VÕ ĐẠI TÔN * VÀI KỶ NIỆM VỀ TẾT TRONG TÙ HÀ NỘI
VÀI KỶ NIỆM VỀ TẾT TRONG TÙ HÀ NỘI
Trải qua 10 “cái gọi là Tết” trong lao tù Cộng sản Hà Nội, tôi còn nhớ
rõ nhiều kỷ niệm, tất nhiên chỉ có nỗi buồn chứ không thấy bóng Xuân
sang ngay trên quê hương mình. Thời gian đã trôi qua từ lâu nhưng mỗi
lần Tết đến, dù là Tết lưu vong, cũng gợi lại trong lòng tôi nhiều ý
tưởng xót xa ngậm ngùi về cảnh sống trầm luân của cả Dân Tộc dưới chế độ
cộng sản.
Đặc biệt là Tù nhân chính trị - từ hải ngoại xâm nhập về lại Quê hương
để mưu đồ kháng chiến Phục Quốc, bị ghép tội là “đại phản động chống phá
Cách mạng” - là nạn nhân bị đày đọa cực hình bằng mọi kỹ thuật bạo lực
tàn khốc nhất, ít ai hiểu được hoàn cảnh sống trong đáy ngục trần gian
này. Với thời gian bị giam cầm hơn 10 năm, tôi có nhiều kỷ niệm vẫn còn
nhớ rõ, nhưng chỉ ghi lại một vài sự kiện xảy ra trong dịp Tết tù đày,
hòa chung vào nỗi đau của quê hương hiện nay vẫn còn tiếp diễn.
Thèm một chút đường trước khi chết:
- Tôi thường bị biệt giam, nhưng có một thời gian gần 3 năm, từ cuối
năm 1984 đến Tết năm 1987, có một bạn tù chuyển đến sống bên cạnh xà lim
số 7, có khi lại chuyển qua sống chung buồng giam với tôi, xà lim số 8,
Khu D, trại tù B-14 (Thanh Liệt, ngoại ô Hà Nội), khi tù nhân nhiều quá
không còn chỗ giam riêng.
Ông ta già yếu, khoảng 72 tuổi, người gốc Long Xuyên, miền Nam. Du học
tại Pháp thuở còn niên thiếu, đậu bằng Tiến Sĩ Công Pháp Quốc Tế tại
Pháp, có vợ đầm, sống ở Pháp hơn 40 năm. Thời gian đầu, chúng tôi không
dám tâm sự gì với nhau vì còn e ngại nhiều điều, nghi ngờ bị “cài
ăng-ten”.
Nhưng dần dà, sống chung với nhau trong một xà lim chật hẹp, nói chuyện với nhau thường bằng tiếng Pháp, ban đêm rù rì tâm sự, biết rõ quá khứ của nhau, trở nên thân tình. Tên thật ông ta là Tô Cẩm Sơn. Hơn nữa, mỗi người chúng tôi tự biết mình cận kề cái chết, cho nên cũng chẳng còn lo sợ gì nữa, thường kể cho nhau nghe nhiều chuyện về quê hương, cuộc đời, gia đình, năm tháng lưu vong, đặc biệt về nước Pháp mà cá nhân tôi cũng có nhiều kỷ niệm. Vì sống cô đơn trong lao tù, cho nên tôi coi ông ta như người anh cả.
Khi đã tin cậy nhau, ông ta mới cho tôi biết rõ là đã bị bắt giam oan ức tại nhiều trại tù khác nhau từ nhiều năm qua. Bộ Nội Vụ cộng sản dường như muốn bỏ quên ông ta, và không cho gia đình tại Pháp biết tin tức gì cả, chính phủ Pháp và tòa đại sứ Pháp tại Hà Nội cũng không biết tin. Coi như là biệt tăm. Trong tù, chúng tôi tự coi như là tù “tồn kho” hoặc R.X (rục xương). Sau 40 năm sống tại Pháp, ông ta xin về thăm Hà Nội vào khoảng tháng 3 năm 1975, trước ngày miền Nam bị mất độ một tháng. Đang đi dạo chơi ở bờ hồ Hoàn Kiếm (1975), chợt có xe công an đến hốt về giam, chuyển qua nhiều trại tù, rồi bây giờ (1984) thì về trại tù Thanh Liệt. Qua thời gian chung sống với nhau, ông ta cho tôi biết mấy chục năm trước ông ta có quen với Nguyễn Hữu Thọ ở Toulouse (Pháp), lúc Thọ còn học luật tại đây.
Sau này, lúc Thọ về lại Việt Nam, tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và dần dần leo lên chức Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước, chủ tịch Quốc Hội CSVN ở Hà Nội. Thọ có hai người con gái, một người lấy chồng Mỹ, và một người lấy chồng Pháp. Sự kiện gia đình riêng tư này, Thọ không muốn cho ai biết vì sợ các đối thủ phanh phui làm mất tính đảng (chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ mà lại gã con gái cho Pháp và Mỹ !).
Lúc ông Tô Cẩm Sơn về Hà Nội (1975) có đến thăm Nguyễn Hữu Thọ, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ và một người bà con làm y sĩ riêng cho Lê Duẩn. Sau những buổi gặp nhau và ăn cơm xã giao với mấy người này, ông ta bị bắt giam mà không cho biết tội trạng gì. Khi chúng tôi gặp nhau trong tù thì ông ta đã bị giam tại các nơi khác gần 9 năm rồi, không cho liên lạc với gia đình và chưa hề bị kết tội gì cả. Họ đặt cho ông ta một bí số là H-74 cũng như trường hợp của tôi là X-1. Ông ta tự suy nghĩ có lẽ mình là người biết quá nhiều về đời tư của các kẻ đang cầm quyền cho nên họ đã ra lệnh bắt giam để bịt miệng. Tiến sĩ Công Pháp Quốc Tế cũng phải chịu thua luật rừng!
Nhưng dần dà, sống chung với nhau trong một xà lim chật hẹp, nói chuyện với nhau thường bằng tiếng Pháp, ban đêm rù rì tâm sự, biết rõ quá khứ của nhau, trở nên thân tình. Tên thật ông ta là Tô Cẩm Sơn. Hơn nữa, mỗi người chúng tôi tự biết mình cận kề cái chết, cho nên cũng chẳng còn lo sợ gì nữa, thường kể cho nhau nghe nhiều chuyện về quê hương, cuộc đời, gia đình, năm tháng lưu vong, đặc biệt về nước Pháp mà cá nhân tôi cũng có nhiều kỷ niệm. Vì sống cô đơn trong lao tù, cho nên tôi coi ông ta như người anh cả.
Khi đã tin cậy nhau, ông ta mới cho tôi biết rõ là đã bị bắt giam oan ức tại nhiều trại tù khác nhau từ nhiều năm qua. Bộ Nội Vụ cộng sản dường như muốn bỏ quên ông ta, và không cho gia đình tại Pháp biết tin tức gì cả, chính phủ Pháp và tòa đại sứ Pháp tại Hà Nội cũng không biết tin. Coi như là biệt tăm. Trong tù, chúng tôi tự coi như là tù “tồn kho” hoặc R.X (rục xương). Sau 40 năm sống tại Pháp, ông ta xin về thăm Hà Nội vào khoảng tháng 3 năm 1975, trước ngày miền Nam bị mất độ một tháng. Đang đi dạo chơi ở bờ hồ Hoàn Kiếm (1975), chợt có xe công an đến hốt về giam, chuyển qua nhiều trại tù, rồi bây giờ (1984) thì về trại tù Thanh Liệt. Qua thời gian chung sống với nhau, ông ta cho tôi biết mấy chục năm trước ông ta có quen với Nguyễn Hữu Thọ ở Toulouse (Pháp), lúc Thọ còn học luật tại đây.
Sau này, lúc Thọ về lại Việt Nam, tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và dần dần leo lên chức Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước, chủ tịch Quốc Hội CSVN ở Hà Nội. Thọ có hai người con gái, một người lấy chồng Mỹ, và một người lấy chồng Pháp. Sự kiện gia đình riêng tư này, Thọ không muốn cho ai biết vì sợ các đối thủ phanh phui làm mất tính đảng (chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ mà lại gã con gái cho Pháp và Mỹ !).
Lúc ông Tô Cẩm Sơn về Hà Nội (1975) có đến thăm Nguyễn Hữu Thọ, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ và một người bà con làm y sĩ riêng cho Lê Duẩn. Sau những buổi gặp nhau và ăn cơm xã giao với mấy người này, ông ta bị bắt giam mà không cho biết tội trạng gì. Khi chúng tôi gặp nhau trong tù thì ông ta đã bị giam tại các nơi khác gần 9 năm rồi, không cho liên lạc với gia đình và chưa hề bị kết tội gì cả. Họ đặt cho ông ta một bí số là H-74 cũng như trường hợp của tôi là X-1. Ông ta tự suy nghĩ có lẽ mình là người biết quá nhiều về đời tư của các kẻ đang cầm quyền cho nên họ đã ra lệnh bắt giam để bịt miệng. Tiến sĩ Công Pháp Quốc Tế cũng phải chịu thua luật rừng!
Vào những tháng cuối năm 1987, ông Sơn bị bệnh nặng, thường ho ra máu,
đồng thời ngày nào cũng ra máu tươi lúc đại tiện, đầy gần nửa bô nhựa.
Ông ta đã báo cáo nhiều lần nhưng trại không có đủ thuốc men để cấp và
cũng không cho đi bệnh viện. Vào dịp Tết, bệnh ông ta ngày càng nặng,
tôi bàn với ông ta là sáng hôm sau đừng đổ bô vào thùng, cứ để đấy, tôi
sẽ có cách.
Sáng ra, lúc được mở cửa xà lim để chạy ra lấy cơm và đổ bô vào thùng vệ
sinh lớn ngoài cửa, tôi giả vờ vô ý vấp chân làm đổ cái bô nhựa của ông
ta, máu chảy ra đầy đường đi. Tên cán bộ quản giáo hoảng hốt nhảy tránh
và la lên : “Gì đấy, máu đâu lắm thế ?”. Tôi thản nhiên nói : - “Báo
cáo cán bộ, máu của ông bạn tù, bệnh nặng lắm”.
Nhưng cũng chẳng được cấp thuốc men gì.
Một đêm gần Tết, ông ta thức tôi dậy và phều phào nói không ra hơi : -
“Người ta chỉ mong cho mình chết. Chú cố gắng sống. Anh chết là thoát
nợ, chẳng biết nợ gì đây. Có lẽ là định mệnh. Chú có biết bây giờ anh
thèm cái gì nhất không ?” - Tôi đau xót hỏi : - “Anh thèm gì ?
Trong tù này thì mình thèm đủ thứ mà”. - Ông ta im lặng một lúc, có lẽ
để thở rồi nói : - “Anh thèm ngọt quá. Phải chi có một muỗng đường để
ngậm trong miệng trước khi chết thì sướng quá” ! (*Bản thân tôi suốt hơn
10 năm trong tù cũng không bao giờ có một muỗng đường).
Tôi chợt thấy cuống họng mình
khô nghẹn, rồi nước miếng bỗng trào ra đầy miệng. Tôi cũng đang thèm
đường quá. Cơ thể thiếu chất ngọt từ lâu rồi, mỗi lần nghĩ đến đường là
nước miếng chảy ra.
Có nhiều đêm tôi nằm mơ thấy mình chết, xác trôi nổi bồng bềnh trên một
dòng sông đầy nước đường ngọt quánh. Nước đường màu vàng óng ả dưới ánh
trăng. Đường phèn, đường phổi, đường thốt nốt, mạch nha, cuồn cuộn chảy
quanh xác tôi. Sáng hôm sau, ông bạn già của tôi bị chuyển đi khu khác.
Tôi nghe nói ở buồng giam A-1 và đã qua đời. Bị tù hơn 12 năm, trên 72
tuổi, Tiến Sĩ Luật Khoa, không có án và khi chết trong tù, giây phút
cuối chỉ mơ ước có được một muỗng đường để ngậm, nhưng làm sao có được
?!.
Những tiếng cười vang, “được” tù chung thân: - Vào khoảng cuối
tháng 10/1989 cho đến gần Tết, (tôi ở tù gần 9 năm rồi), có nhiều đêm
tôi nghe có nhiều tiếng chân chạy và tiếng mở cửa sắt buồng giam khắp
các khu trại. Tôi nghĩ chắc có nhiều “lính mới” ở đâu chuyển về. Nhiều
ngày sau, người bạn tù “tự giác” (tù hình sự sắp mãn án) đi quét dọn vệ
sinh, lén cho tôi biết có mấy chục người bị giải từ Lào về, toàn là
kháng chiến quân hải ngoại. Tôi không biết thuộc tổ chức nào.
Dãy khu D có giam mấy người, còn phần đông là giam ở khu A. Mấy ngày
sau, lợi dụng đêm khuya lúc vắng bóng cán bộ an ninh tuần tra, tôi giả
vờ tằng hắng và ho, cùng lén huýt sáo mật mã của tổ chức Phục Quốc anh
em chúng tôi nhưng không có tiếng huýt sáo trả lời.
Tôi lại lén hát vài câu bài Quốc
Ca Việt Nam Cộng Hòa để làm mật hiệu bắt liên lạc xem sao. Có tiếng ai
huýt sáo trả lời, cũng theo điệu nhạc Quốc Ca “Này công dân ơi…”.
Một thời gian sau, chẳng biết vì sao anh em này, cùng khu xà lim của
tôi, lại biết được tin tôi bị giam ở đây, có nhiều tiếng la lên vội
vàng giữa đêm khuya rồi im bặt, vì sợ cán bộ bắt gặp, liên lụy cho nhau.
- “Ông Thầy ơi, Papa ơi, biết rồi, biết rồi !”. Bây giờ nhớ viết lại
tổng quát như vậy, bạn đọc có thễ nghĩ là dễ dàng thông tin, nhưng hoàn
cảnh tù của chúng tôi - từ hải ngoại về bị bắt giam - đôi khi chỉ một
vài chữ, vài tiếng lóng, một câu ngắn, muốn lén tin cho nhau cũng phải
mất mấy đêm khuya lúc không có bọn cán bộ đi tuần tra.
Chúng tôi bị kết tội là “ngụy
phản động từ nước ngoài về”, chứ không phải như anh em khác bị giam cầm
trong các trại tù gọi là “học tập cải tạo” sau ngày 30.4.1975, còn được
chút không khí sống tập thể, đi lao động, nói chuyện với nhau, được gia
đình thăm nuôi tiếp tế, ngoại trừ những người thuộc “diện nguy hiểm” đã
bị biệt giam.
Khoảng gần Tết, suốt ba ngày liên tiếp, lúc mờ sáng và lúc đêm khuya,
tôi nghe có tiếng khóa cửa sắt các buồng giam và nhiều tiếng cán bộ quản
giáo. Mấy hôm sau, tôi hỏi dò tên tù “tự giác” và được biết một số anh
em ở khu D và khu A đã bị đưa ra tòa để kết án phản động. Một đêm, có lẽ
vào khoảng gần sáng, có tiếng gà gáy ở xóm bên kia tường vọng lại, trại
tù vắng lặng, tôi nghe có tiếng gọi nhau và nhiều tiếng cười vang. -
“Ông Thầy ơi, bọn này sắp bị chuyển đi rồi. Được tù chung thân rồi !”.
Lại tiếp thêm nhiều tiếng cười vang khác, rồi im bặt từ đấy.
Tôi không được biết thêm tin gì nữa kể từ hôm ấy. Nhưng, những giọng
cười vang ngạo nghễ giữa đêm khuya vắng trong tù, mãi cho đến nay, vẫn
thêm hành trang đấu tranh cho tôi mỗi khi tôi cảm thấy cô đơn giữa chợ
đời. Anh em đã tận hiến cuộc đời Phục Quốc và đã “được” tù chung thân
rồi. Lòng tôi vừa hãnh diện vừa xót xa, có lẽ chỉ có những người cùng
chung cảnh ngộ mới cảm thông được nỗi niềm này.
Câm mẹ cái mồm lại, ngụy quân ngụy quyền! : - Năm đầu tiên bị
giam tại trại tù Thanh Liệt - (1981), sau khi bị chuyển từ Paksé (Lào)
về Hà Nội, thỉnh thoảng vào buổi chiều tôi nhìn qua khung cửa gió xà lim
thấy có một bé gái thơ thẩn qua lại, chơi một mình. Trông bé thật dễ
thương, có lẽ khoảng 4-5 tuổi, tôi đoán là con của cán bộ quản giáo nào
đó trong trại tù. Tôi nhìn bé mà nhớ thương con tôi ở Úc, lúc tôi từ giã
gia đình lên đường kháng chiến Phục Quốc thì cháu mới có 2 tuổi.
Lòng tôi nao nao xúc động, biết bao giờ gặp lại gia đình ?. Có một hôm,
cháu gái đến cạnh cửa buồng giam của tôi, nhìn tôi mỉm cười. Tôi vẫy tay
chào cháu với tất cả lòng thương.
Đột
nhiên cháu hỏi : - “Ông có biết làm con cá bằng giấy không ?” - Tôi nghĩ
là cháu muốn nói xếp giấy, nên trả lời có. Cháu lại mỉm cười rồi bỏ
chạy đi. Một lúc sau, có một cán bộ đến mở cửa buồng giam, đưa cho tôi
mấy tờ giấy báo, bảo tôi xếp giấy đồ chơi cho trẻ em, rồi ngồi đợi,
không nói thêm gì nữa. Tôi xếp vội hình một con cá, một chiếc máy bay và
một chiếc tàu thủy, lại nghĩ đến con tôi.
Xong rồi, anh ta lấy đi, không nói một lời. Mấy hôm sau, tôi lại thấy
cháu gái chạy chơi, trên tay cầm chiếc máy bay bằng giấy, tôi nhìn theo,
xúc động. Từ đó, tôi không còn thấy cháu nữa. Khoảng 5 năm sau, tôi lại
thấy cháu đi học về, lớn lắm rồi, có lẽ đã lên 10 tuổi. Tôi mừng quá,
gọi cháu : - “Bé ơi, lâu lắm không gặp, lớn quá rồi !”.
Cháu đứng lại, nhìn tôi, rồi bỏ đi không nói
gì cả. Tôi ngậm ngùi nhìn theo. Rồi từ đấy lại không còn thấy cháu nữa.
Đến Tết năm 1990, tôi ở tù gần 10 năm, một buổi chiều tôi lại vui mừng
thấy một cô gái khoảng 15 tuổi đi qua buồng giam của tôi.
Đấy là bé gái tôi gặp lần đầu lúc khoảng 5 tuổi, nhờ tôi xếp giấy con
cá, bây giờ đã thành một thiếu nữ nhưng tôi vẫn nhận ra. Tôi mừng quá,
quên mất kỷ luật trại tù, la to lên : - “Bé ơi, còn nhớ ông không ?” -
Cô gái quay nhìn tôi rồi thản nhiên bước đến gần cửa gió buồng giam,
trừng mắt nhìn tôi, nghiêm mặt nói : - “Ai là bé của anh ? Câm mẹ cái
mồm lại, đồ ngụy quân ngụy quyền” - rồi bỏ đi.
Tôi sửng sờ trước sự phủ phàng đó. Suốt đêm tôi thao thức, lại nghĩ đến
thân phận tù đày, nghĩ đến chính sách giáo dục nhồi sọ của một chế độ
chuyên dùng bạo lực và sự gian dối để cai trị con người.
Từ một bé gái 5 tuổi ngây thơ mỉm cười gọi tôi bằng “ông” và nhờ xếp
giấy làm con cá để chơi, đến 10 tuổi thì im lặng không nói với tôi một
lời, lúc lên 15 tuổi thì gọi tôi là “anh” và mắng tôi là “Ngụy quân ngụy
quyền, câm mồm lại”. Có lẽ cô gái này, cũng như toàn thế hệ trẻ dưới
chế độ cộng sản, “đoàn thiếu nhi khăn quàng đỏ Hồ chí Minh”, cũng không
hiểu nghĩa “Ngụy quân ngụy quyền” là gì, chỉ biết lặp lại như máy. Tôi
nhớ lại bản trường ca tôi đã sáng tác, có những câu khi nằm thầm đọc lại
trong xà lim tăm tối cô đơn mà lòng xót đau, nghĩ đến tương lai đen tối
của cả Dân Tộc :
Tôi sẽ về
Để cho em trái tim không bằng thép.
Mà bằng máu Con Người.
Trái tim em sẽ biết nở nụ cười tươi.
Vì không nung bằng lò sản xuất.
Tôi sẽ đưa em ra khỏi công trường u uất.
Cho em làm Người, biết quý thịt xương,
Biết cười vui, biết cả Tình Thương.
Để em không còn làm Máy !!! …
Ta biết tình Em : - Sống trong đáy ngục trần gian với những trận
đòn thù tra tấn, tù không có án, bặt tin vợ con, anh em, bạn bè, khung
trời quê hương chỉ là bốn vách tường giam, mỗi ngày đêm tôi thường
“thấy” qua những giấc mơ hình bóng gia đình thương yêu. Hình bóng chập
chờn qua những dòng máu đen ngập chìm tâm hồn cô đơn.
Dù cận kề cái chết, tôi vẫn cố tồn tại. Tự ôn ngoại ngữ, thuyết trình,
viết hồi ký, làm thơ… qua trí nhớ vì không có giấy bút. Tôi tự luyện cho
mình một kỷ luật sắt bản thân để thực hiện chương trình hoạt động trí
óc mỗi ngày đêm để không đầu hàng, bỏ cuộc, trước mọi hoàn cảnh cay
nghiệt nhất của một đời người.
Gần đến Tết năm 1990 (tôi ở tù gần 10 năm
rồi), một hôm có anh bạn tù trẻ được chuyển đến, gọi là sống tạm chung
với tôi. Thông thường vào các dịp Tết, trại tù không đủ chỗ nhốt, phải
cho sống chung mỗi buồng giam vài người, tạm thời vài tuần lễ.
Đây là loại tù hình sự, án nhẹ vài năm về tội trộm cắp, buôn lậu, giang
hồ. Anh bạn tù này còn trẻ, người Hải Phòng, nhà nghèo, can tội trộm xe
gắn máy, bị kết án 3 năm, đã ở tù được hơn 2 năm rồi, sắp mãn án. Có vợ
và một con trai nhỏ. Biết tôi là người miền Nam, ở “nước ngoài” về,
nhưng tuyệt nhiên không bao giờ hỏi thăm về chuyện chính trị, và về các
hoạt động của tôi. Chỉ hỏi chuyện về đời sống tại miền Nam và ngoại
quốc, và thường gọi tôi là “Bố”.
Đặc biệt, anh ta rất thích đọc thơ, ban đêm thường đọc cho tôi nghe
nhiều bài thơ rất cảm động về cảnh sống ngoài đời, không biết tác giả là
ai.
Một đêm, anh ta nằm khóc, nói là nhớ vợ con vào dịp Tết, và hỏi tôi có
biết làm thơ không ? Tôi cười và hỏi thêm về chuyện gia đình của anh ta.
Sau vài tuần lễ chung sống, nhận thấy anh ta rất dễ thương và có vẻ
kính trọng tôi, nói chuyện tâm tình rất lễ phép, khác lạ với những tên
tù du đảng khác. Tôi nghĩ ngay trong đầu tựa đề một bài thơ, và từ hôm
đó, mỗi đêm tôi làm được vài đoạn, nằm đọc cho anh ta nghe để học thuộc
lòng.
Tôi cũng muốn mượn tâm sự này
để gửi về cho vợ con tôi qua không gian nỗi lòng của riêng mình từ lao
tù. Tôi làm được đoạn nào là anh ta nằm học thuộc lòng, đọc đi đọc lại
không sót một chữ một câu nào. Tôi cảm thấy vừa ngậm ngùi vừa vui trong
hoàn cảnh đặc biệt này và thấy anh ta chăm chú học thơ như một đứa học
trò ngoan. Bài thơ làm xong, anh ta nằm ngâm nga suốt đêm và hết lòng
cám ơn tôi. Vài tuần lễ sau thì anh ta được chuyển ra ngoài để làm lao
động “tự giác”, chờ ngày mãn án tù. Tôi không còn gặp lại nữa. Tôi còn
nhớ rõ bài thơ này, xin ghi lại vào dịp Tết.
Ta Biết Tình Em.
Ta biết lòng em cũng xốn xang.
Khi nhìn thiên hạ đón Xuân sang.
Khi nghe pháo nổ bên hàng xóm.
Và thấy hoa mai nở sắc vàng.
Ta biết sầu đau đẫm mắt em.
Chờ con thơ ngủ, khóc từng đêm.
Thương ta trong cảnh đời lao lý.
Em khóc cho vơi bớt nỗi niềm.
Không tiền mua áo Tết cho con.
Chiếc áo ngày xưa, cưới vẫn còn,
Em đành cắt áo cho con mặc,
Từng mũi kim khâu, nát cả hồn.
Ta đi, nhà vắng lại nghèo thêm.
Nắng mưa tần tảo một mình em.
Bàn tay lao động ngày hai buổi.
Ai đón em về trong bóng đêm ?
Giờ đây Xuân đến giữa mùa Đông.
Ta biết em đau cả cõi lòng.
Em gượng cười vui qua nước mắt.
Và gắng nuôi con, cố đợi chồng.
Nhìn gói quà Xuân em gửi ta.
Ta biết tình em vẫn thiết tha.
Lòng ta chua xót tràn thương nhớ.
Lặng lẽ trong đêm mắt lệ nhòa.
Quà em : lao động thấm mồ hôi.
Nâng niu từng hạt muối vừng xôi.
Một đời chung thủy trong bao nhỏ.
Một trái tim yêu vẫn rạng ngời.
Giao Thừa đang đến, pháo nổ vang.
Trời khuya bừng động, rộn không gian.
Ngậm ngùi ta đứng bên song sắt,
Tường cao cũng chắn lối Xuân sang.
Ta biết lòng em cũng tái tê.
Con hỏi : Cha đâu chẳng thấy về ?
Thôi em, nín khóc, lau dòng lệ,
Em hãy vì ta, giấu não nề.
Ngày mai sum họp cảnh đoàn viên.
Ta về, nối lại mối tơ duyên.
Cùng em, ta đón mùa Xuân mới.
Cho thỏa tình xưa, vẹn ước nguyền.
Ta sẽ lùa tay qua tóc mây.
Thương em, hôn nhẹ cánh vai gầy.
Ta gửi tình ta qua ánh mắt.
Dù không men rượu cũng lòng say.
Xin em gắng đợi một ngày mai.
Ta về - vui sống với tương lai.
Tình ta thắm lại hai lần cưới.
Pháo nổ mừng Xuân, đón mộng dài !
Suốt thời gian dài sống trong lao tù Hà Nội, tôi còn nhiều “kỷ niệm” chẳng bao giờ quên. Trên đây chỉ là một vài chuyện tượng trưng vào dịp Tết. Với tâm nguyện hiến dâng của mỗi người, xin được đồng hành cùng Dân Tộc, nhất định chúng ta sẽ mừng đón Mùa Xuân Đống Đa trên Quê hương một ngày gần đây. Xin kính chúc Quý Độc Giả bình an.
Võ Đại Tôn
Tết Đinh Dậu 2017 Hải Ngoại.
LÊ THỊ HOÀNG ANH * XẾP VÀO KỶ NIỆM
XẾP VÀO KỶ NIỆM
LÊ THỊ HOÀNG ANH
Thúy đang loay hoay xếp lại chồng sách báo ngổn ngang trên giường thì nàng nghe tiếng con trai gọi:
Vậy ba ngày đánh giặc, chiến sĩ
ta diệt được bao nhiêu tên lính Ngụy cả thảy?". Thúy thừ người suy nghĩ.
Bé Kiệt thấy Mẹ im lặng quá lâu, nó tựa đầu vào bắp vế Mẹ, hỏi khẽ: -
Bộ khó quá, Mẹ cũng không làm được hả mẹ? Thúy cười buồn vì nàng cũng
không biết phải giải thích thế nào với con. Từ biến động Bẩy Lăm, chồng
đã theo gia đình di tản,Thúy và hai con còn kẹt lại, lòng Thúy đã nhen
nhúm ý nghĩ táo bạo là sẽ tìm đường để dẫn hai con vượt biên; giờ đây
thêm một vấn đề con của mình với một trí óc non nớt đang bị đầu độc bởi
những tư tưởng hèn hạ thế này thì chuyện lìa bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn
mà thôi!
Nàng chỉ giúp con bằng cách bảo nó viết ngắn gọn:4 + 8 +2 = 14 và cố
tình né đi chữ "Lính Ngụy" mà nàng biết chắc con mình khi nộp bài lên
cho "giáo viên" chấm sẽ không đạt được điểm cao. Những đêm thức trắng,
ngồi suy nghĩ đủ phương cách hầu kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt
biên, cứ mỗi ngày nghe tên một người quen ra đi, có người thoát, có
người bị bắt lại, có người thì chưa nghe tin gì cả, tức là coi như mất
tích, Thúy như ngồi trên lửa. Phương cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ
phí, ngày càng đi vào ngõ cụt! Vào một đêm thanh vắng, Thúy đang vặn nho
nhỏ chiếc radio cassette để lén nghe những lời ca ngọt ngào của những
ca sĩ đã thoát ra nước ngoài mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè
nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt máy, nhét vội cái "đài" xuống gầm giường.
Tiếng gõ cửa lớn hơn.
Nàng lên tiếng: - Ai đó? - Tui đây! Mở cửa cho tui "dô" rồi nói "chiện"! - Nhưng bà là ai? - Tui là A Múi! - A Múi là ai, tui đâu có quen! - Chời ơi! Mở cửa đi mà! Có tin dui! Thúy yên tâm, mở hé cửa ra nhìn. Một bà xẩm không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây mầu nâu, bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi: - Cô có phải là Lê Thị Thúy không? - Dạ, đúng! Mời bà vào nhà. Có gì không bà? - Có phải cô có hai thằng "con chai"?
Thúy nghi ngờ: - Có gì nói lẹ lên, hỏi như điều tra, nghe ghê quá! - Mà có đúng hông đã? - Thì đúng! - Ờ, cô có người "dà" đưa "dàng" cho cô đây nè! À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi! Thúy lặng người, bán tín, bán nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè dặt: - Thẻ chứng minh của tôi làm rồi mà công an phường chưa phát, chỉ có giấy tạm đây thôi. - Ờ thì giấy đó cũng được. Đưa cho tui coi có đúng tên thì tui mới giao "dàng" chớ!
Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn, mặc dù lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm. - Không! Tôi không nhận đâu! vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi? - Chời ơi! "dàng" mà chê! Nè, ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà? Giọng của bà ta thay đổi tiếng Bà thay cho tiếng Cô, Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi hộp vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem. Nàng không quên đưa ta chỉ hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như ngầm cho biết về gia đình của mình. - Đó! Hai thằng con của tôi! Bà xẩm rút trong cái bao vải lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới giao cho Thúy: - Nè, đếm cho đủ đi, mười tám cây tất cả!
Thúy run run đón nhận, đặt xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên tiếng: - Mở "da" coi cho kỹ đi, tui đưa toàn "dàng" tốt không đó! Thúy lặng người một lúc mới đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà đưa cho Thúy quyển sổ và bảo Thúy: - Ký "dận" vô đây đi! - Viết gì bây giờ hả Dì? - Thì ký tên nói mình "dận" đủ mười tám cây! Thúy răm rắp làm theo. Bà ta thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy mới hoảng hốt: - Mời Dì uống miếng nước rồi đi! Bà ta lắc đầu từ giã, vội vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình.
Áp bao vàng vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai
con dậy để nói cho chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình.
Nàng thì thầm với chồng ở nơi xa xôi mịt mùng nào đó:" Bất chấp sống hay
chết giữa biển khơi, em nhất định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe
anh!" Cuối tháng ba 1979, Thúy theo lời chỉ điểm của một người bạn thân
nàng móc mối được với một chuyến đi và tin chắc sẽ tới bến một cách an
toàn - Đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà nước tổ chức. Ngày
hẹn giao nộp vàng, người anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy trang
trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và để vài miếng cá kho nằm trên mặt cơm.
Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có thể
nàng chỉ cần một người nào đó thét lên một câu "Có gì khai thật đi" là
nàng sẽ phun ra tất cả không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng
cũng im lặng, không nói không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi
nhà. Đêm cuối, nàng và hai con tá túc trong nhà người anh để sáng hôm
sau ra đi cho được an toàn. Lòng Thúy buồn rười rượi, nàng cứ cầm tay
cha già áp lên má mình mà nước mắt tuôn ra, không nói được một lời từ
giã vì anh nàng đã dặn:" Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm cẩm nói lại
với chòm xóm là chết cả lũ đó!" Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng trên
đất Sài Gòn, nhưng Thúy không tài nào chợp mắt được.
Hai mắt nàng cứ mở thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn
vào, Thúy nhoẻn miệng cười để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long
lanh. Thúy tự dặn lòng: "Đến mỹ, bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho
anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này ". Ba năm anh đi "cải tạo" về,
anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn không tìm được việc làm
bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ! Tập trung tại một ngoi chùa Tàu tại Bạc
Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ còn
gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của đám người Hoa
cùng cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước
ngoài.
Thúy nghĩ chỉ tới khuya là sẽ
được gọi lên xe, ra tầu vì tiền vàng đã đóng cho "chính phủ", ba mẹ con
nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của nhà nước thì cầm chắc cái thắng
trong tay! Thế mà... Đã bốn tuần trôi qua, tiền cầm theo đi đường của ba
mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn
Thúy thì ăn bánh mì không xịt xì dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa
thiu thiu ngủ thì tiếng la hét ầm ầm cách mùng của ba mẹ con chừng một
chiếc chiếu. Đèn bật lên.
Một bà xẩm tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào
mặt cậu ta bà la bài bài: - Ngộ lang ngủ mà mày dám mò ngộ hả? Một tay
bị nắm quá chặt, tay kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói: - Cháu không
phải mò bác đâu! Cháu hết tiền rồi định ăn cắp của bác để ăn chờ ngày đi
thôi. Chờ tầu lâu quá cháu hết tiền rồi! Nghe câu giải thích rõ ràng
của cậu ta, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên: -
Cái lồ chó lẻ!
Lụng tới tao lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày! Tiếng cười xen lẫn tiếng thở
dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng thanh niên
sưng vù lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác không bật cười nổi. Nàng
chạnh nghĩ đến mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết xoay sở
làm sao?
Căn phòng này, mỗi ngày bao nhiêu
tấn kịch vui buồn diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ tầu cho
biết là được công an báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ " nhà nước "
phải tạm ngưng, chờ lệnh mới sẽ cho đi ngay. Ai cũng hy vọng có tin ra
đi đến một cách bất ngờ, nên không người nào dám rời khỏi ngôi chùa, chỉ
ra tiệm mua vài món đồ dùng lặt vặt rồi lại về ngay điểm tập chung! Hôm
sau, mặt cậu thanh niên sưng mọng lên, cậu vừa mượn được ít tiền của bà
sư cô người Hoa để làm lộ phí về lại Sài Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn
chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc chắn tiền tầu chàng ta đóng đủ
rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên mới yên chí mà cho mượn.
Nhưng định mệnh thật trớ trêu!
Ngay đêm ấy đoàn người đi cùng chuyến với mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ
đến chỗ mới sẵn sàng lên "con cá lớn ". Tất cả đều vui mừng nhưng không
khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh ấy... Ba ngày vật lộn với tử
thần vì biển động bất ngờ, mọi người chen chúc ngồi trong tầu, vừa đói,
vừa khát...
Những cơn sóng dữ...đập vào hông tầu khiến tầu bị nứt một đường nhỏ,
nước từ từ chảy vào khiến cả tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau
múc nước chuyền lên boong tàu đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh
vang lên rì rầm trong hầm tầu nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tầu của
Thúy cũng may mắn gặp được tầu của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo
nhỏ vô danh. Đêm đầu tiên kinh hoàng với những lính Mã Lai về việc
chúng lục lọi tìm vàng và...tìm gái.
Đêm thứ hai, cả hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng nề đến nghẹt cả
thở khi những tiếng bước chân của lính Mã nghe xào xạo trong đêm. Bỗng
một tiếng thét vang dội cả khu vực. Thì ra một cậu bé bị bò cạp...kẹp!
Những ngày đói khát, những đêm hãi hùng khiến ai cũng lơ láo như là bị
đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt, đêm thì lạnh buốt xương. Cuối
cùng...một dịp tình cờ vì có người đói người đói quá. Trèo lêm trộm
dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta đánh liều vẫy
tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được tầu vượt biển
của Thúy bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội.
Chiều đó, một chiếc tầu của
Hồng Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám lính Mã chúng mới chịu cho
đoàn người khốn khổ rời đảo để vào đảo khác: đảo Pulau Bidong! Đến đây
rồi, mọt người lại trực diện với những kinh hoàng mới: Không có tiền để
dựng lều thì không thể nào có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con núp tạm
dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn vào những căn lều có giường, ghế đóng
bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt lưng! Ngày cũng như đêm, đi
đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo của ba mẹ con, đó là
gia tài duy nhất của mẹ con Thúy! Đứa con trai lớn đột ngột hỏi mẹ: - Mẹ
nói tới đây gặp ba mà sao con chẳng thấy ba? Thúy im lặng vì nàng cũng
đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào?
Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam thì chồng nàng còn có địa chỉ nàng để nhờ
người đem "quà" đến, Thúy chỉ biết mù mờ rằng chồng "ở Mỹ", không rõ ở
đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt lên chờ câu trả lời, Thúy
đành phải trả lời bừa đi cho xong: - Thì phải vài ba bữa nữa người ta
mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con! Đứa con của Thúy đưa tay lên gãi đầu
và càu nhàu: - Sao ai cũng có nhà mà mình không có nhà hả mẹ? Con không
muốn ở đây, nắng quá hà! Nhìn tấm lưng trần đen đủi của hai đứa con ốm
tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo: - Các con mặc áo vào để che nắng
thì bớt nóng! Danh sách tầu của Thúy đã được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận.
Lần đầu tiên cả tầu được phát lương thực. Thúy vui thật sự khi nghe hai
đứa con nói với nhau: - Bữa nay mẹ nói mình được ăn no!
Đứng dưới cái nắng gay gắt của
Mã Lai, hơi nước biển tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ
nào, thêm chứng kiến chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần
truồng ngớ ngẩn đi lang thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô
lều mặc quần áo cho, vài giờ sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết
anh ta vượt biển cùng gia đình, khi tàu ra khơi bị ngu phủ Thái Lan giở
trò hải tặc xáp vào tàu anh và đàn bà, con gái trên tàu hầu như không
thoát khỏi bàn tay hung bạo của chúng. Trong số đó có vợ anh, có em gái
anh!
Anh đã chống lại và anh bị
chúng ôm ném mạnh vào khoang tầu va đầu quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi
thế! Vợ anh, em gái anh bị bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng
với trẻ con, trong đó có đứa con nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ
có hai người đàn bà xấu số, còn nhiều nữa! Người thanh niên này khi được
cứu vớt (cùng với những người khác) thì trở nên...vô hồn, khi thì nhớ,
nhớ mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và nước mắt ngập mặt! Anh
ta có lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét om xòm!
Anh điên rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh không
biết mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng
mình còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên "Bác Hồ" và hát
bài quốc ca của nhạc sĩ Văn Cao " Thề phanh thây xác quân thù..." Qua
tuần lễ sau, cũng trong lúc chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai
thanh niên gầy gò đang dìu một cô bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau
đớn.
Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười ba tuổi, trên đường vượt biển
bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên nhau hãm hiếp. Vì cô còn
quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng dao xẻ ra cho rộng
hỏng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn theo từng
bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời ra
từng mảnh! Một buổi sáng, Thúy đang dùng sức để kéo hai đứa con lên con
dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một ít sữa bột bồi dưỡng cho
hai con.
Bỗng một trong hai thằng bé hét toáng lên. Thúy hoảng hốt bế thốc nó
đến trạm Y Tế. Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì, thấy mẹ bế thằng
anh thì cứ cắm đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, rồi lại lật bật ngồi
dậy, đứng lên lảo đảo chạy theo như cái bóng...đến trạm Y Tế. Bác sĩ
khám, mới biết: bệnh thòng ruột của nó bị tái phát.
Đợi tin chồng từ hy vọng đến tuyệt vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp
lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi lá thư nhờ người mang đi khi họ rời
đảo với địa chỉ ghi ở Pháp trên họ của người em chồng (cô ta có chồng là
người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi ba, câu cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng
đã viết trong đau đớn: " Nếu anh đã có gia đình cũng xin cho em biết để
em định liệu đời em và hai con - Thúy." Bức thư này Thúy nhờ hội Hồng
Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC 3750 dưới họ tên cấp bậc của chồng chớ
không với cái địa chỉ tại Pháp. Lá thư viết trên giấy bạc của một gói
thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ biển Bidong.
Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc dến nhận thêm một số người di dân gọi là
"Hốt Rác" ( tiếng lóng có nghĩa là ai -không -có - thân - nhân, hai chữ
hốt rác từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã giải thích nghe rất cảm
động:" Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không phải là rác rến!
). Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số người vượt
biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy mình
chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái
đoàn Úc gọi lên phỏng vấn.
Chỉ hôm sau là có người tới đón
số người nhập cư Úc. Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa
(nàng có đi coi bói ở Việt Nam, bà thầy bói nói Thúy có số may, chao
ôi!). Điều duy nhất lúc này nằm trong đầu Thúy là làm sao cho hai con
lên được một lục địa văn minh, vào một bệnh viện xin chữa bệnh thòng
ruột cho thằng con lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo hắt, tiều tụy,
trông thương quá là thương.
Nhưng cái thư viết trên tờ giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập
Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm
người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó và trời ơi...chỉ còn vài tiếng
đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc, loa phóng thanh vang dội
tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín khẩn! Thúy đâm đầu
chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín, mở ra đọc
liền: " Em vẫn là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con.
Anh sẽ làm thủ tục bảo lãnh gấp ".
Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ
phái đoàn Mỹ và Úc, may mắn gặp một người Mỹ biết nói tiếng Việt, người
đó chận Thúy lại, hỏi: "Bà cần gì? ". Thúy chìa tờ điện tín và nàng
nói, nói thật nhiều, bao nhiêu uẩn khúc trong lòng nàng tuôn ra hết,
không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có hiểu hay không... Không lâu
sau đó, ba mẹ con Thúy đoàn tụ với chồng, với gia đình chồng thì đúng
hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra là người em bà con bên chồng nàng không ở
Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn qua Mỹ trước khi thư nàng từ đảo tị
nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được phát hoàn, cũng đúng thôi vì
phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn. Đi về phía mặt trời mọc, nhiều
khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người tài công chiếc tàu vượt biển đã
nói: " Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi tới, tới đâu cũng được, càng xa
Việt Nam Xã Hội Chủ NGhĩa càng tốt ".
Chiếc tầu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi dòng nước và con sóng.
Từ năm 1979 đến nay, 2002, Thúy nhớ lại, giật mình, tưởng mình vừa tỉnh
một cơn mơ... Chuyến đi của Thúy có gian nan thật đó, nhưng cũng nhiều
may mắm là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến khác, cái may thật ít,
cái rủi thì nhiều. Mấy câu thơ của ai làm ra trong thời dân mình bỏ
nước, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng:" Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con!
" Ai cũng hiểu rằng nếu đến vùng đất tự do an lành thì con sẽ giử tiền
về để đền ơn công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ, nếu chẳng may gặp
phong ba bão táp giữa biển khơi thì xác con làm mồi cho cá.
Là nếu bất hạnh hơn cả cái chết là bị công
an biên phòng bắt được thì..."Má ơi! Con đang bị tù tội đây, má hãy
bán....bán máu để nuôi con!" Những cuộc hành trình trên biển Đông là một
niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng muốn quên đi để sống, hôm
nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như muôn vàn mũi kim châm vào
tim, và Thúy viết - một lần sau cuối rồi vĩnh viễn....và vĩnh viễn nàng
xếp vào kỷ niệm. ::: Lê Thị Hoàng Anh:::
PHẠM VŨ * CHUYỆN TÌNH THƠ MỘNG: LƯU TRỌNG LƯ & PHÙNG THỊ CÚC
PHẠM VŨ
CHUYỆN TÌNH THƠ MỘNG: LƯU TRỌNG LƯ & PHÙNG THỊ CÚC
Nhân dịp kỷ niệm 101 năm ngày sinh của Lưu Trọng Lư
Chúng ta tìm hiểu về Tiểu sử và Mối tình nên thơ của ông:
Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học.
Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn.
Chúng ta tìm hiểu về Tiểu sử và Mối tình nên thơ của ông:
Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học.
Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn.
Chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934. Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam.
Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Tiếng Thu (1939), Người Con Gái Sông Gianh (1966), Từ Đất Này (1971), Hồng Gấm. Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973).
Mặc dù Lưu là một trong những người cổ động cho Thơ Mới ồn ào nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêu. Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc.
Nhận xét của Hoài Thanh - Hoài Chân: "... thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta".
Chuyện tình thơ mộng giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư với nữ sinh Phùng Thị Cúc
Trong Thi nhân Việt Nam (của Hoài Thanh, Hoài Chân), Lưu Trọng Lư được đánh giá cao với những bài thơ nổi tiếng như: Nắng mới, Tiếng thu, Thơ sầu rụng, Một mùa đông, Giang hồ, Còn chi nữa, Thú đau thương, Chiều cổ… Bài thơ “Một Mùa Đông” kể lại một câu chuyện tình thơ mộng nhưng dang dở của thi sĩ với cô gái xinh đẹp Phùng Thị Cúc.
- Phùng Thị Cúc sinh ngày 18/8/1920 tại làng Châu Ê, xã Thủy Bằng, ven đô Huế, quê nội ở xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Bà là con ông Phùng Duy Cẩn từng làm quan triều Nguyễn, có thời làm tham công chỉ huy việc xây lăng Khải Định. Mồ côi mẹ từ lúc 3 tuổi, bà theo cha sống ở Tây Nguyên. 6 tuổi đã theo cha sống khắp các tỉnh vùng cao nguyên trung phần ròng rã 9 năm, rồi mới về Huế học Trường Đồng Khánh.
Năm 1946, bà tốt nghiệp nha khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội khóa đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Toàn quốc kháng chiến, bà ra vùng tự do phục vụ cho cách mạng. Vì một cơn bạo bệnh,
Phùng Thị Cúc được đưa sang Pháp
điều trị. Tại Pháp sau khi khỏi bệnh, Phùng Thị Cúc tiếp tục theo học và
tốt nghiệp bác sĩ nha khoa. Sau đó Phùng Thị Cúc đã kết hôn với bác sĩ
Bửu Điềm. Tên Điềm Phùng Thị ra đời từ đó. Mãi đến năm 30 tuổi, bà mới
đến với nghệ thuật điêu khắc. Vào năm 46 tuổi, bà có cuộc triển lãm đầu
tiên và được công chúng Pháp chào đón nồng hậu. 36 tác phẩm điêu khắc
của bà được đặt khắp lãnh thổ nước Pháp. Tên tuổi của Điềm Phùng Thị đã
nổi danh khắp châu Âu. Những năm cuối đời bà quay về sống ở quê hương và
đã mất ở Huế năm 2002.
Trở lại với thời điểm và nguyên cớ ra đời của bài thơ Một mùa đông.
Khi đó Cúc mới là một cô nữ sinh, từ Huế ra Hà Nội học Trường Thăng Long. Trên chuyến tàu tốc hành Huế – Hà Nội, cô được người chị là bạn của Lưu Trọng Lư gửi gắm nhà thơ trông nom giùm em gái, với lời dặn thân tình “Dọc đường giúp em một chút”.
Cúc là một cô gái Huế sang trọng, đài các, hoa khôi của Trường Đồng Khánh. Gương mặt kiều diễm với đôi mắt đẹp mang nét buồn vời vợi cùng nụ cười thiên thần có má lúm đồng tiền đã hút hồn nhà thơ đa tình của chúng ta ngay từ phút đầu gặp gỡ. Suốt chặng đường dài hai người cũng chẳng có chuyện gì nhiều để nói với nhau. Cúc im lặng ngắm cảnh dọc đường. Và nhà thơ thì lẳng lặng nhìn ngắm giai nhân.
Khi tàu về đến ga Hà Nội, nhìn thấy trên gương mặt người đẹp thoáng chút lo lắng, vì đây là lần đầu tiên cô tới Thủ đô, nhà thơ đã hỏi địa chỉ và tình nguyện đưa cô đến tận nơi. Thi sĩ đã thực hiện đúng lời bạn dặn dò và chắc hẳn đó cũng là “mệnh lệnh của trái tim” chàng.
Tìm đến đúng địa chỉ, Lưu Trọng Lư đưa Cúc lên tận căn gác nhỏ, nơi có căn phòng của những người bạn, người chị của cô đang ở. Chào hỏi, dặn dò rồi bịn rịn chia tay.
Khi vừa xuống gác, ra đến đường
thì tình cờ Lưu Trọng Lư gặp thi sĩ Phạm Hầu – người bạn nhỏ của nhà
thơ khi đó đang học Cao Đẳng Mỹ thuật ở Hà Nội. Phạm Hầu mời Lư vào nhà
chơi. Khi lên gác, bước vào một căn phòng, mở cửa sổ ra, nhà thơ giật
mình khi nhìn thấy người bạn đường xinh đẹp mà mình vừa chia tay ít phút
trước đây đang ở ngay bên khung cửa sổ của căn phòng đối diện.
Vậy là không một chút đắn đo, Lư quay sang nói ngay với bạn: “Mình ở
luôn đây với cậu được không?”. Phạm Hầu nhiệt tình vui vẻ đồng ý ngay.
Lưu Trọng Lư vui sướng ngây ngất. Nhà thơ chỉ còn biết cảm ơn trời đất
đã run rủi cho mình được gặp mối duyên may mắn kỳ lạ này. Suốt mùa đông
năm đó, giữa cái giá lạnh của tiết trời Hà Nội nhà thơ đã được sống
trong sự ấm áp dịu nhẹ của một mối tình sáng trong, thơ mộng.
Ở căn phòng bên này cô gái cũng không thể vô tình. Bởi ngay lần đầu tiên, khi nhà thơ nhìn qua cửa sổ đã bắt gặp đôi mắt Cúc mở to, sững sờ nhìn người anh “dẫn đường” rồi sau đó bối rối mỉm cười rời khỏi khung cửa. Sau này, thật lạ lùng mỗi khi nhà thơ bất thần mở cửa sổ lại nhìn thấy Cúc: khi thì đang ngồi đọc sách ôn bài, khi thì đang cắm một lọ hoa.
Cũng có khi Cúc chẳng làm gì, ngồi
suy tư mơ mộng. Cũng có khi nghe một tiếng ho nhẹ, nhà thơ mở hé cửa
nhìn sang lại bắt gặp nụ cười bối rối, e thẹn của người đẹp. Cũng có lần
khi mở cửa sổ, nàng không hề ngước lên nhìn, cho đến lúc cánh cửa như
tự nó khép lại. Lại có lần không biết vì chuyện gì, Cúc ném sang bên này
một cái nhìn hờn giận, trách móc khiến nhà thơ ngơ ngẩn suốt một buổi
chiều.
Bài thơ lấy cảm hứng từ mối tình Lưu Trọng Lư - Phùng Thị Cúc
Mọi việc dường như chẳng có gì khác lạ: Cửa sổ mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở. Thế nhưng sự trông đợi nhớ nhung đã thấm vào gan ruột từng ngày từng ngày một. Làm sao có thể nhớ hết được biết bao lần Cúc đã vào trong giấc mơ của thi sĩ đa tình, đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ Một mùa đông ra đời. Bài thơ gồm 4 đoạn kể lại một “love story” trong mộng ảo mà thấm đẫm những nỗi đau có thật.
Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói,
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi,
Qua rồi mùa ân ái:
Đàn sếu đã sang sông.
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa,
Nhìn nhau mà lệ ứa,
Một ngày một cách xa.
Đây là dải Ngân Hà,
Anh là chim Ô thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua.
Để mặc anh đau khổ,
Ái ân giờ tận số,
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng!
Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói,
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi,
Qua rồi mùa ân ái:
Đàn sếu đã sang sông.
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa,
Nhìn nhau mà lệ ứa,
Một ngày một cách xa.
Đây là dải Ngân Hà,
Anh là chim Ô thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua.
Để mặc anh đau khổ,
Ái ân giờ tận số,
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng!
Nhà thơ đã lí giải thật tài tình tâm trạng và nỗi lòng của mình. Có lẽ đây là đoạn thơ có những câu thơ ấn tượng hơn cả:
…Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân?
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân?
Cho tình tràn trước ngõ?
Cho mộng tràn gối chăn?
Thật thú vị khi được biết rằng trong bài thơ lãng mạn này lại chứa đựng những câu chuyện hoàn toàn có thực. Nhà thơ Lưu Trọng Lư kể rằng, sau một thời gian sống cạnh nhau, tình cảm của hai người cũng có “bước phát triển” mới. Theo sự sắp đặt của những người bạn, có lần hai người đã đi chơi chùa Thầy cùng với một nhóm bạn.
Sau một hồi leo núi, nhìn chung quanh chẳng thấy ai, chàng và nàng
ngượng ngập đi bên nhau. Đến trưa cả nhóm mới trở lại sân chùa cùng ăn
trưa. Bữa trưa có gà quay và rượu vang Pháp. Bắt chước mọi người, Cúc
cũng uống vài li rượu nho. Đôi má ửng hồng và cặp môi nhuốm màu nho
chín, rơi trên trán vài lọn tóc đen nhánh…
Tất cả đã tạo thành một hình tượng nghệ thuật có sức ám ảnh lớn:
… Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.
Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau,
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.
Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Để lòng buồn, buồn mãi không thôi.
… Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.
Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau,
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.
Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Để lòng buồn, buồn mãi không thôi.
Câu chuyện tình thơ mộng đã không dẫn đến một kết thúc có hậu. Họ mãi mãi là một đôi tình thân giữa một nghìn trùng xa cách. Đến năm 1975 họ mới có dịp gặp lại nhau. Cúc từ Pari về Hà Nội. Người em gái bé bỏng ngây thơ hôm nào đã là bà Điềm Phùng Thị – một điêu khắc gia nổi tiếng thế giới.
Hôm đó Hội Nhà văn mở tiệc mừng các trí thức, nghệ sĩ ở nước ngoài về,
trong đó có Điềm Phùng Thị và họa sĩ Mai Trung Thứ là người đã say mê vẽ
bức chân dung Tôn Nữ Lệ Minh (vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư) năm 17 tuổi. Nhà
văn Nguyễn Tuân đã dắt tay Điềm Phùng Thị đến chỗ vợ chồng nhà thơ Lưu
Trọng Lư đang ngồi và nói: “Đối mặt nhau rồi, ngâm lại bài thơ ngày xưa
đi.” Tên tuổi của nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị được lưu danh trong từ
điển Larousse, đó là một niềm tự hào đáng kể. Nhưng cũng là một niềm
vinh hạnh lớn khi bà trở thành nhân vật chính trong một bài thơ nổi
tiếng của thi sĩ Lưu Trọng Lư
Người em sầu mộng
(Nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc bài thơ “Một Mùa Đông” và lấy tên bài hát là “Người em sầu mộng” )
Em là gái bên khung cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn năm trong nhung lụa
ĐK:
Em chỉ là em gái thôi
Người em sầu mộng muôn đời Tình như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau buồn
Ai bảo em ngồi bên song
Cho vương vấn nợ thi nhân
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ đêm dâng tràn
Cho tình giăng đầy trước ngõ
Cho mộng tràn gối chăn.
TÓM TẮT
Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào Thơ Mới. Những bài thơ mang âm hưởng trữ tình lãng mạn, thanh thoát, giàu nhạc điệu của ông, được công chúng đương thời nồng nhiệt chào đón, đã góp phần đem lại sự chiến thắng cho Thơ Mới trong buổi ban đầu.
Người em sầu mộng
(Nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc bài thơ “Một Mùa Đông” và lấy tên bài hát là “Người em sầu mộng” )
Em là gái bên khung cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn năm trong nhung lụa
ĐK:
Em chỉ là em gái thôi
Người em sầu mộng muôn đời Tình như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau buồn
Ai bảo em ngồi bên song
Cho vương vấn nợ thi nhân
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ đêm dâng tràn
Cho tình giăng đầy trước ngõ
Cho mộng tràn gối chăn.
TÓM TẮT
Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào Thơ Mới. Những bài thơ mang âm hưởng trữ tình lãng mạn, thanh thoát, giàu nhạc điệu của ông, được công chúng đương thời nồng nhiệt chào đón, đã góp phần đem lại sự chiến thắng cho Thơ Mới trong buổi ban đầu.
Phùng Thị Cúc tức là Điềm Phùng Thị - là nhà điêu khắc nổi tiếng trên thế giới, được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Bà được đưa vào danh sách những tài năng lớn của nghệ thuật thế kỷ XX trong từ điển Larousse.
Mối tình giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư và cô nữ sinh Phùng thị Cúc thật là một mối tình nên thơ, trữ tình nhất và cũng xứng tầm “trai tài, gái vừa sắc lẫn tài” – dù có ngang trái, chính sự ngang trái này khiến cho cả hai tình nhân nhớ mãi không thôi, vì
“Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở…” (Hồ Dzếnh)
___________________________________
(Tham khảo: Tài liệu về Lưu Trọng Lư và Điềm Phùng Thị trên sách báo)
© Tác giả giữ bản quyền.
No comments:
Post a Comment