TGP * THẰNG KHÙNG
THẰNG KHÙNG
(Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)
Thứ hai, 15 Tháng 5 2017 10:57 TGP Hà Nội / Chuyện tù cải tạo
Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đun bếp, thì cửa liếp xịch mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi, cổ nghẹn tắc:
– Trời… Tuân!
Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Nguyễn Tuân. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:
– Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…
Tuân cười buồn:
– Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?
– Ừ…, cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…
Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:
– Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.
Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.
– Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. – Tuân nói – Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.
– Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào – tôi hỏi.
– Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã viết được hai chương đầu như cậu biết. Thực tế mười năm đã chỉ cho mình thấy nội dung cuốn tiểu thuyết của mình quá hiền lành, quá nông cạn. Theo mình, nếu không có mười năm lưu đày ở Sibir, tài năng của Dostoievsky không đạt đến độ viên mãn như vậy. Mình tin, nếu viết lại, cuốn tiểu thuyết của mình sẽ hay hơn, sâu sắc hơn rất nhiều. Nó sẽ là Kỷ niệm ngôi nhà những người chết của mình. Hai nữa, nhờ mười năm qua mình đã tự học được tiếng Nga. Bây giờ mình có thể đọc được Dostoievsky từ nguyên bản. Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả : trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn. Mình chỉ đơn cử với cậu một người…
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính. Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta.
Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc. Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài. Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc. Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau.
Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong Tội ác và trừng phạt.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
– Tôi thích nhất là Candide.
– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
– Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
(Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)
Thứ hai, 15 Tháng 5 2017 10:57 TGP Hà Nội / Chuyện tù cải tạo
Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đun bếp, thì cửa liếp xịch mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi, cổ nghẹn tắc:
– Trời… Tuân!
Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Nguyễn Tuân. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:
– Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…
Tuân cười buồn:
– Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?
– Ừ…, cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…
Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:
– Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.
Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.
– Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. – Tuân nói – Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.
– Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào – tôi hỏi.
– Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã viết được hai chương đầu như cậu biết. Thực tế mười năm đã chỉ cho mình thấy nội dung cuốn tiểu thuyết của mình quá hiền lành, quá nông cạn. Theo mình, nếu không có mười năm lưu đày ở Sibir, tài năng của Dostoievsky không đạt đến độ viên mãn như vậy. Mình tin, nếu viết lại, cuốn tiểu thuyết của mình sẽ hay hơn, sâu sắc hơn rất nhiều. Nó sẽ là Kỷ niệm ngôi nhà những người chết của mình. Hai nữa, nhờ mười năm qua mình đã tự học được tiếng Nga. Bây giờ mình có thể đọc được Dostoievsky từ nguyên bản. Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả : trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn. Mình chỉ đơn cử với cậu một người…
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính. Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta.
Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc. Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài. Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc. Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau.
Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong Tội ác và trừng phạt.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
– Tôi thích nhất là Candide.
– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
– Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn
như thường ngày. Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại
viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán ghi theo lời kể của Nguyễn Tuân**
* Thằng khùng trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh (1912-1971) của Nhà thờ lớn Hà Nội.)
** Nguyễn Tuân có bút hiệu là Tuân Nguyễn. Anh vẫn muốn giữ tên mình làm bút hiệu nhưng vì đã có nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả “Vang Bóng Một Thời” nên anh đành đổi ngược là Tuân Nguyễn.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912 – 1971)
Cha chính Hà Nội.
Tấm gương can trường
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán ghi theo lời kể của Nguyễn Tuân**
* Thằng khùng trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh (1912-1971) của Nhà thờ lớn Hà Nội.)
** Nguyễn Tuân có bút hiệu là Tuân Nguyễn. Anh vẫn muốn giữ tên mình làm bút hiệu nhưng vì đã có nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả “Vang Bóng Một Thời” nên anh đành đổi ngược là Tuân Nguyễn.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912 – 1971)
Cha chính Hà Nội.
Tấm gương can trường
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật
bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ
đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người
Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội.
Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa-Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: Bonjour Madame! Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize – Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu. Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?”. Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội. Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu ‘Ở Dưới Vực Sâu’ nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác ‘Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít’. Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: ‘Mở Đường Phúc Thật’, ‘Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi’, ‘Ôi GiaVi’, ‘Lạy Mừng Thánh Tử Đạo’. Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài ‘Bước Tới Đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn.
Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công. Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa-Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: Bonjour Madame! Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize – Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu. Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?”. Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội. Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu ‘Ở Dưới Vực Sâu’ nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác ‘Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít’. Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: ‘Mở Đường Phúc Thật’, ‘Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi’, ‘Ôi GiaVi’, ‘Lạy Mừng Thánh Tử Đạo’. Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài ‘Bước Tới Đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn.
Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công. Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn.
Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong
khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối,
cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng
trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng. Cha Căn gọi Cha
Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo
những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài
leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm
tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn: “Tự do thế này
à!” Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí
không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo. Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?” Ngài đáp: “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”.
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là ‘bố’.
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử. Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”.
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo. Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?” Ngài đáp: “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”.
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là ‘bố’.
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử. Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”.
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội
HỒNG NHUNG * THỦY TÁNG
THỦY TÁNG
HỒNG NHUNG
Chiếc nắp hầm được mở toang, ánh sáng cùng gió biển mát rượi lùa vào chiếc hầm ghe đánh cá, xua đuổi bầu không khí ngột ngạt làm số người nằm xếp lớp như cá mòi dưới khoang ghe cảm thấy dễ chịu. Một cái đầu thò xuống cất tiếng:
- Tới hải phận quốc tế rồi nghe bà con! Những tiếng reo vui, thở phào
nhẹ nhõm đồng loạt phát ra từ bẩy chục cái miệng, phá tan bầu không khí
nặng nề bao trùm trong hầm từ tối hôm qua. Mọi người như vừa được hồi
sinh sau lời báo tin ấy. Những nụ cười tươi chợt nở trên môi từng khuôn
mặt mệt mỏi phờ phạc vì say sóng. Có người làm dấu thánh giá, có người
niệm phật.
Niềm hy vọng trên từng ánh mắt. Một chặng khởi đầu của một cuộc hành trình định mệnh đã vượt qua một cách dễ dàng. Đám thuyền nhân, đa số tỉnh táo. Họ đang ngồi nói chuyện với nhau về tương lai. Bà Lời, chủ tiệm cầm đồ ở chợ Vườn Chuối, len đến ngồi cạnh bà Thiện tâm sự: - Chị biết không, nếu muốn mần ăn lớn thì nghe người ta nói phải qua bên Mỹ mới được.
Nếu trời phù hộ tui qua đó bình an, tui sẽ ăn chay ba tháng rồi mở tiệm cầm đồ lấy lời chừng năm phân thôi. Bà Thiện chưa kịp góp lời thì bà Lời đã nói tiếp: - Chị biết không, ở bển nghe đâu người ta cho vay lời tới mười mấy, hai chục phân lận. Mình cho vay lấy ít thôi còn để lại phước cho con cháu. Phải không chị? Bà Thiện gật đầu, thật ra lòng bà vẫn còn nơm nớp lo lắng khi chiếc ghe còn lênh đênh nơi biển cả.
Nhưng khi nghe bà Lời phác họa một tương lai, bà cũng cảm thấy nguôi ngoai nỗi lo. Bà chạnh nghĩ đến mười mấy cây vàng đã gởi cho ông em rể hiện còn kẹt lại quê nhà giữ giùm mà đâm ra tiếc. Nếu biết trước là ra khỏi nước một cách quá dễ dàng như thế này thì cần chi phải lo xa chuyện bị bắt sẽ phải nhờ ông em đút lót vàng cho công an để chuộc tự do cho gia đình bà.
Bên kia, ông Thiện cũng đang quay sang nói chuyện với một người đàn ông đứng tuổi, dáng dấp bệ vệ, gương mặt có vẻ trí thức. Hai người nói chuyện có vẻ say sưa lắm. Người đàn ông khoa tay, rồi nói với một giọng quyết liệt: - Ra ngoại quốc, mình phải làm một cái gì cho đất nước. Đúng vậy, phải làm một cái gì để cứu sáu mươi triệu đồng bào đang lầm than đói khổ từng ngày. Nhất định mình phải làm một cái gì, phải thực hiện một cái gì, phải ráo riết xây dựng một cái gì.
Anh biết không, ước vọng của tôi sau khi thoát ra khỏi tầm tay của Việt Cộng, tôi phải tổ chức một cái gì ra trò, để đập vào mặt chúng nó. Ông Thiện cất tiếng hỏi: - Nói như vậy, chắc anh cũng đã có một kế hoạch để hoạt động khi ra ngoại quốc phải không? Người đàn ông giơ ngón tay, chỉ vào đầu mình: - Tôi có cả trăm kế hoạch chứa trong này, nhưng sẽ tùy cơ ứng biến. Tôi sẽ đi chu du khắp thế giới để vận động một cuộc tranh đấu cho lý tưởng tự do. Đúng thế, phải biểu dương một cái gì...
Ông ta ngưng lại một lúc như để lời phát biểu của mình ngấm vào tâm can người nghe, rồi hỏi ông Thiện: - Còn anh dự tính gì khi ra ngoại quốc không? - Tôi muốn tiếp tục làm nghề sinh nhai cũ của tôi, đó là nghề thầu khoán. Người đàn ông trợn mắt, lắc đầu: - Không được đâu, ra ngoại quốc muốn hành nghề gì cũng phải có bằng cấp đấy anh ơi!
Rất tiếc anh không phải là quân nhân hay công chức quan trọng của chính quyền cũ nên không thuộc thành phần ưu tiên nâng đỡ của Mỹ. - Vậy anh thuộc thành phần nào? Người đàn ông tạo một nụ cười có vẻ bí mật: - Nói nhỏ anh nghe, tôi là nhân viên tình báo CIA của Mỹ đấy! Mai mốt nếu anh cần làm một cái gì, tôi sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Bà vợ ông ta nằm mệt lả bên cạnh, trở mình ngồi dậy càu nhàu: - Làm cái gì! Hở ra là làm cái gì, cái gì!
Muốn làm cái gì thì bây giờ ông đi lấy giùm tôi miếng nước uống coi. Người đàn ông liếc bà vợ, rồi vội vã đứng dậy, đi xin nước cho bà. Ở cuối khoang, một đám con gái đang nói chuyện về thời trang và son phấn ở ngoại quốc. Các bà thì đang tụm lại về đề tài gia chánh và vòng vàng, chuỗi hột. Không khí trong chiếc khoang chật hẹp trở nên vui như ngày hội. Họ chuyện trò thân mật. Niềm tin và hy vọng hiện lên trên nét mặt mọi người. Đêm hôm đó, mọi người đang ngủ ngon, chợt thức giấc vì chiếc ghe lắc quá mạnh.
Tiếng sóng đập vào lườn nghe ình ình như tiếng trống. Nữ, cô gái con ông Thiện ngồi bật dậy, quay sang phía mẹ, nói: - Hình như có bão má à! Bà Thiện cũng lật đật ngồi nhỏm lên: - Làm gì có chuyện đó con. Như để trả lời bà Thiện, một cơn gió mạnh hất tung chiếc nắp hầm qua một bên rồi mưa tạt xuống khoang nghe xối xả. Mọi người nghe nhốn nháo.
Tiếng sét nổ xé trời làm lũ trẻ con khóc ré lên. Hai đứa em của Nữ cũng ôm chặt lấy bà Thiện mếu máo làm ông Thiện cũng mất bình tĩnh. Ông qua sang bên ông bạn CIA hỏi: - Tại sao có bão mùa này vậy anh? Ông CIA lắc đầu, tay bám chặt lấy mấy thanh gỗ bên sườn ghe cho khỏi bị té: - Tôi đâu có rành về cái vụ đi biển. Có thể là một cơn bão bất ngờ. Bà vợ ông ta ôm chặt lấy thân chồng: - Mình phải làm sao bây giờ hả ông?
Người đàn ông lắc đầu: - Tôi cũng như bà, ngồi chịu chết trong ghe chứ biết làm cái gì bây giờ! Chỗ gia đình Nữ ngồi ngay dưới nắp hầm nên lãnh trọn số nước mưa tạt vào. Gió mạnh rít lên từng hồi. Nữ vội nhoi đầu lên khỏi miệng hầm, đưa tay cố kéo chiếc nắp đậy lại, nhưng sức gió mạnh quá, đè chiếc nắp hầm dính sát sàn ghe.
Chớp loé lên sáng rực cả bầu trời tối đen như mực. Mưa ướt sũng cả đầu tóc, mình mẩy nàng. Những hạt nước cứ thi nhau tạt vào mặt nàng đau rát. Bà Thiện thấy con gái đang lúng túng, vội quát chồng: - Trời ơi! Ông không đứng lên phụ nó một tay mà còn ngồi ngó chi không biết nữa! Ông Thiện chợt lấy lại tinh thần.
Ông đứng lên toan đến bên Nữ để phụ nàng thì ghe lắc mạnh làm ông mất thăng bằng tè nhào xuống, đau điếng. Ông CIA bên cạnh ông Thiện cũng muốn đứng dậy để phụ cô gái, nhưng bà vợ vẫn nắm cứng lấy chân ông chồng nên không xoay sở được. Nữ cố bặm môi, cố sức dở chiếc nắp hầm, may lúc ấy, Vũ, người con trai của ông Tư tài công, cũng đã lòn xuống từ phòng lái, tới phụ nàng đậy chiếc nắp hầm rồi cài then lại. Vũ nói lớn: - Bão lớn quá! Nữ lo ngại hỏi: - Liệu ghe mình chịu nổi không hả anh? - Không biết nữa.
Nhưng chắc là không sao đâu. Chiếc ghe lại lắc lư mạnh, nghiêng bên này, ngả bên kia kêu răng rắc làm đám hành khách thi nhau ói mửa. Thỉnh thoảng nó bị nhấc lên cao rồi lại rơi nhanh xuống khiến mọi người thót bụng. Mưa bão gào thét điên cuồng. Sấm sét nổ như xé trời. Từng khối nước biển thi nhau phóng lên không trung, rơi quật xuống chiếc ghe bé nhỏ. Đoàn người vượt biển trong khoang bị nhồi nhừ tử, đè cả lên nhau.
Nhiều người bị lả đi vì bị ói quá nhiều. Tiếng mưa bão ngoài trời pha lẫn tiếng khóc của trẻ con, tiếng la hét của người yếu bóng vía, tiếng cầu kinh, niệm Phật, tiếng khóc, tiếng quát tháo của mấy người đàn ông trấn an vợ, náo loạn cả lên. Tất cả trong khoang ghe trở nên hỗn độn, kinh hoàng. Trên phòng lái, trời tối đen như mực, những ánh chớp nổ vang trời như muốn xé tan màn đêm. Từng đợt sóng cao dâng lên rồi đổ xuống chiếc ghe với một sức mạnh kinh hồn, làm như muốn đập tan nó ra thành từng mảnh vụn.
Ông Tư tài công cột chặt thân người vào chiếc bục gỗ ngồi. Ông cố ghìm vững tay lái cho ghe lướt dọc theo triền sóng. Những cơn sóng cả và lôc đã làm chiếc ghe quay mòng mòng, ngụm lặn như muốn chìm. Vợ ông Tư tài công lo lắng cho chồng nên mò lên phòng lái. Bà ôm chặt lấy cây cột chống. Ông Tư tài công quát tháo, đuổi vợ xuống khoang, nhưng bà Tư vẫn đứng ì tại chỗ. Đã mấy lần bà suýt bị sóng cuốn đi.
Dù không làm được gì trong phòng lái, nhưng bà cần có mặt bên chồng để chia xẻ nỗi nguy hiểm và yểm trợ tinh thần người lèo lái con thuyền. Một tiếng sấm nổ vang trời, tiếp theo là một cột nước khổng lồ dâng lên cao ập xuống phòng lái, nhổ phăng đi chiếc cột chỗ bà Tư tài công đang nắm. Người đàn bà kêu thất thanh, rồi ngã nhào, bị khối nước kéo tượt ra khỏi phòng lái. Những ngón tay của người đàn bà cố bấu mạnh xuống sàn ghe để níu lại nhưng cũng không cưỡng lại nổi sức nước cuốn.
Ông Tư vội buông tay lái, nhào ra chụp lấy cánh tay vợ, thân người bà Tư đã bị tụt xuống dưới bên hông ghe, đong đưa. Chiếc ghe không người lái quay tròn, nghiêng ngả như muốn lật úp trong tiếng gầm thét của phong ba. Ông Tư một tay nắm lấy tay vợ, một tay níu lấy cái bệ cửa, cố ghì lại, nhưng một ngọn sóng khác kế tiếp quật lên sàn ghe, kéo người đàn bà tuột khỏi tay chồng. Ông Tư hét thất thanh: - Trời ơi! Vợ tôi! Nhưng tiếng sóng bão đã át đi tiếng thét thảm não của ông Tư tài công. Vũ chạy lên phòng lái. Kịp thấy cha mình sắp lọt xuống biển, chàng vội nằm rạp xuống, gắng sức kéo ông vào phòng lái.
Ông Tư gào lên: - Vũ, má mày bị nước cuốn đi rồi! Vũ nghe nói hoảng hồn, nằm rạp xuống sàn, cố trườn tới lườn ghe nhìn xuống nước để tìm mẹ, nhưng dưới ánh chớp, bóng bà Tư mất dạng trong sóng biển. Tim Vũ se thắt lại. Chàng gào to: - Má ơi! Má ơi! Chiếc ghe bị sóng đẩy nghiêng hẳn về một bên như muốn lật khiến Vũ phải vội vàng bò lại phòng lái, điều khiển cho chiếc ghe nương theo sóng. Ông Tư tài công khuỵu xuống, ôm chặt lấy thành cửa ghe, lặng người đi. Ông chỉ muốn buông tay ra để chìm theo vợ. Mưa bão vẫn gào thét điên cuồng.
Sấm sét nổ như muốn phá tan bầu trời đen kịt. Từng khối nước biển dâng cao vẫn tiếp tục thi nhau quật mạnh xuống chiếc ghe bé nhỏ, dưới khoang ghe, bà Quốc ôm chặt lấy chồng. Cái bào thai sáu tháng trong bụng hành hạ bà dữ dội. Bà cảm thấy bụng đau nhói lên như có ai cầm dao nhọn đâm vào. Bà quằn quại đau đớn, thét lên.
Ông Quốc quýnh quáng quay sang ông bác sĩ quân y Tường nằm bên cạnh toan cầu cứu, nhưng ông bác sĩ duy nhất trong ghe cũng đang ôm bụng gập người xuống, mửa tháo ra. Tình cảnh trong ghe thật là bi đát, hỗn loạn. Chợt chiếc ghe bị hất tung lên cao rồi rơi mạnh xuống như trời giáng. Lườn ghe lại kêu rắc rắc, rồi phía hông bên trái bị một kẽ nứt, nước rỉ vào khiến mọi người hốt hoảng,ré lên: - Ghe nứt rồi! Nước tràn vô bà con ơi!
Đám người mất tinh thần vội dồn sang một bên để tránh chỗ nước rỉ. Tiếng kêu khóc lại vang lên dữ dội. Một thanh niên bò tới chân thang hét vọng lên phòng lái báo động. Vũ phải giao tay lái cho ông Tư tài công, chạy xuống, tay cầm một bịch dầu trét ghe. Vũ hét to: - Đừng có dồn hết sang một bên, coi chừng ghe lật đó!
Mặc chàng nói, chẳng ai thèm để ý. Vũ tới bên lườn ghe, móc dầu trét vào kẽ nứt. Mấy người đàn ông nữa tới nữa trét phụ với Vũ. Kẽ nứt ngưng rỉ nước. Đám người bấy giờ mới chia đều ra hai bên. Người nào cũng ráng bấu lấy những thanh gỗ nơi lườn ghe để khỏi bị xô vào nhau. Trên phòng lái, ông Tư cố nén đau thương đang cố gắng điều khiển chiếc ghe lướt trên triền sóng. Từng đợt sóng cả nhô cao rồi đổ xuống đập mạnh vào lườn ghe nghe ầm ầm làm thân ghe chuyển mình kêu răng rắc.
Vũ cố gắng bò trên sàn ghe ra chỗ để thăm chừng những chiếc can nhựa hai mươi lít, chứa nước ngọt, nhưng xui xẻo, sợi giây thừng cột chúng lại với nhau bị đứt từ lúc nào, những can nước mất hết, chỉ còn xót lại ba can, nằm chênh vênh trên sàn ghe đang chờ sức sóng hất chúng xuống biển. Vũ hốt hoảng chụp lấy ba can nhựa đựng nước ngọt kéo vào trong, rồi chuyển chúng xuống miệng hầm cho đám thanh niên ở dưới khoang chất vào một góc. Dù sao thì trên biển cả, nước ngọt là mạng sống của con người.
Nước mưa tạt xuống khoang làm những người bị ướt la ré lên, dồn tránh qua một bên, Vũ đậy nắp hầm lại. Một khối nước khổng lồ quật xuống thân Vũ khiến lồng ngực chàng tức như búa bổ. Vũ níu lấy đám lưới trên sàn ghe bò dần về phòng lái. Chàng thấy ông Tư tài công một tay đang ôm mặt, một tay lái ghe. Vũ hốt hoảng hỏi: - Ba bị sao thế? - Đầu tao bị đập trúng cái tay lái, hơi ê ẩm, nhưng không sao cả. - Liệu cơn bão này có kéo dài không hả ba? - Không biết nữa Trong ánh chớp, Vũ thoáng thấy trán ông Tư tài công rỉ máu. Chàng vội nói: - Ba xuống dưới kiếm cái gì mà băng đầu đi, để con cầm lái cho. Cơn bão vẫn nhồi chiếc ghe đáng thương cho đến khi mọi người đều nằm rạp vì say sóng, và họ thiếp đi trong mệt mỏi, rã rời...
Cơn thịnh nộ của đại dương dịu dần cho đến tờ mờ sáng thì dứt hẳn. Bầu trời quang đãng. Trong ánh sáng của hừng đông, mặt biển lại phẳng lặng, hiền hòa như chẳng có chuyện gì đã xảy ra trong đêm qua. Nắng ban mai rực rỡ, chan hòa trên vùng nước màu xanh thẫm.
Nữ lần lên trên sàn ghe để cho thoáng khí. Tiếng máy ghe đã im bặt từ lúc nào, chỉ còn tiếng sóng rì rào. Ông Tư tài công, ông Thiện và mấy người đàn ông nữa đang lui cui nơi phía sau đuôi ghe. Một người đàn ông hỏi: - Bánh lái bị trục trặc có sửa được không hả chú Tư? - Chưa biết rõ, còn coi cái đã. Mấy gương mặt chăm chú nhìn xuống vùng nước xanh. Nơi bánh lái, một cái đầu chợt trồi lên khỏi mặt nước.
Mọi người nhận ra là Vũ. Ông Thiện nóng ruột hỏi: - Bị sao vậy? Vũ đạp cho người nổi lên, rồi đưa tay vuốt nước trên mặt: - Bánh lái gãy mất tiêu rồi! Câu trả lời như tiếng sét đánh ngang đầu mọi người. Ông Tư tài công hỏi vọng xuống: - Mày có coi kỹ chưa? Vũ bơi sát lại hông ghe rồi leo lên: - Coi kỹ rồi, vô phương! Nữ cảm thấy tim mình se thắt lại. Một người đàn ông lên tiếng hỏi với giọng lo sợ: - Còn cách nào cứu vãn không ông Tư? Ông Tư tài công lặng yên không nói. Nhìn nét mặt nghiêm trọng của ông tài công, người ta đoán được câu trả lời. Ông CIA nói lớn: - Bây giờ chúng ta phải làm một cái gì đi chứ?
Ông Thiện quay qua hỏi ông ta: - Vậy chứ ông muốn làm cái gì bây giờ? Ông CIA giơ tay phác họa vào không khí: - Chẳng hạn như làm một cái bánh lái khác! - Lấy gỗ, sắt, cưa, bào đục đâu mà làm? Ông CIA nhún vai: - Cái đó là lỗi của các ông tổ chức không dự phòng trường họp này có thể xảy ra để mà đem theo một cái bánh lái sơ cua. Ông Tư khoát tay: - Bây giờ không phải là lúc chúng ta tranh luận nữa. Trận bão vừa qua đã làm gãy cái bánh lái, sóng biển còn cuốn hết cả nước uống và mấy thùng đồ ăn của chúng ta rồi.
Chỉ còn ba can đựng nước duy nhất may mắn sót lại đang để dưới khoang. Tất cả chúng ta sẽ phải sống cầm hơi bằng ba can nước đó cho tới khi được tầu buôn cứu. Tôi đề nghị tất cả ưu tiên cho con nít và đàn bà. Mọi người nghe nói đều lo sợ. Cảnh biển thật đẹp, vậy mà lòng họ đang héo hon, u ám như bầu trời có giông bão. Nữ hỏi Vũ: - Tôi cảm thấy lo quá. Anh có nghĩ là tình trạng ghe mình trở nên nguy ngập không?
Vũ thở dài: - Người ta có thể nhịn đói vài ngày không sao, nhưng thiếu nước chừng vài giờ thôi thì mọi người trên ghe đều xỉu cả. Câu trả lời tuyệt vọng của Vũ khiến nữ thật buồn. Nàng đưa mắt nhìn đại dương bao la, không bờ bến. Màu xanh thẫm của biển sao lạnh lẽo quá. Hình bóng tử thần như lảng vảng quang đây. Không ngờ chuyến đi tìm một sinh lộ cho đoàn người lại là con đường chết. Sóng vỗ nhè nhẹ vào lườn ghe trong tiếng gió biển vi vu, âm thanh buồn thảm.
Nữ quay sang hỏi Vũ: - Tại sao mình không đốt khói lên để làm hiệu kêu cứ những chiếc tầu đi qua đây? Vũ trầm ngâm một chút rồi trả lời: - Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng chỉ sợ lỡ mấy thằng hải tặc Thái Lan nó kéo tới đây thì mình lại chết sớm nữa. Cứ thủng thẳng rồi tính. Nữ im lặng ngao ngán. Lại thêm một mối lo sợ nữa mà nàng quên, không nghĩ tới. Trên chiếc ghe này, phần lớn là đàn bà, con gái, chắc chắn họ sẽ là mồi ngon cho bọn hải tặc vô lương tâm. Ông Tư tài công bỏ ra mũi ghe đứng im lặng, nhìn xuống mặt nước, nét mặt buồn rười rượi.
Cũng khung trời xanh, cũng nắng đẹp, cũng sóng biển hiền hòa này, ngày hôm qua ông và vợ con còn ngồi trong phòng lái bàn chuyện tương lai. Vợ ông mơ ước nếu gia đình ông được đến bất cứ một quốc gia nào thì ông nên tiếp tục làm nghề đánh cá như ngày xưa. Bà sẽ cố gắng cuốc xới một mảnh vườn nho nhỏ đằng sau nhà để trồng thêm những loại hoa mầu và nuôi vài con gà để lũ con và ông có thức ăn tươi. Bây giờ, người đàn bà hiền lành, chất phác đó đã nằm yên dưới lòng biển lạnh. Ông Tư tài công nấc lên, hai giọt lệ lăn dài trên đôi má nhăn nheo.
Vũ đến bên ông lên tiếng an ủi: - Thôi ba cũng đừng buồn nữa. Trong hoàn cảnh khốn khổ này ai đi trước thì người đó yên phận. Những kẻ còn lại như chúng mình, nếu không có tầu vớt thì cũng chết dần mòn vì đói khát mà thôi. Ông Tư vẫn lặng im, đôi mắt rưng rưng nhìn biển khơi. Vũ thở dài. Chợt có tiếng la khóc dưới khoang rồi tiếng người ồn áo vọng lên làm Vũ hốt hoảng. Chàng nói với ông Tư: - Để con xuống dưới xem chuyện gì vậy.
Nói xong Vũ tuột xuống mấy nấc thang. Chàng thấy một đám người bu quanh lấy bà Quốc. Người đàn bà mặt xám ngắt, nằm nghẻo đầu sang một bên. Ông Quốc nắm tay vợ khóc sướt mướt. Hai đứa nhỏ cũng gào thét bên mẹ. Bên cạnh, bác sĩ Tường buông cổ tay bắt mạch cho bà Quốc rồi lắc đầu: - Tim bà ấy ngừng đập rồi! Ông Quốc mếu máo, nhìn bác sĩ Tường với ánh mắt van lơn: - Bác sĩ làm ơn làm phước ráng cứu vợ tôi. Bác sĩ Tường thở dài: - Trong hoàn cảnh không có dụng cụ, không thuốc men, một chứng bệnh bình thường tôi cũng đành bó tay, huống chi bà ấy đang có thai, bị sóng biển hành đuối sức.
Một bà lên tiếng hỏi: - Bác sĩ coi kỹ lại đi. Có thể bà ta chỉ ngất xỉu một lúc thôi? Bác sĩ Tường im lặng. Trong hoàn cảnh này ông cũng chẳng biết phải trả lời làm sao. Một linh mục mặc áo dòng đen, vẹt mọi người ra hai bên rồi chen vào ngồi bên xác người đàn bà xem xét. Đó là cha Tự.
Ông Quốc nắm bàn tay lạnh giá của vợ, nhìn cha Tự sụt sùi nói: - Xin cha làm phép xác cho nhà con! Cha Tự quỳ gối làm dấu thánh giá rồi cất giọng đọc mấy câu kinh. Những người đi đạo cũng lên tiếng đọc kinh theo cha. Mọi người trong khoang đều cúi đầu mặc niệm. Buổi chiều hôm ấy, khi những tia nắng cuối cùng của mặt trời còn le lói phía chân trời Tây.
Mọi người lên trên sàn ghe dự đám thủy táng bà Quốc. Thi thể người đàn bà được đặt nằm ngay ngắn trên sàn, không quan tài, không vải liệm. Chiếc ghe tắt máy, bềnh bồng trôi. Giọng cầu kinh trầm buồn của mọi người vang lên. Xong bài kinh, cha Tự ngước mắt lên trời, cất giọng buồn thảm: - Lạy Chúa! Xin Chúa hãy đón nhận linh hồn của bà Quốc và đứa hài nhi chưa chào đời, và yên nghỉ nơi nước trời. Người chết đã yên phận, nhưng còn đám thuyền nhân khốn khổ chúng con đây, đang tiếp tục một cuộc hành trình không bờ bến, đầy gian khổ. Xin Chúa hãy đưa chúng con thoát khỏi hiểm nguy mà bình yên đến được bến bờ tự do. A men! Lời cầu nguyện trầm buồn của cha Tự khiến nhiều người rơi nước mắt. Cái xác bà Quốc được mấy người đàn ông khiêng lên, đi tới sườn ghe.
Ông Quốc và hai đứa con khóc oà lên. Một tiếng "ùm" khô khan. Thân thể người đàn bà bất hạnh nổi dật dờ một lúc như gởi lời vĩnh biệt, rồi chìm sâu dưới làn nước xanh biếc. Nét mặt buồn thảm hiện trên gương mặt của mọi người. Bác sĩ Tường nói vài lời an ủi ông Quốc. Mấy người đàn bà dỗ dành hai đứa trẻ cho chúng nín khóc.
Sau đó mọi người lại lục đục kéo nhau xuống khoang ghe với tâm trạng buồn nản. Hai ngày nữa trôi qua trong lo âu thấp thỏm. Đám thuyền nhân trên ghe bắt đầu nếm mùi cực khổ. Ba can nước trên ghe đã được hạn chế sử dụng đến mức tối đa, chỉ được dùng để nấu cháo vì họ không thể ăn gạo sống được, và ưu tiên cho những đứa bé. Người lớn phải cố chịu đựng và chỉ được thấm môi khi quá khát.
Người ta cầu mong có được một trận bão như hôm nào để có nước uống, nhưng quái ác thay trời cứ nóng như thiêu như đốt. Ban ngày mặt trời chói chang hừng hực lửa. Ban đêm những cơn gió hầm hập mang luồng không khí nực nội thổi luồn xuống khoang khiến da thịt mọi người như bị sấy khô đi. Ai nấy đều mang một giấc mơ ước được gặp chiếc tầu buôn nào đó đi ngang vùng biển này, cứu vớt họ. Bốn ngày nữa lại nặng nề trôi qua. Mưa vẫn không đổ xuống, và ca nước cuối cùng cũng vừa hết, khoang ghe bao trùm bầu không khí nặng nề khó thở.
Người ta nằm bẹp trong khoang ghe mệt mỏi, những cặp mắt lo sợ nhìn nhau. Dường như bóng dáng Tử Thần đang lảng vảng quanh đây. Hưng Sâm, ông thương gia vùng chợ lớn, lả người gối đầu lên chiếc túi da đựng hai trăm cây vàng, và một túi nữ trang, tài sản của vợ chồng ông mang theo trong chuyến vượt biển này. Ông nuốt nước bọt.
Chiếc lưỡi khô queo, đắng ngắt của ông không còn một chút nước. Trí óc ông lúc mê, lúc tỉnh. Ông đang tưởng tượng những ly nước đá lạnh trong vắt mà hằng ngày ông vẫn hắt đổ đi sau khi uống thừa. Bây giờ nếu có được, ông sẵn lòng đổi hai trăm cây vàng này để lấy một ly nước lạnh đó cho gia đình ông. Đời thật trớ trêu. Trong cuộc sống thường nhật, ông đâu có ngờ có ngày ông lại lâm vào tình trạng đói khát trong lúc ông đang nắm trong tay bao nhiêu tiền bạc như hôm nay đâu.
Hối hận chợt dâng lên trong lòng ông, nếu biết như thế này thì ông không dàm bước chân xuống ghe để mạo hiểm. Màn đêm lại buông xuống. Đại dương lại bao trùm một màn đen ghê rợn. Những đứa trẻ con bắt đầu khóc đòi uống nước. Một đứa bé chừng một tuổi khóc ré lên trong lòng mẹ vì nó khát. Người đàn bà cố nhét vú của mình vào miệng con, nhưng vú chị không còn sữa. Đứa bé nhả vú mẹ ra, khóc lặng người đi. Người đàn bà ràn rụa nước mắt vỗ về con. Tiếng khóc của đứa bé yếu dần, chìm trong những tiếng khóc của những đứa trẻ lớn hơn. Đám cha mẹ của chúng ôm lấy con nghẹn ngào. Rồi những đứa trẻ lại lả người đi. Đêm dài lại nặng nề trôi qua.
Chiếc ghe lâm nạn bồng bềnh trôi. Dưới khoang ghe, cơn đói khát đã bắt đầu hành hạ mọi người. Không còn ai đủ sức ngồi dậy vì mệt lả. Một thanh niên leo lên miệng hầm, lảo đảo đi tới lườn ghe. Vũ ngồi trên sàn ghe, thấy thế vội chạy ra la lớn: - Anh kia làm gì vậy?
Thanh niên quay lại, mặt thất thần: - Tôi khát nước quá, muốn lấy nước biển uống. Vũ trợn mắt: - Bộ anh điên hả? Nước biển mặn chát, làm sao mà uống? - Tôi phải uống chứ không còn chịu nổi nữa rồi. Gã thanh niên nói xong lao mình xuống nước. Vũ nhào tới toan giữ tay anh ta nhưng không còn kịp nữa. Gã thanh niên chới với trong nước.
Vũ vội vàng chạy đến đống lưới lấy một sợi dây thừng, quay lại hông ghe để tiếp cứu, nhưng thân hình gã thanh niên biến mất trên mặt biển. Vũ buồn bã đưa mắt nhìn xuống những đợt sóng biển nhấp nhô đập vào mạn ghe. Mắt anh rưng rưng khi nhớ đến mẹ mình. Chợt vũ đưa mắt nhìn ra khơi. Xa thật xa, có bóng dáng của hai chiếc ống khói tầu nhô lên khỏi mặt nước, với đám khói đang bay lên cao. Vũ mừng rỡ, chạy vào trong phòng lái lấy cái ống nhòm của lính, nhìn về phía hai chấm đen đang nhả những sợi khói mỏng.
Ông Tư tài công đang nằm trên chiếc phản gỗ nơi phòng lái, vội ngồi nhỏm dậy hỏi dồn: - Có chuyện gì đấy Vũ? Vũ quan sát thật kỹ, rồi nói: - Có một chiềc tầu buôn mang cờ Pháp, nhưng nó ở quá xa. Ông Tư tài công mừng rỡ nói: - Vậy mình cầu cứu nó đi. Vũ trả chiếc ống nhòm cho ông Tư tài công rồi nói nhanh: - Để con đốt lửa làm hiệu. Vũ cởi phăng chiếc áo thun đang mặc tới chỗ phuy dầu chạy máy được hàn dính trên sàn ghe, mở nắp nhúng chiếc áo thung vào.
Một người thanh niên vừa dưới khoang chui lên, cũng cởi chiếc áo mình ra đưa cho Vũ. Hai chiếc áo được bỏ trong chiếc thau nhôm méo mó, đốt lên, nhưng ngọn lửa quá yếu, và bị gió thổi bạt nên khói không bốc nổi lên cao. Gã thanh niên chạy lại nắp hầm khom người nói vọng xuống: - Mình gặp tàu lớn rồi bà con ơi. Tôi cần thêm một ít quần áo để đốt lửa cầu cứu họ tới vớt mình. Đám người nằm trong khoang nghe có tầu vớt như được uống thuốc hồi sinh. Họ ngồi nhổm cả dậy.
Đám đàn ông vội cởi hết những cái áo đang mặc đưa cho gã thanh niên. Vài người còn sức lực vội leo lên khỏi miệng hầm để xem. Ngọn lửa nhờ có thêm quần áo bùng cháy cao hơn. Khói bay lên trời cuồn cuộn. Vũ hỏi ông Tư tài công: - Nó tới gần mình chút nào chưa? Ông Tư tài công nhìn xong, đưa ống nhòm cho Vũ lắc đầu buồn bã: - Nó quẹo mũi chạy hướng khác rồi. Vũ dán mắt vào chiếc ống nhòm. Tim chàng bỗng nhói lên khi thấy hai chiếc ống khói tầu mỗi lúc một nhỏ dần rồi khuất dưới mặt biển.
Chàng thở dài nói với cha: - Nếu mình nhìn thấy họ thì chắc chắn họ cũng phải nhìn thấy mình đốt khói chớ. Như vậy có thể là họ bỏ rơi mình rồi. Đám đàn ông trên sàn ghe đang cố tẩm thêm dầu vào những chiếc áo đốt tiếp tục với hy vọng được các tầu khác cứu. Ngọn lửa cháy với ngọn khói đen lại bị gió thổi tạt nằm rạp xuống. Thêm một vài chiếc đầu nữa với gương mặt phờ phạc ló lên khỏi miệng hầm: - Tầu vớt đâu? Tầu vớt đâu? Đám người đốt lửa không buồn trả lời. Niềm thất vọng hiện rõ trong ánh mắt họ khi bóng dáng chiếc tầu đã biến mất nơi chân trời xa.
Ông Tư tài công, Vũ và đám đàn ông, mặt buồn xo nhìn ngọn lửa bập bùng trên sàn ghe, tàn dần niềm hy vọng mong manh của họ vừa bừng lên đã lịm tắt đi. Đám đàn ông đứng ngó mông lung ngoài mặt biển một lúc, rồi lại chui xuống khoang với nỗi thất vọng. Chợt Vũ nghe có tiếng người la hoảng bên dưới khoang vọng lên: - Trời ơi! sao miệng đứa bé toàn máu không vậy nè? Vũ tụt xuống khoang.
Một đám người bu quanh chị đàn bà có đứa con một tuổi, đứa bé nhỏ nhất trong ghe. Chị ta đang cho con bú. Thằng bé mút lấy mút để vú mẹ. Một dòng máu đỏ tràn qua mép đứa bé. Người đàn bà dựa thành khoang ghe, ôm con, đôi mắt nhắm nghiền, khuôn mặt lợt lạt. Bà Thiện vội lay mạnh chị đàn bà: - Nè chị! Tỉnh dậy mà coi con chị nó sao rồi.
Chị đàn bà không mở mắt. Bà Thiện vội vàng kéo đứa bé ra khỏi lòng mẹ. Mũi và miệng đứa bé ngoe ngoe máu. Mọi người trợn to mắt kinh hãi khi thấy đầu vú người đàn bà có một vết cắn sâu vào thịt. Một cô gái sợ hãi quá la lên: - Trời ơi! Bà cắn vú cho con uống máu mình nè trời!
Bác sĩ Tường vạch đám đông, chen tới, đặt người đàn bà ngay ngắn, rồi làm động tác hô hấp để cứu tỉnh người đàn bà. Máu ở đầu vú chị ta vẫn ứa ra. Người đàn bà khẽ mở đôi tròng mắt lạc thần nhìn những khuôn mặt lờ mờ đang vây quanh chị. Bác Sĩ Tường cúi mặt hỏi chị: - Tại sao chị làm chuyện dại dột vậy? Chị đàn bà thều thào: - Con...tôi nó khát....Tôi...muốn nó còn sống...Để gặp tầu vớt.
Chị đàn bà nói xong nhắm nghiền đôi mắt lại. Bàn tay chị lạnh giá từ từ. Dòng máu đỏ trên núm vú chị đã ngưng chảy. Bác sĩ Tường bắt mạch cho nạn nhân rồi lắc đầu thở dài: - Tim chị ấy ngừng đập rồi! Có tiếng khóc đâu đây của vài cô gái. Cha Tự cũng có mặt.
Cha vội quỳ xuống, làm dấu thánh giá đọc kinh cầu nguyện cho người qua đời. Bà Thiện bế đứa nhỏ, ngơ ngác hỏi chồng: - Sinh mạng những người trên ghe này đành phó thác cho Trời. Bây giờ mẹ đứa bé đã chết thì trong ghe chúng mình đành phải trông coi nó, chứ biết tính sao bây giờ Thằng bé con thấy người lạ bu quanh mình, nó khóc òa lên rồi bò tới bên xác mẹ. Bà Thiện phải kéo đứa bé ra, lau gương mặt dính ngoe ngoét máu của nó.
Vài người đàn ông khiêng xác người mẹ xấu số ra hông ghe. Thêm một thây người nữa được trả về lòng biển. Đám thủy táng chỉ có Vũ, cha Tự, Bác sĩ Tường, ông Quốc và vài người đàn ông còn sức tham dự. Tất cả những người còn lại không đủ sức leo lên miệng hầm nữa. Hết nước, không thể nấu cơm, những nắm gạo sống được phân phát cho mọi người nhấm nháp cầm hơi, nhưng người ta cũng nuốt không nổi khi miệng ai nấy đều khô queo vì không còn nước.
Chiều xuống thật mau. Không gian chuyển sang một mầu tối ám. Mặt trời đỏ ối như máu, tròn to như cái mâm, chìm một nửa xuống lòng biển xám. Những giải ánh sáng vàng cam, tím sẫm và xanh biếc còn bịn rịn, le lói ở cuối trời như muốn gởi lời chào từ biệt đám người bất hạnh. Chiếc ghe vẫn bập bềnh nhấp nhô như chiếc lá khô trôi giữa dòng sông. Biển sao lặng lẽ quá. Từng đợt sóng con vỗ nhẹ vào lườn gỗ róc rách. Trời nóng như một cái lò lửa. Những cơn gió oi ả vẫn lùa xuống khoang, hâm nóng mọi người.
Ai nấy đều vã mồ hôi và khát xé cả họng. Vài đứa bé con đã ngất xỉu đi trên tay mẹ chúng. Lại thêm những tiếng khóc thảm thiết của mấy người đàn bà. Màn đêm buông xuống bao phủ mặt biển bao la. Vài đứa trẻ con co giật thân người, chờ chết bên những cái thân rũ liệt của cha mẹ chúng. Đứa bé mất mẹ lại khóc thét lên vì đói khát, Bà Thiện cố nhai miếng gạo sống để mớm cho thằng bé, nhưng miệng bà cũng chẳng còn tí nước bọt nào. Đêm hôm đó đứa bé lả đi, nằm bất động bên cạnh thân xác rã rời của bà Thiện. Mọi người đã quá đuối sức.
Chẳng ai trong ghe còn sức lực và tỉnh táo để quan tâm tới đứa bé còn sống hay đã chết. Lác đác trong khoang ghe, những người già không còn sức chịu đựng cũng đang nằm bẹp trên sàn thoi thóp. Nếu không có những lồng ngực còn nhấp nhô thở nhẹ thì người ta tưởng như trong ghe toàn là xác chết, và chiếc ghe trở thành một quan tài nổi đang bồng bềnh trên biển. Trên sàn ghe, ông Tư tài công đã kiệt sức, nằm lả người trên chiếc phản trong phòng lái.
Vũ cố gượng ngồi trên đám lưới canh chừng mặt biển. Dù sao, còn là thanh niên, Vũ vẫn còn sức chịu đựng hơn là mọi người trên ghe. Chàng đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn lên bầu trời đen thẫm với hàng triệu vì tinh tú. Ánh sao sáng lấp lánh khi mờ khi tỏ. Chàng không hiểu ngôi sao bản mệnh của chàng và những người khốn khổ trên ghe này nằm ở góc trời nào.
Chúng còn sáng hay lu mờ sắp tắt. Đầu óc Vũ như nặng trĩu bởi cơn buồn ngủ dữ dội đang kéo tới. Mắt chàng mờ dần đi và cứ phải chớp liên hồi mới có thể nhìn được cảnh vật. Vũ biết rằng bộ óc chàng thiếu nước. Có chịu đựng giỏi lắm cho tới bình minh ló rạng là chàng sẽ gục chết ở đây. Vũ đưa lưỡi liếm bờ môi khô, nứt nẻ của chàng.
Lưỡi chàng cũng không đủ ướt để làm mềm bờ môi. Cơn gió nóng hầm hập của biển thổi qua khiến Vũ cảm thấy như muốn ngộp thở. Tiếng lao xao của sóng biển đêm như tiếng thì thào than khóc của hàng vạn oan hồn thuyền nhân cũng chỉ vì muốn xa lánh Cộng Sản để tìm một sinh lộ cho gia đình, cho đàn con nhỏ của họ sống trong no ấm và có tương lai mà họ đã ra đi tìm tự do để rồi phải chết chìm vì bão tố hay chết lần mòn giữa biển khơi vì cạn hết lương thực nước uống như chiếc ghe này. Vũ không hiểu thế giới bên kia như thế nào? Thế giới bên kia có những đau khổ, bất hạnh, chiến tranh, chết chóc, và hận thù như thế giới của những người đang sống này hay không?
Tự nhiên Vũ cảm thấy tinh thần mình than thản lạ thường, một sự bình tĩnh để đón nhận giờ phút cuối cuộc đời. Thôi, nếu không tìm thấy được một mảnh đất tự do để có một hạnh phúc nhỏ nhoi, thì chết nơi lòng biển, Chúa, Phật cũng sẽ dẫn dắt linh hồn đám thuyền nhân bất hạnh này tới vùng đất thiên đàng của các ngài, thế cũng được an ủi lắm rồi. Chiếc ghe bất hạnh vẫn nổi bồng bềnh trong màn đêm dầy đặc. Gió rít từng hồi. Mặt đại dương đen sẫm như tương lai của biết bao thuyền nhân trong những chuyến hải hành khốn khổ, đi tìm tự do trong lòng biển đêm đầy giông tố, hãi hùng.
Niềm hy vọng trên từng ánh mắt. Một chặng khởi đầu của một cuộc hành trình định mệnh đã vượt qua một cách dễ dàng. Đám thuyền nhân, đa số tỉnh táo. Họ đang ngồi nói chuyện với nhau về tương lai. Bà Lời, chủ tiệm cầm đồ ở chợ Vườn Chuối, len đến ngồi cạnh bà Thiện tâm sự: - Chị biết không, nếu muốn mần ăn lớn thì nghe người ta nói phải qua bên Mỹ mới được.
Nếu trời phù hộ tui qua đó bình an, tui sẽ ăn chay ba tháng rồi mở tiệm cầm đồ lấy lời chừng năm phân thôi. Bà Thiện chưa kịp góp lời thì bà Lời đã nói tiếp: - Chị biết không, ở bển nghe đâu người ta cho vay lời tới mười mấy, hai chục phân lận. Mình cho vay lấy ít thôi còn để lại phước cho con cháu. Phải không chị? Bà Thiện gật đầu, thật ra lòng bà vẫn còn nơm nớp lo lắng khi chiếc ghe còn lênh đênh nơi biển cả.
Nhưng khi nghe bà Lời phác họa một tương lai, bà cũng cảm thấy nguôi ngoai nỗi lo. Bà chạnh nghĩ đến mười mấy cây vàng đã gởi cho ông em rể hiện còn kẹt lại quê nhà giữ giùm mà đâm ra tiếc. Nếu biết trước là ra khỏi nước một cách quá dễ dàng như thế này thì cần chi phải lo xa chuyện bị bắt sẽ phải nhờ ông em đút lót vàng cho công an để chuộc tự do cho gia đình bà.
Bên kia, ông Thiện cũng đang quay sang nói chuyện với một người đàn ông đứng tuổi, dáng dấp bệ vệ, gương mặt có vẻ trí thức. Hai người nói chuyện có vẻ say sưa lắm. Người đàn ông khoa tay, rồi nói với một giọng quyết liệt: - Ra ngoại quốc, mình phải làm một cái gì cho đất nước. Đúng vậy, phải làm một cái gì để cứu sáu mươi triệu đồng bào đang lầm than đói khổ từng ngày. Nhất định mình phải làm một cái gì, phải thực hiện một cái gì, phải ráo riết xây dựng một cái gì.
Anh biết không, ước vọng của tôi sau khi thoát ra khỏi tầm tay của Việt Cộng, tôi phải tổ chức một cái gì ra trò, để đập vào mặt chúng nó. Ông Thiện cất tiếng hỏi: - Nói như vậy, chắc anh cũng đã có một kế hoạch để hoạt động khi ra ngoại quốc phải không? Người đàn ông giơ ngón tay, chỉ vào đầu mình: - Tôi có cả trăm kế hoạch chứa trong này, nhưng sẽ tùy cơ ứng biến. Tôi sẽ đi chu du khắp thế giới để vận động một cuộc tranh đấu cho lý tưởng tự do. Đúng thế, phải biểu dương một cái gì...
Ông ta ngưng lại một lúc như để lời phát biểu của mình ngấm vào tâm can người nghe, rồi hỏi ông Thiện: - Còn anh dự tính gì khi ra ngoại quốc không? - Tôi muốn tiếp tục làm nghề sinh nhai cũ của tôi, đó là nghề thầu khoán. Người đàn ông trợn mắt, lắc đầu: - Không được đâu, ra ngoại quốc muốn hành nghề gì cũng phải có bằng cấp đấy anh ơi!
Rất tiếc anh không phải là quân nhân hay công chức quan trọng của chính quyền cũ nên không thuộc thành phần ưu tiên nâng đỡ của Mỹ. - Vậy anh thuộc thành phần nào? Người đàn ông tạo một nụ cười có vẻ bí mật: - Nói nhỏ anh nghe, tôi là nhân viên tình báo CIA của Mỹ đấy! Mai mốt nếu anh cần làm một cái gì, tôi sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Bà vợ ông ta nằm mệt lả bên cạnh, trở mình ngồi dậy càu nhàu: - Làm cái gì! Hở ra là làm cái gì, cái gì!
Muốn làm cái gì thì bây giờ ông đi lấy giùm tôi miếng nước uống coi. Người đàn ông liếc bà vợ, rồi vội vã đứng dậy, đi xin nước cho bà. Ở cuối khoang, một đám con gái đang nói chuyện về thời trang và son phấn ở ngoại quốc. Các bà thì đang tụm lại về đề tài gia chánh và vòng vàng, chuỗi hột. Không khí trong chiếc khoang chật hẹp trở nên vui như ngày hội. Họ chuyện trò thân mật. Niềm tin và hy vọng hiện lên trên nét mặt mọi người. Đêm hôm đó, mọi người đang ngủ ngon, chợt thức giấc vì chiếc ghe lắc quá mạnh.
Tiếng sóng đập vào lườn nghe ình ình như tiếng trống. Nữ, cô gái con ông Thiện ngồi bật dậy, quay sang phía mẹ, nói: - Hình như có bão má à! Bà Thiện cũng lật đật ngồi nhỏm lên: - Làm gì có chuyện đó con. Như để trả lời bà Thiện, một cơn gió mạnh hất tung chiếc nắp hầm qua một bên rồi mưa tạt xuống khoang nghe xối xả. Mọi người nghe nhốn nháo.
Tiếng sét nổ xé trời làm lũ trẻ con khóc ré lên. Hai đứa em của Nữ cũng ôm chặt lấy bà Thiện mếu máo làm ông Thiện cũng mất bình tĩnh. Ông qua sang bên ông bạn CIA hỏi: - Tại sao có bão mùa này vậy anh? Ông CIA lắc đầu, tay bám chặt lấy mấy thanh gỗ bên sườn ghe cho khỏi bị té: - Tôi đâu có rành về cái vụ đi biển. Có thể là một cơn bão bất ngờ. Bà vợ ông ta ôm chặt lấy thân chồng: - Mình phải làm sao bây giờ hả ông?
Người đàn ông lắc đầu: - Tôi cũng như bà, ngồi chịu chết trong ghe chứ biết làm cái gì bây giờ! Chỗ gia đình Nữ ngồi ngay dưới nắp hầm nên lãnh trọn số nước mưa tạt vào. Gió mạnh rít lên từng hồi. Nữ vội nhoi đầu lên khỏi miệng hầm, đưa tay cố kéo chiếc nắp đậy lại, nhưng sức gió mạnh quá, đè chiếc nắp hầm dính sát sàn ghe.
Chớp loé lên sáng rực cả bầu trời tối đen như mực. Mưa ướt sũng cả đầu tóc, mình mẩy nàng. Những hạt nước cứ thi nhau tạt vào mặt nàng đau rát. Bà Thiện thấy con gái đang lúng túng, vội quát chồng: - Trời ơi! Ông không đứng lên phụ nó một tay mà còn ngồi ngó chi không biết nữa! Ông Thiện chợt lấy lại tinh thần.
Ông đứng lên toan đến bên Nữ để phụ nàng thì ghe lắc mạnh làm ông mất thăng bằng tè nhào xuống, đau điếng. Ông CIA bên cạnh ông Thiện cũng muốn đứng dậy để phụ cô gái, nhưng bà vợ vẫn nắm cứng lấy chân ông chồng nên không xoay sở được. Nữ cố bặm môi, cố sức dở chiếc nắp hầm, may lúc ấy, Vũ, người con trai của ông Tư tài công, cũng đã lòn xuống từ phòng lái, tới phụ nàng đậy chiếc nắp hầm rồi cài then lại. Vũ nói lớn: - Bão lớn quá! Nữ lo ngại hỏi: - Liệu ghe mình chịu nổi không hả anh? - Không biết nữa.
Nhưng chắc là không sao đâu. Chiếc ghe lại lắc lư mạnh, nghiêng bên này, ngả bên kia kêu răng rắc làm đám hành khách thi nhau ói mửa. Thỉnh thoảng nó bị nhấc lên cao rồi lại rơi nhanh xuống khiến mọi người thót bụng. Mưa bão gào thét điên cuồng. Sấm sét nổ như xé trời. Từng khối nước biển thi nhau phóng lên không trung, rơi quật xuống chiếc ghe bé nhỏ. Đoàn người vượt biển trong khoang bị nhồi nhừ tử, đè cả lên nhau.
Nhiều người bị lả đi vì bị ói quá nhiều. Tiếng mưa bão ngoài trời pha lẫn tiếng khóc của trẻ con, tiếng la hét của người yếu bóng vía, tiếng cầu kinh, niệm Phật, tiếng khóc, tiếng quát tháo của mấy người đàn ông trấn an vợ, náo loạn cả lên. Tất cả trong khoang ghe trở nên hỗn độn, kinh hoàng. Trên phòng lái, trời tối đen như mực, những ánh chớp nổ vang trời như muốn xé tan màn đêm. Từng đợt sóng cao dâng lên rồi đổ xuống chiếc ghe với một sức mạnh kinh hồn, làm như muốn đập tan nó ra thành từng mảnh vụn.
Ông Tư tài công cột chặt thân người vào chiếc bục gỗ ngồi. Ông cố ghìm vững tay lái cho ghe lướt dọc theo triền sóng. Những cơn sóng cả và lôc đã làm chiếc ghe quay mòng mòng, ngụm lặn như muốn chìm. Vợ ông Tư tài công lo lắng cho chồng nên mò lên phòng lái. Bà ôm chặt lấy cây cột chống. Ông Tư tài công quát tháo, đuổi vợ xuống khoang, nhưng bà Tư vẫn đứng ì tại chỗ. Đã mấy lần bà suýt bị sóng cuốn đi.
Dù không làm được gì trong phòng lái, nhưng bà cần có mặt bên chồng để chia xẻ nỗi nguy hiểm và yểm trợ tinh thần người lèo lái con thuyền. Một tiếng sấm nổ vang trời, tiếp theo là một cột nước khổng lồ dâng lên cao ập xuống phòng lái, nhổ phăng đi chiếc cột chỗ bà Tư tài công đang nắm. Người đàn bà kêu thất thanh, rồi ngã nhào, bị khối nước kéo tượt ra khỏi phòng lái. Những ngón tay của người đàn bà cố bấu mạnh xuống sàn ghe để níu lại nhưng cũng không cưỡng lại nổi sức nước cuốn.
Ông Tư vội buông tay lái, nhào ra chụp lấy cánh tay vợ, thân người bà Tư đã bị tụt xuống dưới bên hông ghe, đong đưa. Chiếc ghe không người lái quay tròn, nghiêng ngả như muốn lật úp trong tiếng gầm thét của phong ba. Ông Tư một tay nắm lấy tay vợ, một tay níu lấy cái bệ cửa, cố ghì lại, nhưng một ngọn sóng khác kế tiếp quật lên sàn ghe, kéo người đàn bà tuột khỏi tay chồng. Ông Tư hét thất thanh: - Trời ơi! Vợ tôi! Nhưng tiếng sóng bão đã át đi tiếng thét thảm não của ông Tư tài công. Vũ chạy lên phòng lái. Kịp thấy cha mình sắp lọt xuống biển, chàng vội nằm rạp xuống, gắng sức kéo ông vào phòng lái.
Ông Tư gào lên: - Vũ, má mày bị nước cuốn đi rồi! Vũ nghe nói hoảng hồn, nằm rạp xuống sàn, cố trườn tới lườn ghe nhìn xuống nước để tìm mẹ, nhưng dưới ánh chớp, bóng bà Tư mất dạng trong sóng biển. Tim Vũ se thắt lại. Chàng gào to: - Má ơi! Má ơi! Chiếc ghe bị sóng đẩy nghiêng hẳn về một bên như muốn lật khiến Vũ phải vội vàng bò lại phòng lái, điều khiển cho chiếc ghe nương theo sóng. Ông Tư tài công khuỵu xuống, ôm chặt lấy thành cửa ghe, lặng người đi. Ông chỉ muốn buông tay ra để chìm theo vợ. Mưa bão vẫn gào thét điên cuồng.
Sấm sét nổ như muốn phá tan bầu trời đen kịt. Từng khối nước biển dâng cao vẫn tiếp tục thi nhau quật mạnh xuống chiếc ghe bé nhỏ, dưới khoang ghe, bà Quốc ôm chặt lấy chồng. Cái bào thai sáu tháng trong bụng hành hạ bà dữ dội. Bà cảm thấy bụng đau nhói lên như có ai cầm dao nhọn đâm vào. Bà quằn quại đau đớn, thét lên.
Ông Quốc quýnh quáng quay sang ông bác sĩ quân y Tường nằm bên cạnh toan cầu cứu, nhưng ông bác sĩ duy nhất trong ghe cũng đang ôm bụng gập người xuống, mửa tháo ra. Tình cảnh trong ghe thật là bi đát, hỗn loạn. Chợt chiếc ghe bị hất tung lên cao rồi rơi mạnh xuống như trời giáng. Lườn ghe lại kêu rắc rắc, rồi phía hông bên trái bị một kẽ nứt, nước rỉ vào khiến mọi người hốt hoảng,ré lên: - Ghe nứt rồi! Nước tràn vô bà con ơi!
Đám người mất tinh thần vội dồn sang một bên để tránh chỗ nước rỉ. Tiếng kêu khóc lại vang lên dữ dội. Một thanh niên bò tới chân thang hét vọng lên phòng lái báo động. Vũ phải giao tay lái cho ông Tư tài công, chạy xuống, tay cầm một bịch dầu trét ghe. Vũ hét to: - Đừng có dồn hết sang một bên, coi chừng ghe lật đó!
Mặc chàng nói, chẳng ai thèm để ý. Vũ tới bên lườn ghe, móc dầu trét vào kẽ nứt. Mấy người đàn ông nữa tới nữa trét phụ với Vũ. Kẽ nứt ngưng rỉ nước. Đám người bấy giờ mới chia đều ra hai bên. Người nào cũng ráng bấu lấy những thanh gỗ nơi lườn ghe để khỏi bị xô vào nhau. Trên phòng lái, ông Tư cố nén đau thương đang cố gắng điều khiển chiếc ghe lướt trên triền sóng. Từng đợt sóng cả nhô cao rồi đổ xuống đập mạnh vào lườn ghe nghe ầm ầm làm thân ghe chuyển mình kêu răng rắc.
Vũ cố gắng bò trên sàn ghe ra chỗ để thăm chừng những chiếc can nhựa hai mươi lít, chứa nước ngọt, nhưng xui xẻo, sợi giây thừng cột chúng lại với nhau bị đứt từ lúc nào, những can nước mất hết, chỉ còn xót lại ba can, nằm chênh vênh trên sàn ghe đang chờ sức sóng hất chúng xuống biển. Vũ hốt hoảng chụp lấy ba can nhựa đựng nước ngọt kéo vào trong, rồi chuyển chúng xuống miệng hầm cho đám thanh niên ở dưới khoang chất vào một góc. Dù sao thì trên biển cả, nước ngọt là mạng sống của con người.
Nước mưa tạt xuống khoang làm những người bị ướt la ré lên, dồn tránh qua một bên, Vũ đậy nắp hầm lại. Một khối nước khổng lồ quật xuống thân Vũ khiến lồng ngực chàng tức như búa bổ. Vũ níu lấy đám lưới trên sàn ghe bò dần về phòng lái. Chàng thấy ông Tư tài công một tay đang ôm mặt, một tay lái ghe. Vũ hốt hoảng hỏi: - Ba bị sao thế? - Đầu tao bị đập trúng cái tay lái, hơi ê ẩm, nhưng không sao cả. - Liệu cơn bão này có kéo dài không hả ba? - Không biết nữa Trong ánh chớp, Vũ thoáng thấy trán ông Tư tài công rỉ máu. Chàng vội nói: - Ba xuống dưới kiếm cái gì mà băng đầu đi, để con cầm lái cho. Cơn bão vẫn nhồi chiếc ghe đáng thương cho đến khi mọi người đều nằm rạp vì say sóng, và họ thiếp đi trong mệt mỏi, rã rời...
Cơn thịnh nộ của đại dương dịu dần cho đến tờ mờ sáng thì dứt hẳn. Bầu trời quang đãng. Trong ánh sáng của hừng đông, mặt biển lại phẳng lặng, hiền hòa như chẳng có chuyện gì đã xảy ra trong đêm qua. Nắng ban mai rực rỡ, chan hòa trên vùng nước màu xanh thẫm.
Nữ lần lên trên sàn ghe để cho thoáng khí. Tiếng máy ghe đã im bặt từ lúc nào, chỉ còn tiếng sóng rì rào. Ông Tư tài công, ông Thiện và mấy người đàn ông nữa đang lui cui nơi phía sau đuôi ghe. Một người đàn ông hỏi: - Bánh lái bị trục trặc có sửa được không hả chú Tư? - Chưa biết rõ, còn coi cái đã. Mấy gương mặt chăm chú nhìn xuống vùng nước xanh. Nơi bánh lái, một cái đầu chợt trồi lên khỏi mặt nước.
Mọi người nhận ra là Vũ. Ông Thiện nóng ruột hỏi: - Bị sao vậy? Vũ đạp cho người nổi lên, rồi đưa tay vuốt nước trên mặt: - Bánh lái gãy mất tiêu rồi! Câu trả lời như tiếng sét đánh ngang đầu mọi người. Ông Tư tài công hỏi vọng xuống: - Mày có coi kỹ chưa? Vũ bơi sát lại hông ghe rồi leo lên: - Coi kỹ rồi, vô phương! Nữ cảm thấy tim mình se thắt lại. Một người đàn ông lên tiếng hỏi với giọng lo sợ: - Còn cách nào cứu vãn không ông Tư? Ông Tư tài công lặng yên không nói. Nhìn nét mặt nghiêm trọng của ông tài công, người ta đoán được câu trả lời. Ông CIA nói lớn: - Bây giờ chúng ta phải làm một cái gì đi chứ?
Ông Thiện quay qua hỏi ông ta: - Vậy chứ ông muốn làm cái gì bây giờ? Ông CIA giơ tay phác họa vào không khí: - Chẳng hạn như làm một cái bánh lái khác! - Lấy gỗ, sắt, cưa, bào đục đâu mà làm? Ông CIA nhún vai: - Cái đó là lỗi của các ông tổ chức không dự phòng trường họp này có thể xảy ra để mà đem theo một cái bánh lái sơ cua. Ông Tư khoát tay: - Bây giờ không phải là lúc chúng ta tranh luận nữa. Trận bão vừa qua đã làm gãy cái bánh lái, sóng biển còn cuốn hết cả nước uống và mấy thùng đồ ăn của chúng ta rồi.
Chỉ còn ba can đựng nước duy nhất may mắn sót lại đang để dưới khoang. Tất cả chúng ta sẽ phải sống cầm hơi bằng ba can nước đó cho tới khi được tầu buôn cứu. Tôi đề nghị tất cả ưu tiên cho con nít và đàn bà. Mọi người nghe nói đều lo sợ. Cảnh biển thật đẹp, vậy mà lòng họ đang héo hon, u ám như bầu trời có giông bão. Nữ hỏi Vũ: - Tôi cảm thấy lo quá. Anh có nghĩ là tình trạng ghe mình trở nên nguy ngập không?
Vũ thở dài: - Người ta có thể nhịn đói vài ngày không sao, nhưng thiếu nước chừng vài giờ thôi thì mọi người trên ghe đều xỉu cả. Câu trả lời tuyệt vọng của Vũ khiến nữ thật buồn. Nàng đưa mắt nhìn đại dương bao la, không bờ bến. Màu xanh thẫm của biển sao lạnh lẽo quá. Hình bóng tử thần như lảng vảng quang đây. Không ngờ chuyến đi tìm một sinh lộ cho đoàn người lại là con đường chết. Sóng vỗ nhè nhẹ vào lườn ghe trong tiếng gió biển vi vu, âm thanh buồn thảm.
Nữ quay sang hỏi Vũ: - Tại sao mình không đốt khói lên để làm hiệu kêu cứ những chiếc tầu đi qua đây? Vũ trầm ngâm một chút rồi trả lời: - Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng chỉ sợ lỡ mấy thằng hải tặc Thái Lan nó kéo tới đây thì mình lại chết sớm nữa. Cứ thủng thẳng rồi tính. Nữ im lặng ngao ngán. Lại thêm một mối lo sợ nữa mà nàng quên, không nghĩ tới. Trên chiếc ghe này, phần lớn là đàn bà, con gái, chắc chắn họ sẽ là mồi ngon cho bọn hải tặc vô lương tâm. Ông Tư tài công bỏ ra mũi ghe đứng im lặng, nhìn xuống mặt nước, nét mặt buồn rười rượi.
Cũng khung trời xanh, cũng nắng đẹp, cũng sóng biển hiền hòa này, ngày hôm qua ông và vợ con còn ngồi trong phòng lái bàn chuyện tương lai. Vợ ông mơ ước nếu gia đình ông được đến bất cứ một quốc gia nào thì ông nên tiếp tục làm nghề đánh cá như ngày xưa. Bà sẽ cố gắng cuốc xới một mảnh vườn nho nhỏ đằng sau nhà để trồng thêm những loại hoa mầu và nuôi vài con gà để lũ con và ông có thức ăn tươi. Bây giờ, người đàn bà hiền lành, chất phác đó đã nằm yên dưới lòng biển lạnh. Ông Tư tài công nấc lên, hai giọt lệ lăn dài trên đôi má nhăn nheo.
Vũ đến bên ông lên tiếng an ủi: - Thôi ba cũng đừng buồn nữa. Trong hoàn cảnh khốn khổ này ai đi trước thì người đó yên phận. Những kẻ còn lại như chúng mình, nếu không có tầu vớt thì cũng chết dần mòn vì đói khát mà thôi. Ông Tư vẫn lặng im, đôi mắt rưng rưng nhìn biển khơi. Vũ thở dài. Chợt có tiếng la khóc dưới khoang rồi tiếng người ồn áo vọng lên làm Vũ hốt hoảng. Chàng nói với ông Tư: - Để con xuống dưới xem chuyện gì vậy.
Nói xong Vũ tuột xuống mấy nấc thang. Chàng thấy một đám người bu quanh lấy bà Quốc. Người đàn bà mặt xám ngắt, nằm nghẻo đầu sang một bên. Ông Quốc nắm tay vợ khóc sướt mướt. Hai đứa nhỏ cũng gào thét bên mẹ. Bên cạnh, bác sĩ Tường buông cổ tay bắt mạch cho bà Quốc rồi lắc đầu: - Tim bà ấy ngừng đập rồi! Ông Quốc mếu máo, nhìn bác sĩ Tường với ánh mắt van lơn: - Bác sĩ làm ơn làm phước ráng cứu vợ tôi. Bác sĩ Tường thở dài: - Trong hoàn cảnh không có dụng cụ, không thuốc men, một chứng bệnh bình thường tôi cũng đành bó tay, huống chi bà ấy đang có thai, bị sóng biển hành đuối sức.
Một bà lên tiếng hỏi: - Bác sĩ coi kỹ lại đi. Có thể bà ta chỉ ngất xỉu một lúc thôi? Bác sĩ Tường im lặng. Trong hoàn cảnh này ông cũng chẳng biết phải trả lời làm sao. Một linh mục mặc áo dòng đen, vẹt mọi người ra hai bên rồi chen vào ngồi bên xác người đàn bà xem xét. Đó là cha Tự.
Ông Quốc nắm bàn tay lạnh giá của vợ, nhìn cha Tự sụt sùi nói: - Xin cha làm phép xác cho nhà con! Cha Tự quỳ gối làm dấu thánh giá rồi cất giọng đọc mấy câu kinh. Những người đi đạo cũng lên tiếng đọc kinh theo cha. Mọi người trong khoang đều cúi đầu mặc niệm. Buổi chiều hôm ấy, khi những tia nắng cuối cùng của mặt trời còn le lói phía chân trời Tây.
Mọi người lên trên sàn ghe dự đám thủy táng bà Quốc. Thi thể người đàn bà được đặt nằm ngay ngắn trên sàn, không quan tài, không vải liệm. Chiếc ghe tắt máy, bềnh bồng trôi. Giọng cầu kinh trầm buồn của mọi người vang lên. Xong bài kinh, cha Tự ngước mắt lên trời, cất giọng buồn thảm: - Lạy Chúa! Xin Chúa hãy đón nhận linh hồn của bà Quốc và đứa hài nhi chưa chào đời, và yên nghỉ nơi nước trời. Người chết đã yên phận, nhưng còn đám thuyền nhân khốn khổ chúng con đây, đang tiếp tục một cuộc hành trình không bờ bến, đầy gian khổ. Xin Chúa hãy đưa chúng con thoát khỏi hiểm nguy mà bình yên đến được bến bờ tự do. A men! Lời cầu nguyện trầm buồn của cha Tự khiến nhiều người rơi nước mắt. Cái xác bà Quốc được mấy người đàn ông khiêng lên, đi tới sườn ghe.
Ông Quốc và hai đứa con khóc oà lên. Một tiếng "ùm" khô khan. Thân thể người đàn bà bất hạnh nổi dật dờ một lúc như gởi lời vĩnh biệt, rồi chìm sâu dưới làn nước xanh biếc. Nét mặt buồn thảm hiện trên gương mặt của mọi người. Bác sĩ Tường nói vài lời an ủi ông Quốc. Mấy người đàn bà dỗ dành hai đứa trẻ cho chúng nín khóc.
Sau đó mọi người lại lục đục kéo nhau xuống khoang ghe với tâm trạng buồn nản. Hai ngày nữa trôi qua trong lo âu thấp thỏm. Đám thuyền nhân trên ghe bắt đầu nếm mùi cực khổ. Ba can nước trên ghe đã được hạn chế sử dụng đến mức tối đa, chỉ được dùng để nấu cháo vì họ không thể ăn gạo sống được, và ưu tiên cho những đứa bé. Người lớn phải cố chịu đựng và chỉ được thấm môi khi quá khát.
Người ta cầu mong có được một trận bão như hôm nào để có nước uống, nhưng quái ác thay trời cứ nóng như thiêu như đốt. Ban ngày mặt trời chói chang hừng hực lửa. Ban đêm những cơn gió hầm hập mang luồng không khí nực nội thổi luồn xuống khoang khiến da thịt mọi người như bị sấy khô đi. Ai nấy đều mang một giấc mơ ước được gặp chiếc tầu buôn nào đó đi ngang vùng biển này, cứu vớt họ. Bốn ngày nữa lại nặng nề trôi qua. Mưa vẫn không đổ xuống, và ca nước cuối cùng cũng vừa hết, khoang ghe bao trùm bầu không khí nặng nề khó thở.
Người ta nằm bẹp trong khoang ghe mệt mỏi, những cặp mắt lo sợ nhìn nhau. Dường như bóng dáng Tử Thần đang lảng vảng quanh đây. Hưng Sâm, ông thương gia vùng chợ lớn, lả người gối đầu lên chiếc túi da đựng hai trăm cây vàng, và một túi nữ trang, tài sản của vợ chồng ông mang theo trong chuyến vượt biển này. Ông nuốt nước bọt.
Chiếc lưỡi khô queo, đắng ngắt của ông không còn một chút nước. Trí óc ông lúc mê, lúc tỉnh. Ông đang tưởng tượng những ly nước đá lạnh trong vắt mà hằng ngày ông vẫn hắt đổ đi sau khi uống thừa. Bây giờ nếu có được, ông sẵn lòng đổi hai trăm cây vàng này để lấy một ly nước lạnh đó cho gia đình ông. Đời thật trớ trêu. Trong cuộc sống thường nhật, ông đâu có ngờ có ngày ông lại lâm vào tình trạng đói khát trong lúc ông đang nắm trong tay bao nhiêu tiền bạc như hôm nay đâu.
Hối hận chợt dâng lên trong lòng ông, nếu biết như thế này thì ông không dàm bước chân xuống ghe để mạo hiểm. Màn đêm lại buông xuống. Đại dương lại bao trùm một màn đen ghê rợn. Những đứa trẻ con bắt đầu khóc đòi uống nước. Một đứa bé chừng một tuổi khóc ré lên trong lòng mẹ vì nó khát. Người đàn bà cố nhét vú của mình vào miệng con, nhưng vú chị không còn sữa. Đứa bé nhả vú mẹ ra, khóc lặng người đi. Người đàn bà ràn rụa nước mắt vỗ về con. Tiếng khóc của đứa bé yếu dần, chìm trong những tiếng khóc của những đứa trẻ lớn hơn. Đám cha mẹ của chúng ôm lấy con nghẹn ngào. Rồi những đứa trẻ lại lả người đi. Đêm dài lại nặng nề trôi qua.
Chiếc ghe lâm nạn bồng bềnh trôi. Dưới khoang ghe, cơn đói khát đã bắt đầu hành hạ mọi người. Không còn ai đủ sức ngồi dậy vì mệt lả. Một thanh niên leo lên miệng hầm, lảo đảo đi tới lườn ghe. Vũ ngồi trên sàn ghe, thấy thế vội chạy ra la lớn: - Anh kia làm gì vậy?
Thanh niên quay lại, mặt thất thần: - Tôi khát nước quá, muốn lấy nước biển uống. Vũ trợn mắt: - Bộ anh điên hả? Nước biển mặn chát, làm sao mà uống? - Tôi phải uống chứ không còn chịu nổi nữa rồi. Gã thanh niên nói xong lao mình xuống nước. Vũ nhào tới toan giữ tay anh ta nhưng không còn kịp nữa. Gã thanh niên chới với trong nước.
Vũ vội vàng chạy đến đống lưới lấy một sợi dây thừng, quay lại hông ghe để tiếp cứu, nhưng thân hình gã thanh niên biến mất trên mặt biển. Vũ buồn bã đưa mắt nhìn xuống những đợt sóng biển nhấp nhô đập vào mạn ghe. Mắt anh rưng rưng khi nhớ đến mẹ mình. Chợt vũ đưa mắt nhìn ra khơi. Xa thật xa, có bóng dáng của hai chiếc ống khói tầu nhô lên khỏi mặt nước, với đám khói đang bay lên cao. Vũ mừng rỡ, chạy vào trong phòng lái lấy cái ống nhòm của lính, nhìn về phía hai chấm đen đang nhả những sợi khói mỏng.
Ông Tư tài công đang nằm trên chiếc phản gỗ nơi phòng lái, vội ngồi nhỏm dậy hỏi dồn: - Có chuyện gì đấy Vũ? Vũ quan sát thật kỹ, rồi nói: - Có một chiềc tầu buôn mang cờ Pháp, nhưng nó ở quá xa. Ông Tư tài công mừng rỡ nói: - Vậy mình cầu cứu nó đi. Vũ trả chiếc ống nhòm cho ông Tư tài công rồi nói nhanh: - Để con đốt lửa làm hiệu. Vũ cởi phăng chiếc áo thun đang mặc tới chỗ phuy dầu chạy máy được hàn dính trên sàn ghe, mở nắp nhúng chiếc áo thung vào.
Một người thanh niên vừa dưới khoang chui lên, cũng cởi chiếc áo mình ra đưa cho Vũ. Hai chiếc áo được bỏ trong chiếc thau nhôm méo mó, đốt lên, nhưng ngọn lửa quá yếu, và bị gió thổi bạt nên khói không bốc nổi lên cao. Gã thanh niên chạy lại nắp hầm khom người nói vọng xuống: - Mình gặp tàu lớn rồi bà con ơi. Tôi cần thêm một ít quần áo để đốt lửa cầu cứu họ tới vớt mình. Đám người nằm trong khoang nghe có tầu vớt như được uống thuốc hồi sinh. Họ ngồi nhổm cả dậy.
Đám đàn ông vội cởi hết những cái áo đang mặc đưa cho gã thanh niên. Vài người còn sức lực vội leo lên khỏi miệng hầm để xem. Ngọn lửa nhờ có thêm quần áo bùng cháy cao hơn. Khói bay lên trời cuồn cuộn. Vũ hỏi ông Tư tài công: - Nó tới gần mình chút nào chưa? Ông Tư tài công nhìn xong, đưa ống nhòm cho Vũ lắc đầu buồn bã: - Nó quẹo mũi chạy hướng khác rồi. Vũ dán mắt vào chiếc ống nhòm. Tim chàng bỗng nhói lên khi thấy hai chiếc ống khói tầu mỗi lúc một nhỏ dần rồi khuất dưới mặt biển.
Chàng thở dài nói với cha: - Nếu mình nhìn thấy họ thì chắc chắn họ cũng phải nhìn thấy mình đốt khói chớ. Như vậy có thể là họ bỏ rơi mình rồi. Đám đàn ông trên sàn ghe đang cố tẩm thêm dầu vào những chiếc áo đốt tiếp tục với hy vọng được các tầu khác cứu. Ngọn lửa cháy với ngọn khói đen lại bị gió thổi tạt nằm rạp xuống. Thêm một vài chiếc đầu nữa với gương mặt phờ phạc ló lên khỏi miệng hầm: - Tầu vớt đâu? Tầu vớt đâu? Đám người đốt lửa không buồn trả lời. Niềm thất vọng hiện rõ trong ánh mắt họ khi bóng dáng chiếc tầu đã biến mất nơi chân trời xa.
Ông Tư tài công, Vũ và đám đàn ông, mặt buồn xo nhìn ngọn lửa bập bùng trên sàn ghe, tàn dần niềm hy vọng mong manh của họ vừa bừng lên đã lịm tắt đi. Đám đàn ông đứng ngó mông lung ngoài mặt biển một lúc, rồi lại chui xuống khoang với nỗi thất vọng. Chợt Vũ nghe có tiếng người la hoảng bên dưới khoang vọng lên: - Trời ơi! sao miệng đứa bé toàn máu không vậy nè? Vũ tụt xuống khoang.
Một đám người bu quanh chị đàn bà có đứa con một tuổi, đứa bé nhỏ nhất trong ghe. Chị ta đang cho con bú. Thằng bé mút lấy mút để vú mẹ. Một dòng máu đỏ tràn qua mép đứa bé. Người đàn bà dựa thành khoang ghe, ôm con, đôi mắt nhắm nghiền, khuôn mặt lợt lạt. Bà Thiện vội lay mạnh chị đàn bà: - Nè chị! Tỉnh dậy mà coi con chị nó sao rồi.
Chị đàn bà không mở mắt. Bà Thiện vội vàng kéo đứa bé ra khỏi lòng mẹ. Mũi và miệng đứa bé ngoe ngoe máu. Mọi người trợn to mắt kinh hãi khi thấy đầu vú người đàn bà có một vết cắn sâu vào thịt. Một cô gái sợ hãi quá la lên: - Trời ơi! Bà cắn vú cho con uống máu mình nè trời!
Bác sĩ Tường vạch đám đông, chen tới, đặt người đàn bà ngay ngắn, rồi làm động tác hô hấp để cứu tỉnh người đàn bà. Máu ở đầu vú chị ta vẫn ứa ra. Người đàn bà khẽ mở đôi tròng mắt lạc thần nhìn những khuôn mặt lờ mờ đang vây quanh chị. Bác Sĩ Tường cúi mặt hỏi chị: - Tại sao chị làm chuyện dại dột vậy? Chị đàn bà thều thào: - Con...tôi nó khát....Tôi...muốn nó còn sống...Để gặp tầu vớt.
Chị đàn bà nói xong nhắm nghiền đôi mắt lại. Bàn tay chị lạnh giá từ từ. Dòng máu đỏ trên núm vú chị đã ngưng chảy. Bác sĩ Tường bắt mạch cho nạn nhân rồi lắc đầu thở dài: - Tim chị ấy ngừng đập rồi! Có tiếng khóc đâu đây của vài cô gái. Cha Tự cũng có mặt.
Cha vội quỳ xuống, làm dấu thánh giá đọc kinh cầu nguyện cho người qua đời. Bà Thiện bế đứa nhỏ, ngơ ngác hỏi chồng: - Sinh mạng những người trên ghe này đành phó thác cho Trời. Bây giờ mẹ đứa bé đã chết thì trong ghe chúng mình đành phải trông coi nó, chứ biết tính sao bây giờ Thằng bé con thấy người lạ bu quanh mình, nó khóc òa lên rồi bò tới bên xác mẹ. Bà Thiện phải kéo đứa bé ra, lau gương mặt dính ngoe ngoét máu của nó.
Vài người đàn ông khiêng xác người mẹ xấu số ra hông ghe. Thêm một thây người nữa được trả về lòng biển. Đám thủy táng chỉ có Vũ, cha Tự, Bác sĩ Tường, ông Quốc và vài người đàn ông còn sức tham dự. Tất cả những người còn lại không đủ sức leo lên miệng hầm nữa. Hết nước, không thể nấu cơm, những nắm gạo sống được phân phát cho mọi người nhấm nháp cầm hơi, nhưng người ta cũng nuốt không nổi khi miệng ai nấy đều khô queo vì không còn nước.
Chiều xuống thật mau. Không gian chuyển sang một mầu tối ám. Mặt trời đỏ ối như máu, tròn to như cái mâm, chìm một nửa xuống lòng biển xám. Những giải ánh sáng vàng cam, tím sẫm và xanh biếc còn bịn rịn, le lói ở cuối trời như muốn gởi lời chào từ biệt đám người bất hạnh. Chiếc ghe vẫn bập bềnh nhấp nhô như chiếc lá khô trôi giữa dòng sông. Biển sao lặng lẽ quá. Từng đợt sóng con vỗ nhẹ vào lườn gỗ róc rách. Trời nóng như một cái lò lửa. Những cơn gió oi ả vẫn lùa xuống khoang, hâm nóng mọi người.
Ai nấy đều vã mồ hôi và khát xé cả họng. Vài đứa bé con đã ngất xỉu đi trên tay mẹ chúng. Lại thêm những tiếng khóc thảm thiết của mấy người đàn bà. Màn đêm buông xuống bao phủ mặt biển bao la. Vài đứa trẻ con co giật thân người, chờ chết bên những cái thân rũ liệt của cha mẹ chúng. Đứa bé mất mẹ lại khóc thét lên vì đói khát, Bà Thiện cố nhai miếng gạo sống để mớm cho thằng bé, nhưng miệng bà cũng chẳng còn tí nước bọt nào. Đêm hôm đó đứa bé lả đi, nằm bất động bên cạnh thân xác rã rời của bà Thiện. Mọi người đã quá đuối sức.
Chẳng ai trong ghe còn sức lực và tỉnh táo để quan tâm tới đứa bé còn sống hay đã chết. Lác đác trong khoang ghe, những người già không còn sức chịu đựng cũng đang nằm bẹp trên sàn thoi thóp. Nếu không có những lồng ngực còn nhấp nhô thở nhẹ thì người ta tưởng như trong ghe toàn là xác chết, và chiếc ghe trở thành một quan tài nổi đang bồng bềnh trên biển. Trên sàn ghe, ông Tư tài công đã kiệt sức, nằm lả người trên chiếc phản trong phòng lái.
Vũ cố gượng ngồi trên đám lưới canh chừng mặt biển. Dù sao, còn là thanh niên, Vũ vẫn còn sức chịu đựng hơn là mọi người trên ghe. Chàng đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn lên bầu trời đen thẫm với hàng triệu vì tinh tú. Ánh sao sáng lấp lánh khi mờ khi tỏ. Chàng không hiểu ngôi sao bản mệnh của chàng và những người khốn khổ trên ghe này nằm ở góc trời nào.
Chúng còn sáng hay lu mờ sắp tắt. Đầu óc Vũ như nặng trĩu bởi cơn buồn ngủ dữ dội đang kéo tới. Mắt chàng mờ dần đi và cứ phải chớp liên hồi mới có thể nhìn được cảnh vật. Vũ biết rằng bộ óc chàng thiếu nước. Có chịu đựng giỏi lắm cho tới bình minh ló rạng là chàng sẽ gục chết ở đây. Vũ đưa lưỡi liếm bờ môi khô, nứt nẻ của chàng.
Lưỡi chàng cũng không đủ ướt để làm mềm bờ môi. Cơn gió nóng hầm hập của biển thổi qua khiến Vũ cảm thấy như muốn ngộp thở. Tiếng lao xao của sóng biển đêm như tiếng thì thào than khóc của hàng vạn oan hồn thuyền nhân cũng chỉ vì muốn xa lánh Cộng Sản để tìm một sinh lộ cho gia đình, cho đàn con nhỏ của họ sống trong no ấm và có tương lai mà họ đã ra đi tìm tự do để rồi phải chết chìm vì bão tố hay chết lần mòn giữa biển khơi vì cạn hết lương thực nước uống như chiếc ghe này. Vũ không hiểu thế giới bên kia như thế nào? Thế giới bên kia có những đau khổ, bất hạnh, chiến tranh, chết chóc, và hận thù như thế giới của những người đang sống này hay không?
Tự nhiên Vũ cảm thấy tinh thần mình than thản lạ thường, một sự bình tĩnh để đón nhận giờ phút cuối cuộc đời. Thôi, nếu không tìm thấy được một mảnh đất tự do để có một hạnh phúc nhỏ nhoi, thì chết nơi lòng biển, Chúa, Phật cũng sẽ dẫn dắt linh hồn đám thuyền nhân bất hạnh này tới vùng đất thiên đàng của các ngài, thế cũng được an ủi lắm rồi. Chiếc ghe bất hạnh vẫn nổi bồng bềnh trong màn đêm dầy đặc. Gió rít từng hồi. Mặt đại dương đen sẫm như tương lai của biết bao thuyền nhân trong những chuyến hải hành khốn khổ, đi tìm tự do trong lòng biển đêm đầy giông tố, hãi hùng.
::: Nguyễn Thị Hồng Nhung :::
CT* VIỆN SĨ ÁC GHÊ!
Viện sĩ ác ghê
C.T (Danlambao) - Lâu nay Cu Tèo cứ tưởng chỉ có bà địa chủ Nguyễn Thị Năm mới bị “ác ghê”, không ngờ bây giờ lại có thêm ông Viện sĩ Ngô Bảo Châu cũng bị “ác ghê”
'Theo kết quả nghiên cứu vô tư - không thuộc "lề" nào - của "Giáo sư" Gu
Gồ, Bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long là đại ân nhân lớn nhất của Mặt
trận Việt Minh trong thời kỳ kháng chiến. Trước năm 1945
bà đã đóng góp cho Việt Minh 20.000 đồng bạc Đông Dương tương đương 700
lượng vàng lúc bấy giờ. Trong "Tuần Lễ Vàng" của chính phủ VN DC CH, bà
đã hiến 100 lượng vàng. Sau này đi theo kháng chiến lên Thái Nguyên, bà
đã góp rất nhiều tiền gạo để nuôi bộ đội, có lúc bà nuôi cả một Trung
Đoàn trong nhà (1). Sự đóng góp của Bà Nguyễn Thị Năm là một trong những
yếu tố đưa cuộc Kắt Mạng của bác và đảng đến “thắng lợi vẻ vang”: Trước
1945, nhờ 20.000 đồng bạc Đông Dương tương đương 700 lương vàng cứu đói
và sắm sửa vũ khí đê cướp được chính quyền trên tay chính phủ Trần
Trọng Kim, và sau 1945, nhờ thêm 100 lượng bà Cát Hanh Long đóng trong
“Tuần Lễ Vàng”, để “bác” hối lộ Quân Tưởng Giới Thạch xin họ để yên cho
bác “làm việc” Cắt Mạng những ai không chịu theo CS, tức con đường bi
đát bác đi.
Quả đúng con đường Bác đi nó bi đát thật, người có công với “Kắt Mạng” như bà Nguyễn Thị Năm mà cái mạng cũng bị “bác” cắt đi bằng bản án “Địa chủ ác ghê” Của Bác (ký tắt C.B).
Địa chủ Nguyễn Thị Năm cho “bác” ăn ngập mặt như thế mà còn bị "ác ghê", trái lại, Viện sĩ Ngô Bảo Châu được Đảng tặng cho ngôi biệt thự 12 tỷ và 560 tỷ tiền Hồ xây Viện Toán học để viện sĩ dạy và làm Giám đốc, nhưng ông giáo sư Châu lại khư khư một hai không chịu làm Trâu theo yêu cầu để người ta cho ăn no rồi là muốn dắt đi đâu thì dắt, muốn cưỡi đi đâu thì cưỡi. Cái “ác” của Viện sĩ là ở chỗ đó.
Nhưng cái “ác” của Viện sĩ chưa dừng lại ở đó mới là “ác ghê”.
Giữa lúc "đảng ta" đang bị “kinh qua thời kỳ quá độ” thập tử nhất sinh: bên ngoài thì bị cả thế giới lên án ác với dân, trong nước thì bị dân buộc tội hèn với giặc, còn nội bộ thì gầm gừ nhau, thanh toán sát hại nhau; mặt thật của bác và đảng bị phơi bày với những sự thật không thể chối cãi (2); đang chơi vơi chới với cần phao cấp cứu, ít nhất cỡ phao như khôi nguyên toán học thế giới và nay là viện sĩ hàn lâm Khoa học Pháp, Giáo sư Ngô Bảo Châu.
Nhưng Viện sĩ đã “ăn của đảng” (nhà đảng mua bằng tiền thuế của dân) như thế mà đã không chịu “ngậm miệng”, lại còn lên tiếng, phát ngôn toàn những điều “dị ứng” với “bác cháu ta”. Chẳng hạn:
- Về vụ cho Tàu khựa vào khai thác Bô-xít Tây nguyên mang ý nghĩa rước giặc cướp leo lên nóc nhà mình là “chủ trương lớn của đảng”, Giáo sư Ngô Bảo Châu gửi một bức thư kiến nghị phản đối, trong đó ông đề cập đến chính sách thực dân mới của Trung Cộng trên toàn cầu và đặc biệt là tại Tây Nguyên, ông cũng đưa ra cảnh báo: "phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh."[.(3)
- Bình luận về quan tòa vụ xử án “Hai bao cao su đã qua sử dụng” Cù Huy Hà Vũ, Viện sĩ nói: "Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này… Không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ."
- Liên quan tới câu chuyện Đề án xây dựng quảng trường của tỉnh Sơn La, giáo sư Ngô Bảo Châu ý kiến:
“Số tiền này đủ để xây toàn bộ các điểm trường, các ký túc xá cho Sơn La và các tỉnh miền núi. Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh”.
- Bình luận về quan tòa vụ xử án “Hai bao cao su đã qua sử dụng” Cù Huy Hà Vũ, Viện sĩ nói: "Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này… Không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ."
- Bàn về cái gọi là “Báo lề Phải, Báo lề Trái, Viện sĩ viết: "Bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do.''
- Trước bản án 10 năm tù cho Mẹ Nấm, Viện sĩ chẳng những ký tên mà còn phổ biến trên Facebook của mình Thỉnh nguyện thư đòi trả tự do ngay tức thì cho nạn nhân.
- Tháng 6/2017, đề cập về tập thơ Thành Phố Dịu Dàng bị thu hồi, Viện sĩ viết: "Đã vào thiên niên kỷ thứ ba lâu rồi mà ở đâu đó trên quả đất này vẫn có ai đó muốn kiểm soát thơ, cho rằng thơ không được chủ quan, thơ phải hợp lý. Có phải họ nuối tiếc một cái gì đó mà đáng ra nên vĩnh viễn cho yên nghỉ với thiên niên kỷ trước hay không?"(4)
- Nhằm vào lúc các cháu ngoan đang “hồ hỡi phấn khởi” kỷ niệm sinh nhật thứ 126 của “bác”, thì hôm 19/05, trên Facebook cá nhân của mình, Giáo sư Châu góp ý: “Có quý mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
Mỗi lần Viện sĩ có ý kiến về “Bác”, về Đảng của “Bác” là các “cháu” lại lồng lộn lên; phát biểu sau (làm) lồng lộn hơn phát biểu trước. Phát biểu mới nhất của Viện sĩ là, có mến “bác” thì mong “bác” thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt “bác” sống mãi trong sự nghiệp chúng ta đang khiến các “cháu ngoan” lồng lên “đỉnh cao chói lọi”, điển hình như cháu Lý nào đó xưa nay phải bỏ công tác hộ lý, ra Sân Đình vén quần nhảy cả tửng chửi Viện sĩ còn hơn bà mất gà.
Đúng là Viện sĩ “ác ghê!”
C.T
danlambaovn.blogspot.com
______________________________ _____________
Ghi chú:
2. http://www.geocities.ws/ xoathantuong/dch/dch_00.htm; https://www.youtube.com/watch? v=1egdsbYxI70
Monday, July 24, 2017
SƠN TÙNG-BICH HẢI * MỘT Ý KIẾN MỚI VỀ MỘT BÀI SẤM TRẠNG TRÌNH
MỘT Ý KIẾN MỚI VỀ MỘT BÀI SẤM TRẠNG TRÌNH
Trong các bài sấm Trạng Trình chi về thời điểm hiện tại có một bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Nho tương đối nói rõ về những chuyển biến của Việt Nam trong thời điểm hiện tại :
Ô hô thế sự tựa bềnh bồng
Nam, Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung Mao tận bach,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
Ngưu xuất lam điền Nhật chính Đông.
NHƯỢC ĐÃI ƯNG LAI SƯ TỬ THƯỢNG,
TỨ PHƯƠNG THIÊN HẠ THÁI BÌNH PHONG.
Câu thứ nhì : chỉ rất rõ thời gian sau 1975 sau khi VC cưỡng chiếm miền Nam, đường xe lửa Nam Bắc hoạt động trở lại.
Câu thứ ba : Hồ Chí Minh, Mao trạch Đông chết, ảnh hưởng tư tưởng của bọn chúng càng ngày càng phai nhạt.
Câu thứ tư : Nói đến cuộc chiến dữ dội tại biền Đông.
Câu thứ năm : Bắc đầu năm Dậu trời phương Bắc nghiêng đổ ám chỉ Trung Quốc sẽ bị sụp đổ.
Câu thứ sáu : Nước Nhật ra đảm nhận vai trò chính trong cán cân quyền lực Đông Nam Á .
Câu thứ bảy : Ưng lai chỉ rất rõ ràng vào Mỹ sẽ trở lại Đông Nam Á và 3 từ
sư tử thượng trước đây tôi nghĩ là để chỉ Tân Gia Ba (đảo quốc sư tử) can dự vào. Nhưng mới đây đọc được một bài viết của một nhà nhân tướng học đệ tử cụ Ngô Hùng Diễn xem tướng D. Trump khi còn là ứng cử viên Tống Mỹ đã nói là Ông Trump có tướng mặt là sư tử và sẽ thắng cử. Bây giờ thì lời tiên đoán ấy đã thành sự thật. Do đó tôi có thể khẳng định rằng “sư tử thượng “ là để chỉ ông Trump đăng quang làm tổng thống Mỹ.
Câu kết chỉ ra rằng đợi đến khi ông Trump lên làm tổng thống thì thiên hạ mới được hưởng cảnh thái bình. Như vậy là Việt Nam sẽ được hưởng gián tiếp những lợi lộc nhờ tân tổng thống Mỹ mang lại. Tóm lại ông Trump là một nhân vật đã được trời định, đặt để nhằm mang lại an bình cho thế giới do đó mọi thế lực nhằm chống lại ông sẽ trở nên vô hiệu. Có một lời cảnh cáo là các thế lực đen tối dù Dân Chủ hay Cộng Hòa hãy mở mắt hổ trợ ông Trump, xét lại chính sách, chướng trình hành động để hổ trợ ông Trump hoàn thành sứ mệnh lịch sử ông Trời giao phó là thuận mệnh trời để tránh bị lịch sử và nhân dân Mỹ lên án , đào thải
Từ cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ, GS. Trần Quang Quyến nhìn về tương lai qua tướng pháp Ngô Hùng Diễn
Cuộc tranh cử tổng thống Mỹ kéo dài hơn một năm với nhiều ồn ào, sôi nổi đã kết thúc vào ngày mồng 8 tháng 11, 2016 mà trước đó hầu hết những nhà quan sát chính trị, báo chí, truyền thông, kể cả các chiêm tinh gia trong và ngoài nước Mỹ đều tiên đoán bà Hillary sẽ là tổng thống thứ 45 của nước Mỹ. Nhưng kết quả đã trái ngược hẳn trước sự sững sờ ngạc nhiên của mọi người. Trong khi đó GS. Trần Quang Quyến, một người nghiên cứu thâm sâu về tướng pháp Ngô Hùng Diễn, đã thấy trước là ứng cử viên Donald Trump sẽ đắc cử.
Qua sự nghiên cứu theo tướng pháp Ngô Hùng Diễn dựa trên tướng mạo và thần khí của hai ứng cử viên, ông Trần Quang Quyến đã nhìn thấy không những kết quả của bầu cử mà còn tiên đoán về những gì sẽ xảy ra trên chính trường nước Mỹ và tình hình thế giới trong nhiệm kỳ 4 năm sắp tới dưới sự lãnh đạo của tổng thống Donald Trump.
Những điều này đã được ông Trần Quang Quyến nghiên cứu và phát biểu với một số thân hữu, đồng thời có ghi lại trong cuốn sách của ông hai tháng trước ngày bầu cử.
Việc ông Trần Quang Quyến tiên đoán đúng kết quả cuộc bầu cử đã được xác nhận bởi điện thư chúc mừng của bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, ông Võ Thành Nhân (giám đốc đài SBTN/DC) và nhiều bạn hữu khác tới GS. Quyến ngay vào sáng sớm ngày mồng 9 tháng 11, 2016. Điều này không làm nhiều người ngạc nhiên vì GS. Trần Quang Quyến đã được biết đến như một nhà nghiên cứu thâm sâu về tướng pháp Ngô Hùng Diễn trong hơn 60 năm nay.
Ông đã xuất bản hai cuốn sách: “Tướng pháp Ngô Hùng Diễn” (*) (dày ngót 300 trang khổ lớn, bìa cứng, phát hành năm 2010, tái bản năm 2016) và cuốn tiếng Anh “Physiognomy: The Art of Reading People” (**) (ngót 600 trang, do Amazon ấn hành tháng 9 năm 2016). Qua hai tác phẩm này, tác giả đã có dịp nghiên cứu về tướng mệnh của nhiều người trong giới chính trị tại Mỹ và thế giới trong đó có Tổng thống Obama, Công chúa Diana, Tổng thống Clinton cùng phu nhân, bà Hillary Clinton, và tân Tổng thống Donald Trump. Việc này đã đưa đến lời tiên đoán về sự đắc cử của ông Donald Trump.
Chúng tôi đã đọc hai tác phẩm của GS. Quyến cũng như theo dõi và nhận định về những hoạt động của ông nên trong dịp này đã tiếp xúc với ông để được nghe giải thích thêm về áp dụng tướng pháp Ngô Hùng Diễn vào từng nhân vật.
GS. Quyến là học trò đắc ý của cụ Ngô Hùng Diễn. Ông là người đã tiên đoán rằng những việc làm và thành quả của Tổng thống Obama trong 8 năm lãnh đạo đất nước được thực hiện giống như một vở kịch mà ông Obama là người đóng vai chính. Khi màn hạ xuống là mọi việc sẽ chấm dứt, không để lại thành tích hay di sản gì đáng kể. Trước đó, GS. Quyến cũng là người đã tiên đoán công chúa Diana sẽ không bao giờ trở thành hoàng hậu ngay khi lễ cưới của công nương đang diễn ra. Và ông cũng tiên đoán vợ chồng nghệ sĩ, ca sĩ nổi tiếng của Việt Nam, Lê Uyên và Phương, sẽ ly dị trong thời gian ngắn sau khi đặt chân lên nước Mỹ tị nạn.
Về bà Hillary Clinton, trong giai đoạn tranh cử, dựa trên tướng pháp Ngô Hùng Diễn (TP NHD) được thấy như sau: các bộ vị tướng của bà đều có hình tròn và thần tròn, thần khí bà suy yếu. Xét về tính cách “đi bộ”, theo quan niệm “chủ – khách”, việc tranh cử của bà không thuận lợi lắm vì chủ thì yếu, khách thì đông và hỗn tạp. Nói rõ ra, theo quan niệm “chủ – khách” trong TP NHD thì bà Hillary là chủ, những người phụ tá cho bà được coi là “khách”.
Vì hình tròn và thần tròn, cho nên khi gặp những cản trở trên đường tranh cử, bà Hillary không giải quyết một cách triệt để được. Người gần gũi nhất là chồng bà thì thần khí rối loạn và suy thoái, nên không những không giúp được cho bà mà còn gây khó khăn thêm cho bà. Cũng như vậy, những phụ tá thân thiết của bà cũng gây nhiều khó khăn cho bà. Đứng về lý mà nói, sự thất bại của bà là do bà hai phần và phụ tá của bà ba phần. Thần khí suy đồi còn là một yếu tố quan trọng liên quan tới sự sáng suốt và khả năng chống cự bệnh tật của cơ thể. Điều này nhận thấy qua thái độ bơ thờ của bà và sự thiếu minh mẫn của trí óc.
Cuộc đua vào toà Bạch Ốc ví như một cuộc đua ngựa. Bất kỳ yếu tố nhỏ nào gây ra sự chậm chạp cũng dẫn đến sự thất bại. Còn một yếu tố tối quan trọng nữa theo quan niệm TP NHD là bà đã phạm một lỗi lầm trầm trọng cho dù vô tình hay hữu ý cũng do thiếu tâm tướng, khi bà đã làm ngơ hơn 600 lời cầu cứu mạng của cố Đại sứ Christopher Steven và 3 nhân viên của ông tại Benghazi, Libya, vào tháng 9, 2012.
Ngoài ra cũng nên nhắc lại một yếu tố thất bại của bà Hillary Clinton mà GS. Quyến đã tiên đoán từ mùa thu năm 2009 khi bà mới làm ngoại trưởng được 9 tháng, là nếu bà làm ngoại trưởng hơn 2 năm thì công danh của bà sẽ gặp rất nhiều khó khăn, có thể tới mức độ thân bại danh liệt. Ông cũng đã nói chồng bà không giúp ích gì được cho bà.
Về phần tỷ phú Donald Trump, theo TP NHD, ông có tướng cầm thú hoà hợp giữa tướng rồng, tướng sư tử và một phần không nhỏ của chó sói. Khi ông quyết định ra khỏi “khu rừng” của ông để tranh đấu với “loài người” thì ông sẽ bị đuổi giết từ cả bốn phía. Nếu ông tiếp tục ở trong “rừng” của ông, thì ông dễ dàng sống trên 100 tuổi, tài sản sẽ kếch xù hơn, con cái thành đạt, hạnh phúc cho tới chết. Nhưng ông có trán vuông, mặt vuông, thân hình vuông, da sáng, deo dai, mắt nhỏ và ẩn sâu vào xương chân mày, vùng quyền vuông vắn, đầy đặn và rắn chắc. Người như vậy là có tướng anh hùng, gặp thời loạn không dửng dưng hưởng thụ cho cá nhân mình được. Vì hình vuông, thần vuông nên khi gặp tấn công, người này phải đứng dậy chống đỡ kịch liệt chứ không lẩn trốn được.
Trong suốt thời gian tranh cử, ông đã luôn đứng lên mãnh liệt, mặt đối mặt với đối phương. Nếu đối phương không giết được ông thì kết quả ông sẽ thắng cuộc. Tướng ông ở cuối tai, có một phần trông mọng như túi mật. Theo TP NHD, những năm sau cùng của ông, ông sẽ đạt được một thành công về sự nghiệp lớn lao nhất trong đời. Nhưng sau phần tai nổi bật đó, tai lại thu nhỏ lại, theo TP NHD là hoạ sẽ đi theo sau mỗi thành công của ông. Tóm tắt, nếu ông không bị đối phương ám hại, hay là chết do tai nạn thì ông có thể sẽ là một vị tổng thống thành công thứ nhì sau tổng thống George Washington.
Theo các nhà phân tích chính trị và các chiêm tinh gia trên thế giới thì sự đắc cử của ông Donald Trump sẽ đưa tới những rối loạn cho nước Mỹ và thế giới, sẽ làm cho vị trí của nước Mỹ sau này không còn là một cường quốc đàn anh. Nhiều người cho rằng những vấn đề ông Donald Trump muốn giải quyết trong vòng 100 ngày đầu nhậm chức sẽ không đủ điều kiện để giải quyết được. Theo TP NHD, để biết những kết quả việc làm của ông trong vòng 100 ngày đầu tiên nhậm chức đòi hỏi một sự quan sát tỉ mỉ của sắc tướng, thanh tướng và thần tướng không những của ông Donald Trump mà còn của những người chịu trách nhiệm trực tiếp giải quyết vấn đề đó, cũng như của những người chống đối việc giải quyết vấn đề đó theo chiều hướng của ông Trump.
Dựa vào sự nghiên cứu của GS Quyến hiện nay thì những khó khăn hay những công việc có tính chất trung và dài hạn chắc chắn sẽ được giải quyết thuận lợi vì thần khí của ông Trump rất sung mãn. Vận số của một nước còn tùy thuộc vào phong thủy và phong thái các thế hệ tương lai. Phong thủy nước Mỹ còn rất tốt, chẳng hạn như vượng khí của toà Bạch ốc còn mạnh và sung mãn. Giới trẻ Mỹ phong thái càng ngày càng đẹp nói lên đất nước này còn thịnh trị trong nhiều thế kỷ. ISIS sẽ bị triệt tiêu, thế giới sẽ yên bình, cộng tác hài hoà trong tiến trình phát triển.
Trung Quốc sẽ suy thoái nếu những nhà lãnh tụ của họ dùng cường lực với lòng tham lam và độc ác để thôn tính những nước nhỏ láng giềng. Mỹ sẽ không bỏ rơi vùng biển Nam Hải và Việt Nam sẽ có cơ hội khôi phục về quân sự, chính trị và kinh tế trong một thể chế dân chủ và tiến bộ.
Tất cả những tiên đoán ở trên sẽ diễn tiến một cách thuận lợi tùy theo “THIỆN TÂM” hay “ÁC TÂM” của những nhà lãnh đạo trên thế giới, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là một thế giới tiến bộ. Tổng thống Donald Trump sẽ là người khai sáng một kỷ nguyên mới cho thế giới.
Những tiên đoán của GS Trần Quang uyến, dựa trên tướng pháp Ngô Hùng Diễn, đã hé mở cánh cửa bí mật để nhìn vào vận mệnh của một con người, một quốc gia, và của nhân loại. Vận mệnh ấy có thể thay đổi khi con người nhận ra rằng “tướng tùy tâm”, như câu thơ bất hủ của Nguyễn Du: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”.
Yêu ông Trump hay ghét ông Trump, không ai có thể chối cãi việc thắng cử của ông ta đã tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử nước Mỹ, và sẽ ảnh hưởng đến bộ mặt thế giới trong nhiều năm tới. Có những thay đổi sẽ diễn ra, tốt hay xấu, có thể nhìn thấy qua hình tướng, sắc tướng, thanh tướng và thần tướng của ông cũng như nhiều nhà lãnh đạo khác trên thế giới vào một thời điểm mà bất cứ nơi nào cũng có thể bùng nổ do sự xuẩn động của một vài người nắm quyền.
Sơn Tùng và Bích Hải
ĐẶNG PHÙNG QUÂN * VỀ TÁC PHẨM CỦA VÕ PHƯỚC HIẾU VÀ HIẾU ĐỆ
Mấy suy nghĩ về Niềm Đau Bạc Tóc và Bên Đục Bên Trong của Hiếu Đệ và Võ Phước Hiếu | ||||
- Đặng Phùng Quân -
Trong một bài viết "Văn Chương và Lưu Đày" in lại trong quyển sách "Tẩu Khúc" xuất bản năm 2004, tôi đã viết: "Những kinh nghiệm sinh động, kinh hoàng về sự khủng bố con người, về ý nghĩa tự do và đời sống về bạo động và lịch sử, về những trại tập trung vĩ đại và kỹ thuật làm nhơ bẩn con người. Những tiếng nói ấy cất lên từ văn chương lưu vong, từ những người chứng thoát ra ngoài một thế giới đóng kín" (sđd, trang 78). Thế giới đóng kín ấy là thế giới của chuyên chính toàn diện phát xít và chuyên chính toàn diện cộng sản. Những tiếng nói ấy cất lên từ nơi một nhà họa sĩ danh tiếng và một vị giám đốc xuất bản uy tín, những người phục vụ văn hóa nhưng chưa bao giờ nghĩ đến cần phải Viết. Thời thế bắt buộc họ phải viết, theo tôi nghĩ, viết để trút gánh nặng ngàn cân của những Chứng Nhân Lịch Sử trước những biến đổi của xã hội"làm cho tôi (VPH) đau đớn nghẹn ngào bằng sự ấm ức bất bình về cơn lốc lịch sử vừa mới phũ phàng thổi tạt lên quê hương tôi" (Võ Phước Hiếu, Bên Đục Bên Trong, trang 116). "Cuộc đời chỉ là cuộc tranh sống với nhau thôi. Nhà nước dành đất của dân. Chẳng có vô sản cóc khô gì hết! Chỉ có giai cấp thống trị dành sự sống của giai cấp bị trị" (Hiếu Đệ, Niềm Đau Bạc Tóc, trang 19). "Bên Đục Bên Trong" và "Niềm Đau Bạc Tóc" là những tập truyện của hai tác giả Võ Phước Hiếu và Hiếu Đệ in chung do Hương Cau xuất bản lần lượt vào những năm 2004 và 2005. Sự đồng bộ của hai tác phẩm là văn chương bình dị trong lối tự sự hồn nhiên của những người kể chuyện, những câu chuyện không chút hư cấu, mà là cảnh đời diễn ra trong một xã hội nhiễu nhương dưới ách thống trị của một chế độ "độc tài đảng trị" "chủ trương chính sách ngu dân, dùng biện pháp siết hầu siết họng, thắt buộc bao tử người dân trong cảnh triền miên đói khổ cơ cực để dễ dàng kềm kẹp khống chế, phỉnh lừa dối gạt" (Bên Đục Bên Trong, trang 161). Với Võ Phước Hiếu, những kỷ niệm gắn bó nơi quê hương Voi Lá - Long Phú của quận Bến Lức thân yêu là cả một quá khứ chập chờn huyền ảo, lại hiện lên hình ảnh một tên Bảy Cò, bạn cũ ngày xưa giờ đây là đại biểu của đám "cán bộ nồng cốt trụ cột của đảng" "kết cấu ăn chia nhau từ trên xuống dưới" bóc lột nhân dân đến tận xương tủy trong truyện ngắn "Cơn Lốc Xoáy Tim", đến những Tư Ca trong truyện ngắn "Bức Chân Dung" ngày ngày say sưa trong men rượu để quên những cay đắng của một kiếp người sa lầy trong sợ hãi vì đã theo Đảng, ở truyện ngắn "Bác Thầy Hù" là hình ảnh một người nghệ sĩ vì đất nước đổi thay phải từ bỏ sàn gỗ sân khấu để trở thành một người hớt tóc dạo, sống cũng không được yên thân "tinh thần lúc nào cũng bị rúng ép khống chế", đến thằng Hai Ngọng trong truyện "Con Sao Chiếu Mạng" kỳ cựu nghèo khó, có chiếc xe xích lô đạp làm phương tiện sinh sống cũng bị "cách mạng" bắt đem nộp xe cho nhà nước, cái nhà nước "miệng nói đấu tranh bênh vực quyền lợi của giai cấp nghèo nhưng dân nghèo ngất ngư tận bùn đen, dở chết dở sống, còn giai cấp lãnh đạo trước đây nghèo sặc máu, kéo về thành phố với quần xà lỏn khăn rằn, ngày càng giàu nứt trứng". Với Hiếu Đệ, những kỷ niệm phần lớn là về những người họa sĩ, từ Trần Quang Hiếu, Văn Đen đến Nguyễn Thanh Thu bị đọa đày trong một đất nước con người phải lo "tranh sống", cai trị bởi "bọn lãnh tụ làm cho nước nghèo dân khổ", đến những cảnh đời như "Người Ăn Mày Trong Trại Học Tập Cải Tạo" chết tức tưởi vì sự ngu xuẩn của đám cán bộ quản giáo, hay như trong "Hai Mối Tình Của Người Tù Biệt Giam" ở hoàn cảnh cực kỳ khổ sở vì bị nhốt trong Connex mà vẫn thơ thới vì kiên trì bất khuất trong cuộc chiến "ai thắng ai? Cộng sản cải tạo tôi hay tôi cải tạo lại chúng...". Người đọc hai tập truyện "Bên Đục Bên Trong" và "Niềm Đau Bạc Tóc" có thể dễ dãi đi đến một nhận xét những truyện ngắn này "chống Cộng". Từ "chống Cộng" ở đây hiểu theo nghĩa xấu (péjoratif) là không hùa theo thời thượng với đám "văn nghệ" mang cái mặc cảm huyễn tưởng "giao lưu văn hóa" như tôi đã chỉ ra trong một bài viết vào năm 1989 là muốn "đồng hành với thế lực chính trị, chờ đợi sự cởi mở của chính sách văn hóa, văn nghệ" để luồn lọt sao cho sách được in trong nước "dưới sự kiểm duyệt của nhà nước cộng sản" và bọn lãnh đạo "văn hóa tư tưởng". Sự khác biệt ấy ở chỗ nào? Một đằng, cái minh trí sáng suốt của những người cầm bút trên mặt trận chống lại chính sách văn hóa văn nghệ chỉ đạo, ngu dốt, hủ lậu và cuồng tín xuất phát từ một chủ nghĩa đã cáo chung, một đằng là cái xuẩn động của những người cầm bút khởi sự là đào thoát ra bên ngoài, đi tìm tự do nay chỉ vì một huyễn tưởng viển vong về một chỗ đứng mà hàng phục trong tinh thần vô sỉ. Dưới mắt tôi, hai tác phẩm nói trên đáng trân trọng về mặt minh trí sáng suốt cần thiết đó.
Những ngày ở Lille, tháng Chín 2005.
Đặng Phùng Quân ( Cựu Giảng viên Đại Học Văn Khoa Sài Gòn) | ||||
Sunday, July 23, 2017
THANH VÂN * HUẾ XƯA
Một Góc Huế Xưa – Thanh Vân
(Góp nhặt cát đá của Giao Lê, anh ruột của ca nhạc sĩ Diệu Hương)
Cảnh hoàng hôn chụp từ một quán cà phê ở Chợ Cống năm 2007. (Colnav Nguyen)
Đọc
bài dưới đây, anh sẽ hình dung ra được ‘cái em ngày xưa’ và “cái em
ngày nay” của Thanh Vân trong Khung trời kỷ niệm. Cũng luôn gởi đến bạn
đọc Một góc Huế xưa của Thanh Vân để cùng Thanh Vân chia xẻ chút nhớ
nhà, nhớ nước, nhớ góc phố thân yêu ngày xưa”còn bé”Cảnh hoàng hôn chụp từ một quán cà phê ở Chợ Cống năm 2007. (Colnav Nguyen)
Thân chúc tất cả một năm mới sắp tới An bình,Hạnh phúc
ThanhVân
Một góc Huế Xưa
Đã
hơn ba mươi năm đất nước của chúng ta bị nhuộm đỏ và đối với dân chúng
Việt Nam bên này vĩ tuyến, dù đang ở trong nước hay đã di tản ra ngoại
quốc, chúng ta cũng xem như đã ba mươi năm đánh mất Quê Hương, đang lưu
vong ở xa hay bị lưu đày ngay trên chính quê cha đất tổ.
Ba mươi
năm bao nhiêu đổi thay, ngày nào tóc còn xanh giờ đã ngả màu sương khói…
Mùa Xuân, kỷ niệm chợt kéo về khuấy động tâm tư…
Xứ Huế của tôi,
như mọi người thường nhận xét, ở gần thì thương, ở xa thì nhớ. Huế tuy
nhỏ nhưng có những vùng riêng biệt: hai bên cầu Trường Tiền là hai miệt
khác nhau. Một bên cầu có chợ Đông Ba, có Thượng Tứ, có Gia Hội, bên kia
cầu là cầu Bạch Hổ, là Phủ Cam, là Đài Phát Thanh, là Đập Đá. Bên kia
Đập Đá là Vĩ Dạ, Thuận An, bên ni Đập đá là Chợ Cống, Phú Xuân…
Ngày
xưa tôi ở bên ni cầu, bên ni Đập Đá, khu có hai trường trung học nổi
tiếng miền Trung là Trường Đồng Khánh và Trường Quốc Học, tôi ở bên ni
Đập Đá quẹo phải đi về Chợ Cống. Không hiểu sao lại có cái tên Chợ Cống
quê mùa như rứa mặc dù Chợ Cống đã đào tạo ra thật nhiều nhân tài, xấu
tốt tùy người nhưng ít nhất cũng có danh tiếng.
Tướng Tôn Thất
Đính, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên đều lớn lên và qua tuổi thanh niên ở Chợ
Cống, đạo diễn Lê Mộng Hoàng cũng lớn lên từ Chợ Cống và hiện vẫn còn ở
lại quê hương. Các danh ca Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết cũng trú ngụ ở Chợ
Cống khi hai người mới bắt đầu sự nghiệp cầm ca ở Đài Phát Thanh Huế.
Đầu năm tôi kể hầu bạn đọc sinh hoạt Chợ Cống của tôi, biết đâu không
mang lại cho quý bạn một vài phút giây mơ mộng của một góc nhỏ xứ Huế
giờ tuy còn đây nhưng đã thật xa trong quá khứ.
Tôi lớn lên trong
căn nhà của ông nội tôi nằm ven bờ sông Hương nhìn ra Đập Đá, trên con
đường Chợ Cống giờ được đổi tên là Nguyễn công Trứ -con đường Chợ Cống
chạy dài xuống tận Phú Xuân. Đời sống ở cái góc nhỏ xứ Huế này thật khép
kín, thật êm đềm nhưng bên trong là cả một trời kỷ niệm tuy đầy sóng
gió. Người Huế khép cửa trong nhà nói chuyện hàng xóm. Tuy thầm thì với
nhau nhưng… không thiếu chi tiết dù có dặm thêm mắm muối cho câu chuyện
đậm đà, gay cấn hơn. Ông nội tôi có bảy người con, hai trai đi kháng
chiến trong đó có cha tôi và năm cô con gái. Ngày cha tôi đi tôi chỉ mới
ra đời có mấy tháng, các cô săn sóc tôi… và bao nhiêu chuyện xứ Huế,
nhất là ở góc Chợ Cống này các cô đều thầm thì bàn tán, tôi biết chuyện
to chuyện nhỏ của góc Chợ Cống từ khi tôi chưa biết nói.
Mà Chợ
Cống, Đập Đá của tôi thì thật nhiều chuyện. Người đẹp Chợ Cống thì có nữ
ca sĩ Hương Thủy con giáo sư Tôn Thất Lương dạy Hán Văn trường nữ Trung
Học Đồng khánh, có Tôn nữ Minh Đức của mối tình đầu thơ ngây với Nhạc
sĩ Lê Mộng Nguyên trước khi chàng du học qua Pháp. Xa nhau tình cũng xa
luôn, chàng ngưng liên lạc, nàng ở Quê Hương lên xe hoa với chàng sĩ
quan trẻ sau này là Trung tướng Lữ Lan… Chuyện một chàng trai khác đi
Pháp bỏ lại vị hôn thê là chị của nữ ca sĩ Hương Thủy nhưng cũng có đoạn
kết màu hồng. Chàng đi du học, nghe tin chàng mê phồn hoa lấy vợ đầm,
cô hôn thê con ông giáo sư nghèo ở đầu Đập Đá xin bạn bè chung góp lấy
tiền đi tàu thủy qua Pháp đòi chồng. Nàng qua đến kinh đô ánh sáng thì
chàng đã có vợ tóc vàng nhưng con gái Việt ngày đó không có nhiều nên
một chàng bác sĩ Việt cưới nàng làm vợ. Họ sống bên nhau hạnh phúc đến
ngày hôm nay…
Lại còn thêm mối tình của cô tiểu thư trưởng nữ của tiệm
vải Thuận Long lớn nhất cố đô Huế với chàng sĩ quan trẻ Tôn Thất Đính.
Ngày mới trung úy chàng đi hỏi nàng làm vợ, nàng từ chối để cho chàng có
động lực tiến thân, chỉ sau đó vài năm chàng được Tổng thống Ngô đình
Diệm cho lên đến Trung tá và được nàng nhận lời làm vợ, cả xứ Huế ồn ào
vì cái đám cưới của đôi trai hùng gái sắc vừa có quyền vừa có tiền nhất
cố đô. Ngày đó, Trung tá to lắm, xứ Huế nhỏ xíu nên cô tôi kể chàng được
đề cử đi làm tư lệnh một đơn vị quân đội ở Đà nẳng và hai vợ chồng được
cả xứ Huế tiễn đưa đi làm quan xa.
Ôi cái xóm Đập Đá, chợ Cống
của Huế xưa đã cho tuổi thơ của tôi thật nhiều niềm nhớ. Bên ni Đập Đá
thì chuyện này, bên kia Đập Đá là Vĩ Dạ lại có chuyện khác… Tôi lớn lên
với những chuyện tình của các cô gái đẹp Vĩ Dạ, chị em cô Dạ Khê nước da
ngăm ngăm, dáng dấp mảnh mai đã làm cho nhiều chàng phải thức đêm nắn
nót thư tình, chị em các cô Trà Mi, Diệm Mi ở Hàng Me một thời là Hoa
khôi xứ Huế, bao nhiêu giấy mực đã được xử dụng để ca tụng nhan sắc của
những nàng Mi.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hàn
Mặc Tử khen con gái gốc Vĩ Dạ có khuôn mặt chử điền, riêng tôi lớn lên
không học chữ nho nên không biết “chữ điền” có phải là “vuông” hay không
mà thấy các chị em cô Dạ Khê khuôn mặt vuông thật với nước da ngăm
ngăm, đôi mắt lá dăm và thân hình mềm như cành trúc. Hình như các nàng
thôn Vĩ này đã qua định cư ở quận Cam, chị em các cô Mi trắng như trứng
gà bóc thì đang ở Pháp. Những người đẹp này bây giờ đã có tuổi, không
biết họ có bao giờ thương nhớ cái góc Huế nhỏ xưa của một thời con gái
đẹp như thơ ?
Xứ Huế ở miền Trung nghèo đất cầy lên sỏi đá thật
nhưng sao đời sống mặn nồng êm ả, một đời sống mà ta không thể nào tìm
thấy ở những đất nước văn minh sang giàu, ngay cả những năm tôi ở Saigon
cũ cũng không thể nào tìm thấy được. Ngày tôi còn nhỏ, thật nhỏ, tối
nào có trăng, mẹ tôi thường cho tôi đi theo bà ra Đập Đá đón những gánh
cá tươi do mấy bà gánh từ Thuận An lên Huế bán, những con cá ngừ tươi
rói đem về kho với dứa và ớt ăn với bún sao mà ngon tuyệt vời. Còn cái
mưa ở Huế thì Nguyễn Bính cũng phải thua:
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây
Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầy
(Giời mưa ở Huế)
Mưa
chừng ba ngày nước sông Hương dâng cao, tràn qua Đập Đá, chúng tôi lại
được lội nước, nước tràn vô nhà, bàn ghế chất chồng lên, cả gia đình
sống trên cao, chợ búa ngưng họp, chúng tôi lại được ăn cơm nóng với
thịt, cá hộp… giờ thấy đồ hộp mà ngao ngán nhưng những ngày lụt lội bé
bỏng xưa kia, cá hộp Maroc xào mặn với tiêu hành nước mắm sao mà ngon
thế. Vài ngày sau nước hạ cô tôi lại đón ghe thuyền đi câu trên sông
Hương chạy ngang qua nhà để mua những rổ cá mờm vừa tươi vừa ngọt đem
nấu canh với me đất mọc sau vườn. Canh cá mờm tươi, tôm tươi rim với
thịt ba chỉ ăn với cơm nóng, chẳng có món ngon nào trên thế giới này bì
được… Tuổi thơ ơi, sao mà nhớ quá !
Ngày ba tôi đi kháng chiến, mẹ
tôi là cô giáo còn trẻ đẹp. Các cô tôi kể cho tôi nghe ngày đó học sinh
trường Quốc Học Huế rất thương ba mẹ tôi. Ba tôi đi, mẹ tôi ở nhà với
ba đứa con còn nhỏ. Trong những dịp liên hoan của trường Quốc Học, những
nam học sinh thường lên hát tặng mẹ tôi bài “Đợi anh về” để an ủi mẹ
tôi. Khi tôi biết đọc, tôi thấy trong nhật ký của chị tôi có bài hát đó,
bài hát rộn ràng tình yêu Quê Hương của một xứ Huế bừng bừng khí thế
kháng chiến chống thực dân.
Em ơi đợi anh về
Đợi anh về em nhé
Mưa có rơi dầm dề
Ngày có buồn lê thê
Thì em ơi, em cứ đợi
Đợi anh anh lại về trong tiếng cười ngạo nghễ,
Anh của em lại về…
Thanh niên Huế ngày đó mơ một ngày Quê Hương giải phóng, họ an ủi người cô phụ có chồng đi xa để rồi ngày Huế-Saigon-Hànội thông thương thì người rủ nhau ra biển vượt biên, người khăn gói giã từ vợ con đi tù không hẹn ngày trở lại.
Chỉ vài năm sau,vấn đề áo cơm cũng làm cho Mẹ tôi quên ba tôi và đem chúng tôi rời khỏi Huế vào Saigon…
1975
ba tôi trở về không làm sao cười nổi vì gia đình đã tan nát, con thì
đứa đi xa, đứa vào trại cải tạo và bỏ xác ngoài Vĩnh Phú xa xôi. Tiếng
cười ngạo nghễ chẳng bao giờ vang lên trong căn nhà trống vắng với bàn
thờ ông bà nội khói hương nhạt nhòa. Các cô tôi viết thư qua Mỹ kể rằng
suốt ngày chỉ nghe cha tôi thở dài như xót xa như hối tiếc… Tôi lại lạc
đề mất rồi, tôi đang kể chuyện Đập Đá, Chợ Cống một góc Huế xa xưa cho
các bạn nghe trong những ngày đầu Xuân cơ mà!
Cái góc Huế ngày xưa đó đã để lại cho tôi bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, đã an ủi tôi thật nhiều trong những ngày xa xứ.
Đập
Đá cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Bà Thân thị Nhân Đức vợ Giáo sư
Hoàng Ngọc Thành… Đập Đá của tôi đáng nhớ thật phải không các bạn ?
Hơn
ba mươi năm xa quê hương tôi vẫn hằng mơ có một lần được về thăm lại xứ
Huế thân yêu. Năm vừa qua, trong chuyến về thăm quê cũ tôi đã đi tàu
lửa từ Hànội về lại Huế. Chuyến tàu Thống Nhất rời Hànội lúc 10 giờ đêm
và đến Huế vào lúc 12 giờ trưa hôm sau. Chuyến đi khá yên lành, có hạng
ghế mềm, ghế cứng, couchette sạch sẽ, không thua Amtrak Mỹ và có phần
sạch sẽ hơn TGV (xe lửa tốc hành) của Pháp. Các bữa ăn được nhân viên
hỏa xa mặc đồng phục đẩy xe đi phát từng người, thức ăn để trong hộp bao
giấy bóng. Lòng tôi nôn nao nghĩ đến giờ phút đặt chân lại nơi chôn
nhau cắt rốn. Tôi đi tàu lửa vì thèm nhìn lại nhà ga Huế. Nhà ga Huế để
lại cho tôi những kỹ niệm êm đềm với người ông nội già thương yêu.
Ngày
tôi học đệ tứ gia đình tôi đổi về Đànẵng, tôi học một năm ở trường
Lycée. Vào dịp nghỉ hè tôi đi xe lửa về Huế thăm gia đình ông nội. Tôi
đã sống những ngày hè thật vui bên ông và các cô trong căn nhà cạnh bờ
sông, các bạn ngày nhỏ của tôi vẫn yên lành sống ở Chợ Cống và đi học
trường Đồng Khánh, chỉ có tôi theo gia đình vô Saigon, lên Dalat ở nội
trú rồi về Đà nẵng một năm. Về lại Huế tôi thấy mình như nhỏ bé lại
trong tình thương của tất cả những người trong xóm Chợ Cống đã biết tôi
từ khi mới ra đời cho đến ngày Mẹ tôi đem chị em tôi vô Nam. Cô bạn Giao
Cầm ở đầu Đập Đá mỗi lần gặp lại tôi đều trêu chọc. Cô hay hỏi tôi ‘Bộ
ông nội mi đi làm công chức hay răng mà sáng mô cũng đúng tám giờ là
thấy ông vác dù đi ngang nhà, chiều năm giờ vác dù về rứa? Hỏi ra mới
biết ông nội tôi ngày ngày đi bộ từ Đập Đá lên chùa Tường Vân ở chân núi
Ngự Bình để thăm bà cố. Ngày mô ông cũng đi về thật đúng giờ.
Ngày nhỏ
tôi nghĩ là núi Ngự Bình xa lắm, không biết ông tôi đi bộ bao lâu mới
đến Chùa. Tôi muốn nhìn lại nhà ga Huế vì thăm ông xong khi tôi rời Huế
vô lại Đànẵng, tàu rời ga lúc 12 giờ trưa, buổi sáng sớm ông tôi đã xách
dù đi bộ lên nhà ga, ông cho tôi tiền đi cyclo nên mười một giờ trưa
tôi mới đi. Ông tôi là vậy đó, nuôi con khôn lớn, hai con trai đi kháng
chiến lại chăm lo cho các cháu nội ngoại. Vậy mà khi ông tôi mất tôi đã
không được có mặt cạnh ông, ba tôi đi kháng chiến về ông cũng không hết
buồn vì anh tôi đi cải tạo và tôi thì xa mịt mù. Chuyến này về thăm Huế
tôi muốn nhìn lại nhà ga để nhớ lại bao sự hy sinh và thương mến của ông
nội tôi đã dành cho tôi từ ngày tôi còn thơ ấu. Sau ba mươi năm nhà ga
Huế đổi khác rất nhiều, rộng rãi và tiện nghi hơn xưa. Tôi gọi cyclo ngã
giá về Chợ Cống, người phu xe đòi tám ngàn, chỉ có năm mươi xu Mỹ.
Xe
đi ngang hai trường Quốc Học, Đồng Khánh rồi Đài Phát Thanh, ngang qua
cầu Trường Tiền rồi đến Tòa Khâm mới về Đập Đá và quẹo vào Chợ Cống. Con
đường ngày xưa giờ vẫn êm mát, đã tháng chín nên những hàng cây phượng
vĩ không còn hoa đỏ và cũng vắng tiếng ve sầu. Đập Đá của tôi cũng thay
đổi nhiều, nhà những người bạn nhỏ ngày xưa đã được thay thế bằng những
mini hotels và quán giải khát. Những căn nhà kiểu biệt thự nằm trong hẻm
đường Chợ Cống chạy dọc theo bờ sông Hương giờ đã biến thành quán Càphê
đèn mờ.
Chỉ môït cái hẻm nhỏ mà có đến ba quán Càphê, ghế bàn đặt dọc
theo bờ sông, buổi chiều vào giờ tan học các học sinh từng cặp đưa nhau
đến ngồi tâm tình cho đến khuya. Nam nữ học sinh Huế bây giờ dạn dĩ
không thua chi học sinh Mỹ, Pháp, nói chi đến học sinh, sinh viên Saigon
ngày xưa. Họ tỏ tình nhau cụ thể chứ không qua lá thư e ấp của “Ngày
xưa Hoàng thị” nữa. Huế của tôi giờ cũng như Saigon, Tân Định, cũng quán
cóc, cũng hột vịt lộn bày bán khắp nơi, cũng ăn nhậu, các cô gái cũng
mặt đồ bộ ra đường như con gái trong Nam.
Một tuần ở Huế với cô
tôi, tôi được đưa đi thăm mộ ông bà nội và cha tôi ở chân núi Ngự Bình…
Nó không xa như tôi tưởng, từ Chợ Cống đi taxi chừng hai mươi phút đã
đến… Mộ ba tôi nằm cạnh mộ ông bà nội, cạnh đó có ngôi mộ của anh tôi
được cô tôi ra trại cải tạo Vĩnh Phú hốt cốt về chôn. Ông Bà nội, ba
tôi, anh tôi… ba thế hệ một cuộc chiến tương tàn. Ngày trở về sao mà
buồn quá!
Từ Chợ Cống tôi cũng kêu cyclo qua chợ Đông Ba, ông phu
xe đòi ba ngàn, chưa đầy hai mươi xu Mỹ, tôi lau chau trả giá hai ngàn
xong vội vàng nói “Ông ơi, tui quen miệng chứ mấy (bao nhiêu) cũng
được”. Tôi nặng có hơn bốn mươi kílô vậy mà lên dốc cầu trường tiền ông
phu xe phải xuống đẩy chứ không đạp nổi. Lòng tôi chợt xót xa cho dân
Việt thật nhiều. Hai mươi xu, bên Mỹ chẳng mua được gì…
Bảy ngày
trôi qua thật mau. Rồi tôi cũng phải rời xóm Chợ Cống, rời xứ Huế của
tôi để vào Saigon và đi về Mỹ. Buổi sáng đầu Thu đầy nắng vàng cô tôi và
các em đưa tôi lên ga… Lần này ra đi không biết khi nào gặp lại, cô tôi
đã già, tóc bạc phơ. Nhìn cô tôi nhớ lại không biết bao nhiêu là kỷ
niệm. Xứ Huế là cô ngày xưa với dáng dấp mảnh mai và mái tóc dài thật
dầy, thật đen, Chợ Cống, Đập Đá là cô với những câu chuyện đầu xóm cuối
xóm, là những bát canh cá ngạnh nấu măng chua, canh cá mờm nấu me đất.
Cô là tuổi thơ, là dĩ vãng êm đềm…
Tiếng còi tàu vang lên, tôi
ngậm ngùi nhìn cô, nhìn xứ Huế thương yêu một lần cuối… Sân ga Huế buổi
sáng đầu Thu đầy nắng vàng sao mắt tôi rưng rưng lệ…
Ôi ! Nắng vàng sao mà nhớ nhung!
Có ai đàn lẻ để tơ chùng?
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy,
Xui bước chân đây cũng ngại ngùng
(Huy Cận)
THANH VÂN
Hình
tượng của em trong bài thơ Khung Trời Kỷ Niệm thật là một thời vàng son
của tuổi mộng vừa tròn. Bây giờ em thế nào? Hương thời gian còn đọng
lại trong hình hài nầy không hay là tàn phai theo màu thời gian tím
ngắt.????Bây giờ tóc em chắc đã đổi màu…Than ôi! Thời con gái còn đâu!
Gởi
bạn đọc một bài thơ nhỏ của ngày xưa….đọc ,dù vụng về, cũng sẽ cho các
bạn một vài phút giây thư giản.. Tết gần đến rồi… quên hết muộn
phiền,hờn oán cho con tim vui và tâm tư nhẹ nhàng….Riêng gởi đến các bạn
không quân…những cánh chim trời giờ đã gảy cánh.
Mong thay
TVtn
Mong thay
TVtn
Thuở áo trắng em tóc dài mang dại
Vở học trò ôm trọn với đôi tay
Dấu chân chim trên lối cỏ từng ngày
Thơ ngây quá, tim chưa từng rung động
Rồi một sáng người về trong giấc mộng
Áo bay đen như ngự cả phố phường
Tan học về em đứng đợi người thương
Nghe lá cỏ xôn xao niềm hạnh phúc16 tuổi em bước chân vào mộng
Dệt thương yêu bằng môi mắt học trò
Chiều đan tay trên phố với người mơ
Nghe kỹ niệm chất chồng theo năm tháng
Em cứ ngở dòng đời trôi êm lặng
Chuyện chúng mình đẹp mãi với thời gian
Nào hay đâu duyên kiếp đã lỡ làng
Anh ở lại! Em phương này sầu nhớ
Gọi tim anh qua từng nhịp tim thở
Mưa ngoài trời hay nước mắt em rơi?
Một lần yêu em vẫn nhớ trọn đời
Bao kỹ niệm những tháng ngày yêu dấu
Thanh Vân
No comments:
Post a Comment