Wednesday, October 4, 2017
NGƯỜI VIỆT THẮNG GIẢI THƠ ANH QUỐC
Tác giả trẻ gốc Việt thắng giải thơ lớn nhất Anh quốc
Ocean Vương - tác giả 28 tuổi, người Mỹ gốc Việt - giành giải Felix Dennis, một giải thưởng thơ quan trọng nhất Anh quốc.
Mới đây, Ocean Vương nhận giải Felix Dennis - một giải thưởng thường niên được mệnh danh là “Oscars trong lĩnh vực thi ca”. Phần thưởng trị giá 5.000 bảng Anh (khoảng 131 triệu đồng). Giải thưởng này được trao để tôn vinh tập thơ đầu tay của Ocean Vương - tập Night Sky with exit wounds.
Andrew Marr - trưởng ban giám khảo - ca ngợi Ocean Vương thực sự là một “giọng nói đáng kinh ngạc”. Ông nói: “Táo bạo và phong phú về hình ảnh,Night sky with exit wounds là một tập thơ đầu tay vô cùng hoàn hảo bởi một tài năng phi thường’.
Trước khi đoạt giải Felix Dennis, tập thơ Night Sky with exit wounds tạo một dấu ấn nhỏ ở Mỹ, khi bán chạy bất ngờ so với cách một tập thơ được đưa ra thị trường. Báo chí Mỹ cũng dành nhiều lời ngợi ca tập thơ này.Theguardian viết về Night Sky with exit wounds: “Mãnh liệt, tinh tế, hình ảnh vượt thời gian… tập thơ cho thấy bóng dáng một bậc thầy về sự liên tưởng”
Ocean Vương sinh năm 1988 tại ngoại ô Sài Gòn. Năm hai tuổi anh cùng gia đình tới Connecticut, Mỹ sống. Anh trải qua một thời gian dài vật lộn với tiếng Anh trước khi có thể sử dụng thuần thục ngôn ngữ này.
Tuổi thơ của anh sống trong cảnh khó khăn, trong một gia đình chỉ toàn phụ nữ gồm bà, mẹ và các dì. Bởi vậy, gia đình, truyền thống và văn hóa Việt ccó ảnh hưởng nhất định tới Ocean Vương. Anh từng nói: "Giọng nói của gia đình tôi vang lên trong đầu mỗi khi tôi nói, tôi viết..."
Hai phiên bản tập thơ Nicht sky with exit wounds.
Vương theo học Đại học Brooklyn với bằng Cử nhân Văn học Anh thế kỷ 19. Lúc còn ngồi ghế giảng đường, anh thường viết thơ trên các tấm bưu thiếp và tặng cho bạn bè. Cho tới khi gặp nhà văn Ben Lerner, anh được biết viết lách có thể là một nghề chuyên nghiệp.
Ocean Vương được đánh giá như một cây bút triển vọng, nhận nhiều giải thưởng và khen tặng của các quỹ nghệ thuật, Hiệp hội nhà văn Mỹ. Năm 2016, Vương nhận giải Whiting Award trị giá 50.000 USD cho thể loại thơ. Trước đó, anh nhận giải thi sĩ trẻ Stanley Kunitz Memorial cho nhà thơ trẻ năm 2012, giải thưởng Pushcart Prize năm 2013…
Thơ của Ocean Vương xuất hiện trên nhiều báo, tạp chí Mỹ như The New York Times, Kenyon Review, The Nation, New Republic, The New Yoker…
Tới nay có ba cuốn sách của Ocean Vương đã xuất bản: Burning (2010), No(2013), Night sky with exit wounds (2016).
Tần Tần.
MÁY BAY MH370 TRỞ VỀ NHẬT BẢN
SHOCK : Dậy sóng cộng đồng mạng Nhật Bản máy bay MH370 trở về nguyên vẹn sau 4 năm mất tích hạ cánh tại sân bay Osaka-Nhật Bản
Vào buổi sáng đẹp trời hôm nay tháng 01.10.2017 Mati Kali và các đồng
nghiệp làm việc tại trạm kiếm soát không lưu sân bay Osaka, Nhật Bản bắt
đầu ca làm việc của họ như bao ngày bình thường khác.
Nhưng một việc bất chợt xảy ra khiến ai cũng bất ngờ, một chiếc máy bay, loại vận tải Y-8 bất ngờ xuất hiện trong tầm mắt các kiểm soát viên không lưu, máy bay hiển thị rõ trên màn hình radar.
“Chúng tôi nhìn thấy chiếc máy bay bằng mắt thường. Và radar lại hiển thị hình ảnh của nó”, Mati
Kali nói
“Các anh nghe này, đây là Osaka, Nhật Bản,Châu Á và hôm nay là 01.10.2017”, nhân viên kiểm soát không lưu thông báo sau khi tra cứu dữ liệu và nhận ra rằng chiếc máy bay xuất hiện trước mắt anh là chiếc phi cơ đã mất tích cách đây 4 năm và bị nghi đã rơi xuống biển.
Viên phi công chiếc MH370 sững sờ khi nghe tin này và gần như không thể giữ được bình tĩnh khi phát hiện mình đã bay tới Nhật Bản trong ngót nghét 4 năm.
Mati Kali nhớ rằng lúc đó các đồng nghiệp của anh đã cố gắng giúp viên phi công bình tĩnh để có thể hạ cánh một cách an toàn.
Không lâu sau đó, máy bay hạ cánh xuống đường băng. Từng nhóm hành khách bước xuống, trong đó có cả những đứa bé chỉ mới 6, 7 hoặc 10 tuổi. Điều kỳ lạ hơn là cuống vé trên tay họ đều ghi rõ dòng chữ “Giờ bay 4h50, ngày 7.6.2014”.
Hàng loạt câu hỏi được đặt ra lúc này, nếu chiếc máy bay khởi hành cách đây 4 năm, những đứa trẻ cũng đã phải trên 40 tuổi. Và càng đau đầu hơn khi các hành khách đều nói rằng họ tưởng máy bay chỉ cất cánh được 2 tiếng.
Cảnh sát sau đó cũng kiểm tra thẻ căn cước của họ và xác nhận đây chính xác là những hành khách có mặt trên chiếc máy bay mất tích cách đây 4 năm.
Các nhà khoa học khi đó cũng đã vào cuộc nhưng chưa ai có thể lý giải nổi điều này. Đến lúc này, các nhà thuyết âm mưu mới vào cuộc và khẳng định rằng đây là minh chứng cho sự tồn tại của lỗ hổng thời gian. Theo đó, những hành khách trên chuyến bay nói trên đã lạc vào vùng không gian không xác định khiến 2 tiếng bay của họ tại đó dài bằng 4 năm ngoài hiện thực. Đó là lý do khiến họ không già đi và vẫn trẻ trung như khi họ mất tích năm 2014.
Nhưng một việc bất chợt xảy ra khiến ai cũng bất ngờ, một chiếc máy bay, loại vận tải Y-8 bất ngờ xuất hiện trong tầm mắt các kiểm soát viên không lưu, máy bay hiển thị rõ trên màn hình radar.
“Chúng tôi nhìn thấy chiếc máy bay bằng mắt thường. Và radar lại hiển thị hình ảnh của nó”, Mati
Kali nói
.
Sau một lúc quét tần số, cuối cùng Mati Kali và các đồng nghiệp đã kết nối được với chiếc Y-8.
“Đây là Mati Kali các anh từ đâu đến?”, nhân viên không lưu hỏi.
“Ôi Chúa ơi, chúng tôi là máy bay MH370 của Hãng hàng không Malaysia
Airlines bay từ Kuala Lumpur về Bắc Kinh chở theo 239 hành khách. Chúng
tôi phải bay ra sao?”, phi công chiếc MH370 hồi đáp.
“MH370, các anh hơi lệch về hướng đông rồi, Đây là Nhật Bản. Các anh
xuất phát từ lúc nào? – “Chúng tôi cất cánh lúc 4h50 sáng 7.6”.
Mati Kali lúc này mới bắt đầu thắc mắc bởi không có khả năng bay từ
Kuala Lumpur đến Bắc Kinh chỉ trong hơn 30 phút và hôm nay là một buổi
sáng tháng 10 chứ không phải tháng 6 như viên phi công thông báo. Nghi
ngờ nghe nhầm, các đồng nghiệp của anh hỏi lại để chắc chắn: “Các anh
xuất phát ngày nào?”. Và tất cả đều không khỏi ngỡ ngàng khi nhận được
câu trả lời 7.6.2014, tức là chiếc máy bay đã xuất phát từ 4 năm trước
và dự kiến sẽ hạ cánh ở sân bay quốc tế Bắc Kinh lúc 9h55sáng.
“Các anh nghe này, đây là Osaka, Nhật Bản,Châu Á và hôm nay là 01.10.2017”, nhân viên kiểm soát không lưu thông báo sau khi tra cứu dữ liệu và nhận ra rằng chiếc máy bay xuất hiện trước mắt anh là chiếc phi cơ đã mất tích cách đây 4 năm và bị nghi đã rơi xuống biển.
Viên phi công chiếc MH370 sững sờ khi nghe tin này và gần như không thể giữ được bình tĩnh khi phát hiện mình đã bay tới Nhật Bản trong ngót nghét 4 năm.
Mati Kali nhớ rằng lúc đó các đồng nghiệp của anh đã cố gắng giúp viên phi công bình tĩnh để có thể hạ cánh một cách an toàn.
Không lâu sau đó, máy bay hạ cánh xuống đường băng. Từng nhóm hành khách bước xuống, trong đó có cả những đứa bé chỉ mới 6, 7 hoặc 10 tuổi. Điều kỳ lạ hơn là cuống vé trên tay họ đều ghi rõ dòng chữ “Giờ bay 4h50, ngày 7.6.2014”.
Hàng loạt câu hỏi được đặt ra lúc này, nếu chiếc máy bay khởi hành cách đây 4 năm, những đứa trẻ cũng đã phải trên 40 tuổi. Và càng đau đầu hơn khi các hành khách đều nói rằng họ tưởng máy bay chỉ cất cánh được 2 tiếng.
Cảnh sát sau đó cũng kiểm tra thẻ căn cước của họ và xác nhận đây chính xác là những hành khách có mặt trên chiếc máy bay mất tích cách đây 4 năm.
Các nhà khoa học khi đó cũng đã vào cuộc nhưng chưa ai có thể lý giải nổi điều này. Đến lúc này, các nhà thuyết âm mưu mới vào cuộc và khẳng định rằng đây là minh chứng cho sự tồn tại của lỗ hổng thời gian. Theo đó, những hành khách trên chuyến bay nói trên đã lạc vào vùng không gian không xác định khiến 2 tiếng bay của họ tại đó dài bằng 4 năm ngoài hiện thực. Đó là lý do khiến họ không già đi và vẫn trẻ trung như khi họ mất tích năm 2014.
Monday, October 2, 2017
KÝ THIỆT * PHIM THE VIETNAM WAR
The Vietnam War”, một bộ phim đồ sộ… rỗng tuếch?
http://hon-viet.co.uk/KyThiet_TheVietnamWarMotBoPhimDoSoRongTuech.htm
Sáu mươi hai năm (1955-2017) sau khi can thiệp vào cuộc tranh chấp tại
Việt Nam, người Mỹ vẫn chưa hiểu tại sao Hoa Kỳ đã có mặt tại đó, và
tiếp tục tranh cãi, tiếp tục tìm cách giải thích.
Ký Thiệt
Bộ phim “The Vietnam War” đang được chiếu ở nhiều nơi, và được nhiều
người nói tới, là cố gắng mới nhất của người Mỹ để giải thích và rút tỉa
bài học từ cuộc chiến gây nhiều chia rẽ và tranh cãi nhất trong lịch sử
Hoa Kỳ.
Bộ phim này dài tới 18 giờ chiếu, gồm 10 đoạn, mỗi đoạn có tựa đề riêng.
Một bộ phim đồ sộ. Giám đốc sản xuất là Ken Burns, cùng với người cộng
sự Lynn Novick, đã tới Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới để làm
phim và phỏng vấn 84 nhân chứng ở mọi phía. Khoảng 20 sử gia và học giả
đã hợp tác làm bộ phim. Hơn 25 ngàn bức ảnh vô số tài liệu được sử dụng
lần đầu.
Bộ phim được mở đầu với Đoạn “Déjà Vu”, đã lội ngược dòng lịch sử Việt
Nam từ khi Pháp chiếm Việt Nam (1858) tới năm 1961, khi ông Ngô Đình
Diệm thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam VN với sự hậu thuẫn của
Hoa Kỳ.
Đoạn 2, “Riding the Tiger”, (1961-1963).
Đoạn 3, “The River Styx”, (01/1964-12/1965).
Đoạn 4, “Resolve”, (01/1966-06/1967).
Đoạn 5, “This Is What We Do”, (07/1967-12/1967).
Đoạn 6, “Things Fall Apart”, (01/1968-05/1968).
Đoạn 7, “The Veneer of Civilization”, (06/1968-05/1969).
Đoạn 8, “The History of the World”, (04/1969-05/1970).
Đoạn 9, “A Disrespectful Loyalty”, (05/1970-03/1973).
Đoạn 10, “The Weight of Memory”, (03/1973-về sau).
Mặc dù chưa xem cả 10 đoạn, khán giả người Việt cũng không thấy có gì
mới lạ, so với bộ phim “Vietnam: A Television History” hơn 30 năm trước,
dài 13 giờ chiếu, cũng do PBS sản xuất, mà một người Mỹ lương thiện,
Tiến sĩ James Banerian, đã phải viết cuốn sách hơn 300 trang, cuốn
“Losers are Pirates” (Thua Là Giặc), để phản bác, nêu ra những điều gian
trá của bộ phim được gọi là “lịch sử”.
“The Vietnam War” mới khởi chiếu vào giữa tháng 9 trên PBS, vài nước Âu
Châu, và đưa lên mạng. Cho tới nay đã có vài ý kiến được nói lên.
“42 năm qua, nhà làm phim về chiến tranh Việt Nam vẫn có cái nhìn lệch
lạc, không nói lên đúng diễn tiến của lịch sử. Tuy họ thiếu trung thực,
nhưng chúng ta vẫn phải ngả mũ kính trọng và cảm ơn những người lính Mỹ
và người lính VNCH đã sát cánh hy sinh mạng sống của mình báo vệ tự do
cho thế giới và Miền Nam Việt Nam. ‘The Việt Nam War’ đã không đề cập
đến Lập Pháp Hoa Kỳ đã trói tay Hành Pháp, để nước Mỹ mang tiếng phản
bội đồng minh, tạo tiếng xấu cho quân đội Mỹ là đã thất bại ở Việt Nam.”
(Đinh Hùng Cường)
“Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng đáng bỏ thời giờ xem.” (Nguyễn Ngọc Sẵng)
“The Vietnam War không là bộ phim ‘one size fits all’. Nó dành cho tất
cả nhưng không thỏa mãn được tất cả. Bởi vì, cuộc chiến đã để lại một
gánh nặng tâm lý cực kỳ khủng khiếp. Nó chạm đến tổn thương lẫn kiêu
hãnh. Nó khơi gợi vinh quang và nhục nhã, và sự lẫn lộn giữa vinh quang
và nhục nhã. Nó dắt người ta đến ranh giới của đúng và sai, và sự lẫn
lộn của đúng và sai. Chỉ bước thêm một bước nhỏ qua lằn ranh, người ta
sẽ thấy họ dường như đã sai mà khi lùi lại thì họ lại thấy như là mình
đúng. Cái tâm lý đó đè nặng lên lương tri đối với những người có lương
tri khi nhìn lại ý nghĩa của việc tham chiến, và với cả những kẻ hậu thế
quan sát cuộc chiến như một phần di sản khốc liệt của dân tộc.” (Mạnh
Kim)
Thật ra, “The Vietnam War” là một bộ phim do người Mỹ làm cho khán giả
người Mỹ xem để cố “giải ảo”, cố làm ra vẻ khách quan, trung thực, đã
đem vào phim thật nhiều chi tiết, thật nhiều nhân chứng, kể cả những chi
tiết không cần thiết và vô giá trị như những khúc phim “tài liệu” do
CSBV thực hiện với mục đích tuyên truyền, những nhân chứng vô danh ở mọi
phía nói những câu tầm thường, vô nghĩa.
Năm ngày trước khi PBS chiếu đoạn mở đầu của “The Vietnam War”, nhật báo
Washington Times có đăng một bài của Eric Althoff viết về bộ phim này,
trong đó Burns đã nói như sau:
“Điều mà chúng tôi đã bỏ ra mười năm nay để làm là đào xới, khai quật
toàn bộ câu chuyện về Việt Nam, do đó chúng tôi đã nhận ra rằng nhiều sự
thật có thể cùng hiện hữu. Dù là một anh lính chiến Mỹ tin tưởng nhiệt
thành vào sứ mạng của mình, hay người lính không tin điều đó nhưng đã đi
(tham chiến) là vì bị động viên, hay những người ở nhà tranh cãi về sự
khôn ngoan và đạo đức của Hòa Kỳ trong việc can dự vào một cuộc tranh
chấp ở phương xa như vậy.
“Nếu anh biết ngay từ lúc khởi đầu (can dự vào cuộc chiến ấy) là sai và
anh nói như thế, có chỗ cho anh trong bộ phim này. Nếu anh nghĩ chúng ta
vẫn nên ở lại đó chiến đấu chống lại cộng sản, cũng có chỗ cho anh
trong bộ phim của chúng tôi.”
Vì chủ trương như vậy nên bộ phim của Burns và Novick là một tổng hợp hổ
lốn của đủ mọi thứ, kể cả những thứ chỉ đáng vứt vào sọt rác, trong đó
có những sản phẩm của truyền thông Mỹ mà ngày nay đã bị buộc tội là thủ
phạm đã gây ra cái chết của Tự Do tại Việt Nam năm 1975, chứ không phải
vì Hoa Kỳ đã sai lầm, hay vì Quân đội VNCH “không chịu chiến đấu”, hay
vì cộng sản VN có chính nghĩa và chiến đấu ngoan cường tài giỏi dưới sự
thống lãnh của “thiên tài quân sự” Võ Nguyên Giáp (như đã được báo chí
phương Tây tôn vinh).
Burns đã biện hộ cho truyền thông dòng chính Mỹ rằng trong khi nhãn hiệu
“tin ngụy tạo” (fake news) được dán một cách dễ dàng cho những câu
chuyện mà người tiêu thụ không thích, “tôi tin rằng Chiến Tranh Việt Nam
là ‘giờ đẹp nhất’ (finest hour) của truyền thông (Mỹ) khi họ đã dứt
khoát giúp công chúng Mỹ biết chuyện gì đang diễn ra ở nơi cách xa nửa
vòng thế giới.”
“Chúng ta gọi là ‘tin ngụy tạo’ những gì chúng ta không đồng ý với nhưng
đó lại là sự thật. Chúng tôi không muốn nói rằng chúng ta sẽ sửa đổi
ngày tháng của cuộc Tổng công kích Tết (Mậu Thân); đó có lẽ là ‘tin ngụy
tạo’.
“Chúng ta sống trong một nền văn hóa truyền thông cặp đôi luôn luôn là
trạng thái đỏ/trạng thái xanh, và nếu chúng ta không thể thoát ra khỏi
điều đó, chúng ta không thể là một quốc gia.”
Phải chăng Burns muốn nói về sự chia rẽ trong công luận Mỹ và ông ta
cùng với Novick muốn cống hiến một bộ phim mà từ đó công luận Mỹ sẽ rút
tỉa được những bài học về cuộc chiến tại Việt Nam?
Vậy thì những bài học nào đã được rút tỉa từ bộ phim được gọi là tài liệu (documentary) của Burns và Novick? Burns nói:
“Chúng ta có thể rút tỉa những bài học từ cuộc chiến ấy trong nhiều cách
tích cực bằng học hỏi làm cách nào để nói chuyện với nhau và để đừng
nói người khác là sai. Khi bạn đối xử với người khác một cách tôn kính,
bạn có khả năng thoát ra khỏi sự đơn giản của ý niệm ai đúng ai sai, ai
phải ai trái.”
“Ngay cả vào năm 1965, những người chống đối (tại Mỹ) đã viết trên biểu
ngữ “Hãy đưa lính Mỹ về nhà!” (Bring the GIs homes). Đã có những khu vực
riêng biệt cho sự phản đối, đặc biệt là sau vụ Mỹ Lai. Và vì vậy chúng
ta đã tin rằng mọi người lính (khi trở về) đều bị phun nước bọt, mọi
người lính đều bị gọi là ‘tên giết trẻ em’ (baby killer), và sự thật
điều ấy đã không xảy ra.”
Burns và Novick hy vọng bộ phim của họ sẽ giúp dân Mỹ sớm hàn gắn vết
thương Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra một cách chậm chạp.
Nhiều người không tin như vậy, nhưng không thể không đồng ý với Burns:
“Chúng ta học được một điều từ cuộc chiến Việt Nam. Sẽ không bao giờ nữa
chúng ta buộc tội những chiến binh của chúng ta.”
Vậy thì buộc tội ai trong bi kịch Việt Nam?
Thật ra, trong những bên tham dự vào cuộc Chiến tranh Việt Nam
(1960-1975) chỉ có Hoa Kỳ là chia rẽ và tranh cãi, thậm chí kéo dài cho
tới hơn nửa thế kỷ sau cũng chưa biết tới bao giờ mới chấm dứt.
Cộng sản Việt Nam, kẻ đã xua quân xâm lược Việt Nam Cộng Hòa gây ra cuộc
chiến tranh tại miền Nam VN không chia rẽ, tranh cãi. Hay không thể
chia rẽ, tranh cãi dưới một chế độ cộng sản, độc tài đảng trị.
Việt Nam Cộng Hòa (một quốc gia có chủ quyền, được hơn 100 nước nhìn
nhận), nạn nhân của cuộc xâm lăng do CSBV phát động, cũng không chia rẽ,
tranh cãi. Trong cuộc chiến đấu tự vệ, VNCH đã phải chống lại hai mặt
trận: mặt trận quân sự mặt trận hậu phương với sự quấy rối do CSBV xúi
dục, giật dây.
Có một điệp khúc bất công thường được nghe tại Mỹ là “Quân đội VNCH
không chịu chiến đấu”. “Không chịu chiến đấu” mà số lính tử trận của
QLVNCH gấp sáu lần Quân đội Mỹ, chưa kể gần hai triệu thương binh, và
quân đội ấy đã chiến đấu để bảo vệ miền Nam VN trong suốt 20 năm, mười
năm trước khi quân Mỹ tham chiến (1955-1965) và tiếp tục chiến đấu sau
khi quân Mỹ rút về nước và bị cúp viện trợ.
Tiến sĩ James Banerian có lý khi đặt tên cho cuốn sách của ông là
“Losers Are Pirates” để bênh vực VNCH và Quân đội VNCH, chống lại bộ
phim “Vietnam: A Television History” hơn 30 năm trước. Bên chiến bại đã
bị gán cho đủ thứ tội, kể cả giặc cướp.
Năm nay, 2017, “The Vietnam War”, đồ sộ hơn và có vẻ “khách quan” hơn,
nhưng vẫn không nhìn ra đâu là nguồn gốc của cuộc chiến tranh ấy, đâu là
chính và đâu là tà.
Hai ngày sau khi “The Vietnam War” được khởi chiếu trên PBS, ngày
19.9.2017 trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Donald Trump đã
nói, “nói” chứ không phải “đọc”, trong 41 phút về vai trò của Hoa Kỳ
trên thế giới, trong đó có đoạn sau đây:
“Nước Mỹ làm nhiều hơn là nói cho những giá trị được xiển dương trong
Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc. Công dân của nước chúng tôi đã trả cái
giá bằng sinh mạng để bảo vệ tự do của chúng tôi và tự do của nhiều quốc
gia có đại diện tại đại hội trường này. Nhiệt tình của nước Mỹ được đo
lường trên chiến trường nơi những thanh niên nam và nữ của chúng tôi đã
chiến đấu bên cạnh những đồng minh của chúng tôi.
Từ những bờ biển của Âu Châu tới các sa mạc tại Trung Đông tới rừng rậm Á
Châu, một thành tích vĩnh cửu cho bản chất người Mỹ là ngay cả sau khi
chúng tôi và đồng minh của chúng tôi xuất hiện trong chiến thắng từ
những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử, chúng tôi đã không
tìm cách bành trướng lãnh thổ hay chống lại và áp đặt lối sống của chúng
tôi lên người khác. Đối lại, chúng tôi đã giúp tạo dựng lên những định
chế như cái này (LHQ) để bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh, và thịnh
vượng cho tất cả mọi người. Cho những quốc gia khác biệt trên thế giới,
đây là hy vọng của chúng tôi.”
Đoạn trên đây đáng được dùng để nhắc nhở những người làm phim “The
Vietnam War”. Và, những cựu công dân và cựu quân nhân VNCH có nghe đoạn
trên đây trong bài nói của ông Trump chắc không tránh khỏi buồn và tự
hỏi: “Tại sao đại diện cho Việt Nam tại Đại Hội Đồng LHQ không phải là
VNCH, đồng minh của Hoa Kỳ và đã từng sát cánh bên nhau chiến đấu cho lý
tưởng Tự Do?”
Ký Thiệt
TS.NGUYỄN NGIỌC SẴNG * PHIM THE VIETMAM WAR
LỜI PHẢN BIỆN TẠI BUỔI TRÌNH CHIẾU
SƠ LƯỢC PHIM “THE VIETNAM WAR”
TS Nguyễn Ngọc Sẵng
Tôi may mắn được đại diện Đài Truyền hình PBS và Thư viện địa phương mời
vào Ban Điều hành thảo luận (discussing panel) về phim The Vietnam War
do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏ ra mười năm thu thập tài
liệu để làm ra cuốn phim 18 tập này. Phim được trình chiếu vào ngày
17-9-2017 trên Đài Truyền hình PBS của Mỹ.
Trước lượng khán giả khoảng hơn 200 người, toàn là người Mỹ (trừ cô phụ
tá tôi là một bác sĩ trẻ, Quyên Huỳnh), tôi rất áy náy, nhưng quyết định
nhận lời vì nghĩ rằng đây là cơ hội để nói lên quan điểm của Người lính
VNCH về Chiến tranh VN. Tôi lên đường vì ý niệm đó dù biết sẽ không dễ
dàng, nhất là ngôn ngữ.
Sau phần trình chiếu, họ hỏi mỗi người trong Ban Điều hành thảo luận một
câu. Trong phim có một cựu chiến binh Bắc Việt, tên là Bảo Ninh, được
phỏng vấn, và ông nói rằng trong cuộc chiến tranh VN KHÔNG có người
thắng (no winners). Người điều khiển chương trình hỏi tôi nghĩ gì về ý
kiến này?
Trước khi trả lời, tôi trình bày nhận định rằng muốn biết ai thắng, ai
thua phải biết ít nhất ba điều căn bản: (1) mục tiêu tham chiến của các
bên, (2) sự tổn thất mà họ trả giá, (3) và đánh giá trên tổng thể do
cuộc chiến gây ra.
A. Mục Tiêu Tham Chiến
1. Mỹ tham gia cuộc chiến vì muốn KIỀM CHẾ Trung Cộng, theo tài liệu
Pantagon Papers, một nghiên cứu chính thức của Bộ Quốc phòng Mỹ về sự
tham dự của Mỹ tại VN từ 1945 đến 1967 do ông Daniel Ellsberg thực hiện
và được công khai trên tờ The New York Times năm 1971, chủ yếu không
nhằm bảo vệ sự độc lập của Miền Nam. Bảo vệ Miền Nam là chiến thuật
trong chiến lược ngăn chận Tàu. Tài liệu này dài khoảng 4.000 trang và
được liệt kê là Tối Mật và được giải mã ngày 4 tháng 5 năm 2011 tại thư
viện của Tổng thống Richard Nixon tại California.
2. Mục tiêu của Bắc Việt là Giải phóng miền Nam bằng vũ lực để làm bàn
đạp cho cuộc bành trướng của cộng sản quốc tế xuống vùng Đông Nam Á.
Việc này do Hồ Chí Minh thực hiện với sứ mạng là người lãnh đạo CS Đông
Dương từ năm 1932. Và điều này hoàn toàn phù hợp với lời tuyên bố của
Tổng bí thư Lê Duẩn "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc", nếu
câu nói này đúng sự thật. Đây là sứ mạng của những người lãnh đạo CS VN.
3. Mục tiêu của những nhà lãnh đạo Miền Nam là bảo vệ độc lập, chủ quyền
Miền Nam chống lại sự xâm lăng của CS Miền Bắc với sự viện trợ tối đa
của Nga, Tàu và khối cộng sản Đông Âu, kể cả Cuba. Nhưng vì thế yếu họ
chấp nhận và yêu cầu Mỹ và khối tư bản viện trợ để họ bảo vệ lãnh thổ,
và dân chúng theo họ.
B. Những Tổn Thất Của Các Bên
1. Phía Mỹ có 58.307 binh sĩ tử trận, chi tiêu 168 tỷ Mỹ kim (có tài
liệu nói 1020 tỷ), 303.604 binh sĩ bị thương, 1.948 binh sĩ mất tích và
lúc cao điểm của chiến tranh có 543.000 binh sĩ tham chiến. Khi chiến
binh Mỹ từ chiến trường VN về bị dân chúng khinh thị, không đón tiếp
trọng thể như những binh sĩ tham gia trong những cuộc chiến ngoại biên
khác. Và vết thương chiến tranh chưa hoàn toàn hàn gắn được.
2. Phía Bắc Việt có 950.765 binh sĩ tử trận, gần 600.000 bị thương, số
mất tích không có con số rõ ràng, ước tính khoảng 300 ngàn người...
Trong chiến cuộc, Miền Bắc được xếp vào hạng 1 trong 5 quốc gia nghèo
nhất thế giới. Và cuộc chiến do Miền Bắc gây ra làm thiệt mạng 2 triệu
thường dân.
3. Phía VNCH có 275 ngàn chiến sĩ thiệt mạng, khoảng 1.170.000 người bị
thương, không có con số mất tích được liệt kê và ngày 30-4-1975 họ đầu
hàng vô điều kiện.
C. Ai Thắng? Ai Thua?
1. Từ những phân tích trên, tôi trình bày quan điểm riêng rằng Mỹ đã đạt
được mục tiêu Kiềm Chế Trung Cộng, vậy Mỹ là người THẮNG.
2. Cũng từ phân tách nầy, tôi trình bày cho thính giả rằng Bắc Việt hy
sinh gần 1 triệu binh sĩ, gần 6 trăm ngàn người thương tật, 300 ngàn
người mất tích, làm 2 triệu thường dân bị chết oan và biến đất nước
thành 1 trong 5 nước nghèo nhất thế giới, vậy Bắc Việt là người THUA vì
phải trả giá quá đắt mà Trung Cộng vẫn không nhuộm đỏ được vùng Đông Nam
Á. Họ THUA vì không đạt được mục tiêu.
3. VNCH đầu hàng vô điều kiện ngày 30-4-1975 là người THUA. Theo bài
phỏng vấn của Tướng Frederick C. Weyand ngày 12-6-2006 thì cuộc chiến bị
thua không phải do quân đội kém cỏi mà do những người lãnh đạo chính
trị ở Washington. Họ thắng trên chiến trường, nhưng thua vì sự bội ước
của đồng minh. Nhưng theo thiển nghĩ thì sau khi Hoa Kỳ đã hoàn thành
mục tiêu kiềm chế Trung Cộng, họ rút lui bằng sự trả giá của nhiều bên,
trong đó có cả binh sĩ của họ.
Kết luận sau cùng của tôi với cử tọa là cả hai phía người Việt đều là kẻ
thua, nhất là dân tộc VN là người thua trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm
của người CS do Hồ Chí Minh, người CS quốc tế, thực hiện sứ mạng trên sự
đau xót vô vàn của dân tộc, làm kiệt quệ đất nước và tạo vết thương
lịch sử dù 42 năm rồi vẫn chưa lành và không biết có cơ hội nào để lành
vết thương dân tộc này.
Một cử tọa hỏi tôi về hậu quả tâm lý hiện tại của cuộc chiến, tôi chỉ
đơn giản trả lời "bên thắng cuộc vẫn coi bên thua cuộc là kẻ thù cho dù
chiến tranh đã chấm dứt 42 năm rồi".
Cuốn phim vẫn trình bày những sự kiện mang tính cách tuyên truyền cũ
rích dù họ bỏ ra 10 năm sưu tập tài liệu, phỏng vấn một số người trong
và ngoài nước. Vẫn trưng tấm hình Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên
VC Bảy Lốp trên đường phố Sài Gòn, vẫn bản cũ kết tội tên Trung úy
William Calley sát hại 128 thường dân, vẫn chuyện thả bom napalm vào một
số làng mạc gây thương tích cho thường dân..., nhưng tôi nói thẳng với
họ rằng VC pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy ngày 9-3-1974 làm thiệt
mạng gần 200 em học sinh tiểu học sao đoàn làm phim không biết? Trong
trận Tết Mậu Thân, người CS sát hại gần 6 ngàn đồng bào vô tội tại Huế,
sự kiện chấn động cả thế giới mà Đài truyền hình PBS không hay? Phim vẫn
cho rằng công ty hóa chất Dow Chemical sản xuất bom napalm để dội vào
làng giết hại dân lành, tôi thẳng thắn nói với họ rằng bom napalm không
chế tạo để giết dân lành và vụ cô Kim Phúc là một trong những nhầm lẫn
trong chiến trường như Mỹ đã từng nhầm lẫn ném bom trúng tòa đại sứ
Trung Cộng tại Kosovo 1999, thỉnh thoảng ném bom nhầm tại Iraq,
Afghanistan, Syria... Thậm chí họ còn ném bom nhầm vào những đơn vị quân
đội của Hoa Kỳ, bắn nhầm binh sĩ Hoa Kỳ..., trong chiến tranh không thế
nào tránh nhầm lẫn được. Thế mà bọn truyền thông dòng chính vẫn cố tình
vu khống một cách lố bịch, không chút liêm sỉ những sai lầm mà ai cũng
có thể nhận thấy. Thảo nào Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump miệt thị họ
không oan chút nào.
Sau buổi hội thảo, một sử gia Mỹ tên Bill Laurie gặp tôi và ông nói Bảy
Lốp là tên khủng bố đã sát hại 6 người thân của viên chức VNCH, nên bắn
Lốp là không vi phạm công ước Genève. Có thể đáng lẽ người Mỹ đã rút
quân trước 1969, nếu người tư lệnh chiến trường VN của họ có chiến thuật
đúng đắn, khác với chiến thuật "Truy tầm, tiêu diệt" mà Tướng
Westmoreland, người được báo chí gọi là vị Tướng bại trận tại Việt Nam
(The General Who Lost Vietnam) áp dụng trong nhiều năm. Những nhà bình
luận quân sự chỉ trích chiến thuật dùng lực lượng hùng hậu để truy lùng
giặc của Westmoreland là không đúng. Chiến thuật này chỉ có kết quả khi
đối phương chấp nhận đương đầu, nhưng quân Bắc Việt vào thời điểm đó, họ
tránh né trong những cuộc hành quân lớn, họ rút sâu vào rừng hoặc vượt
qua biên giới Cao Miên, Lào để bảo toàn lực lượng.
Nếu họ sử dụng những vị tướng tài như Tướng Harold K. Johnson, Frederick
C. Weyand… thì có lẽ người lính Mỹ đã hồi hương sớm, ít thiệt hại sau
khi đã hoàn thành mục đích Kiềm Chế Trung Cộng. Và mức độ thiệt hại mà
quân đội hai phía VN sẽ ít hơn, nhất là con số thiệt hại nhân mạng dân
lành sẽ thấp hơn, mức độ nghèo nàn, đói rách, lạc hậu của người dân VN
sẽ ít hơn, và trên hết, hận thù không dai dẳng như ngày hôm nay.
Vấn đề viện trợ quân sự cho Miền Nam cũng góp phần trong chánh sách
"phủi tay" của Hoa Kỳ. Từ con số 2.8 tỉ năm 1973, còn 1 tỉ năm 1974 và
300 Triệu cho năm 1975. Và cuối cùng, tháng 12-1974 Quốc hội Hoa Kỳ
quyết định cắt hết viện trợ quân sự, chỉ 55 ngày sau là VN CH sụp đổ.
Không có quân đội nào đánh giặc mà không có vũ khí, hoặc viện trợ vũ
khí, chỉ trừ "truyền thuyết" Quân giải phóng với tay không bắt được máy
bay Mỹ.
Không ai kéo lịch sử lùi lại được. Người gây ra cuộc chiến vì nhiệm vụ
quốc tế CS phải thành khẩn thú nhận trách nhiệm lịch sử. Không chấp nhận
hôm nay, trong tương lai lịch sử cũng sẽ ghi lại bởi chính con cháu
chúng ta, họ đọc lịch sử từ hai phía, họ đọc lịch sử thế giới, họ sẽ
viết lại sự thật mà thế hệ cha ông họ đã trải qua. Đó là chính sử chứ
không phải tài liệu tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật mà người CS
dùng bạo lực để bóp méo và gọi là lịch sử.
Họ phải thành tâm Hòa giải hòa hợp với những nạn nhân của họ, với đồng
bào trong nước để xây dựng lại sức mạnh dân tộc để chống lại giặc Tàu.
Làm chậm trễ sẽ mất nước và tội của họ sẽ chồng chất thêm với đất nước
và dân tộc.
Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng
đáng bỏ thời giờ xem. Điều này tôi đã viết trên Yahoo, nhưng 15 phút
sau bị gỡ xuống. Hy vọng Burns và Novick sẽ đọc và nhìn lại vấn đề, nếu
họ muốn trình bày một số khía cạnh thật về chiến tranh VN.
TS. N.N.S.
KIM CƯƠNG GIÁC NGỘ
"Lá Sầu Riêng" Kim Cương
15 Tháng Sáu 201512:04 SA(Xem: 7665)
"BÁO VĂN HÓA - CALIFORNIA" THỨ HAI 15 JUNE 2015
Kim Cương năm 18 tuổi (trái), năm 25 tuổi và mẹ – nghệ sĩ Bảy Nam. Nguồn: congan.com.vn
Kim Cương: Từ giác ngộ đạo Phật đến giác ngộ chủ nghĩa Mác!
Ngày 21 tháng 9/14 vừa qua, trả lời phỏng vấn đài Á Châu Tự Do, Kim Cương nói rằng vở kịch “Lá Sầu Riêng” đối với cô là một “gia bảo”, một gia bảo mẹ cô dành riêng cho cô sau khi bà Bảy Nam, mẹ cô, qua đời.
Trước khi lý giải về ý nghĩa vở kịch nầy, có lẽ chúng ta nên trở lại từ đầu, khởi thủy của một cuộc đời, và cũng là một tác phẩm, nếu có ai coi đó là một tác phẩm để đời, trên một phương diện nào đó.
Theo Kim Cương kể lại, đời cô là đời thứ tư của một nghiệp dĩ: Đời ca hát, từ cố nội, tới nội, rồi cha mẹ và tới đời cô.
Bà Bảy Nam, mẹ cô, là cô đào một gánh hát lưu diễn “dọc đường số 1”, - nói theo kiểu Phan Nhật Nam. – Gánh hát ghé Huế, lúc đó cận tết năm Bính Tý, 1936, thì mẹ cô chuyển đẻ, phải ở lại Huế. Gánh hát tiếp tực đi Vinh (Thanh Hóa). Bà Bảy Nam sinh một gái, tên cúng cơm là Nguyễn Thị Kim Cương, tuổi Tý.
Kim Cương nổi tiếng cũng phải. Tuổi tý, truyện Trinh Thử của Hồ Huyền Qui viết là “Tâng rằng ông Tý chẳng hề dẻ dui.” Tổng thống Ngô Đình Diệm, sinh năm 1901, tuổi tý. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, sinh năm 1924, cũng tuổi tý. Kim Cương cùng tuổi với John McCain. (và cả tôi nữa đấy!)
Nửa tháng sau, gánh hát trở lại Huế, trên đường đi Đà-Lạt. Tại cố đô, đoàn hát vở Quan Âm Thị Kính, bà Bảy Nam bồng đứa con còn đỏ hỏn lên sân khấu, đóng vai Quan Âm mắc nạn. Mới 15 ngày tuổi đã lên sân khấu, đó là nghiệp dĩ không chỉ một mình Kim Cương mà cả một dòng họ. Và ngay chính tuồng hát “Quan Âm Thị Kính” cũng là một biểu tỏ về sự giác ngô đạo Phật: Từ bi là cốt lõi của tôn giáo nầy, và sự giác ngộ của tôn giáo nầy là: Từ bi, điều căn bản để sống với cha mẹ, anh em, bà con, đồng loại và chúng sanh.
Bà Bảy Nam cho con vào trường dòng, học nội trú. Cuộc đời một nghệ sĩ lưu diễn, khó chu toàn việc làm mẹ, và nhất là sợ gián đoạn việc học của con. Thế nhưng, năm 16 tuổi, Kim Cương rời trường học và bắt đầu nghiệp ca hát của thế hệ thứ tư.
“Con nhà nòi”, như tục ngữ thường nói, tài năng ca hát Kim Cương phát triển rất nhanh, nổi tiếng “Kỳ nữ”. Kỳ nữ Kim Cương là biệt danh do nhà báo Nguyễn Ang Ca đặt cho Kim Cương, giới thiệu trên báo chí, cho giới kịch trường và cho đồng bào Nam Bộ mê cải lương. Người ta chấp nhận danh tiếng đó một cách dễ dàng, kèm với lời khen Kim Cương đóng như thật, Kim Cương nhập vai như thật. Chuyện trên sân khấu mà y như chuyện của cô: Kim Cương khóc thật khi nhập vai của mình. Nó không phải là nước mắt cá sấu, không phải là giọt nước mắt của một vai kịch, mà chính là nước mặt thật sự, đau khổ thật sự, dù sự đau khổ ấy diễn ra trên sân khấu.
Kỳ nữ là một người con gái có tài ba đặc biệt, khó có ai có được. Đó là bên giới nữ. Phía nam thì có “Quái kiệt Trần Văn Trạch.” Hai bên ngang nhau, chẳng ai chịu thua ai.
Sau 1954, nhờ hòa bình, nhờ chế độ chính trị ổn định, nên văn hóa, văn nghệ phát triển: Nhiều gánh cải lương xuất hiện, nhiều hãng phim, cuốn phim xuất hiện, nhiều chương trình ca nhạc xuất hiện, hằng tuần có tuyển lựa tài tử ở rạp Quốc Thanh. Kịch nói cũng dần dần xuất hiện, trước hết là ban Dân Nam, ban Kim Cương, rồi ban kịch Vũ Đức Duy, Thẩm Thúy Hằng… dài cho tới 30 tháng Tư-1975, dù về sau, chiến tranh càng ngày càng khốc liệt.
Soạn giả cải lương thì có nhiều: Nổi tiếng có Hà Triều Hoa Phượng, Thiếu Linh. Riêng thoại kịch, ít soạn giả, nên Kim Cương tự soạn cho mình. Vở đầu tiên tên là “Lá Sầu riêng.” Chưa tin ở tài nghệ của mình, Kim Cương không để tên thật mà để tên Hoàng Dũng, - có người nói là tên con trai của cô. Vở “Lá Sầu riêng” khá thành công, được khán giả hoan nghênh ngay từ đêm diễn đầu tiên.
Nội dung vở kịch là câu chuyện một cô gái quê tên Diệu (do chính Kim Cương đóng), có một người tình tên là Hoàng (Vân Hùng đóng). Hai người yêu nhau qua mối tình ngây thơ, đơn sơ, trong sáng như cỏ nội hoa đồng. Hoàng lên Saigon học, để ít lâu về làm thầy giáo, cưới Diệu để Diệu được dân làng gọi là thím giáo.
Thế rồi do cuộc đời đưa đẩy, chuyện cũ không thành. Hoàng cưới một cô vợ khác, có một con gái. Diệu, vì nhà nghèo, làm vợ bé một người khác, sinh một con trai, nhưng không được con gọi là mẹ. Cuộc đời lại tan tác vì chiến tranh. Cuối cùng, do Trời đưa đẩy, Diệu và Hoàng trở thành xui gia. Khi hai đứa trẻ cưới nhau xong thì “anh xui, chị xui” làm lại cuộc đời, gương vỡ lại lành. Cuộc đời tuy nhiều gian khổ, đầy thương đau khóc hận, nhưng vở kịch kết thúc trong nhân quả từ bi. Những người tốt, rốt lại gặp mọi sự an lành hạnh phúc.
Tuy nhiên, sau 1975, hồi kết vở kịch đã bi sửa chữa, thay đổi. Xin nói sau.
Ngay chính cuộc đời Kim Cương, có lẽ, - tôi nói có lẽ -, không mấy hạnh phúc. Tôi không rõ người yêu đầu đời của Kim Cương là ai, nhưng khi Anh Tứ, tài tử ciné mới nổi danh của đất Sài thành cuối thập niên 1950, một người được giới phim ảnh kịch trường hồi đó gọi là James Dean Việt Nam, bị tử nạn. (1) Giới nghệ sĩ có nhiều tiếng khóc tiếc thương Anh Tử, nhưng ngay lúc đó, những người ở xa đất Sai thành còn nghe được tiếng khóc của Kim Cương dành cho Anh Tứ qua làn sóng điện, trong đám ma được truyền thanh lại của kẻ tài hoa đoản mệnh. Báo chí còn nói tới việc Kim Cương ngất xỉu trước quan tài Anh Tứ nữa kia!
Tài danh Kim Cương vẫn nổi trội. Cô cũng như quái kiệt Trần Văn Trạch lên đường sang Pháp. Trần Văn Trạch nổi tiếng với Chiều Mưa Biên Giới, Hải Ngoại Thương Ca ở Paris (2) thì Kim Cương theo chân giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê biểu diễn ca kịch Việt Nam tại Teheran, trong buổi hội diễn kịch nghệ thế giới. Trần Văn Khê thì phân tích và giải thích về cách hóa trang, lối ca diễn trong hát bội Việt Nam trong khi Kim Cương chứng minh bằng cách biểu diễn trên sân khấu. Các nhà nghiên cứu, các giáo sư kịch nghệ và âm nhạc thế giới ngạc nhiên đến sững sờ khi biết ra rằng dân tộc Việt Nam đã từng có một nền kịch nghệ cao cấp, tuyệt vời đến thế trong lịch sử kịch nghệ nhân loại.
Về sau, chuyện tình Kim Cương bị không ít người phê phán, khi nó nhuốm màu sắc chính trị. Người ta bàn tán việc Kim Cương trở thành người yêu của (đại úy) nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chỉ vì Nguyễn Văn Đông là chánh văn phòng của trung tướng Nguyễn Văn Là, lúc ấy - thời Ngô Đình Diệm – là tổng giám đốc tổng nha Cảnh Sát Công An. Những lần vô tận văn phòng thăm viếng, hẹn hò với viên sĩ quan nhạc sĩ chánh văn phòng ấy, Kim Cương đã thuổng được bao nhiêu tài liệu bí mật để chuyển cho phía bên kia?
Việc cặp bồ ấy lại tái diễn một lần nữa với trung tá Nguyễn Mâu, khi ông Mâu là trưởng khối Cảnh Sát Đặc Biệt của tổng nha Cảnh Sát?
Người ta lại đồn Kim Cương đã bị móc nối (hay thuê mướn) trong những lần lưu diễn với Trần Văn Khê ở Pháp và hải ngoại. Kim Cương muốn làm một Matahari Việt Nam. Matahari là một cô đào người Nhựt, quan hệ với phe địch để lấy tài liệu tình báo cho đất nước của cô. Kim Cương, cũng là một cô đào hát, làm tình báo cho Cộng Sản Việt Nam để làm gì? Tiếp tay cho việc xâm lược miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt!
Mùa hè năm 1977, tôi bị chuyển vể trại cải tạo Suối Máu. Xin trích lại một đoạn trong “Hồi Ký Cải Tạo” - bài số 5 của tôi:
“Anh em chúng tôi được đưa vào một khu mới: Khu 4. Trước 1975, chỗ nầy là khu thể thao. Bây giờ “trường cải tạo” phát triển nên khu thể thao biến thành khu nhà giam “cải tạo viên”. Gần một chục gian nhà “tôn” mới được dựng lên ở đây, cái nằm ngang, cái nằm dọc, trông hơi giống khu lao động Saigon cũ, tuy nhà tôn ở đây có dài hơn. Gian nhà “tôn” đầu tiên cách riêng với toàn bộ khu nhà bằng một hàng rào chăng giây kẽm khá kỹ.
Bên kia là gian bệnh nhân. Một người nằm trên giường, bụng to như bụng trâu. Người ta nói là bệnh cổ trướng; có người gọi là viêm gan. Cổ trướng và viêm gan có bà con gì với nhau?! Tôi mù tịt về y khoa! Một người đứng sau tôi, có lẽ tới đây trước tôi mấy tháng, nói: “Ông nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đó.”
Có người à lên một tiếng vui mừng! Người vừa nói tỏ ra rành chuyện: “Bác sĩ nói chắc không qua khỏi. Kim Cương có lên thăm ông ta!” Nguyễn Uyên, họa sĩ, đứng bên tôi nói: “Bác sĩ Việt Cộng thì biết gì. Khám tầm bậy không!” Người lúc nãy cải chính: “Bác sĩ của mình, không phải “Cách mạng”. Có anh chưởi thề: “Cách mạng cái con c…” Nói xong anh ta cười hề hề. Mấy người khác cũng cười theo… Thấy vui vui, tôi bỗng hát to một chút, cũng mong ông nhạc sĩ nghe được cho vui: “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu…”
Nguyễn Thụy Hiền, đại úy giải ngũ, từ quân lao Gò Vấp được tha hai năm nay, người tôi mới quen, nói đùa: “Anh hát tầm bậy không! Sao lại “đi về đâu”. Anh phải hát “Chiều mưa biên giới anh đi về … đây!” Đang nằm chình ình ở đó mà còn hỏi “đi về đâu” nữa. Không chừng về dưới đó.” Họa sĩ Nguyễn Uyên, họa sĩ, đại úy cục Tâm Lý Chiến, cự nự: “Người ta sắp chết mà mấy ông còn đem ra đùa. Bậy! Bậy quá.” Mọi người tản đi.
Người miền Nam có nhiều cái buồn cười. Tình nguyện đi lính, chọn những binh chủng thật dữ: Cọp Ba Đầu Rằn, Trâu Điên, Nhảy Dù, v.v… nhưng lại phản chiến hay thích phản chiến. Ngay “Hùng móm” em tôi cũng vậy. Ra trường, cố chọn cho được Nhảy Dù, sợ bị người ta chê, không cho đi Dù. Mậu Thân, “loon” thiếu úy mới toanh, đánh một trận nổi tiếng gan lì ở Vạn Kiếp rồi về giữ Bộ Tổng Tham Mưu ở trại Trần Hưng Đạo.
Tôi cũng mới nhập ngủ, lính mới tò te ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, cuối tuần đi phép. Hai anh em đi dạo phố Lê Lợi, Hùng ghé quán nhạc Tú Quỳnh mua một tập nhạc của Trịnh Công Sơn vì trong đó có bài “Cho Một Người Nằm Xuống”, một bài hát phản chiến, Trịnh Công Sơn khóc Lưu Kim Cương. Trước khi nhập ngũ, Hùng rất thích hát những câu như “Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng…” Hà Thanh hát những bài hát nầy của Nguyễn Văn Đông thì tuyệt, trước nay chưa ai bằng. Nhưng thằng em út của tôi cũng “mâu thuẫn không ai bằng”.
Nguyễn Thụy Hiền hỏi tôi:
“Anh Hải, người ta nói Kim Cương hoạt động cho Cộng Sản có phải không?”
- “Hoạt động mẹ gì!” - Tôi nói. “Con mẹ ấy chính cống là Việt Cộng. Hồi Nguyễn Văn Đông làm chánh văn phòng hay bí thư gì đó cho tướng Là, nó bắt cặp với Nguyễn Văn Đông để vào ra Tổng Nha Cảnh Sát lấy cắp tài liệu chuyển ra bưng. Sau nầy nó cặp với Nguyễn Mâu, cũng để làm cái việc tình báo đó.”
Hiền hỏi:
- “Ông Mâu nầy làm gì?”
- “Trưởng khối Đặc Biệt ở Tổng Nha. Ông biết không, mấy thằng chả nầy ngu lắm!” Tôi nói.
- “Ngu sao?” Hiền hỏi.
- “Thằng cha Mâu khoe với nhân viên ông ta có con cu bự nên Kim Cương mê lắm. Té ra nó có cần cu đâu! Nó vào ngủ với thằng chả ngay trong Tổng Nha là để chôm tài liệu. Thằng chả cứ nghĩ vì cái củ cải bự mà nó mê. Mất nước là phải!” Tôi giải thích.
- “Anh làm cảnh sát ở dưới ruộng không, sao mà biết rõ trên nầy vậy?” Hiền nói.
- “Hồi đó thì ai biết gì. Sau 30 tháng Tư mọi chuyện mới tá hỏa ra. Một đám ở trại Trảng Lớn với mình là sĩ quan khối Đặc Biệt. Mấy ngày sắp đứt phim, tụi nó ngồi đốt tài liệu mà khóc. Coi như thế là xong! Tới đó trong Tổng Nha nhiều ông mới lộ ra nhiều điều mà trước nay câm như hến. Người ta sợ mấy ông lớn ghét, trả thù.” Tôi giải thích.
- “Vậy chớ Kim Cương tình nghĩa gì mà lên thăm Nguyễn Văn Đông!” Hiền lại hỏi.
- “Lòng con người ta phức tạp lắm, không biết hết được. Yêu nhau nhưng coi thường nhau, lợi dụng nhau. “Trong khi chắp cánh liền cành mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.” Đọc xong câu Kiều, tôi cười.
Tới đó, Hiền mới tin tôi. Thật ra, Hiền nhỏ hơn tôi ít ra cũng gần mười tuổi, thấy tôi hay làm thầy bàn nên tin tôi lắm. Bàn trật hay trúng nghe cũng… vui.
Cũng ở trại nầy, chúng tôi chung tiền mua TV coi cho đỡ buồn. Tối tối, tập trung trong một gian nhà trống, coi TV Saigon. Thỉnh thoảng coi kịch như “Cô gái và anh lái xe” có Tú Trinh, bồ cũ Trần Phú Trắc, cựu chỉ huy trưởng Cảnh Sát Nhà Bè, cháu ông Tám Thẹo (tiếng lóng gọi ông Thiệu), gọi bằng cậu ruột.
Trắc ngồi coi bên tôi, trong ánh sáng nhập nhằng, không rõ mặt Trắc buồn hay vui khi xem Tú Trinh diễn kịch. Hoặc vở “Gánh Cỏ Sông Hàn”. Trung úy Đoan (Việt Cộng) gọi mỉa rằng chúng tôi giống như con ngựa không quên chủ cũ, là đế quốc Mỹ. Và vở “Lá Sầu riêng” của Kim Cương, cũng do Kim Cương đóng vai Diệu. Tôi không nhớ hôm đó ai dóng vai Hoàng, Vân Hùng hay người mới.
Xem xong, về nằm không ngủ được. Tôi trăn trở trên cái võng làm bằng bao bố tời. Trần Hưng, đại úy, thuộc tiểu khu Bình Định, học chữ Nho chăm lắm, thường dạy kèm chữ Nho cho tôi, thấy vậy, hỏi:
- “Bữa nay anh không ngủ được?”- “Tại vì xem vở kịch của Kim Cương.” Tôi nói.
- “Vở “Lá Sầu Riêng”? Hưng hỏi.
- “Người ta có thể “Gặp thời thế, thế thời phải thế.” Kim Cương khác, bà nầy thay đổi có ý thức đấu tranh giai cấp.”
- “Tôi có xem hồi trước, tối nay tôi không xem kịch đó, tôi không rõ.” Hưng nói.
- “Vở kịch nầy hồi xưa kết cục khác, bây giờ đoạn kết bị người ta sửa lại cho đúng đường lối văn nghệ của Cộng Sản.”
- “Anh nói rõ đi.” Hưng giục.
- “Hồi trước kết cục có hậu, hai vai chính, Diệu và Hoàng lấy nhau. Mối tình ngày xưa tan vở nay lại kết hợp vui vầy. Còn bây giờ thì…” Tôi chưa nói hết thì Hưng hỏi:
- “Họ bỏ nhau?”
- “Đương nhiên. Anh chàng Hoàng trở thành một tên tư sản. Cô gái vẫn còn là cô gái quê. Hai người chia tay. Bên một tư sản, một bên vô sản, sao lấy được nhau? Kim Cương bỏ đạo Phật, giác ngộ chủ nghĩa Mác rồi.”
- “Hai sự giác ngộ nầy khác nhau?” Hưng lại hỏi.
- “Hoàn toàn trái ngược. Giác ngộ đạo Phật là giác ngộ khổ hải, lấy từ bi mà xoa dịu khổ hải ấy. Giác ngộ chủ nghĩa Mác là ý thức bị bóc lột, là đấu tranh giai cấp, là hận thù. Một bên là tình thương, một bên là hận thù, ngược nhau!”
- “Nghĩa là Kim Cương từ bỏ từ bi, đi theo thù hận?” Hưng lại hỏi.
- “Có thể Kim Cương bị phê bình, viết kịch thiếu ý thức cách mạng. Bọn chúng vẽ đường cho Kim Cương thay đổi hồi kết cục cho đúng đường lối chính sách.” Tôi nói.
- “Có thể mẹ gì nữa. Con ngựa Kim Cương đã bị đóng khớp mang dàm, bảo sao nghe vậy, nghệ sĩ cái gì nữa.”
- “Con ngựa nầy còn thua con ngựa “Gánh Cỏ Sông Hàn.” Tôi nói đùa.
Vậy mà đêm dó, khuya lắm tôi mới ngủ. Tôi không tiếc cho Kim Cương, tiếc cho ai cả, nhưng tôi thấy buồn cho tôi. Sau Nhân Văn Gia Phẩm tới “hiện tượng” Kim Cương. Tôi phải sống suốt đời trong một chế độ như thế hay sao? Không nói chi tới sáng tác, chỉ việc nghe, xem và đọc, tôi chui đầu vào những thứ bậy bạ đó thì cuộc đời buồn chán biết bao nhiêu! !
Nghĩ tới hai chữ “gia bảo” mà Kim Cương nói với phóng viên đài Á Châu Tự Do, tôi thấy đau lòng! Có lẽ bà Bảy Nam không muốn con mình sống với lòng thù hận như thế! Vậy thì “Lá Sầu Riêng” là “gia bảo” thế nào được!
Phải chi biết trước có việc phỏng vấn nầy, nếu được, tôi sẽ hỏi Kim Cương cô ta bỏ Phật, bỏ từ bi mà nuôi dưỡng lòng thù hận làm chi vậy!?
hoànglonghải
(1) Anh Tứ nguyên là thợ sửa xe gắn máy, sau đóng phim. Tôi không rõ Anh Tứ đóng những phim nào. Hồi đó, những phim nổi tiếng là Chúng Tôi Muốn sống, Ánh Sáng Miền Nam, Hồi Chuông Linh Mụ,…
(2) Sang hát ở Paris, Quái kiệt Trần Văn Trạch rất nổi tiếng. Người mê tiếng hát của ông nhất, theo báo chí Saigon hồi ấy là bà Souphanuvong. Ông hoàng nầy tốt nghiệp kỹ sư làm việc ở Nha Trang, và cưới một bà họ Ngụy, em hay chị gì đó của “giáo sư Ngụy Như KonTum, dòng dõi ông Ngụy Khắc Đản, phó sứ trong sứ bộ Phan Thanh Giản, được vua Tự Đức cử sang Pháp để chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ./
https://nhatbaovanhoa.com/a260 2/la-sau-rieng-kim-cuong
- “Hoạt động mẹ gì!” - Tôi nói. “Con mẹ ấy chính cống là Việt Cộng. Hồi Nguyễn Văn Đông làm chánh văn phòng hay bí thư gì đó cho tướng Là, nó bắt cặp với Nguyễn Văn Đông để vào ra Tổng Nha Cảnh Sát lấy cắp tài liệu chuyển ra bưng. Sau nầy nó cặp với Nguyễn Mâu, cũng để làm cái việc tình báo đó.”
Hiền hỏi:
- “Ông Mâu nầy làm gì?”
- “Trưởng khối Đặc Biệt ở Tổng Nha. Ông biết không, mấy thằng chả nầy ngu lắm!” Tôi nói.
- “Ngu sao?” Hiền hỏi.
- “Thằng cha Mâu khoe với nhân viên ông ta có con cu bự nên Kim Cương mê lắm. Té ra nó có cần cu đâu! Nó vào ngủ với thằng chả ngay trong Tổng Nha là để chôm tài liệu. Thằng chả cứ nghĩ vì cái củ cải bự mà nó mê. Mất nước là phải!” Tôi giải thích.
- “Anh làm cảnh sát ở dưới ruộng không, sao mà biết rõ trên nầy vậy?” Hiền nói.
- “Hồi đó thì ai biết gì. Sau 30 tháng Tư mọi chuyện mới tá hỏa ra. Một đám ở trại Trảng Lớn với mình là sĩ quan khối Đặc Biệt. Mấy ngày sắp đứt phim, tụi nó ngồi đốt tài liệu mà khóc. Coi như thế là xong! Tới đó trong Tổng Nha nhiều ông mới lộ ra nhiều điều mà trước nay câm như hến. Người ta sợ mấy ông lớn ghét, trả thù.” Tôi giải thích.
- “Vậy chớ Kim Cương tình nghĩa gì mà lên thăm Nguyễn Văn Đông!” Hiền lại hỏi.
- “Lòng con người ta phức tạp lắm, không biết hết được. Yêu nhau nhưng coi thường nhau, lợi dụng nhau. “Trong khi chắp cánh liền cành mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.” Đọc xong câu Kiều, tôi cười.
Tới đó, Hiền mới tin tôi. Thật ra, Hiền nhỏ hơn tôi ít ra cũng gần mười tuổi, thấy tôi hay làm thầy bàn nên tin tôi lắm. Bàn trật hay trúng nghe cũng… vui.
Cũng ở trại nầy, chúng tôi chung tiền mua TV coi cho đỡ buồn. Tối tối, tập trung trong một gian nhà trống, coi TV Saigon. Thỉnh thoảng coi kịch như “Cô gái và anh lái xe” có Tú Trinh, bồ cũ Trần Phú Trắc, cựu chỉ huy trưởng Cảnh Sát Nhà Bè, cháu ông Tám Thẹo (tiếng lóng gọi ông Thiệu), gọi bằng cậu ruột.
Trắc ngồi coi bên tôi, trong ánh sáng nhập nhằng, không rõ mặt Trắc buồn hay vui khi xem Tú Trinh diễn kịch. Hoặc vở “Gánh Cỏ Sông Hàn”. Trung úy Đoan (Việt Cộng) gọi mỉa rằng chúng tôi giống như con ngựa không quên chủ cũ, là đế quốc Mỹ. Và vở “Lá Sầu riêng” của Kim Cương, cũng do Kim Cương đóng vai Diệu. Tôi không nhớ hôm đó ai dóng vai Hoàng, Vân Hùng hay người mới.
Xem xong, về nằm không ngủ được. Tôi trăn trở trên cái võng làm bằng bao bố tời. Trần Hưng, đại úy, thuộc tiểu khu Bình Định, học chữ Nho chăm lắm, thường dạy kèm chữ Nho cho tôi, thấy vậy, hỏi:
- “Bữa nay anh không ngủ được?”- “Tại vì xem vở kịch của Kim Cương.” Tôi nói.
- “Vở “Lá Sầu Riêng”? Hưng hỏi.
- “Người ta có thể “Gặp thời thế, thế thời phải thế.” Kim Cương khác, bà nầy thay đổi có ý thức đấu tranh giai cấp.”
- “Tôi có xem hồi trước, tối nay tôi không xem kịch đó, tôi không rõ.” Hưng nói.
- “Vở kịch nầy hồi xưa kết cục khác, bây giờ đoạn kết bị người ta sửa lại cho đúng đường lối văn nghệ của Cộng Sản.”
- “Anh nói rõ đi.” Hưng giục.
- “Hồi trước kết cục có hậu, hai vai chính, Diệu và Hoàng lấy nhau. Mối tình ngày xưa tan vở nay lại kết hợp vui vầy. Còn bây giờ thì…” Tôi chưa nói hết thì Hưng hỏi:
- “Họ bỏ nhau?”
- “Đương nhiên. Anh chàng Hoàng trở thành một tên tư sản. Cô gái vẫn còn là cô gái quê. Hai người chia tay. Bên một tư sản, một bên vô sản, sao lấy được nhau? Kim Cương bỏ đạo Phật, giác ngộ chủ nghĩa Mác rồi.”
- “Hai sự giác ngộ nầy khác nhau?” Hưng lại hỏi.
- “Hoàn toàn trái ngược. Giác ngộ đạo Phật là giác ngộ khổ hải, lấy từ bi mà xoa dịu khổ hải ấy. Giác ngộ chủ nghĩa Mác là ý thức bị bóc lột, là đấu tranh giai cấp, là hận thù. Một bên là tình thương, một bên là hận thù, ngược nhau!”
- “Nghĩa là Kim Cương từ bỏ từ bi, đi theo thù hận?” Hưng lại hỏi.
- “Có thể Kim Cương bị phê bình, viết kịch thiếu ý thức cách mạng. Bọn chúng vẽ đường cho Kim Cương thay đổi hồi kết cục cho đúng đường lối chính sách.” Tôi nói.
- “Có thể mẹ gì nữa. Con ngựa Kim Cương đã bị đóng khớp mang dàm, bảo sao nghe vậy, nghệ sĩ cái gì nữa.”
- “Con ngựa nầy còn thua con ngựa “Gánh Cỏ Sông Hàn.” Tôi nói đùa.
Vậy mà đêm dó, khuya lắm tôi mới ngủ. Tôi không tiếc cho Kim Cương, tiếc cho ai cả, nhưng tôi thấy buồn cho tôi. Sau Nhân Văn Gia Phẩm tới “hiện tượng” Kim Cương. Tôi phải sống suốt đời trong một chế độ như thế hay sao? Không nói chi tới sáng tác, chỉ việc nghe, xem và đọc, tôi chui đầu vào những thứ bậy bạ đó thì cuộc đời buồn chán biết bao nhiêu! !
Nghĩ tới hai chữ “gia bảo” mà Kim Cương nói với phóng viên đài Á Châu Tự Do, tôi thấy đau lòng! Có lẽ bà Bảy Nam không muốn con mình sống với lòng thù hận như thế! Vậy thì “Lá Sầu Riêng” là “gia bảo” thế nào được!
Phải chi biết trước có việc phỏng vấn nầy, nếu được, tôi sẽ hỏi Kim Cương cô ta bỏ Phật, bỏ từ bi mà nuôi dưỡng lòng thù hận làm chi vậy!?
hoànglonghải
(1) Anh Tứ nguyên là thợ sửa xe gắn máy, sau đóng phim. Tôi không rõ Anh Tứ đóng những phim nào. Hồi đó, những phim nổi tiếng là Chúng Tôi Muốn sống, Ánh Sáng Miền Nam, Hồi Chuông Linh Mụ,…
(2) Sang hát ở Paris, Quái kiệt Trần Văn Trạch rất nổi tiếng. Người mê tiếng hát của ông nhất, theo báo chí Saigon hồi ấy là bà Souphanuvong. Ông hoàng nầy tốt nghiệp kỹ sư làm việc ở Nha Trang, và cưới một bà họ Ngụy, em hay chị gì đó của “giáo sư Ngụy Như KonTum, dòng dõi ông Ngụy Khắc Đản, phó sứ trong sứ bộ Phan Thanh Giản, được vua Tự Đức cử sang Pháp để chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ./
https://nhatbaovanhoa.com/a260 2/la-sau-rieng-kim-cuong
Sunday, October 1, 2017
NGUYỄN CAO QUYỀN * TRẠI CẢI TẠO
Trại cải tạo của CSVN sau năm 1975
LTS: Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính
quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53 trường
Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học
Luật khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm
Tòa Án Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974),
Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm 1975, ông bị
đưa đi tù cải tạo (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa
Kỳ từ năm 1990. Ông từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng
Hoa Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính
Trị, nguyên Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông
còn viết nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng
rãi. Ban biên tập nhật báo Cali Today hân hạnh giới thiệu bài viết này
đến qúy độc gỉa.
Những đoạn viết sau đây sẽ trình bày một số sự kiện chính trị đưa dẫn đến việc những quân nhân VNCH bị Hà Nội tập trung cải tạo, mô tả chính sách cải tạo của CSVN sau năm 1975 và sau cùng đề cập đến thiện chí của Hoa Kỳ trong việc giải thoát tù cải tạo và cho họ cùng gia đình sang sinh sống tại Hoa Kỳ và tại những nước dân chủ trên thế giới.
I – GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CHUNG CỦA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam kể từ thập niên 1940 nhưng sự can thiệp này chỉ trở thành tích cực bắt đầu từ thập nhiên 1950. Sau khi Thế Chiến 2 chấm dứt và cục diện chính trị thế giới đã hình thành rõ rệt với hai khối Tự Do và Cộng Sản kình chống nhau trong một mô thức được goi là Chiến Tranh Lạnh thì tại Hoa Kỳ tổng thống D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Đông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là cuộc chiến giữa Cộng Sản và Thế Giới Tự Do. Từ đó Hoa Kỳ viện trơ cho Đông Dương càng ngày càng nhiều để đánh trả lại Việt Minh hầu ngăn chặn sự bành trướng của phe cộng sản do Liên Xô và Trung Cộng lãnh đạo.
Sau Hiệp Định Genève 1954 ( chia cắt Việt Nam thành 2 miền Nam, Bắc,) Hoa Kỳ biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng. Tình nghĩa đồng minh mặc dù thắm thiết nhưng tới lúc cần tự mình đảm nhiệm cuộc chiến, Hoa Kỳ đã không do dự loại bỏ tổng thống Ngô Đình Diệm để được rảnh tay mang quân vào Việt Nam và Mỹ hóa chiến tranh. Ngày 8-3-1965 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng mà không hề thỏa hiệp trước với chính phủ Saigon. Số quân Mỹ tham chiến ở Việt Nam lớn dần theo thời gian và có lúc đã lên tới nửa triệu người.
Đến khi Hoa Kỳ cần oanh tạc Bắc Việt thì họ lại tạo ra sự kiện tàu Maddox. Tuy nhiên với những trận mưa bom trên đất Bắc và những chiến dịch lùng diệt rất quy mô tại miền Nam, Hoa Kỳ vẫn không đạt được mục tiêu và bị sa lầy. Số binh sĩ Mỹ tử trận tại miền Nam càng ngày càng gia tăng và số phi cơ bị bắn hạ tại miền Bắc cũng lên cao ( 1621 chiếc từ 1961 đến 1966 ).
Cuối năm 1967 nước Mỹ chìm trong xáo trộn và phân hóa vì chiến tranh Việt Nam.Tổng thống Johnson quyết định ‘’Việt Nam Hóa ‘’ cuộc chiến . Được tăng cường, quân lực Việt Nam Cộng Hòa ( VNCH )lần lượt thay thế quân lực Hoa Kỳ trong những trách vụ hành quân quan trọng.
Chiến tích lẫy lừng nhất của quân lực anh hùng này là chiến thắng Tết Mậu Thân ( 1968 ) Chiến thắng này bẻ gẫy kế hoạch tổng tấn công/tổng nổi dậy của tướng c.s Võ Nguyên Giáp và phá tan huyền thoại ‘’bách chiến bách thắng’’ của quân đội cộng sản Bắc Việt. Gần 60.000 quận cộng sản tung vào trận địa đã bị tiêu diệt hết phần nửa chỉ trong một tháng giao tranh. Phần còn lại bị thanh toán gần hết khi cuộc chiến chấm dứt. Trong cuộc chiến khốc liệt ấy, người ta ghi nhận bên phía VNCH chỉ có 4954 chiến sĩ hy sinh.
Sau chiến thắng Tết Mậu Thân, quân lực VNCH tự đảm nhiệm trọng trách tác chiến để quân Mỹ có thể rút về nước. Cuộc hành quân thần tốc vào Campuchia để truy lùng Việt Cộng và tiếp cứu Lon Nol, chiến dịch Lam Sơn 719 cắt đứt đường tiếp liệu của cộng sản, cuộc tử thủ An Lộc được ví như trận Verdun của Pháp, cuộc tái chiếm cổ thành Quảng Trị tranh nhau với binh sĩ cộng sản từng thước đất, đã chúng minh một cách hung hốn khả năng tác chiến và tinh thần dũng cảm của quân lực anh hùng ấy.
Song song với những chiến tích lẫy lừng của quân đội, công cuộc ‘’Bình Định và Phát Triển Nông Thôn ‘’cũng ở trên đà thành công tốt đẹp. Vào những năm đầu của thập kỷ 1970, theo cuộc thăm dò của Hamlet Evaluation Survey (HES) do các cố vấn Hoa Kỳ thực hiện khắp miền Nam Việt Nam thì trong 1333 xã ấp cuối cùng do chiến dịch Accelerated Pacification Campaign (APC) đảm trách, 1035 xả ấp đã có an ninh và 80% dân số miền Nam đã được sống trong vùng chính phủ kiểm soát.
Chương trình Viẽt Nam Hóa Chiến Tranh đang đi vào giai đọan thành công thì trên thế giới xảy ra một biến cố làm cho chương trình này đứt dọan và cuộc chiến thắng của VNCH bị bỏ lỡ. Năm 1969, trên sông USSURI , dọc theo biên giới Đông Bắc Trung Hoa, Liên Xô và Trung Cộng đã động binh giáp chiến. Sự kiện này chứng minh cho Hoa Kỳ thấy rằng sự nứt rạn, từ năm 1953, giữa hai đảng cộng sản anh em là có thật và Hoa Kỳ đã không bỏ lỡ cơ hội tìm cách ly gián để làm suy nhược hang ngũ đối phương.
Chiến lược toàn cầu của Mỹ thay đổi từ giờ phút đó. Những cuộc vận động ngoại giao và chính trị dồn dập xảy ra nhằm hỗ trợ mục tiêu chiến lược vừa nói :
-Ngày 9-7-1971 Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến.
-Ngày 25-10-1971 tại Đại Hội Đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan để bắt tay với Trung Cộng.
-Ngày 21-2-1972 tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăm viếng Trung Quốc trong 7 ngày.
-Ngày 28-2-1972 Thông Cáo Chung Thượng Hải ra đời. Tổng thống Nixon tuyên bố đây là ‘’một tuần lễ’’sẽ làm thay đổi thế giới ‘’.
Sự thay đổi thế giới khởi sự bằng tiến trình rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam.Bill Sullivan, phụ tá của Henri Kissinger tại hòa đàm Paris tuyên bố rằng :’’…người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta. Làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phiá chúng ta quan trong hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam. ‘’
Điều không may cho miền Nam Việt Nam.là đúng vào lúc chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh đang thành công tốt đẹp thì, trên bàn cờ chính trị thế giới, Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu, còn trong nước thì làn sóng chống chiến tranh dâng lên như nuớc thủy triều. Cả một thế hệ xuống đường vào năm 1968, gồm toàn những thành phần trẻ mới vào đời, chiụ ảnh hưởng tiểu thuyết hiện sinh của Hemingway và Fitzerald. Họ sợ hãi. Một loại sơ hãi đặc biệt chỉ tìm thấy trong các xã hội giàu có. Đó là thứ sợ hãi trách nhiệm vì ham hưởng thụ và không chịu ràng buộc vào bất cứ vấn đề gì. Hoa Kỳ thay dổi chiến lược toàn cầu một phần vì muốn lợi dụng sự phân hóa trong khối cộng sản quốc tế nhưng phần khàc cũng tại áp lực của phong trào phản chiến trong nội địa.
Về phía miền Nam Việt Nam thì mặc dầu chiến đấu oanh liệt và thắng lợi như vậy, rốt cuộc quân lực VNCH đã phải tủi hờn rã ngũ để nhìn Việt Cộng chiếm trọn quê hương. Họ đã là thành phần phải trả giá đắt nhất cho một sự phản bội. Họ không thua vì hèn kém mà thua vì lộ đồ bại trận đã được đồng minh Hoa Kỳ vạch sẵn từ lâu.
Vào giờ phút hấp hối của VNCH, khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, 5 vị tướng tài ba và đảm lược nhất của quân đội đã tuẫn tiết theo truyền thống hào hùng của ông cha. Đó là các tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn 4, Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn 4, Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đòan 5, Trần Văn Hai, tư lệnh Sư Đoàn 7 và Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2.Trong hàng sĩ binh sĩ cấp dưới cũng không ít những tấm gương hiên ngang và khí phách tương tự. Điểm son này cần ghi lại cho các thế hệ mai sau vì là một trong những nét kiêu hùng của nòi giống.
II – TIẾN TRÌNH CẢI TẠO
a/ THỦ ĐỌAN LỪA DỐI THAM ĐỘC CỦA CSVN:
Khi đồng minh Hoa Kỳ tháo chạy trước đà tiến quân của cộng sản Bắc Việt, họ đã để lại đằng sau 980.000 người lính của quân lực VNCH, những quân nhân đã từng sát cánh với binh sĩ Hoa Kỳ bảo vệ biên cương của thế giới Tự Do.
Vào giờ VNCH hấp hối thảm cảnh ‘’sống chết mặc bay ‘’diễn ra vô cùng chua sót. Người ta dẫm lên nhau chạy trốn cộng sản không kể gì đến sinh mạng và tài sản vì Hoa Kỳ không có một chương trình di tản nào tương xứng với tình nghĩa đồng minh. Khởi thủy Mỹ chỉ muốn di tản 50.000 người. Vào phút chót số nhân mạng được may mắn cứu vớt mới nhích lên được con số 130.000. Họ muốn moị chuyện diễn ra nhanh chóng cho xong việc.Người ta đoán được tâm trạng này qua lời nguyền rủa rất tàn nhẫn của Henri Kissinger :’’ Sao chúng không chết phứt cho rồi’’( Why don’t these people die fast ? ). Như vậy,chỉ cần làm một con tính nhỏ người ta có thể thấy ngay là hơn 800.000 binh sĩ của quân lực VNCH đã là nạn nhân của chế độ cải tạo của cộng sản Việt Nam.
Chỉ vài ngày sau khi chiềm trọn miền Nam, những người cộng sản đã lùa
quân nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc gia vào tù bằng một
thủ đoạn vô cùng hèn hạ. Trong một buổi ra mắt mừng chiến thắng, tướng
cộng sản Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh (
Saigon ) với dụng ý hiểm độc đã tuyên bố trước báo chí một câu mà những
người bị cải tạo không thể nào quên ‘’ Đối với người Việt Nam không có
ai là kẻ chiến thắng hay chiến bại. Chỉ có đế quốc Mỹ là bị đánh bại mà
thôi.’’ Vì lời tuyên bố đường mật này mà các quân nhân, công chức và
thành viên đảng phái quốc gia đã tự nguyện đi học tập cải tạo với số
lương thực tự túc là 10 ngày hay 1 tháng tùy theo cấp bậc, chức vụ.
Thế rồi một tháng trôi qua, không ai được tha. Khi giải thích sự việc này, bọn cai tù cộng sản, dương dương tự đắc nói rằng :’’Đó là nghệ thuật của Cách Mạng bắt các anh vào tù chứ làm gì có chuyện trả tự do, sau 1 tháng giam giữ, cho các con người có nợ máu với nhân dân như các anh. Các anh còn phải cải tạo dài dài.’’. Biết mình bị lừa nhiều người đã tự tử. Môt số người khác tìm cách trốn trại để rồi cũng bị bắt lại và đánh chết thảm thương như những con vật.
Sau một năm áp dụng lao động khổ sai cho chế dộ cải tạo, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam, trước khi bị Hà Nội giả tán, công bố chính sách 12 điểm quy định thời gian cải tạo là 3 năm. Sự công bố này lại mang hy vọng cho những người đã mất hết tin tưởng vào viễn ảnh của một ngày về đoàn tụ với gia đình.
Đến cuối năm 1978 thì cái hy vọng mong manh nói trên lại tan tành ra mây khói.Thời gian cải tạo 3 năm như lời cộng sản hứa đã chấm dứt, song chẳng thấy ai được tha về.Trái lại, trong thời gian này, đa số đã bị lưu đầy lên những vùng rừng núi Bắc Việt ma thiêng nước độc với thân tàn ma dại và tinh thần sa xút đến cùng cực. Một làn sóng tự tử thứ hai lại xảy ra, nhưng lần này bên cạnh những xác chết vì thất vọng còn có thêm nhiều xác chết khác vì đói khát và bệnh tật.
Vợ con của những người bị bắt đi cải tạo cũng trở thành nạn nhân của các biện pháp kỳ thị và ngược đãi. Họ bị đuổi khỏi nơi cư trú và phải đi vùng kinh tế mới giữa những rừng núi hoang vu không có một chút tiện nghi tối thiểu cần thiết cho đời sống. Con cái họ bị kỳ thị gắt gao khi thi cử và không được phép vào đại học.
Nhà cửa của họ bị cán bộ cộng sản chia nhau chiếm đoạt, tiền bạc của họ ở
ngân hàng cũng không được phép lấy ra. Trong cơn túng quẫn những phụ nữ
trẻ đẹp đã bị dồn vào thế làm lẽ mọn cho cán bộ cộng sản để có phương
tiện nuôi thân và nuôi con còn nhỏ dại. Những người khác, rủ nhau chạy
ùa ra biển, đem sinh mạng của chính mình và của con cái mình để đổi lấy
tự do. Phong trào ‘’thuyền nhân tị nạn cộng sản ‘’ đã đánh động lương
tâm nhân loại vì trong số hàng triệu ngưòi liều chết ra đi, gần một phần
nửa đã nằm trong bụng cá hoặc làm mồi cho hải tặc.
b/NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG CẢi TẠO ( KINH NGHIỆM BẢN THÂN )
– Những ngày đầu giam lỏng : Sau khi trình diện để được ‘’học tập cải tạo’’chúng tôi được chở bằng xe bus đến Long Thành. Nằm trên đường Saigon-Vũng Tầu, không cách xa thị xã Biên Hòa là bao nhiêu, trại giam Long Thành là một cô nhi viện cũ bị cộng sản trưng dụng làm nhà tù.
Trong những ngày đầu, chúng tôi tương đối được tự do, ăn uống không thiếu thốn vì ngoài lương thực mang theo 1 tháng chúng tôi còn có thể mua thực phẩm tại căng tin của trại. Chúng tôi cũng chưa phải lao động mả chỉ phải học tập 10 bài chính trị và viết tự kiểm. Các bài học chính trị là những tài liệu đơn giản kể tội Mỹ-Ngụy, tuyên truyền lý thuyết cộng sản và phổ biến chính sách khoan hống nhân đạo của chính phủ cách mạng. Những buổi học tập này nhằm gieo vào đầu óc chung tôi mặc cảm tội lỗi để chúng tôi nhận tội và an tâm cải tạo lâu dài. Thỉnh thoảng cũng có cán bộ cao cấp từ trung ương về thuyết trình những đề tài chính trị và quân sự có tính cách vừa khoe khoang vừa đe dọa.
Cái mà những người cộng sản muốn đạt được không phải là vấn đề cải tạo chúng tôi thành những người ủng hộ chế độ mà chủ yếu là khai thác chúng tôi qua những bản tự kiểm để biết thêm tin tức về các mặt tình báo và tài nguyên của miền Nam. Trong thời gian làm tự kiểm cán bộ cộng sản đối xử với chúng tôi rất hòa nhã và tử tế. Họ khuyến khích khai thành thật với bằng chứng cụ thể và tố cáo thật nhiều để đái công chuộc tội với cách mạng. Phải nhìn nhận rằng về mặt khai thác này những người công an cộng sản rất lành nghề và làm việc có hiệu qủa cao.
Sau một tháng cải tạo không ai được tha . Đợt tha đầu tiên, gồm một số ít người có gia đình biết chạy chọt tiền bạc, chỉ xảy ra vào đầu năm 1976 trước khi chúng tôi bị lưu đầy ra Bắc. Chiến dịch lưu đầy này được cộng sản chuẩn bị chu đáo vì họ có thời gian một năm để xắp xếp và thực hiện. Các trại tù miền Bắc được xây cất thêm hoặc dồn lại để có chỗ tiếp nhận chúng tôi.Phương tiện chuyên chở thì gồm vừa hàng không vừa hàng hải. Chuyến máy bay duy nhất chở tù chính trị ra Bắc nhằm mục đích quảng cáo cho chế dộ và đánh lừa dư luận để người ta không để ý tới những chuyến hải hành khủng khiếp tiếp theo.
Sau khi những quân nhân và công chức cao cấp của VNCH đuợc chở bằng máy bay đi rồi chúng tôi được di chuyển từ Long Thành lên trại giam Thủ Đức. Cảnh tù đầy đầu tiên đến với chúng tôi tại trại giam này.Chúng tôi bị lùa vào những phòng giam chật chội thiếu vệ sinh, có cửa sắt khóa chặt dưới con mắt kiểm soát cú vọ của những người công an cộng sản với nét mặt căm thù và hống hách. Hai tháng không hoc tập, không lao động, chỉ ngồi ăn làm cho số lương thực dự trữ cuả chúng tôi dần dần khô cạn. Viễn tượng đói khát bắt đầu xâm chiếm tâm hồn nhưng mỗi người trong chúng tôi cứ phải thúc thủ với ý nghĩ riêng của mình mà không dám chia sẻ với ai vì sợ bị gán cho tội nói xấu chế độ. Chúng tôi ý thức rằng cuộc đời phiêu lưu gian khổ sẽ bắt đầu từ đây.
– Chuyến hải hành khủng khiếp :Thế rồi việc gì phải đến đã đến. Tại trại giam Thủ Đức, một đêm, chúng tôi bị đánh thức dậy, nhận lệnh sắp xếp quân áo để chuyển trại, bị còng tay và chở bằng xe hơi lên bến Tân Cảng Saigon. Tại đây một chiếc tàu thủy to lớn đã chờ sẵn. Chúng tôi bị lùa vào những hầm tâu dành cho súc vật, nằm chờ tàu nhổ neo để bắt đầu chuyến hành trình ra Bắc.Bóng tối của hầm tàu che dấu những giọt nước mắt tuôn ra vì lo sợ, đau buồn và tủi nhục.
Trong suốt ba bốn ngày đêm lênh đênh trên mặt biển chúng tôi phải thu hết can đảm và nghị lực để chịu đựng sự tanh tưỏi và hôi hám của hầm tàu. Ban đêm hầm tối đen như mực. Ánh sáng chỉ lọt qua những kẽ hở khi mặt trời ló rạng. Khi tàu chuyển máy ra khơi, phần đông anh em tù nhân bị say sóng và nằm mê man bất tỉnh. Cao điểm của cảnh khổ cực này xảy ra chỉ một ngày sau khi chuyến hải hành khởi sự. Ví say sóng, nôn mửa và bài tiét nhiều nên lượng bài tiết lớn hơn những thùng chứa đựng khiến phân và nước tiểu cứ tự do đào thoát ra ngoài và len lỏi vào chỗ nằm của các tù nhân mỗi khi tàu chao đảo.
Khi tàu cập bến Hải Phòng, mở nắp hầm ra, những người cai tù sa sẩm mặt
mày vì mùi hôi thối sông lên nồng nặc. Họ tức tốc đóng cửa hầm lại, đi
lấy khẩu tranh đeo vào mũi miệng rồi mới tiếp tục công việc chuyển tù
lên đất. Riêng đối với tù nhân thì khi bước ra khỏi hầm tầu ai cũng có
cảm giác như vừa từ địa ngục được bước lên thiên đàng, một cảm giác chết
đi sống lại.
Thoát được cảnh hầm tàu hôi hám chúng tôi liền bị còng tay và nhồi nhét vào những chiếc xe hơi bịt bùng không cho nhìn thấy cảnh vật bên ngoài. Xe chạy rất lâu trong đêm tối. Mãi gần sáng chúng tôi mới được lệnh ra khỏi xe và nhập trại. Những người công an canh gác cho chúng tôi tắm rửa ngay ở miệng một giếng nước, giặt rũ qua loa rồi hối thúc chúng tôi vào những phòng giam kiên cố cuả nhà tù. Sau khi cửa sắt đóng lại và khóa chặt, họ nói vọng vào từ bên ngoài : ‘’Các anh đến đây an toàn rồi, bây giờ chỉ còn việc an tâm cải tạo để chờ ngày được chính phủ khoan hồng’’. Nói xong họ bỏ đi chỉ còn lại hai người công an trẻ cầm sung gác.
Hói thăm hai người công an trẻ chúng tôi được biết trai này là trại Quảng Ninh, nằm trên rừng núi cao và nhìn ra vịnh Bắc Việt. Trại này hoàn toàn cách ly khỏi xã hội bên ngoài vì đường giao thông rất khó khăn. Xã hội thu hẹp của chúng tôi bây giờ chỉ gồm có ba thành phần :nhóm tù cải tạo chúng tôi mới đến, những người tù hình sự bị giam giữ từ lâu và những người cai tù có nhiệm vụ canh giữ.
Ngày đầu tiên đến trại Quảng Ninh, chúng tôi có cảm tưởng hình như thời gian trôi nhanh hơn thường lệ.Mới sáng đấy mà đã tối ngay. Khí lạnh của độ cao rừng núi thấm vào phòng giam và vào cơ thể con người. Khi màn đêm đổ xuống, trong phòng chì còn lại một ngọn đèn dầu leo lắt và những tiếng thở dài não nuột trong im lặng buồn tanh và ghê rợn.
– Tiến trình diệt chủng bắt dầu : Sáng hôm sau chúng tôi bị phân chia thành đội để bắt đầu làm quen với lao động. Mỗi đội, 30 người, do một đội trưởng là tù nhân và một quản giáo là cán bộ công an phụ trách.Khi đội đi lao động , công an vác súng đi kèm.
Trong những ngày đầu chúng tôi chỉ phải lao động nhẹ chẳng hạn như trồng rau hoặc cuốc sắn gần khu trại giam. Dần dần chúng tôi phải đi xa và phải lao động nặng nhọc hơn chẳng hạn như vào rừng lấy gỗ làm nhà. Sau nhiều ngày làm quen với khung cảnh sinh hoạt trong trại chúng tôi thấy rằng mỗi trại tù cộng sản là một đơn vị kinh tế độc lập. Tù nhân phải lao động để nuôi cán bộ canh giữ mình, để xây trại giam hãm mình và để cung cấp tiện nghi cho khu gia đình là khu vợ con cán bộ ở. Nhà nước không cần chi phí gì nhiều cho trại tù nên nếu nói rằng dưới các chế độ cộng sản nhà tù nhiền hơn trường học thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Bị lưu đầy ra Bắc chúng tôi mất hết liên lạc với gia đình, cho nên mọi nguồn tiếp tế lương thực đều bị cắt đứt. Lao động cả ngày mệt nhọc, chúng tôi chỉ được trại cho ăn 2 bữa, với mỗi bữa hai chén cơm đầy sạn thóc và một ít rau muống luộc.Ngoài hai bữa cơm ra chúng tôi không có thứ gì khác để nuôi sống cơ thể. Mỗi ngày anh em tù nhân nhìn nhau chỉ còn biết thở dài.Ai cũng gầy ốm đi trông thấy.
Ở trại Quảng Ninh chừng hơn một tháng, tôi và một số tù nhân khác bị chuyển đi trại Thanh Cẩm. Trại này nằm trong vùng Bái Thượng, trên thượng nguồn sông Mã, sau những giẫy núi Lam xanh biếc.Từ trại sang biên giới Lào ước lượng chỉ vài cây số. Đến đây chúng tôi bị giam chung với khoảng 700 anh em tù chính trị khác và trong trại cũng có cả một số tù hình sự. Tôi bị giam ở trại này liên tục cho đến ngày được tha về.
Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc ăn có 4 chén cơm với vài cọng rau muống luộc thì sức nào chiụ nổi.Nếu đội nào không đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương sườn và chốc lở sương vai.
Sức người có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh những cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết vì đói, vì thiểu lực.Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, vì chết đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đã trở thành quen thuộc, không gây sợ hãi và cũng không gây súc động. Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát.
Chính sách bắt lao động khổ sai kết hợp với bỏ đói là phương cách giết người tinh vi và thâm độc của những người cộng sản. Đó là sự nhẫn tâm và tàn ác nhất mà con người có thể đối xử với con người.
– Một vài cảnh đói ngoài tưởng tương : Xin kể ra đây vài cảnh đói mà người bình thường sống ngoài xã hội, cho dù óc tưởng tượng có xúc tích đến đâu, cũng không thể nào nghĩ tới :
Một hôm nhân lúc đội tù đang lợp nhà, thình lình anh em tù nhân phát giác một ổ rắn dưới tấm lá tranh. Tức thì một anh hô to ‘’Rắn, Rắn’’. Tiếng hô vừa rứt, đám tù nhân nhanh như cắt đã vây quanh ổ rắn và chỉ trong nháy mắt, bằng tay không, các anh đã bắt hết những con rắn độc, bẻ cổ vứt đi và nhét phần còn lại vào túi áo. Trong giờ giải lao, được phép của cán bộ canh giữ, các anh đã nổi lửa rồi đem rắn ra nướng và ăn ngon như chưa bao giờ ngon thế. Không phải chỉ có rắn mà cả rết, cả chuột, cả cóc nhái, sên ốc…nghĩa là tất cả những con gì cử động mà để cho các anh trông thấy thì đều chịu chung một số phận.
Một hôm khác, nhân ngày Chủ Nhật, không phải lao động, các tù nhân ôm bụng đói đang thiu thiu ngủ thì một anh nghe tiếng chuột con kêu trên mái nhà. Không bỏ lỡ cơ hội, anh liền chồm giậy, gọi thêm 2 người khác rồi cả ba, khiêng bàn, công kênh nhau lên bắt chuột. Họ bắt được một ổ chuột con hãy còn đỏ hỏn, chia nhau ăn sống như nhai những củ sâm.Mặc cho máu mê trào ra ngoài miệng trông như ác qủy, các anh thản nhiên nhai ngấu nghiến như không màng gì tới hoạt cảnh ghê rợn tạo nên.
Một buổi chiều sau khi đi lao dộng về, chúng tôi thấy một anh bạn tù nhân sắp chết đói đang ngồi bên một dòng nước tiểu chảy ta từ phía những thùng phân nổi trong cầu tiêu. Nhìn kỹ thấy anh đang bắt mấy con kiến, tha những mảnh ngô chưa tiêu kịp, di chuyẻn từ cầu tiêu về tổ. Anh lượm những mảnh ngô đó bỏ vào mồm rồi tha cho những con kiến để chúng tiếp tục làm công việc vận tải mà anh thèm muốn. Chương trình cướp ngô của kiến anh chỉ thực hiện được có một ngày. Ngày hôm sau anh trút hơi thở cuối cùng vì quá đói.
Bằng chính sách bỏ đói kết hợp với lao động khố sai những người cộng sản đã giết tù cải tạo mà không cần đem ra trường bắn, không cần nhốt vào lò hỏa thiêu như người Đức Quốc Xã đã làm. Họ cũng chẳng cần tạo ra những cảnh ‘’tắm máu’’ làm gì.
– Một chuyện tù vượt ngục : Trại cải tạo Thanh Cẩm có một khu kiên giam dành cho những thành phần được cộng sản coi là đặc biệt nguy hiểm. Những người bị giam trên khu này không phải lao động nhưng bị cùm chân ban đêm khi đi ngủ. Có một thời gian, tôi cũng là một tù nhân của khu vực kiên giam này. Nhờ không phải lao động nên tôi mới sống sót đến ngày nay. Tại đây tôi còn giữ lại một kỷ niệm hãi hùng mà suốt đời không bao giờ quên được, kỷ niệm liên quan đến một chuyện tù vược ngục.
Là những tù nhân không có ngày về và bị bỏ đói triền miên hết ngày này qua tháng khác, chúng tôi cam tâm kéo dài cuộc sống bị đầy ải và hoàn toàn tuyệt vọng giữa rừng núi hoang vu của biên giới Lào-Việt. Khi màn đêm đổ xuống, khu kiên giam lạnh lẽo và tĩnh mịch, nặng nề như một nhà quàn chất chứa những xác người chưa chết. Ban ngày, chúng tôi đau đớn nhìn nhau như nhìn những bộ xương khô biết cử động.Viễn tượng của ngày xum họp với gia đình, từ lâu, đã hoàn toàn tan biến. Tương lai duy nhất còn lại là sự chờ đợi ngày về với tổ tiên.
Thế rồi, một biến cố kinh hoàng đã xảy ra. Đêm ấy là đêm 1 tháng 5 năm 1979, đêm liên hoan của cộng sản nhân dịp lễ Lao Động. Bọn công an trẻ thuờng chểnh mảng trong nhiệm vụ canh gác mỗi khi có liên hoan. Bỗng nhiên trong bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya, chúng tôi nghe phát ra từ phòng giam bên cạnh, một âm thanh đào tường đều đều như máy chạy. Thỉnh thoảng lại có tiếng người rầm rì động viên nhau như hối giục.
Chúng tôi hiểu ngay đó là một kế hoạch trốn trại đang được tiến hành. Trong cơn tuyệt vọng, các anh mới đến từ trại Quyết Tiến, đang chọn đi vào chỗ chết để tìm đường sống. Mọi người trong phòng giam bên này đều nhắm mắt cầu nguyện cho các bạn đó thành công.
Đêm càng khuya chúng tôi càng hồi hộp. Âm thanh đào tường nghe mồi lúc môt yếu dần. Gà bắt đầu gáy sáng mà âm thanh vẫn còn tiếp tục.Khi âm thanh chấm dứt thì ánh nắng đã luồn qua khung cửa sắt chật hẹp của phòng giam.
Đang lo lắng cho số phận của mấy anh em trốn trại, chúng tôi giật mình vì những tiếng súng báo động nổ rến. Rồi tiếng chân người xô chạy về thượng nguồn song Mã xen lẫn với những tiếng la hét vọng lại từ xa. Trong phòng lúc đó không biết ai đã thở dài và thốt ra hai tiếng ‘’thất bại’’. Chúng tôi đau đớn chia sẻ sự thất bại đó và lo sợ đến tột cùng khi nghĩ tới những biện pháp trả thù của bọn công an cộng sản trong cơn tức giận.
Khi trời sáng hẳn, phòng giam của những người trốn trại bị công an lục soát rất kỹ. Một tên công an thản nhiên nói với đồng bọn :’’Thằng Tiếp chết rồi ‘’. Anh Đặng văn Tiếp là một cựu trung tá của không lực VNCH và dân biểu quốc hội trước khi miền Nam sụp đổ.Nghe hung tín đó chúng tôi đau đớn lặng người. Những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má như một lời vĩnh biệt. Tất cả các anh khác bị bắt lại hết và bị đánh đập tàn nhẫn. Hai ngày sau, anh Lâm Thành Văn chết theo anh Tiếp. Riêng cha Nguyễn Hữu Lễ may mắn sống sót dù bị đả thương rất nặng. Sau 13 năm cải tạo, linh mục Lễ hiện đang phụ trách một họ đạo ở Tân Tây Lan.
Bài học của Bắc Kinh : Vào khoảng đầu năm 1979, tại trại Thanh Cẩm, anh em tú cải tạo chết đói khá nhiều. Trong khi ai cũng cam tâm chờ chết thì một đêm chúng tôi nghe thấy những bài bình luận lạ tai phát ra từ những loa tuyên truyền ngoài cổng trại. Sau nhiều ngày theo dõi tin tức chúng tôi được biết giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang có sự xích mích nặng nề.
Bắc Kinh đang chuẩn bị cho Việt Nam một bài học. Một quân đoàn Trung Cộng, trải dài trên 600 cây số tại biên giới phía Bắc sẽ xâm lăng Việt Nam và sẽ tiến vào Hà Nội trong vài ngày. Không khí chiến tranh bao chùm cả nước. Lệnh tổng động viên được ban hành và bộ đội đang di chuyển cấp tốc từ Campuchia về biên giới Việt-Trung. Các trại cải tạo nằm sát biên giới như Quyết Tiến, Phong Quang…được di tản sâu vào nội địa. Trại Thanh Cẩm phải nhận thêm một số tù nhân đến từ trại Quyết Tiến.
Chiến tranh đã thật sự xảy ra nhưng quân Trung Cộng, sau khi làm cỏ, mấy tỉnh miền biên giới, chỉ tiến đến Việt Trì rồi rút về nước. Hà Nội không bị bao vây và công hãm.
Bài học của Bắc Kinh đã cứu sống rất nhiều tù cải tạo, đó là điều mà ít người biết tới.Vì có bài học này nên chính sách cải tạo khắc nghiệt của Hà Nội có đôi phần nới lỏng. Sau 4 năm bị cắt đứt mọi liên lạc với gia đình, chúng tôi được viết thư và nhận đồ tiếp tế trở lại. Không những thế, gia đình còn được phép đến trại thăm gặp và trong vài trường hợp đặc biệt tù nhân cải tạo còn được phép ở lại suốt đêm ngoài nhà khàch để sinh hoạt với gia đình.
Một chuyện khác mà không ai ngờ tới là những gói qùa tiếp tế không những đã cứu sống chúng tôi khói chết đói mà cón cho chúng tôi cơ hội cải tạo những bộ óc chậm tiến của những người tự cho có nhiệm vụ cải tạo chúng tôi.
Mỗi đợt khám quà của tù nhân là một dịp để các cán bộ làm quen với thế
giới bên ngoài qua những đồ tiếp tế.Lần đầu tiên khám qùa một anh cán bộ
trẻ thấy một gói lạp xưởng đòi tịch thu.Chúng
tôi hỏi tại sao thì được trả lời :’’Tịch thu, vì các anh không được
phép mang nến ( đèn cày) vào trong trại’’. Tội nghiệp, từ bé tới lớn anh
chưa được ăn lạp xưởng bao giờ nên tưởng lạp xưởng là đền cày.
Những thứ lạ mắt như những cuốn giấy vệ sinh trắng muốt, những chai sà bông nước, những lon cà phê-sữa bột, những viên thuốc Tây xanh đỏ đựng trong những lọ có nắp khó mở….đều là những thứ mà trại thấy cần phải giữ lại để nghiên cứu. Sau này khi biết những thứ đó không có gì nguy hiểm và thỉnh thoảng lại được chúng tôi ‘’kỷ niệm’’(nghĩa là cho theo ngôn từ cộng sản) các công an trẻ dần dần làm thân và thường muốn nghe chúng tôi kể những chuyện của thế giới bên ngoài, trong giờ lao động. Kỷ luật trại giữa cán bộ và tù nhân cũng không còn gay gắt như trước nữa.
Ngày một số anh em chúng tôi được trả lại tự do ( 1985 ) những người công an trẻ đến chia tay bằng một câu nói cảm động :’’Thôi các anh về mạnh khoẻ rồi đi ngoại quốc. Chúng tôi thì còn ở đây chưa biết đến bao giờ.’’. Ngay lúc đó chúng tôi chưa nắm bắt được thông điệp ‘’rồi đi ngoại quốc ‘’ nhưng chúng tôi hiểu ngay rằng những thanh niên cộng sản đó đã bắt đầu tỉnh ngộ sau thời gian mấy năm được chúng tôi cải tạo.
III – CHIẾN DỊCH GIẢI THOÁT TÙ CẢI TẠO
Có một thời gian, công an trại thường chỉ mặt chúng tôi và hăm dọa nhiều lần :’’ Nếu bọn Mỹ không chịu bồi thường 3 tỷ 2 thì các anh sẽ còn cải tạo mút mùa.’’. Câu hăm dọa này không làm chúng tôi lo sợ mà, trái lại, làm chúng tôi mừng thầm vì đoán rằng có thể ở bên ngoài xã hội đang diễn ra một cuộc thương lượng giũa Hoa Kỳ và Việt Cộng để giải thoát chúng tôi khỏi cảnh tù đầy. Cho dù đây chỉ là một hy vọng rất mong manh nhưng chúng tôi cứ bám viú lấy nó như người sắp chết đuối vớ được cọc, để có lý do và can đảm tiếp tục cuộc sống.
Thế rồi, không bao lâu sau, sự ước đoán của chúng tôi được thân nhân
vào thăm xác nhận là đúng. Từ đó, trong lòng chúng tôi, ngày nào cũng
như mở hội. Hy vọng được về xum họp với gia đình có nhiều triển vọng trở
thành sự thật.
Tôi được trả tự do vào cuối năm 1985, sau 10 năm 4 tháng 10 ngày bị cộng sản bỏ tù. Hội nhập lại vào xã hội bên ngoài, tôi được biết vào năm 1976, Kissinger đã tuyên bố :’’Hoa Kỳ đang chuẩn bị bình thường hóa bang giao với Việt Nam ‘’. Việc bình thường hóa bang giao không thành vì trong cuộc đàm phán ở Paris vào đầu năm 1977 Hà Nội khăng khăng đòi Hoa Kỳ phải trả 3250 triệu Mỹ Kim để bồi thường chiến tranh. Lẽ cố nhiên là Hoa Kỳ bác bỏ đòi hỏi vô lý đó vì Hà Nội đã không tôn trọng hiệp định Paris năm 1973.
Tôi được trả tự do vào cuối năm 1985, sau 10 năm 4 tháng 10 ngày bị cộng sản bỏ tù. Hội nhập lại vào xã hội bên ngoài, tôi được biết vào năm 1976, Kissinger đã tuyên bố :’’Hoa Kỳ đang chuẩn bị bình thường hóa bang giao với Việt Nam ‘’. Việc bình thường hóa bang giao không thành vì trong cuộc đàm phán ở Paris vào đầu năm 1977 Hà Nội khăng khăng đòi Hoa Kỳ phải trả 3250 triệu Mỹ Kim để bồi thường chiến tranh. Lẽ cố nhiên là Hoa Kỳ bác bỏ đòi hỏi vô lý đó vì Hà Nội đã không tôn trọng hiệp định Paris năm 1973.
Nền kinh tế của Việt Nam mỗi ngày một sa sút. Sự vô hiệu của kinh tế hoạch định và tình trạng sa lầy trong chiến tranh Campuchia khiến chế độ Hà Nội đứng trên bờ vực thẳm. Trung Cộng đã trở thành thù nghịch còn Liên sô thì cũng đang gặp khó khăn nên không biết nương tựa vào ai. Hoa Kỳ là sinh lộ duy nhất còn lại. Làm găng không được, Hà Nội bắt đầu đấu dịu.
Đầu thập niên 1980, cả Phạm văn Đồng lẫn Nguyễn Cơ Thạch đều bắn tiếng là sẽ thả tù cải tạo nếu Hoa Kỳ tiếp nhận. Hà Nội dùng tù cải tạo như phương tiện măc cả để xin viện trợ của Hoa kỳ. Hoa Thịnh Đốn đáp ứng và diễn tiến của chiến dịch giải thoát tù cải tạo được ghi nhận như sau.
Ngày 11-9-1984 ngoại trưởng George Schultz chính thức yêu cầu Hà Nội trả tự do và cho phép các tù nhân chính trị được định cư tại Hoa Kỳ. Ba tuần sau tổng thống Reagan gủi văn thư chính thức đến các bộ ngoại giao, an sinh và tư pháp về việc thâu nhận những người tù cải tạo Việt Nam.
Hoa kỳ đồng ý gặp đại sứ Võ Đông Giang của Hà Nội tại Nữu Ước. Cuộc đàm phán tiến hành trong bí mật.
Tháng 7 năm 1988 phái đoàn Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng ngoại gao Hoa kỳ, đi Hà Nội họp với phụ tá bộ trưởng ngoại giao Việt Cộng Trần Quang Cơ để bàn về việc trả tự do cho tù chính trị và đưa họ đi định cư tại ngoại quốc.
Qua thỏa hiệp này 3000 tù cải tạo và gia đình đã đến Hoa Kỳ trong những
tháng đầu tiên của năm 1990. Chương trình định cư này trù liệu đưa ra
nước ngoài 400.000 người thì 20% đã đến bến tự do năm 1990, 30% năm
1991, 30% năm 1992, 10% năm 1993 và 10% còn lại vào những năm kế tiếp.
Dựa theo các tài liệu đáng tin cậy người ta cũng được biết là trong số quân nhân VNCH được sang Mỹ định cư sau thời gian cải tạo thì 61% là cấp úy, 35% là cấp tá và tướng và 4% là viên chức chính phủ.
Con số những người chết trong các trại cải tạo chưa được xác định là bao nhiêu. Tài liệu của Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Hawaii, thiết lập ngày 20-4-1993 đưa ra một con số rất thiếu sót là 587 người. Đây chỉ là một phần nhỏ của số ‘’tử vong vì cải tạo’’ trong thực tế.
Cũng theo một tài liệu khác chưa dầy đủ thì số trại cải tạo CSVN thiết lập trên toàn quốc sau năm 1975 là 80 trại ( bao gồm cả 2 trại ở các đảo Côn Sơn và Phú Quốc ).
Dựa theo các tài liệu đáng tin cậy người ta cũng được biết là trong số quân nhân VNCH được sang Mỹ định cư sau thời gian cải tạo thì 61% là cấp úy, 35% là cấp tá và tướng và 4% là viên chức chính phủ.
Con số những người chết trong các trại cải tạo chưa được xác định là bao nhiêu. Tài liệu của Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Hawaii, thiết lập ngày 20-4-1993 đưa ra một con số rất thiếu sót là 587 người. Đây chỉ là một phần nhỏ của số ‘’tử vong vì cải tạo’’ trong thực tế.
Cũng theo một tài liệu khác chưa dầy đủ thì số trại cải tạo CSVN thiết lập trên toàn quốc sau năm 1975 là 80 trại ( bao gồm cả 2 trại ở các đảo Côn Sơn và Phú Quốc ).
Quyết định của Cộng Sản Việt Nam đưa quân cán chính VNCH đi cải tạo lâu dài sau năm 1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm miền Nam, đáng lý ra Hà Nội phải biết lợi dụng thời kỳ vàng son này để hòa hợp hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai phồn thịnh cho đất nưốc.
Giữa tháng 5-1975, bộ trưởng ngoại giao 5 nước ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đã bày tỏ ý muốn thiết lập bang giao với các nước Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24-7-1975 Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rõ là các căn cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực chỉ là tam thời và khối SEATO sẽ giải tán.
Vào thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân khoản 1600 triệu Mỹ Kim để giúp 5 nước ASEAN và 3 nước ĐÔNG DƯƠNG xây dựng khu thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, tháng 8 năm 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân hữu giữa các nước trong vùng kể cả Miến Điện, và hứa viện trợ 5 tỷ Mỹ Kim cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á tành một khu vực phồn vinh.
Sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam còn được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với một khoản vay mượn đầu tiên là 35 triệu Mỹ Kim. Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội còn là hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu.
Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách cải tạo sai lầm thì nhân dân hai miền Nam Bắc đã cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện việc hoà hợp hòa giải dân tộc để nhanh chóng đưa đất nước đến cảnh phú cường.
Bị Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đã xé bỏ hiệp định Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền sau đó lại bị Trung Cộng giăng bẫy nhử sang Campuchia và bị sa lầy ở đó. Hậu qủa của những quyết định mù quáng này là một nước Việt Nam kiệt quệ và tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai thế lực thù địch. Cắt đất dângTrung Quốc để duy trì mạng sống chính trị và qùy gối ôm chân Hoa kỳ để kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có một thòi kỳ nhục nhã như hiện nay.
Đối với Hoa Kỳ, bỏ rỏi miền Nam Việt Nam trong trận đồ quốc tế để thắng Liên Xô và làm tan rã khối cộng sản là một vấn đề chiến lược. Tiến hành chiến dịch giải thoát tù cải tạo Việt Nam để họ được sang sinh sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề của lương tâm. Đứng về phương diện quyền lơi cuả Hiệp Chủng Quốc mà xét thì trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi.
Nguyễn Cao Quyền
No comments:
Post a Comment