MẶC ĐÔNG * ĐÈO CẢ
Đèo Cả Vắt Mẹ Địu Con Vượt Chết
Mặc Đông
Sương tay bồng tay xách lặng lẽ bước theo lối mòn từ chỏm núi Đá Đen
cuối cùng, bên kia khụy chỏ đường đèo là bãi tranh cao phủ cả người,
muốn đi tắt tới điểm hẹn khỏi bị phát hiện của bọn lính biên phòng, ba
mẹ con Sương rất vất vả, khó nhọc chui qua những bụi rậm, những dây leo
chằng chịt, những ghềnh đá, gặp có đoạn lên cao thẳng tuột, có chỗ chúi
vực, mà theo người hướng dẫn chỉ cách bám chặt những rễ cây, vịn những
cành phụ vướng sà, níu nó mà đi, mà vượt qua.
Hơi núi bốc lên, hơi người tỏa ra vì mệt nhọc, nhớp nháp mồ hôi ướt đẫm áo lãnh quần thoa bắt mùi, những con vắt núi vô thần nhô đầu ra từ những đống lá mục, những mô đất, đá trũng rêu rong đen khì bò ra bám chặt, hút sâu dưới mắt cá, có con bò duỗi vào vùng cấm địa, bất thần vì cái hốc đau đáu của loài vắt vô tri nên nàng phải liều lĩnh tuột xuống khạc nước miếng vào thân con vắt, nàng thò tay tóm cổ bắt nó ra vứt bừa lên phiến đá đen gần đó bụng nó hút no đầy máu chạm phải cạnh bén của đá làm vỡ bụng, máu me tung toé vương vãi lên lá, lên cây...
Mùi máu và khí núi làm tăng nồng độ hiếp dâm của vắt núi, hình như chúng nó đói nhừ, lã bã từ những đợt lá mục, những gốc cây ngổn ngang lò đầu ra hướng về nơi bãi máu người mà nàng bắt vứt quăng ra loang lổ trên tảng đá. Chúng bu như vẹm! Sương còng lưng, áo rách, chưn trần truồng nhập vào tốp bảy người đàn ông lẫn đàn bà và ba đứa con nít lam lũ đã ngồi chờ ở đó có lẽ khá lâu, nghe người tổ chức nói, phải đợi ba người nữa từ Nha Trang ra là chúng ta xuống núi vượt qua đường mòn kia rồi đến cồn cát của bãi đáp, nằm ở cuối khe suối chảy ra biển Vũng Rô là có ghe đến đón.
Nam, chồng của Cô Tư chưng hửng mới biết Sương có chồng vượt biên chết tìm tự do đã hai năm, Sương cùng hai con nhỏ hóm, khật khưỡng tay nải, tay bồng vừa đến điểm hẹn giao người thì người dẫn đường kế tiếp chìa tay ra... Sương hiểu ý, vì nàng đã bốn năm lần vượt biên bị lộ, bị lừa, bị bắt nên nàng nhanh như một cái máy, nàng bảo khéo Sa chạy vào hốc đá bên kia "tè " đi con! Sa là đứa con gái mới chỉ năm tuổi đầu biết gì đâu những toan tính của mẹ.
Và những mưu kế, toa rập ruồng rẫy của người đời nay, mà chỉ có một điều giữa Sa và bé Nhuệ tri thức non nớt ấy làm sao hiểu nổi được những tai biến phức tạp đang xảy ra cho gia đình cha mẹ, nhất là cho đồng bào thân thuộc...Chúng chỉ có một ước mong làm sao đó gặp ba nó là một niềm vui khó tả nhất của trẻ thơ. Khi mà những ngày tháng chúng nhớ ba vời vợi. Sa vừa "tuột" xuống là "tè" ngay,
Sương sợ con không hiểu nổi cái manh mung của sự giao dịch, chuyển, đưa người vượt biên, vì một nhẽ nàng gặp được đường dây này chỉ mới có ngày hôm qua, nên sự móc nối giữa người tổ chức cũng như người vượt biên như Sương, không ai biết ai là người thực hiện, ai là người lừa đảo, cả ngay người thân thuộc khi mà đòi tiền mãi lộ tiền mua bãi, tiền mua ghe, tráo trở như thế nào đó như là việc dựng chuyện cướp ghe, cướp thuyền để cho người ở lại nhất là chủ ghe khỏi bị liên lụy... tra hạch tù tội cho nên hình thức trao tiền như là việc cướp của giết người là việc rất thông thường xảy ra theo chiều dài thời gian hành của người vượt biên trên biển Đông.
Cho nên người dẫn đường đến bãi đáp mới, đưa tay ra là nàng hiểu ý ngay.... Cái ruột tượng vải mà nàng chôm của ông già nàng nó khá dài so với vòng lưng của bé Sa, nên nàng thận trọng lắm mới bỏ vào dăm ba "cây" cùng ít lương khô vặt để phòng hờ nàng buộc vào lưng của con nên khi bé Sa tuột quần tè là một việc làm rất khó khổ, Sương tẳn mẳn xốc ruột tượng lấy ra.
Các con còn quá nhỏ không hiểu nổi được những lời mẹ nói bây giờ đâu con! Ngày mai kia nếu cuộc vượt thoát này thành công ra được nước ngoài các con học hành đỗ đạt thành tài, lớn khôn, thì tự nó sẽ trả lời cách hùng hồn chính đáng nhất, tại làm sao mẹ con mình vượt thoát không sống nổi nơi quê hương của chính mình.
Cố gắng lên các con, trời không phụ lòng mẹ con mình đâu! Sau cơn mưa, cơn bão, thế nào trời cũng trở nên quang đãng, nắng ấm chan chứa tình người! Chàng ơi! Hỡi chàng....bên kia bờ đại dương, vùng trời tự do kia có biết chăng nỗi thống khổ cuộc hành trình vượt thoát này phải trả giá bằng máu và mồ hôi khơi dòng nhỏ giọt quyết tâm, cỡi sóng từ chỗ chết ra đi, tìm cho mình một lẽ sống mà giá trị, vật chất nào so sánh bằng!
Cơn mưa núi thình lình dẫn đến vẫn chưa dứt, gió thổi tạt nghiêng từng trận lá cây xào xạc bì bõm bay quắt vùi giập vào mặt nàng những giọt nước mưa mang mùi khí núi rét căm căm lạnh. Ba mẹ con, nước mưa, nước mắt chảy thành dòng xuống má lăn vào môi mặn tanh rợn người thế mà nàng cương quyết bước những bước chắc nịch qua những chỏm đá, những khe suối. Nàng và hai con nàng, hổn hển bò, níu lên ghe, trời cũng bắt đầu sẫm tối, thuyền lướt sóng ra khơi, xa dần, xa dần những núi đồi, những bãi cát, đồng nội óng ả đượm tình quê hương yêu dấu. Tuy nàng kiệt sức, lả người qua cuộc vượt thoát từ trên đường đèo cao dốc thẳm, xuống núi đá triền sâu những con vắt, những con rít, rắn độc nàng vượt bước qua, nàng cố ngoi đấu lên khỏi mạn thuyền. Đứng dậy hướng về miền quê hương vẫy tay chào tạm biệt lần cuối!
Nàng sụt sùi ngấn lệ mắt mờ xa, xa dần quê hương chìu mến! Nàng nghẹn ngào, âm thầm cất lên lời từ giã mẹ già yêu quí của nàng, con vượt đại dương để tìm chồng...tìm tự do! Và con nguyện sẽ trở về thăm lại mẹ già, thăm lại làng quê, nếu chúng con còn sống! Tự Do, hai chữ hình như trong đời nàng chưa bao giờ hiểu cái nghĩa ấy là gì?
Nhưng bây giờ đầu nàng đội trời, chân nàng đạp núi băng đèo, cỡi sóng dữ...đói khát, cướp biển, hải tặc mọi rợ, hung hãn... nàng ngoi đầu lên, rồi hụp lặn xuống bể đời để rồi nàng trả giá quá đắt, sống còn! Thế nhưng, nhân loại hình như chưa có ai thấu hiểu nỗi thống khổ cuộc hành trình vượt chết này của mẹ con nàng, người đàn bà Việt Nam quả cảm nhẫn nhục, chịu đựng bao nỗi khổ đau trong ba mươi năm chiến tranh Nam Bắc điêu tàn chỉ vì cái ý thức hệ ngoại lai cỏn con. Và, sau khi chiến tranh tạm kết thúc, để Việt Nam có được hòa bình? Để Việt Nam có được tự do? Người thì tranh nhau giải Nobel Hòa Bình, người thì tranh nhau chức tước này, quyền nọ! Để mặc cho lương dân Việt Nam sống sao đó, đói nghèo, tù tội, sống chết mặc xác chúng bay có can chi tới!
Tự do rồi sao, hòa bình rồi sao nàng phải bồng con vượt qua bao nguy hiểm, bao nhiêu gian lao để đi tìm tự do để tìm cho con nàng có cuộc sống mới! Nàng và con nàng, ói mửa tới lòi mật xanh, ngất ngưởng thiếp đi khi mà con tầu chao đảo hụp lặn qua bao con sóng dữ, qua bao trận cuồng phong bão tố, ngay cả những đêm lênh đênh trên biển cả không có một giọt nước ngọt nhỏ vào miệng...mà biển là nơi chứa ba phần tư lượng nước khổng lồ của vũ trụ mênh mông, thò tay xuống ghe lõm bõm là nước tung toé trắng xóa, nhưng nước biển quá mặn, mặn đắng, làm sao con người có thể uống được, đi rừng, đi núi đói có thể hái lá cây, moi móc bắt côn trùng, sâu bọ, dế mèn mà ăn cho khỏi đói, tìm tới nơi suối độc cũng có thể uống cầm chừng qua cơn khát, qua cơn đói mà đi, mà sống, còn biển thì không, nước biển, cá biển không thể nào dùng được qua cuộc hành trình vượt biển tìm tự do này! -
Khát nước mẹ...con quá khát...nước, mẹ ơi! - Con chết...chắc mẹ ơi! - Cho con...nước! Nước đâu mẹ...Việt Nam? Sa thiếp đi ba ngày đêm liền trên mạn con thuyền trôi dạt biển Đông vô tận. Nàng cầm cự được sức sống còn của nàng thóp thoi từng giây bằng vào nước... đái của nàng, của con nàng. Và nàng bưng mặt khóc...những giọt nước mắt nàng bì bõm, rơi lăn trên má nàng là những khi nàng bồng con rà miệng của con vào mà liếm, mà mút cho qua cơn khát nước...con đòi nước...để giữ được hơi thở mong manh còn lại của con, của nàng mà ngước đầu lên, vịn nếm giọt nước mắt sau cùng mà đứng dậy bước lên những bước chân trời mới, Tự Do!
Thuyền nan bị sóng dập đã tơi bời nên một phần đã hư hỏng trầm trọng, nước biển lưng chừng đáy ghe buồng tầu, máy hết dầu, bị bão đạp gãy láp trôi dạt mông lung không định hướng, thuyền theo con sóng tấp vào vùng đá cạn, san hô, nhấp nhô bọt thủy triều xuôi ngược về đâu! Nàng, chưn hồng mảnh mai nõn đạp lên ốc đảo bén nhọn, máu bắn ra loang lổ từng phiến, từng tảng san hô đỏ ngầu, tay năm ngón móc moi những con sò, con ốc lên mang lại bẹn ván ghe rồi hai tay yếu đuối gân guốc bóc ra từng con nhỏ xíu cho con ăn, lót bụng đoạn trường lên cơn đói, lên cơn khát, với tấm ván cỏn con ngất ngư nằm chờ chết chín ngày, rồi mười ba ngày...rồi cả tháng trên vùng trời biển mặn.
Chiều trên ốc đảo san hô nước mặn, mặt nàng đã bao lần hướng lên bầu trời cao lòng nàng gởi trọn vào chân không, cầu nguyện nhân danh những vị tối cao nào Phật, nào Chúa, nào Thần Thánh ngự ở trời cao, biển cả bao la hãy tỏ ra lòng từ bi bác ái ban phép mầu nhiệm mà cứu muôn dân cứu mẹ con nàng đã và đang lâm nguy chờ chết!
Hỡi Chúa toàn năng! Hỡi Phật Thích Ca mầu nhiệm vô biên! Chúng con cần các ngài cứu chết! Các con cần phải sống!Dân tộc Việt Nam chúng con cần phải sống để sinh tồn như bao nhiêu dân tộc trên thế giới! Mẹ, và nhất là hai con phải sống để gặp lại ba, một tương lai đang chờ đón, một tương lai thật sự đấy hứa hẹn con ơi!
Nàng và hai con thiếp đi như một phép lạ, ngủ ngon một giấc dài trên tấm ván chưa bao giờ có từ ngày, giờ khởi hành đã non một tháng trôi nổi quần quại, bầm trầy, nào xuống núi, nào băng rừng, vượt sóng ngàn khơi, bây giờ nàng nằm soãi trên một bãi cát trắng phau, nàng tựa mình ngồi dậy tưởng chừng hai con nàng lìa khỏi tầm tay nàng mà về dưới lòng biển sâu thẳm, nàng không ngờ còn có cả hai đứa con thơ yêu dấu của nàng nằm sóng soài bên nàng như một phép lạ trời ban.
Nàng bò một cách chậm chạp, uể oải, đau điếng thân xác tiều tụy như một cái xác khô da bọc xương, nàng bò dần dần lại gần...gần lại, nàng đưa tay với tới ôm hai con vào lòng...nàng hun hút khóc nỉ non, hú hồn còn sống. Nàng ngó quanh, đây là đâu nhỉ? Nàng khẽ gọi con...các con của mẹ! Mẹ đây nè, mẹ của hai con đây!
Nàng, tay chống cát, tay chống đầu gối ngồi dậy đứng lên....Mắt nàng đầy Trũng những giọt nước mắt, chan chứa lóng lánh lăn tròn trên gò má hốc hác, nám cháy...vương vãi vài ba sợi tóc bù xù, tả tua bay vờn trước gió mới...đất trời lạ hoắc! Trước mặt nàng xa xa là ngôi làng những túp nhà như dân... Nàng nách hai con bước tới...tai nghe văng vẳng tiếng người trọ trẹ cả đàn ông lẫn đàn bà bản xứ... - Nước...nước...tìm nước cho con...Sa thiểu não đòi mẹ...nước! Bé Nhuệ ngất ngớp:...Con cần nước! Nàng quá xúc động khi nghe hai con đòi nước trong cơn sốt, hớt hải kinh hoàng.
Nàng bịu hai con vào lòng ôm chặt khi mà một toán người vừa đàn bà, vừa đàn ông tiến lại gần.. hình như họ muốn nuốt chửng ba mẹ con nàng, hay dở trò cưỡng hiếp, cướp bóc thô bạo như những tên cướp biển mà nàng thường hay nghe trước khi nàng quyết định vượt biên.
Nhưng nàng, trong bối cảnh này rất bình tĩnh không chút tỏ ra sợ hãi...dù là có gặp phải bọn cướp biển đi chăng, vì nàng còn gì nữa mà phải sợ, khi thân thể nàng quá tiều tụy, da bọc xương, quần áo rách rưới tả tơi, hai con nàng nằm sụi lơ như cái xác chết...ruột tượng đựng "cây"của hai me con nàng cũng lìa xa nàng từ hồi nào rồi có còn đâu nữa mà cướp, với hiếp...
Nàng phó thác...cho số phận của mình! Chết hay sống hình như nàng không mấy quan tâm nữa mà nàng chỉ cần có nước. Cho chính nàng và hai đứa con của mình! - Nước....nước...con cần có nước! - Con khát...nước...quá! Người, người ơi! Mẹ Việt Nam ơi...! Chúng con cần...có nước!
::: Mặc Đông :::
Sáng 18 tháng 10/2017, Đại hội lần thứ 19 của cái đảng Cộng Sản già hơn đảng cộng chú em Việt 9 năm, đã rình rang khai mạc với 2.280 đại biểu, sau khi gạt nốt 7 vị “ruồi-muỗi”!
Theo nhận định của nhiều nhà quan sát chính trị thế giới thì, khác với VN, Tầu cộng họp Đại hội mà không còn “căng thẳng và bất đồng nội bộ” vì họ đã thanh toán hết những kẻ bất đồng qua chiến dịch “Đả hổ diệt ruồi”, đi tới hơn một triệu đảng viên bị thanh toán, bắt đầu từ Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang.
Khác với mọi lần đại hội, mỗi lần cái đảng cộng sản có tới 86.7 triệu đảng viên này họp, người ta đều trông chờ một cuộc đổi mới tư duy, tổ chức, và những đường lối, những khẩu hiệu kiểu “tiến bộ (hay thụt lùi?) bất cần nguyên lý chính trị cộng sản”, như kiểu Đặng Tiểu Bình “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào cũng được, miễn là bắt được chuột!”.
Và quả là họ nói và làm ngay, nhiều đại hội trước, họ đã hạ bệ về hình thức cờ Đảng, hình Mao, giã từ hẳn 2 ông Tây râu xồm Mác-Lê trên các diễn đàn. Trong các báo cáo, họ gần như không đả động gì đến cái “chủ nghĩa xã hội, quy luật tiến trình tất yếu của loài người”, mà thay thế bằng “một xã hội khá giả, toàn diện theo kiểu Trung Quốc”!
Và thế là, (xin lỗi các bạn còn tiếc nuối cái thiên đường mù XHCN không thể có đó), đất nước 1 tỷ 3 (một tỷ ba) con người đó đã trở thành một cường quốc kinh tế số 2! Điều này, chính tạp chí Forbes đã cho biết: Số tỉ phú đô-la trên thế giới hiện nay Trung Quốc nhiều hơn Hoa Kỳ: 594/575! (nhưng cho đến 2017 này thì trong số đó chưa có tỉ phú nào lọt được vào danh sách 20 tỉ phú giàu nhất thế giới!). GDP năm nay tăng tới 6,8% nhưng theo báo “Kinh tế Sài-Gòn" thì… sẽ 7% là cái chắc!
Đứng đầu những người Tầu, nhờ đường lối mèo nào cũng tốt, là Vương Kiện Lâm (Wang Jianlin), trùm bất động sản, chủ tập đoàn Dalian Wanda (Vạn Đạt Đại Liên)!
Theo sau, đứng thứ 2 là Jack Ma, ông trùm của hãng Alibaba!
Đặc biệt ở những nhà tỉ phú này: Không phải là những tỉ phú do ăn cắp, tham nhũng rồi trốn đi nước ngoài!
Họ đều là những mèo ra mèo, không phải là bọn mèo chuyên ăn vụng. Họ cũng không có ghế vàng, quyền uy gì trong bộ máy của đảng hay chính quyền!
Chính họ là những người đã đóng góp cho sự “khá giả” của nhân dân Trung Quốc với những con số GDP tăng vọt chưa từng có, suốt 2 nhiệm kỳ, thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cái đất Tầu rặt một mầu xanh công nhân, dân vẫn còn phải đi hài sảo [còn gọi là Hài thảo hoặc Thảo hài - tức là một thứ giày cỏ, được bện thủ công bằng một loại cỏ dài, dai và mềm]
Chính họ đã dám bỏ tiền đưa công nhân của Cty họ đi Pháp thăm bảo tàng Louvres và nghỉ mát ở Nice!
Và cuối cùng, chính họ đã là nguyên nhân đẻ ra chuyện phải thi hành kỷ luật hơn một triệu người cộng sản… mèo, “chẳng ra đen cũng không ra trắng” mà ông Tập đã phải tung ra cái chiến địch “đả hổ, diệt ruồi”, do sự thoái hóa trong đảng ngày càng nghiêm trọng!
Vậy thì, để kinh tế thay đổi nhưng làm sao con người (kể cả cộng sản gộc) không bị chuyển đổi từ ngai vàng quyền lực sang dựa cột hay nhà đá suốt đời?
Lần đại hội này, ban thường vụ Bộ Chính Trị, gồm 7 người thì chỉ còn lại 2 là đủ tuổi (Tập và Lý). Thay thế sẽ là (chẳng có gì mà phải bí mật) 7 cái tên mới toanh mà ai (kể cả tớ) cũng đã biết. Họ đều là những kẻ tâm đồng ý hợp với vua Tập, người mà báo chí thế giới đã “đánh hơi” thấy từ rất sớm:
– Một thời mà Tập sẽ trở thành một vua Mao mới
– Một thời sẽ lên ngôi một Poutine Tàu
– Một thời sẽ chấm dứt những cải cách của Đặng Tiểu Bình và để nói một cách hí họa hơn, Tập hòa giải hai hoàng đế Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình!
Còn tờ Le Figaro ngày 18/10/2017 thì chạy các tít lớn như:
– “Chủ tịch Trung Hoa trên đường tiến đến quyền lực tuyệt đối”;
– “Lễ đăng quang lần hai của Tập, kẻ toàn lực toàn quyền như Thượng Đế” (Le tout puissant),
hoặc thẳng thừng hơn:
– “Tập Cận Bình, hoàng đế đỏ”.
Riêng báo tiếng Anh thì chờ đến ngày thứ hai, khi bản báo cáo chính trị của Tập mà họ gọi là bản báo cáo marathon đã được công bố, mới nặng lời lên tiếng phê phán về ý đồ của Tập muốn làm vua cả thế giới về mọi mặt, đặc biệt về quân sự, sẽ là một lực lượng được cải tiến để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù mà tờ The Huffington Post và The New York Times đã chạy những cái tít chẳng có “ngoại giao” gì.
Riêng báo chí VN thì hình như có không ít nhà ný nuận mắc-xịt giả cầy đã vỗ đùi đánh đét mà hua-ra rằng:
– Có thế chứ! Ai bảo ông anh cứ theo mãi con đường “Mèo nào cũng được”?
– Ai bảo ông anh “Không biết đập chuột mà không để vỡ bình”?
– Ai bảo ông anh không biết “Chống nội xâm là ta đánh ta”?
– Ai bảo ông anh làm kinh tế thị trường mà không có “định hướng xã hội chủ nghĩa”, để phát sinh ra lắm hổ, lắm ruồi muỗi như dzậy?
Tóm lại, trong báo cáo của Tập, chỉ riêng câu này “xây dựng xã hội khá giả, toàn diện, đẩy mạnh phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”, đã thấy được đồng chí Tập sáng suốt đến chừng nào! Phải lãnh đạo đất nước bằng bàn tay thép của người cộng sản. Báo chí phương Tây họ đã gọi “Xi Jinping, ông hoàng đế đỏ”, kệ họ! Đường chúng ta đi đến chân trời cộng sản là tất yếu!!!
Thế là, cả bộ máy truyền thông quốc doanh khổng lồ của Hanoi đều thi nhau chúc mừng một cách rùm beng và hể hả cái sự Cộng đàn anh Tàu đã quay lại “đổi cho giống hệt" sự cai trị tuyệt đối và toàn diện của Cộng Việt đàn em …
Tuyệt đối không một chữ được phép nói đến những giọng lưỡi phản động của báo chí phương Tây nhá!
Cũng tuyệt đối không được nói đến những tuyên bố nghe mà tức anh ách như chuyện xây tới 7 đảo nhân tạo ở Biển Đông là… đúng quyền và lợi của Trung Quốc! nữa nhá!
Rõ ràng, Đảng đàn anh đang chuyển mình để theo kịp đảng đàn em trong quan niệm và tổ chức quản lý và lãnh đạo đất nước
Lạ thật!!!
THƠ QUỐC HỌC
Mỗi chiều nhìn cảnh thiếu nguời
Chú chó cào cửa cứu chủ Việt khỏi cháy rừng ở California
Nhờ sự báo động của chú chó Key, ông Phước chạy thoát kịp thời khi ngọn lửa từ đám cháy rừng đã bao trùm nửa căn nhà ở Bắc California.
Ông Phước bên chó Key bị mù một mắt trong đám cháy. Ảnh: Ân Đỗ.
TÔI MAY MẮN
tôi may mắn có em trong đời tôi
mỗi sáng hồng giọt sương đọng làn môi
thơm cỏ dại chùm hoa vừa tỉnh dậy
nắm tay nhau cho đỡ lạc chơi vơi
tôi may mắn có em trong nỗi nhớ
nhớ em ngay từ lúc hẹn sững sờ
trời chưa thắm nhưng tình vừa bừng nở
em chưa xa sao đã để mong chờ
tôi may mắn có em trong xót thương
nửa hồn đau tê lặng giữa đoạn trường
em ngọn gió nâng cánh chiều về muộn
nghẹn ngào chia từng mảnh sống vui buồn
tôi may mắn có em giờ phút đó
cuối cuộc đời thanh thản giấc hải hồ
rạng đông nhắn hạt sương về chỉ lối
em và tôi dìu nhau bước vào mơ
I AM SO HAPPY TO HAVE YOU
I am so fortunate in my life to have you
with your rosy lips fresh as morning dew,
fragrant as just woken wild grass’ scent,
to be hand in hand not stray in discontent.
I am so lucky to have you in desolation,
desiderative before our date in vibration.
Day hasn’t broken yet but love just created;
you have not left, but I already awaited.
I am so providential to have you in bane
while half of my soul is paralyzed in pain,
to lift this late even wing you are a zephyr
to share life’s joy and vicissitude together.
I am so happy to have you at the right time
my strong will at the end relaxes in chime.
Dawn directs us through the dew to beam:
You and I lead one another into our dream.
Translation by THANH-THANH
Thanh-Thanh
Bảy Mươi Năm Làm Thơ
Cảnh-Sát-Hóa
Biến-Loạn Miền Trung Vietnamese Choice Poems
TO MY FRIENDS
There will be a time we also return to earth;
Then why still fight over win or lose to worth.
The drifted soul, corpse will fall into shade;
There is no more resin when the leaves fade.
There will be a time we all meet face to face,
Look right in our eye to recall our youth trace.
Let us see that our sight should not be shy,
Hold each other’s hands with hearts open high.
There will be a time we prostrate ourselves, sad,
Burn incense/aloe wood, mourn a gone comrade,
Shed tears when the hearse is going to move off.
Well, why at present we have the heart to scoff.
There will be a time all of us get back to dust
As a handful of ashes deserted in life―it must.
Then why still waste energy to blindly write
The words, terms, expressions to friends blight?
And everybody, everything is an empty rotation:
Come and go are eternally the laws of causation.
Why don’t we live with, use cordial tone on earth
In order not to regret our journey since our birth.
Chuyện mùa đông
Thôi nhắc làm chi những chuyện sầu
Khi lòng chua xót trắng thương đau
Bao nhiêu miền cũ vời xa ấy
Buồn lắm tôi nào quên nổi đâu
Lối ngõ người đi đã cỏ mòn
Câu nguyền thu đã hẹp không gian
Hồn nghe vừa dậy mùa vui cũ
Định nói, lời xem quá ngại ngùng
Ôi gió may về động dấu chân
Trời xưa mây vẫn rộng như lòng
Sân chiều chao nhẹ dăm tờ lá
Và khói sương về cuộn cánh song
Lá thư xanh mát hoen màu lệ
Đôi cánh hoa vàng ép tả tơi
Bấy nhiêu có đủ cho người nhớ
Mà thấy lòng như muốn ngậm ngùi
Đã bảo rằng không kể chuyện sầu
Dối lòng cho dịu chút thương đau
Nhưng ngày đông đó tôi còn thấy
Nên cố quên mà quên được đâu
NHÃ CA
The Winterly Story
Well, what should I recall the sad stories for
While my heart is still full of dolor, why more?
How many of those old far-away so unkind
Alas! I haven’t been able to erase from my mind!
The grass had worn under your feet in persistence
And your promises had shortened the distance;
I felt in my soul the old merry season to arise,
Intending to speak, but scrupled through tries.
Oh the autumnal breeze moved the footprints alright,
The old sky’s clouds were still ample as my plight.
Some leaves softly swung in the evening courtyard,
And smog blurred outside my windows barred.
The blue love letter was stained, the color of tears;
A few pressed yellow flowers tattered through years.
Are those tokens sufficient for one to conceive
So that my innermost feelings seem to grieve.
I told myself the sad stories no longer to relate
(Just deceived my heart, tried the pain to abate!)
However, that winter I did still feel the past span;
That is why the more I try to forget the less I can.
SÔNG BẾN HẢI - CHIA ĐÔI TÌNH MẪU TỬ
NỬA ĐÊM THỨC GIẤC
Tình xưa cách giang hà
Tình gần đã tử biệt
Một mình trong canh chầy,
Muôn vạn nỗi xót xa!
Sơn Trung
*
HCM hôn dữ dội kéo dài là quá khả ố và vô sỉ:
Từ khai thiên lập địa các nguyên thủ quốc gia đi công du thì chỉ độc nhất HCM ló mòi dê gái. Trong nước Hồ lại là đề tài tốt về dâm cho lối văn chương tiếu lâm, châm biếm:
Hoặc: "Một năm hai thước vải thô Làm sao che được Bác Hồ, em ơi / ló ra."
Đây là trường hợp nước Việt Nam của cộng sản hiện nay.
Hiện tượng quái đản thứ nhất là cái xác ướp một tên vấy máu, đồ tể 54 giữa lòng Hà Nội.
Hiện tương quái đản thứ hai là mấy trăm tượng đài ngàn tỷ tên “dê già dân tộc” khắp nước.
Toàn dân học tập HCM ư? sẽ tê liệt vì nọc độc của loài độc xà rắn chúa cực độc.
Hệ quả là CSVN chóng giao nước cho Tàu, hoàn thành sứ mệnh (diệt tộc) lịch sử!
Ngày thành hôn đã đến, quan khách, bà con hai họ lũ lượt đến Great World tham dự đông đảo. Nhà trai tổ chức tiệc cưới linh đình khoảng 300 mâm. Chủ nhà quen biết rộng cho nên mời cả những viên chức quan trọng trong đảng ủy và hành chánh quận, tỉnh...
Dù sớm dù muộn, tiệc cưới cũng đã tiến hành rất thuận lợi. Gia chủ đã thâu được mấy ngàn Mỹ Kim và gần 50 triệu Việt Nam.
Phòng tiệc nhỏ gọn dành cho 13 người nên mang đến không khí ấm áp.
Dàn nhạc hòa tấu còn mang đến những giai điệu du dương, làm bữa tiệc trên biển thêm dịu dàng, lãng mạn.
Một phòng tân hôn đẹp cũng được thiết kế dành cho đôi uyên ương nghỉ lại ngay trên du thuyền.
Họ lên du thuyền và được chở ra khơi bằng mấy thuyền nhỏ. Trên những
thuyền nhỏ, những tài công, những nam tiếp viên đều có mặt mày hung ác.
Khi thuyền nhỏ đi một quảng xa bờ mấy cây số, bọn này bèn khảo đả bố mẹ và cô dâu chú rể. Kết quả tiền mừng cưới bị lột sạch, may mà chúng không xâm phạm cô dâu nhưng bao kim cương ,vòng xuyến đều bị lột sạch.
Còn các quan khách, họ hàng cô dâu chú rể cũng bị bóc lột may mà còn quần lót để trở về!
Wed, 10/18/2017 - 11:14 — tuankhanh
Một chế độ gồm toàn khuôn mặt thớt.
Phan Huy
“Tôi đã từng rất ngạc nhiên khi được biết quyền tự do đi lại và cư trú, đặc biệt là quyền tự do xuất nhập cảnh dành cho chính công dân Việt là điều kiện tiên quyết mà Chính phủ Việt Nam phải chấp nhận để nhận được các khoản vay từ World Bank.” Tôi nghe thạc sĩ Trần Kiên nói vậy, và cũng “ngạc nhiên” không kém.
Hoá ra tại vì World Bank nên nhiều câu ca dao (mới) của VN đã chóng bị thời thế vượt qua, và sắp chìm vào quên lãng:
May mà có cuộc Bầu Cử Lãnh Đạo UNESCO vào ngày 10 tháng 10 vừa qua. Kết quả, theo BBC:
Về sự kiện này, Tiến Sĩ Dương Hồng Ân (VOA) có đôi lời bình nghe không được “tử tế” gì cho lắm:
TRUƠNG CHÂU HỮU DANH
NHÀ GỖ XAC DÂN
Chỉ trong vòng 40 năm, những cánh rừng bạt ngàn của Việt Nam gần như bị xoá sổ. Bao nhiêu năm chiến tranh, hứng chịu bom đạn, rừng vẫn bạt ngàn xanh "che bộ đội, vây quân thù". Sau chiến tranh thì rừng mất sạch.
Tôi nghĩ, lâm tặc cólẽ sẽ chạnh lòng khi thấy những gì quý nhất của rừng nằm ngạo nghễ ở nhà cán bộ… chống lâm tặc.
Đài Tiếng Nói Việt Nam tại Toronto và Montreal, phát thanh từ ngày 5 đến 8 Decembre 2002
Do Giáo Sư Phùng Quang Tuấn và nhà văn Võ Kỳ Điền, phần 2
……….
Phùng Quang Tuấn:…. Bạn tốt nghiệp đại học, có cái học khoa học luận lý Tây Phương, tại sao bạn lại thích những chuyện huyền bí mơ hồ như vậy ?
Đáp : từ nhỏ tôi thường có những quan niệm ngược đời, thường suy nghĩ khác thường và không được hướng dẫn đúng đắn, chọn ngành, chọn nghề như các cháu bây giờ. Khi đậu Tú Tài xong, bạn bè ai nấy cố gắng chọn cho mình một nghề nghiệp vững chắc hầu có một tương lai ổn định, tươi sáng. Còn tôi thì không. Về trình độ học vấn thì tôi thuộc hạng học khá giỏi, tất cả các kỳ thi đều đậu hạng cao. Thời đó chưa có chế độ thi tuyển, muốn học ngành nào thì cứ nộp đơn vô học nhưng mà tôi lại nhẩn nha nhẩn nhơ, thi vô ban Việt Hán ở Sư Phạm và Văn Chương Trung Hoa bên Văn Khoa. Để chi vậy ? vì từ nhỏ hễ nghe ai nói tới chữ nho thì cho là khó lắm. Mà tôi cái gì khó thì ưa thử, cái tánh hiếu thắng lớn quá mà. Hơn nữa trong nhà có các bộ sách chữ nho, nhiều lắm, sách bói, sách thuốc của ông bà để lại, xưa lắm rồi, không biết họ viết cái gì ở trỏng, mỗi lần cầm lấy các quyển đó thì tức mình không chịu nổi…
Phùng Quang Tuấn :….. cứ như vậy mà anh đã học chữ nho.. để chơi, không thèm học nghề gì khác ? .
*Võ Tấn Phước : Cứ như vậy sau 6 tháng ở đại học, tôi đọc lỏm bỏm được Tam Quốc Chí nguyên bản ngon lành, té ra chữ nho cũng đâu có khó như mình nghĩ. So sánh lại thì thấy con nít Tàu cũng đâu có giỏi hơn con nít Việt Nam. Khó hay dễ là do mình tưởng mà thôi. Đọc hết tiểu thuyết rồi thì đọc tới sách bói, sách tử vi, phong thủy, tướng mạng,… cuốn nào có được thì đọc hết.
Tôi cũng đã biết bói từ khi chưa biết chữ nho. Thân phụ tôi là thầy thuốc đông y, ông cụ biết chữ nho rất giỏi, ngày xưa học thuốc với sư phụ người Huế. Vị thầy nầy vì làm chánh trị chống thực dân Pháp phải trốn lánh ở đảo Phú Quốc cư ngụ trong chùa Sùng Hưng Cổ Tự của gia đình tôi. Ba tôi biết ông là người tài nên xin theo học. Tôi chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn quẻ bói ba tôi đoán cho bạn bè và những người khách quen thuộc. Tỷ lệ trúng rất chính xác và khá cao. Tôi đâm ra say mê và học cách chấm và đoán quẻ bằng chữ Việt. Hồi đó bất cứ việc lớn việc nhỏ gì cũng gieo quẻ thử coi đúng không và đúng tới mức độ nào. Điều gì nên tin và điều gì không nên tin. Do cái tánh hay thắc mắc nên cứ tìm tòi, khám phá… rồi đâm ra lậm chuyện bói toán hồi nào không hay.
Hỏi : xin anh cho biết sơ qua về các khoa bói mà anh thích nghiên cứu và theo anh thì con người có tự do hay có số mạng, nên tin bói hay không tin bói.
Đáp : hỏi chi mà khó quá vậy, đó là câu hỏi nhức đầu nhân loại từ lâu rồi. Trả lời sao cũng trúng, mà sao cũng trật. Tuy vậy tôi có thể khẳng định là dù văn minh hay chậm tiến, con người ai cũng mê bói hết dù bây giờ là thế kỷ 21 rồi, vì đó là bản năng. Cũng có những người dứt khoát không tin nhưng đó là bề mặt, hoặc do giáo dục hoặc do tôn giáo cấm cản nhưng tự trong tiềm thức đều có niềm tin đó. Bản chất loài người là yếu đuối, từ thời tiền sử con người sống trong sợ hãi, hoang mang trước những hiện tượng của thiên nhiên, vũ trụ… Bốn nỗi khổ lớn nhân loại mà đức Phật có nêu là sanh, lão, bịnh, tử. Mà tử là nỗi lo sợ lớn nhứt. Chết do nhiều cách : sấm sét, thú dữ, tai nạn, bịnh hoạn, giặc giã, kẻ thù.. Làm sao để tránh cái chết và làm sao để biết trước được ? Dân tộc nào cũng vậy tìm đủ mọi cách để làm sao biết trước được lúc nào nắng, lúc nào mưa, lúc nào có giặc, lúc nào khoẻ mạnh, lúc nào ốm đau…
Bây giờ thì chúng ta có khoa học, có khoa thống kê, sưu tập các dữ kiện, làm các thí nghiệm nhiều lần rồi tiên đoán các kết quả sẽ xảy ra để giúp cho cuộc sống thoải mái, sung sướng hơn như trong y học, kỹ thuật, kinh tế, chánh trị, xã hội,… mà hướng dẫn các việc làm ngày càng hợp lý và chính xác.
Ngày xưa làm gì có khoa học, làm gì có khoa thống kê, máy móc chính xác như bây giờ… các bậc hiền triết, thánh nhân tức là những bậc trí thức cổ đại chỉ còn cách nghĩ ra bói toán để tiên đoán, hầu mong cho cuộc sống được an toàn hơn… Coi tướng, coi tử vi hoặc tử bình là áp dụng óc quan sát với khoa thống kê. Trung Hoa có một dân số đông đảo nhứt thế giới và một lịch sử lâu dài. Hàng ngàn năm quan sát tìm những dữ kiện rồi đúc kết lại những nét chính yếu rồi ghi nhận những kết quả xảy ra theo một thời gian lâu dài, do đó mà đoán trước được tốt xấu như thế nào.
Còn khoa bói Dịch thì căn cứ vào những khía cạnh siêu hình của quyển Kinh Dịch, bộ kinh làm nền tảng triết lý của Trung Hoa. Quyển Trung Dung của Khổng Tử có viết câu - chí thành thông thánh. Nghiã là hết sức thành tâm thì biết được mạng trời. Con người là một động vật linh thiêng nhứt trên trái đất nầy, cái phần tinh thần tinh anh cao quí do trời cho mình, nếu tập trung lại cao độ thì sẽ biết trước được chuyện xấu tốt. Bốn vị thánh lớn của Trung Hoa là Phục Hi, Văn Vương, Chu Công và Khổng Tử là những người đặt ra khoa bói Dịch, ông thầy bói chỉ là người thông dịch quẻ bói mà thôi. Dĩ nhiên có thông dịch hay và thông dịch dở.
*Vấn đề đặt ra là con người có tự do không? Tôi trả lời dứt khoát là có. Mình trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu. Chớ hổng lẽ trồng dưa mà lại được đậu.
*Nhưng mà cũng có định mạng xen vô nữa, đôi khi mình trồng dưa mà gặp gió bão, hạn hán, trâu bò hoặc sâu rầy phá phách… thì đám dưa mình trồng cực khổ đâu có được trái nào. Người xưa đặt ra bói toán là để tiên đoán coi đám dưa mình trồng đó có bán được trái nào không, nhiều hay ít, lời hay lỗ… đại khái là xu kiết, tỵ hung và biết trước được chút nào thì hay chút nấy, để đỡ lo. Cái bản năng muốn biết trước đó nó thôi thúc, đòi hỏi, lo lắng…
Tóm lại theo tôi thì con người sống trong đời như con cá lội trong dòng nước. Nó tung tăng bơi lội nhưng dòng sông trôi bên đông thì nó theo bên đông, dòng sông trôi bên tây thì nó theo bên tây, nó không tự chủ được đâu tuy rằng nó có cảm tưởng là có tự do. Con người sống trong dòng đời như con cá sống trong dòng nước. Mà muốn biết dòng nước trôi lăn như thế nào thì ngày xưa chỉ biết dùng khoa bói toán mà thôi.
Hỏi : khoa bói toán ngày xưa mà bạn nói đó, bây giờ có giá trị hay không.
Đáp : -tôi nghĩ là có. Tuy khó mà giải nghiã tại sao nó lại đúng nhưng tôi theo dõi, quan sát, kinh nghiệm thực tế những kết quả xảy ra… thì thấy tỷ lệ trúng rất cao, nhiều khi độ chính xác cao như có thần thánh trước mặt khiến mình sững sờ. Cũng có nhiều quẻ bói trật, coi lại thì thấy lỗi tại mình, do chủ quan cứ kiếm cái tốt mà đoán, không thấy những điểm xấu sờ sờ hiện ra trong quẻ. Cái lỗi đó là do trình độ mình còn kém, chớ không phải lỗi của thánh nhân, những vị đặt ra khoa nầy.
Người xưa đặt ra khoa bói toán là để xu kiết tỵ hung, tránh điều xấu, đạt điều tốt lành. Biết được chỗ khó khăn mà ẩn nhẫn chờ thời, biết được vận tốt thì hành động không do dự… thánh nhân gọi là thuận với mạng trời thì sống an vui, hạnh phúc. Nếu mình coi bói mà để đi tới chỗ sợ hãi, lo lắng, tuyệt vọng thì thê thảm và kinh hoàng quá. Ông thầy bói không được nói những lời khiến người ta đau khổ đi đến chỗ tuyệt vọng, cũng không được quyền khen ngợi vẽ vời ca tụng bậy bạ để người ta vui mà lấy tiền cho nhiều. Cả hai thái độ đều không đúng.
Hỏi : đó là anh nói tư cách đạo đức của ông thầy bói. Xin anh cho biết quan niệm của người đi coi bói nên như thế nào.
Đáp : người đi coi bói cũng nên biết tại sao mình đi coi bói, nghiã là mình đang làm cái chuyện gì vậy, có giống đi chợ mua thịt mua cá không. Không phải vậy vì bói toán là chuyện mơ hồ, không thể sờ mó và khẳng định chắc chắn được. Đòi hỏi bói toán phải đúng 100% là không tưởng. Cũng vậy đừng nên bao giờ coi ông thầy bói là tiên, là thánh nghe theo răm rắp. Tôi thấy có nhiều người nghe lời thầy nhiều khi đến độ mù quáng mà không chịu phán đoán suy xét.
Ông thầy cũng chỉ như mình thôi, có điều ông ta có nghiên cứu, có học hỏi về khoa nầy, biết hơn mình một chút xíu. Và cái hiểu biết đó cộng thêm kinh nghiệm của thời gian, trúng ở chỗ nào, trật ở chỗ nào. Tuy sách vở bói toán có ghi nhưng không phải là áp dụng được đúng hết, điều gì nên tin, điều gì không nên tin, phải suy xét cho kỹ.
Hỏi : nói như anh vậy thì không nên đi coi bói làm gì.
Đáp : tại sao không, nên chớ. Nếu khoa nầy không có giá trị gì hết thì nó đã mai một rồi, dù xã hội văn minh hay chậm tiến bói toán vẫn tồn tại hoài hoài mà. Đâu có ai ngu dại gì mà tốn tiền làm chuyện vô ích. Nếu nghiên cứu kỹ thì con người có lúc hên, có lúc xui, nghiã là thời vận tốt xấu. Với khoa bói toán chuyện đó có thể thấy được dễ dàng. Như nhà khí tượng tiên đoán trời nắng, trời mưa vậy. Thời vận tốt mình xấn tới hành động, không do dự. Thời vận xấu, mình ẩn nhẫn nhường nhịn cho qua … Như vậy sự thành công và thất bại mình có thể nắm chắc được. Nên đi coi bói cho biết để chọn lựa thái độ hành động đúng nhứt, hay nhứt..
Hỏi : nếu biết được chuyện xấu mình có cách gì hoá giải không.
Đáp : có. Không phải là cúng kiếng, cầu xin mà là suy nghĩ coi phải dè dặt tránh né thiệt hại như thế nào. Phải bình tĩnh đối phó để giảm bớt những bất lợi. Như sẽ bị tai nạn thì cẩn thận đừng lái xe ẩu tả, đừng đi chơi xa, đừng đi chỗ nguy hiểm. Như sắp bị mất tiền thì đừng hùn hạp, đừng ký tên bảo chứng nợ nần, đừng mua stocks ẩu tả…. Như vậy mình có thể tránh được cái vận xấu, nếu không được thì cái xấu cũng giảm bớt đi được phần nào, không bị thiệt hại nặng. Đại khái là dè dặt cẩn thận, nhưng tuyệt đối là tránh sợ hãi rồi đâm ra hoang mang. Chuyện xui chưa thấy mà mình đã bị bịnh thần kinh rồi… Lúc nào cũng phải nhớ lời Đức Phật dạy: tương lai là do ý niệm trong đầu “Ý niệm tác thành định mạng”. Nghĩ điều thiện, làm điều thiện thì đời sẽ tốt đẹp an vui.
Hỏi : anh vừa nói có thể tránh hoặc giảm bớt vận xấu do suy nghĩ và hành động của mình. Xin hỏi là khoa phong thuỷ có giúp gì cho việc tốt xấu không.
Đáp : Có chớ. Anh cư ngụ trong một căn nhà thoải mái, đẹp đẽ, ánh sáng, không khí đầy đủ, cửa nẻo, phòng ốc, vườn tược xinh xắn thì cảm thấy yêu đời, trong lòng anh ấm áp, vui vẻ, yêu đời. Mặt mày anh tươi tắn, mọi người xung quanh cũng vui vẻ theo anh. Ai cũng dễ thương hết sức. Do đó anh suy nghĩ hành động thuận lợi và đúng đắn. Kết quả mọi sự tốt đẹp.
Anh cư ngụ trong một căn nhà rộng quá hay chật quá, cửa nẻo, cầu thang, phòng ốc sắp xếp kỳ cục, tối tăm, trở ngại, u ám, lạnh lẽo, thê lương thì tâm trạng anh không yên ổn, sợ sệt, đồ đạc cồng kềnh, vướng víu, màu sắc dị kỳ… thì anh cảm thấy bực dọc, khó chịu rồi đâm ra cau có, khổ sở. Anh bực dọc sẽ gây ra bực dọc cho người liên hệ… từ đó hành động, suy nghĩ sẽ bất lợi, thất bại.
Những gì sách Phong Thủy Địa Lý viết, do kinh nghiệm tôi đều thấy có thể dùng được. Ba điểm chính yếu của khoa địa lý phải coi cho kỹ là : cửa chánh, phòng ngủ chánh và nhà bếp (môn, chủ, táo. Tôi dùng cuốn Dương Trạch Tam Yếu của Trương Cữu Phong).
-Tôi không tin mấy cái hình bát quái vẻ xanh xanh đỏ đỏ treo trước cửa nhà, nó không có năng lực phù phép gì cả, treo vừa khó coi, vừa tốn tiền mua vô ích.
*Nhưng mà anh Tuấn ơi, nếu sửa chữa mà tốt được như sách vở nói thì tôi làm Tổng Thống rồi, đâu có vất vả, thiếu thốn như bây giờ. Còn phải có phước đức nữa mới hưởng được những chỉ dạy tốt đẹp của tiền nhân. Sách phong thuỷ địa lý nào cuối cùng cũng viết câu : tiên tích đức hậu tầm long. Cứ ăn ở hiền lành, làm điều thiện tốt đẹp thì trời sẽ cho mọi niềm vui thành đạt, cần gì phải coi bói làm chi. Anh đồng ý với tôi như vậy không.
Nhân dịp nầy tôi cám ơn Đài Tiếng Nói VN tại Toronto cho tôi cơ hội đẹp đẽ nầy mà tâm tình cùng quí thính giả của Toronto. Tôi cám ơn quí thính giả đã dành nhiều cảm tình ủng hộ và thương yêu tôi từ những thập niên trước. Kính chào và hẹn có dịp gặp lại.
Phùng Quang Tuấn : Cám ơn anh Võ Kỳ Điền.
HUY PHƯƠNG
SỐ PHẬN CỦA NHỮNG KẺ PHẢN TỈNH
Trong hồi ký “Ðời” của Hồ Ngọc Nhuận, tác giả có nói đến gia thế, tổ tiên ông gốc dòng Hồ Ðắc ở Huế, lưu lạc vào tới ấp Tân Hội Tây, Tiền Giang đã bảy đời nay. Ông cho biết chuyện nhà, “cái sợ lớn nhất của cha” trong câu nói của ông cụ nói với ông:
“Ðời cha sợ nhất là mất con! Có ba cách mất: một là con theo gánh hát, hai là theo cộng sản, ba là theo Công Giáo!” (Chương I- trang 8 – xb 2010)
Ông Lê Hiếu Ðằng, đảng viên hơn 45 tuổi đảng, lên tiếng kêu gọi bỏ đảng và hô hào lập đảng đối lập với đảng CSVN. (Hình: Tài liệu trên báo Thể Thao-Văn Hóa)
Theo gánh hát thì chắc nếu có, cũng là chuyện đàn đúm thuở nhỏ; chơi với các thứ linh mục thân Cộng như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Trần Thế Luân… chưa phải là theo Công Giáo vì tiểu sử không nói ông đã rửa tội chưa; chỉ có chuyện rõ ràng Hồ Ngọc Nhuận đúng là đứa con đại bất hiếu là bất chấp lời cha mà đi theo cộng sản.
Trước năm 1975, Hồ Ngọc Nhuận là dân biểu “đối lập” thời VNCH, giám đốc chính trị báo Tin Sáng của Ngô Công Ðức, tòa soạn cũng là nơi lui tới của Việt Cộng. Hồ Ngọc Nhuận thú nhận: “Tôi chỉ thiếu đi vô khu như anh Nguyễn Ngọc Lan hay anh Châu Tâm Luân mà thôi. Hay chính xác hơn là vô hụt…” (trang17.) Sau 1975, Hồ Ngọc Nhuận là cộng sản thứ thiệt: Ủy viên Ủy Ban TƯMT Tổ Quốc Việt Nam, phó chủ tịch UBMT Tổ Quốc Việt Nam TP HCM.
Sau khi hy vọng “phá xiềng” để theo Lê Hiếu Ðằng, trong bài viết mới đây “Ðàng hoàng hơn!” ông Nhuận lên án cộng sản không tiếc lời, chỉ tiếc là quá muộn màng, sau một thời gian dài, tạm thời giả định là 38 năm, từ khi ông theo cộng sản.
-Ông cho rằng cộng sản không có luật pháp (…đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo ở đây tự vẽ ra Hiến Pháp, ngồi xổm trên luật pháp – những bản án đã được định sẵn.)
-Ông cũng nói cộng sản không có tự do báo chí: “Như về báo chí, miệng thì nói tự do báo chí, luật thì viết báo chí tự do, nhưng đốt đuốc cũng không tìm đâu ra một tờ báo tư nhân, mà toàn là báo của các ban ngành đoàn thể của Ðảng và Nhà nước, từ trung ương đến các địa phương.”
-Ông tố cộng sản cho lập hội theo Hiến Pháp, nhưng dù là Hội Ðá Banh, Hội Nuôi Chim, hay mỉa mai hơn là Hội Người Mù “cũng phải do một đảng viên Cộng sản đứng đầu làm hội trưởng.”
-Ông viết Quốc Hội chỉ là ổ đảng: có “thiên la địa võng” để chận bất cứ ai không là người của Ðảng, không do Ðảng cắt cử, để Ðảng tha hồ một mình một chợ ở Quốc Hội.
Ông cũng than phiền cái mặt trận mà ông cúc cung tận tụy từ bao nhiêu năm nay, không có thực quyền (!)
Theo luật bầu cử thì Mặt Trận Tổ Quốc của ông có quyền chọn người trước khi đưa ra cho cử tri bầu cử, nhưng nay ông Hồ Ngọc Nhuận, ủy viên Mặt Trận Trung Ương này lại tố cáo chính tổ chức của ông ‘100% thường trực lãnh đạo, từ cấp trên đến cấp dưới là đảng viên cộng sản. Kèm bên là một đảng đoàn mặt trận. Kèm trên là một Ban Dân Vận Mặt Trận. Rồi đảng ủy khối, đảng ủy cơ quan… cho tới đảng ủy thành, đảng ủy tỉnh, đảng ủy trung ương…” Mặt khác nhiệm vụ ghê gớm nhất của Mặt Trận là “giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước,” mà ông đã thú nhận “cũng không ai thấy tổ chức Mặt Trận giám sát được gì từ mấy chục năm nay.” Nghĩa là cái tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam chỉ là cái vật trang trí cho đảng, như con công, con phụng người ta vẽ trước cổng chùa, hoàn toàn không có thực quyền.
Nhưng không lẽ đến nay gần nửa đời người ông mới thấy ra! Ông thú nhận là từ năm 1975 ông đã là thành viên của MTTQ, vậy 38 năm nay, ông “nín thở qua sông,” “ngậm miệng ăn tiền” hay là giả mù, giả điếc!
Chuyện tự do báo chí, vào tháng 8, 1975, khi tờ Tin Sáng của ông và Ngô Công Ðức, và Ðứng Dậy của LM Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan được Trần Bạch Ðằng, trưởng Ban Tuyên Huấn Miền cho sống lại, thì cũng không ai trách các ông, những người không hiểu gì về cộng sản, ngỡ là mình có công trạng được CS tin dùng. Nhưng không lẽ, sau đó đến năm 1981, những tờ báo này bị đóng cửa với lý do đã “hoàn thành nhiệm vụ,” như ý Lê Ðức Thọ: “dù có công, tồn tại là sai lầm “hữu khuynh” nên dẹp bỏ!” các ông lại chưa chịu mở mắt hay sao? Công đó là công gì? – Công phá nát VNCH. “Nhiệm vụ” đã hoàn thành là nhiệm vụ gì? Phải chăng là nhiệm vụ lót đường hay nhiệm vụ của những tên hề trong gánh hát mua vui cho khán giả trong khi chờ màn chính khai diễn?
Cả cái tổ hợp sơn mài Lam Sơn của nhân viên Tin Sáng cũng bị bóp mũi.
Tuần trăng mật kéo dài như vậy cũng đã quá lâu rồi. Cái ngày mà “Trung Ương Ðảng và chính phủ dành chiêu đãi các đoàn đại biểu miền Nam” như Lê Hiếu Ðằng đã kể lại trên Tin Sáng: “…Những cái hôn thắm thiết, những bàn tay siết chặt tưởng chừng như không muốn rời ra, những tràng cười thoải mái, cởi mở… Tất cả tạo nên một bầu không khí thắm đượm tình nghĩa đồng bào, đồng chí. Ðúng như Bác Tôn đã nói:’Ðây là cuộc Bắc Nam sum họp một nhà cảm động và đông đủ nhất.’
“Nhưng một trong những điều đã để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc là hình ảnh các linh mục Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Huy Lịch ngồi bên đồng chí Lê Duẩn, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan, Xuân Thủy nói cười vui vẻ và cùng nhau nâng cốc mừng thắng lợi; hình ảnh của Giáo Sư Lý Chánh Trung, người trí thức ‘tìm về dân tộc,’ miệng vẫn ngậm tẩu, thú vị đứng nghe anh Xuân Thủy đọc thơ; hình ảnh của một Kim Cương mà phong cách vẫn rất là ‘Sài Gòn’ ngồi nghe Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp nói về vở kịch ‘Lá Sầu Riêng’ của mình; hình ảnh một Hồ-Ngọc-Nhuận-nhà-báo xông xáo chạy đi chạy lại để chụp những tấm hình ‘ăn ý’ nhất cho những số báo Tin Sáng tới…”
Vậy mà bây giờ, câu kết luận của Hồ Ngọc Nhuận là: “Ở đây, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, trên mọi lãnh vực, là ‘nói một đường làm một nẻo.’ Câu nói này hình như ông dân biểu phản chiến, thân Cộng cũng đã nghe quen quen hồi còn ngồi ở Brodard hay La Pagode Saigon rồi!
LM Nguyễn Ngọc Lan của tạp chí Ðối Diện (1970,) “đồng chí” với Hồ Ngọc Nhuận là cây bút với các bài viết thiên Cộng rõ rệt. Từ năm 1966, Nguyễn Ngọc Lan đã chọn đứng hẳn về phía MTGP, viết lách và hành động dưới sự chỉ đạo từ mật khu và sau Tết Mậu Thân 1968, đã bí mật ra “bưng” để ra mắt và nhận lệnh của Trần Bạch Ðằng. Chính Phạm Hùng, bí thư Trung Ương Cục Miền Nam đã chỉ thị cán bộ CS phải bảo vệ cho Nguyễn Ngọc Lan vì ông linh mục “thờ ma cộng sản” này thường“đi lại bằng một chiếc xe gắn máy cũ kỹ, rất dễ bị ám hại.” (Trần Bạch Ðằng. Tiễn biệt anh, anh Nguyễn Ngọc Lan. vietbao.vn).
Không ngờ nỗi lo của Phạm Hùng đã trở thành sự thật. 30 năm sau, ngày 4 tháng 5, 1998, Cựu Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan (1) và LM Chân Tín đã bị “kẻ lạ” đạp vào xe Honda, trên đường đi đám tang một người phản tỉnh khác vừa từ trần là Nguyễn Văn Trấn (Bảy Trấn,) nhưng lần này không phải do công an VNCH mà do “ngưu đầu mã diện” của chế độ mới. Theo tờ Tin Nhà số 34, tháng 7, 1998, Pháp, trang 20, thì “Giáo Sư Nguyễn Ngọc Lan bị bất tỉnh ngay tại chỗ, mất nhiều máu, đưa vào bệnh viện khâu năm mũi ở đầu và bị nứt xương vai. Chụp scanner thấy trong đầu có máu bầm… Chân Tín bị xây xát.”
Một khi đã phản tỉnh và lên tiếng phê phán chống lại đảng cộng sản, LM Chân Tín và GS Nguyễn Ngọc Lan phải chấp nhận đòn thù. Vì ba tập nhật ký, ngày 5 tháng 8, 1990, công an tới khám xét nhà của Nguyễn Ngọc Lan và tuyên lệnh quản thúc ông 3 năm tại gia vì “vi phạm luật pháp, xâm phạm đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.” Vì ba “Bài Giảng Sám Hối,” LM Chân Tín bị trục xuất khỏi thành phố, biệt xứ tại Cần Thạnh, một họ đạo nhỏ ở huyện Duyên Hải. Ðặc biệt nghiêm trọng là việc GS Nguyễn Ngọc Lan và LM Chân Tín bị mưu sát ngay trên đường phố Sài Gòn như đã thuật ở trên. (Về Nhân Vật Nguyễn Ngọc Lan – Bạch Diện Thư Sinh)
Sau khi Lê Hiếu Ðằng đòi lập đảng “đối lập” và Hồ Ngọc Nhuận liên tiếp trong ba bài viết, lên tiếng ủng hộ chuyện này cũng như đã không tiếc lời lên án đảng cộng sản, nhiều nguồn dư luận cho rằng hai nhân vật này hiện đang là “cò mồi,” được chỉ thị của đảng cầm quyền, “lập đảng để cứu đảng.” Nhưng nếu đây chỉ là thái độ của kẻ đi lầm đường biết dừng chân lại, nhìn lại vũng bùn, máu mình đã lội qua, và nếu đảng còn mang não trạng lo sợ có những “tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” thì số phận những kẻ phản tỉnh phải được xử lý như những chuyện đã xẩy ra trong bất cứ một chế độ cộng sản độc tài nào, từ Liên Xô, Trung Cộng, Bắc Hàn cho đến Việt Nam.
Một lúc nào đó, ông Hồ Ngọc Nhuận phải nhớ lại “lời cha dặn” là một trong ba cách mất con là con đi theo cộng sản. Ông là đứa con bất hiếu, đã phản bội đồng bào, phản bội tổ quốc, nhưng nếu là một người biết phản tỉnh, xin ông “bảo trọng,” và nhớ khi ra đường đừng dùng xe gắn máy, và cũng đừng đi xe ôm để vô tình có thể làm oan mạng người tử tế!
(1) Ðã cởi áo dòng và lập gia đình năm 1976.
Hơi núi bốc lên, hơi người tỏa ra vì mệt nhọc, nhớp nháp mồ hôi ướt đẫm áo lãnh quần thoa bắt mùi, những con vắt núi vô thần nhô đầu ra từ những đống lá mục, những mô đất, đá trũng rêu rong đen khì bò ra bám chặt, hút sâu dưới mắt cá, có con bò duỗi vào vùng cấm địa, bất thần vì cái hốc đau đáu của loài vắt vô tri nên nàng phải liều lĩnh tuột xuống khạc nước miếng vào thân con vắt, nàng thò tay tóm cổ bắt nó ra vứt bừa lên phiến đá đen gần đó bụng nó hút no đầy máu chạm phải cạnh bén của đá làm vỡ bụng, máu me tung toé vương vãi lên lá, lên cây...
Mùi máu và khí núi làm tăng nồng độ hiếp dâm của vắt núi, hình như chúng nó đói nhừ, lã bã từ những đợt lá mục, những gốc cây ngổn ngang lò đầu ra hướng về nơi bãi máu người mà nàng bắt vứt quăng ra loang lổ trên tảng đá. Chúng bu như vẹm! Sương còng lưng, áo rách, chưn trần truồng nhập vào tốp bảy người đàn ông lẫn đàn bà và ba đứa con nít lam lũ đã ngồi chờ ở đó có lẽ khá lâu, nghe người tổ chức nói, phải đợi ba người nữa từ Nha Trang ra là chúng ta xuống núi vượt qua đường mòn kia rồi đến cồn cát của bãi đáp, nằm ở cuối khe suối chảy ra biển Vũng Rô là có ghe đến đón.
Nam, chồng của Cô Tư chưng hửng mới biết Sương có chồng vượt biên chết tìm tự do đã hai năm, Sương cùng hai con nhỏ hóm, khật khưỡng tay nải, tay bồng vừa đến điểm hẹn giao người thì người dẫn đường kế tiếp chìa tay ra... Sương hiểu ý, vì nàng đã bốn năm lần vượt biên bị lộ, bị lừa, bị bắt nên nàng nhanh như một cái máy, nàng bảo khéo Sa chạy vào hốc đá bên kia "tè " đi con! Sa là đứa con gái mới chỉ năm tuổi đầu biết gì đâu những toan tính của mẹ.
Và những mưu kế, toa rập ruồng rẫy của người đời nay, mà chỉ có một điều giữa Sa và bé Nhuệ tri thức non nớt ấy làm sao hiểu nổi được những tai biến phức tạp đang xảy ra cho gia đình cha mẹ, nhất là cho đồng bào thân thuộc...Chúng chỉ có một ước mong làm sao đó gặp ba nó là một niềm vui khó tả nhất của trẻ thơ. Khi mà những ngày tháng chúng nhớ ba vời vợi. Sa vừa "tuột" xuống là "tè" ngay,
Sương sợ con không hiểu nổi cái manh mung của sự giao dịch, chuyển, đưa người vượt biên, vì một nhẽ nàng gặp được đường dây này chỉ mới có ngày hôm qua, nên sự móc nối giữa người tổ chức cũng như người vượt biên như Sương, không ai biết ai là người thực hiện, ai là người lừa đảo, cả ngay người thân thuộc khi mà đòi tiền mãi lộ tiền mua bãi, tiền mua ghe, tráo trở như thế nào đó như là việc dựng chuyện cướp ghe, cướp thuyền để cho người ở lại nhất là chủ ghe khỏi bị liên lụy... tra hạch tù tội cho nên hình thức trao tiền như là việc cướp của giết người là việc rất thông thường xảy ra theo chiều dài thời gian hành của người vượt biên trên biển Đông.
Cho nên người dẫn đường đến bãi đáp mới, đưa tay ra là nàng hiểu ý ngay.... Cái ruột tượng vải mà nàng chôm của ông già nàng nó khá dài so với vòng lưng của bé Sa, nên nàng thận trọng lắm mới bỏ vào dăm ba "cây" cùng ít lương khô vặt để phòng hờ nàng buộc vào lưng của con nên khi bé Sa tuột quần tè là một việc làm rất khó khổ, Sương tẳn mẳn xốc ruột tượng lấy ra.
Các con còn quá nhỏ không hiểu nổi được những lời mẹ nói bây giờ đâu con! Ngày mai kia nếu cuộc vượt thoát này thành công ra được nước ngoài các con học hành đỗ đạt thành tài, lớn khôn, thì tự nó sẽ trả lời cách hùng hồn chính đáng nhất, tại làm sao mẹ con mình vượt thoát không sống nổi nơi quê hương của chính mình.
Cố gắng lên các con, trời không phụ lòng mẹ con mình đâu! Sau cơn mưa, cơn bão, thế nào trời cũng trở nên quang đãng, nắng ấm chan chứa tình người! Chàng ơi! Hỡi chàng....bên kia bờ đại dương, vùng trời tự do kia có biết chăng nỗi thống khổ cuộc hành trình vượt thoát này phải trả giá bằng máu và mồ hôi khơi dòng nhỏ giọt quyết tâm, cỡi sóng từ chỗ chết ra đi, tìm cho mình một lẽ sống mà giá trị, vật chất nào so sánh bằng!
Cơn mưa núi thình lình dẫn đến vẫn chưa dứt, gió thổi tạt nghiêng từng trận lá cây xào xạc bì bõm bay quắt vùi giập vào mặt nàng những giọt nước mưa mang mùi khí núi rét căm căm lạnh. Ba mẹ con, nước mưa, nước mắt chảy thành dòng xuống má lăn vào môi mặn tanh rợn người thế mà nàng cương quyết bước những bước chắc nịch qua những chỏm đá, những khe suối. Nàng và hai con nàng, hổn hển bò, níu lên ghe, trời cũng bắt đầu sẫm tối, thuyền lướt sóng ra khơi, xa dần, xa dần những núi đồi, những bãi cát, đồng nội óng ả đượm tình quê hương yêu dấu. Tuy nàng kiệt sức, lả người qua cuộc vượt thoát từ trên đường đèo cao dốc thẳm, xuống núi đá triền sâu những con vắt, những con rít, rắn độc nàng vượt bước qua, nàng cố ngoi đấu lên khỏi mạn thuyền. Đứng dậy hướng về miền quê hương vẫy tay chào tạm biệt lần cuối!
Nàng sụt sùi ngấn lệ mắt mờ xa, xa dần quê hương chìu mến! Nàng nghẹn ngào, âm thầm cất lên lời từ giã mẹ già yêu quí của nàng, con vượt đại dương để tìm chồng...tìm tự do! Và con nguyện sẽ trở về thăm lại mẹ già, thăm lại làng quê, nếu chúng con còn sống! Tự Do, hai chữ hình như trong đời nàng chưa bao giờ hiểu cái nghĩa ấy là gì?
Nhưng bây giờ đầu nàng đội trời, chân nàng đạp núi băng đèo, cỡi sóng dữ...đói khát, cướp biển, hải tặc mọi rợ, hung hãn... nàng ngoi đầu lên, rồi hụp lặn xuống bể đời để rồi nàng trả giá quá đắt, sống còn! Thế nhưng, nhân loại hình như chưa có ai thấu hiểu nỗi thống khổ cuộc hành trình vượt chết này của mẹ con nàng, người đàn bà Việt Nam quả cảm nhẫn nhục, chịu đựng bao nỗi khổ đau trong ba mươi năm chiến tranh Nam Bắc điêu tàn chỉ vì cái ý thức hệ ngoại lai cỏn con. Và, sau khi chiến tranh tạm kết thúc, để Việt Nam có được hòa bình? Để Việt Nam có được tự do? Người thì tranh nhau giải Nobel Hòa Bình, người thì tranh nhau chức tước này, quyền nọ! Để mặc cho lương dân Việt Nam sống sao đó, đói nghèo, tù tội, sống chết mặc xác chúng bay có can chi tới!
Tự do rồi sao, hòa bình rồi sao nàng phải bồng con vượt qua bao nguy hiểm, bao nhiêu gian lao để đi tìm tự do để tìm cho con nàng có cuộc sống mới! Nàng và con nàng, ói mửa tới lòi mật xanh, ngất ngưởng thiếp đi khi mà con tầu chao đảo hụp lặn qua bao con sóng dữ, qua bao trận cuồng phong bão tố, ngay cả những đêm lênh đênh trên biển cả không có một giọt nước ngọt nhỏ vào miệng...mà biển là nơi chứa ba phần tư lượng nước khổng lồ của vũ trụ mênh mông, thò tay xuống ghe lõm bõm là nước tung toé trắng xóa, nhưng nước biển quá mặn, mặn đắng, làm sao con người có thể uống được, đi rừng, đi núi đói có thể hái lá cây, moi móc bắt côn trùng, sâu bọ, dế mèn mà ăn cho khỏi đói, tìm tới nơi suối độc cũng có thể uống cầm chừng qua cơn khát, qua cơn đói mà đi, mà sống, còn biển thì không, nước biển, cá biển không thể nào dùng được qua cuộc hành trình vượt biển tìm tự do này! -
Khát nước mẹ...con quá khát...nước, mẹ ơi! - Con chết...chắc mẹ ơi! - Cho con...nước! Nước đâu mẹ...Việt Nam? Sa thiếp đi ba ngày đêm liền trên mạn con thuyền trôi dạt biển Đông vô tận. Nàng cầm cự được sức sống còn của nàng thóp thoi từng giây bằng vào nước... đái của nàng, của con nàng. Và nàng bưng mặt khóc...những giọt nước mắt nàng bì bõm, rơi lăn trên má nàng là những khi nàng bồng con rà miệng của con vào mà liếm, mà mút cho qua cơn khát nước...con đòi nước...để giữ được hơi thở mong manh còn lại của con, của nàng mà ngước đầu lên, vịn nếm giọt nước mắt sau cùng mà đứng dậy bước lên những bước chân trời mới, Tự Do!
Thuyền nan bị sóng dập đã tơi bời nên một phần đã hư hỏng trầm trọng, nước biển lưng chừng đáy ghe buồng tầu, máy hết dầu, bị bão đạp gãy láp trôi dạt mông lung không định hướng, thuyền theo con sóng tấp vào vùng đá cạn, san hô, nhấp nhô bọt thủy triều xuôi ngược về đâu! Nàng, chưn hồng mảnh mai nõn đạp lên ốc đảo bén nhọn, máu bắn ra loang lổ từng phiến, từng tảng san hô đỏ ngầu, tay năm ngón móc moi những con sò, con ốc lên mang lại bẹn ván ghe rồi hai tay yếu đuối gân guốc bóc ra từng con nhỏ xíu cho con ăn, lót bụng đoạn trường lên cơn đói, lên cơn khát, với tấm ván cỏn con ngất ngư nằm chờ chết chín ngày, rồi mười ba ngày...rồi cả tháng trên vùng trời biển mặn.
Chiều trên ốc đảo san hô nước mặn, mặt nàng đã bao lần hướng lên bầu trời cao lòng nàng gởi trọn vào chân không, cầu nguyện nhân danh những vị tối cao nào Phật, nào Chúa, nào Thần Thánh ngự ở trời cao, biển cả bao la hãy tỏ ra lòng từ bi bác ái ban phép mầu nhiệm mà cứu muôn dân cứu mẹ con nàng đã và đang lâm nguy chờ chết!
Hỡi Chúa toàn năng! Hỡi Phật Thích Ca mầu nhiệm vô biên! Chúng con cần các ngài cứu chết! Các con cần phải sống!Dân tộc Việt Nam chúng con cần phải sống để sinh tồn như bao nhiêu dân tộc trên thế giới! Mẹ, và nhất là hai con phải sống để gặp lại ba, một tương lai đang chờ đón, một tương lai thật sự đấy hứa hẹn con ơi!
Nàng và hai con thiếp đi như một phép lạ, ngủ ngon một giấc dài trên tấm ván chưa bao giờ có từ ngày, giờ khởi hành đã non một tháng trôi nổi quần quại, bầm trầy, nào xuống núi, nào băng rừng, vượt sóng ngàn khơi, bây giờ nàng nằm soãi trên một bãi cát trắng phau, nàng tựa mình ngồi dậy tưởng chừng hai con nàng lìa khỏi tầm tay nàng mà về dưới lòng biển sâu thẳm, nàng không ngờ còn có cả hai đứa con thơ yêu dấu của nàng nằm sóng soài bên nàng như một phép lạ trời ban.
Nàng bò một cách chậm chạp, uể oải, đau điếng thân xác tiều tụy như một cái xác khô da bọc xương, nàng bò dần dần lại gần...gần lại, nàng đưa tay với tới ôm hai con vào lòng...nàng hun hút khóc nỉ non, hú hồn còn sống. Nàng ngó quanh, đây là đâu nhỉ? Nàng khẽ gọi con...các con của mẹ! Mẹ đây nè, mẹ của hai con đây!
Nàng, tay chống cát, tay chống đầu gối ngồi dậy đứng lên....Mắt nàng đầy Trũng những giọt nước mắt, chan chứa lóng lánh lăn tròn trên gò má hốc hác, nám cháy...vương vãi vài ba sợi tóc bù xù, tả tua bay vờn trước gió mới...đất trời lạ hoắc! Trước mặt nàng xa xa là ngôi làng những túp nhà như dân... Nàng nách hai con bước tới...tai nghe văng vẳng tiếng người trọ trẹ cả đàn ông lẫn đàn bà bản xứ... - Nước...nước...tìm nước cho con...Sa thiểu não đòi mẹ...nước! Bé Nhuệ ngất ngớp:...Con cần nước! Nàng quá xúc động khi nghe hai con đòi nước trong cơn sốt, hớt hải kinh hoàng.
Nàng bịu hai con vào lòng ôm chặt khi mà một toán người vừa đàn bà, vừa đàn ông tiến lại gần.. hình như họ muốn nuốt chửng ba mẹ con nàng, hay dở trò cưỡng hiếp, cướp bóc thô bạo như những tên cướp biển mà nàng thường hay nghe trước khi nàng quyết định vượt biên.
Nhưng nàng, trong bối cảnh này rất bình tĩnh không chút tỏ ra sợ hãi...dù là có gặp phải bọn cướp biển đi chăng, vì nàng còn gì nữa mà phải sợ, khi thân thể nàng quá tiều tụy, da bọc xương, quần áo rách rưới tả tơi, hai con nàng nằm sụi lơ như cái xác chết...ruột tượng đựng "cây"của hai me con nàng cũng lìa xa nàng từ hồi nào rồi có còn đâu nữa mà cướp, với hiếp...
Nàng phó thác...cho số phận của mình! Chết hay sống hình như nàng không mấy quan tâm nữa mà nàng chỉ cần có nước. Cho chính nàng và hai đứa con của mình! - Nước....nước...con cần có nước! - Con khát...nước...quá! Người, người ơi! Mẹ Việt Nam ơi...! Chúng con cần...có nước!
::: Mặc Đông :::
Sunday, October 22, 2017
Hưng Yên
Ði chặt tre người ta cũng không đi một mình mà thường đi thành từng nhóm
hai, ba người để người nọ phụ người kia, tiếp tay nhau mà chặt cành, mà
kéo cây tre ra khỏi bụi, v.v. Nhóm ông Ba Cất chỉ có hai người, ông và
anh Nguyễn Ðình. Ông thích đi với anh Nguyễn Ðình vì anh là người cùng
đơn vị với ông, cùng ở cư xá Trương Công Ðịnh, anh chẳng những đã hiền
lành lại rất tháo vát. Còn anh Nguyễn Ðình cũng thích đi với ông Ba Cất
vì ngoài cái tình thân từ trước, ông Ba Cất còn là một kiện tướng chặt
tre.
Hôm nay là ngày bầu cử, trường học đóng cửa nên thằng Thanh theo thằng
Hoàng ra chỗ sửa xe ngay từ buổi sáng. Khi mọi người đã đi hết, ông Ba
Cất mở “trạn” lấy cơm nguội ra ăn; cánh cửa trạn vừa mở ra ông đã nghe
mấy con gián chạy rào rào. Nhưng cũng chẳng sao, ở trong trại cải tạo
ông ăn phải gián là thường, mấy người khác cũng vậy, mà có thấy ai kêu
la hay khạc nhổ gì đâu! Ruồi, rệp, gián và người cùng ở chung với nhau.
Thau cơm độn khoai lang khô, khoai mì khô hay bo bo lãnh về chưa kịp
chia, ruồi đậu đen nghịt ở phía trên. Thau nước mắm “đại dương” lãnh về
(toàn nước muối pha với chút nước mắm cho có mùi) mấy chục con ruồi nổi
lều bều...
Lấy tay xua xua, đuổi đám ruồi ở thau cơm, lấy thìa vớt mấy con ruồi ở
thau nước mắm bỏ đi rồi chia cơm, chia nước mắm. Lúc chia anh em ngồi lõ
mắt ra nhìn, chỉ sợ chia không đều, phần mình ít hơn phần người khác.
Miếng cháy lớn bằng nửa bàn tay bẻ ra làm mười bỏ lên trên mười phần cơm
của mười người, chỉ nghe có tiếng cằn nhằn là cháy bẻ không đều, miếng
to, miếng bé chứ chẳng thấy ai kêu nhiều ruồi nhiều nhặng bao giờ!
Chúa Nhật không phải đi lao động ở nhà, ai có thăm nuôi thì nấu nướng
linh tinh, đám con bà phước (người không có thăm nuôi) vô sản thì nhìn
người ta ăn rồi nuốt nước miếng, vì Chúa Nhật hay ngày lễ nghỉ không đi
lao động thì không có ăn sáng. Ăn rồi kẻ vá quần áo, người lật mùng, lật
chăn ra bắt rệp. Rệp đâu mà nhiều thế không biết, bắt hôm nay ngày mai
lại có, giết chán mỏi tay nó lại hôi rình bèn bắt bỏ vào cái hũ pê li xi
lin rồi thỉnh thoảng lấy ra xem nó bò chơi.
Còn gián cũng vậy, sinh sôi nẩy nở tràn lan vì giang sơn của mỗi người
tù chỉ rộng không bằng một chiếc chiếu cá nhân nên chiếu của người này
phải trải chồng lên mép chiếu của người kia. Rồi thì muối, mắm, tương,
chao, đường tán, mì vụn v.v. nói chung là mọi thứ tài sản của một người
tù đều được để trên “xích đông” thuộc phần mình ngay chỗ đầu nằm, thế là
trước khi người ăn, gián đã tha hồ mà hưởng thụ.
Buổi sáng trước khi đi lao động ngồi nhai miếng bột khoai mì luộc dầy
bằng đốt ngón tay và lớn bằng hai ngón tay chụm lại lãnh từ tối hôm
trước. Ðang nhai mà nghe đến xựt một cái rồi thấy hôi hôi, tanh tanh, lờ
lợ là biết ngay đã nhai phải một chú gián chui trong cái lỗ hổng ở
miếng bột khoai mì. Nhưng mặc mày, “ông” nhắm mắt nuốt luôn vì nếu nhả
mày ra thì “ông” còn gì đâu nữa mà ăn!
Ông Ba Cất đã ăn phải gián là thường vì thế mà ông chẳng bận tâm gì đến
mấy con gián đang chạy rào rào ở trong cái gác măng giê. Ông chỉ nghĩ
bụng: mình sẽ phải sửa lại cái gác măng giê, nó hở nhiều chỗ quá rồi!
Còn được một bát đầy cơm nguội, ông Ba Cất chan vào một chút nước mắm
rồi ngồi ăn. Cũng may nồi cơm được đậy vung cẩn thận, gián không chui
vào được nên không có mùi hôi. Mới hôm qua, hôm kia đây thôi, còn ở
trong tù mà có được bát cơm như thế này thì đã là một hạnh phúc vô biên.
Quanh năm suốt tháng chỉ ăn độn, những năm về sau này, mùng một tết mới
có được bát cơm trắng nhưng tiêu chuẩn củng chỉ nhỉnh hơn bát cơm ngày
thường một chút nên ăn cũng chẳng đủ no.
Ông Ba Cất ngồi nhai bát cơm nguội chan với nước mắm. Lẽ ra nó phải ngon
lắm, nhưng ông lại không thấy có gì đặc biệt cả, lại nữa ông cũng không
cảm thấy đói để cần ăn.
Từ hôm qua đến nay bữa này là bữa thứ hai ông không phải ăn độn. Bữa cơm
tối hôm qua còn có cá trích kho, rau muống luộc chấm nước mắm và nước
rau muống luộc có bỏ chút muối làm canh. Tuy ăn có ngon hơn ăn cơm tù
nhiều thật, nhưng chỉ sau hai bát là ông đã không ăn nữa. Bà hỏi sao ông
ăn ít thế. Ông bảo trong tù ăn ít nó quen rồi, nay ăn nhiều sợ hại bao
tử, phải từ từ rồi mới ăn nhiều được, cũng như người bệnh lâu ngày mới
khỏi, ăn cho cố vào là có chuyện ngay! Tuy nói thế, nhưng còn một lý do
thứ hai mà ông Ba Cất không nói ra là ông về bất ưng, nhà không biết để
nấu thêm phần cơm ông, nếu ông ăn nhiều thì vợ với các con ông sẽ đói.
Hơn nữa dưới chế độ xhcn ưu việt làm bất cứ một việc gì mỗi người đều có
tiêu chuẩn cả, ngay cả ăn cũng thế.
Từ nhà ông đến đồn công an phường Thắng Tam đường xa hơn 3 cây số, ông
Ba Cất cuốc bộ mất gần một tiếng đồng hồ. Nhưng đi bộ một quãng đường
như thế đối với ông là chuyện tầm thường. Ngày mới từ trại Suối Máu được
đưa đi lao động tự quản ở Trảng Bom, cải tạo viên đã phải vào rừng chặt
tre, chặt lá buông, chặt cây đem về tự dựng lấy lán, lấy nhà để ở.
Trong mấy công tác này, ông Ba Cất thích được đi chặt tre nhất. Muốn có
một cây tre, cải tạo viên phải cuốc bộ cỡ 12 cây số đường rừng để đến
được khu rừng tre.
Chọn được bụi tre vừa ý rồi, người chặt tre phải làm thế nào để sau khi
phá một bụi tre có thể lấy được tối thiểu là 4-5 cây một lúc, chứ nếu
chỉ lấy được một 1-2 cây thôi thì uổng công lắm. Cái khó khăn vất vả
nhất của việc chặt tre là dọn sạch từ dưới lên trên để có thể leo lên
tít trên ngọn. Chặt đứt 5-6 ngọn cây tre đi rồi leo xuống chặt phần gốc
xong là có thể rút được cây tre ra dễ dàng. Tiêu chuẩn của mỗi người một
ngày là một cây tre, dài 6 mét trở lên, phía gốc to tối thiểu phải bằng
cái lon gô. Mà tre là tre rừng lâu năm, cành, lá, gai góc đan chằng
chịt vào nhau, phá được một lối đi vào sát bụi tre là đã vất vả lắm rồi,
nên nếu không kiên trì và không biết cách thì không dễ gì mà lấy được
một cây tre.
Vì là lao động tự quản nên sáng ra lãnh phần ăn sáng và phần ăn trưa rồi
ai muốn đi trước thì đi, ai muốn đi sau thì đi, không bắt buộc phải đi
cùng một lúc với nhau và không có công an võ trang vác súng đi theo. Ấy
là chỉ những người trách nhiệm đi chặt tre, chặt lá buông hay chặt cây
về dựng lán, dựng nhà thôi, chứ những người đi phá rừng hay làm rẫy thì
lại khác.
Ông Ba Cất thích đi chặt tre vì tuy phải đi xa những 12 cây số, đi và về
24 cây số, nhưng sau khi phá xong một bụi tre, lấy được 5-6 cây tre
xuống rồi thì ông và anh Nguyễn Ðình mỗi người một cây, mấy cây còn lại
đem giấu thật kĩ.
Nếu thấy trời còn sớm thì trên đường về có thể vừa đi vừa “cải thiện”
linh tinh: nắm rau sam, nắm cải trời hoặc là quả bí, quả muớp để chiều
hôm đó có cái mà nấu nướng thêm, miễn là vác được cây tre, bó lá buông
hay cây cột về tới trại trước bốn giờ chiều giao cho anh tổ trưởng kiểm
soát, ghi vào sổ báo cáo thế là được. Hôm sau đi chặt tre thì chỉ việc
đến chỗ cũ rút ra hai cây tre đã giấu ngày hôm trước, sau đó thì tha hồ
mà đi cải thiện.
Có lần ông và anh Nguyễn Ðình còn câu được cả mấy chục con cá trắng,
loại cá ở suối trông gần giống như con cá diếc, lớn gần bằng hai ngón
tay. Ðem về làm sạch rồi đốt lửa nướng, hôm ấy hai anh em được một bữa
“bồi dưỡng”! Sau này chuyển trại về Hàm Tân, Thuận Hải Z30C thì toàn là
đẩy xe cải tiến hoặc là gánh nước tưới rau. Ngày gánh 60 đôi nước từ
suối đi lên, dốc ngược, trơn như mỡ mà ông Ba Cất còn đi được xá gì việc
đi bộ từ nhà đến đồn công an có hơn 3 cây số.
Hôm ấy là ngày bầu cử, đồn công an vắng hoe, mọi người đều đi công tác,
chỉ còn một anh công an ngồi ở phòng trực. Thấy ông Ba Cất lò dò bước
vào, anh ta trừng mắt lên hỏi:
- Ði đâu đây, có việc gì, sao giờ này không đi bầu cử mà lại đến dây?
Ông Ba Cất móc túi lấy tờ giấy “ra trại” mở ra cầm bằng cả hai tay đưa cho anh công an, khẽ thưa:
- Báo cáo cán bộ, tôi mới được ra trại, hôm nay đến trình diện đồn!
Anh công an cầm tờ giấy lẩm nhẩm đọc rồi ngước mắt lên hỏi:
- Có thuốc không?
Ông Ba Cất có gói thuốc rê ở trong túi, nhưng nghĩ chả lẽ lại mời cán bộ hút thuốc rê, nên ông nói trớ đi:
- Báo cáo cán bộ tôi không hút thuốc!
Anh công an bỏ tờ giấy ra trại của ông Ba Cất vào hộc bàn, đóng xập lại rồi vẫy tay bảo:
- Về đi, mai đến lấy!
Nói rồi anh ta đứng lên như là chuẩn bị đi đâu đó. Ông Ba Cất nằn nì:
- Báo cáo cán bộ tôi chỉ có mỗi tờ giấy đó, xin cán bộ ký nhận cho là
tôi đã trình diện rồi cho tôi xin lại, vì hôm nay là ngày bầu cử... chưa
nói hết câu thì anh công an đã trừng mắt lên:
- Ðã bảo về đi mai đến lấy còn lải nhải gì nữa, hay là muốn ở lại đây luôn?
Ông Ba Cất lủi thủi đi về lòng vừa buồn vừa lo! Bực mình bất giác ông
lẩm bẩm chửi thành tiếng: ÐM nó, ở đâu cũng giống nhau, trong trại muốn
được yên thân cũng phải hối lộ, về đây cũng thế!
Ở trong trại, tù nhân muốn được yên thân, muốn không bị làm phiền cũng
phải hối lộ cho quản giáo, cho cán bộ võ trang. Hình thức hối lộ là như
thế này:
Tù nhân thì anh nào cũng rách như cái sơ mướp, trên chỉ có bộ răng, dưới
chỉ có “bác hồ”, đói khát triền miên, nhưng những anh “con bà phước”
chả nói làm gì còn những người khác thỉnh thoảng cũng được thăm nuôi. Mà
có thăm nuôi thì thế nào cũng có thuốc rê hay thuốc lào bởi tù cải tạo
hiếm có người không ghiền thuốc.
Cha cố, sư thày, ngày còn ở ngoài đời mà phì phèo điếu thuốc thì thật là
khó coi lắm, thế mà vào đây các vị cũng kéo thuốc rê, rít thuốc lào như
điên! Quan thày thuốc ngày trước cứ sau khi đụng vào bệnh nhân một tí
là lại đưa tay ra cho y tá xịt an côn để xát trùng. Còn thuốc rê với
thuốc lào thì đừng bao giờ nói với các vị vì đó là những thứ thuốc độc
cần phải tránh xa. Thế mà vào đây, tù khám bệnh cho tù, sau khi khám
xong quan đốc tờ được mời quấn điếu thuốc rê hay rít một điếu thuốc lào
thì hai mắt quan đốc tờ sáng lên!
Cũng bởi hầu hết tù nhân sau khi được thăm nuôi thế nào cũng có thuốc rê
hay thuốc lào nên mới có một cái luật bất thành văn là như thế này: Sau
khi được thăm nuôi, buổi sáng hay buổi chiều đi lao động, ngoài tiêu
chuẩn thuốc cho anh, anh phải vấn sẵn 4-5 điếu thuốc rê hay gói sẵn 4-5
bi thuốc lào để hối lộ cho cán bộ quản giáo hay cán bộ võ trang. Số
thuốc này anh giao cho đội trưởng để thỉnh thoảng đội trưởng lại mời cán
bộ hút một điếu.
Cán bộ có thuốc “phê” đều đều sẽ vui vẻ không làm khó dễ anh em. Anh nào
mới được thăm nuôi cũng phải làm nghĩa vụ như thế, cho đến khi trong
đội có người khác được thăm nuôi thì nghĩa vụ của anh mới chấm dứt. Nếu
cùng một ngày mà có đến mấy người được thăm nuôi thì sẽ chia nhau mỗi
người mấy ngày phải cung cấp thuốc cho cán bộ. Ông Ba Cất cứ đều đều 2
tháng được thăm nuôi một lần nên cứ mỗi 2 tháng là ông lại phải thi hành
“nghĩa vụ” một lần. Sáng cũng như chiều, ông vấn sẵn 4 điếu thuốc rê
đưa cho anh đội trưởng cùng với lời dặn: Ðừng đưa cho nó một lúc, cứ đợi
đến khi nó “vã” lắm rồi mới cho một điếu.
Ðưa một lúc nó hút hết rồi thì không có đâu mà cho nữa! Nếu chẳng may mà
lâu quá trong đội không có ai được thăm nuôi, chẳng lẽ người được thăm
nuôi cuối cùng cứ phải cung cấp thuốc cho cán bộ mãi, khi đó “nghĩa vụ”
sẽ thuộc về anh đội trưởng. Anh làm sao thì làm, cán bộ “vã” thuốc quá
trở nên cáu gắt, làm khó dễ anh em thì anh em sẽ ÐM anh đội trưởng. Gặp
những trường hợp như thế thì anh đội trưởng lại đi vòng vòng thì thào
năn nỉ anh em bớt mồm bớt miệng “cứu bồ” trong cơn túng ngặt, thế là anh
đội trưởng lại có thuốc “đút” cho cán bộ.
Ở trong tù thì thế, nay được ra khỏi tù đến trình diện đồn cũng bị công
an hỏi “có thuốc không”? Không có thuốc, bị công an giữ tờ giấy ra trại
rồi đuổi về “mai tới lấy”! Hôm nay là ngày bầu cử, “chó vàng” chạy đầy
đường, đi đứng lạng quạng, nó hỏi giấy tờ không có, lỡ nó đem nó nhốt
rồi gửi đến một trại nào đó thì vợ con biết đâu mà tìm. Vì nghĩ vậy nên
khi về được đến nhà rồi, suốt ngày hôm đó ông Ba Cất không dám bước ra
khỏi cửa!
Tối về, ông kể chuyện cho vợ nghe, bà thở dài bảo:
- Em bậy quá, đáng lẽ phải bảo con Thảnh đưa cho anh mấy điếu Jet hay
Samit mới phải, bây giờ làm cái gì cũng phải có thủ tục “đầu tiên” mới
được!
[Nguyệt San Mạch Sống thuộc hệ thống truyền thông của BPSOS: http://www.machsongmedia.com.]
BS.BÙI VĂN RẬU * CẨN THẬN KẺO TÉ
CẨN THẬN KẺO TÉ
Bác-sĩ Bùi-Văn-Rậu
Các bạn thân mến, trước hết tôi xin cám ơn tất cả các bạn bè xa gần đã lo lắng, thăm hỏi qua điện thoại, e mail, thăm viếng cùng chúc lành cho tôi trong những ngày qua!
Có lẽ một số các anh chị đã thắc mắc chuyện gì đã xảy đến cho tôi vậy? Tôi xin tóm lược diễn tiến sau đây.
Số là vợ chồng chúng tôi đã cùng một số bạn rủ nhau đi du lịch Nhật-Bản bằng tàu. Vào ngày thứ hai của chuyến đi, chúng tôi đến cư ngụ tại một khách sạn nằm dưới chân núi Phú-Sĩ, chờ sáng hôm sau lên thăm núi. Tối hôm đó từ phòng tắm đi ra, vì phải bước qua cái ngạch cửa hơi cao tôi bị rượt chân nên ngã bật ngửa ra sau, đầu đập vào ngạch cửa! Tôi nằm im cố kiểm soát ngũ quan, tứ chi xem có bị gì không thì bà xã tôi thấy động vào nâng tôi dậy!
Bác-sĩ Bùi-Văn-Rậu
Các bạn thân mến, trước hết tôi xin cám ơn tất cả các bạn bè xa gần đã lo lắng, thăm hỏi qua điện thoại, e mail, thăm viếng cùng chúc lành cho tôi trong những ngày qua!
Có lẽ một số các anh chị đã thắc mắc chuyện gì đã xảy đến cho tôi vậy? Tôi xin tóm lược diễn tiến sau đây.
Số là vợ chồng chúng tôi đã cùng một số bạn rủ nhau đi du lịch Nhật-Bản bằng tàu. Vào ngày thứ hai của chuyến đi, chúng tôi đến cư ngụ tại một khách sạn nằm dưới chân núi Phú-Sĩ, chờ sáng hôm sau lên thăm núi. Tối hôm đó từ phòng tắm đi ra, vì phải bước qua cái ngạch cửa hơi cao tôi bị rượt chân nên ngã bật ngửa ra sau, đầu đập vào ngạch cửa! Tôi nằm im cố kiểm soát ngũ quan, tứ chi xem có bị gì không thì bà xã tôi thấy động vào nâng tôi dậy!
Thấy máu chảy lênh láng trên sàn, vội dùng khăn băng đầu tôi lại để cầm
máu rồi nhờ một anh bạn cùng đoàn sang khám cho tôi! Anh bạn này là
chuyên khoa cấp cứu của các nhà thương ở California. Sau khi khám xong
thấy tôi không có triệu chứng gì, chỉ bị nứt da sau ót thôi, nên anh an
ủi bà xã tôi và dặn chỉ canh chừng tôi mà thôi, sau đó tôi hoạt động như
thường, vẫn theo đoàn đi tiếp! Sáng hôm sau, chúng tôi lên núi
Phú-Sĩ...
Sau đó chúng tôi lên tàu đi Osaka và Kobe... Rời Kobe tàu ghé
Nagasaki... Rời Nagasaki tàu chúng tôi ghé Shanghai...Chúng tôi rời
Okinawa để đến Taipei... Sau hai ngày ở Taipei tàu ghé Hong-Kong là trạm
chót của chuyến hải hành. Tại Hong-Kong... Chúng tôi rời Hong- Kong bay
tới Tokyo đổi máy bay để về thẳng Mỹ! Về đến San Jose, tôi đã trở lại
công việc thường ngày, đi làm như thường, vẫn không có triệu chứng gì,
không thấy nhức đầu, chóng mặt, nôn mửa!!!
Cho đến chủ nhật 23 tháng 11, tức là 4 tuần sau ngày xảy ra tai nạn, tôi
bắt đầu thấy hơi bị chúi về phía trước mỗi khi di chuyển, qua thứ hai
tôi gọi cho bác sĩ gia đình xin đi chụp CT scan đầu. Tuy nhiên cơ quan
Xrays hẹn vào chiều hôm sau, vì không có chỗ! Buổi chiều hôm ấy trên
đường về nhà thấy tôi đi hơi loạng quạng, bà xã tôi đã nhất định chở tôi
đến phòng cấp cứu mặc cho tôi nói rằng hãy chờ đến ngay mai chụp hình
xong mới tính!
Tại phòng cấp cứu sau khi khám và chụp hình bác sĩ cho biết là có máu trong đầu, bác sĩ liền cho nhập viện và sắp xếp cho giải phấu vào sáng hôm sau. Cuộc giải phẫu kéo dài khoảng hơn hai tiếng đồng hồ, lúc tỉnh dậy bác sĩ giải phẫu cho biết là ông đã khoan hai lỗ trên đầu của tôi và đã hút được hơn 200 ml máu! Ông đã đặt hai ống để rút máu bầm ra!!! Sau khi mổ, tôi cả thấy nhẹ nhõm, không còn thấy chóng mặt, nhức đầu gì cả! Nói tóm lại là cuộc mổ thành công!!! Sau ba đêm nằm bệnh viện, hai ống hút trên đầu được tháo ra và tôi đã được cho xuất viện vào ngày lễ tạ ơn!!!
Tới đây thì có lẽ nhiều bạn đã thắc mắc tại sao tôi không đi chụp hình ngay sau khi bị tai nạn! Xin thưa với các bạn là trong cơ thể học, não bộ chúng ta được bao bọc bởi màng óc và được bảo bọc bằng hộp xương sọ!
Tại phòng cấp cứu sau khi khám và chụp hình bác sĩ cho biết là có máu trong đầu, bác sĩ liền cho nhập viện và sắp xếp cho giải phấu vào sáng hôm sau. Cuộc giải phẫu kéo dài khoảng hơn hai tiếng đồng hồ, lúc tỉnh dậy bác sĩ giải phẫu cho biết là ông đã khoan hai lỗ trên đầu của tôi và đã hút được hơn 200 ml máu! Ông đã đặt hai ống để rút máu bầm ra!!! Sau khi mổ, tôi cả thấy nhẹ nhõm, không còn thấy chóng mặt, nhức đầu gì cả! Nói tóm lại là cuộc mổ thành công!!! Sau ba đêm nằm bệnh viện, hai ống hút trên đầu được tháo ra và tôi đã được cho xuất viện vào ngày lễ tạ ơn!!!
Tới đây thì có lẽ nhiều bạn đã thắc mắc tại sao tôi không đi chụp hình ngay sau khi bị tai nạn! Xin thưa với các bạn là trong cơ thể học, não bộ chúng ta được bao bọc bởi màng óc và được bảo bọc bằng hộp xương sọ!
Khi lớn tuổi thì não bộ của chúng ta bị teo nhỏ lại, do đó được treo lơ
lửng bằng những mạch máu nhỏ, khi bị chấn động mạnh như bị đánh vào đầu,
hay té ngã! Não bộ bị giao động và vì thế có thể một hay vài mạch bị
đứt, máu bị chảy ra tuy nhiên vì mạch quá nhỏ! Nên máu chảy rất chậm,
rất ít, chỉ vào khoảng gần 1 /12 tới 2 ml mỗi giờ, lúc này nếu làm CT
scan cũng không thấy gì cả!
Chỉ khi nào lượng máu đủ đế ép vào não bộ, thì lúc đó triệu chứng mới
xảy ra!!! Chuyện này thường xảy ra khỏang từ 4 tới 12 tuần sau khi bị
chấn động như trong trường hợp của tôi. Bác sĩ cho biết với số lượng máu
nhiều như thế, người trẻ tuổi có lẽ đã bị hôn mê, não bộ đã bị thương
tổn rồi! Thật là may mắn cho tôi, đã được bình phục hoàn toàn, không hề
có dư chứng gì cả!!!
Qua kinh nghiệm bản thân, tôi khuyên các bạn là ở vào tuổi của chúng ta, nên cố gắng tránh tối đa các tai nạn! Ttuy nhiên, nếu có tai nạn xảy ra nên cho người thân biết để theo dõi, người có khả năng nhất là người bạn đời của ta, không ai săn sóc ta, hiểu ta hơn chính ta bằng bà xã của ta! Câu này rất đúng với trường hợp của tôi!!! Xin được cám ơn em, người bạn đời! Nếu không có em, chưa chắc tôi có thể viết được những dòng chữ này!!!
BVR
Qua kinh nghiệm bản thân, tôi khuyên các bạn là ở vào tuổi của chúng ta, nên cố gắng tránh tối đa các tai nạn! Ttuy nhiên, nếu có tai nạn xảy ra nên cho người thân biết để theo dõi, người có khả năng nhất là người bạn đời của ta, không ai săn sóc ta, hiểu ta hơn chính ta bằng bà xã của ta! Câu này rất đúng với trường hợp của tôi!!! Xin được cám ơn em, người bạn đời! Nếu không có em, chưa chắc tôi có thể viết được những dòng chữ này!!!
BVR
Trượt chân, té ngã ở " tuổi vàng" !
Chỉ một cú vấp ngã là cuộc sống con người có thể thay đổi hoàn toàn, cuộc thay đổi không thể kềm hãm xoay chuyển. Sự đau đớn thể xác đi kèm với nỗi vật vã tâm thần. Đây là mối ưu tư, ám ảnh của tuổi vàng khắp chốn.
Con người sống lâu hơn, ít bệnh tật hơn nhưng tuổi thọ lâu dài kia có những khúc quanh không như ý. Cơ thể trải qua những biến chuyển cần sự thích nghi và chấp nhận từ mỗi cá nhân. Ôi chao, biết bao nhiêu là biến chuyển trong cái thân thể mong manh kia sau 70 – 80 năm dãi dầu với thời gian?
Mắt nhìn không còn tinh anh. Tai nghe không còn tỏ tường, có vị còn chịu chứng ù tai, tinnitus, những âm thanh tai quái u u trong đầu suốt ngày đêm. Khứu giác chẳng còn “cảm” được một mùi hương nhẹ nên vị giác hầu như mòn mỏi. Khoảng 70% khả năng “nếm” đến từ khả năng “ngửi”.
Rượu [ngon] không còn giữ được hương vị cũ dù vẫn mang lại cảm giác lâng lâng và đôi khi còn gây chuếnh choáng nhanh chóng không ngờ. Bắp thịt không mạnh mẽ như trước, khuân vác một món gì cũng khó khăn. Khớp xương ê ẩm khiến việc xê dịch chậm chạp… Chưa kể sự thăng bằng, balance, kết hợp từ khả năng nhìn thấy, sức mạnh của bắp thịt, và khả năng cảm nhận vị trí của thân thể (proprioception) trong môi trường chung quanh, cũng sút giảm qua thời gian. Và cuộc sống có thể đến khúc ngoặt không ngờ khi trượt chân, vấp ngã.
Rượu [ngon] không còn giữ được hương vị cũ dù vẫn mang lại cảm giác lâng lâng và đôi khi còn gây chuếnh choáng nhanh chóng không ngờ. Bắp thịt không mạnh mẽ như trước, khuân vác một món gì cũng khó khăn. Khớp xương ê ẩm khiến việc xê dịch chậm chạp… Chưa kể sự thăng bằng, balance, kết hợp từ khả năng nhìn thấy, sức mạnh của bắp thịt, và khả năng cảm nhận vị trí của thân thể (proprioception) trong môi trường chung quanh, cũng sút giảm qua thời gian. Và cuộc sống có thể đến khúc ngoặt không ngờ khi trượt chân, vấp ngã.
Tại Huê Kỳ, số người cao niên (65+ tuổi) té ngã và chịu biến chứng nặng nề mỗi ngày một gia tăng. Nha Thống Kê của cơ quan Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh Tật (the CDC) công bố một con số đáng ngại, chỉ trong năm 2012, trên 2.4 triệu người té ngã, trong số ấy trên 200 ngàn người tử vong vì biến chứng trong cùng năm.
Theo hội chuyên khoa về tuổi vàng, Geriatrics, tai nạn gia tăng khi con người quá lạc quan quá tự tin, không lượng sức mình; người có tuổi cũng không ngoại lệ nhưng chịu ảnh hưởng của tai nạn nặng nề hơn.
Những thứ bình thường trước đây bỗng dưng trở thành chướng ngại vật trong một phút không ngờ: các bậc thang, tấm thảm trên sàn nhà, bồn tắm trắng bóng, vồng u trong chỗ đậu xe, rễ cây ngoài vườn…, và ngay cả con chó con mèo quanh quẩn bên chân hằng ngày. Những món thuốc trị chứng cao huyết áp, chữa trầm cảm…có thể gây chóng mặt, choáng váng khiến việc vấp té, trượt chân xảy ra dễ dàng hơn.
Những thứ bình thường trước đây bỗng dưng trở thành chướng ngại vật trong một phút không ngờ: các bậc thang, tấm thảm trên sàn nhà, bồn tắm trắng bóng, vồng u trong chỗ đậu xe, rễ cây ngoài vườn…, và ngay cả con chó con mèo quanh quẩn bên chân hằng ngày. Những món thuốc trị chứng cao huyết áp, chữa trầm cảm…có thể gây chóng mặt, choáng váng khiến việc vấp té, trượt chân xảy ra dễ dàng hơn.
Trong số các cụ cao niên té ngã và gãy xương chậu xương đùi, 20% tử vong trong cùng năm, 80% còn lại chịu ảnh hưởng nặng nề. Họ không còn tự di chuyển nên việc nhàn tản trên một quãng đường ngắn trở nên bất khả. Nhiều người mất luôn khả năng lái xe vì chân ga chân thắng không còn nhậm lẹ nên dễ gây tai nạn.
Không thể tự di chuyển, các cụ này trở nên phụ thuộc vào người chung quanh, từ bạn bè, hàng xóm láng giềng đến con cái. Tuổi vàng sợ đau đớn thể xác thì ít nhưng họ lại hãi hùng trước viễn ảnh mất hết khả năng độc lập.
Một sự thật khó chấp nhận là việc càng cao tuổi, càng dễ té ngã. Theo Tiến Sĩ Judy A. Stevens, chuyên viên Dịch Tễ, epidemiologist, tại CDC, té ngã xem ra giản dị nhưng lại là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho tuổi vàng, không mấy ai muốn nhắc đến và ngay cả người bị té cũng không muốn đề cập đến.
Lý do? Các cụ ngượng ngùng, bạn ạ, ngại bạn bè chê cười mình vụng về, nhưng lý do sâu thẳm nhất, các cụ sợ con cháu lo lắng quá lại khênh họ vào nhà dưỡng lão hầu được (bị) chăm sóc kỹ lưỡng hơn, và từ đó mất luôn cuộc sống độc lập riêng tư. Họ sợ hung thần té ngã còn hơn các trận đau ốm. Đau ốm khi hết bệnh còn có thể độc lập chứ té ngã thì lôi thôi lắm!
Lý do? Các cụ ngượng ngùng, bạn ạ, ngại bạn bè chê cười mình vụng về, nhưng lý do sâu thẳm nhất, các cụ sợ con cháu lo lắng quá lại khênh họ vào nhà dưỡng lão hầu được (bị) chăm sóc kỹ lưỡng hơn, và từ đó mất luôn cuộc sống độc lập riêng tư. Họ sợ hung thần té ngã còn hơn các trận đau ốm. Đau ốm khi hết bệnh còn có thể độc lập chứ té ngã thì lôi thôi lắm!
Phục hồi sau khi té ngã là một hành trình gian nan, chậm chạp. Với các ca gãy xương “bình thường”, sau khi bó xương, nối xương và vết thương tạm lành, bệnh nhân trải qua thời gian tập luyện để có thể tự di chuyển. Chương trình phục hồi kéo dài vài tháng, từ việc dùng xe lăn, khung cân bằng đến cách dùng gậy để chống đỡ thân mình và giúp thăng bằng.
Nhiều cụ không còn leo thang được nữa vì cần dùng khung sắt để di chuyển, và từ đó phải lìa bỏ tổ ấm nơi có các bậc thang thân quen, gần gũi. Thay đổi chỗ ở là cả một cú sốc trong tuổi vàng. Cụ nào chấp nhận và chịu thích nghi thì vết thương “lìa tổ ấm” sớm lành, cụ nào rầu rĩ vật vã với chỗ ở mới thì nhanh chóng rơi vào nỗi trầm cảm u uất và không thiết sống!
Nhiều cụ không còn leo thang được nữa vì cần dùng khung sắt để di chuyển, và từ đó phải lìa bỏ tổ ấm nơi có các bậc thang thân quen, gần gũi. Thay đổi chỗ ở là cả một cú sốc trong tuổi vàng. Cụ nào chấp nhận và chịu thích nghi thì vết thương “lìa tổ ấm” sớm lành, cụ nào rầu rĩ vật vã với chỗ ở mới thì nhanh chóng rơi vào nỗi trầm cảm u uất và không thiết sống!
Ngược lại, được sinh sống trong khung cảnh quen thuộc là nỗi ấm áp, thoải mái trong tuổi vàng ngay cả khi các cụ không còn có thể tự chăm sóc thân thể.
Như mọi loại bệnh tật, phòng ngừa là phương cách tốt nhất. Té ngã cũng thế. Phòng ngừa té ngã để tránh thương tật và các biến chứng thay đổi đời sống của bệnh nhân.
Để phòng ngừa té ngã, bà Judy Stevens cho rằng thể dục là yếu tố quan trọng nhất. Khi thân thể khỏe mạnh, bắp thịt cứng cáp, thì ít bị té ngã; và nếu bị té ngã thì ảnh hưởng cũng bớt trầm trọng so với các cụ ít động đậy, đi lại.
Các lớp thể dục, nhất là các buổi dạy về thăng bằng, như tập đứng một chân, lăn trái banh Bosu cho quen với sự chông chênh. Môn Thái Cực với các động tác co duỗi thong thả, chậm chạp giúp thân thể phối hợp hoạt động của bắp thịt và hai lá phổi thở hít nhịp nhàng. Sự phối hợp này cần thiết cho việc hô hấp, thăng bằng và dáng đi đứng của thân thể.
Hiệu quả cụ thể nhất của sự tập luyện thân thể là việc có thể tự đứng dậy từ ghế ngồi mà không cần vịn tay: bắp thịt hai chân và bắp thịt bụng, lưng cứng cáp đủ để chống đỡ và thăng bằng thân thể khi thay đổi vị thế.
Những yếu tố khác không kém quan trọng là việc dùng các món thuốc. Thuốc trị cao huyết áp, khoảng 70% các cụ tuổi thất thập dùng món thuốc này, gây chóng mặt khi huyết áp xuống nhanh và dễ té ngã nếu không cẩn thận. Chưa kể các thứ dược thảo lợi tiểu, giảm đường giảm mỡ (?) hầm bà lằng khác bán tự do trên thị trường mà các cụ Á Đông dùng thường xuyên như uống trà.
Xin mở ngoặc để nhắc đến dược thảo một chút: Dược thảo là con dao hai lưỡi rất sắc, có thể vô cùng hiệu quả trong việc chữa trị một bệnh tật nào đó, nhưng dược chất trong dược thảo có liều lượng bao nhiêu lại là một điều bí mật. Bí mật thứ nhì là món dược thảo tuy có cùng tên nhưng mức khác biệt về dược chất [và dược tính] lại là khoảng cách mênh mông… chưa kể các phụ chất có dược tính khác.
Các cụ dùng thuốc trị cao huyết áp có tỷ lệ té ngã cao gấp đôi những người không dùng. Đặc biệt là loại thuốc lợi tiểu, diuretic, [dùng để giảm cao huyết áp và suy tim]. Nếu cần dùng, các cụ nên uống thuốc ban ngày để tránh những chuyến vào nhà vệ sinh trong đêm tối. Món thuốc khác, món thuốc trị mất ngủ, có thể gây mất thăng bằng, và nếu có thể, nên thay thế bằng một ly sữa ấm, một cuốn sách dễ đọc hoặc một vài bản nhạc êm dịu.
Cách phòng ngừa té ngã khác là cách xếp đặt vật dụng trong nhà, loại bỏ tấm thảm đặt hờ hững trên sàn nhà, bàn ghế nằm gọn ghẽ trong một góc khuất, dẹp giày dép, đồ chơi… trên lối đi.
Các cụ trong tuổi vàng cần đi khám mắt hàng năm và đeo kính để duy trì thị lực. Dùng kính đơn tròng khi đi bộ và chỉ dùng kính hai tròng, ba tròng (bifocal, progressive lenses) khi đọc sách, ngồi tại chỗ vì loại kính này có thể gây vấp té.
Trong nhà cần có đèn đủ sáng để thắp rõ vật dụng chung quanh. Và món vật dụng cần thiết nhất, với các cụ sống đơn chiếc, có lẽ là món “gọi cấp cứu”, emergency button, electronic alert, có thể trong dạng vòng đeo trên cổ tay có nút bấm, có thể là dây đeo trên cổ.
Mùa thu của cuộc đời không nhất thiết chỉ là mùa tàn úa, mùa lá vàng; với sự chấp nhận, sửa soạn và sẵn sàng cho tinh thần, mùa thu có thể trở thành…vàng lá, vàng ròng với các chuyến du ngoạn thong thả để tận hưởng sự thanh nhàn khi tâm tư không còn vướng bận với sinh kế nhọc nhằn và bổn phận dưỡng dục khó khăn?
TRUNG CỘNG HỌC VIỆT CỘNG
Chuyện lạ: Đảng đàn anh Cộng Tàu đành bắt chước đàn em Cộng Việt?
Sáng 18 tháng 10/2017, Đại hội lần thứ 19 của cái đảng Cộng Sản già hơn đảng cộng chú em Việt 9 năm, đã rình rang khai mạc với 2.280 đại biểu, sau khi gạt nốt 7 vị “ruồi-muỗi”!
Theo nhận định của nhiều nhà quan sát chính trị thế giới thì, khác với VN, Tầu cộng họp Đại hội mà không còn “căng thẳng và bất đồng nội bộ” vì họ đã thanh toán hết những kẻ bất đồng qua chiến dịch “Đả hổ diệt ruồi”, đi tới hơn một triệu đảng viên bị thanh toán, bắt đầu từ Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang.
Khác với mọi lần đại hội, mỗi lần cái đảng cộng sản có tới 86.7 triệu đảng viên này họp, người ta đều trông chờ một cuộc đổi mới tư duy, tổ chức, và những đường lối, những khẩu hiệu kiểu “tiến bộ (hay thụt lùi?) bất cần nguyên lý chính trị cộng sản”, như kiểu Đặng Tiểu Bình “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào cũng được, miễn là bắt được chuột!”.
|
|
Và quả là họ nói và làm ngay, nhiều đại hội trước, họ đã hạ bệ về hình thức cờ Đảng, hình Mao, giã từ hẳn 2 ông Tây râu xồm Mác-Lê trên các diễn đàn. Trong các báo cáo, họ gần như không đả động gì đến cái “chủ nghĩa xã hội, quy luật tiến trình tất yếu của loài người”, mà thay thế bằng “một xã hội khá giả, toàn diện theo kiểu Trung Quốc”!
Và thế là, (xin lỗi các bạn còn tiếc nuối cái thiên đường mù XHCN không thể có đó), đất nước 1 tỷ 3 (một tỷ ba) con người đó đã trở thành một cường quốc kinh tế số 2! Điều này, chính tạp chí Forbes đã cho biết: Số tỉ phú đô-la trên thế giới hiện nay Trung Quốc nhiều hơn Hoa Kỳ: 594/575! (nhưng cho đến 2017 này thì trong số đó chưa có tỉ phú nào lọt được vào danh sách 20 tỉ phú giàu nhất thế giới!). GDP năm nay tăng tới 6,8% nhưng theo báo “Kinh tế Sài-Gòn" thì… sẽ 7% là cái chắc!
Đứng đầu những người Tầu, nhờ đường lối mèo nào cũng tốt, là Vương Kiện Lâm (Wang Jianlin), trùm bất động sản, chủ tập đoàn Dalian Wanda (Vạn Đạt Đại Liên)!
Theo sau, đứng thứ 2 là Jack Ma, ông trùm của hãng Alibaba!
Đặc biệt ở những nhà tỉ phú này: Không phải là những tỉ phú do ăn cắp, tham nhũng rồi trốn đi nước ngoài!
Họ đều là những mèo ra mèo, không phải là bọn mèo chuyên ăn vụng. Họ cũng không có ghế vàng, quyền uy gì trong bộ máy của đảng hay chính quyền!
Chính họ là những người đã đóng góp cho sự “khá giả” của nhân dân Trung Quốc với những con số GDP tăng vọt chưa từng có, suốt 2 nhiệm kỳ, thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cái đất Tầu rặt một mầu xanh công nhân, dân vẫn còn phải đi hài sảo [còn gọi là Hài thảo hoặc Thảo hài - tức là một thứ giày cỏ, được bện thủ công bằng một loại cỏ dài, dai và mềm]
Chính họ đã dám bỏ tiền đưa công nhân của Cty họ đi Pháp thăm bảo tàng Louvres và nghỉ mát ở Nice!
Và cuối cùng, chính họ đã là nguyên nhân đẻ ra chuyện phải thi hành kỷ luật hơn một triệu người cộng sản… mèo, “chẳng ra đen cũng không ra trắng” mà ông Tập đã phải tung ra cái chiến địch “đả hổ, diệt ruồi”, do sự thoái hóa trong đảng ngày càng nghiêm trọng!
Vậy thì, để kinh tế thay đổi nhưng làm sao con người (kể cả cộng sản gộc) không bị chuyển đổi từ ngai vàng quyền lực sang dựa cột hay nhà đá suốt đời?
Lần đại hội này, ban thường vụ Bộ Chính Trị, gồm 7 người thì chỉ còn lại 2 là đủ tuổi (Tập và Lý). Thay thế sẽ là (chẳng có gì mà phải bí mật) 7 cái tên mới toanh mà ai (kể cả tớ) cũng đã biết. Họ đều là những kẻ tâm đồng ý hợp với vua Tập, người mà báo chí thế giới đã “đánh hơi” thấy từ rất sớm:
– Một thời mà Tập sẽ trở thành một vua Mao mới
– Một thời sẽ lên ngôi một Poutine Tàu
– Một thời sẽ chấm dứt những cải cách của Đặng Tiểu Bình và để nói một cách hí họa hơn, Tập hòa giải hai hoàng đế Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình!
“Pour le dire de manière caricaturale, il réconcilie les empereurs, Mao Zedong et Deng Xiaoping? Oui. Il y a une sorte de retour à un modèle impérial: on observe une centralisation du pouvoir et on voit aussi le rôle attribué à la commission centrale de la discipline interne, qui ressemble à un organisme impérial des Qing. Le Monde 18 Octobre 2017
Còn tờ Le Figaro ngày 18/10/2017 thì chạy các tít lớn như:
– “Chủ tịch Trung Hoa trên đường tiến đến quyền lực tuyệt đối”;
– “Lễ đăng quang lần hai của Tập, kẻ toàn lực toàn quyền như Thượng Đế” (Le tout puissant),
hoặc thẳng thừng hơn:
– “Tập Cận Bình, hoàng đế đỏ”.
Riêng báo tiếng Anh thì chờ đến ngày thứ hai, khi bản báo cáo chính trị của Tập mà họ gọi là bản báo cáo marathon đã được công bố, mới nặng lời lên tiếng phê phán về ý đồ của Tập muốn làm vua cả thế giới về mọi mặt, đặc biệt về quân sự, sẽ là một lực lượng được cải tiến để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù mà tờ The Huffington Post và The New York Times đã chạy những cái tít chẳng có “ngoại giao” gì.
Riêng báo chí VN thì hình như có không ít nhà ný nuận mắc-xịt giả cầy đã vỗ đùi đánh đét mà hua-ra rằng:
– Có thế chứ! Ai bảo ông anh cứ theo mãi con đường “Mèo nào cũng được”?
– Ai bảo ông anh “Không biết đập chuột mà không để vỡ bình”?
– Ai bảo ông anh không biết “Chống nội xâm là ta đánh ta”?
– Ai bảo ông anh làm kinh tế thị trường mà không có “định hướng xã hội chủ nghĩa”, để phát sinh ra lắm hổ, lắm ruồi muỗi như dzậy?
Tóm lại, trong báo cáo của Tập, chỉ riêng câu này “xây dựng xã hội khá giả, toàn diện, đẩy mạnh phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”, đã thấy được đồng chí Tập sáng suốt đến chừng nào! Phải lãnh đạo đất nước bằng bàn tay thép của người cộng sản. Báo chí phương Tây họ đã gọi “Xi Jinping, ông hoàng đế đỏ”, kệ họ! Đường chúng ta đi đến chân trời cộng sản là tất yếu!!!
Thế là, cả bộ máy truyền thông quốc doanh khổng lồ của Hanoi đều thi nhau chúc mừng một cách rùm beng và hể hả cái sự Cộng đàn anh Tàu đã quay lại “đổi cho giống hệt" sự cai trị tuyệt đối và toàn diện của Cộng Việt đàn em …
Tuyệt đối không một chữ được phép nói đến những giọng lưỡi phản động của báo chí phương Tây nhá!
Cũng tuyệt đối không được nói đến những tuyên bố nghe mà tức anh ách như chuyện xây tới 7 đảo nhân tạo ở Biển Đông là… đúng quyền và lợi của Trung Quốc! nữa nhá!
Rõ ràng, Đảng đàn anh đang chuyển mình để theo kịp đảng đàn em trong quan niệm và tổ chức quản lý và lãnh đạo đất nước
Lạ thật!!!
THƠ QUỐC HỌC HUẾ
THƠ QUỐC HỌC
Mỗi chiều nhìn cảnh thiếu nguời
Hôm nao thoang thoảng tiếng cuời dòn tan. QH
Bạn bè nói giỡn oang oang..
Ăn chơi ca hát chẳng màng lợi danh
Đời nguời thấm thoắt qua nhanh
Còn đây xin hãy chúc lành cho nhau.... TH
Thời gian thấm thoát qua mau,
Tóc xanh nay đã nhuốm màu tuyết sương.
Nhớ xưa cùng lớp chung trường,
Vô tư đùa giỡn chẳng vương luỵ phiền....NL
Bây giờ trời đất biến thiên ..ST
Kẻ đi Bắc cực, người miền Biển Đông.
Người đi có nhớ hay không?
Ai thương, ai cảm, ai mong ai chờ?
Quê người xứ lạ bơ vơ,
Có ai nhớ đến bạn xưa chung trường?
Chúng ta cách biệt quê hương,
Trông vời cố quận nhớ thương dạt dào!
Bây giờ trời đất biến thiên ..ST
Kẻ đi Bắc cực, người miền Biển Đông.
Người đi có nhớ hay không?
Ai thương, ai cảm, ai mong ai chờ?
Quê người xứ lạ bơ vơ,
Có ai nhớ đến bạn xưa chung trường?
Chúng ta cách biệt quê hương,
Trông vời cố quận nhớ thương dạt dào!
ĐIỆP MỸ LINH * VÙNG XÔI ĐẬU
Truyện ngắn
VÙNG XÔI ĐẬU
ĐIỆP MỸ LINH
Khoảng chín giờ, dân chúng trong làng đều quần áo chỉnh tề, cùng nhau đến trường Sao Mai dự buổi lễ quan trọng. Một số nông dân vẫn ra đồng, ra rẫy, làm công việc thường lệ. Riêng Thêm và đứa em trai – viện lý do là ngày giỗ – không tham dự lễ khánh thành.
Đến vườn xoài, ni sư Mẫu Đơn ra dấu im lặng. Đang vạch cỏ và tranh để
bước đi, cả nhóm người cùng nghe tiếng kêu khóc văng vẳng. Ni sư Mẫu Đơn
ra dấu cho nhóm ni cô tiến về giếng lạng – đã bị tranh phủ đầy. Càng
đến gần giếng lạng, tiếng khóc la nghe đã khàn hẳn.
Nhận ra người dân làng tốt bụng, Duệ thở gấp:
-Tụi nó pháo vô chỗ khánh thành trường Sao Mai. Bác cho tôi “quá giang” tới đó giùm.
-Đúng rồi! Phong cũng bị thương cùng lần với tôi.
-Vậy sao? Hiện tại Phong như thế nào? Đang điều trị tại đâu?
-Cũng điều trị tại bệnh viện này, cách phòng tôi khoảng vài phòng; tiếc rằng tôi không nhớ số phòng.
-Tôi sẽ tìm Phong. Cảm ơn. Giữ gìn sức khỏe.
Gary vừa đi chầm chậm vừa nhìn vào từng phòng. Đến phòng số 9 Gary nhận ra Phong ngay. Hai người xúc động, nắm tay nhau thật lâu. Phong cười, mai mỉa:
-Gary thấy không? Tôi đúng là “đi sông đi biển không chết, về nhà sụp lỗ chân trâu”!
Vừa nhìn đôi chân của Phong được băng bột, trở nên to, cứng và sậm màu, Gary – tay phải vẫn nắm tay Phong – đưa tay trái vỗ vỗ lên tay Phong:
-Bạn là con hổ dũng mãnh! Đừng lo.
Phong cười, chưa kịp nói gì thì Phong chợt cảm thấy như đang bị say sóng, nghe tiếng “u u” bên tai và hơi nóng hừng hực nơi cổ.
Thái độ của Phong và hơi nóng hâm hấp từ cơ thể của Phong lan qua bàn tay của Gary khiến Gary lo ngại, nói với Cảnh và Duệ:
-Nắm tay Phong, tôi biết Phong đang bị sốt. Nhiệt độ cao, có thể vết thương đã nhiễm trùng. Hai bạn nghĩ mình có nên đưa Phong ra tàu bệnh viện của Đệ Thất Hạm Đội để chữa trị hay không?
Duệ nhìn Cảnh vì Duệ chẳng hiểu gì. Cảnh đáp lời Gary:
-Sorry, tôi không dám có ý kiến trong việc này; vì việc này thuộc pham vi chuyên môn của các bác sĩ thuộc quân y viện này.
-Thôi được, tôi sẽ hỏi ý kiến Phong. Nếu Phong đồng ý, tôi sẽ can thiệp bằng mọi cách.
Gary khom xuống gần tai Phong, gọi nhỏ:
-Phong! Tỉnh dậy đi, Phong! Tỉnh dậy đi, Phong!
Nghe gọi, Phong cố mở mắt. Rất trầm tỉnh, Gary hỏi từng tiếng:
-Phong! Anh tỉnh chưa? Anh nghe tôi rõ không? Tôi có một việc hệ trọng, muốn hỏi anh. Anh tỉnh chưa?
Phong nhìn Gary, môi cười méo xệch:
-Có gì quan trọng quá vậy, Gary?
-Tôi muốn đưa anh ra tàu bệnh viện của Đệ Thất Hạm Đội nhờ chữa trị. Anh nghĩ thế nào?
Phong giật mình, tỉnh hẳn, không ngờ Gary dành cho chàng nhiều ưu ái đến như vậy! Trong khi mọi người đang chờ sự quyết định của chàng thì Phong nhớ lại – trong lần đầu tiên đưa quân càng quét vùng Hà Bằng, Chùa Lầu và biết mắt của ni sư Mẫu Đơn bị lòa – Phong đã thầm nguyện sẽ gặp lại ni sư Mẫu Đơn và sẽ tìm phương tiện giúp ni sư chữa bệnh mắt. Bây giờ, nghe những lời chân thành của Gary, Phong biết điều khấn nguyện của chàng đang trở thành hiện thực. Phong đáp lời Gary với giọng đầy xúc động:
Cảnh lên tiếng:
-Trời ơi! Chùa Lầu là “ổ” Việt Cộng mà ai dám một mình lên đem ni sư đi, đại úy?
Bây giờ Phong mới thấy sự hiện diện của bác Sáu Nhỏ, vội vẩy mấy ngón tay:
-Chào bác Sáu. Cảm ơn bác đã đến thăm tôi.
-Chu cha! Nhiều người muốn đi thăm đại úy lắm mà tui hỏng dám cho đi. Tui hỏng biết mình tui có thăm đại úy được hay không mà chở “cả đám”, rủi “nẫu” hỏng cho dô thăm thì làm sao!
Quay sang Gary, Phong trở lại đề tài lúc nãy:
-Gary! Nếu có người đưa ni sư ra Qui Nhơn, bạn nghĩ bạn có thể giúp ni sư được không?
-Tôi sẽ cố gắng. Tôi sẽ liên lạc trực tiếp với anh về việc này.
-Xin đa tạ lòng nhân đạo của anh. Khi nào anh lo xong thủ tục, giấy tờ, xin cho tôi biết. Tôi sẽ nhờ người đưa ni sư đến Qui Nhơn, nghỉ tạm tại nhà bà con của tôi rồi tôi sẽ liên lạc với anh, cho anh địa chỉ của ni sư – tại Qui Nhơn.
-Tốt! Bạn có thể tin tưởng rằng ước nguyện cao cả của bạn sẽ được Đức Chúa trợ giúp. Bây giờ tôi cần tên họ, ngày, tháng, năm sinh của ni sư. Khi nào có những chi tiết cần thiết này, bạn liên lạc với tôi.
Sau khi Gary từ giã, Phong nhìn bác Sáu Nhỏ:
-Bác Sáu! Có lẽ bác đã biết bệnh tình của ni sư Mẫu Đơn rồi, phải không, bác?
-Dạ, biết.
-Chú “bồ” với con Thêm hả? Chết cha! Coi chừng nghe, chú!
-Dạ. Sao, bác Sáu?
-Bữa đó nhà con Thêm giỗ ai?
-Dường như tôi nghe Thêm nói giỗ bà Ngoại thì phải.
Bác Sáu Nhỏ dừng bước, nhìn Duệ:
-Bà Ngoại của con Thêm còn sống sờ sờ đó mà ai nói với chú là giỗ bà Ngoại của nó? Chú cẩn thận, đừng để ông đại úy bị liên lụy, nhen, chú!
Duệ hoang mang, nhớ lại câu hát của thằng bé “…Vui đàn con ở rừng sâu mới về…” Và, hôm đó, Duệ thấy một cụ bà lưng còng, ngồi trên phản, lặng lẽ têm trầu chứ không ăn cơm; mà bữa cơm cũng chẳng có gì ra vẻ là bữa giỗ!
Lại cũng chẳng thấy nhan, đèn, vàng bạc gì cả! Mà bữa giỗ thì tại sao Ba Má của Thêm lại đi mua lác dệt chiếu? Duệ lại nhớ, mỗi lần “hai đứa” hẹn nhau bên bụi dù dẻ hoặc bên gò mối, Thêm cứ hỏi dò Duệ: “Cái máy gì mà anh cứ đeo trên lưng rồi ‘nẫu’ nói ra, anh nói dô trong đó dậy?” Duệ tìm cách không đáp lời Thêm.
Bây giờ, nhận ra được nguyên nhân của sự việc, Duệ – dù rất thương Thêm – cũng cảm thấy uất trong lòng vì chàng đã bị lợi dụng và lừa dối! Duệ chửi thề:
-Mẹ nó!
Cảnh hỏi:
-Cái gì vậy, Duệ?
-Dạ, không có gì, thiếu úy.
Đáp lời Cảnh như vậy, nhưng trong lòng, Duệ đã quyết định dứt tình với Thêm. Duệ thầm nhủ, sau khi Phong xuất viện, Duệ sẽ trình bày mọi việc và xin Phong cho chàng được thuyên chuyển đến đơn vị khác!
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/
VÙNG XÔI ĐẬU
ĐIỆP MỸ LINH
Công tác xây cất trường tiểu học Sao Mai tại làng Hà Bằng được thành
công nhanh chóng là nhờ sự hiện diện của đoàn quân tăng cường cho đồn Ty
Hạ. Sở dĩ nhiều người khẳng định như vậy là vì trước khi đơn vị tăng
cường cho đồn Ty Hạ được chuyển đến đây – tuy có đồn Nghĩa Quân nơi đèo
Quảng Cau – mọi công trình kiến tạo của chính phủ V.N.C.H. đều bị Việt
Cộng phá hoại.
Trước lễ khánh thành trường Sao Mai, hội đồng xã tận dụng được một số
nhân công tình nguyện để trang hoàng khuôn viên ngôi trường. Nhóm người
này ghép gỗ thành một khán đài “dã chiến”. Nhóm người kia chặt lá dừa,
xén lại cho gọn, bọc chung quanh mấy trụ gỗ cho có vẻ tươi mát. Nhóm
người nọ treo cờ, giăng giây điện để cắm micro. Nhóm người khác đem băng
ngồi của học trò sắp ngay ngắn trước khán đài để hôm khánh thành quan
khách và phu huynh học sinh ngồi.
Sáng sớm của ngày khánh thành trường Sao Mai, nơi mái hiên, các cô giáo
duyên dáng trong những chiếc áo dài tha thướt. Các thầy giáo mặc quần
đậm màu, áo dài tay, gài nút ở cổ tay và thắt cà-vạt. Vài thầy hướng dẫn
toán học sinh vào giàn chào, dọc theo lối vào từ cổng trường. Vài thầy
lăng xăng dợt lại bài Quốc Ca cho toán học sinh phụ trách hành lễ, ngay
cột cờ, giữa sân.
Trên gương mặt của mỗi người như toát ra sự vui tươi, trang trọng mà từ lâu lắm người dân tại làng Hà Bằng hằng mong đợi.Khoảng chín giờ, dân chúng trong làng đều quần áo chỉnh tề, cùng nhau đến trường Sao Mai dự buổi lễ quan trọng. Một số nông dân vẫn ra đồng, ra rẫy, làm công việc thường lệ. Riêng Thêm và đứa em trai – viện lý do là ngày giỗ – không tham dự lễ khánh thành.
Nhân ngày giỗ, Thêm mời người yêu, tên Duệ – hiệu thính viên của đại úy
Phong, chỉ huy trưởng đoàn quân tăng phái cho đồn Ty Hạ – đến nhà ăn
giỗ. Duệ từ chối, vì biết ngày đó Phong bận đón phái đoàn của ông Quận
Trưởng đến dự lễ. Thêm năn nỉ rồi giận hờn làm cho Duệ khó xử. Duệ đành
xin phép Phong.
Nhận thấy buổi lễ dự trù kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ, không có gì
quan trọng phải cần đến hiệu thính viên; nếu trường hợp khẩn cấp Phong
có thể dùng máy truyền tin của ông Quận Trưởng, Phong cho phép Duệ vào
làng dự đám giỗ.
Khi Duệ vừa qua khỏi hàng rào bông bụp thì nghe tiếng em trai của Thêm
hát: “…Các anh đi, đến bao giờ trở lại…Các anh về, tưng bừng trước ngõ.
Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau. Mẹ già bịn rịn áo nâu. Vui đàn con ở
rừng sâu mới về…”(1) Dù là một người không chơi nhạc, Duệ cũng thoáng
giật mình vì câu “…đàn con nhỏ rừng sâu mới về!”
Duệ tự hỏi “Đàn con nào mà ở rừng sâu? Chỉ có đàn con Việt Cộng mới ở rừng sâu.” Hơi khó chịu trong lòng, Duệ chưa kịp đến hỏi đứa bé thì Thêm xuất hiện, niềm nở chào hỏi và mời Duệ vào nhà. Duệ hỏi “hai bác” đâu? Thêm đáp Ba Má của Thêm phải đi xuống đầm Ô-Loan mua lác về dệt chiếu gấp. Duệ chẳng để ý, miễn được gặp và ăn cơm cùng người yêu là Duệ vui trong lòng.
Duệ tự hỏi “Đàn con nào mà ở rừng sâu? Chỉ có đàn con Việt Cộng mới ở rừng sâu.” Hơi khó chịu trong lòng, Duệ chưa kịp đến hỏi đứa bé thì Thêm xuất hiện, niềm nở chào hỏi và mời Duệ vào nhà. Duệ hỏi “hai bác” đâu? Thêm đáp Ba Má của Thêm phải đi xuống đầm Ô-Loan mua lác về dệt chiếu gấp. Duệ chẳng để ý, miễn được gặp và ăn cơm cùng người yêu là Duệ vui trong lòng.
Trong khi Duệ chia xẻ những giây phút ấm cúng với Thêm thì trước sân
trường Sao Mai, dân làng tề tựu rất đông. Các bô lão mặc áo dài đen, đội
khăn đóng, được mời ngồi nơi hàng ghế đầu tiên.
Chiếc Jeep “lùn” và một chiếc Dodge chở lính hộ tống dừng lại bên lề
quốc lộ. Toán lính hộ tống từ chiếc Dodge nhảy xuống. Ông Quận Trưởng và
Phong – được ông Quận Trưởng ưu ái ghé đồn Ty Hạ đón, đưa đến nơi hành
lễ – từ chiếc Jeep bước xuống trong khi quý vị trong ban tổ chức từ
trong trường đi nhanh ra cổng, đón tiếp hai vị thượng khách.
Khi ông Quận Trưởng, Phong cùng toán binh sĩ theo đại diện của ban tổ
chức vào nơi hành lễ thì mọi đôi mắt chăm chú nhìn theo. Trong lòng mỗi
người dân hiện diện tại buổi lễ đều nảy sinh mỗi ý nghĩ khác nhau. Người
thì thở dài, thầm ước: Phải chi con trai của họ đi “lính Cộng Hòa” thì
sẽ được sống tự do, ăn mặc tươm tất, oai phong chứ không phải sống chui
rúc, rách rưới nơi xó xỉnh, hầm cống nào đó; thỉnh thoảng mới lẻn về xin
gạo, xin tiền!
Kẻ thì thầm tiếc, phải chi đơn vị của Phong về đây sớm hơn, chắc chắn đồn Nghĩa Quân đã không bị Việt Cộng dùng chiến thuật biển người “đánh úp” để con của họ phải chết! Có người lại buồn; vì từ ngày đồn Ty Hạ được thành lập – và nhất là từ ngày đơn vị của Phong tăng phái cho đồn Ty Hạ – thằng con của họ cứ trốn miết trong rừng, không dám về!
Kẻ thì thầm tiếc, phải chi đơn vị của Phong về đây sớm hơn, chắc chắn đồn Nghĩa Quân đã không bị Việt Cộng dùng chiến thuật biển người “đánh úp” để con của họ phải chết! Có người lại buồn; vì từ ngày đồn Ty Hạ được thành lập – và nhất là từ ngày đơn vị của Phong tăng phái cho đồn Ty Hạ – thằng con của họ cứ trốn miết trong rừng, không dám về!
Sau phần nghi lễ thông thường, ông Hiệu Trưởng trường Sao Mai, đại diện
ban tổ chức cảm tạ sự hiện diện của quan khách và đồng bào. Tiếp theo,
ông Quận Trưởng – đại diện chính quyền – ngõ lời cùng đồng bào. Sau khi
một vị bô lão nói lên cảm tưởng của dân làng đối với sự lưu tâm của
chính phủ V.N.C.H. dành cho con em của làng Hà Bằng, một đại diện học
sinh cũng lên khán đài bày tỏ lòng biết ơn và niềm tin tưởng tốt đẹp của
các em vào chính thể Quốc Gia.
Người cuối cùng được ban tổ chức mời lên khán đài là đại úy Phong. Phong
được giới thiệu như là một người đã đem yên bình cho thôn làng; người
được cảm tình của hầu hết dân làng và – quan trọng hơn cả – chính Phong
chủ xướng và đề nghị lên Quận về công tác thiết yếu để xây trường Sao
Mai. Ngoài ra, Phong còn liên lạc với đại úy cố vấn cũ – Gary Card, hiện
là cố vấn cho ông Quận Trưởng – để xin xi-măng, tôn và các vật dụng xây
cất.
Đây không phải là lần đầu tiên Phong xuất hiện trước đám đông, cũng
không phải là lần đầu tiên chàng ban huấn từ; nhưng tại sao lần này
Phong cảm thấy xúc động lạ thường!
Nhìn quanh, Phong thấy như gốc chuối này, bờ tre nọ, khóm sậy đong đưa,
bụi cam đường oằn trái, khóm lan leo tím nhạt bên bờ rào thưa, v.v… vẫn
còn vương vấn bóng dáng thằng bé “đầu cá trê”!
Danh từ “đầu cá trê” được dân làng dùng cho những đứa bé – vì gia đình đơn chiếc và nghèo quá – suốt ngày Mẹ phải bỏ đứa bé nằm trong một cái thúng, gánh theo để đi mót lúa, mót khoai hoặc bán dạo những thứ vặt vảnh như kẹo thèo lèo, đậu phọng rang, ổi, cốc, v.v… vì vậy, đầu của đứa bé bị dẹp ở phía sau, trông giống “đầu cá trê”.
Danh từ “đầu cá trê” được dân làng dùng cho những đứa bé – vì gia đình đơn chiếc và nghèo quá – suốt ngày Mẹ phải bỏ đứa bé nằm trong một cái thúng, gánh theo để đi mót lúa, mót khoai hoặc bán dạo những thứ vặt vảnh như kẹo thèo lèo, đậu phọng rang, ổi, cốc, v.v… vì vậy, đầu của đứa bé bị dẹp ở phía sau, trông giống “đầu cá trê”.
Người dân làng Hà Bằng không thể nào tìm thấy vết tích của thằng bé “đầu
cá trê” năm xưa qua nhân dáng vạm vỡ, đạo mạo và thái độ lịch lãm của
Phong. Nhưng, quanh đây, nhìn đâu Phong cũng tưởng như thấy lại cu Phong
với những trưa lang thang dưới gốc vong đồng, rình bắn mấy con chim sẻ
với chiếc ná bằng giây thun; những buổi chiều chơi “u mọi” dưới bóng cây
đa già; những buổi sáng – với đôi bàn chân cáu bẩn, đầy ghẻ – bước nhè
nhẹ, rón rén trên khóm đá cuội im lìm bên con suối cạn để bắt mấy con
chuồn chuồn kim…
Không ai có thể tìm lại để sống với quá khứ của mình. Nhưng, tại Hà
Bằng, Phong đã tìm lại được chàng. Từ lúc tìm lại được chính mình, Phong
cảm thấy thương yêu mảnh đất này như thương yêu tuổi thơ đã mất. Và
Phong thầm nguyện sẽ bảo vệ an ninh tuyệt đối cho ngôi làng này!
Ý tưởng của Phong vừa đến đây và bước chân của Phong còn cách micro một
khoảng ngắn thì nhiều và rất nhiều trái đạn pháo kích của Việt Cộng rơi
ngay địa điểm khánh thành trường tiểu học Sao Mai!
Phong quỵ xuống. Trong cảnh hỗn loạn của đạn rơi, của tiếng nổ, của
tiếng la khóc, của bụi đất và mảnh đạn bay mịt mờ, Phong không hiểu tại
sao chàng không thể gượng dậy được! Trước khi chìm vào hôn mê, Phong
tưởng như chàng thấy rõ hình ảnh cu Phong đứng chàng hãng, giăng hai tay
ngang cửa, không cho cán bộ Lục vào nhà…
Trong số những cán bộ cao cấp cùng đơn vị với ông Thưởng – Bố của cu
Phong – đến nhà học Pháp văn do ông Thưởng dạy, cu Phong không hề thấy
Lục. Nhưng mỗi khi ông Thưởng đi công tác thì Lục lại đến thăm bà
Thưởng! Lần nào cũng vậy, Lục mặc quân phục màu “cứt ngựa”, bên hông đeo
“súng lục”, chân mang dép Bình Trị Thiên và cởi ngựa – chứ không đi xe
đạp hoặc đi bộ như ông Thưởng và các “đồng chí” cùng đơn vị với ông
Thưởng. Sau khi vào sân nhà bà Thưởng, Lục xuống ngựa, cột giây cương
vào gốc tre trước nhà rồi thong thả đi vào.
Thấy cu Phong vẫn trong tư thế đứng chàng hãng ngang cửa chứ không né
tránh, Lục gọi: “Chị Thưởng ơi!” Bà Thưởng từ bếp chạy ra: “Dạ, chào cán
bộ. Ông nhà tôi không có ở nhà.” Lục cười: “Biết rồi. Chị khỏe chứ? Tôi
muốn ghé thăm chị.” Trước khi bà Thưởng kịp đáp lời Lục, cu Phong nhìn
thẳng cán bộ, hỏi: “Ba tui hỏng có ở nhà mà sao bác cứ tới thăm Má tui
‘wài’ dậy?”
Đã bị cu Phong cản trở nhiều lần, lần này, Lục chuẩn bị trước, lấy từ túi quần viên đường thẻ màu nâu đậm, gói trong lá chuối, trao cho cu Phong: “Hôm nay bác có cái này, ngon lắm, cháu cầm đi.” Cu phong nghênh mặt: “Hỏng thèm!” Mẹ xoa tóc cu Phong: “Con phải trả lời bác một cách lễ độ.” Cu Phong uất quá, òa lên khóc! Bà Thưởng khom xuống, ôm con, hôn con như thầm cảm ơn con trong khi Lục hơi chần chừ một chốc rồi quay gót, đến bên con ngựa.
Đã bị cu Phong cản trở nhiều lần, lần này, Lục chuẩn bị trước, lấy từ túi quần viên đường thẻ màu nâu đậm, gói trong lá chuối, trao cho cu Phong: “Hôm nay bác có cái này, ngon lắm, cháu cầm đi.” Cu phong nghênh mặt: “Hỏng thèm!” Mẹ xoa tóc cu Phong: “Con phải trả lời bác một cách lễ độ.” Cu Phong uất quá, òa lên khóc! Bà Thưởng khom xuống, ôm con, hôn con như thầm cảm ơn con trong khi Lục hơi chần chừ một chốc rồi quay gót, đến bên con ngựa.
Con ngựa đưa Lục đi xa nhưng hệ lụy do Lục để lại thì không thể nào ông bà Thưởng – và cả cu Phong – có thể ngờ được!
Ông Thưởng bị thuyên chuyển lên Chùa Lầu, một vùng núi thâm u, chỉ dành
riêng cho những nhân vật thiếu tinh thần giác ngộ! Vì Chùa Lầu là nơi
“chó ăn đá, gà ăn muối” cho nên chỉ có ngôi chùa cổ cạnh con suối cạn.
Sư trù trì là ni sư Mẫu Đơn. Ni sư Mẫu Đơn phải “tình nguyện ủng hộ”
chánh điện để bộ đội cư ngụ và phục vụ cho Đảng và bác Hồ; còn ni sư Mẫu
Đơn và các ni cô khác phải dọn dẹp hậu liêu rồi thỉnh tượng Phật xuống
thờ nơi hậu liêu!
Vì điều kiện sinh sống ở vùng núi quá khó khăn, “đồng chí” nào đem theo
vợ con thì tự tìm cây rừng và tranh để dựng lên những túp lều trống
trước hở sau. Trong thời gian chờ dựng lều tranh, gia đình cu Phong được
ni sư Mẫu Đơn cho tá túc dưới mái hậu liêu. Cu Phong theo ông Thưởng
chặt cây rừng, gặt tranh để dựng lều.
Lều chưa dựng xong, ông Thưởng phải đi công tác xa. Bà Thưởng trông em
gái của cu Phong. Cu Phong lén bà Thưởng âm thầm đi gặt tranh.
Đến tối vẫn không thấy cu Phong về, bà Thưởng bế em bé đi quanh chùa, vừa khóc vừa gọi tên Phong.
Đến khuya, vẫn nghe tiếng gọi đã khàn của người Mẹ mất con, các đồng chí
từ chánh điện quát: “Có im đi để người ta ngủ hay không?” Bà Thưởng vẫn
gào khóc: “Các đồng chí làm ơn tìm giùm con tôi.” Một giọng vang lên:
“Ai đồng chí với chị? Toàn dân vùng lên chống thực dân Pháp mà vợ chồng
chị cứ dạy con học tiếng Tây; thế mà đòi là đồng chí với chúng tôi à!”
Chợt nhớ, từ khi tản cư đến Hà Bằng, bà Thưởng đã nghe đồn Chùa Lầu và đèo Quảng Cau là hai nơi cọp nhiều nhất, bà Thưởng van lơn: “Các ông tìm giúp con tôi chứ ở đây cọp nhiều lắm!” Không nghe trả lời, bà Thưởng thất vọng, trở về hậu liêu khi tiếng niệm kinh của các ni cô cũng vừa dứt.
Chợt nhớ, từ khi tản cư đến Hà Bằng, bà Thưởng đã nghe đồn Chùa Lầu và đèo Quảng Cau là hai nơi cọp nhiều nhất, bà Thưởng van lơn: “Các ông tìm giúp con tôi chứ ở đây cọp nhiều lắm!” Không nghe trả lời, bà Thưởng thất vọng, trở về hậu liêu khi tiếng niệm kinh của các ni cô cũng vừa dứt.
Ni sư Mẫu Đơn bước ra sân, thấy bà Thưởng đang khóc ngất trong khi đứa
bé gái ngủ say trong lòng Mẹ. Ni sư Mẫu Đơn hỏi nguyên nhân.
Sau khi biết nguyên nhân, ni sư Mẫu Đơn đưa Mẹ con bà Thưởng vào hậu
liêu và dặn bà Thưởng không được ra ngoài. Ni sư Mẫu Đơn cùng các ni cô
thắp bốn ngọn đèn lồng, cầm theo giây dừa, gậy gộc và một “phèng la”.
Ni sư Mẫu Đơn cùng các ni cô vừa rời hậu liêu một tý, bà Thưởng nghe
tiếng “phèng la” vang lên cùng tiếng la hét của những người con của Phật
đã quen chống chọi với thiên nhiên để tồn tại. Lúc này bà Thưởng mới
nghĩ – có lẽ – tiếng “phèng la” và tiếng la hét là để dọa cho cọp sợ.
Đi dọc con suối cạn, không thấy dấu vết gì lạ, ni sư Mẫu Đơn chợt nhớ
giếng lạng – giếng cạn, không xây thành – gần vườn xoài. Ni sư Mẫu Đơn
vội ra dấu cho nhóm ni cô theo ni sư rẻ phải, đi lên vườn xoài.
Sau khi ra dấu cho các ni cô cẩn thận và đứng xa bờ giếng, ni sư Mẫu Đơn
một tay vin vào cành xoài, một tay thòng đèn lồng khỏi bờ giếng, hỏi
lớn: “Có ai dưới đó không?” Tiếng cu Phong khóc òa: “Dạ, con! Cứu giùm
con!”
Được ni sư Mẫu Đơn và nhóm ni cô thòng giây dừa, kéo lên khỏi miệng giếng, người cu Phong tái ngắt và run lặp cặp…
Nhớ ơn cứu tử ngày xưa và cũng vì tình hình quân sự tại Chùa Lầu rất
căng thẳng, sau khi đem đơn vị đến tăng cường cho đồn Ty Hạ, Phong tổ
chức cuộc hành quân truy lùng toàn vùng Hà Bằng và Chùa Lầu.
Đến Chùa Lầu, Phong gặp lại ni sư Mẫu Đơn. Ni sư Mẫu Đơn vẫn nhớ từng
chi tiết. Chính lúc đó ni sư Mẫu Đơn mới cho Phong biết rằng: Ông bà
Thưởng đã khuyên ni sư Mẫu Đơn nên cùng gia đình ông bà Thưởng trốn về
Thành; nhưng ni sư không thuận. Đã không thuận mà ni sư cũng không hề
tiết lộ cho bất cứ ai về việc gia đình Phong trốn về lại “vùng tạm
chiếm”.
Trong khi tâm trí của Phong cứ miên man chìm vào quá khứ thì Duệ chạy
“như bay” khi được tin Việt Cộng pháo kích ngay vào buổi lễ khánh thành
trường Sao Mai. Chiếc xe Lam chạy cùng chiều với Duệ dừng lại. Bác Sáu
Nhỏ – chủ và lái xe Lam – chồm ra, hỏi:
- Tụi nó pháo kích ở đâu dẩy?Nhận ra người dân làng tốt bụng, Duệ thở gấp:
-Tụi nó pháo vô chỗ khánh thành trường Sao Mai. Bác cho tôi “quá giang” tới đó giùm.
Vì vội vàng – và cũng vì biết bác Sáu Nhỏ lúc nào cũng cho “lính Cộng
Hòa” “quá giang” mà không nhận tiền – đến nơi, Duệ không kịp cảm ơn bác
Sáu Nhỏ, vội chạy vào tìm Phong.
Nhìn hiện trường la liệt xác thường dân và trẻ em, Duệ uất đến lặng
người! Trong đời lính, thấy biết bao xác người, bạn có, thù có, nhưng
toàn là những người có liên hệ trực tiếp đến cuộc chiến cho nên trong
lòng Duệ chỉ thương tiếc, ngậm ngùi, ngao ngán chứ không có cái ghê tởm,
uất nghẹn như bây giờ!
Đang phụ khiêng xác chết của một bé trai gom chung một chỗ với những xác
chết khác, Duệ bị thiếu úy Cảnh – người vừa đem quân từ đồn Ty Hạ đến –
vỗ vai:
-Ổng đâu, mày?
-Ý, chết tui! Bị thấy con nít chết nhiều quá, tui nổi “xùng”, tui rối trí, quên ổng luôn!
Cảnh và Duệ đi nhanh đến chỗ đông người và thấy ông Quận Trưởng bị
thương nhẹ, đang tựa vào gốc cây bàng để được chăm sóc; Phong nằm im
trên đất với đôi chân bê bết máu và được kẹp bằng hai thanh tre nhỏ. Duệ
và Cảnh cùng khom xuống, sờ vào ngực Phong, thấy nhịp tim vẫn đập –
nhưng yếu. Thấy Phong hé mắt, Duệ hỏi:
-Ông thầy! Ông thầy biết em là ai không”
-Biết. Duệ.
-Dạ. Ông thầy làm em “teo” wá! Em cứ sợ dại…
Nghe tiếng trực thăng văng vẳng xa xa, Cảnh và Duệ đều thầm mừng, vì
nghĩ rằng văn phòng Quận đã biết tin và gọi trực thăng tải thương.
* * *
Sau khi thăm viếng, vấn an, đại úy cố vấn Gary Card bắt tay kiếu từ ông
Quận Trưởng. Gary vừa xoay lưng, ông Quận Trưởng chợt nhớ, vội gọi:
-Gary!
Gary quay lại “Vâng”. Ông Quận Trưởng tiếp:
-Anh nhớ đại úy Phong mà cách nay vài tháng đã xin dụng cụ xây cất để xây trường Sao Mai không?
-Vâng. Hồi trước Phong cùng trong Lực Lượng Đặc Biệt với tôi.-Đúng rồi! Phong cũng bị thương cùng lần với tôi.
-Vậy sao? Hiện tại Phong như thế nào? Đang điều trị tại đâu?
-Cũng điều trị tại bệnh viện này, cách phòng tôi khoảng vài phòng; tiếc rằng tôi không nhớ số phòng.
-Tôi sẽ tìm Phong. Cảm ơn. Giữ gìn sức khỏe.
Gary vừa đi chầm chậm vừa nhìn vào từng phòng. Đến phòng số 9 Gary nhận ra Phong ngay. Hai người xúc động, nắm tay nhau thật lâu. Phong cười, mai mỉa:
-Gary thấy không? Tôi đúng là “đi sông đi biển không chết, về nhà sụp lỗ chân trâu”!
Vừa nhìn đôi chân của Phong được băng bột, trở nên to, cứng và sậm màu, Gary – tay phải vẫn nắm tay Phong – đưa tay trái vỗ vỗ lên tay Phong:
-Bạn là con hổ dũng mãnh! Đừng lo.
Phong cười, chưa kịp nói gì thì Phong chợt cảm thấy như đang bị say sóng, nghe tiếng “u u” bên tai và hơi nóng hừng hực nơi cổ.
Thái độ của Phong và hơi nóng hâm hấp từ cơ thể của Phong lan qua bàn tay của Gary khiến Gary lo ngại, nói với Cảnh và Duệ:
-Nắm tay Phong, tôi biết Phong đang bị sốt. Nhiệt độ cao, có thể vết thương đã nhiễm trùng. Hai bạn nghĩ mình có nên đưa Phong ra tàu bệnh viện của Đệ Thất Hạm Đội để chữa trị hay không?
Duệ nhìn Cảnh vì Duệ chẳng hiểu gì. Cảnh đáp lời Gary:
-Sorry, tôi không dám có ý kiến trong việc này; vì việc này thuộc pham vi chuyên môn của các bác sĩ thuộc quân y viện này.
-Thôi được, tôi sẽ hỏi ý kiến Phong. Nếu Phong đồng ý, tôi sẽ can thiệp bằng mọi cách.
Gary khom xuống gần tai Phong, gọi nhỏ:
-Phong! Tỉnh dậy đi, Phong! Tỉnh dậy đi, Phong!
Nghe gọi, Phong cố mở mắt. Rất trầm tỉnh, Gary hỏi từng tiếng:
-Phong! Anh tỉnh chưa? Anh nghe tôi rõ không? Tôi có một việc hệ trọng, muốn hỏi anh. Anh tỉnh chưa?
Phong nhìn Gary, môi cười méo xệch:
-Có gì quan trọng quá vậy, Gary?
-Tôi muốn đưa anh ra tàu bệnh viện của Đệ Thất Hạm Đội nhờ chữa trị. Anh nghĩ thế nào?
Phong giật mình, tỉnh hẳn, không ngờ Gary dành cho chàng nhiều ưu ái đến như vậy! Trong khi mọi người đang chờ sự quyết định của chàng thì Phong nhớ lại – trong lần đầu tiên đưa quân càng quét vùng Hà Bằng, Chùa Lầu và biết mắt của ni sư Mẫu Đơn bị lòa – Phong đã thầm nguyện sẽ gặp lại ni sư Mẫu Đơn và sẽ tìm phương tiện giúp ni sư chữa bệnh mắt. Bây giờ, nghe những lời chân thành của Gary, Phong biết điều khấn nguyện của chàng đang trở thành hiện thực. Phong đáp lời Gary với giọng đầy xúc động:
-Không ngờ Gary tốt với tôi đến như vậy! Tôi xin ghi ơn bạn suốt đời. Có
điều, tôi xin Gary hãy giúp đỡ một người thiếu phương tiện hơn tôi.
Người ấy rất xứng đáng nhận đặc ân của bạn. Xin bạn hãy giúp người ấy.
Gary ngạc nhiên, nhìn Phong:
-Phong! Anh thật là lạ! Anh bị thương nặng, vết thương đang làm độc. Tôi
ngại bác sĩ ở đây không đủ dụng cụ, thuốc men, rồi anh sẽ mất đôi chân;
vậy mà anh lại từ chối để nhường cho người khác. Tại sao?
Phong nhìn vào mắt Gary; trong ánh nhìn đó Gary đọc được tất cả sự khẩn khoảng của Phong:
-Nếu Gary có lòng giúp tôi thì xin Gary giúp người ấy. Tôi ở đây có bác
sĩ; vả lại, bạn nhớ rằng tôi sẽ không chết vì “lổ chân trâu” đâu!
-Người ấy là ai? Cha Mẹ, vợ con của bạn, phải không?
-Không. Người này không họ hàng gì với tôi.
-Anh nói gì? Không họ hàng với anh mà tại sao anh lo cho người đó hơn là lo cho anh?
-Người ấy cũng như Mẹ tôi; vì người ấy đã cứu tôi thoát chết khi tôi còn bé. Người ấy là một ni sư.
Gary lập lại nho nhỏ:
-Một ni sư!
Giọng của Phong trở nên khẩn thiết vô cùng:
-Gary! Làm ơn cứu ni sư. Tôi thề sẽ làm tất cả những gì Gary muốn để Gary giúp ni sư thấy được ánh sáng mặt trời.
-Bà ấy bị mù à?
-Chưa mù hẳn; nhưng nếu Gary không giúp thì bà sẽ…
Gary nhíu mày, ra vẻ khó nghĩ vừa khi bác Sáu Nhỏ đến thăm Phong. Thấy
nét mặt mọi người quanh Phong đều có vẻ nghiêm trọng, bác Sáu Nhỏ lặng
lẽ đến bên Duệ.
Phong tiếp:
-Kỹ thuật giải phẫu mắt tại Việt Nam còn phôi thai lắm, Gary ạ! Hơn nữa,
cuộc đời của một ni sư thì làm thế nào bà ấy có tài chánh để trang trải
cho cuộc giải phẫu tốn kém như vậy. Please, Gary!
-Phong đưa tên họ và địa chỉ của ni sư cho tôi. Tôi không dám hứa gì cả. Tôi sẽ cố gắng trong khả năng của tôi.
Gary cười, vỗ vỗ vào vai Phong. Phong bảo Cảnh viết vào mảnh giấy nhỏ:
Ni sư Mẫu Đơn, Chùa Lầu, Hà Bằng. Nhìn mảnh giấy, Gary ngạc nhiên:
-Sao không thấy tên đường và số nhà?Cảnh lên tiếng:
-Trời ơi! Chùa Lầu là “ổ” Việt Cộng mà ai dám một mình lên đem ni sư đi, đại úy?
Bây giờ Phong mới thấy sự hiện diện của bác Sáu Nhỏ, vội vẩy mấy ngón tay:
-Chào bác Sáu. Cảm ơn bác đã đến thăm tôi.
-Chu cha! Nhiều người muốn đi thăm đại úy lắm mà tui hỏng dám cho đi. Tui hỏng biết mình tui có thăm đại úy được hay không mà chở “cả đám”, rủi “nẫu” hỏng cho dô thăm thì làm sao!
Quay sang Gary, Phong trở lại đề tài lúc nãy:
-Gary! Nếu có người đưa ni sư ra Qui Nhơn, bạn nghĩ bạn có thể giúp ni sư được không?
-Tôi sẽ cố gắng. Tôi sẽ liên lạc trực tiếp với anh về việc này.
-Xin đa tạ lòng nhân đạo của anh. Khi nào anh lo xong thủ tục, giấy tờ, xin cho tôi biết. Tôi sẽ nhờ người đưa ni sư đến Qui Nhơn, nghỉ tạm tại nhà bà con của tôi rồi tôi sẽ liên lạc với anh, cho anh địa chỉ của ni sư – tại Qui Nhơn.
-Tốt! Bạn có thể tin tưởng rằng ước nguyện cao cả của bạn sẽ được Đức Chúa trợ giúp. Bây giờ tôi cần tên họ, ngày, tháng, năm sinh của ni sư. Khi nào có những chi tiết cần thiết này, bạn liên lạc với tôi.
Sau khi Gary từ giã, Phong nhìn bác Sáu Nhỏ:
-Bác Sáu! Có lẽ bác đã biết bệnh tình của ni sư Mẫu Đơn rồi, phải không, bác?
-Dạ, biết.
-Nhờ bác lên Chùa Lầu thưa với ni sư Mẫu Đơn là tôi cần biết ngày, tháng, năm và nơi sinh của ni sư.
-Dạ, dễ mà. Tui dân dả đi lên Chùa Lầu hỏng sao đâu. Để tui lo.
-Cảm ơn bác. Sau này, bác có thể giúp đưa ni sư Mẫu Đơn từ Chùa Lầu
xuống Hà Bằng; rồi bác đưa ni sư đến Qui Nhơn, gửi ni sư ngụ tại nhà
người bà con của tôi, mọi phí khoản tôi sẽ ứng trước hoặc hoàn lại cho
bác, được không, bác Sáu?
-Cái gì chớ cái đó có gì khó khăn đâu! Đại úy cứ tịnh dưỡng cho mau
lành. Bất cứ lúc nào đại úy cần, cứ nói chú Duệ cho tui hay thì mọi việc
đều xong. Tiền nong mình tính sau, nhen, đại úy!
-Cảm ơn bác Sáu nhiều lắm! Tôi sẽ không để bác Sáu thiệt thòi đâu. Thôi, chiều rồi Bác Sáu, Cảnh và Duệ về đi.
* * *
Trên đường đến chỗ xe Lam đậu, bác Sáu Nhỏ chợt nhớ một chi tiết lạ, vội hỏi Duệ:
-Nè, chú Duệ! Chú là “đệ tử” của Ổng, tại sao hôm Ổng bị thương chú không ở bên Ổng mà chú lại chạy ngơ ngơ ngoài đường dậy?
-Tại bữa đó cô Thêm mời tôi ăn giỗ.
-Con Thêm bà con với chú hả?
-Không phải. Thêm là “bồ” của tôi.-Chú “bồ” với con Thêm hả? Chết cha! Coi chừng nghe, chú!
-Dạ. Sao, bác Sáu?
-Bữa đó nhà con Thêm giỗ ai?
-Dường như tôi nghe Thêm nói giỗ bà Ngoại thì phải.
Bác Sáu Nhỏ dừng bước, nhìn Duệ:
-Bà Ngoại của con Thêm còn sống sờ sờ đó mà ai nói với chú là giỗ bà Ngoại của nó? Chú cẩn thận, đừng để ông đại úy bị liên lụy, nhen, chú!
Duệ hoang mang, nhớ lại câu hát của thằng bé “…Vui đàn con ở rừng sâu mới về…” Và, hôm đó, Duệ thấy một cụ bà lưng còng, ngồi trên phản, lặng lẽ têm trầu chứ không ăn cơm; mà bữa cơm cũng chẳng có gì ra vẻ là bữa giỗ!
Lại cũng chẳng thấy nhan, đèn, vàng bạc gì cả! Mà bữa giỗ thì tại sao Ba Má của Thêm lại đi mua lác dệt chiếu? Duệ lại nhớ, mỗi lần “hai đứa” hẹn nhau bên bụi dù dẻ hoặc bên gò mối, Thêm cứ hỏi dò Duệ: “Cái máy gì mà anh cứ đeo trên lưng rồi ‘nẫu’ nói ra, anh nói dô trong đó dậy?” Duệ tìm cách không đáp lời Thêm.
Bây giờ, nhận ra được nguyên nhân của sự việc, Duệ – dù rất thương Thêm – cũng cảm thấy uất trong lòng vì chàng đã bị lợi dụng và lừa dối! Duệ chửi thề:
-Mẹ nó!
Cảnh hỏi:
-Cái gì vậy, Duệ?
-Dạ, không có gì, thiếu úy.
Đáp lời Cảnh như vậy, nhưng trong lòng, Duệ đã quyết định dứt tình với Thêm. Duệ thầm nhủ, sau khi Phong xuất viện, Duệ sẽ trình bày mọi việc và xin Phong cho chàng được thuyên chuyển đến đơn vị khác!
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/
LÊ XUÂN NHUẬN * SÀI-GÒN: HÒN NGỌC VIỄN-ĐÔNG
SÀI-GÒN:
HÒN NGỌC VIỄN-ĐÔNG
I
Tài-liệu nước ngoài
I.1/ Trong tác-phẩm “Hanoi and Ho Chi Minh City: The Long Struggle of Two Cities” (Hà-Nội và “Thành-Phố HCM”: cuộc gắng sức lâu dài của Hai Thành Phố ấy), độc-giả đọc thấy ở trang 304:
Nguồn:
Saigon được dùng làm trung-tâm hành-chánh của Nam-Kỳ (vào năm 1862). Do đó mới bắt đầu việc biến-cải cái phố chợ này thành thủ-phủ của thuộc-địa Đông-Dương, một thủ-đô thường được nhắc đến như là “Hòn Ngọc Viễn Đông”….
I.2/ Trong tác-phẩm “Les Noms de la ville depuis trois siècles” (Các tên-gọi của Thành-Phố Sài-Gòn từ 3 thế-kỉ nay), ở trang 43 tác-giả viết:
Nguồn:
Trong số các tên-gọi dành cho Thành-Phố Sài-Gòn, cái tên-gọi làm cho nó hãnh-diện nhất là từ-ngữ xác-định phẩm-chất được dùng trong thời-kì thuộc-địa: “Hòn Ngọc Viễn-Đông”. Sau đó thì có các tên-gọi khác kém phần thơ-mộng hơn.
I.3/ Trong tập tài-liệu nhan đề “Đông Dương” của Phủ Tổng-Ủy Pháp tại Đông Dương (trang 114) phổ-biến tại Cuộc Triển-Lãm Thuộc-Địa tại Marseille năm 1906, có đoạn:
Nguồn:
Saigon, thủ-phủ của Nam-Kì, xây quanh vị-trí phòng-thủ của người An-Nam mà quân Pháp và Tây-Ban-Nha tấn-chiếm năm 1859, sau thời-gian tái-thiết đã trở thành “Hòn Ngọc Viễn-Đông” và là “thủ-đô lịch-sử của Đông-Dương” (thuộc Pháp).
I.4/ Trong tác-phẩm “Les Chemins vers la Ville” (Những Con Đường dẫn đến Thành-Phố (Saigon)”, ở trang 114 có đoạn:
Nguồn:
Nên nhớ là việc đánh chiếm thuộc-địa đã bắt đầu tại Saigon hơn một phần tư thế-kỉ trước khi bắt đầu tại Hà-Nội (năm 1888). Thành-phố (Saigon) hồi đó được xem là “Hòn Ngọc Viễn-Đông”, một kiểu mặt kính nhà hàng của nền thuộc-địa Pháp… cho đến năm 1902 thì Phủ Toàn-Quyền dời ra Hà-Nội.
I.5/ Trong tác-phẩm “De Saigon à Ho Chi Minh Ville, Une Métropole entre Utopies et Compromis” (Từ Saigon đến
“Thành-Phố Hồ Chí Minh”, một thủ-đô ở giữa Không-Tưởng và Thỏa-Hiệp) của Daniel Weissberg và Thái Thị Ngọc Du, ở trang 41 các tác-giả viết:
“Thành-Phố Hồ Chí Minh”, một thủ-đô ở giữa Không-Tưởng và Thỏa-Hiệp) của Daniel Weissberg và Thái Thị Ngọc Du, ở trang 41 các tác-giả viết:
Nguồn:
“Hòn Ngọc Viễn-Đông”, “thành-phố thiên-đường”, đồng-thời với “da trắng, tây-lai và da đỏ”, là nơi pha-chế/thí-nghiệm của nền “vi-mô dân-chủ thuộc-địa” giữa các năm 1925 và 1945 (Pháp bị Nhật đảo-chánh)….
II
Tài-Liệu tiếng Việt
II.1/ Trong tác-phẩm “Phong Thủy Việt Nam” của Hoàng Long Hải, độc-giả đọc thấy:
“Bởi phía Bắc Đông Dương là “Lục địa Trung Hoa”, phía Tây là “Lục địa Ấn Độ”, nên có khi người ta gọi Đông Dương là Bán Đảo (Bán Đảo Đông Dương). Ngày nay, danh từ ấy ít được dùng tới. Thời Pháp thuộc, có khi người ta gọi Đông Dương là “Viễn Đông” (Far East), Saigon là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Ngày nay, người ta gọi chung vùng nầy là “Đông Nam Á.”
II.2/ Trong bài-viết “Đặng Thế Phong: Tài hoa bạc mệnh” đăng trên diễn-đàn Văn Thơ Lạc Việt và nhiều diễn-đàn liên-mạng, tác-giả Lê Hoàng Long đã viết:
“Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng (Đặng Thế) Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn Đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội…”
Ông chết ở vùng ngoại ô thành phố Hà Nội ở tuổi 24 vào năm 1942 (dưới thời Pháp-thuộc).
II.3/ Theo Từ-Điển Bách-Khoa mở Wikipedia, thì:
“Thuật ngữ Hòn ngọc Viễn Đông (tiếng Pháp: la perle de l'Extrême-Orient) là một mỹ danh được thực dân Pháp dùng để chỉ thành phố Sài Gòn, thủ đô của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp thời kỳ đầu thế kỷ 20 (Viễn Đông ở đây là chỉ 3 nước thuộc địa ở cực Đông của Pháp, gồm Việt Nam, Lào và Campuchia).”
Đầu thế-kỉ 20 là từ 1900 đến 1950 (dưới thời Pháp-thuộc).
II.4/ Bài-viết “Lý Giải Mỹ Danh Hòn Ngọc Viễn Đông” đăng trên mạng ảo vnexpress có đoạn:
“Sự cạnh tranh của Anh, Pháp trong việc “khai hóa” các nước thuộc địa. Từ những năm 1895, Pháp tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng ở thuộc địa nhằm phát triển kinh tế. Họ đặt tham vọng vượt mặt nước Anh tại Singapore và HongKong.
Danh xưng “Hòn Ngọc Viễn Đông” (La perle de l’Extrême Orient) xuất hiện để chỉ cho Sài Gòn. Đây được xem là thủ phủ của Đông Dương về kinh tế, giải trí để cạnh tranh với Singapore của người Anh.”
II.5/ Kiến-Trúc-Sư Nguyễn Hữu Thái trên mạng ảo tuoitre.vn đã viết:
“Mong muốn tạo lập một đế chế thuộc Pháp tại Đông Nam châu Á, đã phần nào tạo động lực ganh đua với đế quốc Anh. Đông Dương thuộc Pháp được dự kiến sẽ cạnh tranh với Ấn Độ thuộc Anh.
“Pháp tạo ra ‘Hòn ngọc Viễn Đông’ để đối ứng với Ấn Độ mà Anh “tấn phong” là “viên châu báu trên vương miện.”
III
Kết-Luận
III.1/ “Hòn Ngọc Viễn Đông” là danh-xưng của Thành-Phố Sài-Gòn dưới thời Pháp-thuộc (trước 1945).
III.2/ Người Pháp ở Âu-Tây xa-cách Sài-Gòn (và Việt-Nam, Đông-Dương) nên mới sử-dụng chữ “viễn” là “xa”. Người Việt-Nam ở Á-Đông là ở ngay trên đất/nhà của mình mà gọi Sài-Gòn là “Hòn Ngọc Viễn-Đông” (thấy “sang” bắt quàng làm họ) thì là mất gốc, tự mình tách lìa quê cha đất tổ ra khỏi đời sống vật-chất lẫn tinh-thần của mình.
III.3/ Nếu có nhân-vật, lực-lượng nào muốn làm cho Sài-Gòn sáng chói như một “Hòn Ngọc” thì “Hòn Ngọc” đó phải là “Hòn Ngọc Á-Châu” hay là “Hòn Ngọc Á-Đông”; như thế mới có í-nghĩa, chính-danh và giá-trị.
NHỮNG MẸO NHỎ VỀ TRỨNG
Những Mẹo Nhỏ Về Trứng Rất Cần Thiết
Trứng là một loại thực phẩm được sử dụng hàng ngày. Trứng có rất nhiều chất dinh dưỡng tốt cho cơ thể. Dưới đây là những mẹo vặt rất hữu ích về trứng.
1. Đặt trứng đúng hướng khi lưu trữ
Dù đặt trứng trong tủ lạnh hay bên ngoài, các bạn cũng cần nhớ đặt hướng đầu to của quả trứng lên trên, thay vì hướng đầu nhỏ lên trên như thế này.
2. Tách lòng trắng trứngNgoài cách quen thuộc là dùng vỏ chai nhựa để hút thì chúng ta có thể dùng phễu để tách lòng đỏ và lòng trắng trứng. Cách này có vẻ nhanh và triệt để hơn nhiều đó.
3. Cách bóc trứng "nhanh như một cơn gió"
Các bạn chỉ cần cho trứng vào một chiếc cốc cùng với một ít nước rồi lắc mạnh vài lần. Bây giờ thì bỏ ra vào xem kết quả này!
4. Cách khác để bóc trứng nhanh hơn
Ngoài cách trên, các bạn còn có thể áp dụng một mẹo vặt khác, đó là cho một lát chanh vào nồi nước luộc trứng khi đang sôi. Quả trứng luộc xong cũng sẽ rất dễ bóc đó.
Trứng là một loại thực phẩm được sử dụng hàng ngày. Trứng có rất nhiều chất dinh dưỡng tốt cho cơ thể. Dưới đây là những mẹo vặt rất hữu ích về trứng.
1. Đặt trứng đúng hướng khi lưu trữ
Dù đặt trứng trong tủ lạnh hay bên ngoài, các bạn cũng cần nhớ đặt hướng đầu to của quả trứng lên trên, thay vì hướng đầu nhỏ lên trên như thế này.
2. Tách lòng trắng trứngNgoài cách quen thuộc là dùng vỏ chai nhựa để hút thì chúng ta có thể dùng phễu để tách lòng đỏ và lòng trắng trứng. Cách này có vẻ nhanh và triệt để hơn nhiều đó.
Các bạn chỉ cần cho trứng vào một chiếc cốc cùng với một ít nước rồi lắc mạnh vài lần. Bây giờ thì bỏ ra vào xem kết quả này!
4. Cách khác để bóc trứng nhanh hơn
Ngoài cách trên, các bạn còn có thể áp dụng một mẹo vặt khác, đó là cho một lát chanh vào nồi nước luộc trứng khi đang sôi. Quả trứng luộc xong cũng sẽ rất dễ bóc đó.
CHÓ CỨU CHỦ VIỆT
Chú chó cào cửa cứu chủ Việt khỏi cháy rừng ở California
Nhờ sự báo động của chú chó Key, ông Phước chạy thoát kịp thời khi ngọn lửa từ đám cháy rừng đã bao trùm nửa căn nhà ở Bắc California.
Ông Phước bên chó Key bị mù một mắt trong đám cháy. Ảnh: Ân Đỗ.
"Sao con cứ làm phiền ba hoài vậy? Để cho ba ngủ đi!", ông Nguyễn Công
Phước nằm trên giường mắng chó Key khi nó liên tục cào cửa phòng ngủ lúc
một giờ sáng 9/10.
Đến ba giờ sáng, con chó giống Chihuahua ông nuôi suốt 12 năm qua càng
sủa dữ dội, cào cấu liên tục, tìm cách mở cửa, khiến ông Phước bật dậy,
định ra mắng nó một trận.
"Khi mở cửa phòng ngủ ra thì lửa đã cháy một phần nửa phòng khách của
tôi rồi. Khi đó khói mù mịt, tôi không thở được nữa", ông Phước kể lại
với VnExpress.
Mình trần, ông lao ra ngoài mà không kịp mang theo bất cứ thứ gì. "Tôi
ra khỏi nhà, xung quanh toàn lửa là lửa", ông Phước nói. Ông định quay
vào nhà lấy ví và giấy tờ quan trọng nhưng bị người hàng xóm ngăn lại:
"Anh mà vào là chết". Phòng khách sau đó đổ sập.
Tọa lạc trên một ngọn đồi rộng 12 ha giữa những vạt rừng ở
Fountaingrove, gần thành phố Santa Rosa, biệt thự 4 phòng ngủ của ông
Nguyễn Công Phước có giá hơn một triệu USD.
Nhưng chỉ sau vài giờ, biệt thự của nhà kinh doanh bất động sản về hưu
này đã hóa tro tàn. Hai chiếc xe bị kẹt trong gara, không mở được cửa,
nhưng ông may mắn còn chiếc xe bán tải đậu ngoài cửa.
Lái xe thoát khỏi đám cháy xuống đồi, ông chứng kiến 5 cây sồi trên trăm
tuổi trong vườn bị thiêu trụi chỉ trong vòng 5 phút. Những con nai hàng
ngày ông vẫn ra thăm nay hoảng loạn chạy băng qua rừng.
Ông Phước, 67 tuổi, sống tại khu đồi này đã 20 năm. Vợ ông mất cách đây
12 năm, còn hai con đi làm ở thành phố Chicago. Ông chỉ có chó Key làm
bầu bạn.
"Nếu không có con chó thì tôi ra tro rồi", ông nói và kể về cặp vợ chồng bạn ông mới chết trong nhà vì cháy rừng.
Khi đưa chó Key ra ánh sáng, ông mới phát hiện ra nó bị mù một mắt do
tàn lửa bay vào. Ông đang tính chừng nào yên ổn đi phẫu thuật cho chó
Key. Ông Phước kể con chó rất tinh khôn, biết dự báo trời sắp mưa bằng
cách kêu ăng ẳng, cào cào trên sân.
"Nhà tôi bây giờ không còn gì hết", ông Phước nói khi đang tá túc tại
tại trung tâm của nhà thờ Công giáo. Tuy nhiên, thời gian này ông rất
thoải mái, không phải lo nghĩ gì, bởi công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm
xây cho ông một căn nhà mới trên nền đất căn nhà cũ.
Ông Phước từng đóng bảo hiểm nhà trị giá 500.000 USD. Công ty bảo hiểm
mới đã ký ngay cho ông tấm séc 5.000 USD để chi tiêu, đồng thời đang tìm
nhà cho ông ở tạm cho tới khi xây xong nhà mới.
Số người chết tại Bắc California do cháy rừng đã lên tới 31, trong khi
hàng trăm người vẫn mất tích, 3.500 tòa nhà bị phá hủy. Đây là thảm họa
cháy rừng nghiêm trọng nhất trong lịch sử bang. Tại Fountaingrove nơi
ông Phước sống, ít nhất 500 nhà bị phá hủy, theo Press Democrat.
Hơn 8.000 lính cứu hỏa và lực lượng hỗ trợ đang chống chọi với các đám
cháy. "Chúng ta còn lâu mới kết thúc được tai họa này", giám đốc cơ quan
quản lý phòng chống cháy rừng California Ken Pimlott nói, theo CNN. Lửa
vẫn cháy một cách thất thường hôm 12/10, ông cho biết.
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM MỚI
Hân-hạnh giới-thiệu
ANGELS
of Heaven & Earth
CÁC THIÊN-THẦN
Trên Trời& Dưới Đất
Đây là tuyển-tập thơ tiếng Anh
gồm có 75 bài thơ, của 50 tác-giả
được Hội Thơ POETRYFEST Hoa-Kỳ
tuyển-chọn, trong đó có Thanh-Thanh.
Nữ-sĩ Betty Cummins Starr-Joyal
chủ-biên và xuất-bản.
Địa-chỉ:
PoetryFest, PO Box 3561, Ashland, OR 97520
TUYẾT XỨ THI CÁC
TÔI MAY MẮN
tôi may mắn có em trong đời tôi
mỗi sáng hồng giọt sương đọng làn môi
thơm cỏ dại chùm hoa vừa tỉnh dậy
nắm tay nhau cho đỡ lạc chơi vơi
tôi may mắn có em trong nỗi nhớ
nhớ em ngay từ lúc hẹn sững sờ
trời chưa thắm nhưng tình vừa bừng nở
em chưa xa sao đã để mong chờ
tôi may mắn có em trong xót thương
nửa hồn đau tê lặng giữa đoạn trường
em ngọn gió nâng cánh chiều về muộn
nghẹn ngào chia từng mảnh sống vui buồn
tôi may mắn có em giờ phút đó
cuối cuộc đời thanh thản giấc hải hồ
rạng đông nhắn hạt sương về chỉ lối
em và tôi dìu nhau bước vào mơ
I am so fortunate in my life to have you
with your rosy lips fresh as morning dew,
fragrant as just woken wild grass’ scent,
to be hand in hand not stray in discontent.
I am so lucky to have you in desolation,
desiderative before our date in vibration.
Day hasn’t broken yet but love just created;
you have not left, but I already awaited.
I am so providential to have you in bane
while half of my soul is paralyzed in pain,
to lift this late even wing you are a zephyr
to share life’s joy and vicissitude together.
I am so happy to have you at the right time
my strong will at the end relaxes in chime.
Dawn directs us through the dew to beam:
You and I lead one another into our dream.
Translation by THANH-THANH
Thanh-Thanh
Bảy Mươi Năm Làm Thơ
Cảnh-Sát-Hóa
Biến-Loạn Miền Trung Vietnamese Choice Poems
NÓI VỚI BẠN BÈ
Rồi chúng ta cũng sẽ về với đất
Tranh dành chi chuyện tốt xấu hơn thua
Hồn lưu lạc cốt xương rồi sẽ mất
Nhựa còn đâu khi lá đã sang mùa
Rồi có lúc chúng ta cùng ngồi lại
Nhìn rõ nhau để nhớ buổi thiếu thời
Nhìn rõ nhau để nhớ buổi thiếu thời
Hãy làm sao ánh nhìn không e ngại
Cầm tay nhau và lòng rất thảnh thơi
Rồi có lúc chúng ta buồn vái lạy
Đốt nhang trầm khóc bạn hữu ra đi
Rơi nước mắt lúc xe tang sắp chạy
Sao giờ đây đối xử chẳng ra gì
Rồi có lúc ta trở về cát bụi
Nắm tro tàn cô lẻ giữa trần gian
Sao lại vẫn hao tâm ngồi cặm cụi
Viết những lời khiến bằng hữu tan hoang
Rồi tất cả chỉ vòng quay trống rỗng
Đến rồi đi quy luật của muôn đời
Sao không sống với những lời thơ mộng
Để cuối đời không tiếc cuộc rong chơi
Minh hà
TO MY FRIENDS
There will be a time we also return to earth;
Then why still fight over win or lose to worth.
The drifted soul, corpse will fall into shade;
There is no more resin when the leaves fade.
There will be a time we all meet face to face,
Look right in our eye to recall our youth trace.
Let us see that our sight should not be shy,
Hold each other’s hands with hearts open high.
There will be a time we prostrate ourselves, sad,
Burn incense/aloe wood, mourn a gone comrade,
Shed tears when the hearse is going to move off.
Well, why at present we have the heart to scoff.
There will be a time all of us get back to dust
As a handful of ashes deserted in life―it must.
Then why still waste energy to blindly write
The words, terms, expressions to friends blight?
And everybody, everything is an empty rotation:
Come and go are eternally the laws of causation.
Why don’t we live with, use cordial tone on earth
In order not to regret our journey since our birth.
Translation by THANH-THANH
Chuyện mùa đông
Thôi nhắc làm chi những chuyện sầu
Khi lòng chua xót trắng thương đau
Bao nhiêu miền cũ vời xa ấy
Buồn lắm tôi nào quên nổi đâu
Lối ngõ người đi đã cỏ mòn
Câu nguyền thu đã hẹp không gian
Hồn nghe vừa dậy mùa vui cũ
Định nói, lời xem quá ngại ngùng
Ôi gió may về động dấu chân
Trời xưa mây vẫn rộng như lòng
Sân chiều chao nhẹ dăm tờ lá
Và khói sương về cuộn cánh song
Lá thư xanh mát hoen màu lệ
Đôi cánh hoa vàng ép tả tơi
Bấy nhiêu có đủ cho người nhớ
Mà thấy lòng như muốn ngậm ngùi
Đã bảo rằng không kể chuyện sầu
Dối lòng cho dịu chút thương đau
Nhưng ngày đông đó tôi còn thấy
Nên cố quên mà quên được đâu
NHÃ CA
Well, what should I recall the sad stories for
While my heart is still full of dolor, why more?
How many of those old far-away so unkind
Alas! I haven’t been able to erase from my mind!
The grass had worn under your feet in persistence
And your promises had shortened the distance;
I felt in my soul the old merry season to arise,
Intending to speak, but scrupled through tries.
Oh the autumnal breeze moved the footprints alright,
The old sky’s clouds were still ample as my plight.
Some leaves softly swung in the evening courtyard,
And smog blurred outside my windows barred.
The blue love letter was stained, the color of tears;
A few pressed yellow flowers tattered through years.
Are those tokens sufficient for one to conceive
So that my innermost feelings seem to grieve.
I told myself the sad stories no longer to relate
(Just deceived my heart, tried the pain to abate!)
However, that winter I did still feel the past span;
That is why the more I try to forget the less I can.
Translation by THANH-THANH
MÓN QUÀ VU LAN
mở cuốn an bum nhìn thấy mẹ
bóng mẹ năm nào nay đã xa
đêm nằm nghe gió lùa thao thức
mưa gõ vào tim nỗi nhớ nhà
đời sống hôm nay đầy đủ lắm
mà con không mẹ, chẳng còn cha
ngày xưa con sống ngu ngơ vậy
giờ biết thương yêu thiếu mẹ già
mẹ đã ra đi thời khó nhọc
quê nghèo nặng trĩu gánh bôn ba
sắn khoai nuôi mẹ ngày sau cuối
con mắc tù lao phải vắng nhà
gian khó một đời cha mẹ gánh
ơn dày nghĩa nặng chẳng phôi pha
mẹ ơi sầu tũi đường xa xứ
xin gửi hôm nay một chút quà ?
tháng bảy Vu Lan mùa báo hiếu
âm dương cách trở mấy đường xa
nén nhang ngọn nến lung linh gió
chẳng khóc mà sao mắt lệ nhòa
MẠC PHƯƠNG ĐÌNH
MY VU LAN PRESENT
I gazed in the album at my dear Mom’s picture
And realized that now is so far-off her figure
I listened to the rain as if on my heart flick
The wind blow making me agitatedly nostalgic
Although is abundant my current subsistence
Neither my Mom nor my Dad stays in existence
As a child I was so dull being by Mom kissed
Now that I know whom to love, Mom is missed
Mom departed this life during a difficult time
Scurrying beneath the burden in our poor clime
Until your last days on manioc hand to mouth
While I was in prison as a “puppet” of the South
Such a hard period Dad and Mom bore your part
That feeling of gratitude I bury deep in my heart
Dear Mom please accept from this sad son adrift
On this commemorative day my little humble gift
Vu Lan mid-seventh month, the filial duty event
Between life and death how far to suffer torment
Joss-sticks and candles spark, the wind uprears
I don’t cry but why my eyes get wet with tears
GÁNH DỪA
DTDB
Kẽo ca kẽo kẹt
Vai quảy gánh dừa
Qua cua cầu cót két
Nắng chiều lưa thưa
Hai đầu dóng nặng
Oằn trên vai gầy
Áo pha màu nắng
Gió vờn tóc mây
Quần đen bùn lấm
Lốm đốm phai màu
Bởi nước phèn thấm
Ống thấp ống cao
Bước chân thoan thoắt
Da rám nắng hồng
Quãng đường xa lắc
Trời trong thật trong
Nghiêng nghiêng nón lá
Rách tả bung vành
Hoàng hôn bóng ngã
Trải đồng lúa xanh
Chăm sóc cha mẹ
Trong tuổi xế tà
Dưỡng dục con trẻ
Thay chồng phương xa
Chồng đi cải tạo
Mười năm chưa về
Kẻ thù tàn bạo
Đày chốn sơn khê
Dừa đầu nầy gánh
Đầu kia gia đình
Để chồng vững mạnh
Giữ trọn niềm tin
Ngày ngày chị gánh
Những quày dừa tươi
Dừa xanh dừa rám
Hơn nửa cuộc đời
Hởi người thiếu phụ
Tâm hồn sáng trong
Cả đời lam lũ
Sắt son một lòng
Gánh đời trĩu nặng
Gánh dừa oằn vai
Chị đi lẳng lặng
Trong bóng chiều phai
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
mở cuốn an bum nhìn thấy mẹ
bóng mẹ năm nào nay đã xa
đêm nằm nghe gió lùa thao thức
mưa gõ vào tim nỗi nhớ nhà
đời sống hôm nay đầy đủ lắm
mà con không mẹ, chẳng còn cha
ngày xưa con sống ngu ngơ vậy
giờ biết thương yêu thiếu mẹ già
mẹ đã ra đi thời khó nhọc
quê nghèo nặng trĩu gánh bôn ba
sắn khoai nuôi mẹ ngày sau cuối
con mắc tù lao phải vắng nhà
gian khó một đời cha mẹ gánh
ơn dày nghĩa nặng chẳng phôi pha
mẹ ơi sầu tũi đường xa xứ
xin gửi hôm nay một chút quà ?
tháng bảy Vu Lan mùa báo hiếu
âm dương cách trở mấy đường xa
nén nhang ngọn nến lung linh gió
chẳng khóc mà sao mắt lệ nhòa
MẠC PHƯƠNG ĐÌNH
MY VU LAN PRESENT
I gazed in the album at my dear Mom’s picture
And realized that now is so far-off her figure
I listened to the rain as if on my heart flick
The wind blow making me agitatedly nostalgic
Although is abundant my current subsistence
Neither my Mom nor my Dad stays in existence
As a child I was so dull being by Mom kissed
Now that I know whom to love, Mom is missed
Mom departed this life during a difficult time
Scurrying beneath the burden in our poor clime
Until your last days on manioc hand to mouth
While I was in prison as a “puppet” of the South
Such a hard period Dad and Mom bore your part
That feeling of gratitude I bury deep in my heart
Dear Mom please accept from this sad son adrift
On this commemorative day my little humble gift
Vu Lan mid-seventh month, the filial duty event
Between life and death how far to suffer torment
Joss-sticks and candles spark, the wind uprears
I don’t cry but why my eyes get wet with tears
Translation by THANH-THANH
GÁNH DỪA
DTDB
Kẽo ca kẽo kẹt
Vai quảy gánh dừa
Qua cua cầu cót két
Nắng chiều lưa thưa
Hai đầu dóng nặng
Oằn trên vai gầy
Áo pha màu nắng
Gió vờn tóc mây
Quần đen bùn lấm
Lốm đốm phai màu
Bởi nước phèn thấm
Ống thấp ống cao
Bước chân thoan thoắt
Da rám nắng hồng
Quãng đường xa lắc
Trời trong thật trong
Nghiêng nghiêng nón lá
Rách tả bung vành
Hoàng hôn bóng ngã
Trải đồng lúa xanh
Chăm sóc cha mẹ
Trong tuổi xế tà
Dưỡng dục con trẻ
Thay chồng phương xa
Chồng đi cải tạo
Mười năm chưa về
Kẻ thù tàn bạo
Đày chốn sơn khê
Dừa đầu nầy gánh
Đầu kia gia đình
Để chồng vững mạnh
Giữ trọn niềm tin
Ngày ngày chị gánh
Những quày dừa tươi
Dừa xanh dừa rám
Hơn nửa cuộc đời
Hởi người thiếu phụ
Tâm hồn sáng trong
Cả đời lam lũ
Sắt son một lòng
Gánh đời trĩu nặng
Gánh dừa oằn vai
Chị đi lẳng lặng
Trong bóng chiều phai
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
SÔNG BẾN HẢI - CHIA ĐÔI TÌNH MẪU TỬ
“Ngày 20 tháng 7 năm 1954
Việt Nam chia đôi nơi dòng sông Bến Hải”
Việt Nam chia đôi nơi dòng sông Bến Hải”
Thương làm sao vùng quê thân yêu đó
Nhớ làm sao những kỷ niệm đong đầy
Khi hoàng hôn chầm chậm nẻo chân mây
Lòng hiu quạnh mắt trông về chốn cũ
Nhớ ngày nào con ra thành theo chú
Mỗi khúc ruột mẹ, là mỗi đứa con!
Cách chia nào không đau đớn héo hon
Thương mẹ, nhớ em... đầm đìa nước mắt
Xa vời vợi khi quê hương ngăn cách
Chung một nước mà kẻ Bắc người Nam
Biển rộng mênh mông, rừng núi ngút ngàn
Sông Bến Hải cắt chia tình Mẫu Tử!
Dù con được thương yêu gia đình chú
Miền Nam cơm no, áo ấm, học hành...
Nhưng không sao quên dáng mẹ hiền lành
Khắc khoải nhớ thương đêm đêm lệ nhỏ...
Rồi miền Nam rơi vào tay giặc đỏ!
Con bôn ba chạy loạn lạc xứ người
Mẹ tuổi đời chồng chất đã sáu mươi
Lặn lội khắp nơi kiếm tìm con trẻ...
Con xa mẹ khi hãy còn tấm bé
Mẹ lìa con xao xác quá nửa đời!
Xa càng xa... khi thời cuộc đổi dời
Mỗi lần thay đổi ngàn trùng xa cách!
Vạn lý hải tần nửa vòng trái đất!
Nhớ chùa Tam Thanh, nhớ nước sông Thương
Nhớ đào Mẫu Sơn nửa trắng, nửa hường
Gỗ hoàng đàn, Thất Khê mùa mận chín...
Mộc nhĩ, nấm hương, mật ong... Tràng Định
Quên làm sao nắng chiều nhạt bãi dâu
Đêm mưa rơi, sáng non nhẫn dây trầu
Gió mát rượi mượt mà tàu lá chuối...
Mẹ ơi khói lam, sương mờ đỉnh núi
Nỗi nhớ thương dằng dặc thuở nào nguôi?
Ở nơi đây muôn thuở vẫn xứ người
Vật chất, tự do, văn minh... sang cả!
Nhớ làm sao những kỷ niệm đong đầy
Khi hoàng hôn chầm chậm nẻo chân mây
Lòng hiu quạnh mắt trông về chốn cũ
Nhớ ngày nào con ra thành theo chú
Mỗi khúc ruột mẹ, là mỗi đứa con!
Cách chia nào không đau đớn héo hon
Thương mẹ, nhớ em... đầm đìa nước mắt
Xa vời vợi khi quê hương ngăn cách
Chung một nước mà kẻ Bắc người Nam
Biển rộng mênh mông, rừng núi ngút ngàn
Sông Bến Hải cắt chia tình Mẫu Tử!
Dù con được thương yêu gia đình chú
Miền Nam cơm no, áo ấm, học hành...
Nhưng không sao quên dáng mẹ hiền lành
Khắc khoải nhớ thương đêm đêm lệ nhỏ...
Rồi miền Nam rơi vào tay giặc đỏ!
Con bôn ba chạy loạn lạc xứ người
Mẹ tuổi đời chồng chất đã sáu mươi
Lặn lội khắp nơi kiếm tìm con trẻ...
Con xa mẹ khi hãy còn tấm bé
Mẹ lìa con xao xác quá nửa đời!
Xa càng xa... khi thời cuộc đổi dời
Mỗi lần thay đổi ngàn trùng xa cách!
Vạn lý hải tần nửa vòng trái đất!
Nhớ chùa Tam Thanh, nhớ nước sông Thương
Nhớ đào Mẫu Sơn nửa trắng, nửa hường
Gỗ hoàng đàn, Thất Khê mùa mận chín...
Mộc nhĩ, nấm hương, mật ong... Tràng Định
Quên làm sao nắng chiều nhạt bãi dâu
Đêm mưa rơi, sáng non nhẫn dây trầu
Gió mát rượi mượt mà tàu lá chuối...
Mẹ ơi khói lam, sương mờ đỉnh núi
Nỗi nhớ thương dằng dặc thuở nào nguôi?
Ở nơi đây muôn thuở vẫn xứ người
Vật chất, tự do, văn minh... sang cả!
Sao nước Việt vẫn nổi trôi đày đọa!
Người dân lành luôn thiếu áo, đói ăn
Lãnh hải, lãnh thổ dâng, bán... ngoại xâm
Dân tộc khốn cùng, đảng viên phú quí...
Quê hương ta đã trải bao thế kỷ
Ông cha đời đời chẳng ngại gian lao
Từng lớp người tiếp nối đổ máu đào
Quyết gìn giữ một Việt Nam hạnh phúc
Con bất hiếu chưa trọn tình cốt nhục
Để mẹ nhớ thương khốn khổ đoạn trường...
Và giờ đây xa cách quá quê hương...
Luôn vật vã trong khát khao niềm nhớ
Mẹ kính yêu, kiếp nhân sinh tạm bợ...
Chữ hiếu đạo xin kết cỏ ngậm vành
Nghĩa trả ơn đền ở kiếp lai sanh...
Cành Nam chim đậu... hướng về cố quốc
Xin lỗi mẹ, con vẫn chưa về được
Vì cộng thù còn thống trị quê hương
Khi toàn dân còn khốn khổ đoạn trường
Lòng dạ nào thảnh thơi về thăm lại!
Lời mẹ nhắn nhủ, con ghi nhớ mãi:
“... Trước sao sau trước phải giữ lòng son
Cộng gieo tóc tang, nhân nghĩa rụi mòn
Đừng về con... quê hương còn bóng giặc!
Từ xa con, mẹ quen rồi héo hắt...
Đời thăng trầm qua bao cuộc bể dâu
Dù chân trời gốc biển, hay tuyến đầu...
Mẹ mãn nguyện, con theo đường Chính nghĩa...
Nỗi nhớ thương lòng già thêm thấm thía...
Hận thù cộng... càng chất ngất dâng cao
Đoàn tựu, mẹ con mình hẹn kiếp sau...
Sông Bến Hải chia đôi tình Mẫu Tử!”
Người dân lành luôn thiếu áo, đói ăn
Lãnh hải, lãnh thổ dâng, bán... ngoại xâm
Dân tộc khốn cùng, đảng viên phú quí...
Quê hương ta đã trải bao thế kỷ
Ông cha đời đời chẳng ngại gian lao
Từng lớp người tiếp nối đổ máu đào
Quyết gìn giữ một Việt Nam hạnh phúc
Con bất hiếu chưa trọn tình cốt nhục
Để mẹ nhớ thương khốn khổ đoạn trường...
Và giờ đây xa cách quá quê hương...
Luôn vật vã trong khát khao niềm nhớ
Mẹ kính yêu, kiếp nhân sinh tạm bợ...
Chữ hiếu đạo xin kết cỏ ngậm vành
Nghĩa trả ơn đền ở kiếp lai sanh...
Cành Nam chim đậu... hướng về cố quốc
Xin lỗi mẹ, con vẫn chưa về được
Vì cộng thù còn thống trị quê hương
Khi toàn dân còn khốn khổ đoạn trường
Lòng dạ nào thảnh thơi về thăm lại!
Lời mẹ nhắn nhủ, con ghi nhớ mãi:
“... Trước sao sau trước phải giữ lòng son
Cộng gieo tóc tang, nhân nghĩa rụi mòn
Đừng về con... quê hương còn bóng giặc!
Từ xa con, mẹ quen rồi héo hắt...
Đời thăng trầm qua bao cuộc bể dâu
Dù chân trời gốc biển, hay tuyến đầu...
Mẹ mãn nguyện, con theo đường Chính nghĩa...
Nỗi nhớ thương lòng già thêm thấm thía...
Hận thù cộng... càng chất ngất dâng cao
Đoàn tựu, mẹ con mình hẹn kiếp sau...
Sông Bến Hải chia đôi tình Mẫu Tử!”
Tình xưa cách giang hà
Tình gần đã tử biệt
Một mình trong canh chầy,
Muôn vạn nỗi xót xa!
Sơn Trung
ÔNG KHAI TRÍ
Ông Khai Tri
Ở trại tù Z 30 C Hàm Tân vào mỗi buổi sáng, những người tù đợi đi lao động , nhưng sớm hơn có một ông già lúc naò cũng với bộ quần áo trắng đã ngả qua màu cháo lòng đẩy chiếc xe cải tiến chứa phân Bắc của tù đem đi . Sáng nào cũng vậy , ít ai biết Ông là ai.
Người Sài Gòn gọi ông là "ông Khai Trí" (theo tên nhà sách - nhà xuất bản do ông làm chủ). Hết sức quảng bác nhưng ông lại rất ít nói về mình, nên ít người biết ông chính là tấm gương sống động: từ hai bàn tay trắng trở thành người kinh doanh ngành sách lớn nhất và uy tín nhất miền Nam.
Ông Khai Trí" tên thật là Nguyễn Hùng Trương, sinh năm 1926 tại Thủ Đức.
Thuở nhỏ, ông thường nhịn ăn sáng, dùng 2 đồng xu mẹ cho để mua báo đọc. Lên Sài Gòn học trung học ở Petrus Ký, ông được sắm cho chiếc xe đạp cũ để cuối tuần đạp về nhà, đầu tuần trở lên với món tiền đủ để tiêu xài dè sẻn trong tuần. Nhưng cứ mỗi chiều thứ hai là ông tiêu sạch số tiền đó vào sách báo rồi cả tuần nhịn ăn sáng, chỉ uống nước lã cho đỡ đói.
Sách ông mua hầu hết là sách báo nước ngoài, vào thập niên 1940 ông đã gây dựng được một tủ sách có giá trị. Bạn bè đến chơi, thấy ông có nhiều sách hay thường nhờ ông mua giùm. Có lần, chỉ 5 người nhờ nhưng ông mua đến 10 cuốn để được hưởng 30% hoa hồng. Số sách dư ra, ông đem ký gửi ở quán sách. 3 hôm sau, người chủ quán hỏi ông sách loại đó còn không, nếu còn thì đem tới tiếp vì sách gửi trước đã bán hết rồi. Từ đó ông nảy ra ý định mua sách báo ở nước ngoài về gửi bán. Sách ông chọn là loại sách có giá trị, quý hiếm, nhiều người cần mà trong nước không bán. Lúc đầu mua mỗi thứ vài chục cuốn, thấy bán chạy ông mới tăng số lượng lên, có khi cả nghìn cuốn.
Nhờ cố gắng làm việc không quản mệt mỏi, tiết kiệm từng đồng nên đến năm 1952 ông Khai Trí đủ vốn để mở một hiệu sách nhỏ tại 62 đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi), đặt tên là Nhà sách Khai Trí (nay là Nhà sách Sài Gòn). Đây là nhà sách đầu tiên ở Việt Nam bán hàng theo kiểu tự chọn, khách có thể đứng đọc tại chỗ hàng giờ rồi đi ra mà không phải mua. Nữ nhân viên bán hàng mặc đồng phục, lúc nào cũng vui vẻ ân cần, trông nom một cách kín đáo...
Những điều này hiện nay được áp dụng ở đa số hiệu sách nhưng vào thời điểm đó thì quá mới mẻ và rất được khách hàng ủng hộ, nhờ vậy mà sau đó nhà sách được mở rộng thêm 2 căn liền kề với nhiều tầng lầu.
Nhà sách Khai Trí còn phụ trách cả việc xuất bản sách với những đầu sách được chọn lựa kỹ càng và phong phú.
Một thú chơi đặc biệt của ông Trương nữa là sưu tầm sách báo (chỉ riêng tờ báo Pháp ngữ Le Monde, ông có từ số đầu tiên cho tới ngày 30/4/1975). Ông còn cùng nhà văn Nhật Tiến chủ trương ra Tuần báo Thiếu Nhi và là soạn giả của nhiều đầu sách có giá trị.
Riêng trong khoảng 10 năm từ 1993 đến 2003, ông đã tuyển chọn và biên soạn khoảng 15 cuốn sách: Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Quê em mến yêu, Làm con nên nhớ, Chánh tả cho người miền Nam, Huế mến yêu, Những bài thơ hay trong văn chương Việt Nam...
Nhà văn Nguyễn Thụy Long (tác giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Loan mắt nhung," một cuốn tiểu thuyết mà sau này giới nghiên cứu miền Bắc sau 1975 cũng hết lời ca ngợi) có viết một bài nhan đề "Vĩnh biệt ông Khai Trí," trong đó có nhắc đến hoàn cảnh đau thương của ông Khai Trí sau 1975:
"Ông Khai Trí qua đời lúc 5 giờ 15 ngày 11 tháng 3 năm 2005, thọ 80 tuổi sau hai tuần nằm bệnh viện. Ông mất đi do sức già lực kiệt, nhiều năm ông cố gắng tranh đấu để xin lại hiệu sách vĩ đại của ông sau khi bị nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tịch thu, sau đợt cải tạo văn hóa 1976 tại Sài Gòn. Tiệm sách của ông tại đường Lê Lợi mang tên Khai Trí bị nhà nước "quản lý", nay mang tên Phahasa của nhà nước.
Thuở đó, sau khi các sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị đi cải tạo trước, đến lượt những văn nghệ sĩ bị bắt, tác phẩm thiêu đốt và họ đều bị coi là kẻ có tội, đương nhiên bị bôi nhọ, kết tội là Biệt Kích Văn Nghệ.
Ông Khai Trí cũng bị coi là tội phạm, liệt vào hàng văn nghệ sĩ và bị bỏ tù, vì người chiến thắng cho ông là người kinh doanh và phát triển cái văn hóa đồi trụy. Những người đã từng sống ở miền Nam trước giải phóng, ai cũng biết đến ông. Gọi là ông Khai Trí mà quên cái tên cúng cơm của ông là Nguyễn Hùng Trương, ông làm được nhiều công việc lợi ích cho văn hóa Việt Nam, cả đời ông đam mê công việc ấy. Và ông quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ ở miền Nam, kể cả những văn nghệ sĩ Bắc di cư 1954.
Ông Khai Trí lại ra tay giúp đỡ nhiều anh em văn nghệ sĩ gặp hoàn cảnh khó khăn, mua tác phẩm của họ, tuy chưa in còn để đấy nhưng ông vẫn trả tiền đầy đủ không thiếu một xu. Ngoài ra ông tài trợ cho nhiều tờ báo hồi đó ở Sài Gòn. Tôi không biết nhiều, nhưng tôi biết về tờ báo Sống của Chu Tử, cũng có sự góp sức về mặt tiền bạc.
..Bao nhiêu lần tôi đi qua đường Lê Lợi, tôi nhìn thấy ông Khai Trí buồn bã đứng ở góc đường đó, nhìn sang hiệu sách cũ của mình mang tên mới là Phahasa.
Một lần khác, cũng trong bữa giỗ ông Chu Tử, tôi hỏi ông Khai Trí về việc xin lại nhà sách Khai Trí đến đâu rồi?
Ông cười chua chát:
- Phải đến năm 3000 thì may ra..
Ngày ông bị bắt, bị bỏ tù, bao nhiêu bài báo nói xấu ông, kết tội ông còn dấu bao nhiêu kho sách Ngụy, không thành thật khai báo. Chuyện thế thái nhân tình lúc ông gặp hoạn nạn, những kẻ trước đây từng chịu ơn ông, tố cáo ông bao nhiêu là tội kể cả những điều không có để lập công.
Buổi lễ tang ông Khai Trí, tại nhà ông đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (Phan thanh Giản cũ) tôi gặp nhiều bạn bè của ông, những người thuộc chế độ Sài Gòn cũ đến thắp cho ông những nén nhang và chia xẻ sự thương tiếc với gia đình ông.
Nhà văn Nguyễn Thụy Long ngâm ngùi tiêp:
...Tôi nhớ mãi dáng ông Khai Trí đứng nhìn lên hiệu sách cũ của mình và câu nói chán nản của ông, năm 3000 thì người ta trả lại cho ông nhà sách Khai Trí. Sao mà chua chát thế cho ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, cả một đời chỉ có một đam mê là làm văn hóa, giữ gìn cái hay, cái đẹp cho thế hệ mai sau.
Ở trại tù Z 30 C Hàm Tân vào mỗi buổi sáng, những người tù đợi đi lao động , nhưng sớm hơn có một ông già lúc naò cũng với bộ quần áo trắng đã ngả qua màu cháo lòng đẩy chiếc xe cải tiến chứa phân Bắc của tù đem đi . Sáng nào cũng vậy , ít ai biết Ông là ai.
Người Sài Gòn gọi ông là "ông Khai Trí" (theo tên nhà sách - nhà xuất bản do ông làm chủ). Hết sức quảng bác nhưng ông lại rất ít nói về mình, nên ít người biết ông chính là tấm gương sống động: từ hai bàn tay trắng trở thành người kinh doanh ngành sách lớn nhất và uy tín nhất miền Nam.
Ông Khai Trí" tên thật là Nguyễn Hùng Trương, sinh năm 1926 tại Thủ Đức.
Thuở nhỏ, ông thường nhịn ăn sáng, dùng 2 đồng xu mẹ cho để mua báo đọc. Lên Sài Gòn học trung học ở Petrus Ký, ông được sắm cho chiếc xe đạp cũ để cuối tuần đạp về nhà, đầu tuần trở lên với món tiền đủ để tiêu xài dè sẻn trong tuần. Nhưng cứ mỗi chiều thứ hai là ông tiêu sạch số tiền đó vào sách báo rồi cả tuần nhịn ăn sáng, chỉ uống nước lã cho đỡ đói.
Sách ông mua hầu hết là sách báo nước ngoài, vào thập niên 1940 ông đã gây dựng được một tủ sách có giá trị. Bạn bè đến chơi, thấy ông có nhiều sách hay thường nhờ ông mua giùm. Có lần, chỉ 5 người nhờ nhưng ông mua đến 10 cuốn để được hưởng 30% hoa hồng. Số sách dư ra, ông đem ký gửi ở quán sách. 3 hôm sau, người chủ quán hỏi ông sách loại đó còn không, nếu còn thì đem tới tiếp vì sách gửi trước đã bán hết rồi. Từ đó ông nảy ra ý định mua sách báo ở nước ngoài về gửi bán. Sách ông chọn là loại sách có giá trị, quý hiếm, nhiều người cần mà trong nước không bán. Lúc đầu mua mỗi thứ vài chục cuốn, thấy bán chạy ông mới tăng số lượng lên, có khi cả nghìn cuốn.
Nhờ cố gắng làm việc không quản mệt mỏi, tiết kiệm từng đồng nên đến năm 1952 ông Khai Trí đủ vốn để mở một hiệu sách nhỏ tại 62 đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi), đặt tên là Nhà sách Khai Trí (nay là Nhà sách Sài Gòn). Đây là nhà sách đầu tiên ở Việt Nam bán hàng theo kiểu tự chọn, khách có thể đứng đọc tại chỗ hàng giờ rồi đi ra mà không phải mua. Nữ nhân viên bán hàng mặc đồng phục, lúc nào cũng vui vẻ ân cần, trông nom một cách kín đáo...
Những điều này hiện nay được áp dụng ở đa số hiệu sách nhưng vào thời điểm đó thì quá mới mẻ và rất được khách hàng ủng hộ, nhờ vậy mà sau đó nhà sách được mở rộng thêm 2 căn liền kề với nhiều tầng lầu.
Nhà sách Khai Trí còn phụ trách cả việc xuất bản sách với những đầu sách được chọn lựa kỹ càng và phong phú.
Một thú chơi đặc biệt của ông Trương nữa là sưu tầm sách báo (chỉ riêng tờ báo Pháp ngữ Le Monde, ông có từ số đầu tiên cho tới ngày 30/4/1975). Ông còn cùng nhà văn Nhật Tiến chủ trương ra Tuần báo Thiếu Nhi và là soạn giả của nhiều đầu sách có giá trị.
Riêng trong khoảng 10 năm từ 1993 đến 2003, ông đã tuyển chọn và biên soạn khoảng 15 cuốn sách: Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Quê em mến yêu, Làm con nên nhớ, Chánh tả cho người miền Nam, Huế mến yêu, Những bài thơ hay trong văn chương Việt Nam...
Nhà văn Nguyễn Thụy Long (tác giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Loan mắt nhung," một cuốn tiểu thuyết mà sau này giới nghiên cứu miền Bắc sau 1975 cũng hết lời ca ngợi) có viết một bài nhan đề "Vĩnh biệt ông Khai Trí," trong đó có nhắc đến hoàn cảnh đau thương của ông Khai Trí sau 1975:
"Ông Khai Trí qua đời lúc 5 giờ 15 ngày 11 tháng 3 năm 2005, thọ 80 tuổi sau hai tuần nằm bệnh viện. Ông mất đi do sức già lực kiệt, nhiều năm ông cố gắng tranh đấu để xin lại hiệu sách vĩ đại của ông sau khi bị nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tịch thu, sau đợt cải tạo văn hóa 1976 tại Sài Gòn. Tiệm sách của ông tại đường Lê Lợi mang tên Khai Trí bị nhà nước "quản lý", nay mang tên Phahasa của nhà nước.
Thuở đó, sau khi các sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị đi cải tạo trước, đến lượt những văn nghệ sĩ bị bắt, tác phẩm thiêu đốt và họ đều bị coi là kẻ có tội, đương nhiên bị bôi nhọ, kết tội là Biệt Kích Văn Nghệ.
Ông Khai Trí cũng bị coi là tội phạm, liệt vào hàng văn nghệ sĩ và bị bỏ tù, vì người chiến thắng cho ông là người kinh doanh và phát triển cái văn hóa đồi trụy. Những người đã từng sống ở miền Nam trước giải phóng, ai cũng biết đến ông. Gọi là ông Khai Trí mà quên cái tên cúng cơm của ông là Nguyễn Hùng Trương, ông làm được nhiều công việc lợi ích cho văn hóa Việt Nam, cả đời ông đam mê công việc ấy. Và ông quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ ở miền Nam, kể cả những văn nghệ sĩ Bắc di cư 1954.
Ông Khai Trí lại ra tay giúp đỡ nhiều anh em văn nghệ sĩ gặp hoàn cảnh khó khăn, mua tác phẩm của họ, tuy chưa in còn để đấy nhưng ông vẫn trả tiền đầy đủ không thiếu một xu. Ngoài ra ông tài trợ cho nhiều tờ báo hồi đó ở Sài Gòn. Tôi không biết nhiều, nhưng tôi biết về tờ báo Sống của Chu Tử, cũng có sự góp sức về mặt tiền bạc.
..Bao nhiêu lần tôi đi qua đường Lê Lợi, tôi nhìn thấy ông Khai Trí buồn bã đứng ở góc đường đó, nhìn sang hiệu sách cũ của mình mang tên mới là Phahasa.
Một lần khác, cũng trong bữa giỗ ông Chu Tử, tôi hỏi ông Khai Trí về việc xin lại nhà sách Khai Trí đến đâu rồi?
Ông cười chua chát:
- Phải đến năm 3000 thì may ra..
Ngày ông bị bắt, bị bỏ tù, bao nhiêu bài báo nói xấu ông, kết tội ông còn dấu bao nhiêu kho sách Ngụy, không thành thật khai báo. Chuyện thế thái nhân tình lúc ông gặp hoạn nạn, những kẻ trước đây từng chịu ơn ông, tố cáo ông bao nhiêu là tội kể cả những điều không có để lập công.
Buổi lễ tang ông Khai Trí, tại nhà ông đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (Phan thanh Giản cũ) tôi gặp nhiều bạn bè của ông, những người thuộc chế độ Sài Gòn cũ đến thắp cho ông những nén nhang và chia xẻ sự thương tiếc với gia đình ông.
Nhà văn Nguyễn Thụy Long ngâm ngùi tiêp:
...Tôi nhớ mãi dáng ông Khai Trí đứng nhìn lên hiệu sách cũ của mình và câu nói chán nản của ông, năm 3000 thì người ta trả lại cho ông nhà sách Khai Trí. Sao mà chua chát thế cho ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, cả một đời chỉ có một đam mê là làm văn hóa, giữ gìn cái hay, cái đẹp cho thế hệ mai sau.
MÁY PHIÊN DỊCH
Tai nghe giúp nói chuyện với người nước ngoài không cần biết ngoại ngu
TTO - Với tai nghe không dây có thể dịch trực tiếp khoảng 40 loại ngôn ngữ khác nhau của Google, những người không biết ngoại ngữ có thể dễ dàng giao tiếp với người nước ngoài.
Tai nghe không dây Pixel Buds được tích hợp công nghệ phiên dịch theo thời gian thực giúp người đeo nó có thể trò chuyện bằng tiếng mẹ đẻ với người nước ngoài ở 40 loại ngôn ngữ khác nhau - Ảnh: ARSTECHNICA
Theo trang tin công nghệ Arstechnica, cùng với việc ra mắt các mẫu smartphone Pixel mới, Google cũng vừa tung ra thiết bị tai nghe không dây đi kèm có khả năng dịch ngôn ngữ trực tiếp theo thời gian thực.
Mẫu tai nghe không dây có tên Pixel Buds vừa ra mắt là mẫu tai nghe không dây đầu tiên do Google sản xuất để dùng kèm với các mẫu smartphone Pixel.
Với Pixel Buds, người dùng có thể sử dụng công cụ Google Translate để giao tiếp với những người nói các ngôn ngữ khác với họ.
Khác với thiết bị AirPods của Apple, thiết bị Pixel Buds của Google có một sợi dây kết nối giữa hai đầu tai nghe. Tuy nhiên sợi dây này không nết nối với smartphone hay thiết bị nào khác.
Pixel Buds sẽ kết nối với các mẫu smartphone Pixel mới thông qua Bluetooth. Và có thể hiểu là tai nghe không dây mới của Google cũng có khả năng hoạt động tương thích với các thiết bị khác chấp nhận các tai nghe không dây Bluetooth.
Tất cả các phần điều khiển của Pixel Buds đều được tích hợp trong phần tai nghe bên phải. Đây được xem là giải pháp phần cứng phổ biến với các loại tai nghe không dây.
Người dùng có thể truy cập công cụ Google Assistant bằng cách chạm hoặc nhấn lên phần tai nghe bên phải, theo đó trợ lý ảo Assistant sẽ đọc các thông báo và tin nhắn gửi cho bạn thông qua các tai nghe.
Tuy nhiên tính năng hấp dẫn nhất của Pixel Buds chính là công nghệ hợp nhất Google Translate vào thiết bị tai nghe không dây này.
Theo đó, khi sử dụng Pixel Buds, người dùng có thể trò chuyện với người nước ngoài bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ vì ngôn ngữ trao đổi sẽ được phiên dịch trực tiếp theo thời gian thực qua tai nghe.
Google Assistant sắp trở thành phiên dịch viên thực thụ
TTO - Google Assistant đưa ra một phương pháp mới để hỗ trợ người dụng vượt qua rào cản ngôn ngữ trong khi đi du lịch.
Trong bản demo, một người nói tiếng Anh bản ngữ và một người nói tiếng Thụy Điển bản ngữ đã có thể trò chuyện với nhau bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình trong khi sử dụng Pixel Buds. Google Translate đã là "phiên dịch viên" ảo cho họ.
Pixel Buds sẽ sử dụng Google Translate để chuyển ngữ các cuộc đối thoại bằng 40 loại ngôn ngữ khác nhau. Đây là tính năng độc đáo và hiện chỉ có một công ty như Google mới có thể tích hợp được vào tai nghe không dây nhờ vào cơ sở dữ liệu và hạ tầng đã có của nền tảng dịch thuật Google Translate.
Tai nghe không dây Pixel Buds có thời lượng pin dùng được liên tục trong 5 tiếng đồng hồ sau một lần sạc đầy. Đây là thời lượng pin trung bình với một tai nghe không dây hiện nay.
Google thông báo mức giá đặt mua trước với tai nghe không dây Pixel Buds là 159 USD ngay từ hôm nay (5-10).
Google Pixel buds- AI-powered headphones - Nguồn: THE VERGE
Saturday, October 21, 2017
TRẦN MỘNG TÚ
Thi Sĩ Việt Nam Đầu Tiên
Vào Sách Giáo Khoa Trung Học Mỹ
Quà Tặng Trong Chiến Tranh
Vào Sách Giáo Khoa Trung Học Mỹ
------------------------------ ----------------
Nếu quý vị mở cuốn sách giáo khoa dạy văn chương “Glencoe Literature” do nhà xuất bản McGraw Hill ấn hành, quý vị sẽ thấy một bài thơ của một thi sĩ Việt Nam dịch sang tiếng Anh đi song song với bài diễn văn nổi tiếng của Tổng Thống Abraham Lincoln trong thời Nội chiến Mỹ, tại bãi chiến trường Gettysburg. Đó là bài thơ của Trần Mộng Tú, The Gift in Wartime, nhan đề tiếng Việt là “Quà Tặng Trong Chiến Tranh.” Hai tác phẩm trên được đem ra để dạy học sinh môn văn chương Hoa Kỳ.
Trong phần thứ ba của cuốn sách giáo khoa, viết về văn chương thời kỳ nội chiến Nam Bắc ở Mỹ và sau cuộc nội chiến, các nhà soạn sách giáo khoa của công ty Glencoe - McGraw Hill, rất thông dụng trong các trường trung học ở Mỹ đã có sáng kiến đem bài thơ Trần Mộng Tú, qua bản dịch Anh ngữ cho học sinh nghiên cứu song song với bài diễn văn trầm hùng của Abraham Lincoln, so sánh cách dùng chữ, cách chọn hình ảnh, những ý tưởng trong mỗi bài của hai tác giả.
Đây là một kinh nghiệm văn chương quý báu mà các học sinh Mỹ được hưởng khi tiếp xúc với một thi sĩ ngoại quốc để thấy hậu quả của chiến tranh trên tâm hồn một phụ nữ Việt Nam cũng mang những tính chất nhân bản và sâu sắc không khác gì vị Tổng Thống mà tất cả mọi người Mỹ đều quen thuộc. Có lẽ sau này học sinh Việt Nam khi học về văn chương thời nội chiến Nam Bắc ở thế kỷ 20 cũng sẽ có cơ hội nghiên cứu bài thơ của Trần Mộng Tú
Nếu quý vị mở cuốn sách giáo khoa dạy văn chương “Glencoe Literature” do nhà xuất bản McGraw Hill ấn hành, quý vị sẽ thấy một bài thơ của một thi sĩ Việt Nam dịch sang tiếng Anh đi song song với bài diễn văn nổi tiếng của Tổng Thống Abraham Lincoln trong thời Nội chiến Mỹ, tại bãi chiến trường Gettysburg. Đó là bài thơ của Trần Mộng Tú, The Gift in Wartime, nhan đề tiếng Việt là “Quà Tặng Trong Chiến Tranh.” Hai tác phẩm trên được đem ra để dạy học sinh môn văn chương Hoa Kỳ.
Trong phần thứ ba của cuốn sách giáo khoa, viết về văn chương thời kỳ nội chiến Nam Bắc ở Mỹ và sau cuộc nội chiến, các nhà soạn sách giáo khoa của công ty Glencoe - McGraw Hill, rất thông dụng trong các trường trung học ở Mỹ đã có sáng kiến đem bài thơ Trần Mộng Tú, qua bản dịch Anh ngữ cho học sinh nghiên cứu song song với bài diễn văn trầm hùng của Abraham Lincoln, so sánh cách dùng chữ, cách chọn hình ảnh, những ý tưởng trong mỗi bài của hai tác giả.
Đây là một kinh nghiệm văn chương quý báu mà các học sinh Mỹ được hưởng khi tiếp xúc với một thi sĩ ngoại quốc để thấy hậu quả của chiến tranh trên tâm hồn một phụ nữ Việt Nam cũng mang những tính chất nhân bản và sâu sắc không khác gì vị Tổng Thống mà tất cả mọi người Mỹ đều quen thuộc. Có lẽ sau này học sinh Việt Nam khi học về văn chương thời nội chiến Nam Bắc ở thế kỷ 20 cũng sẽ có cơ hội nghiên cứu bài thơ của Trần Mộng Tú
Bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” được viết ở Việt Nam, khi thi sĩ
còn rất trẻ, từ những xúc động trước cái chết của một chiến sĩ quân lực
Việt Nam Cộng Hòa, người yêu đầu của cô, sau đó đã được đăng trên các
tạp chí khắp nơi ở hải ngoại.
Bài diễn văn do Tổng Thống Lincoln đọc ngày 19 tháng 11 năm 1863 trong
dịp khánh thành một nghĩa trang cho các tử sĩ tại chiến trường
Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Trước ông, một chính trị gia và nhà
hùng biện nổi tiếng đã nói suốt 2 giờ; đến lượt Lincoln ông chỉ nói
trong vòng 2 phút.
Sau buổi lễ, các nhà báo tường thuật không ai nhắc đến những lời Lincoln nói, nhưng dần dần dân tộc Mỹ đã nhận ra đó là một tác phẩm văn chương bất hủ, xuất phát từ tấm lòng của một nhà lãnh đạo vốn rất ghét chiến tranh nhưng phải dẫn đầu nước Mỹ trong một cuộc chiến bất đắc dĩ và đã thành công trong việc bảo vệ một quốc gia thống nhất với những lý tưởng tự do, bình đẳng. Câu nói được cả thế giới ngày nay nhắc lại nhiều lần kết thúc bài diễn văn ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh để một “chính phủ của dân, do dân, và vì dân sẽ không bị hủy diệt trên trái đất.”
Sau buổi lễ, các nhà báo tường thuật không ai nhắc đến những lời Lincoln nói, nhưng dần dần dân tộc Mỹ đã nhận ra đó là một tác phẩm văn chương bất hủ, xuất phát từ tấm lòng của một nhà lãnh đạo vốn rất ghét chiến tranh nhưng phải dẫn đầu nước Mỹ trong một cuộc chiến bất đắc dĩ và đã thành công trong việc bảo vệ một quốc gia thống nhất với những lý tưởng tự do, bình đẳng. Câu nói được cả thế giới ngày nay nhắc lại nhiều lần kết thúc bài diễn văn ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh để một “chính phủ của dân, do dân, và vì dân sẽ không bị hủy diệt trên trái đất.”
Abraham Lincoln đọc bài diễn văn của ông trước một đám đông, và ông nhắm vào công chúng. Còn Trần Mộng Tú viết một mình, cho mình. Nhưng học sinh có thể tìm thấy những mục đích và cảm xúc giống nhau trong hai tác phẩm ngắn này. Học sinh cũng được dịp tìm hiểu khai phá sự khác biệt giữa hai nền văn hóa của hai tác giả, và thử hỏi một người Mỹ thời nay nếu viết về chiến tranh thì sẽ viết giống tác phẩm nào.Cuốn sách giáo khoa tiếp theo đã giới thiệu thi sĩ Trần Mộng Tú, sinh ở tỉnh Hà Đông,Việt Nam, người phụ nữ có kinh nghiệm chính mình sống với những hậu quả của cuộc chiến tranh trong đó hai triệu người Việt Nam thiệt mạng cũng như 57,000 người Mỹ. Sau khi đọc bài thơ Trần Mộng Tú, học sinh được hướng dẫn với những câu hỏi để khám phá những cảm xúc mà tác giả gợi cho người đọc cũng như tìm hiểu nội dung bài thơ. Cuốn sách giáo khoa cũng gợi ý cho học sinh tìm hiểu về kỹ thuật, học sinh tự hỏi tại sao thi sĩ đã dùng các điệp ngữ và nhắc lại các hình ảnh để gây ấn tượng nợi người đọc. Sau đó, các học sinh được mời so sánh hai áng văn chương cùng viết trong thời nội chiến ở hai quốc gia, hai thế kỷ khác nhau.
Để quý vị thông cảm với tác giả Trần Mộng Tú, chúng tôi xin đăng lại nguyên văn 2 bài thơ của thi sĩ bằng tiếng Việt dưới đây. Bài Quà Tặng Trong Chiến Tranh (Trong American Literature textbook) và bài Giấc Mơ Hòa Bình (Trong Vision of War, Dream of Peace)
Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
Anh tặng em bội tinh
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai màu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai màu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng
Em tặng anh tuổi ngọc
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Em tặng anh mây vương
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Anh tặng môi không cười
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động
Anh muôn vàn tạ lỗi
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.
Tháng 7/ 1969
Giấc Mơ Hòa Bình
Em nghe nói hòa bình
Trên những tờ nhật báo
Em nghe nói hòa bình
Trên miệng người lãnh đạo
Trên những tờ nhật báo
Em nghe nói hòa bình
Trên miệng người lãnh đạo
Em để lòng khờ khạo
Ôm giấc mơ hòa bình
Mong chiến tranh chấm dứt
Anh giã từ đao binh
Ôm giấc mơ hòa bình
Mong chiến tranh chấm dứt
Anh giã từ đao binh
Tin về từ trận tuyến
Anh chết giữa chiến trường
Ôi giấc mơ khờ khạo
Chỉ còn là đau thương
Anh chết giữa chiến trường
Ôi giấc mơ khờ khạo
Chỉ còn là đau thương
Từ khi em ra đời
Từ khi có trí khôn
Em thấy toàn chém giết
Em thấy toàn máu xương
Từ khi có trí khôn
Em thấy toàn chém giết
Em thấy toàn máu xương
Từ khi em biết nghe
Từ khi em biết nói
Toàn những lời giả dối
Toàn những lời hứa suông
Từ khi em biết nói
Toàn những lời giả dối
Toàn những lời hứa suông
Từ khi em biết yêu
Từ khi em biết nhớ
Anh đã dặn đợi chờ
Rồi anh không về nữa
Từ khi em biết nhớ
Anh đã dặn đợi chờ
Rồi anh không về nữa
Ôi giấc mơ khờ khạo
Ôi giấc mơ hòa bình
Xây giữa lòng tham bạo
Chết trước khi thành hình
Ôi giấc mơ hòa bình
Xây giữa lòng tham bạo
Chết trước khi thành hình
Ôi lòng non bé nhỏ
Như giấy trắng thơm tho
Vết mực đen loang lổ
Làm hoen ố hồn thơ
Như giấy trắng thơm tho
Vết mực đen loang lổ
Làm hoen ố hồn thơ
Em đã biết giận thù
Biết cuộc đời dối trá
Trang nhất nói hòa bình
Trang tư toàn cáo phó
Biết cuộc đời dối trá
Trang nhất nói hòa bình
Trang tư toàn cáo phó
Em không còn bồng bột
Tin những lời đầu môi
Em bắt đầu tỉnh ngộ
Thì đã mất anh rồi
Tin những lời đầu môi
Em bắt đầu tỉnh ngộ
Thì đã mất anh rồi
Ôi giấc mơ hòa bình
Anh trả bằng sự sống
Em trả bằng tủi hờn
Bằng một đời đơn độc
Anh trả bằng sự sống
Em trả bằng tủi hờn
Bằng một đời đơn độc
Tháng 7/1969
Cao La
( sưu tầm )
( sưu tầm )
CUỘC ĐỜI THĂNG TRẦM CỦA CON GÁI "HÙM THIÊNG YÊN THẾ"
CUỘC ĐỜI THĂNG TRẦM CỦA
Bà Hoàng Thị Thế là con gái của thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế Hoàng Hoa Thám. Ảnh: Omega+
Cách đây hơn 100 năm, Hoàng Hoa Thám tức Đề Thám, một trong những gương mặt quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam, một trong những gương mặt quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam trong cuộc xung đột với Pháp, đã qua đời.
Ông để lại một người con gái tên là HOÀNG THỊ THẾ có vận mệnh khác thường, cùng một người con trai sinh năm 1908 là Hoàng Hoa Phồn, còn có tên gọi là Hoàng Bùi Phồn và Hoàng Văn Vi. Người con trai của Đề Thám đã qua đời một cách bi đát năm 1945.
Cuộc đời đầy "biến động" của người con gái Đề Thám – Hoàng Thị Thế
Bài viết dưới đây sẽ chia sẻ về Hoàng Thị Thế, người con gái duy nhất của Hoàng Hoa Thám, có một vận mệnh và một cuộc đời đầy thăng trầm.
Hoàng Thị Thế sinh ngày 31/3/1901 ở Phồn Xương, Yên Thế (Bắc Giang). Mẹ là Đặng Thị Nho, tục gọi là bà Ba Cẩn, người vợ thứ ba đồng thời là cộng sự của của thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế Hoàng Hoa Thám.
Theo như chia sẻ của Hoàng Thị Thế trong cuốn hồi ký "Kỷ niệm thời thơ ấu", bà được hứa hôn với một người con của hoàng đế Trung Hoa lúc lên ba.
Trong cuốn hồi ký viết bằng tiếng Pháp của mình, Hoàng Thị Thế đã chia sẻ những năm tháng thơ ấu không thể nào quên cùng với cuộc đời đầy sóng gió của gia đình vị anh hùng Hoàng Hoa Thám (1858-1913), đánh dấu những giai đoạn đấu tranh và trốn tránh trong núi rừng Yên Thế.
Tại vùng đất "oai hùng" Yên Thế, nơi từng diễn ra những cuộc phục kích liên tục, Hoàng Thị Thế đã bị người Pháp bắt vào tháng 6/1909 sau nhiều lần muốn tiêu diệt cuộc khởi nghĩa của phong trào nông dân Yên Thế và bắt sống thủ lĩnh Đề Thám.
Bà Hoàng Thị Thế và mẹ đẻ. Ảnh chụp năm 1909.
Sau đó, mẹ bà là Đặng Thị Nho cũng bị bắt vào ngày 1/12/1909. Bà Ba Cẩn bị đày sang Guyanne (Pháp) và qua đời ở trại cách ly Alger trên đường đi vào ngày 25-11-1910.
Cha bà, Hoàng Hoa Thám sau đó cũng bị giết ngày 10/2/1913 (tức mồng 5 tháng Giêng Âm lịch).
Về phần Hoàng Thị Thế, sau khi theo học trường Tây ở Bắc Kỳ, bà được đưa sang Pháp vào năm 1917 cùng với gia đình một viên chức nhà Đoan. Bà được Albert Sarraut (Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ) nhận làm con nuôi và cho bà theo học ở trường nội trú Jeanne D’Arc ở Biarritz (Pháp). Bà lấy tên là Marie Beatrice Destham.
Trở về Bắc Kỳ, bà Hoàng Thị Thế làm thủ thư ở tòa Thống sứ Hà Nội với tư cách là viên chức Pháp. Bà ở đây từ năm 1925 đến năm 1927 và sống một thời gian cùng với người em trai là Hoàng Văn Vi, tức Phồn, tại phố Hàm Long.
Trở lại Pháp, bước chân vào nghệ thuật thứ 7 và những năm tháng "lạ thường"
Trở lại Paris, Albert Sarraut giới thiệu bà như là công chúa. Tổng thống nước Cộng hòa Paul Doumer trở thành người cha đỡ đầu và cấp cho bà một khoản trợ cấp gây nên nhiều tranh cãi.
Vào năm 1930, bà Hoàng Thị Thế bước chân vào con đường nghệ sĩ trong bộ phim của Louis Mercanton, dựa theo một truyện ngắn của William-Somerset Maugham: Lá thư. Bà tự xưng là "công chúa Hoàng Thị Thế" và báo chí gọi bà là "công chúa Trung Hoa".
Bà kết hôn ngày 14/8/1931, ở tòa thị chính Saint Amand ở Caudéran, cùng với Jean Joseph Bernard Robert Bourgès, 24 tuổi, không nghề nghiệp. Người làm chứng là Albert Sarraut, Thượng nghị sĩ toàn quyền các thuộc địa và Đại sứ Pháp.
Cuộc hôn nhân này gây nên phản ứng trên một số tờ báo, vì những dòng chữ ghi trên giấy báo hỉ và danh xưng "công chúa" của bà.
Sau đó, bà sống tại 42, đường Moscou ở Paris. Chồng bà là giám đốc "Xinêma và quảng cáo" ở châu Phi và sống nhiều năm tại Alger. Trong năm đó, bà được quay trong bộ phim thứ hai, do Jack Salvatori thực hiện: La Donna Bianca, cũng được chuyển thể từ truyện của William-Somerset Maugham.
Ngày 6/5/1932, bà là người sơ cứu đầu tiên cho cha đỡ đầu, Paul Doumer, Tổng thống Cộng hòa Pháp, bị một người Nga Gorguloff ám sát ở dinh thự Salomon de Rothschild, 11 đường Berryer ở Paris.
Ngày 12/10/1932, người ta đưa tin bà Hoàng Thị Thế đi Sài Gòn, cùng với người tùy tùng, nữ công tước Nguyễn Thị Ba, trên chiếc tàu thủy Chantilly, trong một chuyến viễn du trên biển do Touring Club của Pháp tổ chức.
Ngày 14/5/1935, bà sinh hạ một con trai, Jean Marie Albert Arthur. Trong năm đó, bà đóng trong phim của Maurice de Canonge, "Bí mật của lục bảo".
Bà ly hôn ngày 19-1-1940 và mấy năm sau đó trở về Hà Nội.
Hồi ký "Kỷ niệm thời thơ ấu" được bà viết ở Hà Bắc năm 1963. Năm 1974, bà về sống tại phòng 31, khu tập thể Văn Chương.
Bà Hoàng Thị Thế qua đời ngày 9/12/1988. Bà được chôn tại Phồn Xương, Yên Thế, Bắc Giang ( tức 1 tháng 11 Âm lịch).
Cuốn hồi ký của bà Hoàng Thị Thế bằng tiếng Pháp do chính nhà thơ Hoàng cầm dịch. Ảnh: Omega+
Bài viết trên được trích rút từ cuốn sách: "Kỷ niệm thời thơ ấu Hoàng Thị Thế" do nhà thơ Hoàng Cầm dịch từ bản tiếng Pháp của cuốn hồi ký do chính bà Hoàng Thị Thế viết.
Cuốn sách mô tả những năm tháng thơ ấu không thể nào quên của Hoàng Thị Thế, con gái của người anh hùng Hoàng Hoa Thám tại quê hương Yên Thế (Bắc Giang) và giai đoạn bà học tập và sinh sống ở Pháp.
"Kỷ niệm thời thơ ấu Hoàng Thị Thế" được công ty CP sách Omega Việt Nam phối hợp với NXB Khoa học xã hội ấn hành.
CON GÁI "HÙM THIÊNG YÊN THẾ"
Hoàng Thị Thế, người con gái của vị anh hùng "Hùm thiêng Yên Thế" Hoàng Hoa Thám, có một cuộc đời nhiều thăng trầm mà không phải ai cũng biết.
Cách đây hơn 100 năm, Hoàng Hoa Thám tức Đề Thám, một trong những gương mặt quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam, một trong những gương mặt quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam trong cuộc xung đột với Pháp, đã qua đời.
Ông để lại một người con gái tên là HOÀNG THỊ THẾ có vận mệnh khác thường, cùng một người con trai sinh năm 1908 là Hoàng Hoa Phồn, còn có tên gọi là Hoàng Bùi Phồn và Hoàng Văn Vi. Người con trai của Đề Thám đã qua đời một cách bi đát năm 1945.
Cuộc đời đầy "biến động" của người con gái Đề Thám – Hoàng Thị Thế
Bài viết dưới đây sẽ chia sẻ về Hoàng Thị Thế, người con gái duy nhất của Hoàng Hoa Thám, có một vận mệnh và một cuộc đời đầy thăng trầm.
Hoàng Thị Thế sinh ngày 31/3/1901 ở Phồn Xương, Yên Thế (Bắc Giang). Mẹ là Đặng Thị Nho, tục gọi là bà Ba Cẩn, người vợ thứ ba đồng thời là cộng sự của của thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế Hoàng Hoa Thám.
Theo như chia sẻ của Hoàng Thị Thế trong cuốn hồi ký "Kỷ niệm thời thơ ấu", bà được hứa hôn với một người con của hoàng đế Trung Hoa lúc lên ba.
Trong cuốn hồi ký viết bằng tiếng Pháp của mình, Hoàng Thị Thế đã chia sẻ những năm tháng thơ ấu không thể nào quên cùng với cuộc đời đầy sóng gió của gia đình vị anh hùng Hoàng Hoa Thám (1858-1913), đánh dấu những giai đoạn đấu tranh và trốn tránh trong núi rừng Yên Thế.
Tại vùng đất "oai hùng" Yên Thế, nơi từng diễn ra những cuộc phục kích liên tục, Hoàng Thị Thế đã bị người Pháp bắt vào tháng 6/1909 sau nhiều lần muốn tiêu diệt cuộc khởi nghĩa của phong trào nông dân Yên Thế và bắt sống thủ lĩnh Đề Thám.
Bà Hoàng Thị Thế và mẹ đẻ. Ảnh chụp năm 1909.
Sau đó, mẹ bà là Đặng Thị Nho cũng bị bắt vào ngày 1/12/1909. Bà Ba Cẩn bị đày sang Guyanne (Pháp) và qua đời ở trại cách ly Alger trên đường đi vào ngày 25-11-1910.
Cha bà, Hoàng Hoa Thám sau đó cũng bị giết ngày 10/2/1913 (tức mồng 5 tháng Giêng Âm lịch).
Về phần Hoàng Thị Thế, sau khi theo học trường Tây ở Bắc Kỳ, bà được đưa sang Pháp vào năm 1917 cùng với gia đình một viên chức nhà Đoan. Bà được Albert Sarraut (Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ) nhận làm con nuôi và cho bà theo học ở trường nội trú Jeanne D’Arc ở Biarritz (Pháp). Bà lấy tên là Marie Beatrice Destham.
Trở về Bắc Kỳ, bà Hoàng Thị Thế làm thủ thư ở tòa Thống sứ Hà Nội với tư cách là viên chức Pháp. Bà ở đây từ năm 1925 đến năm 1927 và sống một thời gian cùng với người em trai là Hoàng Văn Vi, tức Phồn, tại phố Hàm Long.
Trở lại Pháp, bước chân vào nghệ thuật thứ 7 và những năm tháng "lạ thường"
Trở lại Paris, Albert Sarraut giới thiệu bà như là công chúa. Tổng thống nước Cộng hòa Paul Doumer trở thành người cha đỡ đầu và cấp cho bà một khoản trợ cấp gây nên nhiều tranh cãi.
Vào năm 1930, bà Hoàng Thị Thế bước chân vào con đường nghệ sĩ trong bộ phim của Louis Mercanton, dựa theo một truyện ngắn của William-Somerset Maugham: Lá thư. Bà tự xưng là "công chúa Hoàng Thị Thế" và báo chí gọi bà là "công chúa Trung Hoa".
Bà kết hôn ngày 14/8/1931, ở tòa thị chính Saint Amand ở Caudéran, cùng với Jean Joseph Bernard Robert Bourgès, 24 tuổi, không nghề nghiệp. Người làm chứng là Albert Sarraut, Thượng nghị sĩ toàn quyền các thuộc địa và Đại sứ Pháp.
Cuộc hôn nhân này gây nên phản ứng trên một số tờ báo, vì những dòng chữ ghi trên giấy báo hỉ và danh xưng "công chúa" của bà.
Sau đó, bà sống tại 42, đường Moscou ở Paris. Chồng bà là giám đốc "Xinêma và quảng cáo" ở châu Phi và sống nhiều năm tại Alger. Trong năm đó, bà được quay trong bộ phim thứ hai, do Jack Salvatori thực hiện: La Donna Bianca, cũng được chuyển thể từ truyện của William-Somerset Maugham.
Ngày 6/5/1932, bà là người sơ cứu đầu tiên cho cha đỡ đầu, Paul Doumer, Tổng thống Cộng hòa Pháp, bị một người Nga Gorguloff ám sát ở dinh thự Salomon de Rothschild, 11 đường Berryer ở Paris.
Ngày 12/10/1932, người ta đưa tin bà Hoàng Thị Thế đi Sài Gòn, cùng với người tùy tùng, nữ công tước Nguyễn Thị Ba, trên chiếc tàu thủy Chantilly, trong một chuyến viễn du trên biển do Touring Club của Pháp tổ chức.
Ngày 14/5/1935, bà sinh hạ một con trai, Jean Marie Albert Arthur. Trong năm đó, bà đóng trong phim của Maurice de Canonge, "Bí mật của lục bảo".
Bà ly hôn ngày 19-1-1940 và mấy năm sau đó trở về Hà Nội.
Hồi ký "Kỷ niệm thời thơ ấu" được bà viết ở Hà Bắc năm 1963. Năm 1974, bà về sống tại phòng 31, khu tập thể Văn Chương.
Bà Hoàng Thị Thế qua đời ngày 9/12/1988. Bà được chôn tại Phồn Xương, Yên Thế, Bắc Giang ( tức 1 tháng 11 Âm lịch).
Cuốn hồi ký của bà Hoàng Thị Thế bằng tiếng Pháp do chính nhà thơ Hoàng cầm dịch. Ảnh: Omega+
Bài viết trên được trích rút từ cuốn sách: "Kỷ niệm thời thơ ấu Hoàng Thị Thế" do nhà thơ Hoàng Cầm dịch từ bản tiếng Pháp của cuốn hồi ký do chính bà Hoàng Thị Thế viết.
Cuốn sách mô tả những năm tháng thơ ấu không thể nào quên của Hoàng Thị Thế, con gái của người anh hùng Hoàng Hoa Thám tại quê hương Yên Thế (Bắc Giang) và giai đoạn bà học tập và sinh sống ở Pháp.
"Kỷ niệm thời thơ ấu Hoàng Thị Thế" được công ty CP sách Omega Việt Nam phối hợp với NXB Khoa học xã hội ấn hành.
CÁNH DÙ LỘNG GIÓ * TỘI ÁC CỘNG SẢN
Cộng Sản VN đang phạm những tội gì
Cánh Dù lộng gió (Danlambao) - Trong
bài này tác giả chỉ muốn tóm tắt nhấn mạnh những tội lỗi nổi bật của
HCM và đảng CSVN từ hồi mới thành lập cho đến nay. Từ khi CSVN cướp
chính quyền hợp pháp của Trần Trọng Kim thì chúng phạm rất nhiều tội
Trời không dung Đất không tha.
01- Tội phản bội đồng đội khi HCM chỉ điểm cho Pháp bắt các nhà hoạt
động như cụ Phan Bội Châu người đã cưu mang HCM trong những ngày chân
ướt chân ráo.
02- Tội rước Pháp về để có chỗ chống lưng đối phó với quân Phát Xít Nhật
sau đó bày ra trận Điện Biên Phủ nướng quân để đuổi Pháp.
03- Tội chống lại nhân loại khi phát động chiến dịch CCRĐ, với Quốc Tế tội này là tội diệt chủng.
04- Tội vi phạm hiệp định ngưng chiến chia đôi lãnh thổ lấy vỹ tuyến 17
làm ranh giới 2 miền Nam Bắc năm 1954 nhưng lại gài người vào đoàn người
di cư để sau này làm liên lạc cho cuộc xâm lăng miền Nam.
05- Thành lập MTGPMNVN trang bị vũ khí và đưa người ra Bắc tập kết để sau đó quay lại chống phá chính quyền VNCH.
06- Phát động phong trào đấu tranh du kích khắp miền Nam với mỹ từ chống
Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam thoát khỏi ách nô lệ va thống nhất đất
nước.
07- Khủng bố đồng bào miền quê để cho các cán bộ kinh tài hằng đêm đi
thu thuế nuôi quân, ai không đóng thuế thì ghép tội tay sai cho đế quốc
Mỹ, hay phản động rồi chặt đầu, mổ bụng, đập đầu bằng búa hay bắn bằng
Súng AK.
08- Ném lựu đạn vào chỗ đông người đang tụ tập như chợ búa, trường học,
đặt chất nổ những nơi đông người để gây tiếng vang, đặt mìn phá huỷ cầu
cống, xe đò, pháo kích vào các làng mạc, tỉnh thành bất kể là nơi đóng
quân của QLVNCH hay nhà dân miễn có cháy hay tan nát đổ vỡ là được, bất
chấp phân biệt lính hay dân.
09- Xua bộ đội vào Nam để tiếp sức cho các đơn vị du kích MTDTGPMN gây ra những trận đánh đẫm máu.
10- Tiếp tục vi phạm hiệp định ngưng bắn để đón mừng tết Mậu Thân năm
1968, gây ra cảnh tang tóc chết chóc trong miền Nam, nhất là với cố đô
Huế nơi CSVN chiếm đóng lâu nhất, chúng sàng lọc, muốn giết ai thì giết,
phương châm của CSVN là thà giết lầm còn hơn bỏ sót.
11- Mùa hè đỏ lửa 1972 chúng tổng động viên toàn bộ thanh niên kể cả
thiếu niên tập trung quân số biển người chiếm đóng Quảng Trị, vì sợ CS
dã man và tàn ác nên người dân bồng bế nhau chạy loạn trên quốc lộ 1
được mệnh danh là đại lộ Kinh Hoàng nơi đây xác người nằm la liệt từ trẻ
em cho tới người lớn vì bị pháo binh của CS Bắc Việt quay nòng bắn trực
xạ sau lưng.
12- Xé bỏ hiệp định Paris vừa ký kết để xua quân cưỡng chiếm miền Nam.
13- CSVN giao Hoàng Sa cho Tàu Cộng để trả nợ chiến tranh, Phạm Văn Đồng
ký công hàm xác nhận vì thế Tàu Cộng đã đánh chiếm Hoàng Sa mà CSVN
ngậm tăm không một tiếng phản đối sau 1975 Tàu Cộng xua quân chiếm luôn
Trường Sa. Sau này khối Liên Sô sụp đổ CSVN do Nguyễn Văn Linh và Đỗ
Mười sợ mất đảng dây chùm khi CS Đông Âu tan rã nên đã kéo nhau qua Tàu
Cộng làm thân và xin thần phục bằng cách ký hiếp ước Thành Đô xin được
sát nhập làm một tỉnh tự trị của Tàu Cộng vào năm 2020 như đã dự đoán.
14- Sau năm 1975 CSVN vì lính VNCH quá đông không thể xử hết được phần
thì sợ quốc tế theo dõi lên án nên đành gom hết số Quân Dân Cán Chính
đem đi các trại tù để đày đoạ khổ sai cho đến chết nếu phía Mỹ không can
thiệp. Vi phạm công ước về việc ngược đãi Tù Binh của Quốc Tế.
15- Ra lệnh đổi tiền để cướp tiền của người dân miền Nam.
16- Đánh tư sản mại bản cướp vàng bạc, nhà đất của người dân miền Nam tống hết đi các khu kinh tế mới.
17- Bán các bãi biển cho người dân đi vượt biên ra giữa biển cho nổ tung
tàu thuyền chết hết, sau đó cho Ca Nô ra vớt giỏ vàng bạc của người
chết chìm.
18- Bắt nhốt hết những người bất đồng chính kiến và những nhà dân chủ,
đánh đập tàn nhẫn, đưa ra những bản án nặng nề cho những người đó. Vi
phạm nhân quyền trầm trọng.
19- Tù nhân vào đồn côn an trở ra là cái xác không hồn với lý do tự treo cổ.
20- Kiểm soát toàn bộ tôn giáo, cướp đất trắng trợn của các tôn giáo như
Công Giáo, và Phật Giáo. Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của các tôn
giáo.
21- Mở cửa khẩu cho các loại thực phẩm, các loại hoá chất độc hại, vũ khí, gây ra các vụ cướp bóc, giết người, hiếp dâm.
22- Thanh trừng nội bộ bằng cách cho nhiễm phóng xạ chính những đồng chí của mình.
23- Ra lệnh xả lũ một lúc 9 cửa đập khiến người dân không kịp trở tay gây chết mất xác nhiều.
24- Âm thầm bàn giao từng nấc bằng cách ký cho Tàu Cộng thuê những đặc
khu kinh tế và các nơi trọng yếu như đặc khu Quảng Ninh, Formosa Hà Tĩnh
Bô Xít Tân Rai Lâm Đồng, đặc khu kinh tế Phú Quốc dài hạn 90 năm.
Đây là một số tội lỗi mà HCM và đảng CSVN của ông ta đã gây ra từ khi
thành lập đảng CSVN cho đến giờ, tuy còn nhiều thiếu sót nhưng cũng đã
nói lên bộ mặt kinh tởm của đảng CSVN khi hiện nguyên hình là một lũ
cướp ngày, một lũ quỷ đỏ khát máu, chuyên đè đầu cỡi cổ, hút máu mủ
người dân để tồn tại và để làm giàu cho bản thân.
Ngày 20/10/2017
LÊ BÁ VẬN * HỒ DÊ
Phong cách Hồ Chí Minh - Dê già dân tộc
Lê Bá Vận (Danlambao)
- “Gươm lạc giữa rừng hoa, mặt Hồ đờ nghệch ra.” Thời báo Eo Biển
8/3/1959 đưa tin: “Chủ tịch Hồ được bảo ngừng hôn các gái trẻ (stop
kissing girls)”. Bản tin này từ Indonesia kết nối hình từ trong nước:
“Lạc bước Thiên thai, Hồ như ngây dại,” thể hiện tình cảm bất thường của
HCM dành cho phụ nữ" (1).
Phần 1 – Ma đầu HCM "Dê già dân tộc"
Ở Việt Nam thời chiến tranh trước 1975, hai nguyên thủ quốc gia đối lập
chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) miền Bắc, Cọng sản và Tổng thống
Ngô Đình Diệm miền Nam, Cộng hòa có điểm tương đồng kỳ lạ, đó là cả 2
ông đều chọn sống độc thân trọn đời.
Ngô Đình Diệm năm 18 tuổi có mối tình duy nhất. Sau khi người con gái đó
quyết định vào Nữ tu viện, ông sống độc thân suốt phần đời còn lại.[7]...
Hồ Chí Minh, theo cộng sản Việt Nam (VN) lập luận thì cả đời bôn ba vì
nước vì dân, vì cộng sản quốc tế vô gia đình, vô tổ quốc, vô... giữ trai
tân trong trắng, hi sinh hạnh phúc.
Cụ Ngô tình duyên minh bạch, chết thì chôn như mọi người. Bác Hồ bí ẩn,
chết xác để lộ thiên khiến đời tư được mạng thông tin toàn cầu Internet
bươi móc bới bèo ra bọ, mà đúng.
I) Đời Tư Hồ Chí Minh.
1) Theo Truyền Thông Nhà Nước.
Truyền thông cộng thần thánh hóa HCM, tán tụng Hồ không có đời tư, ở vậy, thánh thiện.
Hồ không phải người thường, mà là thần linh. Cùng lúc, CSVN ngụy tạo
nhiều câu chuyện như thật, tung nhiều hình ảnh, vẽ rồng vẽ rắn, tán hươu
tán vượn HCM giản dị đến độ dở hơi, đạo đức hết mực, thương yêu mọi
người, đặc biệt quan tâm thiếu nhi... phụ nữ.
Một số mẩu chuyện, hình ảnh CS cung cấp lại phản ánh đúng tính nết thật của Hồ.
Điển hình các tấm hình Hồ hôn các bé gái tưởng hay ho; đặt chung tổng thể thì thấy khác.
"Đem chuông đi đấm nước người", Thủ pháp Hồ Chí Minh ấu dâm - Indonesia 3-1959.
* Bước 1: Hồ ôm 1 bé tựa lưng vào lòng, quàng tay phải qua cổ bé, đắm nhìn bé đứng trước mặt.
* Bước 2: Hồ buông bé ngồi, giơ tay phải vít thấp cổ bé đứng, nghiêng mặt qua trái hôn môi bé.
* Bước 3: Hồ níu mạnh tay, bé gái nhào về phía Hồ. Hồ đổi thế hôn,
nghiêng mặt qua phải, tiếp tục nút môi, hai mắt nhắm nghiền tận hưởng.
Bé ngồi bị đẩy ra sau, chờ lâu, há hốc mồm ngáp!
Khiếp! HCM nghiện thuốc lá rất nặng, miệng hôi bẩn quá! Tội nghiệp con bé. Nếu là con em bạn?
2) Theo Truyền Thông Nhân Dân.
Những phụ nữ: Marie Bière (Pháp), Tăng Tuyết Minh (Tàu), Nguyễn Thị Minh
Khai (Việt), Nông Thị Xuân (Nùng) được cho là đã đi qua đời của HCM.
Song Hồ ưa thích nhất là chiếm đoạt trinh tiết thanh nữ.
“Lần gặp bác Hồ tôi bị mất trinh”. Huỳnh Thị Thanh Xuân, giao liên,
người Quảng Nam-Đà Nẵng thuật lại câu chuyện như sau. “Năm 1964, tôi 15
tuổi, được Mặt Trận GP/MN/VN chọn đưa ra miền Bắc học văn hóa... Tôi
được chị Nhàng dẫn đi qua một hành lang, và tới phòng ngủ của bác... Khi
tôi vào, Bác ôm chầm lấy tôi hôn môi tôi, hai tay bác xoa nắn khắp
người tôi, Bác bóp 2 bờ ngực nhỏ của tôi, bác bóp mông tôi, bác bồng tôi
lên thiều thào vào trong tai tôi:
– Để bác cấy hạt giống đỏ cho cháu, cháu mang về miền Nam cho bác nhé.
Bác bồng tôi lên gường hai tay bác đè tôi ra và lột áo quần tôi, Bác như
một con cọp đói mồi… Hai hàng lệ một cô gái miền Nam vừa tròng 15 tuổi
đã bị bác cướp đi mất cái trong trắng. Những đêm sau mấy đứa con gái
khác cũng được dẫn đi như tôi, tôi biết là chuyện gì sẽ xảy ra với
chúng, nhưng chúng tôi không ai dám nói với ai lời nào. Và qua cái chết
của con Lành và con Hoà thì những ngày sau đó chúng tôi sống trong hoang
mang và sợ sệt không biết là khi nào tới phiên của mình... Quảng Nam-Đà
Nẵng ngày mùng 2 thánh 9 năm 2005. Huỳnh Thị Thanh Xuân.
(www.geocities.ws/xoathantuong/httx_hatgiongdo.htm)
(www.geocities.ws/xoathantuong/httx_hatgiongdo.htm)
Những câu chuyện này thực hư mấy phần chưa rõ, chỉ biết CSVN làm ngơ, nín lặng.
3) Theo Truyền Thông Nước Ngoài.
Ngày 26/2/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chuyến thăm chính thức
Indonesia trong 10 ngày. Ngày 28/2/1959 tại Thủ đô Jakarta, Tổng thống
Sukarno, mở tiệc chiêu đãi. Để thể hiện tình bạn thân thiện, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Tổng thống Sukarno đã kết nghĩa anh em. Việt Nam loan tin
chuyến công du thành công tốt đẹp.
Hơn nửa thế kỷ sau, Liên hội Nhân Quyền Việt Nam từ Châu Âu tìm lại được
số báo loan tin về cuộc thăm viếng ấy và đã phổ biến lại hôm Thứ Tư
20-8-2014 qua một số mạng email.
Đó là bản tin in trên báo The Straits Times (Thời báo Eo Biển) lưu trữ
tại thư viện quốc gia (nlb) Singapore, ấn bản ngày 8 tháng 3-1959, ở
trang 8. Bản tin tựa đề “President Ho is told to stop kissing girls...”
Báo chí tiếng Indonesia thì đều đưa các tin này. Vì là tài liệu lịch sử
quan trọng về HCM nên nguyên văn các bản tin tiếng Anh kèm lời dịch
được ghi lại như sau:
II) Nội Dung Các Bài Báo.
The Straits Times, 8 March 1959, Page 8
Page 8 ‘IT’S A VIOLATION OF INDONESIAN CUSTOM’
President Ho is told to stop kissing girls...
JAKARTA. Sat.-- The 68-year old North Vietnamese President Ho Chi Minh,
has been told bluntly to stop kissing Indonesian girls and respect
Islamic teachings.
Indonesian newspapers have already criticised President Ho for his
frequent kissing on his 10-day State visit that took him through Java
and the resort land of Bali.
Today Mr. A. N. Firdaus, secretary-general of Indonesia’s All-Muslim
Congress, said: “Those kisses are a violation of Muslim laws, in which
90 per cent of the Indonesian people believe.”
‘Influenced’ "Kissing girls publicly also is a violation of Indonesian customs."
Mr. Fridaus added: "May be President Ho Chi Minh has been influenced so
much by Communist propaganda that he thinks Indonesian morals are
similar to Communist morals."
The Socialist daily Pedoman, one of Jakarta 'leading newspapers recently
alluded to a recent editorial by the Communist party organ Harian
Rakjat which criticised hula-hooping as “the latest product of American
culture”, and added that President Ho' kissing apparently was “the
latest product of Soviet culture.”
‘Solidarity’ The Communist paper jumped to the defence of the North
Vietnamese leader and called his kissing “a gesture of solidarity and
sympathy, prompted by President Soekarno.”
Another paper Harian Abadi, said the Foreing Ministry protocol chief
“should whisper into the ear of State guests how they should behave.”
It added: “We really do not understand where foreign guests get the
impression that in our country kissing the wives and daughters of the
host constitutes a lofty custom.
“It is a good thing Uncle Ho is an old man.”
An Indonesian woman member of Parliament, Mrs. Mawardi Noor, said
President Ho’ kissing was regrettable. “I hope Ho’s behaviour will not
become a custom here.”
President Ho arrived back in Jakarta today from Bali. He will leave
tomorrow for Medan, Sumatra where he will stay overnight en route to
Hanoi - U.P.I
(Bản chép lại nguyên văn bản tin trên tờ Thời báo Eo Biển 8/3/1959)
Article also available on microfilm reel NL2493 [Lee Kong Chian Reference Library - On shelf]
Bài báo này cũng có thể xem trên cuộn micrôphim NL2493 [Thư viện tra cứu Lee Kong Chian- Trên giá]
Lời Dịch: Thời báo Eo Biển, 8 tháng ba 1959, Trang 8 ‘ĐÂY LÀ MỘT
VI PHẠM PHONG TỤC INDONESIA’ Chủ Tịch Hồ được bảo chấm
dứt hôn các gái trẻ...
JAKARTA. Thứ bảy.- Chủ tịch Bắc Việt Hồ Chí Minh, 68 tuổi, đã được bảo
thẳng thừng hãy chấm dứt hôn các cô gái Indonesia và tôn trọng các giáo
huấn Hồi giáo.
Báo chí Indonesia vừa rồi đã chỉ trích Chủ tịch Hồ do ông thường xuyên
hôn hít trong chuyến công du 10 ngày đã đưa ông qua Java và nơi nghỉ mát
Bali.
Hôm nay ông A. N. Firdaus, Tổng thư ký Đại hội Toàn-Hồi giáo Indonesia,
nói: “Những cái hôn đó là một vi phạm luật Hồi giáo, niềm tin của 90%
dân chúng Indonesia.”
‘BỊ ẢNH HƯỞNG’ “Hôn gái nơi công cọng cũng là một vi phạm thuần phong
mỹ tục Indonesia.” Ông Fridaus nói thêm: “Có lẽ Chủ tịch Hồ Chí Minh bị
ảnh hưởng nhiều bởi tuyên truyền cộng sản đến mức ông nghĩ rằng đạo đức
của Indonesia thì cũng giống như đạo đức của cộng sản.
Tờ nhật báo Xã hội Pedoman, một trong những nhật báo hàng đầu ở Jakarta
vừa qua ám chỉ đến một bài xã luận gần đây của tờ Harian Rakjat cơ quan
đảng Cộng sản chỉ trích trò “hula-hoop” như là “sản phẩm mới nhất của
văn hóa Mỹ”, và nói thêm rằng Chủ tịch Hồ hôn hít dường như là “sản phẩm
mới nhất của văn hóa Sô Viết.”
‘SỰ ĐOÀN KẾT’ Báo cộng sản nhảy vào bênh vực cho nhà lãnh đạo Bắc Việt
và gọi ông hôn là “một biểu lộ của đoàn kết và thiện cảm, được Tổng
thống Soekarno nhắc nhở.”
Một tờ báo khác Harian Abadi, nói Trưởng ban nghi lễ của Bộ Ngoại giao
“nên ghé tai nói nhỏ cho các quốc khách biết cách ứng xử cho phải phép.”
Tờ báo nói thêm: “Chúng ta thật sự không hiểu do từ đâu các quốc khách
thủ đắc cảm tưởng là trong nước chúng ta hôn hít vợ con gia chủ là một
tục lệ cao đẹp.
”Đó là một điều tốt lành Bác Hồ là một người già.”
Một nữ dân biểu Indonesia, bà Mawardi Noor, nói chuyện hôn hít của Chủ
tịch Hồ là điều đáng tiếc. “Tôi hy vọng rằng cách ứng xử của Hồ không
trở thành một tục lệ ở đây.”
Chủ tịch Hồ hôm nay sẽ từ Bali trở về Jakarta. Ngày mai ông sẽ đi Medan, Sumatra, ở qua đêm trên đường về Hà Nội - U.P.I
*
The Straits Times, 17 March 1959, Page 1
+1) PRESIDENT HO... AND THE KISS THAT STARTED A STORM THIS WAS the kind
of affectionate gesture that erupted in a storm of protest over the
greying head of Uncle Ho during a state visit to Indonesia recently.
"Uncle Ho" is of course Ho Chi Minh, the 68-year-old of Communist
Vietnam.
President Ho kissed this Indonesian girl – as he had many others – and told her: “You are beautiful.”
Next day, he was attacked in the newspapers for violating Indonesian customs and the Muslim laws.”
Article also available on microfilm reel NL4020 [Lee Kong Chian Reference Library – On shelf]
+2) NXP1181669(FILES)-9/3/69-HANOI: Ho Chi Minh, “Uncle Ho” to millions
of North Vietnamese, died in his sleep 9/3 according to a broadcast by
Radio Hanoi. He was 79. Here, Ho is seen dancing with an Indonesian
girl during a visit to that country in 1959. UPI TELEPHOTO/FILES jL
(Bản chép lại nguyên văn bản tin và lời ghi chú dưới hình)
Lời Dịch: +1) Thời báo Eo Biển, 17 tháng Ba 1959, Trang 1 CHỦ
TỊCH HỒ... VÀ CÁI HÔN KHỞI ĐỘNG MỘT TRẬN BÃO ĐÂY LÀ loại cử chỉ trìu
mến bột phát thành một cơn bão phản kháng trên chiếc đầu tóc đang bạc
của Bác Hồ trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Indonesia vừa qua.
“Bác Hồ” tức nhiên là Hồ Chí Minh, 68 tuổi của Việt nam Cọng sản. Chủ
tịch Hồ hôn thiếu nữ Indonesia này – như ông đã hôn nhiều cô gái khác –
và nói với cô: “Em thật đẹp.”
Ngày hôm sau, ông bị đả kích trên báo chí do vi phạm phong tục Indonesia và luật Hồi giáo.
+2) NXP1181669(FILES)-9/3/69-HANOI : Hồ Chí Minh, “Bác Hồ” đối với hàng
triệu nhân dân Bắc Việt, đã tạ thế trong giấc ngủ 9/3 theo đài Hà Nội
đưa tin. Ông thọ 79 tuổi. Ở đây, Hồ được trông thấy đang khiêu vũ với
một cô gái Indonesia trong chuyến công du quốc gia này năm 1959. UPI
*
III) Nhận Định.
1) Về Các Hình.
* Hình Hồ hôn môi bé gái. “Ai hôn nhi đồng bằng bác HCM?” song giá HCM bớt hút thuốc lá.
* Hình Hồ hôn môi bé gái. “Ai hôn nhi đồng bằng bác HCM?” song giá HCM bớt hút thuốc lá.
* Hình Hồ nâng cằm thiếu nữ Indonesian hôn và khen nàng đẹp. Khéo tán tỉnh và lẳng lơ!
Hình này chụp mặt cô gái không rõ để tránh cô bị nhận diện.
Tuần báo Life 5/8/1957, có một bài viết nhan đề "The Kissingest
Communìst – Người cộng sản hôn nhiều nhứt" là để nói về HCM. CS gộc hễ
gặp mặt là y như giở trò rối rít ôm nhau hôn hít, thắm thiết tình đồng
chí. HCM là bậc thầy.
* Hình Hồ khiêu vũ (bebop?) với cô gái Indonesia ngoài trời giữa trưa
đứng bóng là đẹp mắt. Tay ve vẩy dải lụa, miệng cười tình tứ, Hồ đi dép
râu mà nhảy dẻo không ngờ. Tài nghệ chân chính, kể cả hôn môi, nhiều
công phu ăn chơi, tập luyện. Bái phục!
Tuy vậy, tổng hợp các hình trên cho thấy chuyện “Lần gặp bác Hồ tôi bị
mất trinh.” Huỳnh Thị Thanh Xuân thuật lại, chưa hẳn bịa đặt nếu xét
theo phong cách mất nết của HCM.
2) Về Yêu Trẻ. Các lãnh đạo Quốc gia, vị nào cũng rất thương yêu
trẻ con, do tình thương thật sự cộng với lý do chính trị bắt buộc chứ
không riêng HCM như CSVN làm ta lầm tưởng.
Các Tổng thống Putin (Nga), Trump (Mỹ) được thấy bồng ẵm trẻ nít nhiều
lần, đặc biệt cựu Tổng thống Obama (Mỹ) là nhiều nhắt, hơn hẳn HCM.
Nhưng ông ta cũng không bày đặt bài hát nhảm nhí: “Ai yêu bác Obama hơn
thiếu niên nhi đồng?”
Hôn như tình nhân. Ma đầu HCM cơ hội và láu cá.
3) Về Công Du. Chuyến viếng thăm Indonesia của HCM được Tổng
thống Sukarno (thiên cộng) đón tiếp nhiệt tình, khởi đầu vô cùng tốt đẹp
để kết thúc trong sự khinh bỉ và phẫn nộ của quần chúng do Hồ ỷ y vượt
quá xa làn ranh thể hiện tình cảm đối với phụ nữ.
Ở Âu, Mỹ nơi công cọng người ta cũng chỉ hôn áp má hoặc nếu dùng môi thì hôn phớt.
HCM hôn dữ dội kéo dài là quá khả ố và vô sỉ:
“President Ho Chi Minh has been told bluntly to stop kissing Indonesian girls.”
Ôi nhục quốc thể! May là thời đó chưa có Internet, song “kim trong bọc cũng có ngày lòi ra.”
Từ khai thiên lập địa các nguyên thủ quốc gia đi công du thì chỉ độc nhất HCM ló mòi dê gái. Trong nước Hồ lại là đề tài tốt về dâm cho lối văn chương tiếu lâm, châm biếm:
“Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ Vội vàng cất ảnh Bác Hồ Sợ rằng Bác thấy tô hô Bác thèm.”
Hoặc: "Một năm hai thước vải thô Làm sao che được Bác Hồ, em ơi / ló ra."
4) Nhận định chung. Có 2 sự kiện lịch sử bước ngoặt trên sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
* Sự kiện thứ nhất tạo dựng. Tháng 7/1920 HCM nhặt được bí kíp “Luận Cương Lenin”.
HCM viết: "Luận cương của V. I Lênin... Tôi vui mừng đến phát khóc
lên... đây là con đường giải phóng chúng ta.” (than ôi... để rồi đút đầu
vào rọ Trung Quốc!). Thiển cận! hiện tại trên thế giới thì nước nào mà
chẳng độc lập?
* Sự kiện thứ hai hủy diệt. Định mệnh xúi Hồ “giấu đầu hở đuôi”.
Tổ tiên đã phù hộ cho đất nước, xui khiến Hồ qua Indonesia năm 1959 hớ
hênh để ló đuôi chồn. Hành động dâm ô của Hồ từ nay có hình ảnh, bằng
chứng cụ thể.
“Con dại cái mang”, nhân dân Việt Nam xin lỗi các bạn Indonesia, xin tiếp thu các phê phán và xin cám ơn.
Uổng công CSVN tô điểm dâm phạm HCM. Suy ra đảng của Hồ cũng là một đồng một cốt.
IV) Bảo Vệ & Lột Mặt Nạ HCM.
“Hỡi lũ phản động ngu xuẩn kia! Chúng mày đừng có mà xuyên tạc lung
tung, vu khống bậy bạ bôi nhọ Bác Hồ. Người mãi mãi là tấm gương sáng
của mọi người dân VN đấy! Chẳng ai tin lũ phản động chúng mày đâu...”
Đó là lý luận rập khuôn của đạo quân hùng hậu 80.000 dư luận viên, lực
lượng xung kích tuyên giáo đưa ra dùng phản bác mọi vấn nạn về Bác, Đảng
bất kể người ta nói có bằng chứng sờ sờ như ở đây.
Người xưa có câu “nước nhà sắp mất thì có những điều quái đản xuất hiện.”
Đây là trường hợp nước Việt Nam của cộng sản hiện nay.
Hiện tượng quái đản thứ nhất là cái xác ướp một tên vấy máu, đồ tể 54 giữa lòng Hà Nội.
Hiện tương quái đản thứ hai là mấy trăm tượng đài ngàn tỷ tên “dê già dân tộc” khắp nước.
Hiện tượng quái đản thứ ba là đoàn quân sủa thuê chửi mướn 80.000 dư luận viên. (2)
Than ôi! Hồ Chí Minh tư tưởng thì ngụy tạo, đạo đức thì giả dối, phong cách thì trắc nết, hành động thì bạo tàn.
Thật khốn nạn CSVN bắt dân ta tôn thờ tội ác như thần tượng, một kẻ gian
hùng, nhân phẩm tồi bại, lại bị thế giới lên án một trong những tên đồ
tể khát máu nhất của nhân loại.
Toàn dân học tập HCM ư? sẽ tê liệt vì nọc độc của loài độc xà rắn chúa cực độc.
Hệ quả là CSVN chóng giao nước cho Tàu, hoàn thành sứ mệnh (diệt tộc) lịch sử!
Lột mặt nạ HCM dâm ô, dân tộc VN sẽ thoát nạn cộng sản, tổ tiên còn đó với giang sơn.
Chú Thích:
(1) LBV “Tác Phong Bác Dạy Khỉ Leo Cây.” (Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - Bài 1).
(2)Hiện tượng quái đản thứ tư, “công an bắt cóc viên?”
(1) LBV “Tác Phong Bác Dạy Khỉ Leo Cây.” (Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - Bài 1).
(2)Hiện tượng quái đản thứ tư, “công an bắt cóc viên?”
Yêu trẻ: các Tổng thống:1) Obama (Mỹ) 2) Trump (Mỹ) 3) Putin (Nga) 4) HCM (VNDCCH) Dê Già Dân Tộc.
Góc trên giăng dãy cờ nhỏ là cờ vndcch và Indonesia đỏ trên, trắng dưới. Hồ mặc áo đen.
HCM mắt nhắm, đứng chùm hum ấu dâm trông phản cảm quá. Dân Indonesia la ó. Hồ thì mặt dày.
Một tên dâm dục khả ố thế này mà CS bắt nhân dân ta học tập đạo đức, tôn thờ là thần tượng ư?
SƠN TRUNG * ĐÁM CƯỚI TRÊN DU THUYỀN
ĐÁM CƯỚI TRÊN DU THUYỀN
Dương Đình là sinh viên tốt nghiệp ban Anh Văn đang làm việc tại một
công ty ngoại quốc tại Saigon. còn Hoàng Thanh là nữ sinh viên tốt
nghiệp ngành Kinh Doanh đang làm việc cho một công ty quốc nội có hạng ở
Sài-gòn. Cả hai yêu nhau đã ba năm, nay họ quyết định đi đến hôn nhân.
Họ định tổ chức đám cưới tại nhà hàng Great World đường Lê Lai Sài Gòn
là một nhà hàng năm sao nổi tiếng sang trọng bậc nhất Việt Nam
Ngày thành hôn đã đến, quan khách, bà con hai họ lũ lượt đến Great World tham dự đông đảo. Nhà trai tổ chức tiệc cưới linh đình khoảng 300 mâm. Chủ nhà quen biết rộng cho nên mời cả những viên chức quan trọng trong đảng ủy và hành chánh quận, tỉnh...
Theo tục lệ mới, quan khách khi vào tiệc cưới, được mời chụp hình chung
với cô dâu chú rể. Trước đây, sau khi ăn tiệc xong, cô dâu chú rể phải
đi chào bàn. Khách đông, phòng chật, cô dâu chú rể phải luồn lách mới
vào các bàn để chào hỏi và nhận tiền mừng cưới.
Nay người ta đơn giản thủ tục, viết lưu niệm, chup hình và tặng tiền bạc, lễ vật tại bàn thu nhận lễ vật do các cô em, bà chị chú rể phụ trách. Người ta thiết kế một khung cửa có hoa lá, rồng phượng để chụp hình. Cũng như mọi thủ tục cưới hỏi, trước hết phụ mẫu hai bên trai gái lên cảm tạ quan khách và họ hàng. Sau đó cô dâu chú rễ trình diện và nói lời cảm tạ họ hàng, bà con. Thiệp mời 6 giờ nhưng mãi đến 9giờ- 10 giờ mới khai mạc, khiến cho ông bà già, trẻ con méo mặt nhất là những ai háu đói và bị tiểu đường.
Nay người ta đơn giản thủ tục, viết lưu niệm, chup hình và tặng tiền bạc, lễ vật tại bàn thu nhận lễ vật do các cô em, bà chị chú rể phụ trách. Người ta thiết kế một khung cửa có hoa lá, rồng phượng để chụp hình. Cũng như mọi thủ tục cưới hỏi, trước hết phụ mẫu hai bên trai gái lên cảm tạ quan khách và họ hàng. Sau đó cô dâu chú rễ trình diện và nói lời cảm tạ họ hàng, bà con. Thiệp mời 6 giờ nhưng mãi đến 9giờ- 10 giờ mới khai mạc, khiến cho ông bà già, trẻ con méo mặt nhất là những ai háu đói và bị tiểu đường.
Dù sớm dù muộn, tiệc cưới cũng đã tiến hành rất thuận lợi. Gia chủ đã thâu được mấy ngàn Mỹ Kim và gần 50 triệu Việt Nam.
Sau khi quan khách no say, một đoàn gồm mấy người tiến vào phòng cưới
xưng là đại diện cô dâu chú rể, nói rằng họ mời quan khách lên du thuyền
du lịch một vòng.Nghe nói đi du thuyền không tiền, ai nấy đều vui vẻ
nhận lời. Họ cười nói, múa chân tay và chen lấn nhau lên du thuyền. Ai
cũng muốn mình đến du thuyền trước nhất kẻo bị thiên hạ chiếm hết chỗ.
Trong đám quan khách, có người được dự đám cưới trên du thuyền của người
ngoại quốc cưới vợ Việt Nam. , hoạc nghe nói những đêm thần tiên diễnm
ảo trên du thuyền ngoại quốc to hơn cả tòa nhà mấy tầng lầu!
Cô dâu và chú rể mang quốc tịch Australia và đã nhiều lần du lịch tới
Việt Nam. Cũng vì những chuyến đi đó mà cả hai quyết định chọn vùng biển
Hạ Long là nơi diễn ra tiệc cưới ấm cúng của họ. Bữa tiệc trên du
thuyền được thiết kế dành riêng cho những người thân của cô dâu chú rể,
còn đám cưới chính của đôi uyên ương vẫn diễn ra tại Australia với những
nghi lễ truyền thống. Số lượng khách khá hạn chế, chỉ gồm 13 người nên
không khí buổi lễ diễn ra gần gũi, thân thiện.
Màu sắc chính của tiệc cưới là cam và xanh khiến không khí cả du thuyền
rực rỡ, nổi bật trên biển. Nghi lễ cưới được diễn ra trên boong tàu và
tiệc được tổ chức tại phòng tiệc chung của du thuyền. Mỗi vị khách khi
tới tham dự đám cưới đều nhận được một món quà nhỏ là hộp sơn mài, món
đồ thủ công truyền thống của Việt Nam.
Các vị khách còn được thưởng thức những ly cocktail màu cam tuyệt đẹp.
Các vị khách còn được thưởng thức những ly cocktail màu cam tuyệt đẹp.
Phòng tiệc nhỏ gọn dành cho 13 người nên mang đến không khí ấm áp.
Một phòng tân hôn đẹp cũng được thiết kế dành cho đôi uyên ương nghỉ lại ngay trên du thuyền.
Khi thuyền nhỏ đi một quảng xa bờ mấy cây số, bọn này bèn khảo đả bố mẹ và cô dâu chú rể. Kết quả tiền mừng cưới bị lột sạch, may mà chúng không xâm phạm cô dâu nhưng bao kim cương ,vòng xuyến đều bị lột sạch.
Còn các quan khách, họ hàng cô dâu chú rể cũng bị bóc lột may mà còn quần lót để trở về!
LÊ ANH HÙNG * ĐÓNG CỬA UNESCO
LÊ ANH HÙNG
ĐÓNG CỬA UNESCO
Đài truyền hình TF1 tối qua 11/10 cho biết "Les USA et Israel claquent la porte de l'UNESCO" (Mỹ và Do thái đóng cửa Unesco). Tôi hoan nghênh và viết bài nầy.
ĐÓNG CỬA UNESCO
Đài truyền hình TF1 tối qua 11/10 cho biết "Les USA et Israel claquent la porte de l'UNESCO" (Mỹ và Do thái đóng cửa Unesco). Tôi hoan nghênh và viết bài nầy.
Mọi người đều thừa biết Mỹ luôn luôn là quốc gia hổ trợ Do Thái. Việt
Nam Cộng hoà chết cũng vì Do Thái. Vùng Trung âu không ỗn cũng vì Do
Thái. Nếu không có Mỹ thì Iran đã nuốt Do Thái từ lâu. Nhưng đó là
chuyện chính trị có liên quan đến an ninh cả thế giới. Bài nầy tôi xin
giới hạn trong phạm vi Unesco, nói lên cảm quan của tôi khi nhìn vào mục
đích Liên Hiệp Quốc trao cho tổ chức nầy là : "Góp sức bảo trì hòa bình
thế giới bằng cách mở mang trí tuệ giữa các quốc gia và các sắc tộc
bằng giáo dục, khoa học, văn hoá, xã hội và đối thoại".
Tôi được may mắn đi nhiều nơi và thường ghé đến những nơi có đền đài cỗ
tích được Unesco bỏ tiền ra bảo quản. Bên cạnh đó, tôi thường tò mò tìm
hiểu về văn hoá xứ sở đó. Đặc biệt là đến đâu tôi cũng cố gắng tìm xem
xứ sở đó có nhiều hay ít trường học.
Nhìn lại, phần lớn số tiền Unesco bỏ ra đều chi phí cho các cỗ tích đền
đài đều nằm trong các nước có đạo Hồi giáo. Ngay những sắc tộc thiểu số
theo Hồi giáo cũng đươc ưu tiên giúp đở.
Thật ra điều nầy tôi không thể trách, vì trong tinh thần "dân chủ" nhà chức trách phải theo ý kiến đa số trong tổ chức. Như vậy, trong số 193 quốc gia và 10 cơ quan quốc tế hội viên Unesco, thì số các quốc gia theo đạo Hồi đã chiếm đa số trên 2/3.. Hằng năm Liên Hiệp quốc đã trao cho Unesco một số tiền 653 triệu đôla, để thanh toán lương bổng cho 2300 nhân viên tại Paris và 65 nước trên thế giới bảo trì di tích.
Thật ra điều nầy tôi không thể trách, vì trong tinh thần "dân chủ" nhà chức trách phải theo ý kiến đa số trong tổ chức. Như vậy, trong số 193 quốc gia và 10 cơ quan quốc tế hội viên Unesco, thì số các quốc gia theo đạo Hồi đã chiếm đa số trên 2/3.. Hằng năm Liên Hiệp quốc đã trao cho Unesco một số tiền 653 triệu đôla, để thanh toán lương bổng cho 2300 nhân viên tại Paris và 65 nước trên thế giới bảo trì di tích.
Nhưng thử tìm hiểu trong các quốc gia được Unesco bảo trợ từ ngày
16/11/1945 đến nay, tôi chưa thấy quốc gia nào có một nền giáo dục cao
hơn, có một văn hoá cao hơn, trái lại xã hội các quốc gia đó thì rối
loạn, việc đối thoại thì như người câm.
Theo báo chí thì số tiền trả cho các viên chức làm việc lớn hơn 46%
trong số tiền mà Unesco nhận được do Liên Hiệp quốc chi ra. Trong khi
đó, chi phí cho các cỗ tích mà UNESCO đứng ra bảo trì thì chẳng ăn thua
gì, bởi lẽ phần lớn các cỗ tích được bảo quản đều nằm trong các xứ nghèo
đói, chậm tiến và nhân công rẽ mạt.
Ngay nước Pháp, một thắng cảnh được Unesco bảo trợ cũng nằm tận dảo
Nouvelle Calédonie, nơi một vùng biễn phía bắc. Đến đây tôi chẳng thấy
một di tích nào, mà là biển cả và đất bằng.. Đất Nouvelle Caledonie là
đất của dân tộc Kanak. Toàn đảo, dân Kanak chiếm khoảng 40%. Các sắc tộc
như VN, Malaysie, hay người da mầu khác do người Pháp đưa đến đây làm
cu ly trong các đồn điền cao su chiếm khoảng 50%, số còn lại khoảng 10%
là công chức gia đình người Pháp.
Tổ chức Unesco thường đươc gọi là cơ quan bảo trì văn hoá, nhưng tôi
không thấy dân vùng nầy có trường sở mà chỉ thấy khu "ăn chơi" của dân
nhà giàu.
Tôi đã đến vùng biễn phía bắc Nouvelle Caledonie, vùng được Unesco bảo
trợ và chỉ gặp được một gia đình người Kanak, công chức cao cấp từ
Nouméa về đây nghỉ mát và đi săn hươu. Vị nầy cho tôi biết trong vài năm
nữa, vùng nầy Unesco sẽ cho thiết lập trường đua ngựa thế giới và sân
bóng dồi thế giới. Tôi hỏi thêm vài người Kanak làm nhân công trong
hôtel, tuyệt nhiên không ai cho biết có một trường học nào dành cho dân
bản xứ và các sắc tộc khác như Việt nam, malaysie hay indonésie.... Thì
ra UNESCO lấy tiền LHQ để đi khai sáng các vùng ăn chơi dành cho bọn nhà
giàu !!!
Những quyết định của Mỹ rút lui khỏi Unesco đã có mầm móng từ
31/12/1984, dưới thời TT Reagan, với lý do cơ quan Unesco đã nghiêng về
tả phái, nếu không nói là thiên về phe cộng sản. Mà thật vậy, sau đệ nhị
thế chiến các nước bị trị nỗi lên đòi độc lập, nước Pháp có xu hướng
nghiêng về phe xã hội, có lẽ vì vậy đại bản doanh tổ chức Unesco đóng đô
tại Paris cũng bị ảnh hưởng nặng. Một thời gian Unesco đã định bỏ tiền
xây tượng Hồ Chí Minh tại Paris, nhưng bị phản đối qúa nhiều của người
Việt tỵ nạn nên đành thôi. Đến thời TT Georges W. Bush , năm 2003 mới mở
cửa cho Unesco trở lại cho đến hôm nay.
Như đã nói, người Mỹ bất cứ dưới chính phủ nào, đều là kẻ bảo trợ cho
Israel. Một lẽ dễ hiểu là số chính trị gia nắm quyền tại Mỹ đều là người
gốc Do Thái. Hôm nay Unesco lại giúp cho Hamas và Fatah từng là anh em
thù địch ký thỏa ước hoà bình lấy vùng Gaza làm bàn đạp tấn công Do
Thái. Vì vậy mà sau lời tuyên bố đóng cửa Unesco, thủ tướng Israel cũng
lên tiếng rút ra khỏi tổ chức Unesco. Liệu những quốc gia còn lại có đủ
ngân khoản cho Unesco tiếp tục ? Chắc là không.
Đã lâu tôi theo dỏi hoạt động của tổ chức Unesco. Tôi thấy tổ chức nầy
ngày càng thiên về tả phái. Theo tôi, nếu con dường nầy cứ tiếp tục, thì
ngày một ngày 2, khắp năm châu bốn biển đều có tượng đài Hồ Chí Minh và
nhiều nơi giải tri dành cho bọn nhà giàu.
Theo tôi, sắc lệnh của TT Trump cho đóng cửa tổ chức Unesco là hành động cách mạng đáng hoan nghênh.
Lê Hùng Bruxelles.
VIETTUSAIGON * NHỮNG CÁI CHẾT THƯƠNG TÂM
Những cái chết thương tâm!
Thu, 10/19/2017 - 03:09 — VietTuSaiGon
Phải nói rằng (dù lạnh lùng!) Việt Nam đã trải qua hơn nửa thế kỉ lịch
sử với những cái chết thương tâm và vô lý. Đất nước này chưa bao giờ
thuyên giảm những cái chết phi lý. Trước 30 tháng 4 năm 1975, những cái
chết “bất đắc kỳ tử” do bom nổ, đạn lạc chiến tranh. Sau 30 tháng 4 năm
1975, khi chiến tranh đã im tiếng súng, những tưởng rằng đất nước sẽ
giảm thiểu, thậm chí chấm dứt những cái chết thương tâm và phi lý. Nhưng
không, có vẻ như cái chết thương tâm ngày càng gia tăng tại Việt Nam!
Những cái chết thương tâm mà tôi muốn nói đến là những cái chết gì? Và do đâu người dân Việt Nam phải gánh chịu sự tan thương, mất mát này?
Thưa, đó là chết trong đồn công an một cách mờ ám; Chết bởi ngồi nhậu, đùng một cái bị trúng đòn, ngã lăn ra trọng thương rồi chết mà không biết vì sao mình chết; Chết vì đến bệnh viện, uống nhầm thuốc giả; Chết vì tai nạn giao thông mặc dù đi đứng cẩn thận, đúng luật; Chết vì lũ quét, vì xả đập… Chết lúc đang ngủ, chết lúc bụng đói, chết lúc đang ăn cơm, chết lúc đang đi học về… Và cả chết dần chết mòn bởi thực phẩm chứa chất độc hại ngấm vào cơ thể từng phút, từng giờ, từng tháng, từng năm… Những cái chết đau thương và bi cảm ấy vẫn cứ quấn lấy đất nước này, dân tộc này.
Vì sao? Vì sao khi đất nước không có tiếng súng chiến tranh mà con người lại chết quá nhiều, chết đau thương, chết nhiều hơn cả thời súng nổ, đạn bay? Bởi vì đất nước này chỉ mới ngưng tiếng súng chiến tranh nhưng tâm hồn chiến tranh, tư duy chiến tranh và tập khí chiến tranh vẫn chưa bao giờ ngưng.
Nói rằng tâm hồn chiến tranh, tư duy chiến tranh và tập khí chiến tranh vẫn chưa bao giờ ngưng bởi vì người ta vẫn chưa bao giờ thôi nghi kị nhau, chưa bao giờ thôi ném cái xấu, cái tệ về phía đối phương và chưa bao giờ giải trừ cái ranh giới bạn – thù. Đất nước đã xóa bỏ lằn ranh địa lý Nam - Bắc ở vĩ tuyến 17 nhưng lại có một vĩ tuyến 17 khác đã hằn sâu trong ký ức tập thể của dân tộc Việt Nam! Người ta vẫn nhìn nhau một cách đầy phân biệt và có phần miệt thị với khái niệm “dân Bắc – dân Nam”, người ta chưa bao giờ thôi nghĩ đến chuyện “con ngụy – con ta”. Và đáng sợ nhất là chủ nghĩa xét lý lịch vẫn tồn tại như một điều hiển nhiên.
Bởi tư duy phân biệt “phe ta – phe địch” nên mọi quyền lợi, trách nhiệm và cả bổn phận với quốc gia, dân tộc cũng được chia thành “của phe ta và của phe địch”. Mọi quyết sách có ảnh hưởng đến dân tộc, quốc gia đều bị qui về “quyền lợi của ta, quyền lợi của đảng”. Và không dừng ở đó, người ta tự kỉ rằng dân tộc là đảng, đảng là dân tộc và mọi lợi ích dân tộc đều thể hiện trên lợi ích của đảng, của nhà nước. Đây cũng là nguyên nhân, giềng mối dẫn đến tình trạng phe nhóm cát cứ càng ngày càng nhiều, càng mạnh thêm và tha hồ tác oai tác quái, phá nát đất nước như vùng đất phi chính phủ, phi nhà nước hiện nay!
Khi các nhóm lợi ích “phe ta” đủ mạnh, đủ chân rết để hình thành cái bẫy lợi ích mà trong đó, bất kì kẻ nào đã nếm miếng mồi của họ đều rơi vào tình cảnh hoặc là tất cả cùng sống, hoặc là chết chùm thì hệ quả của nó sẽ là một quốc gia mà trong đó, những kẻ bất chấp sẽ nắm quyền, sẽ đạp lên lợi ích của những người không có quyền lực để củng cố sức mạnh phe nhóm, để cùng hưởng lợi lộc. Và lợi lộc sẽ thuộc về “phe ta”, những ai không phải của phe ta thì chết sống mặc bây, đã có hàng trăm kịch bản chia sẻ, từ thiện, cứu trợ bày sẵn, khi cần thiết sẽ dùng.
http://www.rfavietnam.com/node/4114
Những cái chết thương tâm mà tôi muốn nói đến là những cái chết gì? Và do đâu người dân Việt Nam phải gánh chịu sự tan thương, mất mát này?
Thưa, đó là chết trong đồn công an một cách mờ ám; Chết bởi ngồi nhậu, đùng một cái bị trúng đòn, ngã lăn ra trọng thương rồi chết mà không biết vì sao mình chết; Chết vì đến bệnh viện, uống nhầm thuốc giả; Chết vì tai nạn giao thông mặc dù đi đứng cẩn thận, đúng luật; Chết vì lũ quét, vì xả đập… Chết lúc đang ngủ, chết lúc bụng đói, chết lúc đang ăn cơm, chết lúc đang đi học về… Và cả chết dần chết mòn bởi thực phẩm chứa chất độc hại ngấm vào cơ thể từng phút, từng giờ, từng tháng, từng năm… Những cái chết đau thương và bi cảm ấy vẫn cứ quấn lấy đất nước này, dân tộc này.
Vì sao? Vì sao khi đất nước không có tiếng súng chiến tranh mà con người lại chết quá nhiều, chết đau thương, chết nhiều hơn cả thời súng nổ, đạn bay? Bởi vì đất nước này chỉ mới ngưng tiếng súng chiến tranh nhưng tâm hồn chiến tranh, tư duy chiến tranh và tập khí chiến tranh vẫn chưa bao giờ ngưng.
Nói rằng tâm hồn chiến tranh, tư duy chiến tranh và tập khí chiến tranh vẫn chưa bao giờ ngưng bởi vì người ta vẫn chưa bao giờ thôi nghi kị nhau, chưa bao giờ thôi ném cái xấu, cái tệ về phía đối phương và chưa bao giờ giải trừ cái ranh giới bạn – thù. Đất nước đã xóa bỏ lằn ranh địa lý Nam - Bắc ở vĩ tuyến 17 nhưng lại có một vĩ tuyến 17 khác đã hằn sâu trong ký ức tập thể của dân tộc Việt Nam! Người ta vẫn nhìn nhau một cách đầy phân biệt và có phần miệt thị với khái niệm “dân Bắc – dân Nam”, người ta chưa bao giờ thôi nghĩ đến chuyện “con ngụy – con ta”. Và đáng sợ nhất là chủ nghĩa xét lý lịch vẫn tồn tại như một điều hiển nhiên.
Bởi tư duy phân biệt “phe ta – phe địch” nên mọi quyền lợi, trách nhiệm và cả bổn phận với quốc gia, dân tộc cũng được chia thành “của phe ta và của phe địch”. Mọi quyết sách có ảnh hưởng đến dân tộc, quốc gia đều bị qui về “quyền lợi của ta, quyền lợi của đảng”. Và không dừng ở đó, người ta tự kỉ rằng dân tộc là đảng, đảng là dân tộc và mọi lợi ích dân tộc đều thể hiện trên lợi ích của đảng, của nhà nước. Đây cũng là nguyên nhân, giềng mối dẫn đến tình trạng phe nhóm cát cứ càng ngày càng nhiều, càng mạnh thêm và tha hồ tác oai tác quái, phá nát đất nước như vùng đất phi chính phủ, phi nhà nước hiện nay!
Khi các nhóm lợi ích “phe ta” đủ mạnh, đủ chân rết để hình thành cái bẫy lợi ích mà trong đó, bất kì kẻ nào đã nếm miếng mồi của họ đều rơi vào tình cảnh hoặc là tất cả cùng sống, hoặc là chết chùm thì hệ quả của nó sẽ là một quốc gia mà trong đó, những kẻ bất chấp sẽ nắm quyền, sẽ đạp lên lợi ích của những người không có quyền lực để củng cố sức mạnh phe nhóm, để cùng hưởng lợi lộc. Và lợi lộc sẽ thuộc về “phe ta”, những ai không phải của phe ta thì chết sống mặc bây, đã có hàng trăm kịch bản chia sẻ, từ thiện, cứu trợ bày sẵn, khi cần thiết sẽ dùng.
Chưa bao giờ cái câu cửa miệng trong dân gian rằng “trâu bò húc nhau
ruồi muỗi chết” lại ứng với Việt Nam như hiện nay. Thân phận của người
dân hiện tại cũng chỉ ngang ngửa với ruồi muỗi và sức mạnh của các nhóm
lịch ích là sức mạnh của trâu bò, của thứ bản năng tranh ăn tranh thua,
không cần biết đến nhân văn, nhân bản, chỉ cần lợi ích nhóm càng cao,
nhóm càng phình to, càng bành trướng thì càng tốt. Cái tâm lý đầy ích kỉ
của các nhóm lợi ích cũng như cái tâm lý đầy thủ phận, cam chịu của đại
bộ phận nhân dân đã nhanh chóng đẩy dân tộc, đất nước đến một thứ căn
tính thủ phận, ích kỉ và đội trên đạp dưới, sống chết mặc bây…
Và chỉ cần bước ra đường, tham gia giao thông không thôi, người ta cũng
dễ dàng phân biệt đâu là con nhà quan chức, đâu là thứ dân. Con nhà quan
chức có thể đi nghênh ngang, đi trái luật, không cần đội nón bảo hiểm
(nếu đi xe máy), vượt làn không cần xin đường, thậm chí vượt đèn đỏ ngay
trước mặt cảnh sát giao thông vẫn không hề hấn gì.
Nhưng hạng thứ dân thì khác, chỉ cần đi xe máy ra đường thì có thể đối
mặt với vô vàn khó khăn, có thể bị cảnh sát giao thông thổi còi, kêu lại
“xin ổ bánh mì” mặc dù không hề bị lỗi nào. Đáng sợ hơn cả là nếu như
con nhà quan va chạm với thứ dân, gây ra cái chết cho thứ dân trên
đường, thì phần thiệt, phần sai bao giờ cũng thuộc về thứ dân, phần
đúng, hợp lý bao giờ cũng thuộc về con nhà quan. Điều này như một tập
quán của Việt Nam thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa.
Nhưng đáng sợ nhất, chỉ có những kẻ con nhà quyền thế mới dám đứng ra tổ
chức những đường dây buôn bán ma túy lớn, bởi họ có đường ra khi va vấp
pháp luật. Cũng như các nhóm lợi ích tha hồ phá rừng, tha hồ xây dựng
thủy điện, thậm chí tay không đầu tư xây dựng thủy điện (chỉ cần có mối
quan hệ tốt trong hệ thống đảng, người ta sẽ dễ dàng xây dựng một dự án
thủy điện, thuê pháp nhân có vốn điều lệ, vốn pháp định đứng tên bình
phong để thông qua dự án và bắt đầu khai thác gỗ rừng dưới danh nghĩa
rừng lòng hồ. Và khai thác gỗ đủ vốn, người ta xây dựng thủy điện, xem
như không mất đồng vốn nào mà vẫn có thủy điện, điều này lý giải tại sao
tất cả các thủy điện Việt Nam lại nằm ngay khu vực có trữ lượng gỗ quí
nhất và khi thủy điện mọc lên thì trữ lượng gỗ quí mất đi hoàn toàn).
Và khi tư duy con người trở nên hoặc là cam chịu, thủ phận hoặc là đạp
qua mọi thứ, bất chấp để làm giàu, để trục lợi và củng cố quyền lực,
chắn chắn rằng những cái chết thương tâm mà số đông thứ dân phải gánh
chịu từ hậu quả làm giàu, trục lợi một cách bất chấp của các nhóm lợi
ích là khó tránh khỏi. Và hàng trăm cái chết do xả lũ ở Hòa Bình, những
cái chết lạnh, chết đói, chết co ro đầy thương tâm của dân nghèo trôi
trong lũ, với một số lượng người chết quá khủng khiếp như vậy mà nhà
nước vẫn bình chân như vại, thủy điện chẳng cần tỏ ra hối tiếc, chẳng
cần phải xin lỗi nhân dân và chuyện thủy điện đền bù cho nhân dân là
chuyện không tưởng…!
Bởi nhân dân đã tự làm quen với cái chết chậm của đời mình bằng cách cam
chịu và có phần ích kỉ, xem chuyện người khác không phải là chuyện của
mình, chép miệng, xuýt xoa trước nỗi đau của người khác nhưng chẳng cần
suy nghĩ gì thêm. Bởi nhà nước, đảng cầm quyền đã lún quá sâu và hệ
thống lợi ích nhóm và kẹt cứng trong đám bùng nhùng này nên chẳng thể
làm được gì khác!
Và đáng sợ nhất là khi những cái chết thương tâm vẫn diễn ra hằng ngày
trên đất nước, chết nhiều gấp đôi, gấp ba lần so với chiến tranh mà
người ta vẫn cố tự ru ngủ mình bằng niềm tin bình yên, niềm tin thắng
lợi và niềm tin có tiến bộ. Chính cái tâm lý tự ru ngủ này đã đẩy dân
tộc này đến những cái chết thương tâm và nó càng ngày càng bội phát bởi
Mẹ Thiên Nhiên không còn muốn che chở con người, bởi con người tự ném
thuốc độc vào nhau và bởi cổ máy chính trị Việt Nam đã bị méo mó, biến
dạng thành một nhóm lợi ích khủng, đạp lên trên sinh mạng dân tộc, sinh
mệnh quốc gia. Thật buồn cho những cái chết của những người dân và cái
chết của một dân tộc!
VietTuSaiGon's bloghttp://www.rfavietnam.com/node/4114
NS TUẤN KHANH * ĐINH THẢO
Nhà hoạt động trẻ Đinh Thảo: “Tôi muốn tìm một phiên bản khác của mình”
------------------------------------------
Những người bạn trẻ quanh tôi / kỳ 1
Phỏng vấn Đinh Thảo, thành viên của nhóm vận động nhân quyền cho Việt Nam, nhân chương trình bán định kỳ / Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát UPR 2017.
------------------------------------------
Những người bạn trẻ quanh tôi / kỳ 1
Phỏng vấn Đinh Thảo, thành viên của nhóm vận động nhân quyền cho Việt Nam, nhân chương trình bán định kỳ / Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát UPR 2017.
------------------------------------------
Ngày 10 tháng 10/2017, là lúc Đinh Thảo cùng các thành viên trong
nhóm của mình kết thúc cuộc hành trình vận động cho nhân quyền của Việt
Nam. Chuyến đi dài và có vẻ nhiều mệt mỏi.
Người ta nhìn thấy Thảo xuất hiện tại trong một phiên điều trần của
Liên Hợp Quốc, đại diện cho người Việt Nam và đọc một bản báo cáo về
những gì đang diễn ra ở quê nhà. Có chút căng thẳng trong giọng tường
trình của cô gái ra đi từ Hà Nội, với hy vọng làm một cái gì đó khác
hơn, nhiều hơn. Thậm chí là dấn thân hơn những ngày cô còn đi vòng bờ hồ
biểu tình chống chặt cây xanh hay vận động cho những người không là
cộng sản tự ứng cử quốc hội của Việt Nam.
Chính trị ập đến với Thảo bằng hiện thực cuộc sống. Thảo nói rằng khi
cô trò chuyện ở một lớp học tiếng Anh, và sốc khi “được nghe về những
điều mà lâu nay hoàn toàn không hay biết. Từ đó, tôi ngày ngày lên mạng
và ngấu nghiến đọc tất cả những gì có thể đọc được về chính trị xã hội
Việt Nam từ truyền thông lề trái”.
Thảo cũng có một công việc và một cuộc đời yên ả ở Hà Nội. Yên ả như
cái tên mà bạn bè gọi yêu là Thảo "Gạo", nhưng rồi có cái gì đó thôi
thúc khiến cô muốn bước chân hẳn vào các hoạt động vì con người. Và Đinh
Thảo đã chọn một cuộc đời khác. “sau khoảng 1 năm hoạt động, tôi nhận
thấy rằng thực sự rất khó để có thể cùng lúc hoạt động và lại hoàn thành
công việc của mình. Tôi biết mình không thể duy trì tình trạng đó lâu
hơn nữa nên tôi đã quyết định rời Việt Nam đi học (2016) về xã hội dân
sự để mong mình có nhiều kiến thức và kỹ năng hơn, để khi trở về có thể
toàn tâm toàn ý hoạt động cho con người và đất nước mình”.
Thảo nói rằng cô hài lòng vì những điều mình chọn, dẫu nó nhọc nhằn
hơn, thậm chí hiểm nguy hơn. Đơn giản vì cô thì thấy mình thật sự sống
trong cuộc đời của mình. “tôi tin rằng bất cứ ai nếu được trao cơ hội
thì cũng sẽ tìm được phiên bản tốt hơn của chính mình”, Thảo viết vài
dòng tâm tình như vậy.
Cuộc vận động cho nhân quyền Việt Nam là chương trình hành động lớn
đầu tiên của Thảo, xuyên suốt nhiều quốc gia Châu Âu và kéo dài? Đó là
chuyến đi như thế nào?
Vâng, với Thảo thì lần đầu, nhưng từ năm 2014, thì riêng tổ chức VOICE
đã từng mở một cuộc vận động UPR như vậy tại Úc, Mỹ và Châu Âu và đã rất
thành công. Năm 2017, VOICE lại tiếp tục mở thêm một cuộc vận động nữa
để đẩy mạnh sự chú ý của quốc tế nhân giữa kỳ của chương trình Kiểm Điểm
Định Kỳ Phổ Quát UPR (4 năm một lần). Đây là một bước đệm để hướng tới
chương trình UPR 2019.
Chuyến vận động năm nay được chuẩn bị khá lâu, và sẽ bắt đầu từ Berlin
(15/9) và sau đó sang đến Geneva (Thụy Sỹ), Stockholm (Thụy Điển), Oslo
(Na Uy), Brussels (Bỉ), Praha (Cộng hòa Sec)… dự kiến sẽ kết thúc vào
ngày 10/10 này.
Thảo tham gia chuyến đi này cùng bao nhiêu người?
Vâng, nhóm của Thảo đi vận động cũng chỉ có 3 người. Đó là Thảo, từ Bỉ
và chị Anna Nguyễn (giám đốc chương trình của VOICE, luật sư từ Úc). Có
cả chị Lê Thị Minh Hà, vợ của tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Vinh, tức Anh
Ba Sàm, từ Việt Nam.
Chuyến đi này, Thảo sẽ có những hoạt động cụ thể như thế nào?
Có 2 phần trong cuộc vận động này. Phần thứ nhất là cập nhật về tình
hình của Việt Nam qua chương trình UPR lần trước. Tức là năm 2014, Việt
Nam có chấp nhận 182 khuyến nghị từ hơn 100 nước. Dựa trên nhưng điều
đó, nhóm vận động sẽ đi gặp nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế để làm
rõ Việt Nam đã làm được gì cũng như chưa làm được gì, hoặc có tồi tệ
hơn? Còn phần thứ hai, là nhấn mạnh về tình hình nhân quyền ở Việt Nam,
cũng như về vấn đề tù nhân lương tâm tại Việt Nam.
Cụ thể hơn, là Thảo sẽ phát đi các qua thư ngỏ, các hồ sơ báo cáo hay chỉ là tổ chức biểu tình để gây sự quan tâm?
Trong chuyến đi này, thì nhóm đã chuẩn bị một hồ sơ báo cáo giữa kỳ UPR,
đồng thời cũng có những thông tin mới cập nhật về Việt Nam sẽ được gửi
cho những bên mà mình đến gặp. Nhưng chính yếu vẫn là những bài phát
biểu mô tả thực trạng hoặc trả lời cho các bên mà mình được quyền trình
bày về tình hình nhân quyền Việt Nam. Quan trọng là thông qua các cuộc
gặp trực tiếp như vậy, mọi thứ sẽ dễ chia sẻ và cảm thông hơn qua sự
trình bày của mình.
Chuyến đi vận động này, có sự có mặt của chị Lê Thị Minh Hà, vợ của tù
nhân lương tâm Nguyễn Hữu Vinh. Điều này có nghĩa phần nói về các tù
nhân lương tâm sẽ được nhấn mạnh?
Vâng, sự có mặt của chị Hà là một câu chuyện, là một nhân chứng về vấn
đề tù nhân lương tâm ở Việt Nam. Tù nhân lương tâm là một vấn đề lớn và
bao quát, nhưng với một câu chuyện cụ thể và được mô tả sống động từ chị
Hà thì những bên tiếp xúc với nhóm vận động sẽ có sự chia sẻ tốt hơn.
Nhưng cần phải nói là câu chuyện tù nhân lương tâm là phần quan trọng của chuyến đi này.
Chương trình vận động này kéo dài một tháng, tức là một chương trình
có hẹn trước với các nơi, và đã được phép gặp mặt phía nhà nước, cá
nhân… mà mình định đến?
Dạ, không hẳn là vậy. Một số hoạt động trong chiến dịch thì cần ghi danh
xin trước và chờ, hoặc phải được mời. Tuy nhiên cũng có nhiều hoạt động
mà mình cần tự tìm đến ngẫu nhiên để gặp. Do vậy thời gian của cuộc vận
động là hoàn toàn do mình chủ động. Nói chung là một kế hoạch tổng thể
mà mình phải tự hoạch định và ước lượng về tác động có được, mỗi nơi,
mỗi người là một nỗ lực khác nhau, cùng phối hợp.
Thảo có thể cho biết lý do Thảo và nhóm vận động lựa chọn 6 nước nói trên để tiếp cận?
Vâng, cả 6 quốc gia mà nhóm chọn đi qua đều có những mối quan tâm khá
đặc biệt về tình hình Việt Nam. Chẳng hạn như Đức, là một quốc gia có
quan hệ ngoại giao và đối tác kinh tế rất quan trọng với Việt Nam. Nhưng
sau vụ Trịnh Xuân Thanh, nước Đức trở nên chú ý hơn về vấn đề pháp
quyền ở VN, và coi rằng vấn đề pháp quyền ở Việt Nam là điều đáng báo
động. Mà chúng ta có thể thấy thông qua cách mà họ phản ứng trong suốt
thời gian qua.
Với tầm vóc của nước Đức, việc đến và xin trao đổi, nói chuyện về tình
hình pháp quyền, nhân quyền ở Việt Nam là điều có thể tác động tốt.
Còn ở Thụy Sỹ, là nơi đặt trụ sở của Liên Hiệp Quốc nên việc mình đến đây đa phần là gặp các cơ quan của Liên Hiệp Quốc.
Thụy Điển và Na Uy là các quốc gia lâu nay vẫn ủng hộ nhân quyền nói
chung, một cách mạnh mẽ. Cả hai quốc gia này không chỉ quan tâm và giúp
Việt Nam, mà còn giúp cho nhiều quốc gia khác trên thế giới về nhân
quyền, về chuyển đổi dân chủ… Các cơ quan, tổ chức chức mà phái đoàn sẽ
gặp tại đó chắc chắn sẽ cho cảm giác như đó là những người bạn của những
người hoạt động dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam vậy.
Còn ở Bỉ, là nơi đặt trụ sở của liên minh Châu Âu cũng như nhiều tổ chức
NGO lớn khác. Liên minh Châu Âu là một trong những đối tác quan trọng
bậc nhất với Việt Nam nên vận động ở đó cũng rất quan trọng.
Riêng ở Cộng hòa Sec (Tiệp Khắc cũ), đây là một đất nước từng có một quá
khứ cộng sản. Họ đã bước sang một thể chế dân chủ và sau một thời gian
ngắn, Cộng hòa Sec được xem là quốc gia có nền kinh tế ổn định và phát
triển mạnh. Quốc gia này cũng có nhiều chương trình giúp đỡ cho các nước
còn độc tài, độc đoán và xây dựng các phát triển về mặt nhân quyền.
Cộng hòa Sec cũng là một trong những quốc gia có nhiều các tổ chức dân
sự xã hội đầy kinh nghiệm trong việc hoạt động về chuyển đổi và phát
triển xã hội mà nhóm vận động cũng cần học hỏi.
Một điều không thể không nói đến là cả 6 nước này đều đưa ra các khuyến
nghị thực tế và quan trọng cho việc thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam
trong kỳ kiểm điểm UPR năm 2014.
Với mọi nỗ lực, Thảo cùng với mọi người trong chuyến đi chỉ mong mỏi sẽ
có những thay đổi tốt đẹp cho quê hương mình. Hy vọng ngày ấy không xa.
Và hy vọng người Việt Nam rồi sẽ không còn cần đến những chuyến đi vận
động cho nhân quyền như vầy nữa.
(Ghi lại / tháng 10-2017)
Saturday, October 21, 2017
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
Đồ Mặt Thớt
Một chế độ gồm toàn khuôn mặt thớt.
Phan Huy
“Tôi đã từng rất ngạc nhiên khi được biết quyền tự do đi lại và cư trú, đặc biệt là quyền tự do xuất nhập cảnh dành cho chính công dân Việt là điều kiện tiên quyết mà Chính phủ Việt Nam phải chấp nhận để nhận được các khoản vay từ World Bank.” Tôi nghe thạc sĩ Trần Kiên nói vậy, và cũng “ngạc nhiên” không kém.
Hoá ra tại vì World Bank nên nhiều câu ca dao (mới) của VN đã chóng bị thời thế vượt qua, và sắp chìm vào quên lãng:
Trăm năm trong cõi người taSau khi được đi đứng lung tung thì lắm kẻ lại sinh tật ăn nói rất linh tinh. Hồi năm 2014 – sau chuyến du lịch Âu Châu – trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã phát biểu (đôi điều) không mấy tốt đẹp về đất nước:
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Ðào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Ðen đủi như An – Go -La
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta không được đi ra đi vào
“Tôi sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm. Bên nhà chúng ta vừa đi vừa nghĩ mưu, thành ra ấn tượng nhất cho tôi là sự tự tin của bước chân, nét mặt người bên đó. Đi thì mới biết mình bị mất những gì.”Mới đây, diễn viên Hồng Vân cũng thế:
“Người dân Nhật Bản được hưởng chế độ an sinh tuyệt vời nhất… Chỉ thương người dân Việt Nam mình Được hưởng toàn những điều giả dối.”Chả riêng gì ông nhà văn, hay bà nghệ sĩ, ngay cả mấy cô bán hàng rong cũng ăn nói linh tinh thấy mồ luôn – theo tường trình (“Tâm Tình Của Hai Phụ Nữ Việt Bán Hàng Tại Thái”) của phóng viên Chân Như, RFA, từ Bangkok:
“Chính quyền Thái họ đối xử tương đối tốt. Chị có coi trên mạng cảnh nhiều người bán hàng rong ở Việt Nam, thấy phức tạp hơn so với bên đây nhiều, bên này họ nói vậy thôi chứ họ bắt vào thôi rồi họ phạt ít trăm Bath thôi, chứ họ không thu giữ gì cả. Chứ không phải như bên mình đâu, chị coi trên mạng cảm thấy thương người bán hàng rong như chị lắm. Bên này cảm thấy thích hơn, tốt hơn.”Hễ cứ có dịp bước chân ra nước ngoài là dân Việt đều “biết mình bị mất những gì.” Tổ quốc nhìn từ xa khiến ai cũng ai cũng phải ái ngại – trừ qúi vị lãnh đạo đất nước:
– Nguyễn Minh Triết : “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…”
– Trương Tấn Sang :“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”
–Nguyễn Thị Kim Ngân: “Đất nước này được như thế này, ngẩng mặt lên nhìn với bạn bè năm châu bốn biển như thế này, vai trò vị thế như thế này đó là do chúng ta duy trì được sự ổn định chính trị và trật tự an toàn trong cả nước.”Ông nhà văn, bà nghệ sĩ, cô bán hàng rong đều là những nhân vật mà ai cũng có thể nhận diện hay sờ mó được. Chớ “bạn bè bốn biển năm châu” thì thiệt khó biết là thằng cha hay con mẹ (rượt) nào, và “bạn bè quốc tế ngưỡng mộ chúng ta” gồm những ai (e) cũng là điều khó đoán.
May mà có cuộc Bầu Cử Lãnh Đạo UNESCO vào ngày 10 tháng 10 vừa qua. Kết quả, theo BBC:
“Tuy được báo chí truyền thông Việt Nam đánh giá cao sau cuộc phỏng vấn ứng tuyển hồi tháng Tư, Đại sứ Phạm Sanh Châu của Việt Nam chỉ giành được 2 phiếu bầu, thấp nhất cùng hạng với Azerbaijan.”Cũng BBC, hai ngày sau, buồn bã cho hay: “VN rút khỏi cuộc đua lãnh đạo Unesco.”
Về sự kiện này, Tiến Sĩ Dương Hồng Ân (VOA) có đôi lời bình nghe không được “tử tế” gì cho lắm:
“Nói về phương diện văn hóa, chúng tôi nghĩ là (Việt Nam) không có đủ khả năng nói chuyện văn hóa với các nước trên toàn thế giới. Tôi không bàn đến cá nhân ông ứng cử viên mà tôi chỉ nói là chế độ Cộng sản hiện nay không có đủ tư cách, không có đủ khả năng nói chuyện về văn hóa đối với toàn cầu và thế giới.”Đã thế, trên trang RFA, nhà báo Trương Duy Nhất còn hân hoan ra mặt:
“Mừng. Khi hay tin Phạm Sanh Châu chỉ được vỏn vẹn 2 phiếu, là một trong hai ứng viên ít phiếu nhất cuộc bầu vòng 1 cho chiếc ghế Tổng giám đốc UNESCO.
Có lẽ không chỉ riêng tôi. Nhiều, rất nhiều người Việt không dấu nổi sự vui mừng … ”
Trong số “nhiều người Việt” này, chắc chắn, không có ông qúi
vị lãnh đạo CSVN. Có lẽ, họ đều hơi “ngỡ ngàng” khi biết sự
thực là bạn bè bốn biển năm châu hay bạn bè quốc tế , té ra, không “ngưỡng mộ chúng ta” gì ráo.
Bằng chứng mới nhất không chỉ ở vỏn vẹn hai phiếu bầu cho ông
Phạm Sanh Châu mà còn ở thái độ lạnh nhạt của Ngân Hàng Thế
Giới (WB) trước những lời nài nỉ “xin hổ trợ”
của ngài Thủ Tướng, vào hôm 20 tháng 9 vừa qua. Thái độ của
ông Nguyễn Xuân Phúc tuy có hơi trơ tráo nhưng hoàn toàn không sai
lệch, so với cung cách và truyền thống lãnh đạo của giới
“chính khách Việt Nam” – theo nhận xét của T.S Nguyễn Văn Tuấn:
“VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói ‘Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày’. Thật là nhục…”
Bị xỉ vả tới cỡ đó, nói nào ngay, cũng chưa “nhục” mấy. Nhà văn Trần Đĩnh còn dẫn lời của một vị quan chức ngoại giao Ba Lan (nghe) còn nhục nhã hơn nhiều:
“Với chúng mày tốt nhất là đưa chúng mày ra một hòn đảo hẻo lánh giữa Thái Bình Dương rồi thế giới góp tiền nuôi và mọi người nhờ thế mà được yên ổn.”
Chả biết đến khi nào “thế giới” mới thực hiện được giải pháp
“một hòn đảo hẻo lánh giữa Thái Bình Dương” cho Việt Nam để “mọi
người nhờ thế mà được yên ổn” hơn? Trong khi chờ đợi, tôi xin có một
lời đề nghị nhỏ, rất nhỏ và cũng rất dễ thực hiện, là từ
nay xin qúi vị lãnh đạo đất nước (làm ơn) nổ nhỏ bớt lại
chút xíu – mỏng mỏng thôi – cho nó đỡ kỳ.
Đẩy cả một dân tộc đến bước đường cùng, đến độ phải xin ăn
để sống qua ngày mà Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân vẫn
thản nhiên “ngẩng mặt lên nhìn bạn bè năm châu bốn biển” thì quả
đúng là đồ mặt thớt.
Tưởng Năng TiếnTS.PHAN VĂN SONG * THẢM HỌA HỌC
2017-10-18 :
Thảm Họa
học : La Collapsologie
Giữa Hy Vọng và Sáng Suốt
Phan Văn Song
La Collapsologie đến
từ Collapsus, đổ vỡ hay sụp đổ và logie lời, sự học. Collapsologie là sự
nghiên cứu, sự học hỏi về những sụp đổ. Thế kỷ thứ 21 đến với những bước tiến
nhảy vọt, với đôi hài bảy dặm. Và đời sống vật chất của con người, theo nhịp
khoa học cũng tiến triển rất nhanh. Nhanh đến nổi, thiên nhiên không tiến theo
kịp, và thiên nhiên phải nổi giận. Thiên tai bão tố những năm gần đây, xảy ra
nhiều hơn, và mỗi lần mức độ tàn phá mãnh liệt hơn… Thiên tai do thiên nhiên,
nhưng sự sống con người cũng ít nhiều gì gây những thiệt hại đến thiên nhiên.
Người bạn đấu tranh, người đồng chí anh em của tôi chuyên môn vấn đề môi trường
anh Tiến sĩ Hóa học Mai Thanh Truyết đã nhiều năm tố cáo đấu tranh kêu gọi để một
chúng ta để ý, tôn trọng, một tý đến môi trường môi sanh, thiên nhiên bao bọc
chúng ta, để mỗi người chúng ta, một tý đóng góp vào cái của quý chung ấy. Tôi
có thể dịch Collapsologie là Sụp đổ Học, nhưng tôi lựa Thảm Họa Học. Không đúng
nghĩa, nhưng mong các thân hữu thông cảm với tên chữ nầy.
Tôi hy vọng rằng
các thân hữa sẽ không trách tôi đã quá bi quan, đã bôi đen tình hình, kêu
« wảng kêu tiều », chưa gì mà la hoảng !… Thế giới, quả đất rộng
lắm, già xưa, cả triệu năm kinh nghiệm, cả triệu năm nữa ăn thua gì. Mới sơ sơ
mà đã la hoảng ! Tôi là một thằng pessimiste – bi
quan tiêu cực, catastrophiste – một người chỉ thấy toàn thảm họa. Rằng
người ta chỉ thấy xe lửa trễ giờ, máy bay rớt tuy dù đó là thiểu số ! Tỷ lệ
xe lửa đúng giờ, máy bay không tai nạn nhiều hơn, và không bao giờ tỷ lệ hiểm
nguy bằng zéro cả – le risque zéro n’existe pas ! Đã ra đường
là chấp nhận có nguy hiểm ! Như vậy người thận trọng có hai cách, hoặc đọc
cầu nguyện Chúa Phật che chở suốt hành trình, hai mua giấy bảo hiểm, may ra cái
mạng mình giúp vợ con tý vốn liếng làm ăn.
Mở : Collapsologie – Thảm Họa Học :
Ai ai, mỗi chúng ta, ở Âu, Úc hay Mỹ châu ngày
nay, nếu thích theo dõi tình hình hằng ngày, hoặc nghe rồi bỏ ngoài tai, tiếp tục
sống với gia đình, lè phè với công việc hằng ngày, hoặc chán ngấy kệ cha,
Mackêno, hoặc dấn thân, tìm tòi, nghiên cứu, lo lắng với tình hình quốc tế, quốc
nội, quốc ngoại, cộng đồng đoàn thể xa gần. Do đó, có hai loại thái độ, hoặc lo
thiền cho tâm tịnh, lo tập cho thân thể yên lành, sống yên lành cho những ngày
còn lại trên dương thế, carpe diem, để hưởng an lành trong sạch, lòng
không vương vấn bụi trần, loin des bruits et des fureur, hoặc quá lo lắng cho tương lai vận mệnh đất
nước nơi mình cư ngụ, thấp thỏm theo dõi tin tức của quê hương Việt Nam xa xôi
của mình, và lo hẳn cả cho cả thế giới, cho cả quốc gia, của người, của mình, của cả hành tinh-vũ
trụ, vì không biết sau nầy, thế hệ hậu duệ con cháu mình ra sao ? Nên
nhớ thế giới tôi đang sống, là thế giới tôi mượn của con cháu tôi, tôi xài bao
nhiêu phải ráng bồi thường trả lại cho con cháu tôi !
Nhưng đau đớn
thay, lúc nầy, mỗi ngày đọc báo, nghe đài phát thanh, hay theo dõi truyền hình,
đểu nghe toàn những tin tức đầy tuyệt vọng, toàn những thảm họa, thiên tai, khủng
bố tai nạn : gần mình, quanh mình, hết môi trường, đến khí hậu, ra ngõ gặp
ngay thấy ngay, ngay xứ mình ở, toàn là nạn nhơn, hết vì nạn chiến tranh, đến
vì nạn kinh tế, do dân « di dân », vì tỵ nạn, hay nhập cư lậu, những
người trong « hoàn cảnh » mình đã trãi qua, và ít nhiều thông cảm !
Còn chưa kể nạn khủng bố hồi giáo quá
khích, nay đánh bom nơi nầy, mai dùng dao đâm người nơi khác, … toàn là ở những
thành phố vừa có cộng đồng người, nhưng cũng có cộng đồng người việt ta, và con
có cháu người việt ta cư ngụ, sanh hoạt…
1/ Thảm họa Người chống – vs - Thiên nhiên:
Nhưng cái nguy hiểm
hằng ngày, thường nhựt do chính chúng ta gây nên. Gần nhứt, gần hơn cả hiện tượng
tàn phá môi sanh, là hiện tượng tàn phá lương thực, nào gạo giả, nào sữa giả,
dược phẩm giả, ai ai cũng đã nghe qua, nhưng xa quá, tận xứ Tàu, tận xứ Ta.
Nhưng khi nói đến hàng lương thực dỏm ? Thì thiếu chi ? Mỹ ? Tây ?
Úc ? đầy rẩy, dân Mỹ, dân Úc đổ thừa Tàu, đổ thừa Đông Âu, nhưng vẫn vì
ham rẻ, không chịu mua hàng nhà, thích mua hàng nhập cảng… Tàu, Ấn , Đông Âu, A
Rập ...Việt Nam nên mới ôi hôi, khi biết dỏm nhưng trễ rồi ... Nào thịt nhiễm độc,
nào dược phẩm nhiễm hóa chất … nào thuốc diệt trùng. Thuốc diệt trùng ?
Thoạt đầu, trợ giúp nhà vưéơn, nhà nông, chỉ diệt trùng, diệt sâu bọ, nhưng sau
khi xịt vào, nhập vào nông phẩm, trái cây, rau cải, biến thành chất độc ... hại
con người ! Thuốc xịt rầy trị sâu ngoài vườn ruộng, nơi canh tác, để giúp cho thu hoạch tốt – lợi nhuận
cao,- ôi lợi nhuận vì mi mà ta thành kẻ sát nhơn ! - cũng biến thành
thuốc xịt muỗi, xịt ruồi, xịt dán trong nhà … trợ giúp đời sống thoải mái,
không ruồi, không muỗi, không dán, không chuột, không kiến, không nhền nhện.. không , không
...Nhưng muốn thuốc giết, thuốc diệt, hữu hiệu … hóa học chỉ có một công thức !!
Khác chi ? Giết rầy, giết muỗi xêm xêm… Tất cả là sâu bọ… Nhưng sức khỏe
con người ? Con người trung bình 70 kilô, con rầy con muỗi, vài grammes, chả sao ...Con rầy chết,
còn con người ? Còn lâu ! Cân nặng cả ngàn lần ? Lâu lắm mới chết ! Con người cân nặng bằng
1000 con rầy ! Nhiễm độc cả 100 năm
mới chết ! Có bao nhiêu người sống
trên 100 tuổi ? Như vậy sắc suất nguy hiểm là epsilon.. không
bao nhiêu ? … No star where !
Con người quá khôn
ngoan, nhiều tham vọng, là ông vua của vũ trụ, hành tinh, sự sống, chinh phục tất
cả, môi trường, thiên nhiên. Và vốn không tin tưởng thiên nhiên, vẫn xem thiên
nhiên là địch thủ phải chinh phục, nếu không được, phải khắc phục. Vì sợ thiên
nhiên, nên ích kỷ, chỉ muốn thiên nhiên phải phục vụ mình. Trồng cây ăn trái,
muốn hưởng thụ một mình, diệt trùng, diệt sâu bọ cho rằng sâu bọ phá trái cây,
thực sự sâu bọ cùng chung sống môi trường với người, phải ăn chia với người đó
thôi ! Dùng chất độc - hoá chất – để diệt sâu bọ, hóa ra cuối cùng chính
cái độc hóa học ấy diệt người. Trong thực vật, phải diệt cỏ dại – và cái scandale cuối cùng của thuốc diệt
cỏ Round Up do đó mà ra! Bao nhiêu người sẽ là nạn nhơn của Roung
Up, cũng như đã có bao nhiêu người nạn nhơn của « chì -pb trong nước »,
của chất amiante trong mái nhôm lợp nhà ?
Nhưng tại sao gọi
là cỏ dại ? Tại sao chúng ta gọi cỏ ấy là cỏ dại ? Định nghĩa
cỏ dại là gì ? Tại sao ta không chấp nhận cỏ dại ? Một bãi thảm toàn
« cỏ dại » cũng xanh cũng đẹp như một bãi thảm cỏ tốt « có tên
có tuổi ? - tên la tinh họ la tinh – sang trọng quý phái ». Cỏ dại mọc
chung với lúa mì, dù có thu hoạch ít đi nữa, nhưng dưới lòng đất sẽ có những
sinh vật, con giun, con dế ?, sẽ làm thoáng, làm đất có đời sống, có mầu mỡ
hơn ! Khi tưới Round Up diệt cỏ, diệt luôn cả giun cả dế, diệt luôn cả
sinh vật dưới lòng đất, diệt luôn cả đời sống ! Để người sống, người hủy
hoại đời sống sanh vật cùng sống với người. Có khác chi ngày nay, một nước
Mỹ trắng muốn sống còn, hủy hoại tất cả những Mỹ « Da Mầu » khác vậy ?
Thật là nghịch lý, viện cớ diệt cỏ dại, đành diệt hết màu mỡ, chất béo, bồi
bổ tự nhiên của đất. Sau đó, để bồi bổ đất, phải thêm phân bón
« hóa học » ! Thật hết ý ! Tất cả hủy hoại ấy, chỉ để
thu hoạch lúa mì nhiều hơn. Nhưng bột mì
ngày nay dư thừa. Ngày nay, sợ béo, diet, không ai ăn bánh mì nữa,
nên Âu Tây ăn không hết, vì không ai mua, giá bán trụt xuống … Tây Mỹ dư
thừa bột mì, Liên Âu phải bồi tiền giúp nghề nông để « cứu đói »… Bột mì thừa, cho xứ
nghèo, xứ nghèo không biết ăn bột mì ….Nghịch Lý xã hội kinh tế ! Nhưng
nên vi địa lý chánh trị thế giới ngày nay, ai ai cũng muốn làm bá chủ và sức mạnh
cả. Quên rằng những thiên tai thảm hoạ ngày nay là những bước đầu đi vào Tận
thế - Final Collap !
Lúc ông bố vợ tôi
còn sống, tôi thường cải nhau với Cụ, vì lúc nào, Cụ vợ nhà tôi, vì chướng mắt
với cái vườn đầy cỏ dại nhà tôi ; cũng đòi làm cỏ cho sạch. Tôi thường xin
Cụ hiểu rằng « Vì cá nhơn thằng tôi là một thằng tỵ nạn, tôi không nhổ cỏ
dại, vì tôi là một thằng cỏ dại » !
Vườn tôi rất đẹp
vì muôn màu muôn sắc, cỏ dại lẫn lộn với cỏ trồng, hoa trồng, cây trồng. Tôi chỉ
cắt những hoa tàn, cây chết thôi ! Một vườn hoa chỉ với một loại hoa, khác
chi là một chế độ độc đoán. Tôi không thích vườn Nhựt bổn, vì nó giả tạo, vì nó
« bị người kềm chế» - giả tạo vì nhơn tạo. Tôi không thích bonzai vì nó bị
áp bức. Con người Nhựt bổn rất quý, nhưng nó bị xã hội kềm chế áp bức, nhiều định
chế, luật lệ ! Cùng như những người đàn bà hồi giáo, hay Khổng giáo vậy !
Nói như vậy, quý vị
sẽ cho tôi là người tư do buông thả ! Không ! Với tôi, tư do
là một sự tự nguyện, vì đó là một thương thuyết, cái không gian tự do của tôi
ngừng lại trước không gian tự do bạn. Tôi không làm phiền bạn để bạn không
làm phiền tôi. Tôi quý trọng bạn vì tôi quý trọng tôi ! Tôi xếp hàng
chờ phiên tôi, vì tôi đến sau người trước, và tôi mong người đến sau tôi chờ
phiên tôi xong. Xếp hàng là một nếp sống văn minh. Và đo lường cái nếp sống văn
minh là do ban tổ chức, do cơ quan sắp sếp có khoa học, xếp hàng có đàng hoàng
vừa phải hay không ?
Chúng ta là con
người. Chúng ta có suy nghĩ. Suy nghĩ giúp chúng ta một nếp sống có suy nghĩ,
có suy nghĩ là có thương thuyết, đối thoại. Xã hội, là cách sống chung cùng với
nhiều người. Chỉ có hai cách : một,
tranh nhau – struggle for life – hai, thương thuyết, tổ chức...Thú vật
tranh nhau, con người tổ chức
- Tôi là một người học
Luật. Luật làm ra không phải để trị người, luật là những bản giao ước tạo thành
mẫu sống giữa người và người với nhau. Vì người biết suy nghĩ, người trọng luật,
vì tôn trọng luật là tôn trọng cái giao ước giữa người và người với nhau. Tất cả
những sách Thánh hiền, Tứ Thư, Ngũ Kinh của Á Đông, hay Bible, Cựu Ước Tân Ước,
Coran Tây Âu đều là những sách Luật đê tổ chức xã hội con người ?? Chung
sống – với ước vọng ít nhiều Hòa Bình. Vì Người không Tin tưởng Người nên mới
bày trò Thánh Hiền, Thiên Chúa, Mô Sen, Mahomet, ông Phật ...Khổng Tử,
Lão Tử để dẫn dắt Người
- Tôi đấu tranh
cho một xã hôi Tự Do ; một xã hôi tư do, là một xã hội có giao ước giữa
người và người với nhau. Tôi mơ một xã hội tử tế, với mọi thỏa thuận, mọi giao
ước đều biết tôn trọng…
Đáng lý Dân Việt
Nam ta, với bao nhiêu năm tháng chiến tranh, máu lửa, phải biết nhường nhịn, tử
tế, đùm bọc nhau… Thế nhưng … Tại sao ? Do chế độ Việt Cộng ? – struggle
for life – đấu tranh sanh tồn ? Hỏi là trả lời !
2 / Chiến Tranh Cục Bộ : Thảm họa Người
chống – vs - Người
Hằng ngày, tràn ngập
bởi các tin tức chiến tranh : Chiến tranh cục bộ Syrie-Irak chống Daech –
cục bộ giữa người A Rập với nhau ? Chưa hẳn, vì vẫn có lẫn lộn những anh
ăn có, ăn ké, làm sen đầm ? cũng có ; vì lợi nhuận -dầu hỏa ?
cũng có. Hôm nay, những tin cuối cùng cho biết Daech hoàn toàn thất thủ (chưa
chắc) nhưng thừa cơ hội, hai anh Irak và Thổ nhỉ Kỳ « xơi tái nhơn dân
Kurdes », một cộng đồng sắc tộc mà cả ba sắc tộc Thổ (Thổ nhỉ Kỳ), Syrie (Ả
Rập) và I rak (Á Rập) không chấp nhận, mặc dầu công trạng nhơn dân Kurdes rất lớn
trong trận đánh chống Daech. Dân Kurdes cũng là những chiến binh do Mỹ giúp
súng đạn, để chống Daech. Nhưng nay, vì kinh tế, vì tài chánh, vì vụ lợi, vì real
politic - chánh trị thực dụng ? Mỹ đang và sẽ bỏ rơi toàn dân Kurdes
và quốc gia Kurdistan, như đã bỏ rơi dân Nam Việt và quốc gia Việt Nam Cộng
Hòa !
Và Phi Chậu ?
Hiện nay Bắc Phi là cái nôi của những chiến tranh cục bộ : loạn ở Lybie,
loạn ở Éthiopie – đánh bom ngày qua tại Mogadisco chết cả trăm người…. Trung
Phi, Mali, Tchad, quân phiến loạn vẫn còn hoành hành. Các nước Trung Phi gọi là
tử tế, vẫn còn những vấn nạn : nghèo, mù chữ, và tham nhũng … giải quyết
hoài, cả chục năm nay !
Xin mở một dấu ngoặc,
kể một điển hình cái khó khăn của các nước tiến tiến giúp các quốc gia đang
lên. Năm 1963, một sanh viên gốc Việt năm thứ ba Viện Khoa học Chánh Trị-Institut
des Sciences Politiques, Toulouse, Pháp cùng một phái đoàn tình nguyện, qua một
xứ Phi Châu, tên bấy giờ là Haute Volta, thủ phủ Ougadougou, để trong ba tháng
hè xây một trường học, đào một cái giếng, chích thuốc ngừa, dạy cho con nít uống
sữa (công trình do hảng sữa Nestlé và Unesco đài thọ). Năm 2013, một sanh viên,
cũng gốc Việt, năm thứ ba Viện Quốc gia
Khoa học Áp Dụng – Institut National des Sciences Appliquées, Rennes, Pháp cũng
đi với một phái đoàn , qua một xứ Phi Châu, tên Burkina Faso, thủ phủ
Ougadougou, cũng để xây trường học, đào một cái giếng, chích thuốc ngừa ...50
năm cách khoảng, năm 1963 là thằng tôi 21 tuổi, năm 2013 thằng cu Út con của
tôi 20 tuổi ! Haute Volta đổi tên, đổi chế độ, nhưng dân vẫn nghèo, vẫn
thiếu trường học, vẫn ...sống nhờ Xin Cho, cấp cứu, tài trợ của bọn da trắng. Có
khác chi thời thuộc địa ? Cũng như Việt Nam ngày nay, đuổi Tây thuộc địa,
đánh Nhựt quân phiệt, đuổi Mỹ Tư bản… để tiếp tục vừa là thuộc địa Tàu, vừa tiếp
tục, ngưỡng tay, đi ăn xin, ăn mày Tây Mỹ Nhựt…
Vẫn nghe Trump chưởi
chú Ủn, và chú Ủn chưởi Trump ! Một Tổng thống một cường quốc, cả thế giới
trông cậy ngó vào… Như một thằng hề !! Rồi nạn súng, ở Mỹ, buồn buồn, hể hứng,
hể thích, thì bắn người, rồi tự tử. Ở Âu châu, cũng hứng, cũng thích thì xách xe ủi chết vài người,
vác dao chém vài mạng rôi để lính bắn chết, cũng một loại tự tử. Trước khi chết
la một câu « AllahAkbar » gọi là ! Như vậy cuộc đời đở thất bại.
Chết một cú anh hùng, được báo chí nói tên nói tuổi.
Tôi có lần lên
báo, đề nghị truyền thông không nói tên nói tuổi các tên sát nhơn nầy, và trục
xuất gia đình chúng hắn, tước quốc tịch-đồng trách nhiệm. Vì những sát nhơn
nầy đều là những thằng bất toại, bất mãn, bắt thành … cả ! Tội lỗi do gia
đình thiếu chăm sóc, giáo dục, không tròn bổn phận phụ huynh !! Còn tên vô
lại và sát nhơn, khủng bố, giết người vì vô dụng, sử dụng tài nghệ cú chót
« gọi là » để ra đi, chơi cú đẹp, « cú chót » để tiếng cho
đời ...
« Thà một
phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm canh » Xuân Diệu
3 / Quả đất trả
thù người :
Bão : năm
nay đặc biệt bão kinh khủng. Ở Mỹ là Hurricanes, ở Đông Á là Tài Phong –
Typhoons, chưa kề bão Ophélia đang hoành hành Ái Nhĩ Lan đầu tuần nay… và nạn đất
truồi, đất sụp ở Mễ Tây Cơ, ở Tầu, Việt Nam ta … Vì nạn nhơn mãn, cất nhà kiến
trúc lung tung che hết, mặt đất không còn cây, nước không có đất rút…Thiên tai
ngày nay kinh khủng hơn xưa, vì người đông đâu cũng ở, đâu cũng chiếm. Hỏa hoạn
Bắc Cali, hỏa hoạn Bồ đào Nha, Tây ba Nha là những bài học … Không tôn trọng
thiên nhiên, thiên nhiên trả thù.
Nhưng chưa bao giờ
hết, các quốc gia từ Âu Á đều đòi độc lập, nhơn danh Dân tộc Dân túy Quốc
Túy ! ...Độc lập ! Còn cái cần thiết là Liên Lập, nhưng không ai
thích ! Liên Lập là Đoàn Kết ! Ai cũng nói Đoàn Kết nhưng nói nhiều
nhưng không thực hiện.
Catalunya, rồi sẽ
Scotland, rồi Corse, ai cũng đòi Độc lập ! rồi… Tại sao không Nam Việt Nam
Tự do Độc Lập, khỏi Việt Nam Cộng sản
Tàu ,
Kết : Bài học
Collapsologie :
La Collapsologie, một khoa học mới
nầy dạy ta hãy từ chuyện thiên tai, thảm họa ngày nay, ráng tìm trong một bài học
viễn tượng nầy để tránh sự sụp đổ ngày mai. Collap – Sụp đổ – Effondrement … Nếu
một quốc gia, một hệ thống, còn người còn làm lại, nhưng nếu là một hệ thống thế
giới ? Nhưng nếu là cả thế giới ? Là Tận Thế thôi !
Với Kim Ủn, với
Trump, với Abé trang bị súng ống. Với tình Dân tộc, với dân tộc chủ
nghĩa ! Đế quốc Tàu, Đế quốc Nga, Đế quốc Thổ Ottoman, Vương Quốc A Rập,
…Những đòi hỏi độc lập tự chủ, nào hết Catalunya, sẽ đến Scottish, British,
Corse, …
Một Thế chìến thứ
ba là một rủi ro tốt đẹp nhứt ! Vì sau Thế chiến có cơ xóa bài làm lại,
thanh lọc, gạn lọc. Nếu không thì Final
Collap.
Hy vọng loài người
giữ sáng suốt. Mong lắm !
Chả nhẻ tất cả
loài người lên Hỏa Tinh ở hết sao ?!
Hồi Nhơn Sơn, một
tuần đầy bi quan, tiêu cực.
Phan Văn Song
Phan Văn Song
g
TRUƠNG CHÂU HỮU DANH * NHÀ GỖ XAC DÂN
TRUƠNG CHÂU HỮU DANH
NHÀ GỖ XAC DÂN
Chỉ trong vòng 40 năm, những cánh rừng bạt ngàn của Việt Nam gần như bị xoá sổ. Bao nhiêu năm chiến tranh, hứng chịu bom đạn, rừng vẫn bạt ngàn xanh "che bộ đội, vây quân thù". Sau chiến tranh thì rừng mất sạch.
Rừng đi đâu? Vào nhà đại gia.
Nhưng
đại gia mê gỗ, còn thua xa cán bộ. Trong một tháng, chúng tôi đã đi
khắp các cánh rừng Tây Nguyên, từ Đắk Nông đến Đắk Lắk, Gia Lai rồi Kon
Tum, Lâm Đồng, đâu đâu cũng thấy cảnh rừng bị tàn sát. Sau lệnh đóng cửa
rừng tự nhiên của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nạn phá rừng vẫn tràn
lan.
Gỗ ở K’Bang (Gia Lai) vẫn ào ạt chạy ra khỏi rừng
dù từ rừng ra ngoài chỉ có con đường độc đạo, có barie chắn ngang của
lực lượng kiểm lâm; Gỗ ở Ngọc Hồi, Sa Thầy (Kon Tum) cũng ồ ạt chạy ra
khỏi rừng cả ngày lẫn đêm - dù muốn qua chốt chặn phải “bay lên trời”
mới thoát.
Những người bị mang danh là "lâm tặc" than thở với
chúng tôi, sau lệnh cấm, gỗ vẫn bị đốn hạ, chỉ có tiền bôi trơn là tăng
lên, và thu nhập của lâm tặc giảm xuống. Những ngày đi rừng, nhóm phóng
viên không quen rừng thiêng nước độc, ai cũng trầy xước khắp người do té
ngã, do cây cào, do muỗi vắt đốt chi chít...
Có vào rừng mới
thấy, "lâm tặc" ở tầng mức thấp nhất có đời sống khốn khổ dưới đáy xã
hội. Trung bình, mỗi ngày họ kiếm được vài trăm ngàn đồng, nhưng chi phí
trong rừng đắt đỏ, lâm tặc nào cũng nghèo xơ xác. Họ là thành phần khốn
khổ khốn nạn, đổ mồ hôi và máu chỉ để kiếm cơm sống qua ngày.
Tại
một huyện nghèo khác của tỉnh Đắk Lắk, dân cư chủ yếu là người Ê Đê,
Gia Rai, các đời lãnh đạo huyện đều kiên quyết chống lại lâm tặc. Trong
nhiệm kỳ của mình, ông Chủ tịch huyện là người liên tục kêu gọi bảo vệ
rừng, chống lâm tặc vì đây là địa bàn diện tích rừng rất lớn. Ông liên
tục chỉ đạo lực lượng kiểm lâm, công an triệt phá lâm tặc.
Và rồi,
người dân ngã ngửa khi thấy trong nhiệm kỳ cuối cùng, ông bắt đầu cho
xây một dinh thự gỗ sát nách Hạt Kiểm lâm. Những cây cột tròn cực lớn,
toàn gỗ căm xe, cà chít được ồ ạt chở về. Những tấm ván nguyên khối gỗ
hương, gỗ cẩm cũng được tập kết. Những bộ bàn ghế lớn đến mức phải vài
chục người khiêng cũng được xe tải loại lớn đưa về nhà ông.
Trao đổi với chúng tôi, ông chủ tịch huyện có vẻ khá tự hào khi căn nhà
này được ông thuê thợ từ tận miền Trung vào chế tác, ròng rã suốt 3 năm
mới xong. Trong cái thị trấn bé nhỏ, nhà ông và những vị cán bộ khác,
được làm từ máu của rừng.
Tôi ở Long An, mỗi khi có khách về tôi thường hay dẫn họ đi tham quan di
tích lịch sử cấp quốc gia Nhà trăm cột - niềm tự hào về kiến trúc của
người dân Long An. Căn nhà này của một đại gia siêu giàu thời phong
kiến, khi mà gỗ rừng còn nhiều vô kể. Thế nhưng, khi tham quan căn nhà
của ông Chủ tịch huyện nghèo, tôi thấy Nhà trăm cột chỉ là “con muỗi” so
với dinh cơ này. Cho làm nhà bếp, có lẽ ông cựu chủ tịch cũng không
thèm chấp.
Trên khắp dãi đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng
những căn nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân. Những
căn nhà này, trớ trêu thay, lại là nhà của cán bộ. Sau lệnh đóng cửa
rừng, những món đồ gỗ, nhà gỗ này càng trở nên vô giá.
Một thực tế là, nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều.
Những căn nhà xa hoa này, được đánh đổi bằng mạng dân.
Quý vị ngủ có ngon không, khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ?
SON TRUNG * NHỮNG ĐỨA CON ĐẠI BẤT HIẾU III
NHỮNG ĐỨA CON ĐẠI BẤT HIẾU
III. PHẠM TUYÊN
Nhạc sĩ Phạm Tuyên sinh năm 1930 là con thứ chín của học giả Phạm Quỳnh,
người đã bị Việt Minh Cộng Sản giết và chôn trong một khu rừng thuộc
làng Hiền Sĩ, Thừa Thiên, năm 1945.
Cả gia đình họ Phạm chạy sang Pháp, không biết có ai vào Nam hay không, riêng Phạm Tuyên ở lại gọi giặc bằngcha.
Phạm Tuyên là người đã sáng tác hàng chục bài hát ca ngợi ông Hồ và
đảng Cộng Sản: Từ Làng Sen, Việt Bắc Nhớ Bác Hồ, Như Có Bác Hồ Trong
Ngày Vui Ðại Thắng, Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng, Suối Lê Nin,…
trong đó, bài hát “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng” được đông
đảo khán, thính giả thuộc lòng, vì bài hát ngắn, dễ thuộc, lại có điệp
khúc lặp đi lặp lại mấy tiếng Việt Nam-Hồ Chí Minh.
Có công làm thơ ca tụng “bác” và đảng như Tố Hữu còn leo đến chức phó
thủ tướng, còn Phạm Tuyên cũng có những bài nhạc “hết lời” nhưng danh
vọng chỉ tới chủ tịch Hội Âm Nhạc Hà Nội, làm ủy viên thường vụ Ban Chấp
Hành Hội Nhạc Sĩ Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1983, chứ không được là
ủy viên Bộ Chính Trị như Tố Hữu (1980). Ðiều đó chắc Phạm Tuyên cũng
biết vì gốc gác của ông là con “Việt gian” Phạm Quỳnh chứ không phải ba
đời bần cố nông.
Ta thấy Phạm Tuyên ca tụng cộng sản hết lòng chứ không phải vì theo thời
theo thế. Trong bản nhạc “Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng!” Phạm
Tuyên đã reo vui, ca ngợi: “Ðảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng! Ðảng ta
ơi, cám ơn người dạy dỗ.” Chỉ tiếc rằng, thân phụ ông đã chết oan
khuất dưới bàn tay của đảng, không biết gia đình này có ngày giỗ cha
hay không?
Bài hát của Phạm Tuyên được trẻ con Miền Nam chế rất hay vì hình ảnh và lời nhạc rất trào lộng:
-Như có bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán,
Lời bác nay làm chúng cháu kinh hoàng.
-Như có bác Hồ đang ngồi binh xập xám
Ngồi kế bên là ông Nguyễn Cao Kỳ,
Ông mang kiến đen là ông Trần Văn Hương
ông đang chia bài là ông Dương Văn Minh
Trời ơi… Hồ Chí Minh ăn gian ăn gian…
Trời ơi… Hồ Chí Minh ăn gian ăn gian…
Lê Mai Lĩnh có bài nhại:
-Như có bác Hồ trong thùng phi đậy nắp
Mở nắp ra nghe cái cốc trên đầu.
Ngoài ba ông bất hiếu trên, còn nhiều kẻ bất hiếu khác nữa. Ta có thể
nói những văn nghệ sĩ theo cộng sản đều là kẻ đại bất hiếu vì họ không
tuân lời cha mẹ dạy dỗ mà theo cộng sản.
VÕ KỲ ĐIỀN * SƠ LƯỢC VỀ MÔN BÓI TOÁN
VÕ KỲ ĐIỀN
SƠ LƯỢC VỀ MÔN BÓI TOÁN
SƠ LƯỢC VỀ MÔN BÓI TOÁN
Đài Tiếng Nói Việt Nam tại Toronto và Montreal, phát thanh từ ngày 5 đến 8 Decembre 2002
Do Giáo Sư Phùng Quang Tuấn và nhà văn Võ Kỳ Điền, phần 2
……….
Phùng Quang Tuấn:…. Bạn tốt nghiệp đại học, có cái học khoa học luận lý Tây Phương, tại sao bạn lại thích những chuyện huyền bí mơ hồ như vậy ?
Đáp : từ nhỏ tôi thường có những quan niệm ngược đời, thường suy nghĩ khác thường và không được hướng dẫn đúng đắn, chọn ngành, chọn nghề như các cháu bây giờ. Khi đậu Tú Tài xong, bạn bè ai nấy cố gắng chọn cho mình một nghề nghiệp vững chắc hầu có một tương lai ổn định, tươi sáng. Còn tôi thì không. Về trình độ học vấn thì tôi thuộc hạng học khá giỏi, tất cả các kỳ thi đều đậu hạng cao. Thời đó chưa có chế độ thi tuyển, muốn học ngành nào thì cứ nộp đơn vô học nhưng mà tôi lại nhẩn nha nhẩn nhơ, thi vô ban Việt Hán ở Sư Phạm và Văn Chương Trung Hoa bên Văn Khoa. Để chi vậy ? vì từ nhỏ hễ nghe ai nói tới chữ nho thì cho là khó lắm. Mà tôi cái gì khó thì ưa thử, cái tánh hiếu thắng lớn quá mà. Hơn nữa trong nhà có các bộ sách chữ nho, nhiều lắm, sách bói, sách thuốc của ông bà để lại, xưa lắm rồi, không biết họ viết cái gì ở trỏng, mỗi lần cầm lấy các quyển đó thì tức mình không chịu nổi…
Phùng Quang Tuấn :….. cứ như vậy mà anh đã học chữ nho.. để chơi, không thèm học nghề gì khác ? .
*Võ Tấn Phước : Cứ như vậy sau 6 tháng ở đại học, tôi đọc lỏm bỏm được Tam Quốc Chí nguyên bản ngon lành, té ra chữ nho cũng đâu có khó như mình nghĩ. So sánh lại thì thấy con nít Tàu cũng đâu có giỏi hơn con nít Việt Nam. Khó hay dễ là do mình tưởng mà thôi. Đọc hết tiểu thuyết rồi thì đọc tới sách bói, sách tử vi, phong thủy, tướng mạng,… cuốn nào có được thì đọc hết.
Tôi cũng đã biết bói từ khi chưa biết chữ nho. Thân phụ tôi là thầy thuốc đông y, ông cụ biết chữ nho rất giỏi, ngày xưa học thuốc với sư phụ người Huế. Vị thầy nầy vì làm chánh trị chống thực dân Pháp phải trốn lánh ở đảo Phú Quốc cư ngụ trong chùa Sùng Hưng Cổ Tự của gia đình tôi. Ba tôi biết ông là người tài nên xin theo học. Tôi chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn quẻ bói ba tôi đoán cho bạn bè và những người khách quen thuộc. Tỷ lệ trúng rất chính xác và khá cao. Tôi đâm ra say mê và học cách chấm và đoán quẻ bằng chữ Việt. Hồi đó bất cứ việc lớn việc nhỏ gì cũng gieo quẻ thử coi đúng không và đúng tới mức độ nào. Điều gì nên tin và điều gì không nên tin. Do cái tánh hay thắc mắc nên cứ tìm tòi, khám phá… rồi đâm ra lậm chuyện bói toán hồi nào không hay.
Hỏi : xin anh cho biết sơ qua về các khoa bói mà anh thích nghiên cứu và theo anh thì con người có tự do hay có số mạng, nên tin bói hay không tin bói.
Đáp : hỏi chi mà khó quá vậy, đó là câu hỏi nhức đầu nhân loại từ lâu rồi. Trả lời sao cũng trúng, mà sao cũng trật. Tuy vậy tôi có thể khẳng định là dù văn minh hay chậm tiến, con người ai cũng mê bói hết dù bây giờ là thế kỷ 21 rồi, vì đó là bản năng. Cũng có những người dứt khoát không tin nhưng đó là bề mặt, hoặc do giáo dục hoặc do tôn giáo cấm cản nhưng tự trong tiềm thức đều có niềm tin đó. Bản chất loài người là yếu đuối, từ thời tiền sử con người sống trong sợ hãi, hoang mang trước những hiện tượng của thiên nhiên, vũ trụ… Bốn nỗi khổ lớn nhân loại mà đức Phật có nêu là sanh, lão, bịnh, tử. Mà tử là nỗi lo sợ lớn nhứt. Chết do nhiều cách : sấm sét, thú dữ, tai nạn, bịnh hoạn, giặc giã, kẻ thù.. Làm sao để tránh cái chết và làm sao để biết trước được ? Dân tộc nào cũng vậy tìm đủ mọi cách để làm sao biết trước được lúc nào nắng, lúc nào mưa, lúc nào có giặc, lúc nào khoẻ mạnh, lúc nào ốm đau…
Bây giờ thì chúng ta có khoa học, có khoa thống kê, sưu tập các dữ kiện, làm các thí nghiệm nhiều lần rồi tiên đoán các kết quả sẽ xảy ra để giúp cho cuộc sống thoải mái, sung sướng hơn như trong y học, kỹ thuật, kinh tế, chánh trị, xã hội,… mà hướng dẫn các việc làm ngày càng hợp lý và chính xác.
Ngày xưa làm gì có khoa học, làm gì có khoa thống kê, máy móc chính xác như bây giờ… các bậc hiền triết, thánh nhân tức là những bậc trí thức cổ đại chỉ còn cách nghĩ ra bói toán để tiên đoán, hầu mong cho cuộc sống được an toàn hơn… Coi tướng, coi tử vi hoặc tử bình là áp dụng óc quan sát với khoa thống kê. Trung Hoa có một dân số đông đảo nhứt thế giới và một lịch sử lâu dài. Hàng ngàn năm quan sát tìm những dữ kiện rồi đúc kết lại những nét chính yếu rồi ghi nhận những kết quả xảy ra theo một thời gian lâu dài, do đó mà đoán trước được tốt xấu như thế nào.
Còn khoa bói Dịch thì căn cứ vào những khía cạnh siêu hình của quyển Kinh Dịch, bộ kinh làm nền tảng triết lý của Trung Hoa. Quyển Trung Dung của Khổng Tử có viết câu - chí thành thông thánh. Nghiã là hết sức thành tâm thì biết được mạng trời. Con người là một động vật linh thiêng nhứt trên trái đất nầy, cái phần tinh thần tinh anh cao quí do trời cho mình, nếu tập trung lại cao độ thì sẽ biết trước được chuyện xấu tốt. Bốn vị thánh lớn của Trung Hoa là Phục Hi, Văn Vương, Chu Công và Khổng Tử là những người đặt ra khoa bói Dịch, ông thầy bói chỉ là người thông dịch quẻ bói mà thôi. Dĩ nhiên có thông dịch hay và thông dịch dở.
*Vấn đề đặt ra là con người có tự do không? Tôi trả lời dứt khoát là có. Mình trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu. Chớ hổng lẽ trồng dưa mà lại được đậu.
*Nhưng mà cũng có định mạng xen vô nữa, đôi khi mình trồng dưa mà gặp gió bão, hạn hán, trâu bò hoặc sâu rầy phá phách… thì đám dưa mình trồng cực khổ đâu có được trái nào. Người xưa đặt ra bói toán là để tiên đoán coi đám dưa mình trồng đó có bán được trái nào không, nhiều hay ít, lời hay lỗ… đại khái là xu kiết, tỵ hung và biết trước được chút nào thì hay chút nấy, để đỡ lo. Cái bản năng muốn biết trước đó nó thôi thúc, đòi hỏi, lo lắng…
Tóm lại theo tôi thì con người sống trong đời như con cá lội trong dòng nước. Nó tung tăng bơi lội nhưng dòng sông trôi bên đông thì nó theo bên đông, dòng sông trôi bên tây thì nó theo bên tây, nó không tự chủ được đâu tuy rằng nó có cảm tưởng là có tự do. Con người sống trong dòng đời như con cá sống trong dòng nước. Mà muốn biết dòng nước trôi lăn như thế nào thì ngày xưa chỉ biết dùng khoa bói toán mà thôi.
Hỏi : khoa bói toán ngày xưa mà bạn nói đó, bây giờ có giá trị hay không.
Đáp : -tôi nghĩ là có. Tuy khó mà giải nghiã tại sao nó lại đúng nhưng tôi theo dõi, quan sát, kinh nghiệm thực tế những kết quả xảy ra… thì thấy tỷ lệ trúng rất cao, nhiều khi độ chính xác cao như có thần thánh trước mặt khiến mình sững sờ. Cũng có nhiều quẻ bói trật, coi lại thì thấy lỗi tại mình, do chủ quan cứ kiếm cái tốt mà đoán, không thấy những điểm xấu sờ sờ hiện ra trong quẻ. Cái lỗi đó là do trình độ mình còn kém, chớ không phải lỗi của thánh nhân, những vị đặt ra khoa nầy.
Người xưa đặt ra khoa bói toán là để xu kiết tỵ hung, tránh điều xấu, đạt điều tốt lành. Biết được chỗ khó khăn mà ẩn nhẫn chờ thời, biết được vận tốt thì hành động không do dự… thánh nhân gọi là thuận với mạng trời thì sống an vui, hạnh phúc. Nếu mình coi bói mà để đi tới chỗ sợ hãi, lo lắng, tuyệt vọng thì thê thảm và kinh hoàng quá. Ông thầy bói không được nói những lời khiến người ta đau khổ đi đến chỗ tuyệt vọng, cũng không được quyền khen ngợi vẽ vời ca tụng bậy bạ để người ta vui mà lấy tiền cho nhiều. Cả hai thái độ đều không đúng.
Hỏi : đó là anh nói tư cách đạo đức của ông thầy bói. Xin anh cho biết quan niệm của người đi coi bói nên như thế nào.
Đáp : người đi coi bói cũng nên biết tại sao mình đi coi bói, nghiã là mình đang làm cái chuyện gì vậy, có giống đi chợ mua thịt mua cá không. Không phải vậy vì bói toán là chuyện mơ hồ, không thể sờ mó và khẳng định chắc chắn được. Đòi hỏi bói toán phải đúng 100% là không tưởng. Cũng vậy đừng nên bao giờ coi ông thầy bói là tiên, là thánh nghe theo răm rắp. Tôi thấy có nhiều người nghe lời thầy nhiều khi đến độ mù quáng mà không chịu phán đoán suy xét.
Ông thầy cũng chỉ như mình thôi, có điều ông ta có nghiên cứu, có học hỏi về khoa nầy, biết hơn mình một chút xíu. Và cái hiểu biết đó cộng thêm kinh nghiệm của thời gian, trúng ở chỗ nào, trật ở chỗ nào. Tuy sách vở bói toán có ghi nhưng không phải là áp dụng được đúng hết, điều gì nên tin, điều gì không nên tin, phải suy xét cho kỹ.
Hỏi : nói như anh vậy thì không nên đi coi bói làm gì.
Đáp : tại sao không, nên chớ. Nếu khoa nầy không có giá trị gì hết thì nó đã mai một rồi, dù xã hội văn minh hay chậm tiến bói toán vẫn tồn tại hoài hoài mà. Đâu có ai ngu dại gì mà tốn tiền làm chuyện vô ích. Nếu nghiên cứu kỹ thì con người có lúc hên, có lúc xui, nghiã là thời vận tốt xấu. Với khoa bói toán chuyện đó có thể thấy được dễ dàng. Như nhà khí tượng tiên đoán trời nắng, trời mưa vậy. Thời vận tốt mình xấn tới hành động, không do dự. Thời vận xấu, mình ẩn nhẫn nhường nhịn cho qua … Như vậy sự thành công và thất bại mình có thể nắm chắc được. Nên đi coi bói cho biết để chọn lựa thái độ hành động đúng nhứt, hay nhứt..
Hỏi : nếu biết được chuyện xấu mình có cách gì hoá giải không.
Đáp : có. Không phải là cúng kiếng, cầu xin mà là suy nghĩ coi phải dè dặt tránh né thiệt hại như thế nào. Phải bình tĩnh đối phó để giảm bớt những bất lợi. Như sẽ bị tai nạn thì cẩn thận đừng lái xe ẩu tả, đừng đi chơi xa, đừng đi chỗ nguy hiểm. Như sắp bị mất tiền thì đừng hùn hạp, đừng ký tên bảo chứng nợ nần, đừng mua stocks ẩu tả…. Như vậy mình có thể tránh được cái vận xấu, nếu không được thì cái xấu cũng giảm bớt đi được phần nào, không bị thiệt hại nặng. Đại khái là dè dặt cẩn thận, nhưng tuyệt đối là tránh sợ hãi rồi đâm ra hoang mang. Chuyện xui chưa thấy mà mình đã bị bịnh thần kinh rồi… Lúc nào cũng phải nhớ lời Đức Phật dạy: tương lai là do ý niệm trong đầu “Ý niệm tác thành định mạng”. Nghĩ điều thiện, làm điều thiện thì đời sẽ tốt đẹp an vui.
Hỏi : anh vừa nói có thể tránh hoặc giảm bớt vận xấu do suy nghĩ và hành động của mình. Xin hỏi là khoa phong thuỷ có giúp gì cho việc tốt xấu không.
Đáp : Có chớ. Anh cư ngụ trong một căn nhà thoải mái, đẹp đẽ, ánh sáng, không khí đầy đủ, cửa nẻo, phòng ốc, vườn tược xinh xắn thì cảm thấy yêu đời, trong lòng anh ấm áp, vui vẻ, yêu đời. Mặt mày anh tươi tắn, mọi người xung quanh cũng vui vẻ theo anh. Ai cũng dễ thương hết sức. Do đó anh suy nghĩ hành động thuận lợi và đúng đắn. Kết quả mọi sự tốt đẹp.
Anh cư ngụ trong một căn nhà rộng quá hay chật quá, cửa nẻo, cầu thang, phòng ốc sắp xếp kỳ cục, tối tăm, trở ngại, u ám, lạnh lẽo, thê lương thì tâm trạng anh không yên ổn, sợ sệt, đồ đạc cồng kềnh, vướng víu, màu sắc dị kỳ… thì anh cảm thấy bực dọc, khó chịu rồi đâm ra cau có, khổ sở. Anh bực dọc sẽ gây ra bực dọc cho người liên hệ… từ đó hành động, suy nghĩ sẽ bất lợi, thất bại.
Những gì sách Phong Thủy Địa Lý viết, do kinh nghiệm tôi đều thấy có thể dùng được. Ba điểm chính yếu của khoa địa lý phải coi cho kỹ là : cửa chánh, phòng ngủ chánh và nhà bếp (môn, chủ, táo. Tôi dùng cuốn Dương Trạch Tam Yếu của Trương Cữu Phong).
-Tôi không tin mấy cái hình bát quái vẻ xanh xanh đỏ đỏ treo trước cửa nhà, nó không có năng lực phù phép gì cả, treo vừa khó coi, vừa tốn tiền mua vô ích.
*Nhưng mà anh Tuấn ơi, nếu sửa chữa mà tốt được như sách vở nói thì tôi làm Tổng Thống rồi, đâu có vất vả, thiếu thốn như bây giờ. Còn phải có phước đức nữa mới hưởng được những chỉ dạy tốt đẹp của tiền nhân. Sách phong thuỷ địa lý nào cuối cùng cũng viết câu : tiên tích đức hậu tầm long. Cứ ăn ở hiền lành, làm điều thiện tốt đẹp thì trời sẽ cho mọi niềm vui thành đạt, cần gì phải coi bói làm chi. Anh đồng ý với tôi như vậy không.
Nhân dịp nầy tôi cám ơn Đài Tiếng Nói VN tại Toronto cho tôi cơ hội đẹp đẽ nầy mà tâm tình cùng quí thính giả của Toronto. Tôi cám ơn quí thính giả đã dành nhiều cảm tình ủng hộ và thương yêu tôi từ những thập niên trước. Kính chào và hẹn có dịp gặp lại.
Phùng Quang Tuấn : Cám ơn anh Võ Kỳ Điền.
aturday, October 21, 2017
HUY PHƯƠNG * SỐ PHẬN CỦA NHỮNG KẺ PHẢN TỈNH
SỐ PHẬN CỦA NHỮNG KẺ PHẢN TỈNH
Tạp ghi Huy Phương
Trong hồi ký “Ðời” của Hồ Ngọc Nhuận, tác giả có nói đến gia thế, tổ tiên ông gốc dòng Hồ Ðắc ở Huế, lưu lạc vào tới ấp Tân Hội Tây, Tiền Giang đã bảy đời nay. Ông cho biết chuyện nhà, “cái sợ lớn nhất của cha” trong câu nói của ông cụ nói với ông:
“Ðời cha sợ nhất là mất con! Có ba cách mất: một là con theo gánh hát, hai là theo cộng sản, ba là theo Công Giáo!” (Chương I- trang 8 – xb 2010)
Ông Lê Hiếu Ðằng, đảng viên hơn 45 tuổi đảng, lên tiếng kêu gọi bỏ đảng và hô hào lập đảng đối lập với đảng CSVN. (Hình: Tài liệu trên báo Thể Thao-Văn Hóa)
Theo gánh hát thì chắc nếu có, cũng là chuyện đàn đúm thuở nhỏ; chơi với các thứ linh mục thân Cộng như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Trần Thế Luân… chưa phải là theo Công Giáo vì tiểu sử không nói ông đã rửa tội chưa; chỉ có chuyện rõ ràng Hồ Ngọc Nhuận đúng là đứa con đại bất hiếu là bất chấp lời cha mà đi theo cộng sản.
Trước năm 1975, Hồ Ngọc Nhuận là dân biểu “đối lập” thời VNCH, giám đốc chính trị báo Tin Sáng của Ngô Công Ðức, tòa soạn cũng là nơi lui tới của Việt Cộng. Hồ Ngọc Nhuận thú nhận: “Tôi chỉ thiếu đi vô khu như anh Nguyễn Ngọc Lan hay anh Châu Tâm Luân mà thôi. Hay chính xác hơn là vô hụt…” (trang17.) Sau 1975, Hồ Ngọc Nhuận là cộng sản thứ thiệt: Ủy viên Ủy Ban TƯMT Tổ Quốc Việt Nam, phó chủ tịch UBMT Tổ Quốc Việt Nam TP HCM.
Sau khi hy vọng “phá xiềng” để theo Lê Hiếu Ðằng, trong bài viết mới đây “Ðàng hoàng hơn!” ông Nhuận lên án cộng sản không tiếc lời, chỉ tiếc là quá muộn màng, sau một thời gian dài, tạm thời giả định là 38 năm, từ khi ông theo cộng sản.
-Ông cho rằng cộng sản không có luật pháp (…đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo ở đây tự vẽ ra Hiến Pháp, ngồi xổm trên luật pháp – những bản án đã được định sẵn.)
-Ông cũng nói cộng sản không có tự do báo chí: “Như về báo chí, miệng thì nói tự do báo chí, luật thì viết báo chí tự do, nhưng đốt đuốc cũng không tìm đâu ra một tờ báo tư nhân, mà toàn là báo của các ban ngành đoàn thể của Ðảng và Nhà nước, từ trung ương đến các địa phương.”
-Ông tố cộng sản cho lập hội theo Hiến Pháp, nhưng dù là Hội Ðá Banh, Hội Nuôi Chim, hay mỉa mai hơn là Hội Người Mù “cũng phải do một đảng viên Cộng sản đứng đầu làm hội trưởng.”
-Ông viết Quốc Hội chỉ là ổ đảng: có “thiên la địa võng” để chận bất cứ ai không là người của Ðảng, không do Ðảng cắt cử, để Ðảng tha hồ một mình một chợ ở Quốc Hội.
Ông cũng than phiền cái mặt trận mà ông cúc cung tận tụy từ bao nhiêu năm nay, không có thực quyền (!)
Theo luật bầu cử thì Mặt Trận Tổ Quốc của ông có quyền chọn người trước khi đưa ra cho cử tri bầu cử, nhưng nay ông Hồ Ngọc Nhuận, ủy viên Mặt Trận Trung Ương này lại tố cáo chính tổ chức của ông ‘100% thường trực lãnh đạo, từ cấp trên đến cấp dưới là đảng viên cộng sản. Kèm bên là một đảng đoàn mặt trận. Kèm trên là một Ban Dân Vận Mặt Trận. Rồi đảng ủy khối, đảng ủy cơ quan… cho tới đảng ủy thành, đảng ủy tỉnh, đảng ủy trung ương…” Mặt khác nhiệm vụ ghê gớm nhất của Mặt Trận là “giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước,” mà ông đã thú nhận “cũng không ai thấy tổ chức Mặt Trận giám sát được gì từ mấy chục năm nay.” Nghĩa là cái tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam chỉ là cái vật trang trí cho đảng, như con công, con phụng người ta vẽ trước cổng chùa, hoàn toàn không có thực quyền.
Nhưng không lẽ đến nay gần nửa đời người ông mới thấy ra! Ông thú nhận là từ năm 1975 ông đã là thành viên của MTTQ, vậy 38 năm nay, ông “nín thở qua sông,” “ngậm miệng ăn tiền” hay là giả mù, giả điếc!
Chuyện tự do báo chí, vào tháng 8, 1975, khi tờ Tin Sáng của ông và Ngô Công Ðức, và Ðứng Dậy của LM Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan được Trần Bạch Ðằng, trưởng Ban Tuyên Huấn Miền cho sống lại, thì cũng không ai trách các ông, những người không hiểu gì về cộng sản, ngỡ là mình có công trạng được CS tin dùng. Nhưng không lẽ, sau đó đến năm 1981, những tờ báo này bị đóng cửa với lý do đã “hoàn thành nhiệm vụ,” như ý Lê Ðức Thọ: “dù có công, tồn tại là sai lầm “hữu khuynh” nên dẹp bỏ!” các ông lại chưa chịu mở mắt hay sao? Công đó là công gì? – Công phá nát VNCH. “Nhiệm vụ” đã hoàn thành là nhiệm vụ gì? Phải chăng là nhiệm vụ lót đường hay nhiệm vụ của những tên hề trong gánh hát mua vui cho khán giả trong khi chờ màn chính khai diễn?
Cả cái tổ hợp sơn mài Lam Sơn của nhân viên Tin Sáng cũng bị bóp mũi.
Tuần trăng mật kéo dài như vậy cũng đã quá lâu rồi. Cái ngày mà “Trung Ương Ðảng và chính phủ dành chiêu đãi các đoàn đại biểu miền Nam” như Lê Hiếu Ðằng đã kể lại trên Tin Sáng: “…Những cái hôn thắm thiết, những bàn tay siết chặt tưởng chừng như không muốn rời ra, những tràng cười thoải mái, cởi mở… Tất cả tạo nên một bầu không khí thắm đượm tình nghĩa đồng bào, đồng chí. Ðúng như Bác Tôn đã nói:’Ðây là cuộc Bắc Nam sum họp một nhà cảm động và đông đủ nhất.’
“Nhưng một trong những điều đã để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc là hình ảnh các linh mục Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Huy Lịch ngồi bên đồng chí Lê Duẩn, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan, Xuân Thủy nói cười vui vẻ và cùng nhau nâng cốc mừng thắng lợi; hình ảnh của Giáo Sư Lý Chánh Trung, người trí thức ‘tìm về dân tộc,’ miệng vẫn ngậm tẩu, thú vị đứng nghe anh Xuân Thủy đọc thơ; hình ảnh của một Kim Cương mà phong cách vẫn rất là ‘Sài Gòn’ ngồi nghe Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp nói về vở kịch ‘Lá Sầu Riêng’ của mình; hình ảnh một Hồ-Ngọc-Nhuận-nhà-báo xông xáo chạy đi chạy lại để chụp những tấm hình ‘ăn ý’ nhất cho những số báo Tin Sáng tới…”
Vậy mà bây giờ, câu kết luận của Hồ Ngọc Nhuận là: “Ở đây, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, trên mọi lãnh vực, là ‘nói một đường làm một nẻo.’ Câu nói này hình như ông dân biểu phản chiến, thân Cộng cũng đã nghe quen quen hồi còn ngồi ở Brodard hay La Pagode Saigon rồi!
LM Nguyễn Ngọc Lan của tạp chí Ðối Diện (1970,) “đồng chí” với Hồ Ngọc Nhuận là cây bút với các bài viết thiên Cộng rõ rệt. Từ năm 1966, Nguyễn Ngọc Lan đã chọn đứng hẳn về phía MTGP, viết lách và hành động dưới sự chỉ đạo từ mật khu và sau Tết Mậu Thân 1968, đã bí mật ra “bưng” để ra mắt và nhận lệnh của Trần Bạch Ðằng. Chính Phạm Hùng, bí thư Trung Ương Cục Miền Nam đã chỉ thị cán bộ CS phải bảo vệ cho Nguyễn Ngọc Lan vì ông linh mục “thờ ma cộng sản” này thường“đi lại bằng một chiếc xe gắn máy cũ kỹ, rất dễ bị ám hại.” (Trần Bạch Ðằng. Tiễn biệt anh, anh Nguyễn Ngọc Lan. vietbao.vn).
Không ngờ nỗi lo của Phạm Hùng đã trở thành sự thật. 30 năm sau, ngày 4 tháng 5, 1998, Cựu Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan (1) và LM Chân Tín đã bị “kẻ lạ” đạp vào xe Honda, trên đường đi đám tang một người phản tỉnh khác vừa từ trần là Nguyễn Văn Trấn (Bảy Trấn,) nhưng lần này không phải do công an VNCH mà do “ngưu đầu mã diện” của chế độ mới. Theo tờ Tin Nhà số 34, tháng 7, 1998, Pháp, trang 20, thì “Giáo Sư Nguyễn Ngọc Lan bị bất tỉnh ngay tại chỗ, mất nhiều máu, đưa vào bệnh viện khâu năm mũi ở đầu và bị nứt xương vai. Chụp scanner thấy trong đầu có máu bầm… Chân Tín bị xây xát.”
Một khi đã phản tỉnh và lên tiếng phê phán chống lại đảng cộng sản, LM Chân Tín và GS Nguyễn Ngọc Lan phải chấp nhận đòn thù. Vì ba tập nhật ký, ngày 5 tháng 8, 1990, công an tới khám xét nhà của Nguyễn Ngọc Lan và tuyên lệnh quản thúc ông 3 năm tại gia vì “vi phạm luật pháp, xâm phạm đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.” Vì ba “Bài Giảng Sám Hối,” LM Chân Tín bị trục xuất khỏi thành phố, biệt xứ tại Cần Thạnh, một họ đạo nhỏ ở huyện Duyên Hải. Ðặc biệt nghiêm trọng là việc GS Nguyễn Ngọc Lan và LM Chân Tín bị mưu sát ngay trên đường phố Sài Gòn như đã thuật ở trên. (Về Nhân Vật Nguyễn Ngọc Lan – Bạch Diện Thư Sinh)
Sau khi Lê Hiếu Ðằng đòi lập đảng “đối lập” và Hồ Ngọc Nhuận liên tiếp trong ba bài viết, lên tiếng ủng hộ chuyện này cũng như đã không tiếc lời lên án đảng cộng sản, nhiều nguồn dư luận cho rằng hai nhân vật này hiện đang là “cò mồi,” được chỉ thị của đảng cầm quyền, “lập đảng để cứu đảng.” Nhưng nếu đây chỉ là thái độ của kẻ đi lầm đường biết dừng chân lại, nhìn lại vũng bùn, máu mình đã lội qua, và nếu đảng còn mang não trạng lo sợ có những “tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” thì số phận những kẻ phản tỉnh phải được xử lý như những chuyện đã xẩy ra trong bất cứ một chế độ cộng sản độc tài nào, từ Liên Xô, Trung Cộng, Bắc Hàn cho đến Việt Nam.
Một lúc nào đó, ông Hồ Ngọc Nhuận phải nhớ lại “lời cha dặn” là một trong ba cách mất con là con đi theo cộng sản. Ông là đứa con bất hiếu, đã phản bội đồng bào, phản bội tổ quốc, nhưng nếu là một người biết phản tỉnh, xin ông “bảo trọng,” và nhớ khi ra đường đừng dùng xe gắn máy, và cũng đừng đi xe ôm để vô tình có thể làm oan mạng người tử tế!
(1) Ðã cởi áo dòng và lập gia đình năm 1976.
LAP CHUC * VĂN HIẾN VÀ VĂN HÓA
Từ văn hiến đến văn hóa
Lạp Chúc Nguyễn Huy
Khi nghiên cứu văn hóa Việt Nam, chúng ta cần có một ý niệm rõ ràng về một số từ như :
- văn hiến, văn vật là cụm từ của phương Đông,
- văn hóa, văn minh mang khái niệm của phương Tây mới được Pháp du nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ 19.
Văn hiến 文獻.
Văn hiến là khái niệm của phương Đông.
Văn: Vẻ đẹp, lời
văn, có học vấn, lễ phép (Theo Thiều Chửu : cái dấu vết do đạo đức lễ
nhạc giáo hóa mà có vẻ đẹp đẽ rõ rệt gọi là văn).
Hiến: người có hiền tài, nhân vật tốt, tài đức, nước có phong tục, phép tắc, văn chương… còn để lại cho người sau biết được chuyện cũ.
Văn hiến nghĩa thường dùng là: truyền thống phong tục, phép tắc tốt đẹp lâu đời.
Thí dụ thời Hùng Vương có Lạc Vương, Lạc hầu, lạc tướng cai trị dân, có
phong tục ăn trầu nhuộm răng, xâm mình , vì vậy mà chúng ta thường tự
hào có 4000 năm văn hiến và Việt Nam xưng là văn hiến chi bang từ đời Lý. Văn hiến Thăng Long bắt đầu từ chiếu dời đô Thăng Long năm 1010.
Đời Lê TKXV, Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Đại Cáo coi Đại Việt là văn hiến chi bang:
Như nước Đại Việt ta,
Thật là một nước văn hiến.
(Duy ngã Đại Việt chi quốc
thực vi văn hiến chi bang.)
Văn
hiến thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam không chỉ ở « núi sông bờ cõi
đã chia » mà còn ở « Phong tục Bắc Nam cũng khác ». Những người hiền
hào kiệt như Nguyễn Trãi đã tạo nên văn hiến của nước Việt.
Năm
1463 Quang Thuận thứ 4, về bia tiến sĩ văn miếu do tiến sĩ Đào Cử soạn,
có ghi « Học trò may được khắc tên trên bia đá này, phải theo danh
nghĩa sửa đức hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến »
Khi muốn chứng minh Việt Nam là nước văn hiến, Lê Qui Đôn viết :« bất dị Trung Quốc » « vô tốn Trung Quốc » (không khác không thua Trung Quốc)
Hỏi về tiêu chuẩn của một nước Việt văn hiến, Hồ Qui Ly trả lời :
Y quan Đường chế độ,
Lễ nhạc Hán quân thần.
(lễ nhạc như tiền Hán, y quan giống Thịnh Đường)
Thế kỷ XIXtrong Lịch Triều
Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú viết :« Khi nhà Lê dựng nước… văn
hiến đứng đầu trung châu điển chương rạng cả triều đại » ((Văn Tịch Chí,
bản dịch, quyển 4, tr.41)
Đến thời nhà Nguyễn, trong điện Thái Hòa còn ghi :
Văn hiến thiên niên quốc (nước ngàn năm văn hiến)
Xa thù vạn lý đồ (thống nhất muôn dặm xa)
Văn vật
Văn là đẹp
Vật : nhân vật, nhân tài tạo ra văn hiến
Văn vật : nơi có nhiều người tài giỏi có học và là nơi có nhiều nhân tài, di tích lịch sử, văn học, kiến trúc.
Thăng
Long là đất ngàn năm văn vật tức là nơi tập họp nhân tài, có nhiều công
trình kiến trúc, văn hóa tạo nên một nếp sống thanh cao như xã giao, ăn
mặc, ẩm thực…(Theo tự điển hán việt của Đào Duy Anh, văn vật là những sản vật của văn hóa như lễ nhạc, chế độ)..
Một ngàn năm văn vật của Thăng Long kể từ khi :
- Thăng Long- Hà Nội từ cố đô Cổ Loa thời Âu Lạc, trị sở Tống Bình thành Đại La thời tiền Thăng Long,
- Định đô Thăng Long của vua Lý Thái Tổ rồi Thăng Long-Đông Đô-Đông Kinh-Kẻ Chợ từ thời Lý đến Lê trung hưng,
-Hà Nội thời Nguyễn.
Văn hóa文化
Danh từ văn hóa
mới được du nhập từ Âu Châu sang và có cả trăm định nghĩa. Tùy theo mục
đích khảo cứu, mỗi tác giả có thể chọn một định nghĩa để định hướng cho
việc nghiên cứu của mình.
Văn: Vẻ đẹp, lời văn, có học vấn, lễ phép. Hóa: thay đổi, giáo hóa. Văn hóa có nghĩa đen là: làm thay đổi cho tốt đẹp hơn.
Văn hóa là mối quan
hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại để đi đến một món ăn
tinh thần hoặc hướng dẫn đến Đạo trong văn hóa tín ngưỡng. Bản sắc văn
hóa là mối quan hệ đặc thù của một dân tộc, môt tôn giáo.
Văn hóa là sản phẩm tinh thần được tạo ra bởi hai nguồn chính :
1. con người
2. trong văn hóa tín ngưỡng Thượng Đế tạo ra qua trung gian hoặc đích thân (Cao Đài)
Trước đây ở phương
Đông, cụm từ văn hóa mang một ý niệm khác với phương Tây. Trong Chu
Dịch, quẻ Bí đã có từ văn hóa : xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo
hóa con người ( Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Thời Tây Hán,
Lưu Hướng (77-6 tr,CN) xử dụng từ văn hóa như một phương thức giáo hóa
con người : Văn trị giáo hóa đối lập với vũ lực.
Ở
phương Tây, dùng danh từ culture, kultur (Đức) nghĩa trồng trọt để chỉ
văn hóa. Khái niệm văn hóa thay đổi qua nhiều thế kỷ, với nhiều tác giả
vì văn hóa là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống tinh thần.
Theo quan niệm UNESCO có 2 loại di sản văn hóa
- di sản văn hóa hữu thể (tangible) nhìn thấy được (kiến trúc cung thành Huế, đình chùa, lăng tẩm…) .
- Di sản văn hóa vô hình hay vô thể (intangible)
biểu hiện tượng trưng không nhìn, sờ thấy được như âm nhạc, thi văn,
triết lý, múa hát truyền thống, văn chương, phong tục tập quán…
Các tác giả cộng
sản thường phân chia văn hóa thành hai lãnh vực : văn hóa vật chất (lẫn
với văn minh sáng tác công nghệ, khoa học) và văn hóa tinh thần phi vật
thể.
Trong những sách nghiên cứu của tôi thì tôi hiểu văn hóa theo ý niệm sau đây :
Văn hóa hữu thể.
Thí dụ, chúng ta thấy 3 cái chén trên bàn thờ Thiên trước nhà là biểu
tượng của văn minh vật chất. Ba cái chén đó trở thành vật thể tín ngưỡng
được coi như đối tượng của nghiên cứu văn hóa vật thể khi chủ nhà rót
nước hay rượu vào 3 cái chén để biểu tượng cho Tam Tài (Thiên, Địa,
Nhân), khi cúng xong thì một chén nước hất lên mái nhà (Thiên), một chén
đổ xuống đất (Địa), một chén uống vào bụng (Nhân).
Văn hóa vô thể
tức đời sống tinh thần phi vật chất của con người. Với ý niệm này mà
quan niệm văn hóa của chúng tôi được hiểu theo quan niệm rộng của khoa
học xã hội : Quan niệm về văn hóa phi vật chất bao gồm các tác phẩm
văn chương, nghệ thuật, kiến trúc, triết lý, tôn giáo, phong cách, phong
tục, tập quán… Văn hóa là đời sống tinh thần phi vật chất của mỗi
người, của mỗi dân tộc. Văn hóa ở ngay trong đời sống cá nhân, trong gia
đình, trong cộng đồng…
Sau
một ngày đi « cày » mệt nhọc để thỏa mãn nhu cầu vật chất của đời sống
văn minh, về nhà thư dãn nằm trên chiếc ghế dài mà ngâm nga:
Nằm đây
Xứ lạ
Quê người
Nhìn ra một thuở
Đất trời chửa quen
…
Buồn trơ trụi mấy hàng cây
Về đâu chiếc lá của ngày thu xưa. (Thơ Hoàng Xuân Sơn)
Lúc ngâm nga câu thơ là lúc đời sống văn hóa tinh thần phi vật chất của bạn.
Vào
ngày giỗ, Tết chúng ta hội họp gia đình trước bàn thờ tổ tiên để cúng
bái, tập tục này biểu hiện đời sống văn hóa trong phạm vi gia đình.
Đến trung
tâm của cộng đồng tham dự lễ giỗ tổ Hùng Vương là các anh chị đang tham
dự vào đời sống văn hóa cộng đồng của người Việt.
Văn minh文明 (Civilisation).
Văn: Vẻ đẹp, lời văn, có học vấn, lễ phép. Minh: sáng.
Khái niệm văn minh (civitas) cũng
đến từ phương Tây nặng ý nghĩa trình độ phát triển vật chất, kỹ thuật,
khoa học, chữ viết nhất là ở đô thị kỹ nghệ, thương mại
Văn minh là trình độ phát triển cao, sáng đẹp của một nền văn hóa về vật chất và tinh thần của một dân tộc. Khi
văn minh thành thị càng bành trướng phát triển thì văn hóa cổ truyền
của nông thôn càng lu mờ nhường chỗ cho những luồng văn hóa mới phát
sinh từ văn minh thành thị. Nhìn kiến trúc giữa nông thôn và thành thị
không còn khác biệt như ở Bắc Mỹ, thì lúc đó văn hóa tức là văn minh.
Văn hóa phát sanh từ văn minh chứ không từ tín ngưỡng như xưa.
Lạp Chúc Nguyễn Huy
SƠN TRUNG * HỒ CHÍ MINH CHẾT NHƯ THẾ NÀO?
HỒ CHÍ MINH CHẾT NHƯ THẾ NÀO?
SƠN TRUNG
Trong số báo trước, chúng tôi đã nêu lên những tài liệu nói về phút chót của Hồ Chí Minh. Những tài liệu đó đều dối gạt và nói khác nhau.Việc Hồ Chí Minh chết là một việc bí mật trong đảng Cộng sản mà chưa một nhân vật nào thân cận của Hồ Chí Minh tiết lộ. Nếu Hồ Chí Minh chết một cách bình thường thì đã không có những huyền thoại về cái chết của họ Hồ.
Chúng tôi nghĩ rang cái chết của Hồ Chí Minh không bình thường và cũng không đẹp đẽ cho nên Cộng sản ra sưc bưng bít và đưa ra những câu chuyện khác nhau do những tuyên truyền dối trá chuyên nghiệp tạo ra.
Cái chết của Hồ Chí Minh là một bí ẩn của Cộng sản nên không ai biết. Chúng tôi cứ theo tài liệu Cộng sản mà phăn ra.
Theo các tài liệu của Cộng đảng và phe dân chủ, cuối đời Hồ Chí Minh mất quyền lực. Hồ Chí Minh bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ truất phế, chỉ cho ngồi vì. Nguyễn Văn Trấn thuật lời Bùi Công Trừng về chuyện lão Hồ Chí minh. Tao nghe thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và lấy Nguyễn Chí Thanh thay. Ông lão chỉ còn làm người chuyên nghiên cứu lý luận Mác- Lê-nin. Chuyện nước giao Nguyễn Chí Thanh. Việc đảng, statu quo- Lê Duẫn. (3) Cái thằng tự nhiên muốn làm Khổng Tử này, khó lật nó lắm. Vì nó có công trạng ở Nam Bộ, và mấy bà má ôm nó chum chủm trong lòng.......
Hội nghị Trung ương 14 khoá 3 họp vào tháng 6 năm 1967 đã quyết định mở
cuộc tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 . Theo Vũ Kỳ,
trước hội nghị về trận mậu thân, tướng Giáp coi như nghỉ dài hạn. Hồ Chí
Minh cũng ở Bắc Kinh. Suốt 6 tháng trời nỗ lực ráo riết, việc chuẩn bị
về cơ bản đã hoàn thành – cần có một cuộc họp Bộ chính trị để rà soát
lại toàn bộ mọi công tác và hạ quyết tâm chiến lược , cho toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân. Lúc này Bác Hồ đang
nghỉ ở Bắc Kinh. Sáng ngày 21—12 – 1967, Văn Phòng trung ương điện sang
mời Bác trờ về dự hội nghị sẽ khai mạc vào sáng 28- 12 – 1967
Thế là Duẩn Thọ thực hiện bước thứ ba là giết ông Hồ. Bấy giờ tối thứ bảy, ngày 23 tháng 12, máy bay đưa Bác đến vùng trời Hà Nội. Lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch 15 độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác.
“Người nông dân ấy đã bốc mộ cho hàng ba trăm thương binh
Xác anh em và xác con mình
Anh xếp trên giường nhà anh như họ còn nằm ngủ
Vợ, dâu anh thì sợ
Nhưng anh vẫn làm nhiệm vụ
Việc ấy không để lại hào quang trên tay
Ánh sáng gì trong mắt
Hay huân chương trên tường
Có khi bản thân anh cũng muốn quên giữa cuộc đời chật vật
Còn ta à! Thì bận vì dạ hội, liên hoan
Tình ca, hội thảo...
Bao nhiêu điều láo nháo chúng ta quên
Quên rằng giờ chiến thắng mười năm
Anh ta vẫn khổ
Con vào trường không có chỗ
Đến bệnh viện không tiền
Ra đường không ai nhớ
Về làng người ta quên”
1985
Ai? Tôi!
Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười
1987
Theo thống kê của Bộ Tổng tham
mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cho đến cuối tháng 3-1968, tổng
số tử vong trên toàn lãnh thổ VNCH của các bên lâm chiến trong cuộc tổng
tấn công Tết Mậu Thân (1968) của cộng sản (CS) là:
Số 14,300 thường dân tử nạn là những người đã được khai báo, kiểm kê, trong khi đó còn rất nhiều người mất tích, chết không được khai báo, kiểm kê, nhất là những người ở thôn quê, trong những vùng do cả hai bên (VNCH và CS) kiểm soát.
Theo Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ, sự thiệt hại trong khu vực kỹ nghệ lên tới 4,541,800,000 đồng đối với 84 cơ xưởng. Riêng ngành dệt, thiệt hại 2,985,400,000 đồng. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 129.)
Do trong tháng 1 năm 1968 ngày dương lịch sát ngày âm lịch: ngày 29 (tháng 1) dương lịch là ngày 30 (tháng chạp) âm lịch và có sự lệch nhau một ngày của Tết hai miền nên có sự hiểu không thống nhất trong các cấp chỉ huy chiến trường của quân Giải phóng về thời điểm tiến công (ngày N): là ngày theo âm lịch hay theo dương lịch, là theo lịch cũ hay mới. Sự thiếu nhất quán này đã làm cuộc tiến công ở các địa bàn Quân khu 5 Quân Giải phóng đã nổ ra sớm hơn một ngày so với các địa phương khác trên toàn miền Nam. Tính bất ngờ của cuộc tấn công Tết Mậu Thân do vậy đã bị giảm đi, nhưng về cơ bản vẫn được bảo đảm.
Cuộc Nam xâm của Mỹ thì dân chúng và tướng tá Việt Nam đều biết nhưng họ làm theo kế "giả đui dòm l..."! Như trước cuộc tổng tấn công Mậu thân, dân Huế biết Việt Cộng thu mua ny lon , lương thực, và thuốc men. Một số sĩ quan VNCH cho biết Mỹ có tia lazer có thể nhìn thấy xuyên màn đêm. Mỹ và VNCH biết rõ đường đi nước bước của Việt Cộng chứ không phải là mù tịt. Họ như những thợ săn lành nghề, im lặng chờ đợi con mồi tiến đến và sập bẫy.
Âm mưu giết Hồ Chí Minh không thành, Duẩn Thọ lại bày ra kế hoạch khác. Sau khi thất bại trong âm mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ , liên minh Duẩn- Thọ đã bày mưu tính kế giết Hồ bằng cách cho bác sĩ tiêm thuốc độc vào người Hồ năm 1969 bằng một kịch bản giết người khéo leó và đã qua mặt mọi người trong 40 năm qua. Cho tới ngày các bác sĩ Việt Nam ở Hà Nội lên tiếng tố cáo bằng bài viết mới đây “ Một nghiên cứu khoa học về Hồ chí Minh “ gửi đi khắp nơi. thì âm mưu mới bị phơi bày
Theo tài liệu Trần Viết Đai Hưng,trường hợp của Hồ chí Minh thì khi Bộ chính trị, nói cụ thể là Lê Duẩn, muốn giết Hồ chí Minh bằng con đường đầu độc thông qua các bác sĩ trị liệu thì gán cho Hồ chí Minh chết vì bệnh ” nhồi máu cơ tim”. Kịch bản giết Hồ chí Minh dù khéo léo đến đâu rồi cũng có ngày phơi bày ra ánh sáng vì những sự vô lý , sơ hở,hớ hênh trong diễn tiến sự việc mà Bộ chính trị vô tình để lộ qua sự trình bày của báo chí và phim ảnh .
Việt Cộng xảo trá. Ông Hồ chết vào một ngày khác nhưng Việt Cộng loan tin chết vào một ngày long trọng của họ. Ngày sinh và ngày mất của ông Hồ toàn là ngày lễ của Việt Cộng!Chẳng phải là tình cờ đâu! Đảng lãnh đạo cả đấy!
SƠN TRUNG
Trong số báo trước, chúng tôi đã nêu lên những tài liệu nói về phút chót của Hồ Chí Minh. Những tài liệu đó đều dối gạt và nói khác nhau.Việc Hồ Chí Minh chết là một việc bí mật trong đảng Cộng sản mà chưa một nhân vật nào thân cận của Hồ Chí Minh tiết lộ. Nếu Hồ Chí Minh chết một cách bình thường thì đã không có những huyền thoại về cái chết của họ Hồ.
Chúng tôi nghĩ rang cái chết của Hồ Chí Minh không bình thường và cũng không đẹp đẽ cho nên Cộng sản ra sưc bưng bít và đưa ra những câu chuyện khác nhau do những tuyên truyền dối trá chuyên nghiệp tạo ra.
Cái chết của Hồ Chí Minh là một bí ẩn của Cộng sản nên không ai biết. Chúng tôi cứ theo tài liệu Cộng sản mà phăn ra.
Theo các tài liệu của Cộng đảng và phe dân chủ, cuối đời Hồ Chí Minh mất quyền lực. Hồ Chí Minh bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ truất phế, chỉ cho ngồi vì. Nguyễn Văn Trấn thuật lời Bùi Công Trừng về chuyện lão Hồ Chí minh. Tao nghe thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và lấy Nguyễn Chí Thanh thay. Ông lão chỉ còn làm người chuyên nghiên cứu lý luận Mác- Lê-nin. Chuyện nước giao Nguyễn Chí Thanh. Việc đảng, statu quo- Lê Duẫn. (3) Cái thằng tự nhiên muốn làm Khổng Tử này, khó lật nó lắm. Vì nó có công trạng ở Nam Bộ, và mấy bà má ôm nó chum chủm trong lòng.......
Nhờ thân với Bùi
Công Trừng, Ưng Văn Khiêm và Xuân Thủy mà Nguyễn Văn Trấn biết được rằng
lúc đó đảng là chính Lê Đức Thọ. Thọ đã khống chế được cả ông Hồ, để
đưa ra đường lối ngả hẳn về Bắc Kinh. Ai đi chệch bị ghép tội “xét lại”.
Ông thuật lời Bùi Công Trừng: "Tao
nói cho mày nghe nha, ...Tao nghe thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và
lấy Nguyễn Chí Thanh thay. Ông lão chỉ còn làm người chuyên nghiên cứu
lý luận Mác- Lê-nin. Chuyện nước giao Nguyễn Chí Thanh. Việc đảng, statu
quo- Lê Duẫn. Cái thằng tự nhiên muốn làm Khổng Tử này, khó lật nó
lắm. Vì nó có công trạng ở Nam Bộ, và mấy bà má ôm nó chum chủm trong
lòng.
(Viết Cho Mẹ và Quốc Hội, 328)
Trần Đĩnh viết: "Hồi ký Vũ Kỳ đăng số Tết báo Văn nghệ nói rõ máy bay chở Bác về dự hội nghị Bộ chính trị thông qua kế hoạch đánh Tết Mậu Thân suýt thì đâm xuống đất. Sau vụ đặt sai đèn hiệu này, Vụ bảo vệ các anh không động đậy gì ư? Sao vậy?
Trần Đĩnh viết: "Hồi ký Vũ Kỳ đăng số Tết báo Văn nghệ nói rõ máy bay chở Bác về dự hội nghị Bộ chính trị thông qua kế hoạch đánh Tết Mậu Thân suýt thì đâm xuống đất. Sau vụ đặt sai đèn hiệu này, Vụ bảo vệ các anh không động đậy gì ư? Sao vậy?
Đến đây tôi suýt buột miệng nói tiếp:
“Anh có thấy rõ là dương mưu, mưu công khai không? Ghê rợn! Ghê rợn cho
những bộ mặt vẫn phẳng lặng của các cốp nhưng tôi kìm lại được”.
Cũng hồi ký Vũ Kỳ nói dự hội nghị Bộ chính
trị trên kia, Bác chỉ ngồi ở một góc và rồi trong suốt cuộc Tổng tiến
công, Tổng nổi dậy Bác và Vũ Kỳ ở Bắc Kinh tự lọ mọ mở đài tìm tin tức
chứ chả ai báo với Bác “thắng lợi có ắt về ta” hay không? Tôi còn muốn
hỏi Nguyễn Trung Thành nhiều nhiều. Chẳng tháng 7-1966 Bác kêu gọi cả
nước đánh Mỹ giọng còn khỏe lắm mà sao sang 1967 Bác đã phải đi chữa
bệnh ở Bắc Kinh? Cái gì làm sức khỏe Bác sút nhanh thế? Xin chú ý là
năm 1967, Bác về nước hai lần gần nhau, lần thứ hai về đầu tháng 7 là
cái tháng bắt xét lại đợt thứ nhất và tháng 9 là buộc Võ Nguyên Giáp đi
chữa bệnh ở Đông Âu. Phải chăng về là muốn ngăn
bắt bớ cũng như lưu đày Giáp nhưng lại được lệnh phải rời nước sớm? Tôi
đã không hỏi. Chắc là Trung Thành sẽ im. Vả lại lúc ấy các điều tôi
biết vẫn chưa thành hệ thống.(ĐC, Ch.41)
Lê Duẩn, Lê Đưc Thị cấu kết với nhau để hạ bệ Hồ Chí Minh. Bước thứ hai
là loại bỏ Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp..Được Trung Cộng giúp vũ khí và
quân đội, Lê Duẩn tiến hành xâm lược miền Nam để giúp Trung Cộng tiến
về phương Nam mở rộng đế quốc Trung Cộng xâm lược.Lê Duẩn đã đẩy ông Hồ
và Võ Nguyên Giáp ra khỏi Việt Nam để ôngthực hiện mộng giài phóng miền
Nam, để chứng tỏ ông công lao và tài trí hơn Hồ Chí Minh và Võ Nguyên
Giáp.
Trong bài “ Huyền thoại Hồ chí Minh “ Lữ Phương đã đưa ra những nhận
định chính xác về chuyện Hồ chí Minh bị bọn đàn em cho ra rìa trong
trận Mậu Thân như sau :
“ ..Không biết có khi nào suy ngẫm lại những cái đã qua, ông cảm thấy những bất ổn trong những
vở kịch do mình tạo ra hay không, nhưng từ bên ngoài, nhiêù người đã
thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái âm
binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện
ông bị cho ra rià suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là
đáng chú ý nhất. Sau cải cách ruộng đất năm 1956 ở miền Bắc, do nhập từ
Trung Quốc, quá thất đức và sai lầm, ông đưa Võ nguyên Giáp , uy tín
như cồn sau Điện Biên Phủ, ra thay mặt Đảng xin lỗi nhân dân, sau đó
định sẽ lên thế chỗ Trường Chinh làm Tổng bí thư. Lúc bấy giờ ở Liên
xô, Krushchev đang thắng thế với đường lối hoà bình, trong Đảng Việt Nam
cũng có xu hướng ấy. Nhưng tình hình Việt Nam lại không thuận lợi để
phát triển. Do cưòng độ cuộc chiến tranh ở miền Nam đã lên cao, đường
lối quyết liệt dùng bạo lực để giải quyết chiến tranh thắng thế đã đưa
cánh Lê Duẩn – Lê đức Thọ lên nắm quyền.
Về Võ nguyên Giáp thì kết quả ai cũng nhìn thấy : bị quy là kẻ cầm
đầu chủ nghĩa xét lại và bị trù dập suốt một thời gian dài, đến khi Lê
Duẩn chết mới thôi. Còn về Hồ chí Minh thì dường như chẳng có gì, nhưng
thật sự cũng đã chịu chung số phận với tướng Giáp. Bên ngoài thì vẫn đi
đây đi đó, chỉ đạo việc này việc kia.. nhưng bên trong đã dần dà bị cô
lập, chỉ giữ vai trò của một ngọn cờ tượng trưng , không có ảnh hưởng
gì lắm tới những quyết định lớn.
Thế là Duẩn Thọ thực hiện bước thứ ba là giết ông Hồ. Bấy giờ tối thứ bảy, ngày 23 tháng 12, máy bay đưa Bác đến vùng trời Hà Nội. Lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch 15 độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác.
Buổi làm việc kéo dài đến tận khuya. Bác nói vui, “ Sắp bước vào năm
đánh lớn, phải giữ sức để đánh được liên tục”. Trước khi đi ngủ Bác gọi
dây nói sang Văn phòng Quân uỷ , hỏi sức khoẻ của đồng chí Võ nguyên
Giáp – lúc này nghỉ ở H ung- ga – ri và nhắc gửi thiếp và quà cho vợ
chồng chú Văn
Đoạn văn của Vũ Ký cho ta thấy rõ tâm tư hoang mang cực độ của Hồ Chí Minh.
Năm mới 1968, sáng mồng 1 tháng 1, Bác đi thăm một số nơi bị máy bay Mỹ bắn phá tại Hà Nội
Vũ Kỳ cho biết trong cuộc họp với Bộ Chính trị , Hồ chí Minh giữ vai trò chủ trì nhưng cũng lại viết thêm rằng tất cả đều do Tổng bí thư Lê Duẩn “ báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận “. Trong buổi họp kéo dài căng thẳng ấy, Hồ chí Minh tỏ vẻ trầm ngâm, không biết có nói gì không mà khi trở về thì tâm trạng lại lảng vảng một điều gì đó khiến ông “ chưa thật an tâm “ đến nỗi phải trằn trọc mãi như Vũ Kỳ viết, “ Đèn trên buồng ngủ Bác đêm nay tắt chậm hơn mọi tối.” . Những sự kiện kể lại mơ hồ nhưng dường như chưá đựng một cái gì đó có vẻ nặng nề không thể nói ra. Có thể đó là một dấu hiệu, cùng với nhiều dấu hiệu khác, cho biết trong nội bộ Đảng đã có sự không nhất trí về chủ trương Mậu Thân biểu hiện giữa Hồ chí Minh / Võ nguyên Giáp với phe các ông Lê Duẩn / Lê đức Thọ ?
Sơn Tùng, vốn là một chuyên gia nghiên cứu về Hồ chí Minh, được mệnh danh là "Nhà Hồ chí Minh học" đến nói chuyện với khóa 40 của lớp "Ðào tạo cán bộ quản lý ngành giáo dục". Ông Sơn Tùng còn tiết lộ thêm nhiều chuyện động trời như vào trận Mậu Thân 1968, Lê Duẩn và Lê đức Thọ đẩy Võ nguyên Giáp sang Hungary "chữa bệnh" và tống Hồ chí Minh sang Trung Cộng cho rảnh mắt. Lúc Hồ chí Minh về nước bằng máy bay, Duẩn và Thọ cho cán bộ phi trường đổi đèn hiệu sân bay để cố tình gây ra tai nạn cho chiếc phi cơ chở Hồ chí Minh, có nghĩa là mượn tai nạn để giết Hồ chí Minh. Có lẽ số mạng còn lớn nên Hồ chí Minh không chết trong cuộc bố trí do Duẩn và Thọ bày ra và tiếp tục sống đến năm 1969.
Bài nói chuyện của Sơn Tùng được ghi thành văn bản và được phổ biến rộng rãi trên Internet làm nhiều người ngạc nhiên. Dĩ nhiên Sơn Tùng nói những âm mưu của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời.
Nhà văn Sơn Tùng kể lại chuyện Duẩn và Thọ mưu sát Hồ chí Minh như sau:
Vào trận Mậu Thân 1968, Lê Duẩn và Lê đức Thọ đẩy Võ nguyên Giáp sang Hungary "chữa bệnh" và tống Hồ chí Minh sang Trung Cộng cho rảnh mắt. Lúc Hồ chí Minh về nước bằng máy bay, Duẩn và Thọ cho cán bộ phi trường đổi đèn hiệu sân bay để cố tình gây ra tai nạn cho chiếc phi cơ chở Hồ chí Minh, có nghĩa là mượn tai nạn để giết Hồ chí Minh. Có lẽ số mạng còn lớn nên Hồ chí Minh không chết trong cuộc bố trí do Duẩn và Thọ bày ra và tiếp tục sống đến năm 1969.
Nhà văn Sơn Tùng kể lại chuyện Duẩn và Thọ mưu sát Hồ chí Minh như sau:
"...Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo, ta không để ý vì ông ấy viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền Phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là: Năm 1967, Bộ Chính Trị mời Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung quốc về để thông qua việc Tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy. Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ra ngay. Ông Giáp cũng chủ trương như vậy nhưng ở thế thiểu số nên ông đi chữa bệnh ở Hungary. Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về.
Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ từ Trung quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này..đến giờ này..trên bầu trời nước ta từ hướng này..phương vị này..tuyệt đối không nổ súng. Thời đó đang chiến tranh, vào giờ đó là xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh (Bác ngồi phía sau hút thuốc):
_ Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây?
_ Quan sát lại đi! Ông Vũ Kỳ nói.
_ Em là người lái mà lái máy bay cho Bác thì em nhìn sao được! Người lái nói
Máy bay lượn hai vòng không dám xuống vì theo ông nếu hạ cánh thì máy bay sẽ chạy đến Phố Nổi, thì tan xương chứ.
_ Bây giờ làm thế nào? Quay trở lại không được, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không nó bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn..
_ Phải xuống theo trí nhớ thôi, cậu có xuống được không? Ông Kỳ nói
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái), chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại, nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, trên báo "tín hiệu chệch" dưới vẫn cứ để thế, không sửa.
Vòng một vòng và máy bay hạ cánh chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi ung dung hút thuốc. Ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh
_ An toàn rồi anh ơi!
Mừng quá, nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ ra đón, một lúc thì thấy ông Ðồng, chỉ có thế thôi, không còn ai đón Bác cả.
Phải nhận thấy ông Vũ Kỳ (nguyên là người luôn ở bên cạnh Hồ chí Minh) rất khéo léo khi trình bày vấn đề máy bay gặp vấn đề đáp vì đèn hiệu dưới sân bay chệch hướng. Mới đọc thì người ta tưởng đây là một sự trục trặc thường tình về chuyện kỹ thuật đáp của máy bay. Vì vậy bài báo kể chuyện này mới được ba tờ báo đăng. Nhưng nếu đọc và suy luận kỹ thì ta thấy ông Kỳ đã khéo léo tố cáo âm mưu giết Hồ chí Minh của Lê Duẩn và Lê đức Thọ bằng cách ra lệnh cho đèn hiệu dưới sân bay trệch hướng để phi công không đáp được theo kỹ thuật phi hành. Dấu hiệu rõ rệt nhất cho chuyện mưu sát là khi người phi công thấy đèn chệch hướng không đáp được (có lẽ đáp vào ban đêm), ông ta tìm cách liên lạc với bên dưới bằng vô tuyến nhưng bên dưới không trả lời! Vũ Kỳ sau khi kể chuyện này trên báo thì bị bộ chính trị kêu lên "hỏi thăm sức khỏe" ngay. Có lẽ vì quá uất ức vì chuyện mưu sát Hồ, mà nếu hôm ấy máy bay bị tai nạn thì Vũ Kỳ cũng đã tan xác theo với Hồ vì Vũ Kỳ có mặt trên chuyến máy bay ấy!
Số Hồ chí Minh chưa chết nên viên phi công đã đáp máy bay chở ông và Vũ Kỳ theo trí nhớ và đã bình an chứ không gây ra tai nạn. Trước đây cựu chiến binh Trần dũng Tiến cũng đã viết bài lên tiếng về vấn đề này (có lẽ sau khi đọc và suy luận về bài viết của Vũ Kỳ). Dĩ nhiên Trần dũng Tiến cũng chỉ mạnh dạn lên tiếng âm mưu hãm hại Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời.
Người ta nói Duẩn, Thọ ghen tức về cái hào quang Ðiện biên Phủ mà Võ nguyên Giáp và Hồ chí Minh có được trước mặt nhân dân và thế giới nên cố làm một chuyện vĩ đại tương tự là xâm chiếm cho được miền Nam. Trở lại chuyện Tổng công kích tết Mậu Thân 1968 thì thấy uy lực của Duẩn Thọ đã quá rõ ràng. Mặc dù cả Võ nguyên Giáp và Hồ chí Minh phản đối chuyện tổng công kích vì thấy khó thành công nhưng phe Duẩn, Thọ vẫn cứ tiến hành chuyện đánh Mậu Thân. Giáp lúc ấy là Bộ trưởng quốc phòng thì bị đẩy qua Hungary "chữa bệnh", Hồ chí Minh thì bị tống qua Trung Cộng sau khi đọc một bài thơ xuân cổ động cho việc tấn công.
Ðó là mấy câu thơ: "Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua. Thắng trận tin vui khắp nước nhà. Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta". Một trận đánh lớn như trận tết Mậu Thân mà Bộ trưởng quốc phòng Võ nguyên Giáp bị đẩy đi xa, chủ tịch nước kiêm chủ tịch Ðảng Hồ chí Minh cũng bị tống ra khỏi nước thì đủ thấy phe Duẩn, Thọ đã hoàn toàn nắm quyền sinh sát trong Ðảng.
Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về. Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ từ Trung quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này..đến giờ này..trên bầu trời nước ta từ hướng này..phương vị này..tuyệt đối không nổ súng. Thời đó đang chiến tranh, vào giờ đó là xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh (Bác ngồi phía sau hút thuốc):
_ Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây?
_ Quan sát lại đi! Ông Vũ Kỳ nói.
_ Em là người lái mà lái máy bay cho Bác thì em nhìn sao được! Người lái nói
Máy bay lượn hai vòng không dám xuống vì theo ông nếu hạ cánh thì máy bay sẽ chạy đến Phố Nổi, thì tan xương chứ.
_ Bây giờ làm thế nào? Quay trở lại không được, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không nó bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn..
_ Phải xuống theo trí nhớ thôi, cậu có xuống được không? Ông Kỳ nói
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái), chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại, nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, trên báo "tín hiệu chệch" dưới vẫn cứ để thế, không sửa.
Vòng một vòng và máy bay hạ cánh chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi ung dung hút thuốc. Ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh
_ An toàn rồi anh ơi!
Mừng quá, nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ ra đón, một lúc thì thấy ông Ðồng, chỉ có thế thôi, không còn ai đón Bác cả.
Phải nhận thấy ông Vũ Kỳ (nguyên là người luôn ở bên cạnh Hồ chí Minh) rất khéo léo khi trình bày vấn đề máy bay gặp vấn đề đáp vì đèn hiệu dưới sân bay chệch hướng. Mới đọc thì người ta tưởng đây là một sự trục trặc thường tình về chuyện kỹ thuật đáp của máy bay. Vì vậy bài báo kể chuyện này mới được ba tờ báo đăng. Nhưng nếu đọc và suy luận kỹ thì ta thấy ông Kỳ đã khéo léo tố cáo âm mưu giết Hồ chí Minh của Lê Duẩn và Lê đức Thọ bằng cách ra lệnh cho đèn hiệu dưới sân bay trệch hướng để phi công không đáp được theo kỹ thuật phi hành. Dấu hiệu rõ rệt nhất cho chuyện mưu sát là khi người phi công thấy đèn chệch hướng không đáp được (có lẽ đáp vào ban đêm), ông ta tìm cách liên lạc với bên dưới bằng vô tuyến nhưng bên dưới không trả lời! Vũ Kỳ sau khi kể chuyện này trên báo thì bị bộ chính trị kêu lên "hỏi thăm sức khỏe" ngay. Có lẽ vì quá uất ức vì chuyện mưu sát Hồ, mà nếu hôm ấy máy bay bị tai nạn thì Vũ Kỳ cũng đã tan xác theo với Hồ vì Vũ Kỳ có mặt trên chuyến máy bay ấy!
Số Hồ chí Minh chưa chết nên viên phi công đã đáp máy bay chở ông và Vũ Kỳ theo trí nhớ và đã bình an chứ không gây ra tai nạn. Trước đây cựu chiến binh Trần dũng Tiến cũng đã viết bài lên tiếng về vấn đề này (có lẽ sau khi đọc và suy luận về bài viết của Vũ Kỳ). Dĩ nhiên Trần dũng Tiến cũng chỉ mạnh dạn lên tiếng âm mưu hãm hại Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời. Mới đây Trần dũng Tiến cũng mới bị bắt vào tù, nối gót theo nhà tranh đấu Phạm quế Dương và Nguyễn đan Quế cũng vừa bị bắt vì bị tố cáo là chuyển e-mail này nọ. Cộng sản nghĩ là khi ruồng bố những người đấu tranh như thế thì chế độ chúng sẽ an toàn hơn, nhưng những chuyện chúng làm chỉ càng ngày càng làm cho giọt nước tràn ly và báo trước những xáo động lớn trong những ngày sắp tới.
Về sự kiện này, Trần Đĩnh viết:"Lê Trọng Nghĩa cũng kể rằng Cụ Hồ vừa được triệu gấp ở Bắc Kinh về để họp hội nghị này, nghe Anh Ba cả quyết Anh Hai Sài Gòn ủng hộ cách mạng dữ như vậy, ông Cụ đã hỏi thêm về Anh Hai thì bị Tố Hữu ngắt lời luôn, Bác chữa bệnh xa nước lâu ngày, tình hình phát triển, nhiều cái Bác không biết rồi, ý là thôi đi, Bác hỏi làm gì. Nghĩa kể lại chi tiết này còn lè lưỡi: ông nhà thơ quên béng mất, “Người là Cha, là Bác, là Anh… Người ngồi đó với cây chì đỏ, Chỉ đường đi từng bước từng giờ…”
Ở đây có chuyện chiếc máy bay đêm đưa Cụ ở Nam Ninh về đến sân bay Bạch Mai thì phát hiện đèn hiệu đặt lệch 15 độ, hồi ký Vũ Kỳ mà chắc ông có đọc, đã kể tường tận lại vụ ông Cụ chỉ còn cách cái chết có một sợi tóc. Thế là lần ấy ông Cụ có ba đại sự: một sự cố mấp mé cái chết, một câu hỏi bị gạt, một góc bàn để dự họp và đến khi Tổng tiến công - Tổng nổi dậy thì một cái buồng vắng lặng ở Bắc Kinh để Vũ Kỳ và ông Cụ tự dò các đài phát thanh, cũng theo hôi ký Vũ Kỳ. Về lý do đánh Tết Mậu Thân, theo ông, tôi hỏi Vũ Lăng, thì là vì duy ý chí chủ quan khinh địch hay trong sâu kín còn có ý gì khác? (Vũ Lãng nhíu lông mày).
Tôi thì ngờ rằng ở sau mong muốn cố giành thắng lợi quan trọng trong Tết Mậu Thân, Duẩn còn có tính toán không thể thổ lộ là đưa nhanh đất nước thoát khỏi cái thể hiểm nghèo: Đại hậu phương đang Cách mạng văn hoá loạn như nội chiến mà chẳng biết rồi sẽ còn tan hoang đến đâu. Đánh một trận nổi đình đám để nếu thắng dứt thì còn gì bằng, còn không cũng có thể sẽ làm cho Mỹ nản chí mà xuống xề đàm phán, như vậy Duẩn sẽ không mang tiếng “bỏ cuộc”. Ai ngờ chiến lược bị đánh sập rồi mà Mỹ lại “lên xề” xốc tới. Bảy năm gian nan nữa. Mà ở đây chí cần biết làm tính cộng trừ thôi là thấy ngay sai đúng.(Đèn Cù.51)
Năm 1968, tồng tấn cộng mậu thân. Đó là một thất bại lớn. Chế Lan Viên đã than:
Một người bình thườngNăm mới 1968, sáng mồng 1 tháng 1, Bác đi thăm một số nơi bị máy bay Mỹ bắn phá tại Hà Nội
2 giờ 30 phút chiều, Bộ Chính trị đến
làm việc, Bác căn dặn công việc trước khi Bác lên đường tiếp tục đi nghỉ
ở Trung quốc . Đó là quyết định cuả Bộ Chính trị và Hội đồng bác sĩ.
Thế trận đã dàn xong. Ba quân đã sẳn sàng. Lời hịch đã phát . Bác Hồ ra đi chuyến này an tâm.
Ngoài liên lạc hàng ngày, các đồng chí
lãnh đạo Đảng và nhà nước vẫn thay nhau đến Bắc Kinh trực tiếp báo cáo
và xin ý kiến Bác. Bốn giờ chiều 20- 1 – 1968, đồng chí Lê đức Thọ sang
làm việc với Bác đến 6 giờ tối . Sáng ngày 25 tháng 1 năm 1968, đồng
chí Võ nguyên Giáp đến trực tiếp báo cáo với Bác từ 8 giờ đến 9 giờ 15
phút. Tối 26 tháng 1 năm 1968, đã gần Tết Mậu Thân, từ 7 đến 8 giờ, hai
bác cháu ngồi im lặng trong phòng vặn nhỏ Đài tiếng nói Việt Nam.
Phải đến gần hết sáng mồng một Tết Mậu Thân,
mới có tin chiến thắng báo cáo Bác Hồ “ Đánh khắp miền Nam”. Ánh mắt Bác
rực sáng niềm vui.
Ngày 3 tháng 2 năm 1968, mồng bốn tết,
cũng là ngày thành lập Đảng. Mới 6 giờ Bác bảo tôi chuẩn bị giấy bút ,
làm việc sớm hơn mọi ngày. Bác ngồi nhìn ra cưả sổ và đọc :
– Đã lâu không làm bài thơ nào, phẩy, xuống dòng
Tôi ngừng bút hỏi:
_ Thưa Bác, thơ à ?
– Chú cứ viết tiếp : Nay lại thử làm thơ xem sao? phẩy, xuống dòng
Tôi nghĩ đúng là thơ rồi. Nhưng sao như câu nói chuyện bình thường.
Bác đọc tiếp : Lục khắp giấy tờ vẫn chẳng thấy, phẩy xuống dòng
Tôi phân vân quá vẫn chẳng thấy thơ đâu.
Bác nhìn tôi bảo :
_ Chú viết tiếp.
Rồi Bác đứng dậy đọc to câu cuối cùng, giọng sảng khoái, ánh mắt vui:
_ Bỗng nghe vần “ thắng “ vút lên cao !
Vũ Kỳ
( Nguồn : Văn Nghệ số Tết Mậu Dần 1998, trang 4 )
Bác làm thơ, đọc thơ cho Vũ Kỳ chép mà sao không thấy thơ chỉ nghe lời Hồ Chí Minh bảo xuống giòng?
Vũ Kỳ cho biết trong cuộc họp với Bộ Chính trị , Hồ chí Minh giữ vai trò chủ trì nhưng cũng lại viết thêm rằng tất cả đều do Tổng bí thư Lê Duẩn “ báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận “. Trong buổi họp kéo dài căng thẳng ấy, Hồ chí Minh tỏ vẻ trầm ngâm, không biết có nói gì không mà khi trở về thì tâm trạng lại lảng vảng một điều gì đó khiến ông “ chưa thật an tâm “ đến nỗi phải trằn trọc mãi như Vũ Kỳ viết, “ Đèn trên buồng ngủ Bác đêm nay tắt chậm hơn mọi tối.” . Những sự kiện kể lại mơ hồ nhưng dường như chưá đựng một cái gì đó có vẻ nặng nề không thể nói ra. Có thể đó là một dấu hiệu, cùng với nhiều dấu hiệu khác, cho biết trong nội bộ Đảng đã có sự không nhất trí về chủ trương Mậu Thân biểu hiện giữa Hồ chí Minh / Võ nguyên Giáp với phe các ông Lê Duẩn / Lê đức Thọ ?
Qua sự mô tả của Vũ Kỳ, những ngày đi “ nghỉ “ ở Bắc Kinh , bệnh tình
của Hồ chí Minh không có vẻ gì trầm trọng lắm. Và cũng không biết bệnh
gì đã khiến vị chủ tịch phải đi nghỉ dài hạn như vậy. Từ Bắc Kinh về Hà
Nội làm một số thủ tục trình diễn trong một tuần rồi lại vội và rời Hà
Nội đi Bắc Kinh nữa. Cũng không có vẻ gì bệnh hoạn cả cho nên cũng không
thể không nghĩ rằng đó là một ép buộc phải đi như Vũ Kỳ viết, “ 2 giờ
30 phút chiều, Bộ Chính trị đến làm việc. Bác căn dặn công việc trước
khi Bác lên đường tiếp tục đi nghỉ û ở Trung Quốc. Đó là quyết định của
Bộ Chính trị và Hội Đồng Bác sĩ “. Mấy chữ “ quyết định của Bộ Chính
trị ở đây như muốn nhấn mạnh một điều gì không bình thường khi Vũ Kỳ
viết thêm sau đó, “ Chỉ có mùa xuân này Bác phải xa Tổ quốc “ . với tâm
trạng nhớ nhà da diết , khiến người đọc có cảm giác thấy chủ tịch không
thật sự “ an tâm công tác “ cho lắm, sự “ an tâm “ mà ông thường dặn dò
cán bộ như một phẩm chất cuả “ tính đảng ‘ cao.
Sơn Tùng, vốn là một chuyên gia nghiên cứu về Hồ chí Minh, được mệnh danh là "Nhà Hồ chí Minh học" đến nói chuyện với khóa 40 của lớp "Ðào tạo cán bộ quản lý ngành giáo dục". Ông Sơn Tùng còn tiết lộ thêm nhiều chuyện động trời như vào trận Mậu Thân 1968, Lê Duẩn và Lê đức Thọ đẩy Võ nguyên Giáp sang Hungary "chữa bệnh" và tống Hồ chí Minh sang Trung Cộng cho rảnh mắt. Lúc Hồ chí Minh về nước bằng máy bay, Duẩn và Thọ cho cán bộ phi trường đổi đèn hiệu sân bay để cố tình gây ra tai nạn cho chiếc phi cơ chở Hồ chí Minh, có nghĩa là mượn tai nạn để giết Hồ chí Minh. Có lẽ số mạng còn lớn nên Hồ chí Minh không chết trong cuộc bố trí do Duẩn và Thọ bày ra và tiếp tục sống đến năm 1969.
Bài nói chuyện của Sơn Tùng được ghi thành văn bản và được phổ biến rộng rãi trên Internet làm nhiều người ngạc nhiên. Dĩ nhiên Sơn Tùng nói những âm mưu của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời.
Nhà văn Sơn Tùng kể lại chuyện Duẩn và Thọ mưu sát Hồ chí Minh như sau:
Vào trận Mậu Thân 1968, Lê Duẩn và Lê đức Thọ đẩy Võ nguyên Giáp sang Hungary "chữa bệnh" và tống Hồ chí Minh sang Trung Cộng cho rảnh mắt. Lúc Hồ chí Minh về nước bằng máy bay, Duẩn và Thọ cho cán bộ phi trường đổi đèn hiệu sân bay để cố tình gây ra tai nạn cho chiếc phi cơ chở Hồ chí Minh, có nghĩa là mượn tai nạn để giết Hồ chí Minh. Có lẽ số mạng còn lớn nên Hồ chí Minh không chết trong cuộc bố trí do Duẩn và Thọ bày ra và tiếp tục sống đến năm 1969.
Nhà văn Sơn Tùng kể lại chuyện Duẩn và Thọ mưu sát Hồ chí Minh như sau:
"...Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo, ta không để ý vì ông ấy viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền Phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là: Năm 1967, Bộ Chính Trị mời Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung quốc về để thông qua việc Tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy. Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ra ngay. Ông Giáp cũng chủ trương như vậy nhưng ở thế thiểu số nên ông đi chữa bệnh ở Hungary. Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về.
Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ từ Trung quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này..đến giờ này..trên bầu trời nước ta từ hướng này..phương vị này..tuyệt đối không nổ súng. Thời đó đang chiến tranh, vào giờ đó là xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh (Bác ngồi phía sau hút thuốc):
_ Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây?
_ Quan sát lại đi! Ông Vũ Kỳ nói.
_ Em là người lái mà lái máy bay cho Bác thì em nhìn sao được! Người lái nói
Máy bay lượn hai vòng không dám xuống vì theo ông nếu hạ cánh thì máy bay sẽ chạy đến Phố Nổi, thì tan xương chứ.
_ Bây giờ làm thế nào? Quay trở lại không được, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không nó bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn..
_ Phải xuống theo trí nhớ thôi, cậu có xuống được không? Ông Kỳ nói
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái), chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại, nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, trên báo "tín hiệu chệch" dưới vẫn cứ để thế, không sửa.
Vòng một vòng và máy bay hạ cánh chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi ung dung hút thuốc. Ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh
_ An toàn rồi anh ơi!
Mừng quá, nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ ra đón, một lúc thì thấy ông Ðồng, chỉ có thế thôi, không còn ai đón Bác cả.
Phải nhận thấy ông Vũ Kỳ (nguyên là người luôn ở bên cạnh Hồ chí Minh) rất khéo léo khi trình bày vấn đề máy bay gặp vấn đề đáp vì đèn hiệu dưới sân bay chệch hướng. Mới đọc thì người ta tưởng đây là một sự trục trặc thường tình về chuyện kỹ thuật đáp của máy bay. Vì vậy bài báo kể chuyện này mới được ba tờ báo đăng. Nhưng nếu đọc và suy luận kỹ thì ta thấy ông Kỳ đã khéo léo tố cáo âm mưu giết Hồ chí Minh của Lê Duẩn và Lê đức Thọ bằng cách ra lệnh cho đèn hiệu dưới sân bay trệch hướng để phi công không đáp được theo kỹ thuật phi hành. Dấu hiệu rõ rệt nhất cho chuyện mưu sát là khi người phi công thấy đèn chệch hướng không đáp được (có lẽ đáp vào ban đêm), ông ta tìm cách liên lạc với bên dưới bằng vô tuyến nhưng bên dưới không trả lời! Vũ Kỳ sau khi kể chuyện này trên báo thì bị bộ chính trị kêu lên "hỏi thăm sức khỏe" ngay. Có lẽ vì quá uất ức vì chuyện mưu sát Hồ, mà nếu hôm ấy máy bay bị tai nạn thì Vũ Kỳ cũng đã tan xác theo với Hồ vì Vũ Kỳ có mặt trên chuyến máy bay ấy!
Số Hồ chí Minh chưa chết nên viên phi công đã đáp máy bay chở ông và Vũ Kỳ theo trí nhớ và đã bình an chứ không gây ra tai nạn. Trước đây cựu chiến binh Trần dũng Tiến cũng đã viết bài lên tiếng về vấn đề này (có lẽ sau khi đọc và suy luận về bài viết của Vũ Kỳ). Dĩ nhiên Trần dũng Tiến cũng chỉ mạnh dạn lên tiếng âm mưu hãm hại Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời.
Người ta nói Duẩn, Thọ ghen tức về cái hào quang Ðiện biên Phủ mà Võ nguyên Giáp và Hồ chí Minh có được trước mặt nhân dân và thế giới nên cố làm một chuyện vĩ đại tương tự là xâm chiếm cho được miền Nam. Trở lại chuyện Tổng công kích tết Mậu Thân 1968 thì thấy uy lực của Duẩn Thọ đã quá rõ ràng. Mặc dù cả Võ nguyên Giáp và Hồ chí Minh phản đối chuyện tổng công kích vì thấy khó thành công nhưng phe Duẩn, Thọ vẫn cứ tiến hành chuyện đánh Mậu Thân. Giáp lúc ấy là Bộ trưởng quốc phòng thì bị đẩy qua Hungary "chữa bệnh", Hồ chí Minh thì bị tống qua Trung Cộng sau khi đọc một bài thơ xuân cổ động cho việc tấn công.
Ðó là mấy câu thơ: "Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua. Thắng trận tin vui khắp nước nhà. Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta". Một trận đánh lớn như trận tết Mậu Thân mà Bộ trưởng quốc phòng Võ nguyên Giáp bị đẩy đi xa, chủ tịch nước kiêm chủ tịch Ðảng Hồ chí Minh cũng bị tống ra khỏi nước thì đủ thấy phe Duẩn, Thọ đã hoàn toàn nắm quyền sinh sát trong Ðảng.
Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về. Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ từ Trung quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này..đến giờ này..trên bầu trời nước ta từ hướng này..phương vị này..tuyệt đối không nổ súng. Thời đó đang chiến tranh, vào giờ đó là xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh (Bác ngồi phía sau hút thuốc):
_ Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây?
_ Quan sát lại đi! Ông Vũ Kỳ nói.
_ Em là người lái mà lái máy bay cho Bác thì em nhìn sao được! Người lái nói
Máy bay lượn hai vòng không dám xuống vì theo ông nếu hạ cánh thì máy bay sẽ chạy đến Phố Nổi, thì tan xương chứ.
_ Bây giờ làm thế nào? Quay trở lại không được, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không nó bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn..
_ Phải xuống theo trí nhớ thôi, cậu có xuống được không? Ông Kỳ nói
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái), chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại, nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, trên báo "tín hiệu chệch" dưới vẫn cứ để thế, không sửa.
Vòng một vòng và máy bay hạ cánh chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi ung dung hút thuốc. Ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh
_ An toàn rồi anh ơi!
Mừng quá, nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ ra đón, một lúc thì thấy ông Ðồng, chỉ có thế thôi, không còn ai đón Bác cả.
Phải nhận thấy ông Vũ Kỳ (nguyên là người luôn ở bên cạnh Hồ chí Minh) rất khéo léo khi trình bày vấn đề máy bay gặp vấn đề đáp vì đèn hiệu dưới sân bay chệch hướng. Mới đọc thì người ta tưởng đây là một sự trục trặc thường tình về chuyện kỹ thuật đáp của máy bay. Vì vậy bài báo kể chuyện này mới được ba tờ báo đăng. Nhưng nếu đọc và suy luận kỹ thì ta thấy ông Kỳ đã khéo léo tố cáo âm mưu giết Hồ chí Minh của Lê Duẩn và Lê đức Thọ bằng cách ra lệnh cho đèn hiệu dưới sân bay trệch hướng để phi công không đáp được theo kỹ thuật phi hành. Dấu hiệu rõ rệt nhất cho chuyện mưu sát là khi người phi công thấy đèn chệch hướng không đáp được (có lẽ đáp vào ban đêm), ông ta tìm cách liên lạc với bên dưới bằng vô tuyến nhưng bên dưới không trả lời! Vũ Kỳ sau khi kể chuyện này trên báo thì bị bộ chính trị kêu lên "hỏi thăm sức khỏe" ngay. Có lẽ vì quá uất ức vì chuyện mưu sát Hồ, mà nếu hôm ấy máy bay bị tai nạn thì Vũ Kỳ cũng đã tan xác theo với Hồ vì Vũ Kỳ có mặt trên chuyến máy bay ấy!
Số Hồ chí Minh chưa chết nên viên phi công đã đáp máy bay chở ông và Vũ Kỳ theo trí nhớ và đã bình an chứ không gây ra tai nạn. Trước đây cựu chiến binh Trần dũng Tiến cũng đã viết bài lên tiếng về vấn đề này (có lẽ sau khi đọc và suy luận về bài viết của Vũ Kỳ). Dĩ nhiên Trần dũng Tiến cũng chỉ mạnh dạn lên tiếng âm mưu hãm hại Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời. Mới đây Trần dũng Tiến cũng mới bị bắt vào tù, nối gót theo nhà tranh đấu Phạm quế Dương và Nguyễn đan Quế cũng vừa bị bắt vì bị tố cáo là chuyển e-mail này nọ. Cộng sản nghĩ là khi ruồng bố những người đấu tranh như thế thì chế độ chúng sẽ an toàn hơn, nhưng những chuyện chúng làm chỉ càng ngày càng làm cho giọt nước tràn ly và báo trước những xáo động lớn trong những ngày sắp tới.
Về sự kiện này, Trần Đĩnh viết:"Lê Trọng Nghĩa cũng kể rằng Cụ Hồ vừa được triệu gấp ở Bắc Kinh về để họp hội nghị này, nghe Anh Ba cả quyết Anh Hai Sài Gòn ủng hộ cách mạng dữ như vậy, ông Cụ đã hỏi thêm về Anh Hai thì bị Tố Hữu ngắt lời luôn, Bác chữa bệnh xa nước lâu ngày, tình hình phát triển, nhiều cái Bác không biết rồi, ý là thôi đi, Bác hỏi làm gì. Nghĩa kể lại chi tiết này còn lè lưỡi: ông nhà thơ quên béng mất, “Người là Cha, là Bác, là Anh… Người ngồi đó với cây chì đỏ, Chỉ đường đi từng bước từng giờ…”
Ở đây có chuyện chiếc máy bay đêm đưa Cụ ở Nam Ninh về đến sân bay Bạch Mai thì phát hiện đèn hiệu đặt lệch 15 độ, hồi ký Vũ Kỳ mà chắc ông có đọc, đã kể tường tận lại vụ ông Cụ chỉ còn cách cái chết có một sợi tóc. Thế là lần ấy ông Cụ có ba đại sự: một sự cố mấp mé cái chết, một câu hỏi bị gạt, một góc bàn để dự họp và đến khi Tổng tiến công - Tổng nổi dậy thì một cái buồng vắng lặng ở Bắc Kinh để Vũ Kỳ và ông Cụ tự dò các đài phát thanh, cũng theo hôi ký Vũ Kỳ. Về lý do đánh Tết Mậu Thân, theo ông, tôi hỏi Vũ Lăng, thì là vì duy ý chí chủ quan khinh địch hay trong sâu kín còn có ý gì khác? (Vũ Lãng nhíu lông mày).
Tôi thì ngờ rằng ở sau mong muốn cố giành thắng lợi quan trọng trong Tết Mậu Thân, Duẩn còn có tính toán không thể thổ lộ là đưa nhanh đất nước thoát khỏi cái thể hiểm nghèo: Đại hậu phương đang Cách mạng văn hoá loạn như nội chiến mà chẳng biết rồi sẽ còn tan hoang đến đâu. Đánh một trận nổi đình đám để nếu thắng dứt thì còn gì bằng, còn không cũng có thể sẽ làm cho Mỹ nản chí mà xuống xề đàm phán, như vậy Duẩn sẽ không mang tiếng “bỏ cuộc”. Ai ngờ chiến lược bị đánh sập rồi mà Mỹ lại “lên xề” xốc tới. Bảy năm gian nan nữa. Mà ở đây chí cần biết làm tính cộng trừ thôi là thấy ngay sai đúng.(Đèn Cù.51)
“Người nông dân ấy đã bốc mộ cho hàng ba trăm thương binh
Xác anh em và xác con mình
Anh xếp trên giường nhà anh như họ còn nằm ngủ
Vợ, dâu anh thì sợ
Nhưng anh vẫn làm nhiệm vụ
Việc ấy không để lại hào quang trên tay
Ánh sáng gì trong mắt
Hay huân chương trên tường
Có khi bản thân anh cũng muốn quên giữa cuộc đời chật vật
Còn ta à! Thì bận vì dạ hội, liên hoan
Tình ca, hội thảo...
Bao nhiêu điều láo nháo chúng ta quên
Quên rằng giờ chiến thắng mười năm
Anh ta vẫn khổ
Con vào trường không có chỗ
Đến bệnh viện không tiền
Ra đường không ai nhớ
Về làng người ta quên”
1985
Ai? Tôi!
Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười
1987
VNCH: 4,954 sĩ quan và binh sĩ, 14,300 thường dân. (Trong số thường dân nầy, Huế mất khoảng trên 2,000 người.)
Cộng sản 58,373 sĩ quan và binh sĩ.
Hoa Kỳ: 3,895 sĩ quan, binh sĩ và nhân viên Hoa Kỳ (gồm tất cả quân binh chủng).
Đồng minh: 214 sĩ quan và nhân viên Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan và Thái Lan
trong các phái bộ viện trợ quân sự tại VNCH.(Phạm Văn Sơn, sđd. tr. 35.)
Số 14,300 thường dân tử nạn là những người đã được khai báo, kiểm kê, trong khi đó còn rất nhiều người mất tích, chết không được khai báo, kiểm kê, nhất là những người ở thôn quê, trong những vùng do cả hai bên (VNCH và CS) kiểm soát.
Trong cuộc tổng tấn công của CS nhân dịp Tết Mậu Thân, tổng số thiệt hại
về nhà cửa ở các thành phố ước lượng khoảng 4,5 tỷ đồng VNCH (lúc bấy
giờ) theo đó: 84,983 nhà bị hư hại từ 50 đến 100%, 30,343 nhà thiệt hại
tới 50%. Riêng tại Sài Gòn, 18, 507 nhà bị thiệt hại từ 50% đến 100%.
(PTGDVNHN, sđd. tr. 222. Sách nầy trích số liệu trên đây từ sách The
Vietcong Massacre at Hue của bác sĩ Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage
Press, 1976.)
Theo Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ, sự thiệt hại trong khu vực kỹ nghệ lên tới 4,541,800,000 đồng đối với 84 cơ xưởng. Riêng ngành dệt, thiệt hại 2,985,400,000 đồng. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 129.)
Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, khác với chiến tranh du kích, là sự
đối đầu trực tiếp công khai giữa quân lực VNCH và lực lượng CS trong đó
có bộ đội chính quy Bắc Việt Nam và MTDTGP. Cuộc tổng tấn công của CS
thật sự đã đạt được yếu tố bất ngờ khá cao. (James J. Wirtz, sđd. tr. 28.)
Dầu tổng tấn công bất ngờ, CS hoàn toàn thất bại, không chiếm được các
thành phố như chủ trương ban đầu của CS. Nhiều nơi, CSVN phải rút về mật
khu, bưng biền, rừng núi, hay tránh sang biên giới Lào và Cao Miên.
Tài liệu CSVN sau nầy công khai xác nhận sự thất bại nặng nề của họ. “Cuối
tháng 9 [1968], hoạt động quân sự của ta [CSVN] đã ngừng lại. Sau một
thời gian dài liên tục tấn công vào đô thị - chỗ mạnh của địch trong
điều kiện chúng đã bố phòng, lực lượng ta bị tiêu hao, bổ sung không
kịp, tiếp tế khó khăn, phải rút về củng cố...” “Lực lượng vũ
trang bị tiêu hao không được bổ sung. Tiếp tế lương thực rất khó khăn. Ở
Tây nguyên, toàn bộ số gạo còn lại của năm 1968 chỉ còn phần ba so với
số lượng tồn kho năm 1967. Dự trữ lương thực đến giữa năm 1969 chỉ đủ
nuôi bộ đội ta trong khoảng một tuần...” (Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh
Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, tr. 35 và
tr. 57. Lưu Văn Lợi là nhân viên phái đoàn BVN tại hội nghị Paris, sách
viết ở trong nước. Bản in đưa bán ra nước ngoài, không đề nơi và năm
xuất bản.)
Quân lực VNCH tuy lúc đầu bất ngờ, nhưng nhờ khả năng phản ứng nhanh lẹ,
nên đã mạnh mẽ chận đứng được những đợt tấn công của CS khắp nước, gây
thiệt hại lớn lao cho CS. Con số 58,373 cán binh CS tử thương có thể còn
thấp so với số thực sự CSVN mất mát.
Do trong tháng 1 năm 1968 ngày dương lịch sát ngày âm lịch: ngày 29 (tháng 1) dương lịch là ngày 30 (tháng chạp) âm lịch và có sự lệch nhau một ngày của Tết hai miền nên có sự hiểu không thống nhất trong các cấp chỉ huy chiến trường của quân Giải phóng về thời điểm tiến công (ngày N): là ngày theo âm lịch hay theo dương lịch, là theo lịch cũ hay mới. Sự thiếu nhất quán này đã làm cuộc tiến công ở các địa bàn Quân khu 5 Quân Giải phóng đã nổ ra sớm hơn một ngày so với các địa phương khác trên toàn miền Nam. Tính bất ngờ của cuộc tấn công Tết Mậu Thân do vậy đã bị giảm đi, nhưng về cơ bản vẫn được bảo đảm.
Trước đó nửa tháng, tướng Westmoreland lúng túng: “Như tôi đã báo cáo
trước Hội đồng phái bộ Mỹ ngày 15/1/1968, tôi thấy khả năng là 60 đến
40% đối phương sẽ đánh trước Tết, có thể vào ngày 25/1. Ngược lại, tướng
Davidson, sĩ quan tình báo của tôi, lại thấy khả năng là 40-60% đối
phương sẽ đánh sau Tết”. Nhưng cuộc tổng tiến công nổ ra không phải “trước” hoặc “sau” mà đúng vào ngày Tết, Westmoreland và Davidson đều đoán sai.
Mặt khác, Quân đội Hoa Kỳ đã bị thu hút vào đòn nghi binh của Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam tại Khe Sanh, nơi được kỳ vọng là một thế trận
"Điện Biên Phủ đảo ngược", theo đúng kịch bản chiến tranh quy ước kiểu
Mỹ. Theo Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), trong các báo cáo do điệp viên
Phạm Xuân Ẩn chuyển về, từ cấp chỉ huy cho đến viên đại sứ Mỹ, tất cả
đều tin rằng quân Giải phóng không đủ sức tấn công vào các thành phố, đô
thị.
Theo Mỹ, chiến trường chính nhất định sẽ diễn ra ở Khe Sanh. "Trung
ương Cục miền Nam còn làm bộ để rơi những tài liệu vào tay Mỹ để họ tin
rằng mình sẽ đánh mạnh trên vùng giới tuyến, nhất là Khe Sanh" - ông Tư Cang nói. Đại tá Hồ Khang cho biết: "Cái
từ Điện Biên Phủ xuất hiện trong tư duy của phía Mỹ mà Cục II (tình
báo) báo cáo lại chính là một gợi ý để chúng ta tương kế tựu kế thực
hiện một "Điện Biên Phủ giả vờ" để lừa đối phương, ghìm chặt Mỹ ở chiến
trường rừng núi, tạo điều kiện cho đòn tấn công vào các đô thị. Vì vậy
sau này phía Mỹ và phương Tây cho rằng Việt Nam là bậc thầy trong việc
nghi binh"
.
Mặc dù phía Mỹ cũng đã đưa ra một số dự đoán về cuộc tấn công này có thể
diễn ra trước tết hoặc sau tết, và sẽ diễn ra ở phía bắc miền Nam Việt
Nam (khu vực Quảng Trị), nên họ vẫn đặt hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên -
Huế trong tình trạng chiến đấu và các cuộc ném bom của Mỹ ở vùng sát
với hai tỉnh trên sẽ vẫn tiếp tục trong những ngày Tết. Nhưng trên thực
tế nó nổ ra ngay đúng trong dịp tết, và diễn ra đồng loạt ở khắp miền
Nam.
Vì vậy phía Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa đều bị bất ngờ cả về thời gian lẫn
quy mô của cuộc tiến công này. Đây là một thất bại lớn về mặt tình báo
mà sẽ khiến chính phủ Mỹ nếm trái đắng trước dư luận trong trận đánh
được coi là "bước ngoặt của cuộc chiến". Sách giáo khoa của Học viện
Quân sự West Point (Mỹ) đã viết: "Điều đầu tiên cần nói về cuộc tổng
tiến công là tình báo của đồng minh đã thất bại ngang với trận Trân Châu
Cảng năm 1941 và trận tiến công Ardennes năm 1944. Việt Nam đã giành
được sự bất ngờ hoàn toàn".
Nhà sử học Nguyễn Hiến Lê viết trong hồi ký: "Khắp thế giới ngạc
nhiên và phục "Việt cộng" tổ chức cách nào mà chính phủ Việt Nam Cộng
hòa không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài
gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã
che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền biết.
Trái lại mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của Việt Nam Cộng hòa họ đều
biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho
thế giới biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mỹ thất bại
hoài."
Việt Công và thân cộng bao giờ cũng tự hào rằng họ tài giỏi còn Mỹ ngu
si. Nhưng sự thực ở một chỗ khác, không nằm trong mồm mép và sách báo
Cộng sản. Đảng tuyên truyền rùm beng cho thắng lợi Tết Mậu Thân. Lờ đi
sự thật đau đớn là kế hoạch nổ súng bất ngờ của đảng đã lọt vào tay Mỹ.
Sau này CIA Mỹ giải mật một tài liệu cho
hay Mỹ biết chính xác ngày giờ quân Bắc vượt vĩ tuyến vào Nam nhưng
tướng Creighton Abrams và đại sứ Bunker không báo cho Chính phủ Sài Gòn
biết. Nixon đã khoái trá bảo Kissinger: Xong keo này sẽ có một bên
nướng nhẵn hết quân. Theo tài liệu được giải mật này thì CIA cài được
người vào Trung ương cục miền Nam (Cục R). Người ấy là ai thì Mỹ cố
nhiên không giải mật.(Đèn Cù. II,51)
Cuộc Nam xâm của Mỹ thì dân chúng và tướng tá Việt Nam đều biết nhưng họ làm theo kế "giả đui dòm l..."! Như trước cuộc tổng tấn công Mậu thân, dân Huế biết Việt Cộng thu mua ny lon , lương thực, và thuốc men. Một số sĩ quan VNCH cho biết Mỹ có tia lazer có thể nhìn thấy xuyên màn đêm. Mỹ và VNCH biết rõ đường đi nước bước của Việt Cộng chứ không phải là mù tịt. Họ như những thợ săn lành nghề, im lặng chờ đợi con mồi tiến đến và sập bẫy.
Cuộc tổng tấn công mậu thân tại Huế kéo dài 26 ngày. Từ chiều 30 đến đêm
giao thừa qua ngày mồng một (theo lịch miền Nam và là ngày 02 Tết nếu
tính theo lịch miền Bắc-30/01 dương lịch), tiếng pháo nổ liên hồi, dân
chúng lũ lượt đi lễ, đi chúc Tết lẫn nhau, không có chuyện gì xảy ra.
Sáng mồng một Tết, Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ
binh, cùng toàn thể nhân viên thuộc Bộ Tư lệnh Sư đoàn đến dự lễ chào cờ
đầu năm ở Phú Văn Lâu. Ngay sau đó, chuẩn tướng được tin Quân đoàn cho
biết quân giải phóng trong đêm 30 Tết (theo lịch VNCH, 30/01) đã đột
nhập tấn công 2 thị xã Nha Trang và Quy Nhơn. Ngay sau khi phía VNCH
tuyên bố hủy ngừng bắn ở Vùng I chiến thuật vào trưa ngày 29/01, Quân
Giải phóng đã bắt đầu có các động thái chuẩn bị tấn công vào rạng sáng
ngày 30/01 tại Vùng I chiến thuật. Lệnh cấm trại được ban hành tức khắc
cho các đơn vị trực thuộc. Chính chuẩn tướng cũng ngủ tại Bộ Tư lệnh Sư
đoàn không về nhà. Đang say sưa ăn Tết, binh sĩ đồn trú vẫn không tin
quân giải phóng sẽ tấn công.
Chỉ huy trưởng Lê Minh ghi lại những giờ phút ra quân:
- 7 giờ tối ngày mồng 1 Tết Mậu Thân, bắt đầu rời cửa rừng, quân đi lặng lẽ trong đêm tối, mưa lâm râm, sương mù đầy trời... Bộ chỉ huy chiến dịch đã lập một bộ phận tiền tiêu do anh Đặng Kính trực trên đỉnh núi Kim Phụng, nhìn thấy cả Phú Bài và Tử Hạ (...). Anh Kính báo về cứ 5 phút một: yên tĩnh!.
2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, pháo binh Quân Giải phóng đồng loạt bắn
phá các mục tiêu Việt Nam Cộng Hòa ở khu Tam giác, khu Phan Sào Nam, Phú
Bài, Động Toàn, Đông Ba, mở đầu cho tổng tiến công vào Nội đô Huế. Sau
loạt pháo mở màn, lực lượng vũ trang trên hai hướng cùng lúc đánh vào 40
mục tiêu trong và ngoại thành Huế.
Hồ Chí Minh liên tục ốm nặng trong khoảng hơn 3 năm cuối đời, phải đi
sang Trung Quốc chữa bệnh nhiều lần. Hầu như cả năm 1967, ông ở Trung
Quốc chữa bệnh. Trong thời gian chuẩn bị diễn ra sự kiện Tết Mậu Thân
1968, ông đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa. Tuy vậy ông vẫn quay về Việt Nam ít ngày vào tháng 12 năm 1967 để
phê duyệt quyết định tiến hành cuộc tổng tấn công. Hiệu lệnh mở màn cuộc
tổng tấn công chính là bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh phát trên Đài
tiếng nói Việt Nam: "Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua/Thắng trận tin vui khắp nước nhà/Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta."
Âm mưu giết Hồ Chí Minh không thành, Duẩn Thọ lại bày ra kế hoạch khác. Sau khi thất bại trong âm mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ , liên minh Duẩn- Thọ đã bày mưu tính kế giết Hồ bằng cách cho bác sĩ tiêm thuốc độc vào người Hồ năm 1969 bằng một kịch bản giết người khéo leó và đã qua mặt mọi người trong 40 năm qua. Cho tới ngày các bác sĩ Việt Nam ở Hà Nội lên tiếng tố cáo bằng bài viết mới đây “ Một nghiên cứu khoa học về Hồ chí Minh “ gửi đi khắp nơi. thì âm mưu mới bị phơi bày
Theo tài liệu Trần Viết Đai Hưng,trường hợp của Hồ chí Minh thì khi Bộ chính trị, nói cụ thể là Lê Duẩn, muốn giết Hồ chí Minh bằng con đường đầu độc thông qua các bác sĩ trị liệu thì gán cho Hồ chí Minh chết vì bệnh ” nhồi máu cơ tim”. Kịch bản giết Hồ chí Minh dù khéo léo đến đâu rồi cũng có ngày phơi bày ra ánh sáng vì những sự vô lý , sơ hở,hớ hênh trong diễn tiến sự việc mà Bộ chính trị vô tình để lộ qua sự trình bày của báo chí và phim ảnh .
Hãy nghe các bác sĩ ở Hà Nội ( ttbsvn@gmail.com) trình bày diễn tiến đầu độc Hồ chí Minh bằng chất độc như sau trong bài viết:
Người ta đã dùng thuốc gì để giết Bác ?
Việc này đối với những kẻ có kiến thức và có dã tâm thì rất dễ dàng: Bác
sĩ tim mạch biết rất rõ tất cả các loại thuốc điều trị rối loạn nhịp
tim, thì đều có thể làm loạn nhịp tim. ( Nói dể hiểu là nếu tim loạn
nhịp mà dùng đúng liều thì sẽ hết loạn nhịp, còn dùng không đúng liều
thì sẽ loạn nhịp nặng hơn. Nếu tim bình thường mà dùng những thuốc này
thì sẽ sinh ra,,loạn nhịp, dùngliều cao thì sẽ tử vong). Vì vậy những kẻ
này có thể làm cho nạn nhân thấy mệt bất cứ lúc nào chúng muốn và khi
giờ G đã đến thì tăng liều thế là xong. ( Ðối với thuốc tim mạch thì chỉ
cần dùng liều gấp đôi là cũng có thể tử vong rồi, vì liều dùng trong
tim mạch đòi hỏi thật chính xác).
“…Những ngày trước đó người ta dùng kháng sinh Ta-tô-pen cho Bác( Bác bị
viêm phế quản). Bệnh của Bác đang đỡ dần sao tự nhiên lại đòi kháng
sinh? Mà lại là loại kháng sinh có ” tiền án hình sự ” gây sốc.
Vấn đề là người ta muốn đổ tội cho cái thứ kháng sinh này thôi, và cũng
lưu ý là không phải lúc nào nó cũng gây sốc. Thực chất ống Pê-lê-xi-lin
đã được thay ruột bằng thuốc chống loạn nhịp tim như đã nói trên.
Ngay như cuốn sổ tay của Võ nguyên Giáp cũng bắt đầu từ ngày 24/8/1969, là ngày khởi sự của tội ác.
Trong cuốn sổ tay , Ðại tướng Võ nguyên Giáp có ghi rõ từng ngày: 24-8
trở đi, Bác mệt nặng. 26-8: Khi vào thăm, giơ tay chào, Bác chào lại rồi
bảo , ” Chú về nghỉ ..” Hàng ngày Bác vẫn hỏi, ” Hôm nay miền Nam đánh
thắng đâu?” (http://www.tapchicongnghiep.vn/sodau..7/9/17077.ttvn)
Ðây cũng là một sự chuẩn bị của Bộ chính trị, bao nhiêu ngày không viết
nhật ký vào thăm Bác, nay lại bày đặt ghi nhật ký, vì muốn nhấn mạnh ý
Bác chết là do bệnh nặng mà thôi, và cũng là cách phòng tránh sự nghi
ngờ của mọi người, ( Nhật ký này cũng được làm 9 ngày trước khi Bác
chết.)
Tội nghiệp cho ông Vũ Kỳ và các nhân chứng. Các bác sĩ bảo sao thì nghe vậy:
” Trong quá trình chữa bệnh, có một điều đặc biệt là cơn đau tim đến dồn
dập liên tiếp nhưng Bác không rên. Bác nằm yên và nhắm mắt”
Bác nằm yên thì làm sao ông Vũ Kỳ biết là cơn đau đến dồn dập ???Ở đây
chúng tôi thấy ông Vũ Kỳ cũng hiểu ra chuyện. Hình như ông muốn nói điều
gì đó nhưng không thể ! Ông đã để lại một chìa khóa quan trọng để lật
mặt đảng CSVN
Một nguyên tắc nữa trong điều trị nhồi máu cơ tim là bệnh nhân phải nằm
nghỉ tuyệt đối , nhất là khi bệnh nặng, thậm chí việc đi cầu, đi tiểu
cũng phải làm tại giường mà phải dùng loại bô nằm, hoặc là lót giấy cho
bệnh nhân, bệnh nhân không được ngồi dậy, và bệnh nhân nặng thì tuyệt
đối không được ăn, các bác sĩ sẽ nuôi ăn qua đường tĩnh mạch, đơn giản
nhất là truyền glucose (đường). Ðúng là người ta muốn giết Bác rồi.
Cần phải nói rõ ở đây kẻ chủ mưu giết Hồ chí Minh chính là Lê Duẩn. Có
thể có sự toa rập của Lê đức Thọ , vốn cũng có ác cảm với Hồ. Còn Trường
Chinh, Phạm văn Ðồng và Võ nguyên Giáp hoàn toàn không có liên can gì
đến chuyện đầu độc giết Hồ.
Câu hỏi đặt ra ở đây là Hồ có biết được âm mưu đầu độc Hồ hay không? Câu trả lời là có. Xin chứng minh cụ thể như sau:
Ngay từ năm 2003, tôi (Trần Viết Đại Hưng) có viết hai bài “Bí ẩn chung
quanh chuyện Hồ Chí Minh bị thất sủng vào lúc cuối đời.” và “Một cách lý
giải về chuyện Hồ Chí Minh mất quyền lực trong những năm cuối đời.”.
Trong hai bài này tôi có nêu rõ chuyện Lê đức Thọ ăn hiếp tàn tệ Hồ chí
minh trong một buổi họp và có đưa ra di chúc thống thiết Hồ chí Minh
viết ngày 14 tháng 8 năm 1969. Tôi có kể thêm chuyện Lê Duẩn, Lê đức Thọ
âm mưu giết Hồ bằng tai nạn máy bay khi Hồ cùng người hầu cận Vũ Kỳ trở
về Hà Nội từ Trung Quốc năm 1968 dựa trên một bài báo của Sơn Tùng
thuật lại cuộc nói chuyện của người hầu cận của Hồ chí Minh là Vũ Kỳ.
Vũ Kỳ kể lại câu chuyện một cách khôn khéo để người đọc rút ra kết luận
là Duẩn, Thọ âm mưu tạo dựng tai nạn máy bay để giết Hồ. Nhà văn Sơn
Tùng ( một người có 10 đầu sách viết về Hồ chí Minh)cũng có nói đến âm
mưu đó, nhưng không dám nói huỵch toẹt ra mà dành sự kết luận cho người
nghe, người đọc. Cho dù khi Vũ Kỳ kể chuyện thì Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã
qua đời nhưng chế độ Cộng sản vẫn còn đó.
Không thể nói toạc móng heo trắng trợn âm mưu giết Hồ chí Minh của
Duẩn, Thọ trên báo chí Cộng sản trong nước được mà phải dùng cách kể
chuyện cực kỳ khôn khéo, đưa ra những sự kiện và dành sự suy luận cho
người đọc. Chiếc máy bay chở Chủ tịch nước Hồ chí Minh không liên lạc
được bằng vô tuyến với sân bay bên dưới là một chuyện vô lý cùng cực.
Nên nhớ là trời lúc đó không hề có giông bão nên không có lý do gì để
cho vô tuyến bị trục trặc cả ! Chỉ có một cách giải thích duy nhất là
bên dưới tắt máy không muốn liên lạc để phi cơ gây ra tai nạn ( lệnh tắt
máy liên lạc chắc chắn đến từ Lê Duẩn ).
Người phi công rất lúng túng và hoảng sợ khi đèn hiệu trên sân bay đổi
và liên lạc vô tuyến bị cắt đứt và phải chọn cách.. đáp phi cơ theo trí
nhớ ..!! May mà không gây ra tai nạn như bọn Lê Duẩn gài bẫy. Nếu phi cơ
bị tai nạn thì người hầu cận Vũ Kỳ cũng sẽ tan xác chung với Hồ chí
Minh trên chuyến máy bay đó. Có lẽ uất ức vì chuyện gài bẫy tai nạn phi
cơ này mà Vũ Kỳ quyết định kể chuyện tày trời này cho mọi người cùng
biết .
Nếu Hồ chí Minh còn giữ được quyền lực lúc đó thì sau khi bị bọn xấu mưu
sát hụt bằng tai nạn phi cơ, ông sẽ cho điều tra chuyện mưu sát đề tìm
ra thủ phạm mà trị tội. Ðằng này ông không làm gì hết sau tai nạn phi cơ
hụt, điều đó chứng tỏ không có quyền gì cả nữa. Ông như con cá nằm trên
thớt mà bọn đàn em Lê Duẩn muốn chặt lúc nào thì chặt.
Không giết được Hồ bằng tai nạn phi cơ năm 1968 thì đám Duẩn, Thọ quyết
định dùng thuốc độc để giết Hồ năm 1969 và ngụy tạo như là một thứ bệnh
hoạn gây tử thương cho Hồ bằng một kịch bản giết người khéo léo để che
mắt thế gian,, Mặc dù Duẩn, Thọ đã tước hết quyền lực của Hồ chí Minh từ
lâu nhưng uy tín của Hồ trước mặt nhân dân còn quá lớn nên phải bức tử
Hồ cho tiện sổ sách.
Sử gia Pháp Pierre Brocheux đã nói chuyện Hồ mất quyền lực như sau trong
bài phỏng vấn với BBC vào tháng 10 năm 2003, ” Theo nghiên cứu của tôi
thì cả một giai đoạn trước khi qua đời ông Hồ bị cách ly khỏi quyền lực,
tức là không hề có quyền gì. Ông ấy bị biến thành một biểu tượng. Vì
thế cuốn sách của tôi còn có một tựa đề nữa là ” Hồ chí minh, một nhà
cách mạng biến thành một biểu tượng “. Ý tôi muốn nói ông bị người ta
biến thành một biểu tượng không có quyền, một biểu tượng yếu về quyền
lực ,”
Nhưng dù có khéo cách mấy cũng lòi ra những hớ hênh, sơ hở để ngày hôm
nay một số bác sĩ õ ở Hà Nội viết bài phân tích và lý luận tỉ mỉ về
chuyện Hồ chí Minh đã bị đầu độc chết như thế nào căn cứ vào những
nghịch lý, sơ sót nằm trong những bài viết và phim ảnh về Hồ chí Minh
trong những ngày cuối đời.
Ngay trong chúc thư ngày 14 tháng 8 năm 1969, Hồ chí Minh đã tiết lộ
chuyện đầu độc ông đã xảy ra, ” Tôi đã già rồi, râu tóc đã bạc mà còn
phải sang trong cảnh tù giam lỏng, cứ nghĩ đến điều này làm tôi ứa nước
mắt. Họ đã không giết tôi nhưng sai ông Bác sĩ Tôn thất Tùng cho tôi
uống thuốc độc để tôi không thể đi đâu được nữa, mà cũng không thể tiếp
xúc với những người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết ngay, nhưng là
chết dần, chết mòn, ở biệt lập một nơi để đợi ngày tắt thở.”
Nếu Hồ chí Minh bị đầu độc chết thì tại sao Lê Duẩn lại để ông chết vào
ngày 2 tháng 9 , để rồi phải nói dối với toàn dân là ông chết ngày 3
tháng 9. Vì ngày 2 tháng 9 là ngày quốc khánh, chủ tịch nước chết coi
như là quốc tang. Ngày quốc tang lại trùng vào ngày quốc khánh đã làm
cho Hà Nội khó chịu nên phải công bố ông chết trễ một ngày. Trong cuốn
hồi ký của Giáo sư Nguyễn đăng Mạnh đã có một cách giải thích lý thú về
chuyện tại sao Hồ chí Minh lại chết vào ngày 2 tháng 9 như sau :
” Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ chí Minh . Ngày sinh cũng do
ông tự đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất ? Ðúng cái ngày ông đọc
Tuyên ngôn độc lập ( 2/9)
Việt Cộng xảo trá. Ông Hồ chết vào một ngày khác nhưng Việt Cộng loan tin chết vào một ngày long trọng của họ. Ngày sinh và ngày mất của ông Hồ toàn là ngày lễ của Việt Cộng!Chẳng phải là tình cờ đâu! Đảng lãnh đạo cả đấy!
Theo Hoàng ngọc Hiến , ông Hồ chủ động chết váo cái ngày lịch sử ấy. Ông
ấy đáo để lắm đấy ! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của
mình (Hồ sĩ Tạo) thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả
nước, ngày mà ông đọc Tuyên ngôn độc lập.
_ Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh mình- Tôi cãi lại Hiến
_ Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những
dây dợ của cái ống thở oxy là chết luôn chứ sao!Hiến khẳng định thế. Một
phán đoán không phải là không có lý !
Hà Nội ngày 6/7/2006)( Trích Hồi ký Nguyễn đăng Mạnh trang 131)
Nguyễn đăng Mạnh thuật lại lời của Hoàng ngọc Hiến suy luận cho rằng ông
Hồ chủ động chết vào ngày 2 tháng 9 năm 1969 vì tính khí ông Hồ đáo để.
Nói như vậy là còn hụt hẫng và chưa đủ sức thuyết phục công luận. Dĩ
nhiên cũng có thể ông Hồ chết vào ngày Quốc khánh là do ngẫu nhiên chứ
không do ông chủ động.
Trừ ra tự tử hay bị xử tử, con người làm
sao quyết định ngày chết của mình!Mấy tay Việt Cộng lẩn thẩn.Đó là màn
kịch do Lê Duẩn, Lê Đức Thọ tư biên và đạo diễn.
Tr
Một bài báo của các bác sĩ Việt nam trong nước gây chấn động khắp nơi trong và ngoài nước. Bài báo nhan đề “ Một nghiên cứu khoa học về Hồ chí Minh “ ( Có thể vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào hàng chữ : nsvietnamonline để đọc bài báo này). Các bác sĩ ở Hà Nội đã đựa vào những kiến thức chuyên môn y khoa để khẳng định Hồ chí Minh chết vì bị đầu độc chứ không chết vì bệnh hoạn hay già nua như nhà nước Cộng sảnđã công bố trong mầy mươi năm qua. Thường thường khi muốn giết một người và tránh sự nghi ngờ, Cộng sản thường loan tin người đó bị bệnh “ nhồi máu cơ tim” hay “ tai biến mạch máu não “!
Trường hợp của Hồ chí Minh thì khi Bộ chính trị, nói cụ thể là Lê Duẩn, muốn giết Hồ chí Minh bằng con đường đầu độc thông qua các bác sĩ trị liệu và gán cho Hồ chí Minh chết vì bệnh “ nhồi máu cơ tim”. Kịch bản giết Hồ chí Minh dù khéo léo đến đâu rồi cũng có ngày phơi bày ra ánh sáng vì những sự vô lý , sơ hở,hớ hênh trong diễn tiến sự việc mà Bộ chính trị vô tình để lộ qua sự trình bày của báo chí và phim ảnh .
Hãy nghe các bác sĩ ở Hà Nội ( ttbsvn@gmail.com) trình bày diễn tiến đầu độc Hồ chí Minh bằng chất độc như sau trong bài viết:
Người ta đã dùng thuốc gì để giết Bác ?
Việc này đối với những kẻ có kiến thức và có dã tâm thì rất dễ dàng: Bác sĩ tim mạch biết rất rõ tất cả các loại thuốc điều trị rối loạn nhịp tim, thì đều có thể làm loạn nhịp tim. ( Nói dể hiểu là nếu tim loạn nhịp mà dùng đúng liều thì sẽ hết loạn nhịp, còn dùng không đúng liều thì sẽ loạn nhịp nặng hơn. Nếu tim bình thường mà dùng những thuốc này thì sẽ sinh ra,,loạn nhịp, dùngliều cao thì sẽ tử vong). Vì vậy những kẻ này có thể làm cho nạn nhân thấy mệt bất cứ lúc nào chúng muốn và khi giờ G đã đến thì tăng liều thế là xong. ( Đối với thuốc tim mạch thì chỉ cần dùng liều gấp đôi là cũng có thể tử vong rồi, vì liều dùng trong tim mạch đòi hỏi thật chính xác).
…..Những ngày trước đó người ta dùng kháng sinh Ta-tô-pen cho Bác( Bác bị viêm phế quản). Bệnh của Bác đang đỡ dần sao tự nhiên lại đòi kháng sinh? Mà lại là loại kháng sinh có “ tiền án hình sự “ gây sốc.
Vấn đề là người ta muốn đổ tội cho cái thứ kháng sinh này thôi, và cũng lưu ý là không phải lúc nào nó cũng gây sốc. Thực chất ống Pê-lê-xi-lin đã được thay ruột bằng thuốc chống loạn nhịp tim như đã nói trên.
Ngay như cuốn sổ tay của Võ nguyên Giáp cũng bắt đầu từ ngày 24/8/1969, là ngày khởi sự của tội ác.
Trong cuốn sổ tay , Đại tướng Võ nguyên Giáp có ghi rõ từng ngày: 24-8 trở đi, Bác mệt nặng. 26-8: Khi vào thăm, giơ tay chào, Bác chào lại rồi bảo , “ Chú về nghỉ ..” Hàng ngày Bác vẫn hỏi, “ Hôm này miền Nam đánh thắng đâu?”
http://www.tapchicongnghiep.vn/sodau..7/9/17077.ttvn
Đây cũng là một sự chuẩn bị của Bộ chính trị, bao nhiêu ngày không viết nhật ký vào thăm Bác, nay lại bày đặt ghi nhật ký, vì muốn nhấn mạnh ý Bác chết là do bệnh nặng mà thôi, và cũng là cách phòng tránh sự nghi ngờ của mọi người, ( Nhật ký này cũng được làm 9 ngày trước khi Bác chết.)
Tội nghiệp cho ông Vũ Kỳ và các nhân chứng. Các bác sĩ bảo sao thì nghe vậy:
“ Trong quá trình chữa bệnh, có một điều đặc biệt là cơn đau tim đến dồn dập liên tiếp nhưng Bác không rên. Bác nằm yên và nhắm mắt…”
Bác nằm yên thì làm sao ông Vũ Kỳ biết là cơn đau đến dồn dập ???Ở đây chúng tôi thấy ông Vũ Kỳ cũng hiểu ra chuyện. Hình như ông muốn nói điều gì đó nhưng không thể ! Ông đã để lại một chìa khóa quan trọng để lật mặt đảng CSVN
Một nguyên tắc nữa trong điều trị nhồi máu cơ tim là bệnh nhân phải nằm nghỉ tuyệt đối , nhất là khi bệnh nặng, thậm chí việc đi cầu, đi tiểu cũng phải làm tại giường mà phải dùng loại bô nằm, hoặc là lót giấy cho bệnh nhân, bệnh nhân không được ngồi dậy, và bệnh nhân nặng thì tuyệt đối không được ăn, các bác sĩ sẽ nuôi ăn qua đường tĩnh mạch, đơn giản nhất là truyền glucose ( đường). Đúng là người ta muốn giết Bác rồi. (Trần Viết Đại Hưng. NHỮNG BẠO CHÚA BỊ ĐÀN EM GIẾT VÀO LÚC CUỐI ĐỜI. http://www.vietnamexodus.info/vne0508/vnenews1/bandocviet/news/baochua.htm
Tr
Một bài báo của các bác sĩ Việt nam trong nước gây chấn động khắp nơi trong và ngoài nước. Bài báo nhan đề “ Một nghiên cứu khoa học về Hồ chí Minh “ ( Có thể vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào hàng chữ : nsvietnamonline để đọc bài báo này). Các bác sĩ ở Hà Nội đã đựa vào những kiến thức chuyên môn y khoa để khẳng định Hồ chí Minh chết vì bị đầu độc chứ không chết vì bệnh hoạn hay già nua như nhà nước Cộng sảnđã công bố trong mầy mươi năm qua. Thường thường khi muốn giết một người và tránh sự nghi ngờ, Cộng sản thường loan tin người đó bị bệnh “ nhồi máu cơ tim” hay “ tai biến mạch máu não “!
Trường hợp của Hồ chí Minh thì khi Bộ chính trị, nói cụ thể là Lê Duẩn, muốn giết Hồ chí Minh bằng con đường đầu độc thông qua các bác sĩ trị liệu và gán cho Hồ chí Minh chết vì bệnh “ nhồi máu cơ tim”. Kịch bản giết Hồ chí Minh dù khéo léo đến đâu rồi cũng có ngày phơi bày ra ánh sáng vì những sự vô lý , sơ hở,hớ hênh trong diễn tiến sự việc mà Bộ chính trị vô tình để lộ qua sự trình bày của báo chí và phim ảnh .
Hãy nghe các bác sĩ ở Hà Nội ( ttbsvn@gmail.com) trình bày diễn tiến đầu độc Hồ chí Minh bằng chất độc như sau trong bài viết:
Người ta đã dùng thuốc gì để giết Bác ?
Việc này đối với những kẻ có kiến thức và có dã tâm thì rất dễ dàng: Bác sĩ tim mạch biết rất rõ tất cả các loại thuốc điều trị rối loạn nhịp tim, thì đều có thể làm loạn nhịp tim. ( Nói dể hiểu là nếu tim loạn nhịp mà dùng đúng liều thì sẽ hết loạn nhịp, còn dùng không đúng liều thì sẽ loạn nhịp nặng hơn. Nếu tim bình thường mà dùng những thuốc này thì sẽ sinh ra,,loạn nhịp, dùngliều cao thì sẽ tử vong). Vì vậy những kẻ này có thể làm cho nạn nhân thấy mệt bất cứ lúc nào chúng muốn và khi giờ G đã đến thì tăng liều thế là xong. ( Đối với thuốc tim mạch thì chỉ cần dùng liều gấp đôi là cũng có thể tử vong rồi, vì liều dùng trong tim mạch đòi hỏi thật chính xác).
…..Những ngày trước đó người ta dùng kháng sinh Ta-tô-pen cho Bác( Bác bị viêm phế quản). Bệnh của Bác đang đỡ dần sao tự nhiên lại đòi kháng sinh? Mà lại là loại kháng sinh có “ tiền án hình sự “ gây sốc.
Vấn đề là người ta muốn đổ tội cho cái thứ kháng sinh này thôi, và cũng lưu ý là không phải lúc nào nó cũng gây sốc. Thực chất ống Pê-lê-xi-lin đã được thay ruột bằng thuốc chống loạn nhịp tim như đã nói trên.
Ngay như cuốn sổ tay của Võ nguyên Giáp cũng bắt đầu từ ngày 24/8/1969, là ngày khởi sự của tội ác.
Trong cuốn sổ tay , Đại tướng Võ nguyên Giáp có ghi rõ từng ngày: 24-8 trở đi, Bác mệt nặng. 26-8: Khi vào thăm, giơ tay chào, Bác chào lại rồi bảo , “ Chú về nghỉ ..” Hàng ngày Bác vẫn hỏi, “ Hôm này miền Nam đánh thắng đâu?”
http://www.tapchicongnghiep.vn/sodau..7/9/17077.ttvn
Đây cũng là một sự chuẩn bị của Bộ chính trị, bao nhiêu ngày không viết nhật ký vào thăm Bác, nay lại bày đặt ghi nhật ký, vì muốn nhấn mạnh ý Bác chết là do bệnh nặng mà thôi, và cũng là cách phòng tránh sự nghi ngờ của mọi người, ( Nhật ký này cũng được làm 9 ngày trước khi Bác chết.)
Tội nghiệp cho ông Vũ Kỳ và các nhân chứng. Các bác sĩ bảo sao thì nghe vậy:
“ Trong quá trình chữa bệnh, có một điều đặc biệt là cơn đau tim đến dồn dập liên tiếp nhưng Bác không rên. Bác nằm yên và nhắm mắt…”
Bác nằm yên thì làm sao ông Vũ Kỳ biết là cơn đau đến dồn dập ???Ở đây chúng tôi thấy ông Vũ Kỳ cũng hiểu ra chuyện. Hình như ông muốn nói điều gì đó nhưng không thể ! Ông đã để lại một chìa khóa quan trọng để lật mặt đảng CSVN
Một nguyên tắc nữa trong điều trị nhồi máu cơ tim là bệnh nhân phải nằm nghỉ tuyệt đối , nhất là khi bệnh nặng, thậm chí việc đi cầu, đi tiểu cũng phải làm tại giường mà phải dùng loại bô nằm, hoặc là lót giấy cho bệnh nhân, bệnh nhân không được ngồi dậy, và bệnh nhân nặng thì tuyệt đối không được ăn, các bác sĩ sẽ nuôi ăn qua đường tĩnh mạch, đơn giản nhất là truyền glucose ( đường). Đúng là người ta muốn giết Bác rồi. (Trần Viết Đại Hưng. NHỮNG BẠO CHÚA BỊ ĐÀN EM GIẾT VÀO LÚC CUỐI ĐỜI. http://www.vietnamexodus.info/vne0508/vnenews1/bandocviet/news/baochua.htm
Phải nhớ một điều là Lê Duẩn điều động một tập hợp một số bác sĩ và y tá
đầu độc Hồ nhưng nên nhớ là bao cặp mắt đều soi mói vào con người Hồ
đang nằm trên giường. Thuốc độc phải để ngấm từ từ , không thể chích một
mũi thuốc độc cho Hồ chết ngay như người ta dùng ống chích thuốc độc để
chấm dứt sinh mạng tử tội trong vòng vài phút như vẫn làm ở nước Mỹ.
Ðám Lê Duẩn vừa tìm cách giết Hồ vừa tìm cách đóng kịch với nhân dân
Việt Nam và thế giới là đang tìm đủ mọi cách để chữa cho Hồ khỏi bệnh.
Và Lê Duẩn đã lừa được mọi người trong và ngoài nước trong 40 năm nay là
làm cho người ta tin Hồ chết vì bệnh hoạn tuổi già.
Có thể tạm suy luận như thế này. Ông Hồ đã nhìn và hiểu rõ âm mưu đầu
độc ông chết một hai tuần trước khi ông bị bức tử. Sau này đứng trước sự
thật lên tiếng của quá nhiều nhân chứng, chính quyền Cộng sản Việt nam
đành phải nhìn nhận là Hồ chí Minh chết ngày 2 tháng 9.
Cái chết của ông Hồ là một cái chết đau đớn như cái chết của trăm ngàn
nạn nhân trong vụ cải cách ruộng đất do ông chủ xướng. Ông gây nhân tàn
bạo để rồi gặt lấy quả bạo tàn. Ông bị chính những đồng chí đàn em của
ông là Lê Duẩn và Lê đức Thọ giết bằng cách đầu độc.(Trần Viết Đại Hưng
Như vậy, trước tết mậu thân (1968), ông Hồ vẫn còn sống tại Trung Quốc.
Nhưng sau 1968, ông Hồ chết.Hồ Chí Minh qua đời vào hồi 9 giờ 47 phút
sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969 (tức ngày 21 tháng 7 âm lịch) tại thủ đô Hà
Nội, hưởng thọ 79 tuổi. Do hoàn cảnh thời chiến, để tránh trùng với
ngày Quốc khánh, ngày mất của ông ban đầu được Ban Lãnh đạo Đảng công bố
là ngày 3 tháng 9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2 tháng 9.
Nói tóm lại, ông Hồ bị Việt cộng giết mà thủ phạm là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ .
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể đặt nghi vấn vào thuyết trên. Phải chăng Việt Cộng chiếm Huế 26 ngày là coi như đã chiếm Huế, Huế thuộc về Cộng Sản. Và ông Hồ đã vào Huế rồi bị quân VNCH hạ sát tại đây?chết tại đây?
Phải chăng Trịnh Công Sơn nghe Việt Cộng nói ông Hồ vào thăm Huế nên phổ nhạc lời ông Hồ?
Ta sẽ thăm từng người
sẽ đi thăm từng đường, sẽ vô thăm từng nhà
Đó là khẩu khí của một ông lãnh tụ chứ không là của một nhạc sĩ!
Có thể họ đưa Hồ Chí Minh vào thăm đồng bào nhưng bị quân Cộng Hòa và Mỹ sát hại?Có thể Đỗ Mười nhận lệnh đưa ông Hồ vào Huế rồi giết theo lệnh Duẩn Thọ?
Đỗ Mười dẫn đại quân tấn công Huế và hộ tống Hồ Chí Minh vào Huế nhưng Hồ chết đại quân tan tác nên Đỗ Mười phát điên.Dẫu sao Đỗ Mười cũng có công lao nên bọn Duẩn Thọ đưa Đỗ Mười làm Tổng Bí thư để thưởng công lao!
Nói tóm lại, ông Hồ bị Việt cộng giết mà thủ phạm là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ .
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể đặt nghi vấn vào thuyết trên. Phải chăng Việt Cộng chiếm Huế 26 ngày là coi như đã chiếm Huế, Huế thuộc về Cộng Sản. Và ông Hồ đã vào Huế rồi bị quân VNCH hạ sát tại đây?chết tại đây?
Nhiều tài liệu trong nước và Quốc tế viết về
Hồ Chí Minh. Các ông bà ký giả và nhà văn nghiên cứu về Hồ Chí Minh,
tất phải lấy tài liệu của Cộng sản Việt Nam. Mà Việt Cộng cái gì cũng
tuyên truyền và dối trá cho nên họ rơi vào sự tuyên truyền dối trá của
cộng sản. Họ vô tình phổ biến cái tuyên truyền và dối trá của Việt cộng
ra khắp thế giới.
Tài liệu của Việt Cộng dối trá nhưng đôi khi sơ hở. Tin Hồ Chí Minh chết, báo Trung Quốc và Việt Cộng khác nhau.
1.Theo đề nghị của bác sĩ, ngày 18/8/1969, Bác không làm việc ở nhà sàn
gỗ nữa. Người xuống ở và làm việc tại ngôi nhà 67 này. Và thế là bắt đầu
những ngày quy luật của cuộc đời đến với Bác ở nơi đây.
Trong những ngày ấy tôi đã được chứng kiến giờ phút Bác ốm, lúc cấp cứu
cho Bác. Tỉnh lại sau những lúc cấp cứu, Bác luôn hỏi han mọi việc.
Những ngày Bác yếu, tuy giữ bí mật rất cao về sức khoẻ của Bác, nhưng xe
cộ hàng ngày ra vào nhiều, đưa các đồng chí TƯ vào thăm Bác, đưa bác sĩ
vào chữa bệnh cho Bác, đưa các phương tiện vào để chữa bệnh cho Bác…,
nên dân dự đoán rằng có thể Bác ốm, vì thế, có nhiều người đến cổng đỏ
(cổng ra vào Phủ Chủ tịch, hàng ngày Bác vẫn thường đi lại cổng này),
nêu tâm nguyện: nếu đúng Bác ốm, chúng tôi xin hiến trái tim của mình để
thay tim cho Bác.
Ngày 29/8/1969, Bác nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và mọi người xung
quanh: Ngày lễ Quốc khánh Bác sẽ ra dự mươi mười lăm phút.
Ngẫm lại thì thấy thật kỳ lạ: 9h ngày 2/9/1969, Bác bị một cơn đau tim
nặng, các giáo sư, bác sĩ phải thực hiện công việc cấp cứu cho Bác. Theo
dõi trên máy điện tim thì đến 9h15 tim Bác ngừng đập hẳn. (Những giây
phút cuối của Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người lập bàn thờ Bác trong Khu Di tích Phủ Chủ tịch. http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/nhung-giay-phut-cuoi-ben-chu-tich-ho-chi-minh-396517.html)
Chính sai lầm đó mà sau này một bà nhà văn Pháp đã viết một cuốn sách
mà ta có dịch ra nhưng cắt phần đó đi. Bà nói, chính sai lầm Mậu Thân
đã dẫn đến cái chết của ông Hồ Chí Minh. Chứ với điều kiện ấy, ông Hồ
Chí Minh [lẽ ra] chưa chết đâu. Nhưng vì ông bị thất bại quá nhiều,
trong việc thí điểm, nào là vụ Nhân văn, v.v. rồi dồn đến cái cuối cùng
là không thực hiện được ý đồ, mà bị các ông kia lấn át, cho nên ông suy
nghĩ, suy sụp và dẫn đến cái chết của ông.”( 'HCM Sinh Bình Khảo' là 'ý đồ xấu' của Trung Quốc .https://www.voatiengviet.com/a/ho-chi-minh-sinh-binh-khao-ho-tap-chuong/3988114.html
Tác giả [Lê Anh Hùng] nói với Đại tá Đoàn Sự (về cuốn “Hồ Chí Minh sinh
bình khảo”): “Đây là âm mưu của cả Trung Quốc lẫn ban lãnh đạo Việt Nam.
Trung Quốc thì rõ ràng rồi. Lãnh đạo Việt Nam thì muốn trên không gian
mạng, công chúng cứ cãi nhau về một chuyện vớ vẩn, vô bổ, một chuyện
không có thật, làm mất thời gian và gây chia rẽ. Riêng chuyện này đã gây
chia rẽ rồi. Đó là thứ nhất. Thứ hai, họ có ý đồ là muốn dân chúng hiểu
rằng ‘Ừ, bây giờ Việt Nam đang lệ thuộc Trung Quốc đấy, nhưng chúng tôi
đang phải giải quyết hậu quả của cái ông Hồ Tập Chương kia để lại.’ Lý
do thứ ba là họ muốn tạo điều kiện, dọn đường về dư luận cho Hoàng Trung
Hải lên nữa.”https://www.voatiengviet.com/a/ho-chi-minh-sinh-binh-khao-ho-tap-chuong/3988114.html
Phải chăng Trịnh Công Sơn nghe Việt Cộng nói ông Hồ vào thăm Huế nên phổ nhạc lời ông Hồ?
Ta sẽ thăm từng người
sẽ đi thăm từng đường, sẽ vô thăm từng nhà
Đó là khẩu khí của một ông lãnh tụ chứ không là của một nhạc sĩ!
Có thể họ đưa Hồ Chí Minh vào thăm đồng bào nhưng bị quân Cộng Hòa và Mỹ sát hại?Có thể Đỗ Mười nhận lệnh đưa ông Hồ vào Huế rồi giết theo lệnh Duẩn Thọ?
Đỗ Mười dẫn đại quân tấn công Huế và hộ tống Hồ Chí Minh vào Huế nhưng Hồ chết đại quân tan tác nên Đỗ Mười phát điên.Dẫu sao Đỗ Mười cũng có công lao nên bọn Duẩn Thọ đưa Đỗ Mười làm Tổng Bí thư để thưởng công lao!
No comments:
Post a Comment