Thursday, February 15, 2018
LỮ GIANG * THẢM SÁT MẬU THÂN HUẾ
Mậu Thân Huế: Tại sao phải thảm sát? (Lữ Giang)
Có tác giả cho rằng sở dĩ Hà Nội đã đưa ra quyết định tàn sát tập thể vì lý do an ninh. Hà Nội muốn chiếm Huế và giữ Huế lâu dài như là một căn cứ địa, thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Do đó, để bảo vệ an ninh trong vùng chiếm đóng, Hà Nội đã ra lệnh thanh toán tất cả những thành phần bị coi là có thể gây nguy hại cho an ninh của họ như tuyên truyền chống đối, quấy rối, làm nội ứng, hình thành các nhóm võ trang chống lại lực lượng chiếm đóng, v.v.
Trong phần trước chúng tôi đã trình bày rõ Mỹ biết âm mưu của Cộng quân là huy động lực lượng chiếm Huế để làm thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nên Mỹ đã huy động một lục lượng lớn, chờ Cộng quân rơi vào tử địa rồi tiêu diệt.
Trong bài này, chúng tôi sẽ trình bày qua về tình trạng thảm sát ở Huế và phân tích lý do tại sao Hà Nội phải ra lệnh tàn sát.
Thực hiện cuộc thảm sát
Trước khi Cộng quân mở cuộc tấn công Huế, các thành phần ly khai bỏ đi theo Việt Cộng từ năm 1966 và các phần tử nằm vùng đã lập sẵn danh sách những người mà chúng cho rằng cần phải thanh toán. Vì thế, khi mới vào Huế, chúng đã mở cuộc lục xét khắp nơi để tìm kiếm những người này.
Ngoài những người có tên trong "sổ đen", các toán an ninh đi lùng bắt các thành phần bị coi là Việt gian, ác ôn hay phản động như công chức, binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, cảnh sát, nhân viên sở Mỹ, các thành phần đảng phái, người công giáo, v.v.
1. Tại Thành Nội (Quận 1) và một phần khu Tả Ngạn (Quận 2)
Hoàng Nguyên giao việc thanh lọc và xét xử cho cho hai sinh viên là Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do tại sao họ bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết án tử hình sau khi bị dọa, qui chụp và kết tội. Một số bị xử tử ngay tại chỗ.
Phiên tòa tại Thành Nội và khu Tả Ngạn chỉ kéo dài trong 2 ngày là xong, sau đó một chiến dịch khủng bố đã được phát động. Một người mở trộm radio nghe đã bị đưa ra bắn giữa đường phố để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị đưa ra bắn. Nguyễn Đọc đã bắn nhiều người, trong đó có một bạn thân đồng lớp với anh ta, chỉ vì anh này không chịu hợp tác với y.
2. Tại khu Gia Hội
Hoàng Nguyên giao Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường phụ trách.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tốt nghiệp đại học Huế, đi dạy học và là một trong các lãnh tụ sinh viên Phật giáo đấu tranh chống chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1966, sau đó Tường đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Chùa Theravada ở đường Võ Tánh được dùng làm trụ sở để các công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đến trình diện. Trường Trung học Gia Hội của Dòng Mai Khôi (Phú Xuân) được dùng làm nơi giam giữ và xét xử các thành phần bị coi là Việt gian hay phản động.
Theo Bác sĩ Elje Vannema, các phiên tòa ở đây đểu do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa.
Người đi bắt và bắn chết các nạn nhân là Diệu Linh, người Quảng Ngãi, làm nghề thầy bói và khoác cái áo Việt Nam Quốc dân đảng.
Cuộc tàn sát tại đây được thực hiện rất bừa bãi và tàn bạo. Chẳng hạn như hai anh Nguyễn Ngọc Lộ và Nguyễn Thiết bị hạ sát chỉ vì làm nghề nghề dạy võ thất sơn thần quyền, bị cho là một bộ phận của Đại Việt Quốc dân đảng. Hai anh đã bị chôn sống ngay trên con đường nhỏ rẽ vào Trường Trung học Gia Hội sau khi bị đánh bằng cuốc vào đầu. Nghe nói vợ anh Lộ và ba cháu gồm hai gái một trai cũng bị giết tại nhà ở xã Phú Lưu.
Trong số những người bị giết tại Gia Hội, người ta thấy có các nhân vật sau đây : ông Lê Văn Cư, Phó giám đốc cảnh sát quốc gia Vùng I và ông Phú (em vợ anh Cư), Quận trưởng Quận 2 ; ông Từ Tôn Kháng, thiếu tá Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng nông thôn Thừa Thiên ; ông Hồ Đắc Cam và ông Kim Phát, Việt Nam Quốc dân đảng ; ông Trần Văn Nớp, Trưởng phòng hành chánh Ty cảnh sát Thừa Thiên. v.v.
Nguyễn Đắc Xuân là người tổ chức và lãnh đạo "Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử" tại Huế năm 1966 để chống lại Việt Nam Cộng Hòa. Khi bị đánh bại, Xuân đã trốn theo Việt Cộng và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội "Công tác thanh niên" nhắm mục đích khuyến dụ các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và cảnh sát bị kẹt ở Huế ra trình diện.
Với số quân nhân Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện này, Nguyễn Đắc Xuân thành lập "Đoàn quân nhân Sư đoàn 1 ly khai" và bắt Đại úy Nguyễn Văn Lợi, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 4, Trung đoàn 2, mới từ Đông Hà trở về ăn Tết làm Trưởng đoàn. Sau đó, Xuân lập "Đoàn nghĩa binh cảnh sát", bắt ép Quận trưởng Hữu Ngạn là Nguyễn Văn Cán ra chỉ huy.
Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau, Bộ tư lệnh Quân khu ra lệnh giải tán hai tổ chức này. Đột nhiên, ngày 18/2/1968, toán an ninh ra lệnh cho các công chức và quân nhân phải ra trình diện lần hai tại trường Gia Hội rồi giữ lại và đem đi thủ tiêu luôn.
Gia đình những nạn nhân cuộc thảm sát Tết Mậu Thân Huế đi tìm xác và nhận diện thân nhân
3. Tại khu Hữu Ngạn (Quận 3)
Toán an ninh ở khu Tả Ngạn không lập tòa án để xét xử các nạn nhân như ở khu Thành Nội và khu Gia Hội. Tại đây, các nạn nhân bị bắt đều bị đưa về giam ở chùa Từ Đàm, bắt làm tờ khai và được thanh lọc rồi đưa đi thủ tiêu. Số nạn nhân ở khu vực này đông nhất vì gồm những người đến ẩn nấp trong khu Dòng Chúa Cứu Thế và Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam.
Tại khu Dòng Chúa Cứu Thế :
khu Hữu Ngạn (tức Quận 3) do Nguyễn Mậu Hiên, bí danh Bảy Lanh đánh chiếm. Bảy Lanh là con nuôi của nhà thuốc bắc Thiên Tường tại chợ An Cựu. Hai con trai của nhà thuốc Thiên Tường là cán bộ Việt Cộng nằm vùng ở cơ quan Xây dựng nông thôn. Vì thế, khi Bảy Lanh vừa làm chủ vùng An Cựu, ông Thiên Tường và hai người con đã đi lùng bắt tất cả những công chức, quân nhân, cảnh sát, thành phần đảng phái... trong khu vực Dòng Chúa Cứu Thế.
Tiếp theo, chúng lùa khoảng 150 người đang ẩn trú trong Dòng Chúa Cứu Thế ra sân để thanh lọc. Chúng xét hỏi giấy tờ của từng người. Những ai có căn cước ghi là quân nhân hay công chức đều được đưa ra khỏi hàng ngay, trong đó có Thượng nghị sĩ Trần Điền.
Có khoảng 500 người trong khu vực này bị bắt đưa về chùa Từ Đàm. Về sau, cả ba cha con ông Thiên Tường đều bị bắt.
Tại nhà thờ Phủ Cam :
Nhà thờ này lúc đó chỉ mới được xây xong phần cung thánh và hai cánh tả hữu, nhưng có tường rất dày và trần được đúc bằng bê-tong cốt sắt, nên có thể che chở phần nào bom đạn. Do đó, có trên 3.000 người đã đến ẩn nấp tại đây.
Khoảng 1 giờ đêm 7/2/1968, du kích và các toán an ninh đã vào lục soát nhà thờ, sau đó chúng bắt những người từ 15 đến 50 tuổi đứng lên, không phân biệt thành phần. Có khoảng 500 người thuộc lớp tuổi này. Chúng tuyên bố : "Các anh được đưa đi học tập 3 ngày rồi trở về". Sau đó chúng dẫn những người này đi về chùa Từ Đàm và bắt làm tờ khai. Thỉnh thoảng chúng đưa một người ra gốc cây bồ đề trước sân chùa và bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Về sau, người ta đếm được có 20 xác.
Hai hôm sau, vào lúc trời tối, các toán an ninh gọi mọi người ra sân, lấy dây điện thoại trói ké lại, rồi dùng dây kẻm gai xâu 20 người lại một xâu, và dẫn đi về phía Nam Giao.
Thân nhân nạn nhân cuộc thảm sát Tết Mậu Thân Huế đau đớn khóc nhìn hài cốt thân nhân, phần lớn sọ não nạn nhân bị đập bễ bằng cuốc xẻn
Ở bệnh viện :
Trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, Cộng quân viện lý do chiến tranh sắp xẩy ra trong vùng nên ra lệnh cho dân chúng tập trung vào bệnh viện. Sau ba ngày, họ bảo đàn bà và trẻ con ngồi xuống, còn đàn ông đứng dậy. Sau đó, chúng đưa hai tên nằm vùng đến nhận diện. Hai tên này vừa mới được xổ tù khi Cộng quân chiếm thành phố. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa Phủ Cam và từ đó họ được đưa lên chùa Từ Đàm.
Tất cả những người bị giam ở chùa Từ Đàm đều được dẫn về phía Tây Nam và lần lượt bị hạ sát tại những nơi khác nhau, kể cả ở Khe Đá Mài, cách Huế khoảng 26 cây số.
Theo tạp chí Time ngày 31/10/1969, trong số các nạn nhân bị giết tại đây có 398 người là giáo dân Phủ Cam.
Cách giết người của Cộng quân cũng đặc biệt. Cộng quân ra lệnh cho những người bị bắt phải đào hố, nói là để làm hầm trú ẩn tránh bom đạn, hoặc để làm mương dẫn nước cho dân chúng cày cấy. Sau khi đào xong, Cộng quân trói thúc ké tay chân nạn nhân và quăng xuống hố rồi lấp đất lại. Có người cho rằng Cộng quân phải chôn sống như vậy vì sợ bắn sẽ gây tiếng động và để lộ mục tiêu.
Con số nạn nhân
Trong cuốn "Công và Tội", ông Nguyễn Trân cho biết : "Về phía dân chúng, có 5.800 người chết, trong đó có 2.800 người bị Việt Cộng giết và chôn tập thể : 790 là hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán tội "cường hào ác bá" ; 1892 là nhân viên hành chánh ; 38 là cảnh sát, hàng trăm thanh niên trong tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Đức và vợ, và một số người Phi Luật Tân".
Lễ an táng nạn nhân sau cuộc thảm sát Tết Mậu Thân Huế 1968 - Ảnh tuần báo Life
Trong "Encyclopedia of the Viet Nam War", David T. Zabecki ghi nhận rằng số thi hài nạn nhân tìm được trong các mồ chôn tập thể ở Huế là 2.810 người và hàng ngàn người bị mất tích.
Trong cuốn "The Vietcong Massacre at Hue" (Vintage Press, New York, 1976), Bác sĩ Elje Vannema, người có mặt tại Huế trong biến cố Tết Mậu Thân, cho biết theo tài liệu kiểm kê được qua 22 mồ tập thể, số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người, chia ra như sau :
- Trường Gia Hội : 203 người ;
- Chùa Theravada [Gia Hội] : 43 ;
- Bãi Dâu [Gia Hội] : 26 ;
- Cồn Hến [Gia Hội] : 101 ;
- Tiểu Chủng Viện : 6 ;
- Quận Tả ngạn : 21 ;
- Phía đông Huế : 25 ;
- Lăng Tự Đức và Đồng Khánh : 203 ;
- Cầu An Ninh : 20 ;
- Cửa Đông Ba : 7 ;
- Trường An Ninh Hạ : 4 ;
- Trường Văn Chí : 8 ;
- Chợ Thông : 102 ;
- Lăng Gia Long : 200 ;
- Chùa Từ Quang : 4 ;
- Đồng Di : 110 ;
- Vinh Thái : 135 ;
- Phù Lương : 22 ;
- Phú Xuân : 587 ;
Thượng Hòa : 11 ;
- Thủy Thanh - Vinh Hưng : 70 ;
- Khe Đá Mài : 428.
Trong cuốn "Viet Cong Strategy of Terror" (tr. 23 đến 29), Giáo Sư Douglas Pike cho biết qua vụ Tết Mậu Thân ở Huế, có khoảng 7.600 nạn nhân của Cộng Sản, trong đó 1.946 người bị mất tích.
Tại sao phải tàn sát ?
Dân chúng Huế vừa được quân đội Hoa Kỳ giải thoát khỏi những vùng bị Công quân chiếm đóng trong trận Tết Mậu Thân Huế 1968
Những sự kiện cụ thể chúng tôi vừa trình bày trên cho thấy :
1. Việc chiếm Huế làm căn cứ địa cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một quyết định được Hà Nội nghiên cứu kỹ càng và ra lệnh cho Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế thi hành. Cán bộ thi hành cũng đã được huấn luyện trước. Do đó, không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương quyết định tàn sát mà không có lệnh từ trung ương.
2. Đa số các cuộc thảm sát đã diễn ra trong thời gian từ 2 đến 12/2/1968, tức trong thời gian Cộng quân còn chiếm đóng Huế. Các nạn nhân thường được kiểm tra hay xét xử rồi mới bị giết. Rất nhiều mộ tập thể đã được tìm thấy ngay trong thành phố Huế, nhất là tại khu Gia Hội.
Một phụ nữ gào khóc khi nhận diện xác người thân - Ảnh tuần báo Life
Điều này cho thấy không phải vì bị vướng chân khi rút quân nên Cộng quân mới tàn sát tâp thể để có thể rút nhanh như một số người đã biện hộ cho Cộng Sản.
3. Đến tối 24/2/1968, Cộng quân mới ra lệnh rút lui toàn bộ khỏi Huế. Tài liệu của Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế nói rằng có 23.702 quân địch, trong đó có 8.000 tên Mỹ, đã bị diệt, bắt sống và ra hàng (tr. 153). Như vậy số quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ đã bị tiêu diệt hoặc bắt sống lên đến khoảng 3 sư đoàn, trong khi đó số quân Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ được dùng để tái chiếm Huế chưa tới 2 sư đoàn !
Giả thiết tài liệu của Cộng quân là đúng, vậy số người bị họ bắt đi theo và bị giết tập thể để khỏi bị vướng chân..., xác của những người này đã được chôn ở đâu ? Các cuộc tìm kiếm sau Tết Mậu Thân 1968 không thấy có xác quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ được chôn trên đường rút lui của Cộng quân.
Chỉ có một trường hợp bị xử tử ngay tại chỗ là, khi Cộng quân rút lui, những thanh niên bị bắt đi theo từ chối không chịu gia nhập quân Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đều bị bắn tại chỗ. Tại Gia Hội, người ta khám phá ra xác của 18 thanh niên bị bắn chết vì không chịu đi theo. Khoảng 600 thanh niên khác vì sợ bị giết nên buộc phải đi theo họ.
Tóm lại, lập luận cho rằng các nạn nhân đã bị tàn sát vì làm vướng chân Cộng quân khi rút lui là ngụy biện và hoàn toàn láo phét. Đảng cộng sản Việt Nam đã duy trì kỷ cương rất chặt chẽ trong khi hành quân nên không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương tự ý ra lệnh tàn sát tập thể như một số người đã biện minh cho Hà Nội. Phải có lệnh của trung ương, các cán bộ cấp dưới mới làm như vậy.
Vấn đề được đặt ra là :
Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra quyết định tàn sát tâp thể như thế ?
Có tác giả cho rằng sở dĩ Hà Nội đã đưa ra quyết định tàn sát tập thể vì lý do an ninh. Hà Nội muốn chiếm Huế và giữ Huế lâu dài như là một căn cứ địa, thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Do đó, để bảo vệ an ninh trong vùng chiếm đóng, Hà Nội đã ra lệnh thanh toán tất cả những thành phần bị coi là có thể gây nguy hại cho an ninh của họ như tuyên truyền chống đối, quấy rối, làm nội ứng, hình thành các nhóm võ trang chống lại lực lượng chiếm đóng, v.v.
Giả thiết thứ hai là Đảng cộng sản Việt Nam muốn tạo sự kinh hoàng trong quần chúng để mọi người hoảng sợ và tuân phục. Đây là chính sách mà Lenin đã áp dụng tại Liên Xô trước đây.
Trong quyển "The Unknown Lenin", Richard Pipes, Giáo sư Sử học Nga thuộc Harvard University, ghi nhận rằng yếu tố lạnh người nhất là Lenin đã ra lệnh "tạo sự kinh hoàng" trong quần chúng trên toàn quốc. Hồi đầu tháng 9/1918, Lenin viết : "Cần thiết và khẩn cấp chuẩn bị cho sự kinh hoàng, một cách bí mật". Tháng 8/1918, Lenin chỉ thị cho bọn cầm quyền tỉnh Penza phải treo cổ ít nhất 100 người, một cách công khai. Lenin truyền lệnh : "Hãy thực hiện chuyện này bằng mọi phương cách mà người ta có thể thấy, từ xa hàng trăm dặm, run sợ, biết đến, và gào thét. Họ bị treo cổ, và sẽ bị treo cổ đến hết bọn địa chủ hút máu".
Đảng cộng sản Việt Nam đã bắt chước đường lối này của Lenin và áp dụng tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân, vì họ nghĩ rằng Cộng quân có thể chiếm giữ Huế lâu dài. Có lẽ giả thiết muốn tạo sự kinh hoàng trong quần chúng này là đúng hơn cả.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh đã sử dụng tối đa hỏa lực có trong tay, bất chấp những thiệt hại có thể gây ra cho cố đô Huế, để đánh bật Cộng quân ra khỏi thành phố.
Ngoài những tiêu chuẩn thanh toán mà Hà Nội đã đưa ra, cũng phải kể thêm là các nhóm Phật giáo đấu tranh chống Việt Nam Cộng Hòa bỏ đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ năm 1966, khi trở về lại Huế đã đi tìm và thanh toán những người trước đây đã không đồng ý hay chống lại chủ trương của họ, đặc biệt là những người Công giáo.
Nhưng Hà Nội đã có nhận định sai lầm về quyết tâm của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và sự hưởng ứng của quần chúng Phật tử ở Huế. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh đã sử dụng tối đa hỏa lực có trong tay, bất chấp những thiệt hại có thể gây ra cho cố đô Huế, để đánh bật Cộng quân ra khỏi thành phố. Còn quần chúng Phật tử thì chỉ có một số nhỏ đi theo Cộng quân, đa số còn lại ủng hộ chính quyền miền Nam. Do đó, quyết định chiếm Huế làm căn cứ địa của Cộng quân đã thất bại.
Hà Nội đã sử dụng những thành phần thuộc "Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử" của Giáo hội Phật giáo Ấn Quang làm lực lượng tiên phong trong vụ tàn sát, đặc biệt nhắm vào những người Công giáo, công chức, cảnh sát và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa.
Điều tai hại là nhà cầm quyền Hà Nội nhận ra rằng trong cuộc đấu tranh cướp chính quyền năm 1966, Giáo hội Phật giáo Ấn Quang là một lực lượng quần chúng có tầm vóc và có hậu thuẫn. Tổ chức này đã lấy hận thù tôn giáo, đặc biệt là kích động sự thù hận đối với Thiên Chúa Giáo như là động lực đấu tranh. Do đó, sau khi chiếm Huế, Cộng quân đã sử dụng các thành phần thuộc "Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử" của Giáo hội Phật giáo Ấn Quang đã đi theo họ, quay trở lại làm lực lượng tiên phong trong vụ tàn sát, đặc biệt nhắm vào những người Công giáo, công chức, cảnh sát và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Đây là vấn đề sẽ được chúng tôi trình bày trong một bài khác.
Ngày 14/2/2018
Lữ Giang
Có tác giả cho rằng sở dĩ Hà Nội đã đưa ra quyết định tàn sát tập thể vì lý do an ninh. Hà Nội muốn chiếm Huế và giữ Huế lâu dài như là một căn cứ địa, thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Do đó, để bảo vệ an ninh trong vùng chiếm đóng, Hà Nội đã ra lệnh thanh toán tất cả những thành phần bị coi là có thể gây nguy hại cho an ninh của họ như tuyên truyền chống đối, quấy rối, làm nội ứng, hình thành các nhóm võ trang chống lại lực lượng chiếm đóng, v.v.
Trong phần trước chúng tôi đã trình bày rõ Mỹ biết âm mưu của Cộng quân là huy động lực lượng chiếm Huế để làm thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nên Mỹ đã huy động một lục lượng lớn, chờ Cộng quân rơi vào tử địa rồi tiêu diệt.
Trong bài này, chúng tôi sẽ trình bày qua về tình trạng thảm sát ở Huế và phân tích lý do tại sao Hà Nội phải ra lệnh tàn sát.
Thực hiện cuộc thảm sát
Trước khi Cộng quân mở cuộc tấn công Huế, các thành phần ly khai bỏ đi theo Việt Cộng từ năm 1966 và các phần tử nằm vùng đã lập sẵn danh sách những người mà chúng cho rằng cần phải thanh toán. Vì thế, khi mới vào Huế, chúng đã mở cuộc lục xét khắp nơi để tìm kiếm những người này.
Ngoài những người có tên trong "sổ đen", các toán an ninh đi lùng bắt các thành phần bị coi là Việt gian, ác ôn hay phản động như công chức, binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, cảnh sát, nhân viên sở Mỹ, các thành phần đảng phái, người công giáo, v.v.
1. Tại Thành Nội (Quận 1) và một phần khu Tả Ngạn (Quận 2)
Hoàng Nguyên giao việc thanh lọc và xét xử cho cho hai sinh viên là Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do tại sao họ bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết án tử hình sau khi bị dọa, qui chụp và kết tội. Một số bị xử tử ngay tại chỗ.
Phiên tòa tại Thành Nội và khu Tả Ngạn chỉ kéo dài trong 2 ngày là xong, sau đó một chiến dịch khủng bố đã được phát động. Một người mở trộm radio nghe đã bị đưa ra bắn giữa đường phố để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị đưa ra bắn. Nguyễn Đọc đã bắn nhiều người, trong đó có một bạn thân đồng lớp với anh ta, chỉ vì anh này không chịu hợp tác với y.
2. Tại khu Gia Hội
Hoàng Nguyên giao Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường phụ trách.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tốt nghiệp đại học Huế, đi dạy học và là một trong các lãnh tụ sinh viên Phật giáo đấu tranh chống chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1966, sau đó Tường đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Chùa Theravada ở đường Võ Tánh được dùng làm trụ sở để các công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đến trình diện. Trường Trung học Gia Hội của Dòng Mai Khôi (Phú Xuân) được dùng làm nơi giam giữ và xét xử các thành phần bị coi là Việt gian hay phản động.
Theo Bác sĩ Elje Vannema, các phiên tòa ở đây đểu do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa.
Người đi bắt và bắn chết các nạn nhân là Diệu Linh, người Quảng Ngãi, làm nghề thầy bói và khoác cái áo Việt Nam Quốc dân đảng.
Cuộc tàn sát tại đây được thực hiện rất bừa bãi và tàn bạo. Chẳng hạn như hai anh Nguyễn Ngọc Lộ và Nguyễn Thiết bị hạ sát chỉ vì làm nghề nghề dạy võ thất sơn thần quyền, bị cho là một bộ phận của Đại Việt Quốc dân đảng. Hai anh đã bị chôn sống ngay trên con đường nhỏ rẽ vào Trường Trung học Gia Hội sau khi bị đánh bằng cuốc vào đầu. Nghe nói vợ anh Lộ và ba cháu gồm hai gái một trai cũng bị giết tại nhà ở xã Phú Lưu.
Trong số những người bị giết tại Gia Hội, người ta thấy có các nhân vật sau đây : ông Lê Văn Cư, Phó giám đốc cảnh sát quốc gia Vùng I và ông Phú (em vợ anh Cư), Quận trưởng Quận 2 ; ông Từ Tôn Kháng, thiếu tá Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng nông thôn Thừa Thiên ; ông Hồ Đắc Cam và ông Kim Phát, Việt Nam Quốc dân đảng ; ông Trần Văn Nớp, Trưởng phòng hành chánh Ty cảnh sát Thừa Thiên. v.v.
Nguyễn Đắc Xuân là người tổ chức và lãnh đạo "Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử" tại Huế năm 1966 để chống lại Việt Nam Cộng Hòa. Khi bị đánh bại, Xuân đã trốn theo Việt Cộng và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội "Công tác thanh niên" nhắm mục đích khuyến dụ các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và cảnh sát bị kẹt ở Huế ra trình diện.
Với số quân nhân Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện này, Nguyễn Đắc Xuân thành lập "Đoàn quân nhân Sư đoàn 1 ly khai" và bắt Đại úy Nguyễn Văn Lợi, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 4, Trung đoàn 2, mới từ Đông Hà trở về ăn Tết làm Trưởng đoàn. Sau đó, Xuân lập "Đoàn nghĩa binh cảnh sát", bắt ép Quận trưởng Hữu Ngạn là Nguyễn Văn Cán ra chỉ huy.
Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau, Bộ tư lệnh Quân khu ra lệnh giải tán hai tổ chức này. Đột nhiên, ngày 18/2/1968, toán an ninh ra lệnh cho các công chức và quân nhân phải ra trình diện lần hai tại trường Gia Hội rồi giữ lại và đem đi thủ tiêu luôn.
Gia đình những nạn nhân cuộc thảm sát Tết Mậu Thân Huế đi tìm xác và nhận diện thân nhân
3. Tại khu Hữu Ngạn (Quận 3)
Toán an ninh ở khu Tả Ngạn không lập tòa án để xét xử các nạn nhân như ở khu Thành Nội và khu Gia Hội. Tại đây, các nạn nhân bị bắt đều bị đưa về giam ở chùa Từ Đàm, bắt làm tờ khai và được thanh lọc rồi đưa đi thủ tiêu. Số nạn nhân ở khu vực này đông nhất vì gồm những người đến ẩn nấp trong khu Dòng Chúa Cứu Thế và Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam.
Tại khu Dòng Chúa Cứu Thế :
khu Hữu Ngạn (tức Quận 3) do Nguyễn Mậu Hiên, bí danh Bảy Lanh đánh chiếm. Bảy Lanh là con nuôi của nhà thuốc bắc Thiên Tường tại chợ An Cựu. Hai con trai của nhà thuốc Thiên Tường là cán bộ Việt Cộng nằm vùng ở cơ quan Xây dựng nông thôn. Vì thế, khi Bảy Lanh vừa làm chủ vùng An Cựu, ông Thiên Tường và hai người con đã đi lùng bắt tất cả những công chức, quân nhân, cảnh sát, thành phần đảng phái... trong khu vực Dòng Chúa Cứu Thế.
Tiếp theo, chúng lùa khoảng 150 người đang ẩn trú trong Dòng Chúa Cứu Thế ra sân để thanh lọc. Chúng xét hỏi giấy tờ của từng người. Những ai có căn cước ghi là quân nhân hay công chức đều được đưa ra khỏi hàng ngay, trong đó có Thượng nghị sĩ Trần Điền.
Có khoảng 500 người trong khu vực này bị bắt đưa về chùa Từ Đàm. Về sau, cả ba cha con ông Thiên Tường đều bị bắt.
Tại nhà thờ Phủ Cam :
Nhà thờ này lúc đó chỉ mới được xây xong phần cung thánh và hai cánh tả hữu, nhưng có tường rất dày và trần được đúc bằng bê-tong cốt sắt, nên có thể che chở phần nào bom đạn. Do đó, có trên 3.000 người đã đến ẩn nấp tại đây.
Khoảng 1 giờ đêm 7/2/1968, du kích và các toán an ninh đã vào lục soát nhà thờ, sau đó chúng bắt những người từ 15 đến 50 tuổi đứng lên, không phân biệt thành phần. Có khoảng 500 người thuộc lớp tuổi này. Chúng tuyên bố : "Các anh được đưa đi học tập 3 ngày rồi trở về". Sau đó chúng dẫn những người này đi về chùa Từ Đàm và bắt làm tờ khai. Thỉnh thoảng chúng đưa một người ra gốc cây bồ đề trước sân chùa và bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Về sau, người ta đếm được có 20 xác.
Hai hôm sau, vào lúc trời tối, các toán an ninh gọi mọi người ra sân, lấy dây điện thoại trói ké lại, rồi dùng dây kẻm gai xâu 20 người lại một xâu, và dẫn đi về phía Nam Giao.
Thân nhân nạn nhân cuộc thảm sát Tết Mậu Thân Huế đau đớn khóc nhìn hài cốt thân nhân, phần lớn sọ não nạn nhân bị đập bễ bằng cuốc xẻn
Ở bệnh viện :
Trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, Cộng quân viện lý do chiến tranh sắp xẩy ra trong vùng nên ra lệnh cho dân chúng tập trung vào bệnh viện. Sau ba ngày, họ bảo đàn bà và trẻ con ngồi xuống, còn đàn ông đứng dậy. Sau đó, chúng đưa hai tên nằm vùng đến nhận diện. Hai tên này vừa mới được xổ tù khi Cộng quân chiếm thành phố. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa Phủ Cam và từ đó họ được đưa lên chùa Từ Đàm.
Tất cả những người bị giam ở chùa Từ Đàm đều được dẫn về phía Tây Nam và lần lượt bị hạ sát tại những nơi khác nhau, kể cả ở Khe Đá Mài, cách Huế khoảng 26 cây số.
Theo tạp chí Time ngày 31/10/1969, trong số các nạn nhân bị giết tại đây có 398 người là giáo dân Phủ Cam.
Cách giết người của Cộng quân cũng đặc biệt. Cộng quân ra lệnh cho những người bị bắt phải đào hố, nói là để làm hầm trú ẩn tránh bom đạn, hoặc để làm mương dẫn nước cho dân chúng cày cấy. Sau khi đào xong, Cộng quân trói thúc ké tay chân nạn nhân và quăng xuống hố rồi lấp đất lại. Có người cho rằng Cộng quân phải chôn sống như vậy vì sợ bắn sẽ gây tiếng động và để lộ mục tiêu.
Con số nạn nhân
Trong cuốn "Công và Tội", ông Nguyễn Trân cho biết : "Về phía dân chúng, có 5.800 người chết, trong đó có 2.800 người bị Việt Cộng giết và chôn tập thể : 790 là hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán tội "cường hào ác bá" ; 1892 là nhân viên hành chánh ; 38 là cảnh sát, hàng trăm thanh niên trong tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Đức và vợ, và một số người Phi Luật Tân".
Lễ an táng nạn nhân sau cuộc thảm sát Tết Mậu Thân Huế 1968 - Ảnh tuần báo Life
Trong "Encyclopedia of the Viet Nam War", David T. Zabecki ghi nhận rằng số thi hài nạn nhân tìm được trong các mồ chôn tập thể ở Huế là 2.810 người và hàng ngàn người bị mất tích.
Trong cuốn "The Vietcong Massacre at Hue" (Vintage Press, New York, 1976), Bác sĩ Elje Vannema, người có mặt tại Huế trong biến cố Tết Mậu Thân, cho biết theo tài liệu kiểm kê được qua 22 mồ tập thể, số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người, chia ra như sau :
- Trường Gia Hội : 203 người ;
- Chùa Theravada [Gia Hội] : 43 ;
- Bãi Dâu [Gia Hội] : 26 ;
- Cồn Hến [Gia Hội] : 101 ;
- Tiểu Chủng Viện : 6 ;
- Quận Tả ngạn : 21 ;
- Phía đông Huế : 25 ;
- Lăng Tự Đức và Đồng Khánh : 203 ;
- Cầu An Ninh : 20 ;
- Cửa Đông Ba : 7 ;
- Trường An Ninh Hạ : 4 ;
- Trường Văn Chí : 8 ;
- Chợ Thông : 102 ;
- Lăng Gia Long : 200 ;
- Chùa Từ Quang : 4 ;
- Đồng Di : 110 ;
- Vinh Thái : 135 ;
- Phù Lương : 22 ;
- Phú Xuân : 587 ;
Thượng Hòa : 11 ;
- Thủy Thanh - Vinh Hưng : 70 ;
- Khe Đá Mài : 428.
Trong cuốn "Viet Cong Strategy of Terror" (tr. 23 đến 29), Giáo Sư Douglas Pike cho biết qua vụ Tết Mậu Thân ở Huế, có khoảng 7.600 nạn nhân của Cộng Sản, trong đó 1.946 người bị mất tích.
Tại sao phải tàn sát ?
Dân chúng Huế vừa được quân đội Hoa Kỳ giải thoát khỏi những vùng bị Công quân chiếm đóng trong trận Tết Mậu Thân Huế 1968
Những sự kiện cụ thể chúng tôi vừa trình bày trên cho thấy :
1. Việc chiếm Huế làm căn cứ địa cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một quyết định được Hà Nội nghiên cứu kỹ càng và ra lệnh cho Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế thi hành. Cán bộ thi hành cũng đã được huấn luyện trước. Do đó, không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương quyết định tàn sát mà không có lệnh từ trung ương.
2. Đa số các cuộc thảm sát đã diễn ra trong thời gian từ 2 đến 12/2/1968, tức trong thời gian Cộng quân còn chiếm đóng Huế. Các nạn nhân thường được kiểm tra hay xét xử rồi mới bị giết. Rất nhiều mộ tập thể đã được tìm thấy ngay trong thành phố Huế, nhất là tại khu Gia Hội.
Một phụ nữ gào khóc khi nhận diện xác người thân - Ảnh tuần báo Life
Điều này cho thấy không phải vì bị vướng chân khi rút quân nên Cộng quân mới tàn sát tâp thể để có thể rút nhanh như một số người đã biện hộ cho Cộng Sản.
3. Đến tối 24/2/1968, Cộng quân mới ra lệnh rút lui toàn bộ khỏi Huế. Tài liệu của Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế nói rằng có 23.702 quân địch, trong đó có 8.000 tên Mỹ, đã bị diệt, bắt sống và ra hàng (tr. 153). Như vậy số quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ đã bị tiêu diệt hoặc bắt sống lên đến khoảng 3 sư đoàn, trong khi đó số quân Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ được dùng để tái chiếm Huế chưa tới 2 sư đoàn !
Giả thiết tài liệu của Cộng quân là đúng, vậy số người bị họ bắt đi theo và bị giết tập thể để khỏi bị vướng chân..., xác của những người này đã được chôn ở đâu ? Các cuộc tìm kiếm sau Tết Mậu Thân 1968 không thấy có xác quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ được chôn trên đường rút lui của Cộng quân.
Chỉ có một trường hợp bị xử tử ngay tại chỗ là, khi Cộng quân rút lui, những thanh niên bị bắt đi theo từ chối không chịu gia nhập quân Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đều bị bắn tại chỗ. Tại Gia Hội, người ta khám phá ra xác của 18 thanh niên bị bắn chết vì không chịu đi theo. Khoảng 600 thanh niên khác vì sợ bị giết nên buộc phải đi theo họ.
Tóm lại, lập luận cho rằng các nạn nhân đã bị tàn sát vì làm vướng chân Cộng quân khi rút lui là ngụy biện và hoàn toàn láo phét. Đảng cộng sản Việt Nam đã duy trì kỷ cương rất chặt chẽ trong khi hành quân nên không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương tự ý ra lệnh tàn sát tập thể như một số người đã biện minh cho Hà Nội. Phải có lệnh của trung ương, các cán bộ cấp dưới mới làm như vậy.
Vấn đề được đặt ra là :
Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra quyết định tàn sát tâp thể như thế ?
Có tác giả cho rằng sở dĩ Hà Nội đã đưa ra quyết định tàn sát tập thể vì lý do an ninh. Hà Nội muốn chiếm Huế và giữ Huế lâu dài như là một căn cứ địa, thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Do đó, để bảo vệ an ninh trong vùng chiếm đóng, Hà Nội đã ra lệnh thanh toán tất cả những thành phần bị coi là có thể gây nguy hại cho an ninh của họ như tuyên truyền chống đối, quấy rối, làm nội ứng, hình thành các nhóm võ trang chống lại lực lượng chiếm đóng, v.v.
Giả thiết thứ hai là Đảng cộng sản Việt Nam muốn tạo sự kinh hoàng trong quần chúng để mọi người hoảng sợ và tuân phục. Đây là chính sách mà Lenin đã áp dụng tại Liên Xô trước đây.
Trong quyển "The Unknown Lenin", Richard Pipes, Giáo sư Sử học Nga thuộc Harvard University, ghi nhận rằng yếu tố lạnh người nhất là Lenin đã ra lệnh "tạo sự kinh hoàng" trong quần chúng trên toàn quốc. Hồi đầu tháng 9/1918, Lenin viết : "Cần thiết và khẩn cấp chuẩn bị cho sự kinh hoàng, một cách bí mật". Tháng 8/1918, Lenin chỉ thị cho bọn cầm quyền tỉnh Penza phải treo cổ ít nhất 100 người, một cách công khai. Lenin truyền lệnh : "Hãy thực hiện chuyện này bằng mọi phương cách mà người ta có thể thấy, từ xa hàng trăm dặm, run sợ, biết đến, và gào thét. Họ bị treo cổ, và sẽ bị treo cổ đến hết bọn địa chủ hút máu".
Đảng cộng sản Việt Nam đã bắt chước đường lối này của Lenin và áp dụng tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân, vì họ nghĩ rằng Cộng quân có thể chiếm giữ Huế lâu dài. Có lẽ giả thiết muốn tạo sự kinh hoàng trong quần chúng này là đúng hơn cả.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh đã sử dụng tối đa hỏa lực có trong tay, bất chấp những thiệt hại có thể gây ra cho cố đô Huế, để đánh bật Cộng quân ra khỏi thành phố.
Ngoài những tiêu chuẩn thanh toán mà Hà Nội đã đưa ra, cũng phải kể thêm là các nhóm Phật giáo đấu tranh chống Việt Nam Cộng Hòa bỏ đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ năm 1966, khi trở về lại Huế đã đi tìm và thanh toán những người trước đây đã không đồng ý hay chống lại chủ trương của họ, đặc biệt là những người Công giáo.
Nhưng Hà Nội đã có nhận định sai lầm về quyết tâm của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và sự hưởng ứng của quần chúng Phật tử ở Huế. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh đã sử dụng tối đa hỏa lực có trong tay, bất chấp những thiệt hại có thể gây ra cho cố đô Huế, để đánh bật Cộng quân ra khỏi thành phố. Còn quần chúng Phật tử thì chỉ có một số nhỏ đi theo Cộng quân, đa số còn lại ủng hộ chính quyền miền Nam. Do đó, quyết định chiếm Huế làm căn cứ địa của Cộng quân đã thất bại.
Hà Nội đã sử dụng những thành phần thuộc "Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử" của Giáo hội Phật giáo Ấn Quang làm lực lượng tiên phong trong vụ tàn sát, đặc biệt nhắm vào những người Công giáo, công chức, cảnh sát và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa.
Điều tai hại là nhà cầm quyền Hà Nội nhận ra rằng trong cuộc đấu tranh cướp chính quyền năm 1966, Giáo hội Phật giáo Ấn Quang là một lực lượng quần chúng có tầm vóc và có hậu thuẫn. Tổ chức này đã lấy hận thù tôn giáo, đặc biệt là kích động sự thù hận đối với Thiên Chúa Giáo như là động lực đấu tranh. Do đó, sau khi chiếm Huế, Cộng quân đã sử dụng các thành phần thuộc "Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử" của Giáo hội Phật giáo Ấn Quang đã đi theo họ, quay trở lại làm lực lượng tiên phong trong vụ tàn sát, đặc biệt nhắm vào những người Công giáo, công chức, cảnh sát và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Đây là vấn đề sẽ được chúng tôi trình bày trong một bài khác.
Ngày 14/2/2018
Lữ Giang
ELJI VANNEMA * THẢM SÁT MẬU THÂN HUẾ
THẢM SÁT MẬU THÂN HUẾ
ELJI VANNEMA
Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.
Mới sáng tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm : công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi...
Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết...
Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Đắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.
Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.
Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang làng Đập Đá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.
Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Đám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án. Địa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài. Danh sách bất tận.
Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Đàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có, già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.
Bên trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Đàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Đàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó "Ta đi mô đây". Có tiếng phụ họa "Lên núi hay tới chỗ chết ?".
Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. "Bắt gió cho ông ta " tiếng ai đó vang lên... Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới.
Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. "Xin để tui đi, để tui ở lại đây", ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. "Tui không đi xa hơn được nữa".
"Đứng dậy".
Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.
Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô "Dừng lại". Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Đám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Đồng Khánh.
Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.
Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây ? Đa số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác.
Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Đông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra...
Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9/69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ vào sông Hương... Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này...
Mồ Tập Thể
Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.
Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần ; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26/02/1968.
Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi - người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em gái (sister) cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ ; mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với chị/em dâu cô.
Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22/02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26/02.
Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14/02, xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16/03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.
Người thứ tư là Trần Đình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06/02, tìm thấy xác ngày 26/02.
Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17/02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội, tìm thấy xác ngày 26/02.
Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08/02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26/02, ở khuôn viên trường.
Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống.
Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.
Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12/02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.
Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Đặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06/02, tìm thấy xác ngày 26/02.
Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08/02, xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.
Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08/68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.
Tiết lộ về "mồ chôn tập thể" đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28/02/68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm "ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng". Cũng theo phát ngôn viên, "các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn". Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Đông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết ; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ : ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM ; và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09/02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Đà Nẵng.
Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10/03/68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Đông, được khám phá ngày 14/03/68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhô ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.
Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Đức và Đồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Đây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19/03/68, nhưng mãi cho tới tháng 6/69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Đặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6/69.
Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21/02. Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.
Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày 25/02. Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Đa số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua. Tới tháng 6/69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Đức có Đoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06/02/68. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19/03/68, chôn chung với năm người khác cùng làng. Tại lăng Đồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23/03/68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế nguyên tắc của đối phương là phải dấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng ngày 27/03/68 gần lăng Đồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.
Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01/03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.
Xác ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Trieu. Ông bị bắt ngày 20/02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín ở cửa Đông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Đây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Ton That Quyen, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08/02/68. Gia đình tìm được xác ông ngày 05/05/68.
Địa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05/02/68. Xác tìm được ngày 17/03/68 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại : một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.
Địa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Le Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06/02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10/03/68 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên.
Địa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02/02/68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01/03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con.
Địa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách Đàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinhviên, nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25/03/68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.
Địa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Đức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02/04/68.
Địa điểm mười lăm ở Đông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01/04/68. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới,trong đó có 15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được.
Tới tháng 05/68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính... Đầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá.
Điểm chôn thứ mười sáu : Đầu tiên ở làng Vinh Thái. Địa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Địa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08/69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mải tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này...
Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Đông và Đông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục... Trong số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác ; làng Phú Lương 22 ; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Đa số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02/68. Trong số 357 xác có cha Bửu Đồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8/11/69).
Các con cái yêu dấu,
Đây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp... (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ.. (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý chúa.
Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Đức Mẹ.
Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời.
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Đồng)
Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.
Mới sáng tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm : công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi...
Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết...
Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Đắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.
Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.
Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang làng Đập Đá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.
Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Đám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án. Địa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài. Danh sách bất tận.
Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Đàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có, già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.
Bên trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Đàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Đàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó "Ta đi mô đây". Có tiếng phụ họa "Lên núi hay tới chỗ chết ?".
Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. "Bắt gió cho ông ta " tiếng ai đó vang lên... Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới.
Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. "Xin để tui đi, để tui ở lại đây", ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. "Tui không đi xa hơn được nữa".
"Đứng dậy".
Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.
Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô "Dừng lại". Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Đám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Đồng Khánh.
Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.
Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây ? Đa số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác.
Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Đông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra...
Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9/69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ vào sông Hương... Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này...
Mồ Tập Thể
Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.
Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần ; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26/02/1968.
Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi - người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em gái (sister) cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ ; mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với chị/em dâu cô.
Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22/02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26/02.
Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14/02, xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16/03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.
Người thứ tư là Trần Đình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06/02, tìm thấy xác ngày 26/02.
Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17/02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội, tìm thấy xác ngày 26/02.
Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08/02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26/02, ở khuôn viên trường.
Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống.
Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.
Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12/02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.
Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Đặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06/02, tìm thấy xác ngày 26/02.
Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08/02, xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.
Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08/68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.
Tiết lộ về "mồ chôn tập thể" đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28/02/68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm "ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng". Cũng theo phát ngôn viên, "các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn". Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Đông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết ; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ : ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM ; và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09/02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Đà Nẵng.
Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10/03/68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Đông, được khám phá ngày 14/03/68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhô ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.
Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Đức và Đồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Đây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19/03/68, nhưng mãi cho tới tháng 6/69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Đặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6/69.
Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21/02. Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.
Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày 25/02. Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Đa số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua. Tới tháng 6/69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Đức có Đoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06/02/68. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19/03/68, chôn chung với năm người khác cùng làng. Tại lăng Đồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23/03/68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế nguyên tắc của đối phương là phải dấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng ngày 27/03/68 gần lăng Đồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.
Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01/03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.
Xác ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Trieu. Ông bị bắt ngày 20/02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín ở cửa Đông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Đây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Ton That Quyen, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08/02/68. Gia đình tìm được xác ông ngày 05/05/68.
Địa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05/02/68. Xác tìm được ngày 17/03/68 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại : một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.
Địa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Le Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06/02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10/03/68 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên.
Địa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02/02/68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01/03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con.
Địa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách Đàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinhviên, nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25/03/68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.
Địa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Đức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02/04/68.
Địa điểm mười lăm ở Đông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01/04/68. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới,trong đó có 15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được.
Tới tháng 05/68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính... Đầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá.
Điểm chôn thứ mười sáu : Đầu tiên ở làng Vinh Thái. Địa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Địa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08/69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mải tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này...
Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Đông và Đông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục... Trong số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác ; làng Phú Lương 22 ; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Đa số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02/68. Trong số 357 xác có cha Bửu Đồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8/11/69).
Các con cái yêu dấu,
Đây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp... (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ.. (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý chúa.
Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Đức Mẹ.
Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời.
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Đồng)
Điểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả
Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm
thấy giữa các lùm cây trong tháng 07/69. Chỉ có ba xác nhận diện được là
người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ
của sự hành quyết.
Điểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04/69, và ở làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07/69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu... Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.
Điểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09/69 ở Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Đại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có chỗ xương nằm riêng, sọ nằm riêng ; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vứt xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.
Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị mất tích ?
Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04/68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì bom B52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Đường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng trái với Đá Mài. Khe Đá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm ; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Địa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia (xác của những người mang từ Huế ra) bị phát hiện, mà nếu có phát hiện thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán, tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình... Sau khi Đá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.
Tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình
Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông cùng với bốn đứa con...
Elje Vannema
Nguyên tác : The Vietcong Massacre at Hue. Vintage Press, New York, 1976
Điểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04/69, và ở làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07/69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu... Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.
Điểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09/69 ở Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Đại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có chỗ xương nằm riêng, sọ nằm riêng ; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vứt xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.
Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị mất tích ?
Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04/68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì bom B52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Đường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng trái với Đá Mài. Khe Đá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm ; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Địa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia (xác của những người mang từ Huế ra) bị phát hiện, mà nếu có phát hiện thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán, tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình... Sau khi Đá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.
Tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình
Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông cùng với bốn đứa con...
Elje Vannema
Nguyên tác : The Vietcong Massacre at Hue. Vintage Press, New York, 1976
PHẠM TRẦN * CỘNG SẢN GIAN ÁC
Ăn tết bằng xương máu Mậu Thân thì hoà hợp - hoà giải với ai?
Phạm Trần (Danlambao)
- Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã tự tay bóp cò súng vào đầu khi
mở tiệc liên hoan mừng “chiến thắng Mậu Thân 50 năm” mà mồm vẫn bô bô
kêu gọi người Việt bỏ nước ra đi từ sau 30/04/1975 hãy “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai vì mục tiêu phát triển chung của cả dân tộc".
Đây là một bằng chứng nữa chứng minh người Cộng sản luôn luôn nói một đảng làm một nẻo và lươn lẹo có truyền thống.
Họ cũng đã quên lời nói của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 2005 vào dịp kỷ niệm 30 năm kết thúc chiến tranh: "Lịch
sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người
thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng
như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có
hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết
thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó
thêm rỉ máu." (Phỏng vấn của báo Quốc tế số ra ngày 31/3/2005)
Vậy thì khi có những cái đầu Lãnh đạo “sỏi đá nhiều hơn óc thịt” muốn
lấy máu xương Mậu Thân 1968 của đồng bào miền Nam để sắp cỗ mừng Xuân
Mậu Tuất 2018 thì họ có mục đích gì ngoài việc "lại tiếp tục làm nó
thêm rỉ máu"?
Miệng lưỡi hổ mang
Là người Việt Nam, ai cũng nhớ về cội nguồn dân tộc, ông bà, tổ tiên,
dòng họ, chòm xóm và bạn bè, thầy cô mỗi khi Tết về. Nhưng ngoài những
người còn sống, truyền thống dân tộc còn dạy chúng ta không quên người
chết vì trong số họ, có cả những người đã hy sinh cho ta được sống sau
30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng Cộng sản Việt Nam chủ động
và nuôi dưỡng.
Trong số những nạn nhân của cuộc chiến, kinh hoàng, bi thảm và tàn ác
nhất là những người bị quân Cộng sản giết không nương tay khi họ tấn
công vào cố đô Huế Tết Mậu Thân năm 1968.
Số người này được ước tính từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích
trong 25 ngày đêm thành phố Huế nằm trong tay lực lượng Cộng sản. Họ bị
quân đội miền Bắc và tay sai nằm vùng coi là “kẻ thù của cách mạng” và
“có nợ máu với nhân dân” nên phải bị tiêu diệt gồm Quân nhân, Cảnh
sát, Công chức và đảng viên các đảng chính trị. Số còn lại là các Nhà tu
hành, viên chức làng xã, một số Bác sỹ Việt Nam và nước ngoài và dân
thường chưa hề ám hại ai.
Tất cả những người này đã bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình
thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để
chiến đấu.
Phía Cộng sản miền Bắc chối biến không nhúng tay vào máu người cố Đô Huế
mà đổ tội cho máy bay, đại bác và Quân đội Việt Nam Cộng hòa và Hoa
Kỳ.
Bằng chứng trong cuốn phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968”, được nhà
nước đầu tư và đã chiếu trên đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 25 tháng
01 năm 2013, Nhà Đạo diễn (Bà) Lê Phong Lan (chủ Hãng phim Bản sắc Việt)
đã mồm loa mép giải rằng: "Cái gọi là "cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là
đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm
nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.”
Nhưng điêu ngoa cách mấy cũng không thoát được lưới Trời lồng lộng.
Đã có hằng hà sa số nhân chứng và tài liệu chứng minh hành động sát nhân
của quân Cộng sản ở Huế Mậu Thân và khắp miền Nam trong chiến tranh.
Nhưng Lê Phong Lan và những miệng lưỡi hổ mang của người Cộng sản hãy
banh tai ra mà nghe “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn”, của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người Huế có học chạy theo Cộng sản, từng bị
nhiều người nguyền rủa vai trò của anh ta trong vụ thảm sát Huế Mậu
Thân.
Thư này được Tường nhờ Nhà văn trong nước Nguyễn Quang Lập phổ biến ngày 10/02/2018, trong đó có đoạn nói về thảm sát Huế: "Điều
quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con
của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi
tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải
gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm
Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương
tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng."
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng nhìn nhận đã có những sai lầm khi trả lời Burchett trong cuốn phim “Việt nam một thiên lịch sử truyền hình” (Vietnam: A Television History; Tet, 1968; Interview with Hoang Phu Ngoc Tuong) năm 1981.
Tường nói trong "Lời cuối cho câu chuyện quá buồn": "Khi nói
về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là
năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài
năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự ngụy biện. Không thể
lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968."
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng là thành viên của Liên Minh Các Lực
Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản từ
trước Mậu Thân. Vào năm 1981, khi cuộc phỏng vấn của Burchett diễn ra là
thời gian Tường xin vào đảng CSVN mà chưa được nên đã "hăng hái bảo vệ
cách mạng, đổ tội cho Mỹ " để lấy điểm chăng?
Nghi vấn này được Hoàng Hải Vân, một cựu Bộ đội quân Cộng sản người Huế, viết trên Facebook ngày 11/02/2018.
Nguyên văn thế này: "Tôi không dám suy đoán về những gì mà tôi không
biết. Tôi chỉ nhớ lại một chi tiết mà bản thân tôi có “dính” một chút
xíu vào thời điểm nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “mạo nhận” và
“lỡ lời” trên bộ phim nói trên. Hồi ấy tôi vừa ở bộ đội về. Một hôm nhà
thơ Phan Duy Nhân (người bị bắn gãy chân và bị bắt trong sự kiện Mậu
Thân ở Đà Nẵng, sau này làm Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ) mang
một tờ giấy đến nhờ tôi đánh máy giúp (vì tôi biết đánh máy chữ và đánh
ít khi bị lỗi). Đó là bản Xác nhận quá trình tham gia cách mạng của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, do anh Phan Duy Nhân “lôi kéo” và tổ chức. Tôi
hỏi anh Nhân, rằng anh Tường là nhà văn nổi tiếng, đã thoát ly tham gia
cách mạng rồi thì cần cái bản xác nhận này để làm gì, anh Nhân nói, ông
ấy đang xin vào Đảng, cần cái xác nhận này để bổ sung lý lịch. Tôi thắc
mắc, ảnh nổi tiếng thế sao giờ vẫn chưa vào Đảng, anh Nhân nói người ta
phải xét tới xét lui rất lằng nhằng."
Trong cuộc phỏng vấn của Thụy Khuê, Đài Phát thanh Quốc tế
Pháp (Radio France International) vào dịp kỷ niệm Mậu Thân 30 năm, Tường
còn nhắc lại chuyện ông Lê Minh, một trong số các tư lệnh của quân Cộng
sản tại chiến trường Huế Mậu Thân đã nhìn nhận “có sai lầm” và yêu cầu
“minh oan” cho những nạn nhân.
Tường nói: "Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), còn nhắc nhở rằng, điều
quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế
nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn
nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân
chính đáng cho thân nhân của họ."
“Đồng chí” của Tường là Nguyễn Đắc Xuân, người cũng bị nhiều nhân chứng
Huế liệt kê vào hàng ngũ sát nhân cũng nhắc lại chuyện Lê Minh với BBC
ngày 12/02/2018: "Năm 1988, tôi giúp Thành Ủy Huế làm một quyển sách
về Huế Mậu Thân 1968. Khi đó, ông Lê Minh, người chỉ huy hồi 1968 đó đã
yêu cầu những người cách mạng bây giờ là phải tổ chức minh oan cho những
người đã chết. Rất tiếc, đến giờ này, chưa ai làm việc minh oan này
cả."
Gương bà Nguyễn Thị Năm
Làm gì có 2 chữ “minh oan” trong từ điển sắt máu của người CSVN, như
lịch sử đã chứng minh tội ác của đảng cầm quyền thời ông Hồ Chí Minh
trong bi kịch Cải cách Ruộng đất 1953-1956?
Tài liệu chính thức ghi: "Tổng số người bị quy trong Cải cách ruộng
đất đã được thống kê là 172.008 người; số người bị oan sai là 123.266
người, chiếm tỷ lệ 71,66%."
"Người đầu tiên bị dân chúng địa phương buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là bà Cát Hanh Long, tức Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên;
bà bị người dân địa phương quy tội địa chủ gian ác, bị xử bắn mặc dù
trong thời kháng chiến đã có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam.” (theo Bách Khoa Toàn thư mở)
Tài liệu của báo Luật sư Việt Nam (LSVN) ngày 18/09/2017 viết về công lao của bà Năm thế này: "Trước
khi thành công, bà Năm đã ủng hộ Việt Minh 20.000 đồng tiền Đông Dương
(giá trị bằng 700 lượng vàng) không kể vải vóc, lương thực. Tại “Tuần
lễ vàng” ở Hải Phòng theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng
9/1945, bà Năm cũng đã ủng hộ 100 lạng vàng nữa. Bà được cử làm Hội
trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Thái Nguyên ba năm liền. Các ngôi biệt
thự của bà ở Hà Nội, Hải Phòng, ở đồn điền Đồng Bẩm đều là nơi qua lại,
ăn ở, địa điểm liên lạc của cán bộ Việt Minh cao cấp. Hai con trai bà là
Nguyễn Văn Hanh, Nguyễn Văn Cát đều theo Việt Minh đi bộ đội. Nguyễn
Hanh từng tháp tùng đoàn đại biểu Chính phủ do các ông Nguyễn Lương
Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận... vào Huế nhận ấn kiếm khi vua Bảo Đại
thoái vị."
Trong số những người được bà Năm nuôi ăn, cho chỗ ở và giúp đỡ trong
nhiều năm có Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ,
Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh v.v…
Người bị lên án vô ơn bạc nghĩa nặng nhất trong vụ án bà Nguyễn Thị Năm
là Hồ Chí Minh, người cầm quyền khi thi hành Cải cách Ruộng đất. Ông Hồ
đã không dám cứu bà Năm vì nhu nhược trước áp lực của cố vấn Trung Hoa
muốn đưa bà Năm ra xử làm gương.
Nhà báo Bùi Tín kể: "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy
về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm
chú nghe rồi phát biểu: "Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách
nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản
và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức."
Cũng có lời kể lại: "Hồ Chủ tịch đã nói với nhiều đồng chí Trung
ương: “Người ta không nên đánh phụ nữ dù bằng một cánh hoa hồng, huống
hồ phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất lại nhằm vào một phụ nữ, mà
người ấy lại rất có công với cách mạng".
Chuyện kể là như thế, nhưng thật hư khó chứng minh. Chỉ có điều chắc
chắn là ông Hồ, vì sợ mất lòng cố vấn Tầu Lã Quý Ba nên đã “làm ngơ” để
cho Bà Nguyễn Thị Năm bị đưa ra pháp trường thi hành án tử hình tối
ngày 29/5 năm Quý Tỵ (ngày 9/7/1953) tại Thái Nguyên khi 47 tuổi. (báo
Luật sư Việt Nam (LSVN), ngày 18/09/2017)
Phục hồi danh dự cho ai?
Vẫn theo báo LSVN, cho đến năm 1987, khi đất nước bắt đầu đổi mới theo
Nghị quyết Đại hội 6 của Đảng, bà Nguyễn Thị Năm mới được minh oan, sửa
lại thành phần giai cấp sau 1/3 thế kỷ bị oan sai.
“Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Tổ chức Trung ương đã đề nghị
Tỉnh ủy Bắc Thái (tháng 4/1987) sửa lại thành phần giai cấp cho bà Năm
do hai con trai bà đầu đơn, đến tháng 6/1987 UBND tỉnh Bắc Thái đã quyết
định ghi rõ: “Bà Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh Long trước bị quy là “Tư
sản địa chủ cường hào gian ác” nay sửa lại thành phần giai cấp cho bà
Năm là: “Tư sản địa chủ kháng chiến”.
Đáng lẽ ra, sau khi đã sửa sai như thế thì bà Năm phải được “Nhà nước
khen thưởng (truy tặng) như ngàn, vạn người có công với cách mạng theo
Nghị định 28/CP ngày 29/4/1995 của Chính phủ, mặc dầu con bà đã nhiều
lần gửi đơn xin các cơ quan cứu xét, nhưng vẫn chưa được một cơ quan nào
trả lời”, báo LSVN đặt vấn đề.
Thắc mắc là chuyện của dân nhưng quan tâm hay không là chuyện của đảng và nhà nước. Vì vậy “Dù
đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu từ năm 1995 đến năm 2014 qua những lá
thư gửi lên địa phương và trung ương đòi phục hồi danh dự cho mẹ nhưng
gia đình hoàn toàn không được hồi âm.”, báo LSVN than vãn thay cho gia đình bà Năm.
Vu cáo máu tanh
Ngược dòng thời gian, để bào chữa cho việc xử bắn bà Cát Hanh Long
Nguyễn Thị Năm, báo Nhân Dân của đảng CSVN, vào ngày 21/07/1953 đã bịa
đặt ra đủ thứ tội ác để buộc tội bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm. Bài
viết ký tên tắt C.B. mà sau này có nhiều người suy đoán là “Của Bác” để
ám chỉ Tác gỉa chính là ông Hồ Chí Minh.
Những vu oán cáo vạ đê hèn của bài viết nguyên văn như sau:
“Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
- Giết chết 14 nông dân.
- Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
- Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia
đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và
cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không
còn một người.
- Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân
bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt
làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
- Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở
dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt.
Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào!
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
- Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người.
Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu,
vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
- Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
- Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
- Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
- Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
- Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng
đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng
Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại
kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng
cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú
nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
C.B.
Như vậy thì ông Hồ và nhiều Lãnh đạo đảng CSVN, những người đã được bà
Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm cưu mang có “ăn cháo đá bát” không?
Nhắc lại chuyện này để chúng ta thấy chuyện phản bội trắng trợn xấu xa
này tưởng như chỉ xẩy ra trong hàng ngũ đầu trộm đuôi cướp vô học, ai
ngờ cũng ăn sâu bám rễ ở cung đình đảng Cộng sản Việt Nam.
Đáng chú ý hơn là chuyện gia đình bà Năm "hoàn toàn không được hồi âm"
đã xẩy ra trong khoảng thời gian từ 1995 cho đến bây giờ (năm 2018),
tổng cộng 23 năm qua 4 đời Tổng Bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức
Mạnh và Nguyễn Phú Trọng.
Những người này, trong chuỗi thời gian cầm quyền, cũng đã ra rả khua môi
gõ lưỡi kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc với những người Việt Nam bỏ
nước ra đi trong khi họ vẫn tổ chức liên hoan, ăn mừng và “bới đống tro
tàn tìm máu đổ” trước mắt các nạn nhân người miền Nam vào mỗi dịp 30
tháng Tư hàng năm.
Từ Trọng đến Phúc
Giờ đây, sau 50 năm chưa nguôi uất hận, tang thương và cay đắng của
người dân Huế, đảng và nhà nước CSVN lại bỏ ra ba tháng (từ 12/2017 đến
02/2018) với không biết bao nhiều tiền của để tổ chức tiệc tùng và hội
thảo để ca tụng chiến thắng Mậu Thân 1968.
Làm như vậy, không những người CSVN đã che giấu đi tội ác Mậu Thân mà
còn “tiếp tục làm nó thêm rỉ máu” như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
cảnh giác năm 2005.
Vậy mà, tại Trụ sở Trung ương Đảng ngày 07/02 (2018), người cầm đấu đảng
CSVN Nguyễn Phú Trọng vẫn có thể hớn hở nói với số Việt kiều thân Đảng
từ nước ngoài về ăn Tết rằng: "Đảng và Nhà nước luôn trân trọng
những đóng góp, tấm lòng hướng về đất nước của bà con kiều bào ta trên
toàn thế giới; Đảng và Nhà nước luôn giang rộng cánh tay đón chào người
Việt ở nước ngoài về với quê hương cội nguồn."
Cũng với giọng lưỡi tát nước theo mưa để nịnh Kiều bào, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói: "Tổ
quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào, đặc biệt lắng nghe những
nguyện vọng, những ý kiến đóng góp quý báu của bà con dành cho đất nước”
và “Chính phủ do dân, vì dân, trong đó có bà con Việt kiều”… kỳ vọng
kiều bào ta cùng người dân trong nước đoàn kết một lòng, xây dựng đất
nước ngày một phát triển hơn, thực hiện khát vọng “xây dựng đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
Nhưng những lời đầu môi chót lưỡi này có ý nghĩa gì với những nạn nhân
của Huế Mậu Thân khi mà vào ngày 30/01/2018, Nhật báo Nhân Dân của đảng
vẫn chạy tội với những lời lẽ trong bài viết tráo trở "Sự dối trá và lừa bịp".
Bài viết mở đầu bằng câu: "50 năm qua, rất nhiều bài báo, công trình
nghiên cứu và cả những người trong cuộc đã chứng minh, khẳng định sự
việc “thảm sát ở Huế năm 1968” là sản phẩm của sự dối trá, bịp bợm."
Ai dối trá và bịp bợp thì người Cộng sản nên hỏi thẳng nằm vùng Hoàng
Phủ Ngọc Tường để biết ăn nói ngạo ngược như thế thì hòa hợp-hòa giải
dân tộc với ai?-/-
Tết Mậu Tuất (02/018)
LỄ VALENTINE 14/2
- Valentine's Day (ngày 14/2) đã trở thành một ngày lễ quan trọng, đặc
biệt là đối với các đôi tình nhân. Đây là ngày cả thế giới tôn vinh tình
yêu lứa đôi.
Vào ngày này, người ta bày tỏ tình yêu của mình bằng cách gửi cho nhau
thiệp Valentine, hoa hồng, chocolate và một số loại quà tặng đặc biệt
khác mang nhiều ý nghĩa.Valentine's Day đã trở thành một ngày lễ quan trọng, đặc biệt là đối với các đôi tình nhân |
Tuy nhiên, nguồn gốc thực sự của ngày lễ Tình nhân Valentine không phải gồm toàn hoa hồng, chocolate và những tấm thiệp xinh xắn tràn đầy yêu thương. Thay vào đó, ngày lễ dành cho những cặp đôi yêu nhau này lại có cảm hứng từ câu chuyện bất ngờ.
Có khá nhiều thông tin về nguồn gốc ngày lễ Tình yêu, gắn với tên Thánh Valentine. Song thực tế c
ó tới ba người tên là Valentine hay Valentinus được phong thánh nên đến ngày nay người ta vẫn còn bàn cãi xem vị nào trong ba người đó tạo ra cái ngày mà hàng triệu người trên thế giới phải hồi hộp chờ đợi.
Dù còn ít nhiều quan điểm chưa thống nhất về lịch sử ngày Valentine nhưng có một điểm chung giữa các câu chuyện về những vị thánh này là họ đều chết vì tình yêu chân chính, tình yêu cao cả và vì sự chính nghĩa.
NGUỒN GÔC LỄ VALENTINE14/2
1. Một trong những truyền thuyết được nhiều người chấp nhận nhất về nguồn gốc ngày lễ Tình yêu là câu chuyện liên quan đến một vị giáo sĩ La Mã sống dưới thời Hoàng đế Claudius II vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Thời kỳ này, đế chế La Mã
CHUYỆN
VALENTINE 14/2
1- Anh thủ thỉ vào tai cô: "Từ ngày lấy em, anh đã cai được rượu, bỏ
được thuốc, bỏ được cờ bạc, không đi hát karaoke, cũng chẳng thèm đàn
đúm với bạn bè nữa ! ". Cô mỉm cười hạnh phúc, nghĩ ngợi : " Tình yêu
của mình đúng là có sức cảm hóa diệu kỳ, nó kéo anh thoát xa khỏi những
thói hư tật xấu, hướng anh về cái lương cái thiện ! ". Còn anh thì nghĩ:
"Lương của anh em thu sạch, trong túi không có đồng nào thì đánh bạc,
uống rượu, hút thuốc làm sao ? Karaoke cũng không ai cho hát chịu. Bạn
bè cũng vậy, một vài buổi thì chúng nó còn bao, chứ cả tháng mà vẫn bao,
thì họa chăng chúng nó khùng rồi ! ".
2- Họng cô bị đau, còn tay thì bị khô da nứt nẻ, đi khám và uống thuốc
rất lâu mà không khỏi. Anh nắm tay cô ngậm ngùi: "Là lỗi của anh, vì
anh mà em chịu khổ như vậy !". Cô nghĩ:" Ừ, anh hiểu được sự hy sinh của
em dành cho anh vậy là em thấy ấm lòng rồi !". Còn anh nghĩ:" Suốt ngày
quát tháo, gào thét chồng thì sao chả đau họng; bát đĩa chồng rửa, quần
áo chồng giặt, vo gạo, rửa rau, cơm nước chồng làm hết, tay vợ có mấy
khi được nhúng nước đâu mà chả bị khô da ?".
3- Cô hỏi:" Nếu so sánh em với một loài hoa, anh sẽ nghĩ đến hoa gì ?".
Anh bảo:" Hoa sữa !". Cô hài lòng, cho là anh nói đúng, vì nhiều người
vẫn khen cô là lãng mạn, ngọt ngào như những cơn gió mùa thu nồng nàn
hương hoa sữa. Còn anh, anh nghĩ: Đến cái cây hoa sữa to bự chảng ở chỗ
làm việc, xả ra thứ mùi khăm khắm như hôi nách, khiến anh dù đã đeo khẩu
trang mà vẫn cảm thấy nhức đầu, chóng mặt, và anh đang xin cấp trên cho
chặt đây....
4- Cô giảm béo, ăn toàn rau, và bắt anh ăn theo. Anh nói thèm ăn thịt,
cô bảo:" Ăn thịt nhiều là sát sinh, lúc chết sẽ phải xuống địa ngục,
không được lên Thiên đàng đâu na !". Anh cười, giọng dịu dàng:" Được
sống cùng em trọn một đời rồi, thì Thiên đường hay địa ngục với anh
không còn nghĩ lý gì cả ! ". Cô nghe mà hởi lòng hởi dạ, rồi nghĩ: "Đàn
ông lạ nhỉ, khi đã có vợ là thứ trân quý nhất trên đời rồi thì nhũng
thứ khác nghiễm nhiên trở thành vô nghĩa lý ?". Còn anh nghĩ: "Cả cuộc
đời ở bên em anh còn chịu đựng được, thì chả còn chỗ nào có thể làm anh
kinh sợ cả, dù cho đó là địa ngục đi chăng nữa !"
Bài học rút ra cho phụ nữ :" Đừng nghe những gì đàn ông nói, mà hãy nhìn những gì các ông làm !”.
Những câu chuyện Valentine
Giá từ 1,2 đến 1,8 triệu đồng cho một bông hồng được quảng cáo là dát
vàng 24K nguyên chất song tặng phẩm xa xỉ này vẫn thu hút nhiều người và
luôn trong tình trạng khan hàng dịp cận lễ Valentine.
Sườn cừu nướng than cho chàng, da cá hồi đảo Tasmania chiên cho nàng...,
là "thực đơn tình yêu" được nhiều khách sạn 5 sao kỳ công tổ chức trong
tối 14/2 với giá không đến một triệu đồng mỗi người.
Không muốn cô đơn trong ngày lễ tình nhân, nhiều bạn trẻ đầu tư tiền
triệu để thuê một người khác giới cùng đi chơi và tâm sự. Nhu cầu tăng
cao, giá dịch vụ này theo đó cũng đắt lên với hơn 2 triệu đồng cho hai
tiếng đồng hồ.
Swizzels Matlow trở thành doanh nghiệp lãng mạn nhất nước Anh không chỉ
vì sản xuất hàng trăm triệu viên kẹo mang thông điệp tình yêu mỗi năm mà
còn bởi tỷ lệ nhân viên “có tình cảm đặc biệt” với nhau cao kỷ lục.
Subscribe to:
Posts (Atom)
No comments:
Post a Comment