CHÚC THUẦN * TÂM SỰ VỢ TÙ CẢI TẠO
Tâm Sự Của Một Người Vợ Tù Nhân "Cải Tạo"
Chúc Thuần
Thời đó, cha tôi là một thầu khoán làm việc cho người Pháp. Mẹ tôi thì sung sướng từ nhỏ tới lớn. Đến khi lập gia đình, bà sống trong sự giàu sang, không biết gì về mọi việc ngoài xã hội; đùng một cái trong một chuyến công tác, cha tôi từ trần đột ngột với tuổi đời bốn mươi chín.
Lời BBT: Đây là kinh nghiệm sống lăn lóc, đọa đày có thật 100%
của một người Mẹ Việt Nam âm thầm kiên trì nuôi con thờ chồng ở tuổi
thanh xuân; một người vợ hiền, nhẫn nhục, thuỷ chung lặn lội thay chồng
săn sóc Mẹ Cha, nuôi dạy các con và đã lèo lái gia đình đến bến bờ Tự
Do, Hạnh Phúc tại Virginia, miến Đông Bắc Hoa Kỳ. Lần đầu tiên Chúc
Thuần ghi lại tâm sự của Chị do sự thôi thúc, mời gọi của Lê Mộng Hoàng
để chia sẻ cùng các chị em trang Kỷ Nguyên Mới.
Tôi sinh ra ở miền Bắc, nhưng lại lớn lên tại miền Nam, tuy tôi gốc là người Bắc nhưng tôi không hiểu gì về miền Bắc cả.
Thời đó, cha tôi là một thầu khoán làm việc cho người Pháp. Mẹ tôi thì sung sướng từ nhỏ tới lớn. Đến khi lập gia đình, bà sống trong sự giàu sang, không biết gì về mọi việc ngoài xã hội; đùng một cái trong một chuyến công tác, cha tôi từ trần đột ngột với tuổi đời bốn mươi chín.
Sau biến cố đau buồn nầy, mẹ tôi vì thiếu kinh nghiệm trường đời nên
bao nhiêu tiền bạc của cải do cha tôi để lại từ từ hết sạch. Thế là mẹ
con tôi sống rất lao đao khổ sở. Người anh cả của tôi đã bỏ mẹ đi theo
cộng sản năm anh 8 tuổi, chỉ còn lại 3 chị em gái chúng tôi sống với
người mẹ góa chồng khi bà tròn 28.
Sau hiệp định Geneve (1954) nước Việt Nam phải chia đôi, thế là mẹ
con tôi bồng bế nhau di tản vào miền Nam để tìm tự do. Ôi hai chữ "tự
do" sao tôi quý nó vô vàn, tôi phải đánh đổi nó với bao sự tủi hờn cay
đắng...
Vào miền Nam, chị em chúng tôi còn rất nhỏ, chị lớn nhất 12 tuổi, chị
kế 10 tuổi và tôi 8 tuổi. Tôi lớn lên nhờ sự đùm bọc nuôi dưỡng của
người mẹ kiêm luôn người cha. Tôi rất thương yêu và quí trọng mẹ tôi. Mẹ
tôi là một kho tàng quý báu. Cho đến bây giờ tôi không còn kiếm ở đâu
ra được tình thương vô bờ bến của người mẹ đã dành cho tôi nữa.
Do sự cố gắng của mẹ tôi, tôi đã được học hết bậc trung học sắp đi
vào ngưỡng cửa đại học, nhưng vì Mẹ tôi làm ăn thua lỗ nên tôi phải bỏ
ngang sự học và rồi tôi lập gia đình, kết hôn với người bạn đời mà trong
suốt thời gian trước chúng tôi không hề tìm hiểu và biết mặt nhau. Sau
khi cưới, chúng tôi đưa mẹ về sống chung. Cuộc sống của mẹ con tôi tạm
coi như ổn định.
Chồng tôi sau khi ra trường trừ bị Thủ Đức, anh được thuyên chuyển về
miền Tây với binh chủng Biệt Động Quân. Một binh chủng đã lập được
những chiến công lừng lẫy trên khắp các địa bàn chiến lược, đã làm cho
Việt Cộng khiếp vía kinh hồn. Ai đã ở miền Tây năm 1962-1965 đều nghe
danh 2 tiểu đoàn 44 và 42 Biệt Động Quân.
Thời gian trước đó, tôi là một nữ sinh thường được bà cố vấn Ngô Đình
Nhu đến trường bốc đi thăm các chiến sĩ ngoài tiền tuyến, từng khoác
vòng hoa chiến thắng trên đại lộ Thống Nhất từ Dinh Độc Lập tới Sở Thú,
nên tôi rất yêu mến những chàng chiến sĩ oai phong lẫm liệt của chế độ
VNCH. Cho đến bây giờ những hình ảnh kiêu hùng đó khó có thể phai mờ
trong tâm khảm của tôi.
Sau 1975, chồng tôi cũng như bao nhiêu chàng trai tuấn tú mà tôi đã
ca tụng ở trên đều lần lượt bị chế độ Cộng Sản cưỡng bách đi "học tập
cải tạo"; nói là học tập cho hoa mỹ vậy thôi, chính là đưa đầu cho chúng
tóm vào tù. Tôi một mẹ 7 con với một bào thai trong bụng, không nhà,
không tiền bạc, không hộ khẩu vì chúng tôi từ miền Trung di tản nên sản
nghiệp chẳng còn gì ngoài 2 bàn tay trắng. Mẹ con tôi phải sống nương
tựa vào 2 bà chị của tôi. Mỗi gia đình cưu mang một nửa. Cuộc sống của
mẹ con tôi thật vất vả. Tôi chỉ còn một chút tiền nho nhỏ ra chợ trời
tập buôn bán. Bụng thì càng ngày càng to, sức tôi trói gà cũng không
chặt, có nghĩa là từ trước tới giờ tôi chỉ biết đi học. Sau lập gia đình
thì làm nội trợ ngoài ra tôi chẳng biết gì ở ngoài xã hội cả! Lúc đó
tôi cảm thấy cả một bầu trời sụp đổ. Chế độ tự do của miền Nam lọt vào
tay cộng sản đã 2 năm mà tôi cứ tưởng như là giấc mơ. Đến lúc tôi béo
mạnh vào bắp thịt non thấy đau mới sực tỉnh và tự nhủ lòng—thôi rồi… sự
thật đây mà!
Vì di tản không hộ khẩu, không nhà cửa nên tôi gặp rất nhiều khó khăn
với phường khóm, nhất là với tụi công an địa phương. Chúng làm khó dễ
họp hành vợ con cải tạo riêng để lên lớp mắng chửi xua đuổi đi kinh tế
mới. Có nhiều lúc chúng đòi gặp riêng để tán tỉnh, nhưng với lòng dũng
cảm khắc phục chờ chồng và nhất là ngay trước hình ảnh oai phong của
chồng tôi cũng như của các chiến sĩ VNCH vẫn còn ngự trị trong tôi, nên
với tụi cán ngố, trước mắt tôi chỉ là phường ngu ngốc không xứng đáng
sánh vai với tôi được.
Bẵng đi 4 năm sau ngày chồng tôi đi học tập, tôi mới được lá thư đầu
tiên viết về báo là anh đang ở Yên Bái, Cao Bằng chỗ gần giáp giới với
Việt Nam và Trung Quốc. Ngày đó tôi chỉ được gửi 5 kg cho người cải tạo,
nhưng nhờ lanh trí, tôi đã gói ghém được một ít tiền bỏ vào trong hộp
mắm ruốc xào sả ớt nên chồng tôi cũng đắp đổi qua ngày.
Tụi Cộng Sản chuyên ăn hối lộ nên tôi đã chạy được hộ khẩu và chính
thức là thường trú nhân của TPHCM, tuy nhiên những gia đình vợ con của
mấy người "tù cải tạo" chúng tôi vẫn bị sự kềm chế của chính quyền địa
phương. Chúng bắt đi kinh tế mới, nào là: "Các chị cứ đi, đi đến đó thì
các anh cũng đón các chị ở đấy rồi". Tôi tưởng thật, có nhiều lúc thấy
cực khổ, quá thiếu vắng chồng con với tuổi đời 32, đôi lúc tôi cũng muốn
đánh liều đi đại cho rồi để có chồng phụ lực với tôi nuôi đàn con dại;
nào ngờ chúng dùng toàn thủ đoạn dối trá. Nếu tôi không có người anh
ruột đã theo đuổi chúng bao nhiêu năm cách mạng cho biết sự xảo quyệt
của chúng, không biết chừng giờ này mẹ con tôi đã chết rục xương ở vùng
kinh tế mới rồi.
Tôi là người đạo Phật nên rất tin tưởng vào các chư Bồ Tát. Có những
lúc tận cùng của khổ đau, tôi đã âm thầm chắp tay hàng đêm cầu xin mẹ
Quan Thế Âm cứu vớt gia đình tôi qua cơn hoạn nạn. Trong thời gian đó có
rất nhiều gia đình vì quẫn trí đã uống thuốc chuột để tự tử. Tôi cũng
đã vạch ra một chương trình như thế, nếu tôi không nuôi nổi đàn con của
tôi, phút chót tôi cũng sẽ nấu một nồi cháo gà thật ngon, mẹ con ngồi
quây quần ăn một bữa cho no rồi cùng qua bên kia thế giới!
Giòng đời cứ thế trôi đi, tôi cũng không thể cưỡng lại với định mệnh,
con tằm vay nợ phải nhả tơ cho đến phút cuối. Tần tảo nuôi đàn con dại
cộng thêm 2 vị song thân của chồng tôi. Vì ông bà có 2 người con trai
đều phải đi "tù cải tạo" cuộc sống của 2 cụ gặp nhiều khó khăn. Trong
thời gian buôn bán chợ trời tôi gặp rất nhiều may mắn có quí nhân phù
trợ. Họ đã giúp vốn cho tôi mua được hai cây vàng và ra chợ vàng chồm
hổm Lê Thánh Tôn bán. Cũng mua vào bán ra; nhưng vì mới ra làm quen với
chợ vàng nên ít người biết đến. Đi không rồi lại về không, rồi lỗ vốn
tiền ăn mà chẳng té ra được đồng nào cả!
Có một hôm vì tiền cũ đổi ra tiền Hồ nhiều quá, kinh nghiệm đếm qua
đếm về không có, tôi đã thâm thủng hết năm chục ngàn. Đi thì một triệu,
về chỉ còn chín trăm năm chục ngàn mà thôi. Tôi rất lo lắng ngày đêm
không thể ăn ngủ yên được, nhưng tôi vẫn gắng kiên trì đeo đuổi mãi rồi
cũng đạt được đến đích. Nhờ buôn bán thật thà nên cũng được nhiều gia
đình tín nhiệm. Lúc đầu thì cần vốn sau chỉ cần miệng nói, họ vẫn tin
tưởng cho mình cầm vàng đi bán, sau đem tiền về cho họ.
Dòng thời gian cứ thế trôi đi, tôi cũng đã dành dụm được một số tiền
mua được căn nhà nhỏ sống với bố mẹ chồng và người mẹ ruột--suốt đời bà
đã hy sinh cho con cháu. Bà thấy tôi neo đơn nên từ chối về ở với 2
người con lớn. Mặc dầu 2 chị tôi cầu khẩn bà về để cho 2 chị tôi chăm
sóc hưởng sự an nhàn, còn ở với tôi một đàn con dại hành bà chỉ còn nắm
xương. Nhưng vì lòng mẹ thương con biển trời lai láng, nên bà không nỡ
để mẹ con tôi sống bơ vơ. Cũng nhờ vậy mà tôi yên tâm, đi từ sáng đến
tối, lặn lội kiếm sống nuôi con nuôi chồng cải tạo.
Năm 1979 chồng tôi viết thư về nhắn tôi ra Bắc thăm nuôi vì anh đã
thấy lác đác có một vài cải tạo viên được thăm nuôi rồi. Tôi vội vã lên
phường, nơi tôi cư ngụ xin ra Bắc thăm chồng. Họ từ chối bảo là: "Chưa
có lệnh của cấp trên." Tôi cãi lại và nói rằng: "Chồng tôi gửi thư bảo
trong Nam đã cho lệnh thăm nuôi." Họ trả lời: "Ở đâu không biết nhưng
địa phương này chưa có!" Tôi thất vọng ra về mà lòng buồn bã khôn nguôi.
Sau tôi nghĩ ra được một cách, vì tôi là người Bắc, dứt khoát phải còn
thân nhân, chạy giấy tờ chi ra 5 chỉ vàng lấy được tờ giấy phép là công
nhân viên ra Hà Nội thăm thân nhân. Từ đó tôi vào bộ nội vụ xin giấy
được vào trại Ba Sao tức là trại Hà Nam Ninh thăm chồng. Nhờ có thân
nhân, tôi được bà con giúp đỡ làm đủ mọi thứ nào xôi, nào cơm nắm, nào
bánh chưng, mắm, thịt, sữa, đường... trọng lượng khoảng 200 ký. Đường đi
từ Hà Nội tới Phủ Lý tương đối dễ nhưng từ Phủ Lý vào trại thì đường xá
gập gềnh. Tôi thuê một chiếc xe bò với người phu xe.
Những lúc trời
mưa, ổ gà to lớn, bánh xe lọt thỏm xuống sình lầy, tôi phải tuột xuống
đi chân đất, quần áo xăn lên tận đầu gối, đẩy ì à ì ạch. Đẩy mãi mà bánh
xe cũng không làm sao lên được, mồ hôi ướt đẫm. Cuối cùng anh phu xe
phải xuống phụ lực xe mới lăn được bánh. Đi trong rừng sâu muỗi bọ thật
nhiều, chúng mà cắn phải thì sưng lên chù vù, to như hột bắp; sau cùng
chúng tôi cũng tới được trại Ba Sao.
Gần tới cổng trại tôi đã gặp được những toán đi lao động trở về. Nhìn
các anh lòng tôi quặn thắt, nước mắt đoanh tròng. Thật là tội nghiệp
cho các anh, vì đất nước đổi thay mà người ngu lên lớp dạy người khôn.
Tôi cũng cố gắng mở mắt cho thật to xem có bóng dáng người chồng của
tôi trong đó hay không, nhưng toàn là người xa lạ cả. Tôi vào trại trình
giấy tờ lên bộ chỉ huy, được họ cho xuống nhà chờ đợi để ngày mai gặp
chồng. Nhưng trớ trêu thay một ngày, rồi hai ngày, rồi ba ngày, tôi thấy
những bà vợ của cải tạo viên vào sau mà họ đã được lần lượt gọi tên để
đến phòng tiếp tân gặp thân nhân, riêng tôi thì chẳng thấy ai gọi cả.
Tôi rất bực tức liền lên ban chỉ huy của trại khiếu nại để biết lý do.
Sau cùng tôi được họ cho biết là tôi thăm 2 chồng, 1 chồng ở Hà Nội và 1
chồng là cải tạo viên. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra là chúng muốn kiếm
chuyện cho có lý do giữ tôi ở lại để chúng nói chuyện tào lao. Tôi thật
là thù hận bọn chúng nhưng chẳng làm thế nào được cả, đành theo lệnh của
chúng mà thôi.
Đến ngày thứ tư, tôi được chúng gọi tên để qua phòng tiếp tân thăm
chồng tôi. Lần đầu tiên sau 5 năm xa cách, tôi thật là bồn chồn chẳng
biết hình hài anh bây giờ ra sao. Cuối cùng thì tôi cũng được nhìn thấy
chồng tôi thấp thoáng xa xa, anh đang đẩy cái xe 2 bánh mà chúng gọi
bằng một từ rất hoa mỹ là "xe cải tiến" với thân hình ốm yếu gầy mòn,
quần áo rách mướp chỗ thì vá, chỗ hở da. Đau lòng thay! Nước mắt tôi
chảy ra như thác, thương cho anh, thương cho đồng đội của anh, những
chàng trai hùng dũng khi xưa nay vì vận nước đổi thay mà phải chịu nhục
nhã, bị hành hạ bởi đám quỷ đỏ. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy thương
và yêu mến những con người ấy mặc dầu hình hài của các anh đã tiều tụy
lắm rồi.
Tôi được sắp đặt ngồi ở một cái bàn lớn đối diện với chồng tôi. Ở đầu
bàn có một công an ngồi để quan sát, theo dõi chúng tôi nói gì. Chúng
tôi chỉ được 2 tiếng đồng hồ để thăm nuôi, vừa nói chuyện vừa đưa quà,
nhưng lúc đó vì quá xúc động, bao nhiêu chuyện muốn nói lại không nhớ gì
để mà nói. Loay hoay hết giờ lúc nào tôi cũng không biết. Thế là phải
đành xếp thức ăn vào xe cải tiến cho chồng tôi mang vô trại. Tôi chỉ còn
dặn dò chồng tôi: "Anh đem vào xem các anh nào không thân nhân thăm
nuôi, cần gì thì anh cho các anh ấy với nhé, và nhớ cho họ ăn một bữa
đêm nay cho thật no." Nói xong vợ chồng tôi từ giã để chia tay mà không
biết bao giờ còn có thể gặp nhau lại!
Lúc sửa soạn để gặp chồng tôi, bao nhiêu chuyện nhà, chuyện cha mẹ,
chuyện con cái, chuyện vượt biên sống chết, khi gặp thì lại quên hết.
Khi về đến nhà tạm nghỉ thì mọi chuyện lại đến với tôi sáng rõ như ban
ngày, luyến tiếc thì cũng đã muộn! Tôi đành đáp chuyến xe bò cuối cùng
của trại để ra Phủ Lý đón tàu về Hà Nội rồi mua vé xuôi Nam. Ôm trọn nỗi
buồn đau xót, đắng cay của một người vợ có chồng đi "tù cải tạo".
Năm 1980, bọn chúng sợ Mỹ giải vây cho những người tù cải tạo. Chúng
chuyển chồng tôi và một số anh em vô Nam. Về Long Khánh, cũng cái màn ăn
hối lộ, tôi đã bắt được mánh chạy cho chồng tôi ra. Năm 1982, thế là vợ
chồng tôi cùng 3 con nhỏ (5 cháu lớn tôi đã gửi bà con mang đi trước)
vượt biên. Chúng tôi đến Mỹ cuối năm 1983. Hai vợ chồng với bầy con 8
đứa, các cháu còn rất nhỏ, chúng tôi phải vất vả lắm mới thích nghi được
với cuộc sống của xứ người. Cũng may với số vốn Anh ngữ
trước kia đã là hành trang cho chúng tôi vươn lên.
Bây giờ ngồi nghĩ lại tôi thật hãi hùng, bao nhiêu chuyện đắng cay
tôi đã phải trải qua, nhưng bù đắp lại là gia đình chúng tôi đã được chư
Phật mười phương cứu giúp đến được bờ bến tự do, được sống trên một
quốc gia tân tiến nhất thế giới. Tôi cảm thấy quá đầy đủ lắm rồi, không
còn ước muốn gì nữa cả. Thiên đàng là đây! Niết bàn là đây, mình còn
phải đi tìm ở đâu xa nữa. Các con tôi cũng đã thành nhân và trưởng thành
hết rồi. Con đàn cháu đống, con cháu hiếu thảo. Vợ chồng chúng tôi bây
giờ số tuổi đã cao nhưng còn sức khỏe, vẫn đi làm và có thu nhập chút
đỉnh, không còn phải lo lắng cho các con như xưa nữa. Quãng đời còn lại
vợ chồng tôi chú tâm vào con đường HÀNH THIỆN, nghĩ đến quê hương còn
rất nhiều người đang còn khổ đau, tù đày giam hãm, rất cần sự giúp đỡ
của chúng tôi, của mọi người. Tuy không được to lớn, nhưng "một miếng
khi đói bằng một gói khi no". Chúng tôi nguyện cầu ơn Tam Bảo giúp sức
và độ cho chúng tôi được sức khỏe để tiếp tục noi theo gương hạnh Bồ Tát
của đức Như Lai hàn gắn những mảnh đời bất hạnh.
Tôi cũng cảm ơn nước Mỹ đã cho gia đình chúng tôi và đồng bào của tôi được dung thân nơi đây, hít thở không khí Tự Do.
NGƯỜI Ở LẠI BIỂN ĐÔNG (Hoàng Quân Trí Nô)
NGƯỜI Ở LẠI BIỂN ĐÔNG (Hoàng Quân Trí Nô)
Như
một nén hương muộn màng, để tưởng niệm hương hồn anh Sáu Hoàng, người
đã bị bỏ lại một cách tình cờ, tức tưởi trong vùng biển Phi Luật Tân,
chỉ một ngày trước khi cả đoàn ghe đánh cá người Phi cứu vớt an toàn!
Anh đã bị bỏ lại trong khi cố tìm một tia hy vọng cho đoàn tàu đang bị
trôi giạt một cách tuyệt vọng hơn 1 tháng trên vùng biển kinh hoàng này…
Biển Đông ngày thứ ba mươi tám…
Buổi
sáng hôm đó, cả nhóm chúng tôi gồm hơn ba mươi người còn lại, gồm cả
đàn ông đàn bà và cả con nít, đang nằm, ngồi la liệt, đói khát, mệt lả
trong khoang của chiếc ghe cào rách nát, tả tơi.
Sau
hơn một tháng trời trôi dạt trên vùng biển mênh mông, vô định, chiếc
máy “ấn độ” đã chết tiệt chỉ sau hơn ba ngày gầm gừ, thi gan cùng bão
gió, bây giờ nằm thù lù giữa lòng ghe như một vật vô tri vô giác, chỉ
dùng làm chỗ dựa lưng cho vài người ngồi nhìn ra biển một cách tuyệt
vọng, hai chiếc máy đuôi tôm loại khá lớn đã lần lượt bị đẩy xuống biển
sau chỉ hơn một vài lần nổ máy mà không đẩy được chiếc ghe đi được bao
xa, vì sóng biển cứ liên tục lên xuống bập bềnh, khiến không cách nào
giữ cho chiếc chong chóng chìm dưới mặt nước được…
Tất
cả “động cơ” (!) còn lại trên ghe chỉ là một chiếc buồm tự tạo bằng một
tấm vải bạt khá lớn trước đây dùng đậy máy, được cột chằng chịt vào một
cây “tầm vông” dài khoảng năm thước, được dựng lên hạ xuống tùy theo
mức gió. Có ai đó đã có sáng kiến dùng dầu nhớt máy, phết lên mấy chữ
S.O.S lên “ chiếc buồm hộ mệnh”, đã bị nước mưa làm lem luốc, chảy dài,
làm tăng thêm vẻ thê lương của con “tàu định mệnh”. Mặt biển bây giờ
thật yên lặng, không một chút gió nào, chiếc ghe dường như đứng yên,
không nhúc nhích. Tôi nghe rõ từng tiếng vỗ lạch bạch, thưa thớt của
nước biển vỗ vào thành ghe. Không ai nói một lời nào, tất cả mọi người
dường như còn bàng hoàng, ngạc nhiên vì sự ra đi, hay đúng là sự “ở lại”
thật vô lý, thật bi thảm của anh Sáu Hoàng mới chiều hôm qua. Anh chàng
này là một cựu Sĩ Quan Hải Quân, mới ra tù được vài năm, được người chủ
ghe móc nối đi theo để làm tài công cho chuyến đi, vì biết anh ta trước
đây đã từng nhiều lần lái tàu đi về trên vùng biển này. Cho đến ngày
hôm đó, anh là người tương đối còn khoẻ mạnh, năng động nhất trên tàu,
anh vẫn thường dùng những kinh nghiệm đi biển của mình để tính toán,
đoán mò là theo sức gió thế này, đi theo hướng này thì bây giờ phải đi
qua khỏi vĩ tuyến số mấy, và nếu cứ tiếp tục với tốc độ này, thì bao
nhiêu ngày sẽ đến vùng biển nào, và ta có thể tấp vào vùng đảo nào, v.v…
Mọi
người, ai cũng thích nghe anh nói, đặt cho anh những câu hỏi ngây ngô:
bây giờ đi tới đâu rồi? Còn bao xa nữa? Chừng nào tới? Mình sẽ di tới
đâu?…Mặc dù không mấy ai tin tưởng lắm, vì chưa có gì thật sự xẩy ra
đúng như lới anh tiên đoán!
Tôi
còn nhớ rõ như in, buổi chiều hôm đó, anh ngồi tựa lưng bên thành ghe,
chân tựa vào bánh lái đã được buộc hờ vào khoang ghe, anh chỉ cho tôi và
một vài người kế đó xem: Mặt nước biển bây giờ có vẻ đục hơn, không còn
mầu đen đậm như khoảng một tuần trước đây, có nghĩa là mình đã qua khỏi
vùng biển sâu, nước biển như có lẫn cát, và thỉnh thoảng có những mảnh
rác nổi trên mặt, hy vọng là mình đã tới gần bờ hơn, và nếu như anh
không tính toán sai thì có lẽ đây là vùng biển Philippines. Dù không tin
tưởng lắm, nhưng ai nấy đều có thoáng một chút hy vọng mong manh, biết
đâu lần này anh ta nói đúng…
Và
rồi, kia kìa, có một vật gì trăng trắng nổi lên mặt nước biển, trôi từ
từ về phía bên hông ghe, anh nhoài người ra nhìn và chỉ cho chúng tôi,
có lẽ là một vỏ nhựa của bình sữa, hoặc một loại nước uống nào đó từ đất
liền trôi ra. Và đột nhiên, không nói một lời nào, anh ta nhào xuống
biển, để vớt lấy bình nhựa lên may ra thấy nhãn hiệu mà có thể xác dịnh
xuất xứ của chúng, để biết mình gần đến đâu, tôi chỉ thầm đoán như thế.
Nghe tiếng động, mọi người quay lại nhìn theo. Chiếc bình nhựa cách
thành ghe không xa, khoảng mười thước, anh sải tay bơi về phía đó, với
lấy chiếc bình, lặn hụp vài cái để nhìn rõ hơn, vài người trên ghe nhao
nhao hỏi có thấy gì không? Đến đâu rồi?…
Anh
vẫy tay, ra dấu hiệu không ai biết gì, rồi ôm chiếc bình, bơi ngược trở
lại ghe. Mặt biển vẫn yên lặng, sóng chỉ gờn gợn nhẹ, sức gió yếu ớt
không căng nổi chiếc buồm. Chiếc ghe vẫn vô tình lướt tới, dường như
không biết đến chuyện gì xẩy ra. Anh Sáu Hoàng một tay ôm chiếc bình
nhựa, một tay sải nước cố bơi theo chiếc ghe, mọi người trên ghe đứng cả
dậy, nhìn về phía anh, không có gì nguy hiểm lắm…Mọi người hớn hở, chờ
đợi tin vui.
Một
phút…hai phút…rồi năm phút trôi qua, anh vẫn chưa theo kịp chiếc ghe,
vài người trên ghe vớ lấy thanh gỗ, áo quần nhoài người đưa xuống cho
anh với lấy, có người la lên – Anh ấy đuối sức rồi! Tôi vội vàng nắm lấy
cần lái, cố đẩy hết mức về phía phải mong cho chiếc ghe vòng lại. Hay
ít ra cũng giảm tốc độ…nhưng không hiểu sao bánh lái không hoạt động,
tôi cố kéo ngược về bên trái, chiếc ghe vẫn ù lì tiến tới…Chết rồi.!!
Làm sao bây giờ?… Khoảng cách chiếc ghe và anh Sáu càng lúc càng xa hơn,
tôi nhìn thấy tay anh đập chậm hơn, tay kia đã buông trôi bình nhựa,
chân đạp yếu dần…Không có cách nào khác cho ghe dừng lại, hoặc giảm đi
tốc độ, vài người trên ghe hì hục tháo dây cột buồm, cố sức lấy dây,
hoặc cả cột buồm mong đưa xuống cho anh bám, nhưng đã trễ…
Anh
Sáu mỗi lúc một trôi lùi lại phía sau, chiếc ghe vẫn tiến về phía
trước, khoảng cách mỗi lúc một xa dần, mấy người trên ghe cố quăng xuống
cho anh bất cứ thứ gì có thể bám được…cuối cùng anh vớ được một tấm ván
khá to, vẫn dùng để đậy nắp hầm sau ghe, tôi thấy anh cố nhoài người
cưỡi lên tấm ván, nằm sấp người, ôm chặt lấy nó, và rồi anh cùng tấm ván
trôi ngược dần về phía sau.
Tôi
đứng chết lặng nhìn theo anh đang cố vẫy vùng, trồi lên hụp xuống, tay
vung vẩy một cách tuyệt vọng, càng lúc càng xa dần, xa dần cho đến khi
chỉ còn là một chấm nhỏ lay động ở chân trời. Hình như anh đang còn cố
vẫy gọi chúng tôi một cách tuyệt vọng…Trời ơi! Dễ dàng thế sao? Tại sao
anh ta nhẩy xuống vớt cái bình quỉ quái ấy…làm gì? Sao trước khi nhẩy,
không tìm sợi dây, hay vật gì để buộc vào cho chắc?
Thôi
đành vĩnh biệt anh…Số phần anh đã vậy!!! Cầu xin Thượng Đế phù hộ cho
anh. Xin biển, trời nâng đỡ thân xác anh, hoặc xin cho phép lạ nào dun
rủi….Tôi không dám nghĩ tiếp nữa, bất giác tôi từ từ đưa tay ngang trán,
chào anh lần cuối, một vài người đưa tay chào theo. Không ai thốt được
một lời nào.
Màn
đêm dần dần buông xuống, theo thói quen của những ngày trước, tôi đưa
mắt nhìn về phía chân trời để đoán mò thời tiết đêm nay. Theo kinh
nghiệm của anh chàng vốn là dân chài trước đây, nếu chân trời trong là
biển lặng, sóng êm, mà nếu có nhiều áng mây, đóng như vẩy cá là coi
chừng có gió bão…Trời hôm nay có vẻ trong xanh, cầu xin cho anh không bị
sóng gió dập vùi, cũng cầu xin cho những người còn lại trên tàu thêm
một đêm nữa yên lành trên biển cả!
Tiếng
hát cầu kinh của các anh em công giáo trầm buồn vang lên như thường lệ
mỗi đêm, nhưng đêm nay có vẻ thê thiết hơn, ngậm ngùi hơn “Lạy Mẹ… Là
ngôi sao sáng…Soi lối cho con, lúc vượt biển…thế gian…” Có người đế nghị
đọc thêm vài lời kinh cầu cho anh Sáu Hoàng được bình an!
Bóng
tối đã hoàn toàn bao phủ vùng biển mênh mông, chiếc ghe vẫn bồng bềnh
trôi giạt, lầm lủi như một chiếc tàu ma. Không khí thật yên lặng, nhưng
tôi biết rõ là không có người nào chợp mắt trong đêm nay.
Ngày thứ ba mươi chín…
Trời
đã sáng hẳn, mặt trời lên khá cao, chiếu những tia nắng nóng xuyên vào
trong lòng ghe, làm tôi tỉnh hẳn sau một đêm dài trằn trọc. Như một phản
ứng tự nhiên như đã có từ những ngày lênh đênh trên biển, tôi nhỏm dậy
nhìn quanh tứ phía, vẫn chưa thấy bến bờ, vẫn là biển cả mênh mông! Thêm
một ngày lênh đênh trôi giạt!!! Nhìn về sau ghe, mặt biển phản chiếu
ánh sáng mặt trời lấp lánh như một tấm thủy tinh khổng lồ loang lổ.
Hình
ảnh anh Sáu Hoàng ôm mảnh ván vẫy vùng tuyệt vọng như còn ẩn hiện cuối
chân mây. Anh có thể chịu đựng được bao nhiêu lâu trong hoàn cảnh bi
thảm đó?! Tôi cố ghi ngày tháng, để sau này có dịp còn báo lại cho gia
đình anh cúng giổ, ma chay. Kiếp người sao quá mong manh! Biên giới của
cái sống cái chết chỉ là một lằn ranh thật nhỏ, một cái bình nhựa, một ý
nghĩ vội vàng, một cái sẩy tay trong gang tấc….cũng có thể đổi lấy một
mạng người…
Còn
đang miên man với những ý nghĩ mơ hồ, lẫn lộn, thì đầu phía khoang có
tiếng la lớn…Có tầu đến!!! có tầu đến!!! Tôi bật ngồi dậy, nhìn quanh
thấy một vệt dài, xám đen, chưa rõ hình thù đang ẩn hiện ở phía trái của
chiếc ghe. Không ai bảo ai, mọi người đều đứng lên, vớ lấy những gì có
thể thấy được, quần áo, khăn giẻ, nón mũ….đưa lên cao, vẫy qua vẫy lại.
Một
vài thanh niên còn có sức, đưa tay lên miệng làm lao la lớn “Help!
Help!”…Những động tác này, chúng tôi đã từng lập đi lập lại nhiều lần
trong những ngày lênh đênh trên biển cả, mỗi khi thấy có bóng dáng một
chiếc tầu xuất hiện từ xa, và cũng đã bao nhiêu lần chúng tôi thất vọng
não nề nhìn theo những chiếc thương thuyền đi qua một cách lãnh đạm,
không hề quay lại, hoặc có một dấu hiệu nào cứu vớt. Thậm chí còn có
những chiếc tầu đã vội vã quay mũi chuyển hướng khi nhìn thấy chúng tôi
vẫy gọi. Tôi đã từng nghe nói đến từ ngữ “Tình thương mệt mỏi…ngân sách
không còn…trại tỵ nạn sắp đóng cửa…” trong những ngày còn ở quê nhà.
Nhưng tôi không ngờ họ có thể vô tình đến như vậy! Đành lòng đến như
vậy!!!
Chiếc
tàu lạ dần dần hiện rõ. Ồ, cũng không to lắm, có lẽ cũng xấp xỉ ghe
chúng tôi thôi, hình thù trông có vẻ khác lạ, có nhiều màu xanh đỏ, lại
có cái gì giống như hai cái “giàn cào” (?) dang rộng hai bên, trông vững
chắc. Có lẽ là ghe đánh cá của dân địa phương chăng? Thì ra anh Sáu
Hoàng đã tiên đoán rất đúng, đây quả là vùng biển Phi Luật Tân rồi! Hình
như họ đã nghe thấy chúng tôi và đang tiến thẳng tới.
Mọi
người vẫy tay hăng hơn, mấy thanh niên la lớn hơn. Tôi nhận ra được có
mấy người trên chiếc ghe lạ, mặc quần áo kín mít. Đầu trùm thứ mũ vải
che kín cả mặt, chỉ chừa hai lỗ mắt. Một người có vẻ vạm vỡ, đứng lom
khom trước mũi ghe, tay cầm cuộn dây thừng cuốn vòng lại, nhìn chúng
tôi, quan sát. Mấy người trên ghe chúng tôi càng la to hơn “Help!”
“Help!”…
Chiếc
ghe lạ tiến thẳng đến, quay mũi lại, cặp sát vào, người đứng trước mũi
ghe lẹ làng truyền qua giàn cào, nhảy gọn lên ghe chúng tôi. Ông ta dùng
sợi dây thừng cột vào chiếc cọc trước mũi ghe, rồi từ từ nhìn mọi
người, nói ư a những tiếng gì không ai hiểu. Có lẽ ông ta đang đếm xem
có bao nhiêu người. Chúng tôi thi nhau nói với ông ta bằng một thứ tiếng
Anh cố dặn ra từng chữ “ Việtnamese refugee…boat people…no food…no
water…help…please!!!” Có mấy người đàn bà chắp tay xá xá tỏ vẻ cầu
khẩn…Ông ta vẫn nói ư a những tiếng gì khó hiểu, lần đi vào trong lòng
ghe, nhìn vào chiếc máy chết tiệt rồi quay trở ra. Ông dùng tay ra hiệu
cho mấy người ở bên kia ghe, họ liền nhanh chóng bê ra một tấm ván dài,
chuyền tay bắc qua thành ghe chúng tôi, và ra hiệu cho chúng tôi bước
qua. Mọi người reo hò, vui mừng khôn xiết, luôn miệng nói những tiếng
“thanh you, thank you…”
Tạ
ơn Thượng Đế đã cứu mạng chúng con, đã cho chúng con đến được bến bờ!
Thôi, hết rồi, những ngày lênh đênh, trôi giạt. Hết rồi, những cơn sóng
gió hãi hùng! Qua rồi những ngày đói khát triền miên!
Cảm
ơn tấm lòng vàng của những người dân chài đơn sơ chơn chất! Cám ơn một
dân tộc tuy không giàu của cải, nhưng tràn đầy lòng nhân ái, đã dang tay
đón nhận chúng tôi trong lúc mọi người chỉ muốn đóng cửa, phủi tay,
vì…”tình thương đã mỏi mệt…!!!”
Kể
từ buổi sáng nhiệm mầu đó, họ đã cưu mang chúng tôi như những người anh
em ruột thịt, họ đã chia sớt cho chúng tôi từng mẩu bánh, chén cơm,
từng manh quần, tấm áo, đến cả những viên thuốc hồi sinh. Họ đã giúp đỡ
chúng tôi những điều kiện ban đầu trên bước đường tị nạn, trước cả những
trợ giúp chậm chạp, đầy nguyên tắc, giấy tờ của Cao Ủy Tỵ Nạn! Dân tộc
này, đất nước này đã đem lại cho chúng tôi những niềm tin yêu mới, những
hình ảnh tốt đẹp nhất của một “ NGƯỠNG CỬA TỰ DO”
Anh
Sáu Hoàng ơi, chỉ môt ngày nữa thôi, sao anh không nán lại để cùng
chúng tôi hưởng nhờ những kết quả mầu nhiệm của một chuyến đi liều chết
để tìm lẽ sống! Chính anh đã lèo lái con thuyền trong giông bão, đã cùng
chúng tôi chia sẻ những nhọc nhằn, đói khát, mòn mỏi, tuyệt vọng…Trong
những ngày lênh đênh trôi dạt trên vùng biển cả mênh mông. Anh đã đưa
con thuyền đi đúng hướng. Anh đã đoán đúng khi con thuyền sắp đến bến
bình yên, anh đã đoán đúng mà! Xin anh tha thứ cho những lời trêu chọc,
bông đùa vì quá mòn mỏi, tuyệt vọng…Đâu có cần anh phải liều mình chứng
minh cho những suy đoán của mình. Chúng tôi thật sự tin tưởng ở sự lèo
lái của anh mà!!!
Hay
là trong những lúc tận cùng khổ ải, anh linh của anh đã sáng suốt, thấy
trước những nhục nhằn của cuộc đời tị nạn, những nghiệt ngã của cuộc
sống tha hương lưu đầy mà đã sớm ra đi về miền miên viễn…!!!??? Dù sao
đi chăng nữa, chúng tôi – những người còn lại – thật sự mang ơn anh.
Chúng tôi thật sự tiếc thương anh. Và mỗi lần có dịp gợi lại những kỷ
niệm đau buồn đó, là hình ảnh anh ôm chặt tấm ván thuyền, tay vùng lên
vẫy gọi, trôi tuột vào vùng giông bão mênh mông, lại trở về trong tâm
tưởng chúng tôi.
Xin
thắp một nén hương, để tưởng nhớ và ghi ơn anh Sáu Hoàng, người đã liều
mình trong nỗi chết, để chứng minh cho niềm tin của mình, đã hy sinh
chỉ một ngày trước khi con thuyền được tới bến bình yên.
Với lòng tin tưởng mãnh liệt đó, anh đã chọn làm…NGƯỜI Ở LẠI BIỂN ĐÔNG!
Cali mùa thu 2002
Hoàng Quân Trí Nô
Hoàng Quân Trí Nô
CÁP TREO SƠN ĐOÒNG
Cáp treo Sơn Đoòng ảnh hướng thế nào tới thiên nhiên?
RFA
2018-02-01
2018-02-01
Mấy ngày vừa qua, dư luận xôn xao phản đối thông tin cho rằng tập đoàn
FLC đang âm thầm khảo sát xây dựng cáp treo tại hang Sơn Đoòng, thuộc
Vườn Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng. Mặc dù ngay sau đó, đại diện ban quản
lý vườn Quốc gia này đã lên tiếng phủ nhận thông tin này, nhưng nhiều
người dân và cả các chuyên gia khoa học môi trường vẫn lên tiếng yêu cầu
không cho xây cáp treo tại hang hang Sơn Đoòng.
Thông tin về chủ trương xây dựng cáp treo vào hang Sơn Đoòng thực ra đã được đề cập cách đây mấy năm về trước. Lúc đó, vì gặp phải sự phản đối kịch liệt từ người dân nên Chính phủ đã không phê duyệt dự án này.
Thời gian gần đây, khi mạng xã hội loan tin rằng dự án này hiện vẫn đang được khảo sát để tiến tới xây dựng cáp treo tại Sơn Đoòng, ông Lê Thanh Tịnh, Giám đốc Ban quản lý Vườn Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình đã lên tiếng với báo chí rằng không có chuyện làm cáp treo vào hang Sơn Đoòng mà chỉ có dự án làm cáp treo vào đến hang Én, mà hai hang này cách nhau đến 3,5 cây số.
Bất chấp lời giải thích đến từ cơ quan chức năng, hiện đã có hơn 143 ngàn chữ ký trực tuyến phản đối dự án này.
Một bạn trẻ tên Nguyễn Ngọc Xanh đã tham gia vào chương trình Cứu Sơn Đoòng (Save Son Doong) cho RFA biết lý do bạn phản đối dự án cáp treo tại đây:
Sau khi xem những clip đó và đọc báo thì em biết rằng hệ sinh thái Sơn Đoòng là hệ sinh thái mù (động thực vật không được tiếp xúc với ánh sáng) . Cho nên nếu con người vào với lượng người nhiều thì khí CO2 thở ra và ánh sáng mình mang vào hang sẽ giết chết hệ sinh thái ở trong đó. Hơn nữa, để khám phá thiên nhiên thì đi bộ vẫn là một trải nghiêm tốt hơn so với đi bằng cáp treo. Nếu mọi người muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp trong hang thì cũng có thể sử dụng phương tiện khác chẳng hạn như nhìn bằng kính thực tế ảo.
Thực ra với cáp treo của Phong Nha Kẻ Bàng thì mình cũng rất đồng ý thôi, nhưng đừng có gây tổn hại về mặt di sản. Phong Nha Kẻ Bàng rất rộng. Hiện tại mình thấy dư luận đang nghiêng về cáp treo ở hang Sơn Đoòng nhưng thực ra Quảng Bình không làm cáp vào hang Sơn Đoòng mà ở một số nơi khác trong Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO cấp phép thì mình đồng ý làm ở những chỗ đó để phát triển kinh tế địa phương.
Đáp lại câu hỏi của chúng tôi rằng nếu giả sử tương lai Chính phủ cho tiến hành xây cáp treo tại đây thì anh có đồng tình hay không, người hướng dẫn viên lâu năm này khẳng định:
Nếu tương lai xây dựng cáp treo vào Sơn Đoòng thì mình cũng là người phản đối. Nhưng làm ở một số địa điểm khác ở Phong Nha – Kẻ Bàng thì mình đồng ý. Vì nếu làm cáp treo ở Sơn Đoong sẽ ảnh hưởng đến môi trường ở đây. Vì Sơn Đoòng là di sản của thế giới nên hiện tại mình nên giữ nó ở đó và chỉ phát triển ở rìa xung quanh thôi thì được.
Vào tháng 7 năm 2017, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc, viết tắt UNESCO đã đề nghị Việt Nam hủy bỏ vĩnh viễn kế hoạch xây dựng cáp treo vào hang Sơn Đoòng và cho đến nay khuyến cáo đó vẫn còn hiệu lực.
Trong phần nhận định về Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng trong đó có hang Sơn Đoòng, UNESCO nêu rõ các yếu tố tác động đến di sản như dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, xâm phạm rừng, khai thác gỗ trái phép, sự giảm sút và biến mất của một số động thực vật.
UNESCO cũng thẳng thắn nêu ra rằng chính quyền địa phương và trung ương đều thiếu kế hoạch quản lý khách du lịch, thiếu cảnh báo về tác động của khách du lịch và các hoạt động vui chơi giải trí trong đó có dự án cáp treo vào hang động Sơn Đoòng.
RFA đã liên hệ với UNESCO trụ sở Hà Nội và được ông Giám đốc Michael Croft cho biết:
Vấn đề xây dựng cáp treo tại hang Sơn Đoòng đã được đề cập đến tại Ủy ban Di sản Thế giới diễn ra tại Krakow, Ba Lan vào tháng 7 năm 2017. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra quan điểm rõ ràng rằng họ không hề có ý định xây dựng hệ thống cáp treo tại hang Sơn Đoòng và cũng không có ý định cung cấp bất cứ phương tiện nào để tiếp cận hang này.
Tháng 8 năm 2017, trong một buổi họp với lãnh đạo tỉnh Quảng Bình, ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đồng ý cho xây cáp treo ở Phong Nha – Kẻ Bàng, nhưng có yêu cầu làm đúng quy trình để không ảnh hưởng đến kỳ quan nơi đây. Không thấy ông Phúc đề cập cụ thể có cho phép hay không việc xây cáp treo tới hang Sơn Đoòng.
Chúng tôi đã đặt câu hỏi về mối quan ngại với thiên nhiên, môi trường nếu xây dựng cáp treo tại hang Sơn Đoòng với ông Nguyễn Huỳnh Thuật, là thạc sĩ môi trường quốc tế và phát triển công đồng Đại Học Nông Nghiệp Và Công Nghệ Tokyo, Nhật Bản. Ông cho biết:
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Nếu mình làm cáp treo vào động sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến núi đá vôi. Đợt ông Obama sang Việt Nam, ông ấy nói rằng nếu chỉ có mấy cây số như vậy thì ông ấy cũng sẵn sàng đi bộ chứ không đi cáp. Khi hệ sinh thái núi đá vui bị phá hủy nó sẽ ảnh hưởng đến các hệ sinh thái khác, với thiên nhiên, con người ở đó. Đặc biệt, những hồ nhỏ trên núi đá vôi cũng là một hệ sinh thái rất đặc trưng với các loài đặc biệt sống trong đó. Nếu mình làm cáp treo sẽ liên quan đến rất nhiều thứ như tiếng ồn, bụi, rồi những hóa thạch và đá vôi rơi rụng từ trên cao xuống sẽ phá hủy hệ sinh thái dưới thấp. Những loài nguy cấp sẽ bị mất mát rất lớn.
Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật cho rằng Sơn Đoòng không những là di sản của Việt Nam mà còn của cả thế giới, vì vậy cả thế giới cùng với UNESCO và lương tri nhân loại phải có trách nhiệm bảo tồn.
Bây giờ để nói đồng tình hay phản đối thì chưa có cơ sở vì chưa có một nghiên cứu nào về chuyện đó. Nhưng nếu xét thuần túy về quan điểm bảo tồn thiên nhiên thì cái gì động chạm đến thiên nhiên cũng không nên. Các cáp treo khác mà tôi biết như Hoàng Liên Sơn, hay cáp treo trong các vườn quốc gia thì theo ý kiến tôi không nên làm bởi vì mình phải bảo tồn thiên nhiên.
Quan điểm chung về bảo tồn thiên nhiên là nếu làm trong vùng lõi core zone thì không nên bởi vì theo quy định của Việt Nam và UNESCO thì những gì nằm trong vùng lõi thì không nên làm mà chỉ nên thăm quan, học hỏi để nghiên cứu khoa học thôi.
Nói chung về tác động của việc xây cáp treo đến cảnh quan, PGS Lê Trình cho biết:
Bản thân cáp treo tác động ít nhưng những tác động gián tiếp thí dụ như khi có cáp treo mỗi ngày hàng ngàn người đến du lịch thì sẽ gây ô nhiễm môi trường, ồn ào, rồi có khi thay đổi cảnh quan. Và người ta cũng dễ dàng xâm phạm các khu bào tồn hơn, ảnh hưởng đến sinh thú,…
RFA cũng đã liên lạc với Ban Quản lý Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng để biết thêm thông tin. Trả lời câu hỏi của chúng tôi về dự án cáp treo ở Sơn Đoòng , Phó Giám đốc ông Đinh Huy Chí cho biết ngắn gọn:
Đã làm gì đâu [xây cáp treo]! Chưa làm gì mà!
Sau đó ông Chí từ chối bình luận thêm với lý do bận chuẩn bị họp.
Hang Sơn Đoòng được coi là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới. Hang này là một phần của hệ thống ngầm nối với hơn 150 động khác ở Việt Nam. Năm 2014, tờ Thời báo New York xếp hạng Sơn Đoòng vào vị trí thứ 8 trong danh sách 52 địa danh mọi người nên ghé thăm.
Từ năm 2015 đến 2017, các tuyến du lịch vào Sơn Đoòng được tỉnh Quảng Bình cấp phép khai thác bằng hình thức đi bộ thám hiểm xuyên rừng. Mỗi năm Sơn Đoòng chỉ đón số lượng khách giới hạn từ 500-600 khách. Năm 2017, đơn vị lữ hành được phép khai thác đã đưa khoảng hơn 600 người vào kỳ quan có một không hai này
Thông tin về chủ trương xây dựng cáp treo vào hang Sơn Đoòng thực ra đã được đề cập cách đây mấy năm về trước. Lúc đó, vì gặp phải sự phản đối kịch liệt từ người dân nên Chính phủ đã không phê duyệt dự án này.
Thời gian gần đây, khi mạng xã hội loan tin rằng dự án này hiện vẫn đang được khảo sát để tiến tới xây dựng cáp treo tại Sơn Đoòng, ông Lê Thanh Tịnh, Giám đốc Ban quản lý Vườn Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình đã lên tiếng với báo chí rằng không có chuyện làm cáp treo vào hang Sơn Đoòng mà chỉ có dự án làm cáp treo vào đến hang Én, mà hai hang này cách nhau đến 3,5 cây số.
Bất chấp lời giải thích đến từ cơ quan chức năng, hiện đã có hơn 143 ngàn chữ ký trực tuyến phản đối dự án này.
Một bạn trẻ tên Nguyễn Ngọc Xanh đã tham gia vào chương trình Cứu Sơn Đoòng (Save Son Doong) cho RFA biết lý do bạn phản đối dự án cáp treo tại đây:
Sau khi xem những clip đó và đọc báo thì em biết rằng hệ sinh thái Sơn Đoòng là hệ sinh thái mù (động thực vật không được tiếp xúc với ánh sáng) . Cho nên nếu con người vào với lượng người nhiều thì khí CO2 thở ra và ánh sáng mình mang vào hang sẽ giết chết hệ sinh thái ở trong đó. Hơn nữa, để khám phá thiên nhiên thì đi bộ vẫn là một trải nghiêm tốt hơn so với đi bằng cáp treo. Nếu mọi người muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp trong hang thì cũng có thể sử dụng phương tiện khác chẳng hạn như nhìn bằng kính thực tế ảo.
"Nếu con người vào với lượng người nhiều thì khí CO2 thở ra và ánh sáng mình mang vào hang sẽ giết chết hệ sinh thái ở trong đó."Một người làm nghề hướng dẫn viên du lịch tại Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, cho chúng tôi biết là hiện tại chưa có dự án cáp treo nào đang được tiến hành tại hang Sơn Đoòng mà chỉ có một nhóm người đến khảo sát suốt một thời gian dài. Anh chia sẻ quan điểm về việc xây dựng cáp treo tại đây:
- Nguyễn Ngọc Xanh
Thực ra với cáp treo của Phong Nha Kẻ Bàng thì mình cũng rất đồng ý thôi, nhưng đừng có gây tổn hại về mặt di sản. Phong Nha Kẻ Bàng rất rộng. Hiện tại mình thấy dư luận đang nghiêng về cáp treo ở hang Sơn Đoòng nhưng thực ra Quảng Bình không làm cáp vào hang Sơn Đoòng mà ở một số nơi khác trong Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO cấp phép thì mình đồng ý làm ở những chỗ đó để phát triển kinh tế địa phương.
Đáp lại câu hỏi của chúng tôi rằng nếu giả sử tương lai Chính phủ cho tiến hành xây cáp treo tại đây thì anh có đồng tình hay không, người hướng dẫn viên lâu năm này khẳng định:
Nếu tương lai xây dựng cáp treo vào Sơn Đoòng thì mình cũng là người phản đối. Nhưng làm ở một số địa điểm khác ở Phong Nha – Kẻ Bàng thì mình đồng ý. Vì nếu làm cáp treo ở Sơn Đoong sẽ ảnh hưởng đến môi trường ở đây. Vì Sơn Đoòng là di sản của thế giới nên hiện tại mình nên giữ nó ở đó và chỉ phát triển ở rìa xung quanh thôi thì được.
Vào tháng 7 năm 2017, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc, viết tắt UNESCO đã đề nghị Việt Nam hủy bỏ vĩnh viễn kế hoạch xây dựng cáp treo vào hang Sơn Đoòng và cho đến nay khuyến cáo đó vẫn còn hiệu lực.
Trong phần nhận định về Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng trong đó có hang Sơn Đoòng, UNESCO nêu rõ các yếu tố tác động đến di sản như dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, xâm phạm rừng, khai thác gỗ trái phép, sự giảm sút và biến mất của một số động thực vật.
UNESCO cũng thẳng thắn nêu ra rằng chính quyền địa phương và trung ương đều thiếu kế hoạch quản lý khách du lịch, thiếu cảnh báo về tác động của khách du lịch và các hoạt động vui chơi giải trí trong đó có dự án cáp treo vào hang động Sơn Đoòng.
RFA đã liên hệ với UNESCO trụ sở Hà Nội và được ông Giám đốc Michael Croft cho biết:
Vấn đề xây dựng cáp treo tại hang Sơn Đoòng đã được đề cập đến tại Ủy ban Di sản Thế giới diễn ra tại Krakow, Ba Lan vào tháng 7 năm 2017. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra quan điểm rõ ràng rằng họ không hề có ý định xây dựng hệ thống cáp treo tại hang Sơn Đoòng và cũng không có ý định cung cấp bất cứ phương tiện nào để tiếp cận hang này.
Tháng 8 năm 2017, trong một buổi họp với lãnh đạo tỉnh Quảng Bình, ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đồng ý cho xây cáp treo ở Phong Nha – Kẻ Bàng, nhưng có yêu cầu làm đúng quy trình để không ảnh hưởng đến kỳ quan nơi đây. Không thấy ông Phúc đề cập cụ thể có cho phép hay không việc xây cáp treo tới hang Sơn Đoòng.
Chúng tôi đã đặt câu hỏi về mối quan ngại với thiên nhiên, môi trường nếu xây dựng cáp treo tại hang Sơn Đoòng với ông Nguyễn Huỳnh Thuật, là thạc sĩ môi trường quốc tế và phát triển công đồng Đại Học Nông Nghiệp Và Công Nghệ Tokyo, Nhật Bản. Ông cho biết:
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Nếu mình làm cáp treo vào động sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến núi đá vôi. Đợt ông Obama sang Việt Nam, ông ấy nói rằng nếu chỉ có mấy cây số như vậy thì ông ấy cũng sẵn sàng đi bộ chứ không đi cáp. Khi hệ sinh thái núi đá vui bị phá hủy nó sẽ ảnh hưởng đến các hệ sinh thái khác, với thiên nhiên, con người ở đó. Đặc biệt, những hồ nhỏ trên núi đá vôi cũng là một hệ sinh thái rất đặc trưng với các loài đặc biệt sống trong đó. Nếu mình làm cáp treo sẽ liên quan đến rất nhiều thứ như tiếng ồn, bụi, rồi những hóa thạch và đá vôi rơi rụng từ trên cao xuống sẽ phá hủy hệ sinh thái dưới thấp. Những loài nguy cấp sẽ bị mất mát rất lớn.
Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật cho rằng Sơn Đoòng không những là di sản của Việt Nam mà còn của cả thế giới, vì vậy cả thế giới cùng với UNESCO và lương tri nhân loại phải có trách nhiệm bảo tồn.
Còn Phó Giáo sư- Tiến sĩ Lê Trình, Viện trưởng Viện Bảo vệ Môi trường và Phát triển Bền vững lại nói rằng ông chưa thể khẳng định có đồng tình hay phản đối dự án cáp treo ở Sơn Đoòng bởi vì chưa có đủ thông tin. Tuy nhiên, ông vẫn đưa ra cái nhìn chung:
"Khi hệ sinh thái núi đá vui bị phá hủy nó sẽ ảnh hưởng đến các hệ sinh thái khác, với thiên nhiên, con người ở đó. "
- Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật
Bây giờ để nói đồng tình hay phản đối thì chưa có cơ sở vì chưa có một nghiên cứu nào về chuyện đó. Nhưng nếu xét thuần túy về quan điểm bảo tồn thiên nhiên thì cái gì động chạm đến thiên nhiên cũng không nên. Các cáp treo khác mà tôi biết như Hoàng Liên Sơn, hay cáp treo trong các vườn quốc gia thì theo ý kiến tôi không nên làm bởi vì mình phải bảo tồn thiên nhiên.
Quan điểm chung về bảo tồn thiên nhiên là nếu làm trong vùng lõi core zone thì không nên bởi vì theo quy định của Việt Nam và UNESCO thì những gì nằm trong vùng lõi thì không nên làm mà chỉ nên thăm quan, học hỏi để nghiên cứu khoa học thôi.
Nói chung về tác động của việc xây cáp treo đến cảnh quan, PGS Lê Trình cho biết:
Bản thân cáp treo tác động ít nhưng những tác động gián tiếp thí dụ như khi có cáp treo mỗi ngày hàng ngàn người đến du lịch thì sẽ gây ô nhiễm môi trường, ồn ào, rồi có khi thay đổi cảnh quan. Và người ta cũng dễ dàng xâm phạm các khu bào tồn hơn, ảnh hưởng đến sinh thú,…
RFA cũng đã liên lạc với Ban Quản lý Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng để biết thêm thông tin. Trả lời câu hỏi của chúng tôi về dự án cáp treo ở Sơn Đoòng , Phó Giám đốc ông Đinh Huy Chí cho biết ngắn gọn:
Đã làm gì đâu [xây cáp treo]! Chưa làm gì mà!
Sau đó ông Chí từ chối bình luận thêm với lý do bận chuẩn bị họp.
Hang Sơn Đoòng được coi là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới. Hang này là một phần của hệ thống ngầm nối với hơn 150 động khác ở Việt Nam. Năm 2014, tờ Thời báo New York xếp hạng Sơn Đoòng vào vị trí thứ 8 trong danh sách 52 địa danh mọi người nên ghé thăm.
Từ năm 2015 đến 2017, các tuyến du lịch vào Sơn Đoòng được tỉnh Quảng Bình cấp phép khai thác bằng hình thức đi bộ thám hiểm xuyên rừng. Mỗi năm Sơn Đoòng chỉ đón số lượng khách giới hạn từ 500-600 khách. Năm 2017, đơn vị lữ hành được phép khai thác đã đưa khoảng hơn 600 người vào kỳ quan có một không hai này
SONG CHI * VIỆT NAM LẠC HẬU
SONG CHI * VIỆT NAM LẠC HẬU
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con-P.1
Thứ Bảy, 01/27/2018 - 20:10 — songchi
Đã nói rồi, U23 vào tới chung kết giải bóng đá U23 châu Á, điều đó đáng khen thôi. Trước khi bắt đầu giải vô địch bóng đá U-23 châu Á, người Việt chắc chẳng dám hy vọng VN sẽ vào đến tứ kết, chứ đừng nói đến chung kết. Người Việt mừng, cũng tốt thôi. Tuy nhiên, đã có quá nhiều lời khen rồi, đó là chưa kể báo chí VN như lên đồng với những câu giật tít quá lố, không tỉnh táo. Trong đó bị chỉ trích nhiều là những câu như “thế nước mạnh, vận nước đang lên”, hoặc “Không thể tin nổi! U23 VN đặt cả châu Á dưới chân bằng chiến thắng để đời”, (Trí thức Trẻ)!...
Đám quan chức lãnh đạo thì vớ ngay lấy cơ hội, vơ vào, đẩy lên hơn nữa. Ông Thủ tướng thì “nổ: "với tinh thần quả cảm, ý chí và bản lĩnh của con người Việt Nam... đội tuyển U23 Việt Nam lần đầu tiên vào vòng bán kết U23 châu Á"! Ông HLV Lê Thụy Hải thì bảo "U23 VN là những anh hùng của dân tộc”…
Trên facebook có nhiều người vì vui quá cũng mơ hơi xa, ví dụ: "...Duyên Anh đã đánh đúng vào mẫu số chung nhỏ nhất của người Việt (đam mê túc cầu) để gầy dựng lại một giấc mơ lan toả từ túc cầu qua đến sự tự tin làm được và làm thành ở mọi việc!
…Đây là một đội Việt Nam chiến thắng trên những lộ trình gồ ghề khúc khuỷu với khí phách và tố chất tạo ra huyền sử loại David đánh ngã Goliath.
Không biết các em sẽ thắng hay thua chung kết AFC Cup nhưng những gì các em đang thở, đang biến giấc mơ Bồn Lừa và giấc Mơ Thành Người Quang Trung gần thành hiện thực!...”
Có chắc gì thắng trong bóng đá thì sẽ "làm được và làm thành ở mọi việc!", đặc biệt là khi còn chế độ độc tài đảng trị ở VN? Có chắc gì thắng vài trận bóng đá là "đang biến giấc mơ Bồn Lừa và giấc Mơ Thành Người Quang Trung gần thành hiện thực!"?
Những lời nói đó đều là quá lố, và có hại, trước hết là cho chính các cầu thủ, nếu họ không tỉnh táo.
Bóng đá dù sao, cũng chỉ là bóng đá. Đừng nâng bóng đá lên thành quá mức, hay tâng bốc các cầu thủ quá mức. Điều quan trọng nhất ở đây là đội tuyển U23 VN đã vượt qua được những giới hạn trước đó, tức là chỉ lẹt đẹt trong những giải đấu khu vực Đông Nam Á.
Cá nhân tôi nghĩ rằng, trong một trận bóng đá, điều quan trọng nhất, còn hơn cả chiến thuật của huấn luyện viên, kỹ thuật, tài năng của từng cầu thủ và của toàn đội, là yếu tố tâm lý. Đội tuyển VN từ trước tới giờ khi đi thi đấu bên ngoài, dù chỉ mới là giải khu vực như SEAGames, tâm lý không ổn định, nhất là trước đội Thái Lan, hễ thua một cái là mất tinh thần luôn, một phần do thiếu tự tin, một phần bị sức ép từ sự cuồng nhiệt và lòng mong đợi quá lớn từ cổ động viên nước nhà. Đội U23 lần này đã cho thấy tâm lý rất vững vàng, tinh thần thi đấu ngoan cường, dù bị dẫn trước hay bị trọng tài xử ép vẫn không mất tinh thần, đó là điểu quan trọng.
Nhưng ở một tầm nhìn lớn hơn, bóng đá hay thể thao nói chung, cũng không khác gì văn học nghệ thuật, muốn phát triển ngoạn mục thì phải có những yếu tố sau: Thứ nhất, một môi trường tự do, tôn trọng thể thao/nghệ thuật, không bị định hướng, kiểm soát, gò ép bởi một chế độ độc tài; thứ hai, những người lãnh đạo nhà nước có tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, yêu thể thao/nghệ thuật, có tầm nhìn xa, có chiến lược đầu tư lâu dài hoặc chí ít lả để cho tư nhân, những cá nhân, cơ quan có lòng với thể thao/nghê thuật nhảy vào đầu tư cho tài năng, chứ không phải “xây nhà từ nóc” như bóng đá VN lâu nay; thứ ba, môi trường làm thể thao/nghệ thuật phải được bảo vệ bởi luật pháp và tinh thần thượng tôn pháp luật để tạo nên một môi trường cạnh tranh sòng phẳng, ở đó tài năng thực sự có thể vươn lên và tỏa sáng và hoàn toàn không có đất cho bọn tham nhũng, bọn đạo văn, bọn ăn cắp hay bọn mua độ, bán độ, bọn cơ hội, háo danh, con ông cháu cha v.v…
Song Chi.
Câu thơ của Tản Đà:
Dân hai nhăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Chuyện bóng đá
Cuối cùng thì đội tuyển U23 VN đã chia tay Giải vô địch bóng đá U-23
châu Á (AFC U-23 Championship) với kết quả Á quân. Và nhận được giải
Fair-play.
Trước trận chung kết, tôi cũng như rất nhiều người Việt trong và ngoài
nước khác, mong đội U23 VN thắng, không phải vì “lòng yêu nước, lòng tự
hào dân tộc” gì đó như ai đó nói, mà với lý do khác: để bao nhiêu
người không thất vọng mà làm chuyện gì xuẩn ngốc hoặc lại quay sang chì
chiết, trách móc các cầu thủ và cả ông huấn luyện viên người Hàn quốc!
Nếu VN thắng, phản ứng vui mừng quá mức của nhiều người Việt sẽ làm
thế giới sửng sốt (như họ đang sửng sốt từ đầu giải tới giờ vì điều
đó). Nhưng nếu VN thua, những phản ứng tiêu cực của nhiều người Việt
chắc chắn sẽ còn làm cho thế giới...kinh ngạc, không hiểu nổi hơn!
Đã nói rồi, U23 vào tới chung kết giải bóng đá U23 châu Á, điều đó đáng khen thôi. Trước khi bắt đầu giải vô địch bóng đá U-23 châu Á, người Việt chắc chẳng dám hy vọng VN sẽ vào đến tứ kết, chứ đừng nói đến chung kết. Người Việt mừng, cũng tốt thôi. Tuy nhiên, đã có quá nhiều lời khen rồi, đó là chưa kể báo chí VN như lên đồng với những câu giật tít quá lố, không tỉnh táo. Trong đó bị chỉ trích nhiều là những câu như “thế nước mạnh, vận nước đang lên”, hoặc “Không thể tin nổi! U23 VN đặt cả châu Á dưới chân bằng chiến thắng để đời”, (Trí thức Trẻ)!...
Đám quan chức lãnh đạo thì vớ ngay lấy cơ hội, vơ vào, đẩy lên hơn nữa. Ông Thủ tướng thì “nổ: "với tinh thần quả cảm, ý chí và bản lĩnh của con người Việt Nam... đội tuyển U23 Việt Nam lần đầu tiên vào vòng bán kết U23 châu Á"! Ông HLV Lê Thụy Hải thì bảo "U23 VN là những anh hùng của dân tộc”…
Trên facebook có nhiều người vì vui quá cũng mơ hơi xa, ví dụ: "...Duyên Anh đã đánh đúng vào mẫu số chung nhỏ nhất của người Việt (đam mê túc cầu) để gầy dựng lại một giấc mơ lan toả từ túc cầu qua đến sự tự tin làm được và làm thành ở mọi việc!
…Đây là một đội Việt Nam chiến thắng trên những lộ trình gồ ghề khúc khuỷu với khí phách và tố chất tạo ra huyền sử loại David đánh ngã Goliath.
Không biết các em sẽ thắng hay thua chung kết AFC Cup nhưng những gì các em đang thở, đang biến giấc mơ Bồn Lừa và giấc Mơ Thành Người Quang Trung gần thành hiện thực!...”
Có chắc gì thắng trong bóng đá thì sẽ "làm được và làm thành ở mọi việc!", đặc biệt là khi còn chế độ độc tài đảng trị ở VN? Có chắc gì thắng vài trận bóng đá là "đang biến giấc mơ Bồn Lừa và giấc Mơ Thành Người Quang Trung gần thành hiện thực!"?
Những lời nói đó đều là quá lố, và có hại, trước hết là cho chính các cầu thủ, nếu họ không tỉnh táo.
Bóng đá dù sao, cũng chỉ là bóng đá. Đừng nâng bóng đá lên thành quá mức, hay tâng bốc các cầu thủ quá mức. Điều quan trọng nhất ở đây là đội tuyển U23 VN đã vượt qua được những giới hạn trước đó, tức là chỉ lẹt đẹt trong những giải đấu khu vực Đông Nam Á.
Cá nhân tôi nghĩ rằng, trong một trận bóng đá, điều quan trọng nhất, còn hơn cả chiến thuật của huấn luyện viên, kỹ thuật, tài năng của từng cầu thủ và của toàn đội, là yếu tố tâm lý. Đội tuyển VN từ trước tới giờ khi đi thi đấu bên ngoài, dù chỉ mới là giải khu vực như SEAGames, tâm lý không ổn định, nhất là trước đội Thái Lan, hễ thua một cái là mất tinh thần luôn, một phần do thiếu tự tin, một phần bị sức ép từ sự cuồng nhiệt và lòng mong đợi quá lớn từ cổ động viên nước nhà. Đội U23 lần này đã cho thấy tâm lý rất vững vàng, tinh thần thi đấu ngoan cường, dù bị dẫn trước hay bị trọng tài xử ép vẫn không mất tinh thần, đó là điểu quan trọng.
Nhưng ở một tầm nhìn lớn hơn, bóng đá hay thể thao nói chung, cũng không khác gì văn học nghệ thuật, muốn phát triển ngoạn mục thì phải có những yếu tố sau: Thứ nhất, một môi trường tự do, tôn trọng thể thao/nghệ thuật, không bị định hướng, kiểm soát, gò ép bởi một chế độ độc tài; thứ hai, những người lãnh đạo nhà nước có tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, yêu thể thao/nghệ thuật, có tầm nhìn xa, có chiến lược đầu tư lâu dài hoặc chí ít lả để cho tư nhân, những cá nhân, cơ quan có lòng với thể thao/nghê thuật nhảy vào đầu tư cho tài năng, chứ không phải “xây nhà từ nóc” như bóng đá VN lâu nay; thứ ba, môi trường làm thể thao/nghệ thuật phải được bảo vệ bởi luật pháp và tinh thần thượng tôn pháp luật để tạo nên một môi trường cạnh tranh sòng phẳng, ở đó tài năng thực sự có thể vươn lên và tỏa sáng và hoàn toàn không có đất cho bọn tham nhũng, bọn đạo văn, bọn ăn cắp hay bọn mua độ, bán độ, bọn cơ hội, háo danh, con ông cháu cha v.v…
Bóng đá dù sao, cũng chỉ là bóng đá. Cuộc vui qua rồi, hãy trở lại thực
tại, với một nước VN xét về nhiều mặt đều thua xa các nước láng giềng
trong khu vực Đông Nam Á chứ chưa nói đến chậu Á và thế giới.
Cho nên những ngày qua giữa rừng lời khen ngợi, có vài người viết bài cảnh tỉnh, nhắc nhở cũng là không thừa. Không phải nhắc người dân chung chung mà là nhắc cái bọn con gái cởi truồng đi ngoài phố để ăn mừng, nhắc báo chí đừng có lên đồng, tung hô quá mức, thế giới nhìn vào người ta cười cho, và nhắc các ông lãnh đạo đừng có mượn cái chuyện bóng đá, dùng bóng đá để cổ xúy cho dân quên đi bao nhiêu chuyện thất bại của nhà cầm quyền, bao nhiêu bất công, phi lý, oan trái của chế độ.
Thế nhưng chỉ có thế mà người Việt cũng cãi nhau, giữa người ngây ngất khen ngợi và những người tìm cách lưu ý thực chất của vấn đề. Một vài người đã phải rút bài, đính chính vì bị bao nhiêu người khác vào comment mắng cho cái tội dám nhắc nhở khi người ta đang vui!
Cho nên những ngày qua giữa rừng lời khen ngợi, có vài người viết bài cảnh tỉnh, nhắc nhở cũng là không thừa. Không phải nhắc người dân chung chung mà là nhắc cái bọn con gái cởi truồng đi ngoài phố để ăn mừng, nhắc báo chí đừng có lên đồng, tung hô quá mức, thế giới nhìn vào người ta cười cho, và nhắc các ông lãnh đạo đừng có mượn cái chuyện bóng đá, dùng bóng đá để cổ xúy cho dân quên đi bao nhiêu chuyện thất bại của nhà cầm quyền, bao nhiêu bất công, phi lý, oan trái của chế độ.
Thế nhưng chỉ có thế mà người Việt cũng cãi nhau, giữa người ngây ngất khen ngợi và những người tìm cách lưu ý thực chất của vấn đề. Một vài người đã phải rút bài, đính chính vì bị bao nhiêu người khác vào comment mắng cho cái tội dám nhắc nhở khi người ta đang vui!
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con-P.2
Thứ Bảy, 01/27/2018 - 20:15 — songchi
Song Chi.
Hình như chúng ta đang có thói quen cái gì cũng nâng lên thành tầm quốc gia, dân tộc, cái gì cũng lôi kéo nhân dân vào, dùng nhân dân làm cái bình phong?
Dễ tổn thương vì chuyện nhỏ nhưng lại ơ hờ những chuyện lớn
Thêm một ví dụ nữa. Chuyện ông thầy dạy Anh Văn Daniel Hauer nói đùa sao đó đụng chạm tới ông tướng Võ Nguyên Giáp bị bao nhiêu người chửi, rồi báo chí VN cũng có những bài chỉ trich, giảng đạo đức, ví dụ như báo Giáo dục VN còn giật tít “Việt Nam không có thầy cô nào thiếu văn hóa, nhân cách méo mó như Daniel Hauer”, rằng “Trước chiến thắng của U23 Việt Nam, Daniel Hauer đã có bình luận vô cùng tục tĩu, xúc phạm nghiêm trọng đến vị Anh hùng dân tộc mà dân tộc Việt Nam tôn kính.”
Nhà văn, facebooker Nguyễn Đình Bổn viết:
"Phản biện" báo Giáo dục!
Hình như chúng ta đang có thói quen cái gì cũng nâng lên thành tầm quốc gia, dân tộc, cái gì cũng lôi kéo nhân dân vào, dùng nhân dân làm cái bình phong?
Dễ tổn thương vì chuyện nhỏ nhưng lại ơ hờ những chuyện lớn
Thêm một ví dụ nữa. Chuyện ông thầy dạy Anh Văn Daniel Hauer nói đùa sao đó đụng chạm tới ông tướng Võ Nguyên Giáp bị bao nhiêu người chửi, rồi báo chí VN cũng có những bài chỉ trich, giảng đạo đức, ví dụ như báo Giáo dục VN còn giật tít “Việt Nam không có thầy cô nào thiếu văn hóa, nhân cách méo mó như Daniel Hauer”, rằng “Trước chiến thắng của U23 Việt Nam, Daniel Hauer đã có bình luận vô cùng tục tĩu, xúc phạm nghiêm trọng đến vị Anh hùng dân tộc mà dân tộc Việt Nam tôn kính.”
Nhà văn, facebooker Nguyễn Đình Bổn viết:
"Phản biện" báo Giáo dục!
Tôi không binh vực ông Dan, khi "dám" ví "bộ phận nhạy cảm" của mình
với đầu tướng Giáp, nhưng nói rằng VN không có thầy cô giáo nào "thiếu
văn hóa, nhân cách méo mó" hơn thì e sai bét. Rất nhiều thầy cô gáo
tại VN bẩn thỉu hơn Dan triệu lần về tư cách nghề nghiệp cũng như tư
cách công dân. Tôi đưa một vài ví dụ:
- Hiệu trưởng Sầm Đức Xương tại Hà Giang mua dâm học trò mình và dắt
học trò cho quan chức mua dâm, sau đó trước tòa đòi cởi quần. Nhân
cách méo mó không?
- Thầy giáo Nguyễn Hữu Lai, Bắc Ninh, bí thư đoàn trường, hiếp dâm
11 trẻ em là học sinh cấp 1 dưới 9 tuổi. Nhân cách tên này ra sao? Còn
nhiều lắm, nào là đổi tình lấy điểm, nào là đưa giáo viên đi mời rượu
quan khách... kể không hết cái nhân cách méo mó của các "ông thầy" tại
VN đâu.
Nên sờ lại gáy mình trước khi nói người.”
Sau đó anh Nguyễn Đình Bổn còn cho thêm một ví dụ khác. Giáo sư tiến sĩ
Nguyễn Hữu Vượng, thuộc đại học Kinh tế TPHCM, ngành xây dựng Đảng,
trong vụ “Diễn biến mới vụ án giáo sư tố "chân dài" lừa 17 tỉ đồng” (Người
Lao động). Ông giáo sư tố người đẹp lừa ông 17 tỷ đồng, hóa ra giữa hai
người có quan hệ tình cảm kéo dài cả chục năm trời, và đây là một vụ
“chia tay đòi quà”.
Trở lại vụ nhiều người Việt rồi báo chí nhà nước chỉ trích, nặng nề ông thầy Daniel Hauer.
Tôi cũng không bênh vực gì Daniel Hauer, rõ ràng Daniel Hauer đã sai
khi sống và làm việc ở VN 5 năm trời, lấy vợ Việt, nói tiếng Việt, phần
nào hiểu được văn hóa Việt mà không biết rằng nước này là một nước
không có tự do ngôn luận, và có những điều cấm kỵ không được đụng đến ví
dụ như ông Hồ Chí Minh, ông Võ Nguyên Giáp hay đề cập đến đa nguyên đa
đảng hay sao. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là lối suy nghĩ, tư duy cái
gì cũng nâng lên thành tầm quốc gia, dân tộc, cái gì cũng lôi kéo nhân
dân vào là rất sai.
Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp là lãnh tụ, là tướng của đảng cộng sản,
đảng cộng sản phong họ là “cha già dân tộc”, là “anh hùng dân tộc”,
thậm chí là…thánh. Nhưng xét theo góc độ lịch sử, họ cũng chỉ là những
nhân vật chính trị, nhân vật lịch sử, có đúng có sai, có công có tội.
Sau này khi lịch sử được viết lại một cách trung thực, công bằng, khách
quan, chứ không phải thứ lịch sử tô vẽ, bị bóp méo do đảng và nhà nước
cộng sản viết nên và bắt người dân phải học theo, tin theo bao nhiêu
năm qua, những góc khuất, công tội của họ sẽ được bạch hóa và đánh giá
một cách đầy đủ. Và họ cũng chỉ là những con người, tại sao phải tôn
thờ như là thánh? Đó là chưa kể có phải tất cả mọi người VN đều yêu quý
ông Hồ ông Giáp hay không.
Cái lối suy nghĩ đó là hệ quả của một nền giáo dục tuyên truyền nhiều
năm dài. Và chúng ta đã bị ảnh hưởng mà không biết. Chưa kể, lối suy
nghĩ, phản ứng đó thể hiện sự chưa trưởng thành của một dân tộc.
Người Việt nói chung dễ vui (đến phát rồ) và dễ buồn (đến mất cả tinh
thần) chỉ vì những chuyện như đội nhà thắng thua một trận bóng đá; dễ
nổi khùng, bị xúc phạm vì một câu nói đùa hay câu chê bai của một người
nước ngoài. Nhưng lại hầu như không có phản ứng gì đáng kể trước những
điều lẽ ra phải buồn phải đau như vị thế của VN trên thế giới, cái nhìn
của thế giới nói chung đối với VN, sự lạc hậu của đất nước, nỗi cơ cực
của nhân dân, môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề hay nguy cơ lệ thuộc
(kể cả mất nước vào tay Trung Cộng)…Đối với những vấn đề chính trị xã
hội, quyền tự do, quyền con người thì người Việt nói chung lại có sức
chịu đựng vô cùng giỏi! Điều đó hoàn toàn trái ngược với người dân nhiều
nước khác.
Chúng ta cũng chẳng thấy nhục khi hai chữ VN thường xuyên bị gắn với
những tin tức, câu chuyện tiêu cực, không hay trên thế giới, hoặc đáng
xấu hổ, ví dụ như nhiều người Việt kể cả du học sinh, quan chức bị bắt
quả tang ăn cắp ở Nhật, các cô gái Việt đua nhau lấy chồng Đài chồng
Hàn, một số cô bị bắt khi đang làm gái mại dâm ờ Singapore, người Việt
xếp hàng xin đi làm thuê ở nước ngoài theo chủ trương “xuất khẩu lao
động” của nhà nước VN v.v…
Chỉ khi nào không dễ bị tổn thương vì những chuyện nhỏ và thực sự thấy
đau thấy nhục, hoặc phẫn nộ vì những chuyện lớn lao hơn, lúc đó chúng
ta mới hy vọng rằng VN sẽ thay đổi được số phận của đất nước, dân tộc,
để không còn là một quốc gia lạc hậu, đi sai đường, một dân tộc hèn kém
nữa, và lúc đó VN sẽ thắng, không chỉ trong một giải bóng đá, báo chí
nước ngoài sẽ nhắc đến và khen ngợi VN không chỉ vì một trận bóng đá,
người Việt sẽ điềm tĩnh hơn nhiều khi thắng thua một trận bóng bởi vì
chúng ta còn có nhiều cái khác để tự hào. Chúng ta cũng không dễ nổi
khùng khi bị người nước ngoài đùa cợt hay chê bai, chỉ trích, vì chúng
ta biết VN có những điểm mạnh khác.
No comments: