng ta sẽ được học về tám châu lục chứ không phải bảy như hiện nay.
http://www.bbc.com/vietnamese/culture-social-39003855
No comments:
Post a Comment