GS. PHẠM ĐỨC LIỆN * GIÁO CHỨC QUỐC GIA
Giáo chức thời Việt Nam Độc Lập (9 tháng 3 năm 1945)
và Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975)
GS Phạm Đức Liên
Tháng 9 năm 1939, đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945) bùng nổ!. Trong khi Đức và Ý làm chủ tình hình ở Châu Âu và Bắc Phi thì ngược lại người Nhật kiểm soát Á Châu - nhất là Việt Nam, yết hầu vùng Đông Nam Á. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương (Nhật đã vào Việt Nam từ năm 1939 và áp đảo người Pháp), chấm dứt gần 100 năm - thực dân Pháp "bớp tai/đá đít" dân Việt!. Chỉ hai ngày sau đó - thừa lệnh Nhật Hoàng, Đại Sứ Nhật tại Việt Nam, Yokoyama - xin yết kiến vua Bảo Đại và : "Muôn tâu Hoàng Đế, chúng tôi xin dâng nền độc lập lên Ngài và dân tộc Việt Nam" - " Xin Việt Nam ở trong khối thịnh vượng Châu Á - do Nhật Hoàng lãnh đạo". Bản tuyên ngôn Việt Nam Độc Lập được vua Bảo Đại và Viện Cơ Mật ký ngày 12/3/1945.
Biết bao xương máu của nhân dân Lạc Hồng - tranh đấu cho nền độc lập - từ phong trào Cần Vương/Văn Thân - Phan Bội Châu/Phan Chu Trinh ... đến Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa năm 1930, và ngay cả phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do Việt Nam Cộng Sản Đảng ... đã được đãi ngộ xứng đáng: Lãnh thổ và nền độc lập Việt Nam bất khả phân.
Hoàng đế Bảo Đại chỉ định GS Trần Trọng Kim lập chánh phủ Việt Nam Độc Lập. Nội các trí thức gồm các kỹ sư, luật sư, thạc sĩ, bác sĩ ... đã trình diện Hoàng Đế và quốc dân (giữa tháng 4/1945). Bộ Trưởng Giáo Dục đầu tiên của Việt Nam độc lập là Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn (Thạc Sĩ Toán Học). Bình minh cho lịch sử dân tộc Rồng Tiên (cận và hiện đại) Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu xa của Pháp - cho dầu đã độc lập (ngày 9/3/1945) - trên mọi lãnh vực: hành chánh (1) , tài chánh, kinh tế, và nhất là giáo dục. Mà giáo dục Pháp - cũng như Trung Hoa - rất kính trọng thầy cô (Quân, Sư, Phụ). Đó cũng là truyền thống Vạn Xuân.
I. Thầy cô dạy bậc tiểu học (lớp năm đến lớp nhất - sau năm 1963 đổi thành lớp 1 đến lớp 5): - Là giáo sinh, tốt nghiệp trường Sư Phạm (École Normale), được gọi là giáo viên (instituteur, institutrice) tiểu học. Điều kiện để vào học trường Sư Phạm là có bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp và qua kỳ thi tuyển.
- Từ niên khóa 1961/1962, phòng ốc của những trường trung học không đủ cung cấp cho sự gia tăng lũy tiến của số học sinh (đệ thất, đệ lục). Bộ Giáo Dục đào tạo thêm giáo sinh. Thí sinh phải có Tú Tài Phần Nhất được thi vào học trường Sư Phạm trong hai năm. Khi tốt nghiệp được gọi là Giáo Học Bổ Túc (ngạch trật lương bổng tương đương cấp Trung Úy trong quân đội với chỉ số lương 350). Quí vị được bổ nhiệm về dạy các lớp đệ thất, đệ lục ... ở các trường trung tiểu học (là những trường tiểu học lớn - mở thêm nhiều lớp tiếp liên, đệ thất, đệ lục). Trường Sư Phạm đào tạo Giáo Học Bổ Túc có ở những thành phố lớn như Sài Gòn, Quy Nhơ, Cần Thơ ...
II. Thầy cô dạy ở trung học(đệ thất đến đệ nhất - sau 1963 đổi là lớp 6 đến lớp 12): - Được gọi là giáo sư (professeur) dù là phụ trách những lớp bậc Trung Học Đệ Nhứt Cấp (đệ thất, lục, ngũ tứ). Những danh xưng đều từ tiếng Pháp mà dịch ra, rất chính xác, trí thức.
- là sinh viên tốt nghiệp Trường Cao Đẳng hay Đại Học Sư Phạm (École Normale Superieure = Faculté de Pédagogie). Cao Đẳng thường học 2 năm và Đại Học Sư Phạm thường học 4 năm:
- Họ phải có Tú Tài toàn phần, đậu kỳ thi tuyển, và được huấn luyện sau 2 năm học (Cử Nhân Bán Phần), được bổ nhiệm là Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp (Professeur de L'enseignement Secondaire du Premier Cycle). Ngạch trật lương bổng : chỉ số 370, ngang Đại Úy thực thụ bậc 1.
- Hoặc phải có Tú Tài phần hai, đậu kỳ thi tuyển, và được đào tạo sau 4 niên khóa (Cử Nhân Giáo Khoa) là Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp (2) . (Professeur de l'Énseignement Secondaire du Deuxième Cycle), dạy đệ tam, nhị, nhất, tức là lớp 10, 11, 12). Ngạch trật và lương bổng : chỉ số 470 ngang Thiếu Tá. Đó là những Giáo Sư Cử Nhân (Professeur Licencié) - ngang hàng với kỹ sư tốt nghiệp từ Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ (chỉ số 470). Xin lưu ý, sinh viên tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (Phó Đốc Sự) - kỹ sư Nông Lâm Súc có chỉ số lương là 430 mà thôi (đó là Cử Nhân tự do như Cử Nhân Luật - coi như BA ở Mỹ ngày nay - trong khi ĐHSP và KS Phú Thọ là BS).
Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn khai giảng khóa 1 vào tháng 9 năm 1958 (đó là trường Sư Phạm Hà Nội chuyển vào Sài Gòn sau Hiệp Định Geneve 1954 và được nâng cấp). Vì nhu cầu - mấy khóa đầu - trường phải đào tạo cấp tốc (1 năm cho GS Trung Học Đệ Nhứt Cấp và 3 năm cho GS Trung Học Đệ Nhị Cấp). Rồi Đại Học Sư Phạm Huế, Cần Thơ ra đời. Đó là những đại học công lập. Người viết vinh hạnh được học trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn hai lần. Lần đầu cho bậc cử nhân và lần sau từ tháng 9/1970 cho Cao Học Thống Kê Giáo Dục (Master Education in Statistics).
Sinh viên ĐHSP Saigon trong một chuyến du khảo tại Đà Lạt (Giáng Sinh năm 1964),
Đề tài bài học Địa Lý: Thế Đất Vùng Cao Nguyên Mầu Mỡ của Việt Nam
Các trường ĐHSP bậc cử nhân thường chia ra hai ban: Văn Chương (Triết, Việt Hán, Anh Văn, Pháp Văn, Sử Địa - và Luật để dạy Công Dân Giáo Dục,) và Khoa Học (Toán, Lý Hóa, Vạn Vật).
Lớp Việt Hán thường tuyển mỗi khóa 40 sinh viên - đông nhất. Lớp Vạn Vật ít nhất - chỉ có 15 (có khóa không tuyển). Sinh viên trường ĐHSP Sài Gòn những năm đầu thập niên 1960 được lãnh học bổng 1.500 đồng/tháng. Giá sinh hoạt lúc đó là 2-3 đồng một tô phở hay lít xăng. Lúc đó mỗi chỉ số lương bổng là khoảng 15 đồng. Ai bảo thầy cô nghèo!.
Viện Đại Học Đà Lạt (trực thuộc Giáo Hội Thiên Chúa do Linh Mục Nguyễn Văn Lập làm Viện Trưởng) vì mới được thành lập, ít sinh viên đã vận động với Bộ Giáo Dục để Đại Học Sư Phạm gởi lên huấn luyện (có ký túc xá) hai ban Triết và Pháp Văn (ít nhất là 4 khóa đầu). Quý vị GS Triết Học như Lê Tấn Lộc, Nguyễn văn Phúc ... (Trịnh Hoài Đức - Bình Dương) , Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn văn Lục (Ngô Quyền - Biên Hòa) ... là cựu sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Đại Học Sư Phạm Sài Gòn và Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ là niềm kiêu hãnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi giới thiệu với ngoại giao đoàn là Harvard of Việt Nam và MIT of South Vietnam.
Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn chỉ khai giảng khóa Cao Học Giáo Dục đầu tiên vào tháng 9/1970 sau khi đã mời được những Giáo Sư Tiến Sĩ uy tín, tốt nghiệp từ các Đại Học Âu Mỹ. Đó là quý vị: Dương Thiệu Tống, Huỳnh Văn Quảng, Huỳnh Huynh, Đoàn Viết Hoạt ... Vào thời điểm nầy, Đại Học Luật Khoa và Khoa Học đã cấp phát văn bằng Tiến Sĩ, Đại Học Văn Khoa đã khai giảng những học trình cho sinh viên ban Tiến Sĩ. Từ những năm đầu của thập niên 1970, miền Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo dục Mỹ. Sinh viên Cao Học hay Tiến Sĩ chỉ viết Luận Văn (Memoir) hay Luận Án (Thesis) sau khi đã hoàn tất khoảng 45 tín chỉ cho năm đầu. Đậu xong 45 tín chỉ (15 lớp) thì cũng nhẹ nhõm lắm, sinh viên coi như đã nắm được nửa văn bằng Cao Học hay Tiến Sĩ. Năm sau, ứng viên làm việc trực tiếp với Giáo Sư Bảo Trợ cho luận văn, luận án.
Đại Học Sư Phạm không cung cấp đủ Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp cho bậc Tú Tài II. Bộ Giáo Dục đã tuyển những Cử Nhân từ Đại Học Khoa Học, Văn Khoa và Luật. Đó là quý vị GS dạy giờ hay khế ước. Thù lao dạy giờ của Cử Nhân Giáo Khoa là 199 đồng/giờ (những năm đầu của thập niên 1960). Đôi khi thu nhập hàng tháng của GS dạy giờ còn cao hơn giáo sư chánh ngạch.
Miền Nam cưỡng bách giáo dục bậc tiểu học. Sau khi đậu tiểu học, học sinh phải thi tuyển vào đệ thất trường công. Thế nhưng phòng ốc bậc trung học chỉ đủ cho khoảng 15% số thí sinh (85% còn lại phải học nơi tư thục hay đành thất học!). Trường công lập còn thiếu giáo sư (3) - làm gì mà hệ thống tư thục - chẳng thiếu thầy cô trầm trọng (nhiều thầy cô chỉ có Tú Tài, chủ trường xếp dạy lớp đệ nhị, đệ nhất! - danh từ giáo sư bị lạm dụng là thế !. Giáo sư ít nhất phải có 2 năm đại học).
-Số giờ dạy học hàng tuần được ấn định như sau:
Giáo Viên Tiểu Học 24 giờ (4 giờ x 6 buổi sáng hay chiều - thứ hai đến thứ bảy),
Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp: 18 giờ.
Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp: 15 giờ.
Giáo Sư Tiến Sĩ (Professeur Docteur): 6 giờ.
Giáo Sư Thạc Sĩ (Professeur Agrégé, Prof. Postdoctor): 4 giờ.
III. Thầy cô dạy đại học được gọi là Giáo Sư (Professeur), và chắc chắn - theo cấp số: - Quý vị có học vị cao hơn Cử Nhân (ít nhất là đỗ Cao Học) gọi là Giáo Sư Cao Học (Professeur Maitrise). Lý tưởng là Professeur Docteur (Giáo Sư Tiến Sĩ) rồi lên Giáo Sư Thạc Sĩ (Professeur Agrégé). Bên trường Luật chỉ có mấy vị Thạc Sĩ là: Nguyễn Cao Hách, Vũ Văn Mẫu, Vũ Quốc Thúc. Đại học Y Khoa Sài Gòn cho tới 1975 cũng chỉ có 5 vị Giáo Sư Thạc Sĩ (Professeur Postdoctor) là: Trần Quang Đệ, Nguyễn Hữu, Ngô Gia Hy, Trần Ngọc Ninh và Phạm Biểu Tâm.
Học trình của Giáo Sư Thạc Sĩ lúc đó là 8 năm đại học: 3+2+2+1 cho Luật Khoa, và 1+6+1 cho Y Khoa. (học trình giáo sư đại học ở Mỹ hiện nay dài lê thê: 4+2+2+2=10 cho các ngành, 4+$+3+2=13 cho Y Khoa, đặc biệt, Giáo Sư Thạc Sĩ chuyên giải phẫu lồng ngực (Cardiothoracic Surgeon) là 18 năm=4+4+5+2+3.
Đại Học Luật Khoa Sài Gòn
Thạc Sĩ được dịch từ chữ Agrégé là học vị cao hơn Tiến Sĩ và cao nhất của khoa cử - là kỳ thi Đình ngày xưa để lấy Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa và Hoàng Giáp. Đó là Postdoctorate Degree của Mỹ, chớ không phải Thạc sĩ là những sinh viên chỉ học xong 5, 6 năm đại học như cách gọi trong nước từ năm 2000. Đó chỉ là Cao Học (Master) mà thôi. Thí dụ MBA: Master of Business Administration là Cao Học Kinh Thương chứ không phải là Thạc Sĩ Kinh Doanh!. Ngẩn ngơ như thế - nên năm 2013 - không một đại học nào của Việt Nam ở trong The TOP 100 của Châu Á!. Theo Nhà Bác Học Ngô Bảo Châu và Tiến Sĩ Chu Hảo thì: "Đại học nước ta đang đi vào ngõ cụt!". "Không khéo thì bị xếp hạng sau cả Miến Điện, Ai Lao, Cao Miên!", trong khi Việt Nam là dòng giống thông minh, chăm chỉ và kỷ luật. Đại học phải tự trị để tự do phát triển, khảo cứu ...
Đại Học Văn Khoa Saigon
đóng góp một phần không nhỏ trong việc đào tào những Giáo Sư Cử Nhân cho nền giáo dục
- Dạy Đại Học, quý vị phải có bằng Tiến Sĩ (Doctorat) và cao hơn là Thạc Sĩ (Agrégé). Thế nhưng ngay đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1976-1975) chúng ta không đủ giáo sư. Thầy cô đa số chỉ là Cao Học. Điển hình là Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, có nhiều ngành, giáo sư chỉ có Cử Nhân và học giả (quý vị không có học vị đại học - dù chỉ là Cử Nhân - nhưng có tác phẩm nghiên cứu giá trị như: Nguyễn Hiến Lê, Lê Ngọc Trụ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Duy Cần, Bửu Cầm ...) Trong khi ban Triết lại dư thừa: có đến 6, 7 vị Tiến Sĩ, đa số là linh mục. Trong trường hợp nầy, nhân viên giảng huấn được xếp bậc như sau: (trường hợp học giả, cử nhân, cao học):
- Giảng Viên (Charge d'Enseignement) là quý vị dạy giờ/học giả/cử nhân.
- Giảng Sư (Charge de Cours) quý vị dạy theo khế ước. Đó là những Cao Học (ngạch trật và lương bổng: chỉ số 550, tương đương Trung Tá). Sau 5, 7 năm quý vị khế ước cũng vào chánh ngạch.
- Giáo Sư Tiến Sĩ: (ngạch trật và lương bổng: chỉ số lương 690 - ngang Đại Tá thực thụ bậc 1, Y Khoa Bác Sĩ). Đó là Tiến Sĩ Quốc Gia (Docteur d'Etat) là ngạch Tiến Sĩ Cao Nhất (Tiến Sĩ Đại Học - Docteur de l'Université), thấp nhất là Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Docteur 3ème Cycle mà trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn (4) tới tháng 4/75 chỉ cấp phát chưa tới 10 bằng Tiến Sĩ đó).
Có đến 95% Giáo Sư Tiến Sĩ tốt nghiệp từ ngoại quốc. Giáo Sư Tiến Sĩ có 3 bậc:
- Giáo Sư Ủy Nhiệm (Assistant Professor).
- Giáo Sư Diễn Giảng (Associate Professor).
- Giáo Sư Thực thụ (Professeur Titulaire).
Từ bậc thấp lên bậc trên, quý vị giáo sư phải có nhiều công trình khảo cứu (research for teaching - teaching to research) nhất là khoa học kỹ thuật (STEM= Science, Technology, Engineering, Math) cụ thể bằng những phát minh, sáng tạo là những bằng sáng chế, đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế quốc gia, cho văn minh nhân loại. Đó là Tiến Sĩ Kỹ Sư, Khoa Học Gia ...
- Giáo Sư Thạc Sĩ thì hiếm lắm. Ngạch trật và lương bổng tương đương tướng lãnh. Mà quả thật, quý vị ấy là tướng lãnh trong khoa bảng và 1 sao, 2 sao là tùy thâm niên công vụ. Cả miền Nam Việt Nam chỉ đếm được 8 vị (3 cho Luật và 5 cho Y Khoa) như đã nói ở trên. Học vị Thạc Sĩ quả là quý, thật là cao.
Lời kết: Hoa Kỳ là nước mà ai ai cũng là businessmen - khách hàng là Thượng Đế - role model cho giới trẻ là những cô biểu diễn thời trang phô mông hở tí, là những anh đầu đặc, tung bóng đập banh. Họ có lợi tức hàng chục triệu mỗi năm nên thầy cô không được nể vì thù lao rẻ như bèo:
- Dạy Tiểu, Trung Học - có Cử Nhân, Cao Học .. thầy cô được gọi là Teacher (giáo viên). Giáo viên có Master's Degree với 10 năm nghề lương chỉ có khoảng 50.000 đô/năm!.
- Dạy Cao Đẳng, Đại Học mà chỉ có Cao Học thầy cô được gọi là Instructor (Giảng Sư) , nếu có Tiến Sĩ thì gọi là Professor (Giáo Sư). Lương khoảng 80.000 đô/năm.
Thực tế lắm, vật chất quá !. Trong khi giáo dục là chìa khóa của tiến bộ (Education is Power) mà tiến bộ là Technology. Technology is built on Science, Engineering, Math. Nước Mỹ hiện nay thiếu trầm trọng những nhà STEM. Tháng 5/2013 trong số 70.000 Tiến Sĩ (PhD.) tốt nghiệp, chỉ có 12.000 là Khoa Học Kỹ Thuật (1/7).
Chú Thích:
(1): Cũng thế, về hành chánh - chánh phủ Trần Trọng Kim- mô phỏng theo hệ thống thời Pháp thuộc. Đó cũng chính là cơ cấu tổ chức từ Paris mang qua Việt Nam từ giữa thế kỷ thứ 19- từ trung ương tới địa phương (dĩ nhiên có cải tổ cho phù hợp với một nước Việt Nam độc lập sau 9/3/1945).
- Đơn vị nhỏ nhất là Phòng (Bureau). Mỗi phòng có 5, 6 đến 9, 10 nhân viên mà Trưởng Phòng hay Chủ Sự là công chức lâu năm, có bằng Tiểu Học, về sau là Trung Học Đệ Nhứt Cấp, thời VNCH là Tú Tài.
- Nhiều Phòng hợp lại thành Sở (Service): Sở Y Tế, Tài Chánh ... Đó là ở trung ương hay những thành phố lớn như Sài Gòn, Cần Thơ ... Các tỉnh hay đại phương gọi là Ty: Ty Công Chánh, Ty Cảnh Sát ... Đứng đầu là Chánh Sở (Chánh Sự Vụ) hay Trưởng Ty.. Đây là những công chức có nhiều kinh nghiệm. Thời Cộng Hòa, là quý vị tốt nghiệp từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh hay Cử Nhân các ngành (chỉ số lương 430 trở lên).
- Nhiều Sở thành Nha: Nha Kế Toán, Nha Cải Cách Điền Địa ... Đứng đầu là Giám Đốc (Directeur), đó là những Chánh Sở có thâm niêm công vụ, đạo dức ... được cấp trên chọn lựa. Địa phương là Tỉnh Trưởng (Bình Dương, Biên Hòa...), vào thời bình, là quý vị Quốc Gia Hành Chánh đầy kinh nghiệm hay Cao Học Hành Chánh. Tỉnh Trưởng ngang hàng với Giám Đốc (ở trung ương), thế nhưng khi Giám Đốc Trung Học đến chủ tọa một buổi lễ ở địa phương thì Tỉnh Trưởng ở vị thế thứ hai (ghế ngồi ở bên trái vị Giám Đốc).
- Nhiều Nha họp lại thành Tổng Nha: Tổng Nha Quan Thuế ... đứng đầu là Tổng Giám Đốc (Directeur Génénal). Directeur là to, Directeur Génénal là to lắm (và trách nhiệm cũng to lớn lắm), tương đương Tư Lệnh Quân Khu.
- Nhiều Tổng Nha là một Bộ: Bộ Quốc Phòng, Bộ Giáo Dục ... đứng đầu là Bộ Trưởng (Ministre). Bộ hay Tổng Trưởng là quý vị phải giỏi về chuyên môn (Giáo dục, Công chánh ...), cụ thể là bằng cấp chuyên ngành. Thế nhưng chánh trị (đảng phái) nhiều lắm. Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục thời VNCH đa số (90%) lại là quý vị Bác Sĩ, Nha Sĩ, Dược Sĩ ( Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Văn Thơ, Ngô Khắc Tĩnh...) . Họ tương đương tướng ba sao.
(2): Cho tới biến cố Mậu Thân (tháng 2/1968), Miền Nam có khoảng 2.500 giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp (cử nhân, tốt nghiệp 4 năm từ các trường Đại Học Sư Phạm Công Lập như Sài Gòn , Huế ...). Trong đó có khoảng 2.200 nam GS và 300 nữ GS. Quý vị nữ GS vẫn ở trường dạy học. Quý vị nam GS đi học quân sự 8 tuần rồi trở về nhiệm sở (động viên tại chỗ - tương đương 4 tiểu đòan giáo chức trên 4 vùng chiến thuật) . Trong khi đó quý vị Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp bị động viên đi học quân sự tại Thủ Đức, ra chuẩn úy, đi tác chiến như nhân viên các Bộ khác, rồi có được biệt phái hay không thì tính sau. Quý vị Giáo Học Bổ Túc cũng thế.
(3): Từ niên khóa 1970/1971 số học sinh trung học đệ nhứt cấp gia tăng mau quá, phần vì dân số gia tăng, phần vì áp lực của Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Hạ Viện vận động để có thêm kinh phí 220 triệu đồng) trong nổ lực tăng số học sinh được nhận vào lớp đệ thất trường công lên gấp đôi: so với năm trước - sẽ là 44.000 thay vì 22.000 trong tổng số 147.000 thí sinh toàn quốc. Đó là thời gian Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên là Phó thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Giáo Dục và GS Dương Minh Kính, Dân Biểu. Bộ Giáo Dục trực tiếp mở những khóa huấn luyện cấp tốc (dạy bán thời gian và từ 3 đến 6 tháng) để đào tạo Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp. Học viên là quý vị giáo viên tiểu học, giáo học bổ túc (đã được huấn luyện những môn học như : tâm lý, triết lý giáo dục, vệ sinh, quản trị học đường ... từ những trường Sư Phạm trước đó), nhưng họ phải có Tú Tài Toàn Phần. Thầy cô dạy là những Thanh Tra Trung Học (vốn là Hiệu Trưởng, Giám Học những trường Trung Học Đệ Nhị Cấp), và những Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp uy tín.
Phẩm chất của học sinh trung học trường công - thời VNCH đáng tin cậy, nhất là ở bậc Trung Học Đệ Nhị Cấp (Tú Tài). Cụ thể là sau khi đậu Tú Tài II, du học sinh Việt Nam tại các cường quốc kinh tế bắt kịp sinh viên sở tại. Trong nhiều trường hợp, du sinh Sài Gòn, đã xong Cử Nhân chỉ sau 3 niên khóa (cho dẫu đã mất 6 tháng đến 1 năm do trở ngại sinh ngữ) . Học xong chưa đủ mà còn đậu cao ở các thứ hạng Bình, Ưu .. để được chọn lựa học lên Cao Học. Những du sinh được biết nhiều ở Mỹ là Nguyễn duy Dũng (Võ trường Toản), Đỗ ý Ngọc (Gia Long), Nguyễn xuân Hương (Nguyễn Trãi) ... Các du sinh nầy thật đáng khen ngợi vì đã nâng cao ngọn cờ xứ sở làm thơm quê mẹ Việt Nam.
(4): Tiến Sĩ Cao Xuân An ... Bên trường Luật có Tiến Sĩ Lê Kim Ngân, Phan Thiện Giới.. Đại Học Văn Khoa Sài Gòn: Tiến Sĩ Lưu Kim Sanh. Ông là vị Tiến Sĩ đầu tiên và duy nhứt (sau đó là biến cố 30/4/75). Khóa Tiến Sĩ đầu tiên ở Đại Học Văn Khoa: thi xong năm thứ nhất phần học chung cho các ban năm 1974. Quý vị sẵn sàng trình luận án Tiến Sĩ mỗi ngành chuyên môn vào hè 1975 thì VNCH tan rã. Riêng sinh viên Lưu Kim Sanh, ngay sau kỳ thi chung năm 1974 đã có luận án (Thèse Doctorat) viết sẵn . Ông trình Hội Đồng Khoa và Hội Đồng Giám Khảo làm việc gấp rút. Ông thật may mắn.
GS Phạm Đức Liên
Former Instructor, Central Piedmont Community College, NC
Ngày đầu mùa thu (22 tháng 9 năm 2013)
*******
Rẻ Như Bèo
Mây Ngàn
1. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Đến như Tiến sĩ cũng chèo queo
Kỹ sư, Khoa học còn nhúc nhích,
Nhân văn, tài chánh (1) - quả là teo !
2. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Đại học nơi nơi - gọi, mời, reo.
Cử nhân (2) rút lại - còn ba khóa,
Cao học kinh doanh - thẳng một lèo !
3. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Tiến sĩ lăng nhăng - cũng dễ leo
Ôn lại (3), hàm thụ - mười tám tháng
Hai, ba chục xếp - có bằng treo !
4. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Thế nhưng - ta vẫn cố mà leo
Để cho có chút - hương cao đẳng,
và Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975)
GS Phạm Đức Liên
Tháng 9 năm 1939, đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945) bùng nổ!. Trong khi Đức và Ý làm chủ tình hình ở Châu Âu và Bắc Phi thì ngược lại người Nhật kiểm soát Á Châu - nhất là Việt Nam, yết hầu vùng Đông Nam Á. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương (Nhật đã vào Việt Nam từ năm 1939 và áp đảo người Pháp), chấm dứt gần 100 năm - thực dân Pháp "bớp tai/đá đít" dân Việt!. Chỉ hai ngày sau đó - thừa lệnh Nhật Hoàng, Đại Sứ Nhật tại Việt Nam, Yokoyama - xin yết kiến vua Bảo Đại và : "Muôn tâu Hoàng Đế, chúng tôi xin dâng nền độc lập lên Ngài và dân tộc Việt Nam" - " Xin Việt Nam ở trong khối thịnh vượng Châu Á - do Nhật Hoàng lãnh đạo". Bản tuyên ngôn Việt Nam Độc Lập được vua Bảo Đại và Viện Cơ Mật ký ngày 12/3/1945.
Biết bao xương máu của nhân dân Lạc Hồng - tranh đấu cho nền độc lập - từ phong trào Cần Vương/Văn Thân - Phan Bội Châu/Phan Chu Trinh ... đến Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa năm 1930, và ngay cả phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do Việt Nam Cộng Sản Đảng ... đã được đãi ngộ xứng đáng: Lãnh thổ và nền độc lập Việt Nam bất khả phân.
Hoàng đế Bảo Đại chỉ định GS Trần Trọng Kim lập chánh phủ Việt Nam Độc Lập. Nội các trí thức gồm các kỹ sư, luật sư, thạc sĩ, bác sĩ ... đã trình diện Hoàng Đế và quốc dân (giữa tháng 4/1945). Bộ Trưởng Giáo Dục đầu tiên của Việt Nam độc lập là Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn (Thạc Sĩ Toán Học). Bình minh cho lịch sử dân tộc Rồng Tiên (cận và hiện đại) Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu xa của Pháp - cho dầu đã độc lập (ngày 9/3/1945) - trên mọi lãnh vực: hành chánh (1) , tài chánh, kinh tế, và nhất là giáo dục. Mà giáo dục Pháp - cũng như Trung Hoa - rất kính trọng thầy cô (Quân, Sư, Phụ). Đó cũng là truyền thống Vạn Xuân.
I. Thầy cô dạy bậc tiểu học (lớp năm đến lớp nhất - sau năm 1963 đổi thành lớp 1 đến lớp 5): - Là giáo sinh, tốt nghiệp trường Sư Phạm (École Normale), được gọi là giáo viên (instituteur, institutrice) tiểu học. Điều kiện để vào học trường Sư Phạm là có bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp và qua kỳ thi tuyển.
- Từ niên khóa 1961/1962, phòng ốc của những trường trung học không đủ cung cấp cho sự gia tăng lũy tiến của số học sinh (đệ thất, đệ lục). Bộ Giáo Dục đào tạo thêm giáo sinh. Thí sinh phải có Tú Tài Phần Nhất được thi vào học trường Sư Phạm trong hai năm. Khi tốt nghiệp được gọi là Giáo Học Bổ Túc (ngạch trật lương bổng tương đương cấp Trung Úy trong quân đội với chỉ số lương 350). Quí vị được bổ nhiệm về dạy các lớp đệ thất, đệ lục ... ở các trường trung tiểu học (là những trường tiểu học lớn - mở thêm nhiều lớp tiếp liên, đệ thất, đệ lục). Trường Sư Phạm đào tạo Giáo Học Bổ Túc có ở những thành phố lớn như Sài Gòn, Quy Nhơ, Cần Thơ ...
II. Thầy cô dạy ở trung học(đệ thất đến đệ nhất - sau 1963 đổi là lớp 6 đến lớp 12): - Được gọi là giáo sư (professeur) dù là phụ trách những lớp bậc Trung Học Đệ Nhứt Cấp (đệ thất, lục, ngũ tứ). Những danh xưng đều từ tiếng Pháp mà dịch ra, rất chính xác, trí thức.
- là sinh viên tốt nghiệp Trường Cao Đẳng hay Đại Học Sư Phạm (École Normale Superieure = Faculté de Pédagogie). Cao Đẳng thường học 2 năm và Đại Học Sư Phạm thường học 4 năm:
- Họ phải có Tú Tài toàn phần, đậu kỳ thi tuyển, và được huấn luyện sau 2 năm học (Cử Nhân Bán Phần), được bổ nhiệm là Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp (Professeur de L'enseignement Secondaire du Premier Cycle). Ngạch trật lương bổng : chỉ số 370, ngang Đại Úy thực thụ bậc 1.
- Hoặc phải có Tú Tài phần hai, đậu kỳ thi tuyển, và được đào tạo sau 4 niên khóa (Cử Nhân Giáo Khoa) là Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp (2) . (Professeur de l'Énseignement Secondaire du Deuxième Cycle), dạy đệ tam, nhị, nhất, tức là lớp 10, 11, 12). Ngạch trật và lương bổng : chỉ số 470 ngang Thiếu Tá. Đó là những Giáo Sư Cử Nhân (Professeur Licencié) - ngang hàng với kỹ sư tốt nghiệp từ Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ (chỉ số 470). Xin lưu ý, sinh viên tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (Phó Đốc Sự) - kỹ sư Nông Lâm Súc có chỉ số lương là 430 mà thôi (đó là Cử Nhân tự do như Cử Nhân Luật - coi như BA ở Mỹ ngày nay - trong khi ĐHSP và KS Phú Thọ là BS).
Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn khai giảng khóa 1 vào tháng 9 năm 1958 (đó là trường Sư Phạm Hà Nội chuyển vào Sài Gòn sau Hiệp Định Geneve 1954 và được nâng cấp). Vì nhu cầu - mấy khóa đầu - trường phải đào tạo cấp tốc (1 năm cho GS Trung Học Đệ Nhứt Cấp và 3 năm cho GS Trung Học Đệ Nhị Cấp). Rồi Đại Học Sư Phạm Huế, Cần Thơ ra đời. Đó là những đại học công lập. Người viết vinh hạnh được học trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn hai lần. Lần đầu cho bậc cử nhân và lần sau từ tháng 9/1970 cho Cao Học Thống Kê Giáo Dục (Master Education in Statistics).
Sinh viên ĐHSP Saigon trong một chuyến du khảo tại Đà Lạt (Giáng Sinh năm 1964),
Đề tài bài học Địa Lý: Thế Đất Vùng Cao Nguyên Mầu Mỡ của Việt Nam
Các trường ĐHSP bậc cử nhân thường chia ra hai ban: Văn Chương (Triết, Việt Hán, Anh Văn, Pháp Văn, Sử Địa - và Luật để dạy Công Dân Giáo Dục,) và Khoa Học (Toán, Lý Hóa, Vạn Vật).
Lớp Việt Hán thường tuyển mỗi khóa 40 sinh viên - đông nhất. Lớp Vạn Vật ít nhất - chỉ có 15 (có khóa không tuyển). Sinh viên trường ĐHSP Sài Gòn những năm đầu thập niên 1960 được lãnh học bổng 1.500 đồng/tháng. Giá sinh hoạt lúc đó là 2-3 đồng một tô phở hay lít xăng. Lúc đó mỗi chỉ số lương bổng là khoảng 15 đồng. Ai bảo thầy cô nghèo!.
Viện Đại Học Đà Lạt (trực thuộc Giáo Hội Thiên Chúa do Linh Mục Nguyễn Văn Lập làm Viện Trưởng) vì mới được thành lập, ít sinh viên đã vận động với Bộ Giáo Dục để Đại Học Sư Phạm gởi lên huấn luyện (có ký túc xá) hai ban Triết và Pháp Văn (ít nhất là 4 khóa đầu). Quý vị GS Triết Học như Lê Tấn Lộc, Nguyễn văn Phúc ... (Trịnh Hoài Đức - Bình Dương) , Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn văn Lục (Ngô Quyền - Biên Hòa) ... là cựu sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Đại Học Sư Phạm Sài Gòn và Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ là niềm kiêu hãnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi giới thiệu với ngoại giao đoàn là Harvard of Việt Nam và MIT of South Vietnam.
Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn chỉ khai giảng khóa Cao Học Giáo Dục đầu tiên vào tháng 9/1970 sau khi đã mời được những Giáo Sư Tiến Sĩ uy tín, tốt nghiệp từ các Đại Học Âu Mỹ. Đó là quý vị: Dương Thiệu Tống, Huỳnh Văn Quảng, Huỳnh Huynh, Đoàn Viết Hoạt ... Vào thời điểm nầy, Đại Học Luật Khoa và Khoa Học đã cấp phát văn bằng Tiến Sĩ, Đại Học Văn Khoa đã khai giảng những học trình cho sinh viên ban Tiến Sĩ. Từ những năm đầu của thập niên 1970, miền Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo dục Mỹ. Sinh viên Cao Học hay Tiến Sĩ chỉ viết Luận Văn (Memoir) hay Luận Án (Thesis) sau khi đã hoàn tất khoảng 45 tín chỉ cho năm đầu. Đậu xong 45 tín chỉ (15 lớp) thì cũng nhẹ nhõm lắm, sinh viên coi như đã nắm được nửa văn bằng Cao Học hay Tiến Sĩ. Năm sau, ứng viên làm việc trực tiếp với Giáo Sư Bảo Trợ cho luận văn, luận án.
Đại Học Sư Phạm không cung cấp đủ Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp cho bậc Tú Tài II. Bộ Giáo Dục đã tuyển những Cử Nhân từ Đại Học Khoa Học, Văn Khoa và Luật. Đó là quý vị GS dạy giờ hay khế ước. Thù lao dạy giờ của Cử Nhân Giáo Khoa là 199 đồng/giờ (những năm đầu của thập niên 1960). Đôi khi thu nhập hàng tháng của GS dạy giờ còn cao hơn giáo sư chánh ngạch.
Miền Nam cưỡng bách giáo dục bậc tiểu học. Sau khi đậu tiểu học, học sinh phải thi tuyển vào đệ thất trường công. Thế nhưng phòng ốc bậc trung học chỉ đủ cho khoảng 15% số thí sinh (85% còn lại phải học nơi tư thục hay đành thất học!). Trường công lập còn thiếu giáo sư (3) - làm gì mà hệ thống tư thục - chẳng thiếu thầy cô trầm trọng (nhiều thầy cô chỉ có Tú Tài, chủ trường xếp dạy lớp đệ nhị, đệ nhất! - danh từ giáo sư bị lạm dụng là thế !. Giáo sư ít nhất phải có 2 năm đại học).
-Số giờ dạy học hàng tuần được ấn định như sau:
Giáo Viên Tiểu Học 24 giờ (4 giờ x 6 buổi sáng hay chiều - thứ hai đến thứ bảy),
Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp: 18 giờ.
Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp: 15 giờ.
Giáo Sư Tiến Sĩ (Professeur Docteur): 6 giờ.
Giáo Sư Thạc Sĩ (Professeur Agrégé, Prof. Postdoctor): 4 giờ.
III. Thầy cô dạy đại học được gọi là Giáo Sư (Professeur), và chắc chắn - theo cấp số: - Quý vị có học vị cao hơn Cử Nhân (ít nhất là đỗ Cao Học) gọi là Giáo Sư Cao Học (Professeur Maitrise). Lý tưởng là Professeur Docteur (Giáo Sư Tiến Sĩ) rồi lên Giáo Sư Thạc Sĩ (Professeur Agrégé). Bên trường Luật chỉ có mấy vị Thạc Sĩ là: Nguyễn Cao Hách, Vũ Văn Mẫu, Vũ Quốc Thúc. Đại học Y Khoa Sài Gòn cho tới 1975 cũng chỉ có 5 vị Giáo Sư Thạc Sĩ (Professeur Postdoctor) là: Trần Quang Đệ, Nguyễn Hữu, Ngô Gia Hy, Trần Ngọc Ninh và Phạm Biểu Tâm.
Học trình của Giáo Sư Thạc Sĩ lúc đó là 8 năm đại học: 3+2+2+1 cho Luật Khoa, và 1+6+1 cho Y Khoa. (học trình giáo sư đại học ở Mỹ hiện nay dài lê thê: 4+2+2+2=10 cho các ngành, 4+$+3+2=13 cho Y Khoa, đặc biệt, Giáo Sư Thạc Sĩ chuyên giải phẫu lồng ngực (Cardiothoracic Surgeon) là 18 năm=4+4+5+2+3.
Đại Học Luật Khoa Sài Gòn
Thạc Sĩ được dịch từ chữ Agrégé là học vị cao hơn Tiến Sĩ và cao nhất của khoa cử - là kỳ thi Đình ngày xưa để lấy Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa và Hoàng Giáp. Đó là Postdoctorate Degree của Mỹ, chớ không phải Thạc sĩ là những sinh viên chỉ học xong 5, 6 năm đại học như cách gọi trong nước từ năm 2000. Đó chỉ là Cao Học (Master) mà thôi. Thí dụ MBA: Master of Business Administration là Cao Học Kinh Thương chứ không phải là Thạc Sĩ Kinh Doanh!. Ngẩn ngơ như thế - nên năm 2013 - không một đại học nào của Việt Nam ở trong The TOP 100 của Châu Á!. Theo Nhà Bác Học Ngô Bảo Châu và Tiến Sĩ Chu Hảo thì: "Đại học nước ta đang đi vào ngõ cụt!". "Không khéo thì bị xếp hạng sau cả Miến Điện, Ai Lao, Cao Miên!", trong khi Việt Nam là dòng giống thông minh, chăm chỉ và kỷ luật. Đại học phải tự trị để tự do phát triển, khảo cứu ...
Đại Học Văn Khoa Saigon
đóng góp một phần không nhỏ trong việc đào tào những Giáo Sư Cử Nhân cho nền giáo dục
- Dạy Đại Học, quý vị phải có bằng Tiến Sĩ (Doctorat) và cao hơn là Thạc Sĩ (Agrégé). Thế nhưng ngay đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1976-1975) chúng ta không đủ giáo sư. Thầy cô đa số chỉ là Cao Học. Điển hình là Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, có nhiều ngành, giáo sư chỉ có Cử Nhân và học giả (quý vị không có học vị đại học - dù chỉ là Cử Nhân - nhưng có tác phẩm nghiên cứu giá trị như: Nguyễn Hiến Lê, Lê Ngọc Trụ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Duy Cần, Bửu Cầm ...) Trong khi ban Triết lại dư thừa: có đến 6, 7 vị Tiến Sĩ, đa số là linh mục. Trong trường hợp nầy, nhân viên giảng huấn được xếp bậc như sau: (trường hợp học giả, cử nhân, cao học):
- Giảng Viên (Charge d'Enseignement) là quý vị dạy giờ/học giả/cử nhân.
- Giảng Sư (Charge de Cours) quý vị dạy theo khế ước. Đó là những Cao Học (ngạch trật và lương bổng: chỉ số 550, tương đương Trung Tá). Sau 5, 7 năm quý vị khế ước cũng vào chánh ngạch.
- Giáo Sư Tiến Sĩ: (ngạch trật và lương bổng: chỉ số lương 690 - ngang Đại Tá thực thụ bậc 1, Y Khoa Bác Sĩ). Đó là Tiến Sĩ Quốc Gia (Docteur d'Etat) là ngạch Tiến Sĩ Cao Nhất (Tiến Sĩ Đại Học - Docteur de l'Université), thấp nhất là Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Docteur 3ème Cycle mà trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn (4) tới tháng 4/75 chỉ cấp phát chưa tới 10 bằng Tiến Sĩ đó).
Có đến 95% Giáo Sư Tiến Sĩ tốt nghiệp từ ngoại quốc. Giáo Sư Tiến Sĩ có 3 bậc:
- Giáo Sư Ủy Nhiệm (Assistant Professor).
- Giáo Sư Diễn Giảng (Associate Professor).
- Giáo Sư Thực thụ (Professeur Titulaire).
Từ bậc thấp lên bậc trên, quý vị giáo sư phải có nhiều công trình khảo cứu (research for teaching - teaching to research) nhất là khoa học kỹ thuật (STEM= Science, Technology, Engineering, Math) cụ thể bằng những phát minh, sáng tạo là những bằng sáng chế, đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế quốc gia, cho văn minh nhân loại. Đó là Tiến Sĩ Kỹ Sư, Khoa Học Gia ...
- Giáo Sư Thạc Sĩ thì hiếm lắm. Ngạch trật và lương bổng tương đương tướng lãnh. Mà quả thật, quý vị ấy là tướng lãnh trong khoa bảng và 1 sao, 2 sao là tùy thâm niên công vụ. Cả miền Nam Việt Nam chỉ đếm được 8 vị (3 cho Luật và 5 cho Y Khoa) như đã nói ở trên. Học vị Thạc Sĩ quả là quý, thật là cao.
Lời kết: Hoa Kỳ là nước mà ai ai cũng là businessmen - khách hàng là Thượng Đế - role model cho giới trẻ là những cô biểu diễn thời trang phô mông hở tí, là những anh đầu đặc, tung bóng đập banh. Họ có lợi tức hàng chục triệu mỗi năm nên thầy cô không được nể vì thù lao rẻ như bèo:
- Dạy Tiểu, Trung Học - có Cử Nhân, Cao Học .. thầy cô được gọi là Teacher (giáo viên). Giáo viên có Master's Degree với 10 năm nghề lương chỉ có khoảng 50.000 đô/năm!.
- Dạy Cao Đẳng, Đại Học mà chỉ có Cao Học thầy cô được gọi là Instructor (Giảng Sư) , nếu có Tiến Sĩ thì gọi là Professor (Giáo Sư). Lương khoảng 80.000 đô/năm.
Thực tế lắm, vật chất quá !. Trong khi giáo dục là chìa khóa của tiến bộ (Education is Power) mà tiến bộ là Technology. Technology is built on Science, Engineering, Math. Nước Mỹ hiện nay thiếu trầm trọng những nhà STEM. Tháng 5/2013 trong số 70.000 Tiến Sĩ (PhD.) tốt nghiệp, chỉ có 12.000 là Khoa Học Kỹ Thuật (1/7).
Chú Thích:
(1): Cũng thế, về hành chánh - chánh phủ Trần Trọng Kim- mô phỏng theo hệ thống thời Pháp thuộc. Đó cũng chính là cơ cấu tổ chức từ Paris mang qua Việt Nam từ giữa thế kỷ thứ 19- từ trung ương tới địa phương (dĩ nhiên có cải tổ cho phù hợp với một nước Việt Nam độc lập sau 9/3/1945).
- Đơn vị nhỏ nhất là Phòng (Bureau). Mỗi phòng có 5, 6 đến 9, 10 nhân viên mà Trưởng Phòng hay Chủ Sự là công chức lâu năm, có bằng Tiểu Học, về sau là Trung Học Đệ Nhứt Cấp, thời VNCH là Tú Tài.
- Nhiều Phòng hợp lại thành Sở (Service): Sở Y Tế, Tài Chánh ... Đó là ở trung ương hay những thành phố lớn như Sài Gòn, Cần Thơ ... Các tỉnh hay đại phương gọi là Ty: Ty Công Chánh, Ty Cảnh Sát ... Đứng đầu là Chánh Sở (Chánh Sự Vụ) hay Trưởng Ty.. Đây là những công chức có nhiều kinh nghiệm. Thời Cộng Hòa, là quý vị tốt nghiệp từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh hay Cử Nhân các ngành (chỉ số lương 430 trở lên).
- Nhiều Sở thành Nha: Nha Kế Toán, Nha Cải Cách Điền Địa ... Đứng đầu là Giám Đốc (Directeur), đó là những Chánh Sở có thâm niêm công vụ, đạo dức ... được cấp trên chọn lựa. Địa phương là Tỉnh Trưởng (Bình Dương, Biên Hòa...), vào thời bình, là quý vị Quốc Gia Hành Chánh đầy kinh nghiệm hay Cao Học Hành Chánh. Tỉnh Trưởng ngang hàng với Giám Đốc (ở trung ương), thế nhưng khi Giám Đốc Trung Học đến chủ tọa một buổi lễ ở địa phương thì Tỉnh Trưởng ở vị thế thứ hai (ghế ngồi ở bên trái vị Giám Đốc).
- Nhiều Nha họp lại thành Tổng Nha: Tổng Nha Quan Thuế ... đứng đầu là Tổng Giám Đốc (Directeur Génénal). Directeur là to, Directeur Génénal là to lắm (và trách nhiệm cũng to lớn lắm), tương đương Tư Lệnh Quân Khu.
- Nhiều Tổng Nha là một Bộ: Bộ Quốc Phòng, Bộ Giáo Dục ... đứng đầu là Bộ Trưởng (Ministre). Bộ hay Tổng Trưởng là quý vị phải giỏi về chuyên môn (Giáo dục, Công chánh ...), cụ thể là bằng cấp chuyên ngành. Thế nhưng chánh trị (đảng phái) nhiều lắm. Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục thời VNCH đa số (90%) lại là quý vị Bác Sĩ, Nha Sĩ, Dược Sĩ ( Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Văn Thơ, Ngô Khắc Tĩnh...) . Họ tương đương tướng ba sao.
(2): Cho tới biến cố Mậu Thân (tháng 2/1968), Miền Nam có khoảng 2.500 giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp (cử nhân, tốt nghiệp 4 năm từ các trường Đại Học Sư Phạm Công Lập như Sài Gòn , Huế ...). Trong đó có khoảng 2.200 nam GS và 300 nữ GS. Quý vị nữ GS vẫn ở trường dạy học. Quý vị nam GS đi học quân sự 8 tuần rồi trở về nhiệm sở (động viên tại chỗ - tương đương 4 tiểu đòan giáo chức trên 4 vùng chiến thuật) . Trong khi đó quý vị Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp bị động viên đi học quân sự tại Thủ Đức, ra chuẩn úy, đi tác chiến như nhân viên các Bộ khác, rồi có được biệt phái hay không thì tính sau. Quý vị Giáo Học Bổ Túc cũng thế.
(3): Từ niên khóa 1970/1971 số học sinh trung học đệ nhứt cấp gia tăng mau quá, phần vì dân số gia tăng, phần vì áp lực của Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Hạ Viện vận động để có thêm kinh phí 220 triệu đồng) trong nổ lực tăng số học sinh được nhận vào lớp đệ thất trường công lên gấp đôi: so với năm trước - sẽ là 44.000 thay vì 22.000 trong tổng số 147.000 thí sinh toàn quốc. Đó là thời gian Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên là Phó thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Giáo Dục và GS Dương Minh Kính, Dân Biểu. Bộ Giáo Dục trực tiếp mở những khóa huấn luyện cấp tốc (dạy bán thời gian và từ 3 đến 6 tháng) để đào tạo Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp. Học viên là quý vị giáo viên tiểu học, giáo học bổ túc (đã được huấn luyện những môn học như : tâm lý, triết lý giáo dục, vệ sinh, quản trị học đường ... từ những trường Sư Phạm trước đó), nhưng họ phải có Tú Tài Toàn Phần. Thầy cô dạy là những Thanh Tra Trung Học (vốn là Hiệu Trưởng, Giám Học những trường Trung Học Đệ Nhị Cấp), và những Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp uy tín.
Phẩm chất của học sinh trung học trường công - thời VNCH đáng tin cậy, nhất là ở bậc Trung Học Đệ Nhị Cấp (Tú Tài). Cụ thể là sau khi đậu Tú Tài II, du học sinh Việt Nam tại các cường quốc kinh tế bắt kịp sinh viên sở tại. Trong nhiều trường hợp, du sinh Sài Gòn, đã xong Cử Nhân chỉ sau 3 niên khóa (cho dẫu đã mất 6 tháng đến 1 năm do trở ngại sinh ngữ) . Học xong chưa đủ mà còn đậu cao ở các thứ hạng Bình, Ưu .. để được chọn lựa học lên Cao Học. Những du sinh được biết nhiều ở Mỹ là Nguyễn duy Dũng (Võ trường Toản), Đỗ ý Ngọc (Gia Long), Nguyễn xuân Hương (Nguyễn Trãi) ... Các du sinh nầy thật đáng khen ngợi vì đã nâng cao ngọn cờ xứ sở làm thơm quê mẹ Việt Nam.
(4): Tiến Sĩ Cao Xuân An ... Bên trường Luật có Tiến Sĩ Lê Kim Ngân, Phan Thiện Giới.. Đại Học Văn Khoa Sài Gòn: Tiến Sĩ Lưu Kim Sanh. Ông là vị Tiến Sĩ đầu tiên và duy nhứt (sau đó là biến cố 30/4/75). Khóa Tiến Sĩ đầu tiên ở Đại Học Văn Khoa: thi xong năm thứ nhất phần học chung cho các ban năm 1974. Quý vị sẵn sàng trình luận án Tiến Sĩ mỗi ngành chuyên môn vào hè 1975 thì VNCH tan rã. Riêng sinh viên Lưu Kim Sanh, ngay sau kỳ thi chung năm 1974 đã có luận án (Thèse Doctorat) viết sẵn . Ông trình Hội Đồng Khoa và Hội Đồng Giám Khảo làm việc gấp rút. Ông thật may mắn.
GS Phạm Đức Liên
Former Instructor, Central Piedmont Community College, NC
Ngày đầu mùa thu (22 tháng 9 năm 2013)
*******
Rẻ Như Bèo
Mây Ngàn
1. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Đến như Tiến sĩ cũng chèo queo
Kỹ sư, Khoa học còn nhúc nhích,
Nhân văn, tài chánh (1) - quả là teo !
2. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Đại học nơi nơi - gọi, mời, reo.
Cử nhân (2) rút lại - còn ba khóa,
Cao học kinh doanh - thẳng một lèo !
3. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Tiến sĩ lăng nhăng - cũng dễ leo
Ôn lại (3), hàm thụ - mười tám tháng
Hai, ba chục xếp - có bằng treo !
4. Cử nhân, Cao học - rẻ như bèo,
Thế nhưng - ta vẫn cố mà leo
Để cho có chút - hương cao đẳng,
Muốn nói năng gì - có kẻ theo !
(1)
Tháng 5 năm 2013, trên dưới 1.500 viện đại học ở Mỹ cung cấp cho thị
trường nhân dụng: 1.719.000 Cử Nhân (BA/BS), 684.000 Cao Học (MA/MS) ...
thế nhưng chỉ 55% có việc làm!.
(2) Cử Nhân (BA/BS) =
Hương Cống : Bình thường là 4 năm đầu đại học (khoảng 120 tín chỉ). Kiến
thức nhân loại ngày nay (2013) là nhiều lắm và nhiều quá - nhất là khoa
học kỹ thuật (STEM: Science, Technoloy, Engineering, Math). Kỹ sư phải
học 5 năm trở lên. Thế nhưng các ngành văn chương, chánh trị, kinh tài
... nhiều đại học co lại dạy trong 3 niên khóa!. Cao học (MA/MS) sinh
viên phải học ít nhất 2 năm (Master in Engineering là 3, 4 năm) - thế mà
quý vị dạy gấp rút chỉ 12 tháng!.
(3) Online
University, Correspondence School ... Học Tiến sĩ (Doctor's Degree)
trong 18 tháng (Tiến sĩ - tối thiểu là 2 năm/ học bổng thường cấp cho 2
năm học, riêng STEM phải 3, 4 năm nghiên cứu, nhiều trường hợp không ra
đáp số!: không phát minh, không bằng sáng chế/patents ...)
THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói các quan hệ Mỹ - Trung đang đối mặt với những bất ổn mới, nhưng bằng sự tôn trọng các lợi ích cốt lõi của cả hai bên, mối quan hệ này sẽ vẫn ổn định. Ông Vương nói thêm rằng một cá nhân sẽ không cản trở được các mối quan hệ, ám chỉ Tổng thống đắc cử Donald Trump.
Sau khi ông Trump đắc cử hồi tháng trước, Chủ tịch Tập Cận Bình đã tiếp
xúc ngay với ông Trump. Nhưng Bắc Kinh tỏ vẻ bất an về cuộc điện đàm
giữa Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn với ông Trump, và những dấu hiệu
cho thấy ông Trump có thể thay đổi chính sách đối với Đài Loan, cũng như
những đe dọa của ông Trump là sẽ áp đặt mức thuế quan cao đối với hàng
nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trong một cuộc phỏng vấn được báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản Trung Quốc
đăng hôm thứ Năm, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói cuộc
gọi giữa ông Tập và ông Trump là một dấu hiệu tích cực cho một sự chuyển
đổi suôn sẻ trong quan hệ Mỹ - Trung.
Ông nói: “Dĩ nhiên, hướng tới phía trước, mối quan hệ Mỹ - Trung sẽ đối mặt với nhiều yếu tố phức tạp và bất định mới”.
Trích dẫn một thi phẩm cổ của Trung Quốc đã từng được ông Tập nhắc đến
trong một diễn đàn cấp cao Mỹ - Trung hồi tháng 6, ông Vương nói: “Nhưng
núi cao không cản được con sông đổ ra biển”.
Không nhắc đến tên của ông Trump, ông Vương nói “xu hướng lịch sử không thể bị thay đổi bởi ý chí của một cá nhân duy nhất”.
Tranh chấp Biển Đông cũng được xem là một yếu tố gây căng thẳng giữa Trung Quốc và chính quyền mới của ông Trump.
Tuần này, Trung Quốc trả lại một tàu lặn cho Hoa Kỳ trước đó đã bị một tàu hải quân Trung Quốc lấy đi trong vùng biển tranh chấp hồi tuần trước. Ông Trump cáo buộc Trung Quốc là đã đánh cắp tàu lặn của Mỹ.
Ông Vương Nghị nói bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc là “sứ mệnh thiêng liêng” đối với công tác ngoại giao của nước này.
http://www.voatiengviet.com/a/tq-noi-quan-he-my-trung-dang-gap-bat-on/3646816.html
Trang Chính | Tin Quốc tế Tranh chấp Biển Đông cũng được xem là một yếu tố gây căng thẳng giữa Trung Quốc và chính quyền mới của ông Trump.
Tuần này, Trung Quốc trả lại một tàu lặn cho Hoa Kỳ trước đó đã bị một tàu hải quân Trung Quốc lấy đi trong vùng biển tranh chấp hồi tuần trước. Ông Trump cáo buộc Trung Quốc là đã đánh cắp tàu lặn của Mỹ.
Ông Vương Nghị nói bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc là “sứ mệnh thiêng liêng” đối với công tác ngoại giao của nước này.
http://www.voatiengviet.com/a/tq-noi-quan-he-my-trung-dang-gap-bat-on/3646816.html
Tòa án Tối cao Nhật ủng hộ việc tái bố trí căn cứ Mỹ ở Okinawa
2016-12-20
Tòa án Tối cao Nhật Bản hôm nay ra phán quyết ủng hộ chính quyền Tokyo
trong nỗ lực tái bố trí một căn cứ không quân Hoa Kỳ tại Okinawa.
Quyết định này được xem như một vố quan trọng đánh vào những thành phần chống đối tại địa phương phản kháng kế hoạch đó của chính phủ trung ương.
Chính phủ hai nước Hoa Kỳ và Nhật Bản muốn di chuyển căn cứ không quân ngay tại khu đông đúc dân cư ở Okinawa đến một khu vực thưa thớt người ở với lý do an ninh. Tuy nhiên, nhiều người dân Okinawa buộc phải chuyển căn cứ Hoa Kỳ ra khỏi địa phương của họ.
Vào tháng 9 vừa qua, một tòa cấp cao Nhật Bản cũng ra phán quyết cần tôn trọng quyết định của chính quyền trung ương, vì nhiệm vụ căn bản đối với quốc phòng và ngoại giao Xứ Phù Tang.
Sau đó chính quyền thành phố Okinawa kháng cáo, và hôm nay Tòa Tối cao Nhật Bản ra phán quyết bác đơn kháng án của chính quyền Okinawa.
Xin được nhắc lại, Okinawa nằm ở vị trí chiến lược tại khu vực biển Hoa Đông. Đây được xem là một pháo đài của quân đội Hoa Kỳ kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Từ Okinawa, chiến đấu cơ và quân đội Mỹ có thể xuất phát để đối phó lại bất cứ cuộc xung đột nào xảy ra ở khu vực Châu Á.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/japan-topcourt-backs-okinawa-base-12202016102005.html
Quyết định này được xem như một vố quan trọng đánh vào những thành phần chống đối tại địa phương phản kháng kế hoạch đó của chính phủ trung ương.
Chính phủ hai nước Hoa Kỳ và Nhật Bản muốn di chuyển căn cứ không quân ngay tại khu đông đúc dân cư ở Okinawa đến một khu vực thưa thớt người ở với lý do an ninh. Tuy nhiên, nhiều người dân Okinawa buộc phải chuyển căn cứ Hoa Kỳ ra khỏi địa phương của họ.
Vào tháng 9 vừa qua, một tòa cấp cao Nhật Bản cũng ra phán quyết cần tôn trọng quyết định của chính quyền trung ương, vì nhiệm vụ căn bản đối với quốc phòng và ngoại giao Xứ Phù Tang.
Sau đó chính quyền thành phố Okinawa kháng cáo, và hôm nay Tòa Tối cao Nhật Bản ra phán quyết bác đơn kháng án của chính quyền Okinawa.
Xin được nhắc lại, Okinawa nằm ở vị trí chiến lược tại khu vực biển Hoa Đông. Đây được xem là một pháo đài của quân đội Hoa Kỳ kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Từ Okinawa, chiến đấu cơ và quân đội Mỹ có thể xuất phát để đối phó lại bất cứ cuộc xung đột nào xảy ra ở khu vực Châu Á.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/japan-topcourt-backs-okinawa-base-12202016102005.html
Chính phủ Nhật phê chuẩn ngân sách quốc phòng kỷ lục
Thủ tướng Shinzo Abe duyệt đội quân danh dự tại bộ Quốc Phòng Nhật Bản, Tokyo, ngày 12/09/2016KAZUHIRO NOGI / AFP
Hôm nay 22/12/2016, chính phủ Nhật Bản thông qua một ngân sách quốc
phòng mới với số tiền kỷ lục 5.100 tỉ yen, tương đương 44 tỉ đô la, tăng
1,4% so với năm ngoái.
Đây là năm thứ năm liên tiếp Tokyo tăng ngân sách quốc phòng. Đối với
chính quyền Nhật, việc gia tăng chi phí quân sự là nhằm để đối phó với
sự bành trướng quân sự của Trung Quốc đặc biệt tại Biển Hoa Đông, và các
đe dọa hạt nhân Bắc Triều Tiên.
Theo thông tin của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, được tờ Wall Street Journal trích dẫn, ngân sách quốc phòng năm 2015 của Nhật chiếm 1% GDP, trong lúc Trung Quốc chi 214,8 tỉ đô la cho quân sự, chiếm 1,9% GDP.
Thông tín viên Frédéric Charles tường trình từ Tokyo:
« Nhật Bản sẽ tăng cường lực lượng tuần duyên, với 1,5 tỉ đô la để mua thêm năm tàu tuần tiễu, và tuyển mộ thêm hơn 200 binh sĩ. Nhật Bản và Trung Quốc đang tranh chấp một số đảo tại vùng Biển Hoa Đông, thuộc quần đảo Senkaku, mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, nằm ở phía tây đảo Okinawa.
Kể từ năm 2012, tàu tuần duyên và tàu hải quân Trung Quốc qua lại hàng ngày khu vực xung quanh quần đảo hiện do Nhật kiểm soát.
Quân đội Nhật Bản tập trung phát triển các lực lượng cơ động, với sự yểm trợ của nhiều chiến đấu cơ, tàu chiến, tàu lưỡng thể. Các phương tiện này được bố trí tại khu vực phía nam để đối phó với Trung Quốc, thay vì ở phía bắc, như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi Liên Xô là mối đe dọa chủ yếu.
Tăng ngân sách quốc phòng đến mức kỉ lục là câu trả lời của chính quyền Nhật đối với tổng thống tân cử Mỹ. Quan điểm của ông Donald Trump là yêu cầu Tokyo tăng đóng góp tài chính cho các căn cứ quân sự Mỹ trên đất Nhật, hoặc bảo đảm được khả năng tự vệ với việc xây dựng lực lượng hạt nhân của riêng mình.
Trên thực tế, Tokyo đã đảm nhận toàn bộ chi phí cho các căn cứ Mỹ tại Nhật, và Tokyo cũng đã sửa đổi bản Hiến pháp chủ hòa, để có thể hội nhập với chiến lược an ninh quốc phòng mới của Hoa Kỳ ».
Theo hiệp ước an ninh song phương Nhật-Mỹ, khoảng 54.000 binh sĩ Hoa Kỳ có mặt tại Nhật có nhiệm vụ giúp Nhật phòng vệ đất nước. Hàng năm Nhật Bản chi khoảng 500 tỉ yen (tương đương 4,5 tỉ đô la), tức gần 10% ngân sách quốc phòng cho các căn cứ Mỹ tại đây.
Theo tờ Wall Street Journal, trong dự án ngân sách này, có khoản chi 65 tỉ yen cho chương trình phát triển một hệ thống tên lửa đánh chặn mới trong hải quân, phối hợp với Hoa Kỳ.
Dự án ngân sách quốc phòng của chính phủ Nhật còn đợi Quốc Hội chính thức phê chuẩn.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20161222-chinh-phu-nhat-phe-chuan-ngan-sach-quoc-phong-ky-luc
Theo thông tin của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, được tờ Wall Street Journal trích dẫn, ngân sách quốc phòng năm 2015 của Nhật chiếm 1% GDP, trong lúc Trung Quốc chi 214,8 tỉ đô la cho quân sự, chiếm 1,9% GDP.
Thông tín viên Frédéric Charles tường trình từ Tokyo:
« Nhật Bản sẽ tăng cường lực lượng tuần duyên, với 1,5 tỉ đô la để mua thêm năm tàu tuần tiễu, và tuyển mộ thêm hơn 200 binh sĩ. Nhật Bản và Trung Quốc đang tranh chấp một số đảo tại vùng Biển Hoa Đông, thuộc quần đảo Senkaku, mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, nằm ở phía tây đảo Okinawa.
Kể từ năm 2012, tàu tuần duyên và tàu hải quân Trung Quốc qua lại hàng ngày khu vực xung quanh quần đảo hiện do Nhật kiểm soát.
Quân đội Nhật Bản tập trung phát triển các lực lượng cơ động, với sự yểm trợ của nhiều chiến đấu cơ, tàu chiến, tàu lưỡng thể. Các phương tiện này được bố trí tại khu vực phía nam để đối phó với Trung Quốc, thay vì ở phía bắc, như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi Liên Xô là mối đe dọa chủ yếu.
Tăng ngân sách quốc phòng đến mức kỉ lục là câu trả lời của chính quyền Nhật đối với tổng thống tân cử Mỹ. Quan điểm của ông Donald Trump là yêu cầu Tokyo tăng đóng góp tài chính cho các căn cứ quân sự Mỹ trên đất Nhật, hoặc bảo đảm được khả năng tự vệ với việc xây dựng lực lượng hạt nhân của riêng mình.
Trên thực tế, Tokyo đã đảm nhận toàn bộ chi phí cho các căn cứ Mỹ tại Nhật, và Tokyo cũng đã sửa đổi bản Hiến pháp chủ hòa, để có thể hội nhập với chiến lược an ninh quốc phòng mới của Hoa Kỳ ».
Theo hiệp ước an ninh song phương Nhật-Mỹ, khoảng 54.000 binh sĩ Hoa Kỳ có mặt tại Nhật có nhiệm vụ giúp Nhật phòng vệ đất nước. Hàng năm Nhật Bản chi khoảng 500 tỉ yen (tương đương 4,5 tỉ đô la), tức gần 10% ngân sách quốc phòng cho các căn cứ Mỹ tại đây.
Theo tờ Wall Street Journal, trong dự án ngân sách này, có khoản chi 65 tỉ yen cho chương trình phát triển một hệ thống tên lửa đánh chặn mới trong hải quân, phối hợp với Hoa Kỳ.
Dự án ngân sách quốc phòng của chính phủ Nhật còn đợi Quốc Hội chính thức phê chuẩn.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20161222-chinh-phu-nhat-phe-chuan-ngan-sach-quoc-phong-ky-luc
Trung Quốc cung cấp súng và trang thiết bị chống ma túy cho Philippines
RFA
2016-12-20
2016-12-20
Trung Quốc đề nghị cung cấp cho Philippines súng và các trang thiết bị
trị giá 14 triệu đôla để sử dụng trong chiến dịch chống ma túy mà Tổng
thống Rodrigo Duterte phát động ngay sau khi lên nhậm chức hồi cuối
tháng 6 vừa qua.
Bộ trưởng Quốc phòng Philippines hôm nay cho biết đề nghị này đã được
chính Đại sứ Trung Quốc ở Manila đưa ra khi gặp Tổng thống Duterte và
người đứng đầu ngành quốc phòng Philippines vào ngày hôm qua.
Bộ trưởng Delfin Lorenzana nhắc lại lời của Đại sứ Trung Quốc là biết
được yêu cầu chống khủng bố và ma túy của Tổng thống Philippines nên Bắc
Kinh muốn giúp đỡ.
Phía Philippines có thể sử dụng khoản 14 triệu đôla để mua vũ khí loại
nhỏ, tàu cao tốc và kính nhìn trong đêm. Thỏa thuận về khoản hỗ trợ này
có thể được đúc kết trước cuối năm nay.
Ngoài ra tin cũng cho biết phía Trung Quốc có đề nghị cho Philippines
một khoản vay dài hạn 500 triệu đôla vào sang năm để Manila chi dùng
trong công cuộc chống khủng bố và chiến dịch chống ma túy.
Hãng thông tấn AFP cho biết đại sứ quán Trung Quốc chưa có phúc đáp cho hãng này về tin vừa nêu.Ông Trump kêu gọi mở rộng khả năng vũ khí hạt nhân Mỹ
Tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump ngày 22/12 kêu gọi Mỹ mở rộng khả năng
vũ khí hạt nhân, một tín hiệu cho thấy ông có thể sẽ ủng hộ tiêu tốn
cho công việc hiện đại hóa kho vũ khí hạt nhân đang lỗi thời của Mỹ.
Không rõ điều gì khiến ông đưa ra lời kêu gọi này, nhưng trước đó trong
cùng ngày, Tổng thống Nga Vladimir Putin phát biểu rằng Moscow cần ‘tăng
cường khả năng quân sự của các lực lượng hạt nhân chiến lược.’
Trong một dòng tin trên Twitter, ông Trump nói: “Mỹ phải mạnh mẽ tăng cường và mở rộng khả năng hạt nhân của mình.”
Trong thập niên tới, các tàu ngầm phi đạn đạn đạo, máy bay ném bom, phi
đạn phóng từ mặt đất của Mỹ dự kiến sẽ hết thời hạn sử dụng hiệu quả.
Duy trì và hiện đại hóa kho vũ khí hạt nhân này ước tính mất khoảng 1
ngàn tỷ đô la trong 30 năm, theo các con số ước tính độc lập.
Mỹ là một trong năm quốc gia vũ khí hạt nhân được phép duy trì kho hạt
nhân theo Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân. Các nước khác gồm
Nga, Anh, Pháp, và Trung Quốc.
http://www.voatiengviet.com/a/ong-trump-keu-goi-mo-rong-kha-nang-vu-khi-hat-nhan-my/3647857.hTổng thống Philippines đối diện vụ điều tra 'giết người'
- 6 giờ trước
Cơ quan giám sát nhân quyền độc lập của Philippines cho biết họ sẽ điều
tra tuyên bố của Tổng thống Rodrigo Duterte rằng đích thân ông đã giết
chết nghi phạm ma túy trong thời gian làm thị trưởng thành phố Davao.
Ủy ban Nhân quyền cũng sẽ xem xét các phúc trình theo đó nói 'biệt đội
tử thần' đã giết chết hàng trăm người dân ở thành phố phía nam này.
Ông Duterte hồi tuần trước xác nhận với BBC rằng ông đã từng tự tay bắn chết ba người đàn ông.
Kể từ khi được bầu làm tổng thống vào tháng Năm, ông đã tiến hành cuộc chiến chống ma túy một cách vô cùng bạo lực.
Những người chỉ trích nói rằng ông đã khuyến khích cảnh sát, nhân viên
trị an và lính đánh thuê bắn chết tại chỗ các đối tượng bị nghi là buôn
bán ma túy và người nghiện. Gần 6.000 người được cho là đã bị giết chết.
Ông Duterte từng làm thị trưởng Davao trong hai thập niên. Trong thời
gian đó, ông nổi tiếng về việc mạnh tay trấn áp tội phạm và bị cáo buộc
tài trợ cho 'biệt đội tử thần'.
Hôm thứ Ba, Trưởng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc Zeid Ra'ad
al-Hussein cho biết tuyên bố của ông Duterte "rõ ràng cấu thành tội giết
người" và ông kêu gọi các cơ quan chức năng điều tra xem xét vấn đề.
Chito Gascon, người đứng đầu Ủy ban Nhân quyền Philippines, hôm thứ Tư
nói rằng một nhóm các nhà điều tra sẽ tiến hành xem xét vụ việc.
Ông nói với BBC rằng cuộc điều tra từng được tiến hành đối với những gì
diễn ra tại Davao đã kết luận hồi năm 2012 rằng không có bất kỳ bằng
chứng nào cho thấy ông Duterte trực tiếp tham gia vào các vụ giết người,
nhưng ủy ban đã khuyến nghị buộc tội ông "theo học thuyết về trách
nhiệm chỉ huy".Các công tố viên, tuy nhiên, đã không làm theo khuyến nghị này.
"Nay, với việc ông ấy thừa nhận... chúng tôi đang tìm kiếm bằng chứng liên quan trực tiếp tới những liên kết giữa ông Duterte với các vụ giết người," ông nói với chương trình Newshour của BBC.
Nhưng ông nói thêm: "Ngay cả khi chúng tôi không thể buộc tội khi ông
Duterte là Tổng thống, tôi nghĩ điều quan trọng là chúng tôi có hồ sơ và
tài liệu [về các sự kiện] để đến lúc thích hợp, chúng tôi đã có chứng
cớ được bảo đảm để mọi người cuối cùng có thể chịu trách nhiệm về những
gì họ đã làm."
Hồi đầu tháng này, ông Duterte nói với một nhóm các lãnh đạo doanh
nghiệp rằng: "Tại Davao tôi từng đích thân làm điều đó [giết người]. Chỉ
là để cho họ [cảnh sát] thấy rằng nếu tôi có thể làm điều đó tại sao họ
lại không."
Phát ngôn viên của ông sau đó đã khẳng định đây chỉ là những "lời dằn mặt" và phủ nhận việc ông Duterte đã giết bất cứ ai.
Nhưng nói chuyện với BBC một vài giờ sau, ông Duterte nói: "Tôi đã giết
chết khoảng ba người... Tôi không biết có bao nhiêu viên đạn từ khẩu
súng của tôi xuyên vào trong cơ thể của họ. Chuyện đó đã xảy ra và tôi
không thể nói dối về n
Một trong những người chỉ trích Tổng thống gay gắt nhất ở Philippines,
Thượng nghị sĩ Leila de Lima, cho biết lời thừa nhận của ông có thể là
căn cứ để buộc tội.
Nhưng hôm thứ Tư, chính phủ đã đệ đơn cáo buộc hình sự bà de Lima, theo
đó nói bà đã cố gắng phá hoại cuộc điều tra của Quốc hội đối với cáo
buộc bà tham gia buôn bán ma túy. Bà mạnh mẽ bác bỏ việc đã có bất kỳ
hành vi sai trái nào.
Đầu tuần này, bà de Lima nói với BBC rằng bà lo sợ cho mạng sống của
mình, nhưng sẽ không để cho sự hăm dọa khiến bà phải im lặng.
Ông Duterte đã bác bỏ những quan ngại về chính sách chống ma túy của mình
Alibaba bị Hoa Kỳ đưa lại vào danh sách bán hàng giả
- 22 tháng 12 2016
No comments:
Post a Comment