VÕ PHƯỚC HIẾU * HÙM CHẾT ĐỂ DA
VÕ PHƯỚC HIẾU
HÙM CHẾT ĐỂ DA
Bảy Cối đang đạp lúa, mình trần trùn trục, da dẻ ngâm ngâm đen, sạm nắng, đầu chít khăn chéo trắng ngã màu xám sậm, nếu không nói là lên nước đen thủi đen thui. Cái quần xà lỏn vải tám, lem luốc mốc cời, anh mặc hôm nay có chỗ nổi bậc hẳn lên, đập ngay vào nhãn quan người chung quanh, nhờ mấy mảnh vải vá đầy đủ màu sắc còn mới tinh. Quần lại không dây lưng, được anh vấn chặt ních, độn phồng một cục tròn quây to bằng nắm tay trước rún.
Từ sáng sớm, anh chậm rãi không biết bao nhiêu vòng, đi sau đôi trâu đen
huyền mập lút hông, miệng bị bịt một bịt tre cốt không cho chúng ăn
lúa. Mùi trâu hăn hắc tỏa ra từng chập nhưng mọi người không một ai quan
tâm để ý đến, vì dường như họ đã quen dần từ khi có sự hiện diện của
chúng.
Bãi lúa lớn đại, choáng cả gian nhà sau, khoảng khoát, rộng thênh thang của ông Hương Quản Hạnh. Gian nhà này được xây cất tròn trèm một kỷ chẳn chòi để trâu đạp lúa, vừa ấm cúng, vừa tránh mưa gió thất thường. Vừa đạp lúa, Bảy Cối không ngớt chuyện trò đối đáp với ông Hương Quản, về mọi đề tài tạp nhạp từ thuở huyền bí xa xôi "Ông Nhược ỉa cức su" đến những tin tức thời sự mới toanh còn nóng bỏng, vừa xảy ra ngày hôm qua trong xóm trong làng.
Những câu chuyện bất tận, "Nam Tào Bắc Đẩu" đâu đâu trên trời dưới đất về mưa nắng, vườn tược, ruộng nương, cúng quảy v.v... không lúc nào ngưng, vòng vo Tam Quốc, hết hồi nầy đã thấy chuyển sang hồi khác ngay. Nhưng được một cái là lúc nào cũng dí dỏm hấp dẫn, làm bùi tai người nghe. Mà thật vậy.
Giá nếu không có những đầu đề tào lao vô thưởng vô phạt, những mẫu chuyện chẳng có chút hơi hướm tỵ hiềm làm buồn phiền bà con, qua những nụ cười hề hà móm xọm, cùng những câu đối đáp pha trò phóng khoáng nhưng đôi lúc cũng khá sâu sắc ý nhị đó, Bảy Cối cứ mãi đi cả buổi, cả ngày vòng vòng sau đôi trâu không ngừng nghỉ, chỉ còn có nước buồn ngủ mà chết mất. Nhứt là vào khoảng trưa đứng bóng hay xế xế vắng vẻ, gió đồng mát rượi hiu hiu phơn phớt từng cơn.
Ông Hương Quản Hạnh thỉnh thoảng cũng tham gia phụ sởi lúa đều tay. Trông ông rất thiện nghệ là khác, nhờ bao nhiêu năm dài vất vả, quanh năm vật lộn trong nghề nông, ngay từ thuở thanh xuân lấy sức trai tạo dựng cơ ngơi sự nghiệp lâu dài. Ông chẳng đã từng nhiều lần hãnh diện với những người làm công hay bạn bè cùng thôn xóm qua ba mớ kinh nghiệm tích lũy ấy của mình về thời tiết nông vụ chẳng hạn:
- Làm nông mà không đoán được thời tiết, gió mưa nắng hạn, kể như mất toi phần lớn hoa màu. Phải biết tiên đoán để phòng bị chu đáo, không đợi nước tới trôn mới hoảng hồn hoảng vía trở tay thì không kịp. Đỉa mén mà tranh nhau đua lội chớp chớp phêu phêu khắp nơi trên mặt nước, muỗi cỏ vo vo không ngớt bên tai và nhứt là chuồn chuồn đùa dỡn, tha hồ rập rỡn bắt cặp nhan nhản trước mắt, trâu mà làm biếng ăn cỏ rong theo bờ ruộng, bờ đê, cứ ngóng cổ rồi thả lên gò nằm ì thong dong nhơi thúc lên... thì bây biết không, chém cha đố tránh khỏi trời mưa. Bây cứ thử để ý mà xem. Trúng phóc, không hề sai bao giờ đâu.
Đời ông nhờ cần cù lao lực sớm hôm nên thành công vượt bực đã đành, nhưng trí thông minh thiên phú và kinh nghiệm tích lũy năm nầy tháng nọ giúp ông không ít. Nay trọng tuổi, ông thường tự hào nhờ ông trời thương nên sống dai lên lão. Giờ đây, ông hụ hợ cầm chừng cho vui như để nhớ những động tác quen thuộc ngày xưa. Và cũng để giữ gìn trau dồi sức khoẻ nữa. Ông sởi đều tay để trâu đạp, lúa mau chín. Ngoài công việc nhẹ nhàng đó, ông thường ngồi uống trà Thiết Quan Âm ở cái ghế đẩu cạnh bàn cây tròn, kê sát ngạch cửa bước lên nhà trên. Ông xem như thường xuyên túc trực ở đây để kịp thời có phản ứng, mỗi lần Bảy Cối hấp tấp báo động to tiếng:
- Trâu ỉa! Trâu ỉa!
Những lúc đó, Hương Quản Hạnh nhanh nhẹn chớp lấy cái ki cũ mèm, đáy ki lót rơm cẩn thận, lúc nào cũng được đặt sẵn dưới bàn trà của ông. Ông phóng lại kê cái ki hứng phân gọn lỏn, không bao giờ để phân trâu lọt ra ngoài, vừa dơ bẩn nhà cửa, vừa mất mát rơm rạ lúa thóc. Vì ông thường bảo lúa thóc là hạt ngọc ông trời rộng rãi ban cho, không nên phí phạm mang tội. Phân trâu sền sệt tỏa mùi ngầy ngậy vừa mới lọt ra ngoài hãy còn nóng ấm, không làm cho ông tỏ vẻ nhăn nhó khó chịu. Cuộc đời ông lâu nay đã gắn liền và gần gũi với nó chớ có phải mới mẻ gì.
Biết đâu cái mùi ngậy ngậy ấy còn làm cho ông thêm vững bụng, bằng lòng biết mấy do đôi trâu của mình đang độ sung sức và tận lực làm việc. Bảy Cối báo động xong, vội vã níu ghịt dây vàm. Và đôi trâu nặng nề chậm lụt cũng đã quen mỗi lần như vậy nên phản ứng máy móc của chúng là dừng hẳn lại. Tay kia, anh gọn gàng đè mạnh đuôi trâu trằn xuống kẽ háng, ém nhẹm không cho phân vọt ra ngoài, chờ ông Hương Quản mang ki đến.
Thằng Hai Thường lục lạo, rắn mắc lắm. Nó để ý từ sáng tới giờ bao nhiêu lần báo động của Bảy Cối, ba nó, với cử chỉ lýnh quýnh hấp tấp, đôi khi vấp ngạch cửa chúi nhủi tới trước của ông Hương Quản Hạnh. Mỗi lần như vậy, nó khoái chí tử, cười nhăn răng thả ga. Khuôn mặt nó vốn tròn trịa thêm chành bành như cái bánh qui chảy do háp lửa với hai đồng tiền khuyết sâu hóm hai bên má. Thằng Hai Thường lúc ấy mới lên sáu, bảy tuổi gì đó.
Cái tuổi ham thích rong chơi nô đùa, chưa vướng bận gì cả. Ngày ngày, nó theo sát một bên, không rời Bảy Cối, quanh quẩn tò tò trong nhà ông Hương Quản. Nhưng nó tỏ ra thông minh, lém lỉnh trật đời, ăn nói và hiểu biết nhiều điều lắm chuyện trước tuổi, so với những đứa trẻ bình thường trong xóm. Có những lời nói của nó không ai nghĩ là của nó, tưởng chừng như của người lớn không bằng. Ông Hương Quản thường chăm chú nhìn nó rồi phát biểu chắc mẻm là những đứa trẻ hiểu biết và thông minh trước tuổi như vậy chém chết sau này cũng mau già hơn ai hết. Già trong nhận xét nghĩ suy đã đành, nhưng ngay cả trong cử chỉ và hành động hằng ngày của nó.
Ngặt một nỗi lúc nầy là tuổi thường hay phá phách vụng vặt nên nhiều người trong xóm cứ thấy mặt nó gọi là thằng ba trợn phá đời để cười xòa. Nhưng nhứt nhứt ít thấy ai hờn mát hay giận dai thằng ba trợn tinh ma quỉ quái nầy cả. Có nó cũng vui. Má nó, bà Bảy Chỉnh, hằng ngày đi cấy ruộng xa, từ hừng đông sáng còn tối om lúc tiếng tù và tập họp của trùm vạn cấy văng vẳng xa xa, đến khi thôn xóm lên đèn le lói, đôi khi còn chưa thấy về. Nhà cửa đơn chiếc, không một người lớn hiện diện trông coi. Bảy Cối không dám để thằng Hai Thường ở nhà một mình. Nó nổi tiếng tinh nghịch liến thoáng, thái mái phá phách liền tay.
Cả xóm ai thấy nó cũng lắt đầu chạy mặt. Nhiều khi họ bảo thằng nhỏ này hết thuốc chữa rồi. Có lần nó chơi lửa. Lửa bốc cháy dữ dội tưởng đã thiêu rụi căn nhà lá, nền đất vách tre, vừa mới lợp chưa kịp sốc nóc của ba má nó, nếu không nhờ Út Đằng, người lối xóm tỉnh trí, tri hô gõ mõ hồi một báo động. Báo hại bà con cả xóm "tá hỏa", đổ xô chạy thụt mạng đến phụ nhau chữa cháy trối chết.
Từ dạo đó, hễ đi làm nơi nào, dù xa xôi cách trở đến đâu, Bảy Cối đều dẫn thằng Hai Thường theo sát một bên như bóng với hình. Anh hy vọng có sự hiện diện của mình, tượng trưng quyền lực của người cha đầy uy tín và cương nghị, thằng Hai Thường sẽ chùn chân. Cho dù nó có co rúm mình, ít ra trong cái vỏ mù mì mủ mỉ hào nhoáng mà mắt thiên hạ bên ngoài, vừa dịu hiền vừa ngoan ngoản của nó.
Nhà ông Hương Quản lại ngăn nắp sạch sẽ, nề nếp trong ngoài, đâu ra đấy. Phong cách sống của những người mới làm giàu, mới phất lên tạo dựng được cơ ngơi sự sản, rất quý trọng những gì mình ắp ủ ước mơ lâu ngày nay mới có được trong tay. Khổ nỗi, ông còn khắc khổ khó tánh, tỉ mỉ từng li từng tí. Đàn bà kim chỉ nhứt trong xóm còn phải bái phục, thua ông cả trượng. Bà Hương Quản cũng vốn kỹ lưỡng, mực thước nên nhà cửa quá phẳng phiu, thường xuyên quét dọn không còn một cọng rác.
Quả nồi nào úp vung nấy nên mới ăn đời ở kiếp, vừa lòng hợp ý nhau. Do vậy, thằng Hai Thường bị bó buộc ngồi yên thúc thủ một chỗ, nơi góc nhà thiếu ánh nắng, giữa hai ba bồ lúa to tướng, cà tăng cao nghều nghệu, chất chồng không biết bao nhiêu lớp rất đều khoản. Có bồ cao tận trính nhà. Phạm vi sinh hoạt của nó thu gọn vỏn vẻn ở tấm đệm rách tưa rìa mà ông Hương Quản rộng rãi bố thí cho nó. Bàng nhân thiên hạ tình cờ trông thấy cảnh tồi túng đó sẽ tắc lưỡi hít hà tội nghiệp cho thân phận nó. Nhưng nó nào có vẻ buồn xo bao giờ.
Trái lại, nó tỏ ra quá đỗi bằng lòng, sung sướng là khác. Vì nó tự an ủi mình, không phải ngồi bạ dưới nền đất, đã lạnh lẽo lại lem luốt áo quần, dù quần áo của nó chẳng lành lặn gì, bám đầy bụi đất và mồ hôi. Đi đâu nó cũng phải khoanh tay khúm núm xin phép ông Hương Quản, để ông theo dõi trông chừng. Hoặc ông đánh tiếng báo cho bà Hương Quản biết để dòm ngó. Trong khi Bảy Cối chập chập vẫn đảo mắt nhìn trộm, không dám để hở nó lâu.
Thét rồi nó cũng quen dần với luật lệ khắc nghiệt ấy của ông Hương Quản, trói chưn trói cẳng làm cho nó đôi khi cảm thấy bực dọc bất bình, tuy nó vẫn âm thầm chịu đựng, đè nén, không hề dám thổ lộ ra ngoài. Có chăng là những lúc nó phản ứng thụ động, tuyệt nhiên làm thinh làm thế, mỗi khi ông Hương Quản lớn tiếng gọi đích danh nó.
Nó thường kiếm chuyện này chuyện nọ để mong thoát thân khỏi cái thế cực hình bắt buộc nhàm chán ở một góc nhà bó rọ đó. Nhưng chỉ được một đỗi tự do phù du, nó bị đặt trở lại vị trí bất bình cũ. Coi bộ nó thích bộ vó vội vàng lụp chụp của ông Hương Quản lúc phóng lại bưng ki rơm hứng phân trâu và cái thế gồng tay, bắp thịt nổi u nổi nần đè mạnh đuôi trâu của ba nó hay sao, nên thình lình nó phát la khang lảnh lót. Hơn nữa, nó có năng khiếu nhại giống y giọng nói khàn khàn như kéo nhựa của ba nó:
- Trâu ỉa! Trâu ỉa!
Bảy Cối đi vòng vòng... vòng vòng cùng đôi trâu lúc trời trưa vắng vẻ, lại đứng gió oi bức. Anh cũng đã mệt mỏi, muốn thiu thiu ngủ gà ngủ gật. Có những phút anh đi sau đôi trâu như người mộng du. Anh giựt mình thét to máy móc:
- Già giớ! Già giớ!
Tay anh ghịt mạnh đôi trâu đứng khựng lại theo phản ứng tự nhiên như thói quen bấy nay. Ông Hương Quản đang kề môi thổi thổi chum trà nóng vừa mới chế, lật đật đặt chum xuống bàn, nước nhứt trà Thiết Quan Âm đậm đặc thơm phức tung toé ở dĩa trà. Ông khum gọn xuống bàn, lấy cái ki phóng lại bãi lúa như một phản xạ quen thuộc, không chần chừ, không suy nghĩ một giây một phút. Thằng Hai Thường bật cười híp mắt, thiếu điều chỏng gọng. Nó tỏ ra quá đắc ý, liền tay đập xuống sàn đất bộp bộp bộp bộp. Bảy Cối vội quát lên chửi đông đổng:
- Thằng trời đánh thánh vật. Mầy gạt tao và bác Hương Quản hả?! Hôm nay quá quắc lắm rồi. Mầy gan trời mà! Chết đâu chết phức cho tao rảnh tay. Đừng cứ đeo theo báo đời tao mãi! Một chút nữa bãi lúa chín, thả đôi trâu ngoài đồng, mầy sẽ biết tay tao.
Liếc nhìn ông Hương Quản đang sượng sùng đổ quạo, mặt mày xanh xao còn hơn tàu lá chuối non, giận cành hông, im ỉm như hến, anh mạnh dạn quát tiếp:
- Súc sanh thật! Trời hành mầy hôm nay mới cả gan như vậy. Đồ bá vơ, ăn hại. Mầy quả là nợ đời của tao không sai mà!
Bảy Cối quát mắng xối xả thằng Hai Thường mong làm vừa lòng ông Hương Quản Hạnh. Ông ta đang lỡ bộ, không ngớt lập bập một chập khá lâu. Nhưng ông vẫn chưa nguôi ngoai. Thỉnh thoảng ông dằn tách trà xuống bàn, gương mặt hầm hầm. Bao nhiêu tự ái bỗng chốc dồn cục vào một lúc nên ông cứ lẩm bẩm mãi mà vẫn chưa thốt ra lời. Một đỗi sau, ông chỉ tay hướng về cửa nhà sau ăn thông ra vườn, mắt lườm lườm thằng Hai Thường. Ông quát to:
- Đi... đi ra ngoài cho khuất mắt tao. Đồ quân ăn hại không bằng. Ở đây tao nổi dóa cho ăn vài bạt tai nẩy lửa đổ hào quang bây giờ. Đi! Mau lên! Đi đi!
Bực dọc, mặt ông lúc nãy hầm hừ đỏ hoe bỗng trở lại tái nhạt. Râu mép lưa thưa se sẽ giựt giựt liên hồi. Bảy Cối vã lã tạt qua câu chuyện cúng Kỳ Yên nhằm tháng giêng tới, nhưng ông Hương Quản vẫn còn hậm hực, tỏ ra thờ ơ không quan tâm đến. Nhiều câu hỏi của Bảy Cối nêu lên mong tình hình bớt căng thẳng, ông trả lời tréo ngoe hoặc đánh trống lãng... Thằng Hai Thường lấm lét, liếc xéo ông Hương Quản rồi cúi đầu nhón gót cập theo bồ lúa để nhanh chóng biến dạng ngoài vườn.
Nó hí hởn trong lòng. Cái thằng nhóc con nầy cũng lạ lắm. Nơi cổ chân mặt của nó ông Bảy Cối cho đeo một cây kiềng bạc lì câm chẳng đáng giá là bao, nhưng có kết hai cái lục lạc nhỏ hếu bóng vàng. Nó di chuyển xê dịch là Bảy Cối biết nó ở nơi nào để yên tâm vững bụng làm việc.
Ấy vậy, khi nó nhón gót, nó khéo léo cẩn thận lắm. Đố ai hòng nghe được tiếng lục lạc leng keng. Vừa ra đến hiên nhà, nó như mở cờ trong bụng, khoan khoái cứ mủm mỉm cười thầm. Vì từ giờ phút đó, nó được tự do bay nhảy, mặc tình làm những gì tùy theo sở thích. Nó không còn bị bó buộc, chỉ ngồi xuống đứng lên một chỗ. Như vậy, ít ra cũng được vài khắc đồng hồ.
Đây không phải là lần thứ nhứt thằng Hai Thường loắt choắt phá phách ông Hương Quản. Mấy tuần trước đây, ông Hương Quản bán mấy bồ lúa sốc nâu, nàng quớt gì đó, chuẩn bị năm nầy ăn Tết lớn vì trúng mùa. Bảy Cối đang đong lúa trong bồ cùng vài bạn nông dân khác trong xóm để nhân công vác xuống ghe chài đang neo ở bến sông. Bụi lúa bay tung toé khắp nơi trong nhà, nhiều lúc như nghẹt thở. Mặc dầu nhà cửa của ông Hương Quản khá khang trang khoản khoát. Cứ mỗi lần gạt mặt thùng quan xong, Bảy Cối hô to cốt để cho ông Hương Quản nghe rõ ràng:
- Thẻ!
Ông Hương Quản vội vàng để qua một bên, có sự chứng kiến, kiểm soát cẩn thận của lái lúa ngồi cạnh bên, một chiếc đũa tre dùng ăn cơm lâu ngày lán o cũ mèm. Nhiều chiếc thâm kim cả ở hai đầu đũa. Được mười đũa, ông thắt một gút ở sợi dây chuối dài thòn. Ông đã chuẩn bị se sợi chỉ chắc chắn từ nhiều ngày trước.
Sợi dây này tượng trưng kết quả của những ngày dài ông quần quật trên đồng cạn đồng sâu, dầm mưa dãi nắng, đỉa vắt nhun nhúc, bò hong bò mắt vo ve trước mặt từng đàn liên tu bất tận rất khó chịu và bây giờ mới thực sự là của tiền tài sản gia đình ông. Khi Bảy Cối đong dứt lúa trong bồ, ông Hương Quản bắt đầu đếm số gút và cộng thêm thẻ dư để biết ông bán cho lái lúa bao nhiêu giạ. Thẻ đũa tre là đơn vị tính tiền. Quên bỏ thẻ là mất toi một giạ.
Ông rất kỹ lưỡng. Ông chăm chú, thận trọng lắng nghe từng tiếng báo "thẻ" dài hơi của Bảy Cối. Ai nói to tiếng, dù ở xa xa nơi chái bếp hay chòi củi, ông rầy la, quở mắng. Ai chàng ràng, bệu hình bệu dạng qua lại trước mặt, ông quát tháo phải lánh xa. Con Vện, con Cò và con Mốc chập chập chạy rậm rật sủa vang ngoài sân phơi lúa khi có người lấp ló ở bờ tre hay nơi cuối liếp, bình thường ông tấm tắc khen mấy con chó cỏ rặt nòi nầy tuy vậy mà thính mũi nhạy hơi.
Bãi lúa lớn đại, choáng cả gian nhà sau, khoảng khoát, rộng thênh thang của ông Hương Quản Hạnh. Gian nhà này được xây cất tròn trèm một kỷ chẳn chòi để trâu đạp lúa, vừa ấm cúng, vừa tránh mưa gió thất thường. Vừa đạp lúa, Bảy Cối không ngớt chuyện trò đối đáp với ông Hương Quản, về mọi đề tài tạp nhạp từ thuở huyền bí xa xôi "Ông Nhược ỉa cức su" đến những tin tức thời sự mới toanh còn nóng bỏng, vừa xảy ra ngày hôm qua trong xóm trong làng.
Những câu chuyện bất tận, "Nam Tào Bắc Đẩu" đâu đâu trên trời dưới đất về mưa nắng, vườn tược, ruộng nương, cúng quảy v.v... không lúc nào ngưng, vòng vo Tam Quốc, hết hồi nầy đã thấy chuyển sang hồi khác ngay. Nhưng được một cái là lúc nào cũng dí dỏm hấp dẫn, làm bùi tai người nghe. Mà thật vậy.
Giá nếu không có những đầu đề tào lao vô thưởng vô phạt, những mẫu chuyện chẳng có chút hơi hướm tỵ hiềm làm buồn phiền bà con, qua những nụ cười hề hà móm xọm, cùng những câu đối đáp pha trò phóng khoáng nhưng đôi lúc cũng khá sâu sắc ý nhị đó, Bảy Cối cứ mãi đi cả buổi, cả ngày vòng vòng sau đôi trâu không ngừng nghỉ, chỉ còn có nước buồn ngủ mà chết mất. Nhứt là vào khoảng trưa đứng bóng hay xế xế vắng vẻ, gió đồng mát rượi hiu hiu phơn phớt từng cơn.
Ông Hương Quản Hạnh thỉnh thoảng cũng tham gia phụ sởi lúa đều tay. Trông ông rất thiện nghệ là khác, nhờ bao nhiêu năm dài vất vả, quanh năm vật lộn trong nghề nông, ngay từ thuở thanh xuân lấy sức trai tạo dựng cơ ngơi sự nghiệp lâu dài. Ông chẳng đã từng nhiều lần hãnh diện với những người làm công hay bạn bè cùng thôn xóm qua ba mớ kinh nghiệm tích lũy ấy của mình về thời tiết nông vụ chẳng hạn:
- Làm nông mà không đoán được thời tiết, gió mưa nắng hạn, kể như mất toi phần lớn hoa màu. Phải biết tiên đoán để phòng bị chu đáo, không đợi nước tới trôn mới hoảng hồn hoảng vía trở tay thì không kịp. Đỉa mén mà tranh nhau đua lội chớp chớp phêu phêu khắp nơi trên mặt nước, muỗi cỏ vo vo không ngớt bên tai và nhứt là chuồn chuồn đùa dỡn, tha hồ rập rỡn bắt cặp nhan nhản trước mắt, trâu mà làm biếng ăn cỏ rong theo bờ ruộng, bờ đê, cứ ngóng cổ rồi thả lên gò nằm ì thong dong nhơi thúc lên... thì bây biết không, chém cha đố tránh khỏi trời mưa. Bây cứ thử để ý mà xem. Trúng phóc, không hề sai bao giờ đâu.
Đời ông nhờ cần cù lao lực sớm hôm nên thành công vượt bực đã đành, nhưng trí thông minh thiên phú và kinh nghiệm tích lũy năm nầy tháng nọ giúp ông không ít. Nay trọng tuổi, ông thường tự hào nhờ ông trời thương nên sống dai lên lão. Giờ đây, ông hụ hợ cầm chừng cho vui như để nhớ những động tác quen thuộc ngày xưa. Và cũng để giữ gìn trau dồi sức khoẻ nữa. Ông sởi đều tay để trâu đạp, lúa mau chín. Ngoài công việc nhẹ nhàng đó, ông thường ngồi uống trà Thiết Quan Âm ở cái ghế đẩu cạnh bàn cây tròn, kê sát ngạch cửa bước lên nhà trên. Ông xem như thường xuyên túc trực ở đây để kịp thời có phản ứng, mỗi lần Bảy Cối hấp tấp báo động to tiếng:
- Trâu ỉa! Trâu ỉa!
Những lúc đó, Hương Quản Hạnh nhanh nhẹn chớp lấy cái ki cũ mèm, đáy ki lót rơm cẩn thận, lúc nào cũng được đặt sẵn dưới bàn trà của ông. Ông phóng lại kê cái ki hứng phân gọn lỏn, không bao giờ để phân trâu lọt ra ngoài, vừa dơ bẩn nhà cửa, vừa mất mát rơm rạ lúa thóc. Vì ông thường bảo lúa thóc là hạt ngọc ông trời rộng rãi ban cho, không nên phí phạm mang tội. Phân trâu sền sệt tỏa mùi ngầy ngậy vừa mới lọt ra ngoài hãy còn nóng ấm, không làm cho ông tỏ vẻ nhăn nhó khó chịu. Cuộc đời ông lâu nay đã gắn liền và gần gũi với nó chớ có phải mới mẻ gì.
Biết đâu cái mùi ngậy ngậy ấy còn làm cho ông thêm vững bụng, bằng lòng biết mấy do đôi trâu của mình đang độ sung sức và tận lực làm việc. Bảy Cối báo động xong, vội vã níu ghịt dây vàm. Và đôi trâu nặng nề chậm lụt cũng đã quen mỗi lần như vậy nên phản ứng máy móc của chúng là dừng hẳn lại. Tay kia, anh gọn gàng đè mạnh đuôi trâu trằn xuống kẽ háng, ém nhẹm không cho phân vọt ra ngoài, chờ ông Hương Quản mang ki đến.
Thằng Hai Thường lục lạo, rắn mắc lắm. Nó để ý từ sáng tới giờ bao nhiêu lần báo động của Bảy Cối, ba nó, với cử chỉ lýnh quýnh hấp tấp, đôi khi vấp ngạch cửa chúi nhủi tới trước của ông Hương Quản Hạnh. Mỗi lần như vậy, nó khoái chí tử, cười nhăn răng thả ga. Khuôn mặt nó vốn tròn trịa thêm chành bành như cái bánh qui chảy do háp lửa với hai đồng tiền khuyết sâu hóm hai bên má. Thằng Hai Thường lúc ấy mới lên sáu, bảy tuổi gì đó.
Cái tuổi ham thích rong chơi nô đùa, chưa vướng bận gì cả. Ngày ngày, nó theo sát một bên, không rời Bảy Cối, quanh quẩn tò tò trong nhà ông Hương Quản. Nhưng nó tỏ ra thông minh, lém lỉnh trật đời, ăn nói và hiểu biết nhiều điều lắm chuyện trước tuổi, so với những đứa trẻ bình thường trong xóm. Có những lời nói của nó không ai nghĩ là của nó, tưởng chừng như của người lớn không bằng. Ông Hương Quản thường chăm chú nhìn nó rồi phát biểu chắc mẻm là những đứa trẻ hiểu biết và thông minh trước tuổi như vậy chém chết sau này cũng mau già hơn ai hết. Già trong nhận xét nghĩ suy đã đành, nhưng ngay cả trong cử chỉ và hành động hằng ngày của nó.
Ngặt một nỗi lúc nầy là tuổi thường hay phá phách vụng vặt nên nhiều người trong xóm cứ thấy mặt nó gọi là thằng ba trợn phá đời để cười xòa. Nhưng nhứt nhứt ít thấy ai hờn mát hay giận dai thằng ba trợn tinh ma quỉ quái nầy cả. Có nó cũng vui. Má nó, bà Bảy Chỉnh, hằng ngày đi cấy ruộng xa, từ hừng đông sáng còn tối om lúc tiếng tù và tập họp của trùm vạn cấy văng vẳng xa xa, đến khi thôn xóm lên đèn le lói, đôi khi còn chưa thấy về. Nhà cửa đơn chiếc, không một người lớn hiện diện trông coi. Bảy Cối không dám để thằng Hai Thường ở nhà một mình. Nó nổi tiếng tinh nghịch liến thoáng, thái mái phá phách liền tay.
Cả xóm ai thấy nó cũng lắt đầu chạy mặt. Nhiều khi họ bảo thằng nhỏ này hết thuốc chữa rồi. Có lần nó chơi lửa. Lửa bốc cháy dữ dội tưởng đã thiêu rụi căn nhà lá, nền đất vách tre, vừa mới lợp chưa kịp sốc nóc của ba má nó, nếu không nhờ Út Đằng, người lối xóm tỉnh trí, tri hô gõ mõ hồi một báo động. Báo hại bà con cả xóm "tá hỏa", đổ xô chạy thụt mạng đến phụ nhau chữa cháy trối chết.
Từ dạo đó, hễ đi làm nơi nào, dù xa xôi cách trở đến đâu, Bảy Cối đều dẫn thằng Hai Thường theo sát một bên như bóng với hình. Anh hy vọng có sự hiện diện của mình, tượng trưng quyền lực của người cha đầy uy tín và cương nghị, thằng Hai Thường sẽ chùn chân. Cho dù nó có co rúm mình, ít ra trong cái vỏ mù mì mủ mỉ hào nhoáng mà mắt thiên hạ bên ngoài, vừa dịu hiền vừa ngoan ngoản của nó.
Nhà ông Hương Quản lại ngăn nắp sạch sẽ, nề nếp trong ngoài, đâu ra đấy. Phong cách sống của những người mới làm giàu, mới phất lên tạo dựng được cơ ngơi sự sản, rất quý trọng những gì mình ắp ủ ước mơ lâu ngày nay mới có được trong tay. Khổ nỗi, ông còn khắc khổ khó tánh, tỉ mỉ từng li từng tí. Đàn bà kim chỉ nhứt trong xóm còn phải bái phục, thua ông cả trượng. Bà Hương Quản cũng vốn kỹ lưỡng, mực thước nên nhà cửa quá phẳng phiu, thường xuyên quét dọn không còn một cọng rác.
Quả nồi nào úp vung nấy nên mới ăn đời ở kiếp, vừa lòng hợp ý nhau. Do vậy, thằng Hai Thường bị bó buộc ngồi yên thúc thủ một chỗ, nơi góc nhà thiếu ánh nắng, giữa hai ba bồ lúa to tướng, cà tăng cao nghều nghệu, chất chồng không biết bao nhiêu lớp rất đều khoản. Có bồ cao tận trính nhà. Phạm vi sinh hoạt của nó thu gọn vỏn vẻn ở tấm đệm rách tưa rìa mà ông Hương Quản rộng rãi bố thí cho nó. Bàng nhân thiên hạ tình cờ trông thấy cảnh tồi túng đó sẽ tắc lưỡi hít hà tội nghiệp cho thân phận nó. Nhưng nó nào có vẻ buồn xo bao giờ.
Trái lại, nó tỏ ra quá đỗi bằng lòng, sung sướng là khác. Vì nó tự an ủi mình, không phải ngồi bạ dưới nền đất, đã lạnh lẽo lại lem luốt áo quần, dù quần áo của nó chẳng lành lặn gì, bám đầy bụi đất và mồ hôi. Đi đâu nó cũng phải khoanh tay khúm núm xin phép ông Hương Quản, để ông theo dõi trông chừng. Hoặc ông đánh tiếng báo cho bà Hương Quản biết để dòm ngó. Trong khi Bảy Cối chập chập vẫn đảo mắt nhìn trộm, không dám để hở nó lâu.
Thét rồi nó cũng quen dần với luật lệ khắc nghiệt ấy của ông Hương Quản, trói chưn trói cẳng làm cho nó đôi khi cảm thấy bực dọc bất bình, tuy nó vẫn âm thầm chịu đựng, đè nén, không hề dám thổ lộ ra ngoài. Có chăng là những lúc nó phản ứng thụ động, tuyệt nhiên làm thinh làm thế, mỗi khi ông Hương Quản lớn tiếng gọi đích danh nó.
Nó thường kiếm chuyện này chuyện nọ để mong thoát thân khỏi cái thế cực hình bắt buộc nhàm chán ở một góc nhà bó rọ đó. Nhưng chỉ được một đỗi tự do phù du, nó bị đặt trở lại vị trí bất bình cũ. Coi bộ nó thích bộ vó vội vàng lụp chụp của ông Hương Quản lúc phóng lại bưng ki rơm hứng phân trâu và cái thế gồng tay, bắp thịt nổi u nổi nần đè mạnh đuôi trâu của ba nó hay sao, nên thình lình nó phát la khang lảnh lót. Hơn nữa, nó có năng khiếu nhại giống y giọng nói khàn khàn như kéo nhựa của ba nó:
- Trâu ỉa! Trâu ỉa!
Bảy Cối đi vòng vòng... vòng vòng cùng đôi trâu lúc trời trưa vắng vẻ, lại đứng gió oi bức. Anh cũng đã mệt mỏi, muốn thiu thiu ngủ gà ngủ gật. Có những phút anh đi sau đôi trâu như người mộng du. Anh giựt mình thét to máy móc:
- Già giớ! Già giớ!
Tay anh ghịt mạnh đôi trâu đứng khựng lại theo phản ứng tự nhiên như thói quen bấy nay. Ông Hương Quản đang kề môi thổi thổi chum trà nóng vừa mới chế, lật đật đặt chum xuống bàn, nước nhứt trà Thiết Quan Âm đậm đặc thơm phức tung toé ở dĩa trà. Ông khum gọn xuống bàn, lấy cái ki phóng lại bãi lúa như một phản xạ quen thuộc, không chần chừ, không suy nghĩ một giây một phút. Thằng Hai Thường bật cười híp mắt, thiếu điều chỏng gọng. Nó tỏ ra quá đắc ý, liền tay đập xuống sàn đất bộp bộp bộp bộp. Bảy Cối vội quát lên chửi đông đổng:
- Thằng trời đánh thánh vật. Mầy gạt tao và bác Hương Quản hả?! Hôm nay quá quắc lắm rồi. Mầy gan trời mà! Chết đâu chết phức cho tao rảnh tay. Đừng cứ đeo theo báo đời tao mãi! Một chút nữa bãi lúa chín, thả đôi trâu ngoài đồng, mầy sẽ biết tay tao.
Liếc nhìn ông Hương Quản đang sượng sùng đổ quạo, mặt mày xanh xao còn hơn tàu lá chuối non, giận cành hông, im ỉm như hến, anh mạnh dạn quát tiếp:
- Súc sanh thật! Trời hành mầy hôm nay mới cả gan như vậy. Đồ bá vơ, ăn hại. Mầy quả là nợ đời của tao không sai mà!
Bảy Cối quát mắng xối xả thằng Hai Thường mong làm vừa lòng ông Hương Quản Hạnh. Ông ta đang lỡ bộ, không ngớt lập bập một chập khá lâu. Nhưng ông vẫn chưa nguôi ngoai. Thỉnh thoảng ông dằn tách trà xuống bàn, gương mặt hầm hầm. Bao nhiêu tự ái bỗng chốc dồn cục vào một lúc nên ông cứ lẩm bẩm mãi mà vẫn chưa thốt ra lời. Một đỗi sau, ông chỉ tay hướng về cửa nhà sau ăn thông ra vườn, mắt lườm lườm thằng Hai Thường. Ông quát to:
- Đi... đi ra ngoài cho khuất mắt tao. Đồ quân ăn hại không bằng. Ở đây tao nổi dóa cho ăn vài bạt tai nẩy lửa đổ hào quang bây giờ. Đi! Mau lên! Đi đi!
Bực dọc, mặt ông lúc nãy hầm hừ đỏ hoe bỗng trở lại tái nhạt. Râu mép lưa thưa se sẽ giựt giựt liên hồi. Bảy Cối vã lã tạt qua câu chuyện cúng Kỳ Yên nhằm tháng giêng tới, nhưng ông Hương Quản vẫn còn hậm hực, tỏ ra thờ ơ không quan tâm đến. Nhiều câu hỏi của Bảy Cối nêu lên mong tình hình bớt căng thẳng, ông trả lời tréo ngoe hoặc đánh trống lãng... Thằng Hai Thường lấm lét, liếc xéo ông Hương Quản rồi cúi đầu nhón gót cập theo bồ lúa để nhanh chóng biến dạng ngoài vườn.
Nó hí hởn trong lòng. Cái thằng nhóc con nầy cũng lạ lắm. Nơi cổ chân mặt của nó ông Bảy Cối cho đeo một cây kiềng bạc lì câm chẳng đáng giá là bao, nhưng có kết hai cái lục lạc nhỏ hếu bóng vàng. Nó di chuyển xê dịch là Bảy Cối biết nó ở nơi nào để yên tâm vững bụng làm việc.
Ấy vậy, khi nó nhón gót, nó khéo léo cẩn thận lắm. Đố ai hòng nghe được tiếng lục lạc leng keng. Vừa ra đến hiên nhà, nó như mở cờ trong bụng, khoan khoái cứ mủm mỉm cười thầm. Vì từ giờ phút đó, nó được tự do bay nhảy, mặc tình làm những gì tùy theo sở thích. Nó không còn bị bó buộc, chỉ ngồi xuống đứng lên một chỗ. Như vậy, ít ra cũng được vài khắc đồng hồ.
Đây không phải là lần thứ nhứt thằng Hai Thường loắt choắt phá phách ông Hương Quản. Mấy tuần trước đây, ông Hương Quản bán mấy bồ lúa sốc nâu, nàng quớt gì đó, chuẩn bị năm nầy ăn Tết lớn vì trúng mùa. Bảy Cối đang đong lúa trong bồ cùng vài bạn nông dân khác trong xóm để nhân công vác xuống ghe chài đang neo ở bến sông. Bụi lúa bay tung toé khắp nơi trong nhà, nhiều lúc như nghẹt thở. Mặc dầu nhà cửa của ông Hương Quản khá khang trang khoản khoát. Cứ mỗi lần gạt mặt thùng quan xong, Bảy Cối hô to cốt để cho ông Hương Quản nghe rõ ràng:
- Thẻ!
Ông Hương Quản vội vàng để qua một bên, có sự chứng kiến, kiểm soát cẩn thận của lái lúa ngồi cạnh bên, một chiếc đũa tre dùng ăn cơm lâu ngày lán o cũ mèm. Nhiều chiếc thâm kim cả ở hai đầu đũa. Được mười đũa, ông thắt một gút ở sợi dây chuối dài thòn. Ông đã chuẩn bị se sợi chỉ chắc chắn từ nhiều ngày trước.
Sợi dây này tượng trưng kết quả của những ngày dài ông quần quật trên đồng cạn đồng sâu, dầm mưa dãi nắng, đỉa vắt nhun nhúc, bò hong bò mắt vo ve trước mặt từng đàn liên tu bất tận rất khó chịu và bây giờ mới thực sự là của tiền tài sản gia đình ông. Khi Bảy Cối đong dứt lúa trong bồ, ông Hương Quản bắt đầu đếm số gút và cộng thêm thẻ dư để biết ông bán cho lái lúa bao nhiêu giạ. Thẻ đũa tre là đơn vị tính tiền. Quên bỏ thẻ là mất toi một giạ.
Ông rất kỹ lưỡng. Ông chăm chú, thận trọng lắng nghe từng tiếng báo "thẻ" dài hơi của Bảy Cối. Ai nói to tiếng, dù ở xa xa nơi chái bếp hay chòi củi, ông rầy la, quở mắng. Ai chàng ràng, bệu hình bệu dạng qua lại trước mặt, ông quát tháo phải lánh xa. Con Vện, con Cò và con Mốc chập chập chạy rậm rật sủa vang ngoài sân phơi lúa khi có người lấp ló ở bờ tre hay nơi cuối liếp, bình thường ông tấm tắc khen mấy con chó cỏ rặt nòi nầy tuy vậy mà thính mũi nhạy hơi.
Nay ông thúc hối người ăn kẻ ở trong nhà mau mau phóng ra phang cho nó
một gậy đích đáng, để nó im mồm lặng tiếng tức thì. Bà Hương Quản vốn
kín đáo, một cũng thương yêu, hai cũng chìu chuộng chồng, biết ông
nghiện trà có tiếng trong xóm, khép nép nhắc khéo ông trà mới pha nước
nhứt. Ông không màng ngoái lại nhìn mà buông giọng trả lời xẳng lè
"chưa khát, cứ để đó" làm bà ngượng ngùng quay gót rút lui êm.
Thỉnh thoảng ông còn nhắc khéo Bảy Cối không nên đong nặng tay, mất lúa. Cứ thông thả đổ lúa từ từ vào thùng. Của mồ hôi nước mắt của ông! Thằng Hai Thường thừa lúc ông Hương Quản sơ ý lơ đễnh, thét lên:
- Thẻ!
Tiếng báo thẻ của nó cũng ngân nga kéo dài... Ông Hương Quản ngoái lại hoàn hồn. Ông nổi nóng, quát tháo ra lệnh gia nhân mau mau tống cổ nó ra vườn, đi đâu thì đi. Để nó chộp rộp một bên trong góc nhà, cứ chập chập nó ong óng "thẻ" lên, "thẻ" xuống, ông bỏ đũa lộn phiền phức lắm. Bảy Cối cũng không mong muốn gì hơn khi trông thấy thằng Hai Thường bị đuổi ra khỏi nhà. Hú hồn hú vía! Anh yên trí tiếp tục đong lúa. Về sau anh sẽ không bị bầm dập đay nghiến nếu ông Hương Quản nhầm lẫn bỏ thẻ.
Thằng Hai Thường láo lỉnh, ăn quen. Cứ mỗi lần chọc phá, nó được trả tự do, tha hồ chạy dỡn. Nó lục lọi khắp nơi trong vườn. Bà Hương Quản chốc chốc theo dõi, dòm ngó nó. Tinh nghịch, mưu mẹo là bản tính tự vệ trời ban cho nó. Cây quít đường cạnh chuồng heo nhà ông Hương Quản, sum xuê sai trái trông hấp dẫn vô cùng. Ông cưng ơi là cưng! Nâng niu như trứng mỏng không bằng. Khách khứa đến nhà, ông khẩn khoản thỉnh mời hướng dẫn ra xem cho bằng được, hãnh diện về tài nghệ trồng hoa kiểng và cây ăn trái của ông.
Thỉnh thoảng ông còn nhắc khéo Bảy Cối không nên đong nặng tay, mất lúa. Cứ thông thả đổ lúa từ từ vào thùng. Của mồ hôi nước mắt của ông! Thằng Hai Thường thừa lúc ông Hương Quản sơ ý lơ đễnh, thét lên:
- Thẻ!
Tiếng báo thẻ của nó cũng ngân nga kéo dài... Ông Hương Quản ngoái lại hoàn hồn. Ông nổi nóng, quát tháo ra lệnh gia nhân mau mau tống cổ nó ra vườn, đi đâu thì đi. Để nó chộp rộp một bên trong góc nhà, cứ chập chập nó ong óng "thẻ" lên, "thẻ" xuống, ông bỏ đũa lộn phiền phức lắm. Bảy Cối cũng không mong muốn gì hơn khi trông thấy thằng Hai Thường bị đuổi ra khỏi nhà. Hú hồn hú vía! Anh yên trí tiếp tục đong lúa. Về sau anh sẽ không bị bầm dập đay nghiến nếu ông Hương Quản nhầm lẫn bỏ thẻ.
Thằng Hai Thường láo lỉnh, ăn quen. Cứ mỗi lần chọc phá, nó được trả tự do, tha hồ chạy dỡn. Nó lục lọi khắp nơi trong vườn. Bà Hương Quản chốc chốc theo dõi, dòm ngó nó. Tinh nghịch, mưu mẹo là bản tính tự vệ trời ban cho nó. Cây quít đường cạnh chuồng heo nhà ông Hương Quản, sum xuê sai trái trông hấp dẫn vô cùng. Ông cưng ơi là cưng! Nâng niu như trứng mỏng không bằng. Khách khứa đến nhà, ông khẩn khoản thỉnh mời hướng dẫn ra xem cho bằng được, hãnh diện về tài nghệ trồng hoa kiểng và cây ăn trái của ông.
Loại quít đường gốc ghép này mua tận Cái Bè đem về. Nó rất kén đất. Ở
vùng đất tân lập ráo hổi, lạ đất lạ khí hậu, cây trồng chết bộn. Trồng
được một cây quít đường có tầm cỡ trái to ngon ngọt là một kỳ công của
gia chủ. Ông săm soi, chăm sóc hằng bữa. Hầu như ông không bỏ sót một
bữa nào. Dưới gốc quít duy nhứt, có một không hai này trong xóm, ông
chỏi không biết bao nhiêu nạn tre nạn vẹt chằng chịt.
Ông ngăn ngừa gãy nhánh khi trái néo cây quằn cành. Trái màu đỏ gạch
trong bóng, căn da óng ánh, quyến rủ sự dòm ngó ngưỡng mộ của bà con và
khách thập phương khi có dịp tạt ngang qua xóm. Ông Hương Quản lại nuôi
cả mấy bầy kiến vàng. Hằng ngày chúng chen chúc tranh nhau rậm rực trên
các nhánh cây. Vì theo ông, cây quít nào có kiến vàng sẽ cho trái ngọt
dịu thanh thao. Ông cam đoan quít miệt vườn Cái Mơn, Cái Bè trở xuống
nhờ chủ vườn nuôi kiến vàng mà được nổi tiếng. Do vậy, rải rác ở những
nhánh cái, ông treo lủng lẳng ruột gà ruột vịt lòng thòng khô đét, thức
ăn béo bổ hấp dẫn của lũ kiến vàng.
Ngày ngày không biết mệt mỏi, chúng cứ nối đuôi như trẩy hội, tha hồ nhỏng nha nhỏng nhảnh bò lên tuột xuống như mắc cửi. Hôm nào trong nhà có làm gà làm vịt, nhở người ăn kẻ ở nào vô ý quên trao cho ông đùm ruột gà ruột vịt, loại ruột già phế thải thì liệu hồn nên tránh né, đừng cho ông thấy mặt là vừa. Ông sẽ la hét ồn cả nhà. Sự chăm sóc của ông quả thật rất công phu như một nghệ nhân với óc sáng tạo và đôi bàn tay thiên phú.
Ngày ngày không biết mệt mỏi, chúng cứ nối đuôi như trẩy hội, tha hồ nhỏng nha nhỏng nhảnh bò lên tuột xuống như mắc cửi. Hôm nào trong nhà có làm gà làm vịt, nhở người ăn kẻ ở nào vô ý quên trao cho ông đùm ruột gà ruột vịt, loại ruột già phế thải thì liệu hồn nên tránh né, đừng cho ông thấy mặt là vừa. Ông sẽ la hét ồn cả nhà. Sự chăm sóc của ông quả thật rất công phu như một nghệ nhân với óc sáng tạo và đôi bàn tay thiên phú.
Ông từng thố lộ bí quyết thành công của mình ở chỗ không hề nôn nóng thu
hoạch ngay vào những năm đầu vì cây quít sẽ mất sức và có cơ chết nhát
sau này. Ông tiếp tục nuôi dưỡng, chờ đợi ít ra cũng vài năm sau, lúc
cây quít đã đủ tuổi trưởng thành để sinh sản những trái to lớn tròn đều.
Ông còn không tiếc bỏ ra nhiều thì giờ o bế từng cành một, chọn lựa
những chùm trái tốt có triển vọng để bọc giấy nhựt trình cũ, bảo vệ côn
trùng ruồi bọ đục phá. Thế nên, khi thu hoạch, trái nào trái nấy căn da
láng o mướt mượt, trông thấy phát ham. Bao nhiêu trái còn lủng lẳng trên
cây như có ma lực níu chân níu cẳng bà con hay du khách.
Mỗi lần bị đuổi ra khỏi nhà, thằng Hai Thường có thói quen quanh quẩn cạnh chuồng heo. Nó lân la không rời cây quít đường cưng của ông Hương Quản. Bà Hương Quản cũng không vừa. Lâu lâu, bà ngừng tay chạy ra hiên, chậm chậm lần theo hàng lu vú chứa nước mưa, được ông Hương Quản niền nắp vào lu bằng những thỏi dây luột chắc chắn khít đeo, để dáo dác nhìn trộm, canh chừng thằng Hai Thường. Bà cốt xem nó ở đâu cho chắc ý, vững lòng. Mục đích của bà không ngoài dòm ngó cây quít đường, trái chín sà sà gần sát mặt đất, vừa tầm tay hái của đám bầy trẻ tiểu yêu, lục lăn lục lữa, phá làng phá xóm. Nhưng quên một giây một phút là thằng Hai Thường đã lặt vài trái chín cây rồi.
Mỗi lần bị đuổi ra khỏi nhà, thằng Hai Thường có thói quen quanh quẩn cạnh chuồng heo. Nó lân la không rời cây quít đường cưng của ông Hương Quản. Bà Hương Quản cũng không vừa. Lâu lâu, bà ngừng tay chạy ra hiên, chậm chậm lần theo hàng lu vú chứa nước mưa, được ông Hương Quản niền nắp vào lu bằng những thỏi dây luột chắc chắn khít đeo, để dáo dác nhìn trộm, canh chừng thằng Hai Thường. Bà cốt xem nó ở đâu cho chắc ý, vững lòng. Mục đích của bà không ngoài dòm ngó cây quít đường, trái chín sà sà gần sát mặt đất, vừa tầm tay hái của đám bầy trẻ tiểu yêu, lục lăn lục lữa, phá làng phá xóm. Nhưng quên một giây một phút là thằng Hai Thường đã lặt vài trái chín cây rồi.
Saturday, November 18, 2017
HUY NGUYEN * SỐNG SÓT TRÊN BIỂN
HUY NGUYEN
SỐNG SÓT TRÊN BIỂN
Chiếc ghe vượt biên chở khoảng 150 thuyền nhân bị lạc đường, hư máy nằm bềnh bồng trên song nước bao la đã hơn ba tuần lễ nay. Là một chiếc ghe được đăng ký, có thời gian là phương tiện để chuẩn bị đầy đủ nhiên liệu, lương thực, nước uống trong hai tuần lễ cho cuộc hành trình ngắn ngủi quá lắm là hai hôm khởi hành từ cửa Đại đi tới Thái Lan. Ghe lại được công an hộ tống an toàn ra biển. Trong khi đó các trại tị nạn Á Châu mới được dựng nên còn vắng hoe, đang mở rộng cửa, ân cần đón khách thuyền nhân. Vượt biển như thế thì chắc ăn quá, có khác gì đi du lịch đâu.
SỐNG SÓT TRÊN BIỂN
Chiếc ghe vượt biên chở khoảng 150 thuyền nhân bị lạc đường, hư máy nằm bềnh bồng trên song nước bao la đã hơn ba tuần lễ nay. Là một chiếc ghe được đăng ký, có thời gian là phương tiện để chuẩn bị đầy đủ nhiên liệu, lương thực, nước uống trong hai tuần lễ cho cuộc hành trình ngắn ngủi quá lắm là hai hôm khởi hành từ cửa Đại đi tới Thái Lan. Ghe lại được công an hộ tống an toàn ra biển. Trong khi đó các trại tị nạn Á Châu mới được dựng nên còn vắng hoe, đang mở rộng cửa, ân cần đón khách thuyền nhân. Vượt biển như thế thì chắc ăn quá, có khác gì đi du lịch đâu.
Vậy mà bóng dáng thần chết vẫn đến viếng thăm họ. Đúng là con người
sống, chết đều có số. Cũng bởi chiếc hải bàn của chiếc ghe này bị hư,
người tài công đành phải nhắm hướng sao mà tiến cho nên chiếc ghe đi
không chính xác, bị lạc, cứ thế mãi cho đến khi hết cả nhiên liệu, thực
phẩm, nước uống cũng chưa thấy bến bờ nào cả.
Trong cuộc hành trình lạc đường, chiếc ghe đã ba lần gặp bão, nhưng là
ghe vượt biển của nhà giàu nên được đại tu bổ công khai trước khi khởi
hành tại bến nên chắc kinh khủng. Ghe cũng đã hai lần gặp hải tặc, nhưng
nhờ đám thuyền nhân có mang theo của cải, vàng bạc, đô la, lên tiếng
điều đình vì thế đám cướp biển tối mắt, chỉ lấy của cải rồi bỏ đi, nên
đám phụ nữ trên ghe thoát màn hãm hiếp hay bị bắt đi. Thoát được bão tố,
hải tặc, đoàn người lâm vào cảnh cạn hết lương thực, nước uống, và hư
máy tàu. Niềm hy vọng được tầu buôn, hay chiến hạm của Mỹ đi ngang đây
cứu vớt họ cũng tan thành mây khói khi mọi người bị kiệt sức vì đói sau
bốn ngày không còn gì để ăn. Cũng may nhờ những cơn mưa, nên họ đã hứng
được nước để mà sống cầm hơi. Trong hoàn cảnh này, những cây vàng lá Kim
Thành, những cục hột xoàn sang lấp lánh đã chẳng còn giá trị so với
miếng bánh mì tổ phơi khô, củ khoai lùi, hay bát bo bo nhai như ăn phải
sạn. Tội nghiệp nhất là những người già và đám trẻ con chết vì đói, được
thủy táng trong lòng biển. Qua mấy hôm trời nắng, số nước uống dự trữ
lại cạn khô. Chiều nay, lại thêm ba mạng đàn ông nữa qua đời vì sẵn đau
yếu trong người. Người ta không đủ sức để làm thủy tang nửa. Mọi trách
nhiệm dọn xác đều phó thác cho người tài công lái ghe là ông Thới, và
người chủ thầu tổ chức chuyến đi là ông Phản. Tối đến, đám thuyền nhân
còn sống nằm rạp hết trong khoang ghe, thoi thóp. Trên buồng lái, ông
tài công Thới cũng đến hồi kiệt sức, nằm ẹp xuống sàn, miệng khô ran
chẳng còn chút miếng nước. Chỉ còn ông Phản nhờ thân thể mập mạp, khoẻ
mạnh nên chỉ bị gầy đi chút đỉnh chứ chưa bị quị luôn. Ông Phản đổ dầu
cặn ra chiếc thau nhôm nhúng cái giẻ lau máy tàu đen nhẻm vào, rồi đốt
lên. Đây là công việc mà ông vẫn làm mỗi đêm để hy vọng có chiếc tàu nào
đó đi ngang thấy được ánh lửa mà tới tiếp cứu chiếc ghe này. Ba cái xác
chết chưa thủy tang vẫn còn nằm phơi mình trên sàn ghe. Ông Phản kéo
lại rồi lấy lưới phủ lên. Gió bắt đầu thổi mạnh. Ông Phản mừng rỡ chạy
vào phòng lái gọi ông Thới và nói: - Có cơn giông đang kéo tới đây, anh
Thới à. Ông Thới chợt ngồi nhổm dậy: - Vậy mình lo lấy đồ hứng nước đi.
Hai ông xục xạo một hồi tìm được một tấm bạt nylon khá to, hì hục căng
thành một cái võng. Cơn gió thổi càng lúc càng mạnh. Ông Thới mừng rỡ
nói - Trời thương chúng mình rồi, mưa lớn lắm Những ánh chớp loé liên
hồi, rồi những bụi nước nhỏ tạt vào mặt hai người. Ông Thới vội chạy
xuống khoang la lớn: - Có mưa rồi bà con ơi! Đám đàn ông còn chút sức
lực cố ngồi trỗi dậy để chia xẻ tin vui. Ông Thới lấy cái can nhựa và
tất cả những gì có thể hứng được nước đem lên. Vài người đàn ông đã bò
lên được phía trên. Họ nằm ngửa trên sàn ghe chờ đợi. Rồi mưa đổ ập
xuống như một phép nhiệm mầu. Đám người sắp chết khát la to lên mừng
rỡ.
Những hạt mưa lớn tạt vào mặt mọi người đau rát. Đám đàn ông hả miệng
hớp những giọt mưa rồi nuốt một cách sung sướng. Mưa tạt xuống khoang.
Đám người ở dưới cố lết tới miệng hầm để đón những giọt nước trong mát
tưới lên cơ thể khô héo của họ. Những người còn sức lực kéo cả lên trên
boong, nằm xuống sàn ghe. Đám trẻ con cũng được chuyển lên trên nằm hứng
nước. Mưa thật lớn. Nước cứ tuôn xuống như thác.
Đám người vượt biển nhưu được hồi sinh. Chưa bao giờ trong đời họ lại
được nuốt những ngụm nước ngon đến như vậy. Tấm bạt nylon đã căng trĩu
đầy nước. Chiếc can nhựa cùng với đám nồi niêu cũng đã đầy tràn nước.
Người ta hăm hở lấy nước. Tất cả những túi, bịch, lon và những cái gì có
thể đựng được nước, đều được đem ra trưng dụng hết. Mưa một lúc lâu lại
tạnh.
Nước mưa hắt xuống cửa hầm khá nhiều nên đáy ghe cũng lấp xấp nước,
nhưng chưa ngập đến tấm ván lót để mọi người ngồi. Gió biển bắt đầu lành
lạnh. Mọi người lại lục tục rút xuống khoang nằm nghỉ. Bây giờ họ không
còn khát nhưng cái đói vẫn tiếp tục hành hạ mọi người. Tối hôm sau, ông
Phản lại tiếp tục đốt lửa lên làm hiệu cầu cứu.
Ông Thới cố ngồi được một lúc rồi chịu đựng không nổi cái mệt của cơn
đói hành hạ nên ông đứng dậy nói với ông Phản: - Tôi nằm xuống một chút
để cho nó dịu cơn đói rồi lên đấy canh tiếp với anh. Nói xong, ông bước
xuống khoang. Đám người bên dưới lại nằm lả đi. Cơn đói cứ tới rồi biền
đi không biết bao nhiêu lần, bây giờ lại trở về hành hạ họ dữ dội hơn.
Ông Thới nằm thiếp đi cho tới nửa đêm thì chợt tỉnh lại.
Sực nhớ tới ông Phản, ông bèn gắng trỗi dậy leo lên để canh thế ông
Phản. Vừa chui lên khỏi miệng hầm, ông Thới chợt ngửi thấy mùi thịt
nướng. Ông Phản vẫn còn ngồi canh bên đống lửa đốt dầu cặn, đang cầm cắn
ngon lành một món gì trên tay. Mắt ông Thời sang rỡ, ông lướt nhanh
tới, cất tiếng hỏi: - Anh ăn gì đó? Ông Phản vừa nhai, vừa đáp; - Cá
nướng. Ông Thới ngồi xề xuống; - Cho tôi một miếng.
Ông Phản đưa cho ông Thới một xiên thịt đang nướng trên đám lửa đốt bằng
dầu chạy máy tàu khét lẹt. Ông Thới cạp một miếng thịt nóng phỏng lưỡi,
nhai ngon lành. Thịt ngọt và thơm ngon, nhưng mùi oi khói. Ông Thới ăn
một loáng đã hết xiên thịt. Có thức ăn vào bụng, cơ thể ông tỉnh táo hẳn
ra. Ông Phản vẫn thong thả nhai, vừa ăn vừa nhìn nét mặt sung sướng của
ông Thới.
Năm xâu thịt nướng được hai ông chia nhau ăn sạch. Ông Thới quệt miệng
nói; - Phải chi có xị đế như mọi lần mình đi đánh cá thì tuyệt quá! -
Anh ăn thấy làm sao? - Còn gì ngon hơn trong lúc này. Đói mà có ăn như
vậy là tiên rồi. Rồi chợt nhớ ra điều gì, ông Thới hỏi ông Phản; - Cá gì
mà sao mùi vị nó giống thịt vậy anh? Ông Phản bình thản đáp; - Vì muốn
cho anh ăn, tôi đã nói dối là cá, chớ thiệt ra là…thịt người đó! Ông
Thới chợt ré lên một tiếng, rồi cố móc họng khạc nhổ, nhưng chẳng có gì
khạc nhổ ra ngoài được.
Mặt ông chợt xanh mét: - Anh cho tôi ăn thịt ai vậy? - Một trong ba cái
xác chết tôi dấu dưới đống lưới! Ông Thới nằm bật ngửa ra, thở dốc. Trời
ơi, ông đâu có ngờ, mấy miếng ông ăn ngon lành lúc nãy là thịt người.
Cảm giác tội lỗi chợt kéo đến tâm hồn ông. Nước mắt ông chợt trào ra.
Ông Phản lên tiếng; - Mình cần phải ăn để mà sống anh Thới ạ. Sở dĩ tôi
chưa liệng mấy cái xác đi là biết trước, sau gì chúng ta cũng phải cần
đến nó. Lấy thịt của người chết để nuôi người sống cũng chẳng có gì là
tội lỗi cả, bởi chúng ta đã kiệt lực vì đói. Không ăn nó thì ăn cái gì
nay?
Ông Thới nằm yên, mắt nhìn trừng trừng lên trời đêm. Dù ông biết lời ông
Phản rất chí lý trong trướng hợp này, nhưng ông vẫn thấy nó ghê rợn làm
sao ấy. Ông không trách ông Phản, bởi vì ông cũng nhờ mấy miếng thịt
vừa rồi mà lấy lại sức sống. Thế rồi, thịt của ba người chết được hai
ông già bí mật lóc ra từng mảnh nhỏ, xương cốt, ruột gan của ba xác chết
được thảy xuống biển khơi. Số thịt được ướp nước muối, phơi khô, và số
nước hứng được trong trận mưa đã kéo dài sự sống cảu đám người trên
chiếc ghe bất hạnh được thêm mấy ngày nữa. Họ cứ đinh ninh đó là thịt
một loài cá mập con như lời hai ông nói.
Chưa có ai hân hạnh được ăn thịt cá mập bao giờ nên họ cũng không thắc
mắc đén cái mùi vị khác lạ của miếng thịt họ được ăn, và cũng không thắc
mắc làm sao mà hai ông lưới được cá mập. Khi mớ thịt muối đã hết, đoàn
người lại lâm vào cảnh đói, khát thì may mắn thay, họ được một chiếc
thương thuyền mang cờ Mỹ đi ngang qua, tiếp cứu, cho tất cả lên tầu.
Chuyện ăn thịt người đã được hai ông già giữ kín. Sau này, khi được định
cư tại Hoa kỳ, lúc gặp lại nhau trong bàn tiệc nhậu hai ông vui miệng
kể lại chuyến đi khủng khiếp đó và thú thật đã cho thuyền nhân ăn thịt
người, nhưng chẳng ai tin. Còn những người đi cùng chuyến ghe định mệnh
đó thì cứ nhất định khoe với hàng xóm là họ đã được ăn thử thịt cá mập.
::
Huy Nguyên:::
PHAN HUY * ĐÂU LÀ THIÊN ĐƯỜNG
PHAN HUY * ĐÂU LÀ THIÊN ĐƯỜNG
Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc:
Phan Huy đã viết môt bài thơ có tựa đề là “Cảm Tạ miền Nam” rất cảm động. Ngay trong phần mở đầu ông viết:
“Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với miền Nam, miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật”
Sau cái gọi giải phóng và thống nhất, ông Huy đã có dịp vào miền Nam và ông đã nhận ra miền Nam không tồi tệ như bác và đảng đã tuyên truyền và nhồi nhét vào đầu ông và khi đã nhận ra một sự thật phũ phàng, ông Huy đã bật khóc:
“Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với miền Nam, miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật”
Sau cái gọi giải phóng và thống nhất, ông Huy đã có dịp vào miền Nam và ông đã nhận ra miền Nam không tồi tệ như bác và đảng đã tuyên truyền và nhồi nhét vào đầu ông và khi đã nhận ra một sự thật phũ phàng, ông Huy đã bật khóc:
Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động
“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ, tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng, giận đoàn bao năm phỉnh gạt !”
“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ, tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng, giận đoàn bao năm phỉnh gạt !”
Phan Huy cũng không quên mô tả cuộc sống ở miền Bắc CS, nơi ông đã sinh
ra và lớn lên, vô cùng tồi tệ ! Đời sống của nhân dân miền Bắc nghèo
khó đến nỗi phải kéo cầy thay trâu và nhân phẩm của nhân dân miền Bắc bị
xô đẩy xuống tới mức ngang hàng với bèo dâu:
“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu"
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: "Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản.
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu !”
Trong phần cuối bài thơ, ông Huy kết luận rằng, ngày 30-04-1975 thật sự không phải là ngày cộng sản miền Bắc “giải phóng” miền Nam thoát khỏi sự kìm kẹp của Mỹ Ngụy, mà ngược lại là ngày miền Nam đã phá màn u tối, đã khai đường chỉ lối, đã khai sáng cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản, thật sự chúng chỉ là một bầy ác quỷ và ông đã không tiếc lời cảm tạ nhân dân miền Nam:
“Cảm tạ miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung cộng và Liên sô đại vĩ
Cảm tạ miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành danh.”
Trong một bài thơ khác có nhan đề là “Tâm sự một đảng viên” ông Phan Huy đắng cay bộc lộ rằng, sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì ông quá tin nghe theo lời Cao' hồ già dạy bảo:
“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh
Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin
Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.” ?
Và sở dĩ ông đã xung phong đi cứu miền Nam ruột thịt là vì ông tin vào lời tuyên truyền của Cao' hồ già và đảng gian manh CSVN:
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
“Rằng tại miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng”
“Rằng tại miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng”
Mộng miền Nam
“Tôi tìm đến người bà con trong xóm
Nhà xinh xinh, đời sung túc tiện nghi
Ký gạo đem theo nay đã mốc xì
Tôi vội vã dấu vào trong túi xách.
Anh bà con tôi- một người công chức ngụy
Nét u buồn nhưng cũng cố làm vui
Đem tặng cho tôi một cái đồng hồ
Không người lái, Sei-ko, hai cửa sổ.
Rồi anh nói: "Ngày mai đi cải tạo
Cái đồng hồ tôi cũng chẳng cần chi
Xin tặng anh, mong nhận lấy đem về
Một chút tình người bà con Nam bộ."
Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của toàn dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt của Cao' hồ già và đảng gianmanh CSVN, ông Huy cảm thấy hổ thẹn với lương tâm nên đã than khóc:
“Trên đường về, đất trời như sụp đổ !
Tôi thấy mình tội lỗi với miền Nam
Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước”
TÔI LÀM THÔNG DỊCH VIÊN LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT
TÔI LÀM THÔNG DỊCH VIÊN LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT
Trước khi đi lính tôi theo một thằng bạn đi làm thông dịch viên cho Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), A team, dân sự chiến đấu biệt kích Mỹ biên phòng gì đó. Tới xin việc ở trại Lê Văn Duyệt, trên đường Lê Văn Duyệt (Quân Khu Thủ đô đóng ở đó thì phải.)
Một anh thiếu tá Mỹ interview, hỏi dăm ba câu, cho biết tháng tháng được đi phép (về Sài Gòn cẩn thận) bốn ngày, đi về bằng máy bay, hẹn hôm sau đi luôn. Hôm sau tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất, gặp một anh LLĐB Việt, tôi còn bận đồ dân sự (thằng bạn tôi chưa sắp xếp xong chuyện riêng nên chưa đi được.)
Hóa ra cố vấn Mỹ không chuẩn bị kỹ, không phát đồ nhà binh cho tôi. Anh LLĐB Việt nhăn nhó kiếm đồ rằn ri cho tôi, bắt thay ngay tại sân bay (dường như tránh việc để nhân viên dân chính đi máy bay quân sự, sợ tai tiếng, lỡ máy bay rớt báo chí chụp hình lộ ra có chở dân thường thế nào đó!) Máy bay caribou (hay C123, C130 chẳng nhớ nữa) chở lên đồn điền cao su M. T., quận A. L.
Trại mới thiết lập, công sự phòng thủ còn chưa hoàn tất , dân làng còn được mướn vào làm bao cát đắp lên mép giao thông hào. Toán LLĐB Việt có 3 sĩ quan, 1 đại úy trại trưởng, 1 thiếu úy trại phó, 1 chuẩn úy phụ trách tình báo, cỡ chục hạ sĩ quan, đều mũ xanh, mang AR15 màu lục (tiền thân của XM 16). Mỹ có 1 đại úy, 1 trung úy, và 10 hạ sĩ quan mũ xanh. Thông dịch viên (tổng cộng có tới năm thằng lận, lúc nào cũng có một thằng đi phép) theo cố vấn Mỹ trong mọi giao dịch với chính quyền làng, mua bán với dân làng, mướn nhân công vào làm trong trại, giao dịch với toán LLĐB Việt, đủ chuyện đủ việc, trăm thứ bà dằn. Tôi thì vì có khai làm thày giáo, nên luôn luôn được theo làm thông dịch trong các buổi Mỹ huấn luyện chiến thuật, vũ khí, tác xạ cho lính dân sự chiến đấu/biệt kích Mỹ.
Tôi vận dụng kiến thức Cao Đẳng Quân Sự thu nhận được hồi học trung học, tốt nghiệp trung sĩ đàng hoàng (sau này vào Thủ Đức tôi ăn lương trung sĩ ngay từ ngày nhập ngũ), cho nên làm công việc dịch doạc cũng đỡ lớ ngớ! Trại có ba đại đội dân sự chiến đấu, hai đại đội gồm toàn lính Miên nguyên là lính của Sơn Ngọc Thành gì đó, đại đội thứ ba gồm người Việt, kinh thượng một nhà, đủ cả. Miên cũng có đứa nói tiếng Việt sơ sơ. Khi thực tập phản phục kích trong rừng cao su, lính Miên tập thì tập nhưng không tin; một trung đội trưởng lắc đầu nói với tôi: "Chết, trung sĩ ơi. Tập thì tập chớ nó bắn mà mình lao đầu chạy vô chỗ nó nằm thì chết mất." Tôi nghĩ bụng: “Mẹ kiếp. Thế này thì đánh chác cái đếch gì!”
Tôi theo đi hành quân một lần dài hai ngày, một đêm, mệt ngất ngư, nhưng không gặp địch. Trong rừng lúc dừng quân, xác định điểm đứng, tôi lại vận dụng kiến thức Cao Đẳng Quân Sự, nhưng nhìn vào bản đồ chỉ thấy hoa mắt, không thấy vòng cao độ nào cả. Mấy trung sĩ Việt và Mỹ thì chỉ chỏ và gật gù, “ta đang ở đồi 25”; thiếu úy M. trại phó cũng ngơ ngáo chẳng khác gì tôi. Sau đấy anh thật thà bảo tôi: “Ghê quá ông ạ! Tôi hành quân ở đồng bằng quen, lần đầu đi rừng, chẳng biết phương hướng đâu mà lần.”
Thằng bạn tôi gặp rủi, đúng kỳ tôi đi phép thì nó theo đi hành quân vào vùng mỏ vẹt lưỡi câu gì đó, gặp mật khu địch, đụng trận lớn, cố vấn trưởng đại úy J. bị thương ở đùi, chết một trung sĩ LLĐB Mỹ; bên Việt Nam tổn thất bao nhiêu tôi không nhớ. Tôi biết tin này lúc còn đang đi phép ở SG vì được một thằng trong toán LLĐB Mỹ cũng nghỉ phép cho biết. Nó dẫn tôi vào bịnh viện thăm đại úy J., sau đó còn hãnh diện cho tôi đọc bài báo Time kể vụ anh J. bị thương.
Tôi nhớ có nói thêm “forget about Vietnam” sau khi chúc anh J. mau lành bịnh. Tôi nhớ anh trung sĩ Mỹ chết hình như là gốc da đỏ, tên S. Hết phép, tôi lên trại, thằng bạn kể kết quả chuyến hành quân: Phá được một kho vũ khí lương thực của địch, bắt được một lính cái. Thằng bạn kể nó đưa nước cho em uống, em lắc đầu chê.
Tôi hết sức hên: tháng sau, đúng lúc tôi đi phép, toán đi công tác dân sự vụ, civic action, khám bịnh phát thuốc cho dân, (thực thi chủ trương thu phục nhân tâm, winning the people’s heart and mind) bị phục kích khi mới ra khỏi trại trên một cây số, chết thêm anh team sergeant người Mỹ, nhân vật thứ ba trong toán sau hai sĩ quan cố vấn.
Trưởng trại bên Việt Nam là một ông đại úy. Ổng gạ được cố vấn Mỹ xỉa tiền mua một dàn trống, mướn ca công, nhạc sĩ để làm văn nghệ cho lính lên tinh thần. Ông mang từ đâu lên một em bé ca sĩ và một anh nhạc công rỏm, cầm ghi ta khảy phèng phèng, đếch thấy bấm được lấy một ắc co làm cảnh! Thế là tối tối ông trưởng trại gật gù gõ trống xập xình, anh nhạc công khảy đàn phèng phèng đệm cho em ca sĩ gân cổ hát.
Thay vì nghe/xem văn nghệ rỏm, tôi hoặc vào phòng anh trại phó thiếu úy M. tán gẫu, hoặc đàn đúm uống bia với toán Mỹ nếu là thứ bảy chủ nhật. Chẳng bao lâu sau, một hôm thằng tà lọt của anh đại úy trưởng trại đương đêm kêu tôi vào trạm y tế. Thấy em ca sĩ nằm trên giường, đắp drap trắng, anh trại trưởng mặt xám mét ngồi bên cửa.
Có cả em y tá người Việt mà Mỹ mướn làm ở trạm y tế. Em này thường ngày ngủ ngoài làng; chắc em được triệu vô vì có bịnh nhân đàn bà. Em y tá nói em ca sĩ bị băng huyết. Thằng medic Mỹ bảo tôi hỏi: "Is it a miscarriage or an abortion? Tell him to tell the truth!" Anh đại úy xác nhận là phá, không phải xảy. Tôi không biết em ca sĩ được chăm sóc thế nào, vì sau đó thấy người ta không cần tôi thông dịch nữa, tôi về phòng ngủ.
Nghe nói hôm sau em được một toán convoi chở đi bệnh viện quận. Em không được trực thăng tản thương tức thời như anh dân sự chiến đấu bị súng bạn cướp cò cho một phát ngay bụng, đem vào trạm y tế cứ than bụng đầy hơi, bụng đầy hơi quá. Thế là dẹp vụ chiến tranh tâm lý, chấm dứt cảnh hát ả đào, có cô đầu, kép hát, và trại trưởng cầm chầu, tom tom chát chát. Nghe nói sau đó anh trại trưởng còn chịu một trận tê tái nữa: vợ anh mò lên M.T., gọi anh ra hỏi tội, xỉ vả.
Được đúng hai tháng tôi cuốn gói về Saigon.
Trước khi đi lính tôi theo một thằng bạn đi làm thông dịch viên cho Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), A team, dân sự chiến đấu biệt kích Mỹ biên phòng gì đó. Tới xin việc ở trại Lê Văn Duyệt, trên đường Lê Văn Duyệt (Quân Khu Thủ đô đóng ở đó thì phải.)
Một anh thiếu tá Mỹ interview, hỏi dăm ba câu, cho biết tháng tháng được đi phép (về Sài Gòn cẩn thận) bốn ngày, đi về bằng máy bay, hẹn hôm sau đi luôn. Hôm sau tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất, gặp một anh LLĐB Việt, tôi còn bận đồ dân sự (thằng bạn tôi chưa sắp xếp xong chuyện riêng nên chưa đi được.)
Hóa ra cố vấn Mỹ không chuẩn bị kỹ, không phát đồ nhà binh cho tôi. Anh LLĐB Việt nhăn nhó kiếm đồ rằn ri cho tôi, bắt thay ngay tại sân bay (dường như tránh việc để nhân viên dân chính đi máy bay quân sự, sợ tai tiếng, lỡ máy bay rớt báo chí chụp hình lộ ra có chở dân thường thế nào đó!) Máy bay caribou (hay C123, C130 chẳng nhớ nữa) chở lên đồn điền cao su M. T., quận A. L.
Trại mới thiết lập, công sự phòng thủ còn chưa hoàn tất , dân làng còn được mướn vào làm bao cát đắp lên mép giao thông hào. Toán LLĐB Việt có 3 sĩ quan, 1 đại úy trại trưởng, 1 thiếu úy trại phó, 1 chuẩn úy phụ trách tình báo, cỡ chục hạ sĩ quan, đều mũ xanh, mang AR15 màu lục (tiền thân của XM 16). Mỹ có 1 đại úy, 1 trung úy, và 10 hạ sĩ quan mũ xanh. Thông dịch viên (tổng cộng có tới năm thằng lận, lúc nào cũng có một thằng đi phép) theo cố vấn Mỹ trong mọi giao dịch với chính quyền làng, mua bán với dân làng, mướn nhân công vào làm trong trại, giao dịch với toán LLĐB Việt, đủ chuyện đủ việc, trăm thứ bà dằn. Tôi thì vì có khai làm thày giáo, nên luôn luôn được theo làm thông dịch trong các buổi Mỹ huấn luyện chiến thuật, vũ khí, tác xạ cho lính dân sự chiến đấu/biệt kích Mỹ.
Tôi vận dụng kiến thức Cao Đẳng Quân Sự thu nhận được hồi học trung học, tốt nghiệp trung sĩ đàng hoàng (sau này vào Thủ Đức tôi ăn lương trung sĩ ngay từ ngày nhập ngũ), cho nên làm công việc dịch doạc cũng đỡ lớ ngớ! Trại có ba đại đội dân sự chiến đấu, hai đại đội gồm toàn lính Miên nguyên là lính của Sơn Ngọc Thành gì đó, đại đội thứ ba gồm người Việt, kinh thượng một nhà, đủ cả. Miên cũng có đứa nói tiếng Việt sơ sơ. Khi thực tập phản phục kích trong rừng cao su, lính Miên tập thì tập nhưng không tin; một trung đội trưởng lắc đầu nói với tôi: "Chết, trung sĩ ơi. Tập thì tập chớ nó bắn mà mình lao đầu chạy vô chỗ nó nằm thì chết mất." Tôi nghĩ bụng: “Mẹ kiếp. Thế này thì đánh chác cái đếch gì!”
Tôi theo đi hành quân một lần dài hai ngày, một đêm, mệt ngất ngư, nhưng không gặp địch. Trong rừng lúc dừng quân, xác định điểm đứng, tôi lại vận dụng kiến thức Cao Đẳng Quân Sự, nhưng nhìn vào bản đồ chỉ thấy hoa mắt, không thấy vòng cao độ nào cả. Mấy trung sĩ Việt và Mỹ thì chỉ chỏ và gật gù, “ta đang ở đồi 25”; thiếu úy M. trại phó cũng ngơ ngáo chẳng khác gì tôi. Sau đấy anh thật thà bảo tôi: “Ghê quá ông ạ! Tôi hành quân ở đồng bằng quen, lần đầu đi rừng, chẳng biết phương hướng đâu mà lần.”
Thằng bạn tôi gặp rủi, đúng kỳ tôi đi phép thì nó theo đi hành quân vào vùng mỏ vẹt lưỡi câu gì đó, gặp mật khu địch, đụng trận lớn, cố vấn trưởng đại úy J. bị thương ở đùi, chết một trung sĩ LLĐB Mỹ; bên Việt Nam tổn thất bao nhiêu tôi không nhớ. Tôi biết tin này lúc còn đang đi phép ở SG vì được một thằng trong toán LLĐB Mỹ cũng nghỉ phép cho biết. Nó dẫn tôi vào bịnh viện thăm đại úy J., sau đó còn hãnh diện cho tôi đọc bài báo Time kể vụ anh J. bị thương.
Tôi nhớ có nói thêm “forget about Vietnam” sau khi chúc anh J. mau lành bịnh. Tôi nhớ anh trung sĩ Mỹ chết hình như là gốc da đỏ, tên S. Hết phép, tôi lên trại, thằng bạn kể kết quả chuyến hành quân: Phá được một kho vũ khí lương thực của địch, bắt được một lính cái. Thằng bạn kể nó đưa nước cho em uống, em lắc đầu chê.
Tôi hết sức hên: tháng sau, đúng lúc tôi đi phép, toán đi công tác dân sự vụ, civic action, khám bịnh phát thuốc cho dân, (thực thi chủ trương thu phục nhân tâm, winning the people’s heart and mind) bị phục kích khi mới ra khỏi trại trên một cây số, chết thêm anh team sergeant người Mỹ, nhân vật thứ ba trong toán sau hai sĩ quan cố vấn.
Trưởng trại bên Việt Nam là một ông đại úy. Ổng gạ được cố vấn Mỹ xỉa tiền mua một dàn trống, mướn ca công, nhạc sĩ để làm văn nghệ cho lính lên tinh thần. Ông mang từ đâu lên một em bé ca sĩ và một anh nhạc công rỏm, cầm ghi ta khảy phèng phèng, đếch thấy bấm được lấy một ắc co làm cảnh! Thế là tối tối ông trưởng trại gật gù gõ trống xập xình, anh nhạc công khảy đàn phèng phèng đệm cho em ca sĩ gân cổ hát.
Thay vì nghe/xem văn nghệ rỏm, tôi hoặc vào phòng anh trại phó thiếu úy M. tán gẫu, hoặc đàn đúm uống bia với toán Mỹ nếu là thứ bảy chủ nhật. Chẳng bao lâu sau, một hôm thằng tà lọt của anh đại úy trưởng trại đương đêm kêu tôi vào trạm y tế. Thấy em ca sĩ nằm trên giường, đắp drap trắng, anh trại trưởng mặt xám mét ngồi bên cửa.
Có cả em y tá người Việt mà Mỹ mướn làm ở trạm y tế. Em này thường ngày ngủ ngoài làng; chắc em được triệu vô vì có bịnh nhân đàn bà. Em y tá nói em ca sĩ bị băng huyết. Thằng medic Mỹ bảo tôi hỏi: "Is it a miscarriage or an abortion? Tell him to tell the truth!" Anh đại úy xác nhận là phá, không phải xảy. Tôi không biết em ca sĩ được chăm sóc thế nào, vì sau đó thấy người ta không cần tôi thông dịch nữa, tôi về phòng ngủ.
Nghe nói hôm sau em được một toán convoi chở đi bệnh viện quận. Em không được trực thăng tản thương tức thời như anh dân sự chiến đấu bị súng bạn cướp cò cho một phát ngay bụng, đem vào trạm y tế cứ than bụng đầy hơi, bụng đầy hơi quá. Thế là dẹp vụ chiến tranh tâm lý, chấm dứt cảnh hát ả đào, có cô đầu, kép hát, và trại trưởng cầm chầu, tom tom chát chát. Nghe nói sau đó anh trại trưởng còn chịu một trận tê tái nữa: vợ anh mò lên M.T., gọi anh ra hỏi tội, xỉ vả.
Được đúng hai tháng tôi cuốn gói về Saigon.
HOA KỲ VÀ BIỂN ĐÔNG
Hoa Kỳ thẳng thắn trao đổi vấn đề Biển Đông
RFA
2017-11-09
2017-11-09
Nước Mỹ cổ súy cho tự do hàng hải ở Biển Đông, và yêu cầu các quốc gia
đòi chủ quyền ở khu vực này tôn trọng luật pháp quốc tế, không tiếp tục
xấy cất và triển khai các cơ sở quân sự, từ đó mới có thể tìm được
những giải pháp ngoại giao.
Đó là tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Rex Tillerson, với các nhà báo ở Bắc Kinh vào ngày 9 tháng 11.
Ông cũng nói thêm là Mỹ và Trung Quốc đã có những cuộc trao đổi thẳng thắn với nhau về tình hình Biển Đông.
Phía Bộ Ngoại giao Trung Quốc thì nói rằng cả Tổng thống Donald Trump và
Chủ tịch Tập Cận Bình đều ủng hộ cho hòa bình và ổn định ở khu vực
Biển Đông, mong muốn có tự do hàng hải và hàng không ở đây, và chấp
nhận tuân thủ luật pháp quốc tế.
Trung Quốc là quốc gia đòi hỏi chủ quyền đến 90% diện tích biển Đông, và
trong thời gian qua những cuộc tuần tra mang tên Tự do hàng hải của
hải quân Mỹ đã làm cho Bắc Kinh giận dữ khi các tàu chiến Mỹ đi sát các
đảo nhân tạo mà Trung Quốc cải tạo nên.
Tổng thống Rodrigo Duterte của Philippines, một trong những quốc gia có
tuyên bố chủ quyền tại khu vực Biển Đông, vào ngày 8 tháng 11 cho biết
ông có kế hoạch yêu cầu Trung Quốc phải làm rõ ý định tại Biển Đông.
Yêu cầu này sẽ được nêu ra tại hội nghị Diễn Đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-
Thái Bình Dương (APEC) đang diễn ra ở thành phố Đà Nẵng, Việt Nam.
NGƯỜI MỸ GIẢN DỊ
NGƯỜI MỸ GIẢN DI
Vì sao người Mỹ thường không thể hiện sự giàu có?
+
Đa số người Mỹ thường không thể hiện sự giàu có, họ dùng tiền để trang trải cuộc sống của bản thân, chăm sóc người thân và gia đình.
+
Đa số người Mỹ thường không thể hiện sự giàu có, họ dùng tiền để trang trải cuộc sống của bản thân, chăm sóc người thân và gia đình.
Tổng thống Mỹ Obama cùng con gái ăn kem rất giản dị. (Ảnh: Internet)
Bài viết của một người Trung Quốc chuyển đến Mỹ sinh sống, được đăng tải lại trên trang Secret China.
Bài viết của một người Trung Quốc chuyển đến Mỹ sinh sống, được đăng tải lại trên trang Secret China.
Gia đình Cameron sống ở căn nhà đối diện nhà tôi là một gia đình trung lưu điển hình ở Mỹ. Người chồng Antony là quản lý cấp trung của một công ty tài chính, vợ anh Meryl là giáo viên tiểu học, thu nhập thuộc giai cấp trung lưu. Nhưng mỗi lần nhìn thấy đôi vợ chồng này, tôi luôn nhận thấy cách ăn mặc của họ đều không khác gì người bình thường cả.
Cuối năm 2008, những người ở khu tôi sống muốn tổ chức tiệc mừng năm mới, đây cũng là lần đầu tiên tôi tham gia các hoạt động xã giao, vì thế tôi đặc biệt bỏ 300 USD thuê một bộ lễ phục thương hiệu Prada (một thương hiệu trời trang cao cấp và xa xỉ bậc nhất nước Ý), hy vọng cách này có thể giúp tôi hòa nhập.
Tôi nghĩ hẳn Meryl cũng sẽ thể hiện “thực lực” ẩn giấu của cô ấy ở nơi như vậy. Nhưng tối hôm đó, cô ấy chỉ mặc một bộ lễ phục thương hiệu CK màu xanh nhạt khiến tôi rất bất ngờ. Và Meryl giải thích việc cô ấy chọn hiệu CK là vì nó phù hợp với tầng lớp trung lưu như cô ấy.
Meryl đã dùng một phép ẩn dụ như sau: dù chim trĩ có khoác lên mình một bộ lông sặc sỡ thì nó cũng sẽ không trở thành chim công được.
Thật ra, người Mỹ cũng không phải là không thích các nhãn hiệu đắt tiền, nhưng người tiêu dùng đa số chỉ hạn chế trong một nhóm người nhất định mà thôi, ví dụ như giám đốc công ty, những quý bà trong giới thời trang, minh tinh điện ảnh, vận động viên chuyên nghiệp v.v… Người Mỹ không có cách nói “sĩ diện”, người ta sẽ không vì lòng hư vinh mà tốn nhiều tiền lương mua một đôi giày hiệu LV. Không chỉ người trưởng thành như vậy mà giới trẻ cũng hoàn toàn không quá xem trọng hình thức.
Có một lần tôi gặp con trai Mike của Meryl ở siêu thị, thấy cậu bé đang chăm chú chọn những quần jean giảm giá. Tôi hỏi cậu vì sao không đến cửa hàng chuyên bán để mua những kiểu mới ra, câu trả lời của Mike khiến tôi ấn tượng rất sâu sắc:
“Mẹ cháu không phải là người giàu có gì, dù cho cháu có mặc quần Levis kiểu mới nhất thì cũng sẽ không trở thành “cậu ấm”. Hơn nữa sau 18 tuổi cháu còn phải kiếm tiền tự nuôi bản thân mình nữa, khi đó sẽ càng không có tiền mua đồ hiệu nữa đâu, cho nên như bây giờ rất tốt rồi ạ”.
Thấy Mike thản nhiên mà thỏa mãn như vậy, tôi cũng bắt đầu tiếc số tiền 300 đô mà tôi đã dùng để thuê bộ đồ hiệu Prada kia, thích thể diện quả thật là lãng phí.
Cá tính và phẩm giá
Dần dần tôi nhận ra sở dĩ người Mỹ không quá ham mê hàng hiệu còn có một nguyên nhân khác, đó chính là ở Mỹ thật sự mua hàng hiệu quá dễ dàng, người ta có rất nhiều sự lựa chọn. Có một năm trước Giáng sinh, tôi đi mua sắm ở trung tâm thương mại Macy cùng cô đồng nghiệp Jenny.. Bởi vì từ lâu đã nghe nói Jenny thừa hưởng tài sản lớn từ gia đình, bình thường cách tiêu tiền của cô ấy cũng không giống người bình thường, vì thế tôi rất tò mò cô ấy sẽ mua quà đắt tiền gì cho chồng và con trai. Cô ấy nhanh chóng chọn được hai cái khăn quàng cổ cho nam.
Tôi cầm mác giá xem thử, quả thật là không hề rẻ, không hề thua kém nhãn hiệu Burberry nổi tiếng gần đó. Tôi hỏi Jenny: “Giá đã tương đương nhau, sao cô không mua khăn hiệu Burberry cho chồng?”.Jenny nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu, cô ấy lấy chiếc khăn ra, nói một hồi về màu sắc, hoa văn, kiểu dáng cho đến chất liệu. Cuối cùng, cô ấy hỏi tôi: “Giá thì tương đương nhau, nhưng giá trị thì không hề giống, nếu là cô thì cô sẽ chọn cái nào? Đương nhiên là cái có chất lượng tốt rồi. Tại sao tôi lại phải bỏ tiền ra mua những món hàng có giá nhãn hiệu đắt tận trời như thế làm gì?”. Cô ấy nói khiến tôi không biết nói gì hơn, người Mỹ chú trọng hiện thực, không quan tâm đến hư vinh, điều này thật sự tôi phải học hỏi.
Thật ra, người Mỹ không muốn dùng hàng hiệu để phủ lên người còn do một nguyên nhân sâu xa nữa, đó là từ khi sinh ra, họ đã đặt cái tôi cá nhân cao hơn mọi thứ, họ thích thể hiện cá tính, nổi trội, thích làm cho mình càng không giống với người khác càng tốt. Nếu chọn những món hàng hiệu đó thì hiển nhiên sẽ không thể giúp họ thể hiện được mục đích này.
Tháng 6/2012, công ty của chồng tôi tổ chức một buổi tiệc từ thiện, tôi cũng được mời.
Vì nghe nói 2 nhân vật nổi tiếng lừng lẫy Warren Buffetts và Bill Gates đều có tên trong danh sách khách quý, nên tối hôm đó tôi đã nhân cơ hội hai lần đứng gần để quan sát cẩn thận cách ăn mặc của hai “nhân vật chính” này, tôi nhận ra dù là Buffets hay Bill Gates thì đều chọn những bộ vest đứng đắn, phù hợp.
NGUYỄN XUÂN XANH * LÝ THUYẾT HẠNH PHÚC” CỦA EINSTEIN
LÝ THUYẾT HẠNH PHÚC”
CỦA EINSTEIN ĐƯỢC BÁN
VỚI GIÁ SIÊU KỶ LỤC
NGUYỄN XUÂN XANH
Tại sao không ai hiểu tôi và mọi người lại thích tôi.
ALBERT EINSTEIN
Tuần
qua, thứ Ba ngày 24, tháng 10, 2017, sau câu chuyện sóng hấp dẫn, một
sự kiện mới đầy ngạc nhiên xảy ra: Một trang giấy với một dòng chữ vỏn
vẹn bằng tiếng Đức mà Einstein đã viết tay để làm quà tặng cậu bé phục
vụ (bellboy) của Khách sạn Hoàng gia Tokyo − sau gần 100 năm − được đã
bán đấu giá với mức giá có lẽ ngoài sức tưởng tượng mọi người: 1.56
triệu đô la Mỹ! “Chúng tôi hoàn toàn bị sốc, chúng tôi không tin điều đã
xảy ra”, Avi Blumenthal, phát ngôn viên của Cty Bán đấu giá và Triển
lãm Winner ở Jerusalem, tuyên bố. Nó cho thấy bức thư đã có sức hấp dẫn
đặc biệt và hết sức bất ngờ không ai lường tới.
Sóng
hấp dẫn của Einstein quả đã không thua kém sóng của hấp dẫn của vũ trụ
mà ông đã tiên đoán. Nhưng nói cho cùng, điều đó không lạ lắm, bởi
Einstein là con người đã từng tạo ra nhiều câu chuyện ngoài sức tưởng
tượng. Nói đúng hơn, Einstein là một “con người ngoài sức tưởng tượng”,
có thể tạo ra những cái “khùng điên” mà người đời không hình dung nổi.
Albert Einstein, nhà vật lý huyền thoại của thế kỷ 20
***
Số
là, tháng 11, năm 1922, Einstein được mời đến diễn thuyết ở Nhật Bản.
Trên đường đi ông nhận tin được trao giải Nobel vật lý. Đến Tokyo, khi
cậu bé đồng phục của khách sạn lên phòng để trao cho ông một cái gì đó,
Einstein cảm ơn và muốn biếu cậu bé tiền tip, nhưng lại không có tiền.
Ông bèn nghĩ ra một món quà hết sức độc đáo: Viết tặng ý tưởng đơn sơ
sau đây trên tấm giấy có tiêu đề của khách sạn:
Cuộc sống tĩnh lặng và khiêm tốn mang lại nhiều hạnh phúc hơn là theo đuổi sự thành công đi kèm với bất ổn thường xuyên
[Stilles und bescheidenes Leben gibt mehr Glück als erfolgreiches Streben, verbunden mit beständiger Unruhe]
Trên mảnh giấy trắng thứ hai tặng cho cậu bé, Einstein ghi thêm dòng chữ:
Ở đâu có ý muốn, ở đó cũng có con đường
[Wo der Wille ist, da ist auch der Weg].
Bức thư Einstein được bán với giá siêu kỷ lục $1.560.000
Theo
lời thuật của Cty bán đấu giá, Einstein đã nói với cậu bé rằng, “hãy
giữ chúng, giá trị của những những dòng này trong tương lai sẽ có thể
cao hơn rất nhiều lần so với số tiền típ bình thường”. Sau gần 100 năm,
quả đúng như thế, và đúng thất kinh luôn. Còn tấm giấy thứ hai cũng bán
được 240.000 đô la với giá ước tính ban đầu là $6.000. Đó cũng là một
giá rất cao so với giá bán cao nhất đạt được trước đó của bức thư
Einstein gửi cho nhà vật lý học David Bohm là $84.000.
Chủ
nhân của hai bức thư Einstein là người chắt trai của cậu bé đưa tin năm
xưa, hiện đang sống tại Đức. Mấy tháng trước đó, khi nhìn thấy giá bán
khá hấp dẫn của bức thư Einstein gửi cho Bohm đăng trên báo Đức − giá
cao nhất cho đến thời điểm đó − ông bèn nghĩ đã có thể bán được di sản
mà ông hằng lưu giữ.
***
Báo chí thế giới đưa tin khá nhiều, nhưng chưa có bình luận. Chúng ta muốn biết thêm: Einstein muốn gửi một thông điệp gì qua câu nói đó, và tại sao ông lại viết tặng cho cậu bé kia?
Nhưng
trước tiên, vì sao có những giá bán cao như thế? Đó là kết quả của một
sự cộng hưởng của nhiều yếu tố: Sự ngưỡng mộ và tình yêu thế giới một
trăm năm qua dành cho ông không suy suyển; Ảnh hưởng của mùa sóng hấp
dẫn đã hâm nóng lại tên tuổi của Einstein. Khắp nơi người ta biết và bàn
về sóng hẫp dẫn. Một thế kỷ trước, Thuyết tương đối đã từng trở
thành một từ cửa miệng trong văn hóa đại chúng. Sự khám phá sóng hấp dẫn
cực kỳ yếu làm người ta nhớ lại sự kiểm tra độ lệch ánh sáng rất nhỏ ở
gần mặt trời vào năm 1919. Einstein nổi tiếng đến nỗi ông từng nói: Mỗi tiếng bíp ở tôi đều trở thành một bản độc tấu kèn trompet.1 Ông
không biết rằng, sau 100 năm, một dòng chữ viết tay đơn sơ của ông lại
đáng giá cả triệu đô la, gây sửng sốt hơn cả bản tấu kèn trompet! Có
phải thế giới “khùng” không? Không. Thế giới đang cần một vĩ nhân gần
gũi với con người để ngưỡng mộ, một con người tuy yếu đuối như cây sậy
của Pascal nhưng không biết cúi đầu trước những cơn gió bạo, đại diện
cho chân lý, tự do, chính trực, và cho tình yêu hòa bình vĩnh cửu. Không
ai thích hợp hơn Einstein, nhà khoa học cô đơn trên đỉnh cao tháp hải
đăng, là một phần của vũ trụ, và cũng của đời thường.2
Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn hết: Câu nói đó là viên ngọc bích của triết lý sống của Einstein. Nếu là một nội dung khác, chưa chắc nó được cao giá như thế.
Chỉ còn yếu tố thị trường là ẩn số. Cũng như hai bức thư đó đi về đâu, không ai biết. Tương lai mới giúp trả lời.
Ảnh Einstein lúc đến Kobe, 43t, tay cầm ống điếu,
không biết tay kia có xách cây đàn violin như lệ thường hay không.
không biết tay kia có xách cây đàn violin như lệ thường hay không.
***
Thông điệp nào Einstein muốn nhắn gửi, và tại sao cậu bé kia lại là người có diễm phúc được chọn làm “sứ giả”?
Hạnh phúc đơn sơ là
quan niệm sống suốt đời của Einstein. Các phát biểu của ông từ thời trẻ
cho đến những năm gần mất đều cho thấy nội dung bút tích về một cuộc
đời “tĩnh lặng và khiêm tốn” là hoàn toàn nhất quán với triết lý sống
của ông. Cho nên câu nói trên mảnh giấy chính là thông điệp về quan niệm
cuộc sống hạnh phúc của ông chứ không phải một câu nói bình thường. Vì
vậy nó có sức hút.
Cả đời, Einstein chỉ muốn có một cuộc sống đơn giản. Lúc còn là học sinh, ông đã từng viết trong một bài essay bằng tiếng Pháp:
Một
người hạnh phúc sẽ quá hài lòng với hiện tại để nghĩ nhiều về tương
lai. Nhưng mặt khác, bao giờ thanh niên cũng chính là những người bận
rộn với những dự định táo bạo. Ngoài ra, cũng là một điều tự nhiên đối
với một thanh niên nghiêm túc, rằng anh ta nên hình thành cho mình một ý
tưởng rõ ràng như có thể về mục tiêu của những mơ ước của mình.3
Được
hạnh phúc quá sẽ làm cho con người dễ quên đi những lý tưởng tương lai.
Em gái Maja của Einstein đã từng kể về sự thờ ơ của Einstein đối với
của cải vật chất mà những người khác thường coi trọng. Bà kể: “Khi còn
trẻ anh tôi thường nói: ‘Tất cả những gì anh sẽ muốn có trong phòng ăn
của anh là một cái bàn gỗ thông, một cái ghế dài, và vài chiếc ghế
dựa.’” Thế thôi. Khi nổi tiếng rồi, Einstein vẫn còn “mơ” về một “vị trí
của người giữ hải đăng” cho những người hoạt động khoa học, xem đó là
nghề lý tưởng nhất. Ông chẳng màng vật chất lẫn danh vọng. “Mỗi sở hữu
đều là một cục đá ở dưới chân. Không có gì tôi không từ bỏ được, bất cứ
lúc nào” như ông viết.
Người
ta có thể tìm thấy rải rác những câu nói khẳng định quan niệm hạnh phúc
đơn sơ của ông. Vào những năm cuối đời, khi được hỏi về sự tự do của
giới khoa học gia tại Mỹ trước chủ nghĩa McCarthy, ông đã trả lời: “Nếu
tôi còn trẻ và đứng trước sự lựa chọn trong việc kiếm sống thì tôi sẽ
không làm một nhà khoa học, bác học hay sư phạm, mà muốn trở thành một
thợ ống nước hay một người bán hàng rong, trong hy vọng để giữ được sự
độc lập khiêm tốn có thể còn tìm thấy được trong những điều kiện xã hội
hiện nay.” Ông không hề biết sợ. Hay chẳng hạn những lần phát biểu khác
của ông dưới đây:
Ở
đâu mà thế giới thôi là sân khấu của hy vọng, mong ước và ham muốn cá
nhân, ở đâu chúng ta đối diện với thế giới với tư cách là những con
người tự do của tạo hoá để chiêm ngưỡng, tìm hiểu, và quan sát, ở đó
chúng ta bước vào vương quốc của nghệ thuật và khoa học.
Tôi
tin chắc rằng không tài sản nào trên thế giới có thể đưa nhân loại đi
xa hơn, cho dù từ bàn tay của một người thật tận tụy với mục đích. Chỉ
có tấm gương của các nhân cách vĩ đại và trong sáng mới có thể đưa đến
những suy nghĩ và hành động cao cả. Tiền bạc chỉ thu hút cái vị kỷ và
luôn dẫn tới sự lạm dụng không cưỡng lại được.
Nhà sử học Fritz Stern, bằng ngòi bút sắc bén, đã vẽ lên tính cách của Einstein rất sinh động:
Thực
tế, chính tính đơn giản của ông, sự thanh thoát, gây ấn tượng lên con
người. Quần áo ông đơn giản, diện mạo ông đơn giản đến từng chi tiết. Sự
khiêm tốn ở ông là nổi tiếng – và đích thực, cũng như tính không vị kỷ.
Có bao nhiêu nhà khoa học, hàn lâm (chỉ) yêu cầu một tiền lương thấp
hơn lương được đề nghị? Ông là con người cô đơn, dửng dưng với các sự
vinh danh, “vô gia cư” như chính ông thú nhận, lo lắng cho số phận của
nhân loại… . Có lúc, ông xuất hiện như thánh Francis ở Assisi − một vị
thánh cô đơn − lái thuyền buồm với vẻ ngây thơ, đôi mắt đượm buồn đăm
chiêu và bối rối nhìn xa xăm.4
Có
lẽ chính trong “cuộc sống tĩnh lặng và khiêm tốn” ông mới thấy khao
khát chân lý, và đi tìm, một cách kiên trì: Thuyết tương đối hẹp ông tìm
10 năm, Thuyết tương đối rộng 8 năm, thuyết trường thống nhất 30 năm
vẫn chưa kết thúc, nhưng trở thành di chúc mãi mãi cho nhân loại. Một
người đầy những ham muốn vật chất và danh vọng giống như một tách nước
đầy, sẽ khó có thêm chỗ cho chân lý. Nghe giống như chuyện thiền. Thực
tế, làm khoa học là một dạng thiền với những mantra khoa học, cho nên
cần một cuộc sống “tĩnh lặng và khiêm tốn”. Cuộc sống khác đi sẽ che lấp
đi tầm nhìn đích thực, đưa ta đi xa khỏi cội nguồn sáng tạo bên trong.
Nhưng
tại sao Einstein lại viết ra câu đó tại khách sạn sang trọng cho cậu
bé? Có lẽ vì hình ảnh cậu bé sống hồn nhiên với cái nghề đơn sơ đã
truyền cảm hứng cho ông, phù hợp với quan niệm một cuộc sống đơn giản
của ông, nên khiến ông đã chọn cậu bé làm “sứ giả”.
Có
lẽ còn thêm một nhân tố nữa. Bản thân Einstein đã gặp vô số bất ổn,
ngay cả sự đe dọa tính mạng ông, chỉ vì sự nổi tiếng của ông − ngoài ý
muốn − chứ không phải do ông đi tìm. Walther Rathenau, bộ trưởng ngoại
giao của Cộng hòa Weimar, gốc Do Thái và là bạn thân ông, đã bị bắn chết
ngay trên đường phố tháng 6 cùng năm. Đó là một sự báo động cho ông.
Sau đó ông bỏ đi chu du để tránh sự chú ý ở Berlin, như nhiều người đã
khuyên ông. Có lẽ sự bất ổn đã góp phần khiến ông lập lại triết lý về
một cuộc sống đơn giản trên mảnh giấy?
***
Nhưng
xa hơn, đằng sau “cuộc sống tĩnh lặng và khiêm tốn” có điều gì quan
trọng mà Einstein muốn đạt tới không? Có, đó chính là hai chữ tự do − khát
vọng sâu thẳm và cao cả xuyên suốt cuộc đời ông. Vâng, tự do đối với
ông là mệnh lệnh cho cuộc sống. Einstein sẵn sàng đánh đổi tất cả để có
cuộc sống tự do. Tự do để có nhân phẩm, để phát triển những phần thiên
phú trong con người mà tạo hóa đã ban cho. Tự do để có khoa học, có nghệ
thuật, để có chân, thiện, mỹ. Tự do là thiêng liêng. Ông là “người tự
do nhất”, như nhà vật lý Mỹ Gino Segrè viết. “Chính tự do này đã đưa ông
đến vị trí vinh dự và kính trọng mà thế giới dành cho ông như nhà khoa
học vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi và một trong những con người vĩ đại.
Ông thực ra là chủ nhân của số phận ông, cũng như là một lực lượng định
dạng số phận của chúng ta”. Đúng như thế, “Không có tự do kia, sẽ không
có Shakespeare, không có Goethe, Newton, không có Faraday và Pasteur.
[…] Vì chỉ con người tự do mới làm ra những khám phá và giá trị tinh
thần, những thứ làm cho cuộc sống chúng ta, những con người hiện đại,
trở nên đáng sống” như Einstein viết năm 1933.
Chúng
ta sẽ không hiểu Einstein nếu không cảm nhận được tầm quan trọng của
hai chữ tự do đối với Einstein là thiết yếu dường nào cho cuộc sống tinh
thần – bao gồm tự do nội tâm và tự do đối với bên ngoài xã hội:
Để
phát triển khoa học và hoạt động sáng tạo nói chung cần phải có một thứ
tự do khác, người ta có thể gọi là tự do nội tâm. Đó là cái tự do của
tinh thần thể hiện qua sự độc lập của tư duy trước các trói buộc của
thành kiến, của quyền lực và xã hội, cũng như trước những trói buộc của
suy nghĩ lệ thường và thói quen không phê phán. Tự do nội tâm này là một
món quà hiếm có của thiên nhiên ban cho và là một mục tiêu đáng giá cho
cá nhân. Cộng đồng cũng có thể đóng góp rất nhiều vào việc giáo dục tự
do nội tâm này, bằng cách cộng đồng ít nhất không ngăn cản sự phát triển
của nó. Trường học, bằng ảnh hưởng gia trưởng và bằng gánh nặng trí óc
thái quá cho những cá nhân trẻ, có thể ngăn cản sự phát triển của tự do
nội tâm, hoặc ngược lại bằng khuyến khích tư duy độc lập, sẽ tạo thuận
lợi cho nó. Chỉ khi tự do nội tâm và tự do bên ngoài được vun xới một
cách có ý thức và lâu dài thì mới có được điều kiện cho sự phát triển
tinh thần, cho sự hoàn thiện và cải thiện đời sống nội tâm và bề ngoài.5
Cuộc sống đơn giản là đi liền với tự do nội tâm. Nhưng để có tự do bên ngoài, xã hội cần phải có khoan dung, và không được gây không khí sợ hãi:
Loại
khoan dung quan trọng nhất vì thế là sự khoan dung của xã hội và nhà
nước đối với cá nhân. Nhà nước dĩ nhiên là cần thiết, để bảo đảm cho cá
nhân sự an toàn cho sự phát triển của nó, nhưng nếu nhà nước trở thành
chính yếu, và từng cá nhân trở thành công cụ mù quáng của nó, thì những
giá trị tinh túy hơn sẽ mất đi. Như ghềnh đá trước hết phải dạn dày
sương gió để cây có thể mọc trên đó, cũng như miếng đất canh tác trước
nhất phải được làm xốp đi, để nó có thể tạo nên sự mầu mỡ, thì tất cả
những thành tựu giá trị chỉ đâm chồi từ một xã hội con người, khi nó đủ
thông thoáng để tạo điều kiện cho từng con người sự phát triển tự do cho
những khả năng của nó.6
Cho
nên Einstein mới chấp nhận cuộc sống cô đơn, sự cô đơn có thể làm ông
đau khổ trong thời trai trẻ, nhưng “trong những năm tuổi về chiều lại
ngọt ngào”, như ông tự nói.
***
Chốc
chốc Einstein lại lên tiếng như muốn nhắc nhở con người về ý nghĩa của
một “cuộc sống tĩnh lặng và khiêm tốn”, và để cảnh báo trước sự ám ảnh
và cám dỗ của sự thành công, quyền thế và vật chất, những thứ giết chết
tự do, kềm hãm sự phát triển lành mạnh. Không có tự do nội tâm, con
người sẽ cằn cỗi; và không có tự do đối với bên ngoài, con người sẽ èo
ọt tinh thần. Xã hội, thế giới, không thể phát triển lành mạnh với những
con người mà tâm thức bị sụp đổ, hay khô héo.
Nếu
như khoa học của Einstein giống như một “nghi thức truyền tâm ấn, khoa
học như một sự thỏa mãn tâm linh”, như nhà vật lý học Marcelo Gleiser
nhận xét7,
thì câu nói “cuộc sống tĩnh lặng và khiêm tốn” có lẽ cũng có thể được
xem như một dạng “truyền tâm ấn” cho một cuộc sống hạnh phúc đích thực.
Einstein
không muốn làm một người “truyền giáo”, nhưng thông điệp toát ra từ
những gì ông viết, gần như có tính “truyền giáo”, cho một “tôn giáo” của
đời thường. Ông không sống khổ hạnh như Thánh Francis, mà sống một cuộc
đời “tĩnh lặng và khiêm tốn” bình thường. Có lẽ trong cậu bé, ông nhìn
thấy một tâm hồn hồn nhiên và đơn giản, chưa bị che lấp bởi sương mù dục
vọng. Chỉ có những đứa trẻ hồn nhiên mới dễ là những nhà triết học thơ
ngây, mới dám đặt những câu hỏi táo bạo mà chưa cần những câu trả lời.
Einstein đã từng đặt câu hỏi về ánh sáng lúc 16 tuổi mà chưa biết câu
trả lời cho đến mãi mười năm sau ông tìm thấy nó trong thuyết tương đối
hẹp. Người lớn đã mất đi tính hồn nhiên và tự phát. Họ đã trở thành
những người “tuân giáo”, conformist, thuần thục của xã hội, mất đi con
mắt tò mò để nhìn vượt khỏi khuôn khổ xã hội họ đang sống.
Einstein
là một người sống đơn giản nhưng phong phú, như một “người nghèo mà rất
giàu có”. Gandhi, người Einstein ngưỡng mộ suốt đời, cũng từng cổ xúy
cho “đạo sống đơn giản”: “Hãy sống đơn giản để cho những người khác sống
đơn giản.” Thánh Francis là người cũng từng dạy cho con người sống giản
đơn bằng kinh thánh: Tôi kể cho quý vị chân lý, trừ khi quý vị thay đổi
và trở thành những đứa trẻ nhỏ, quý vị sẽ không bao giờ bước vào vương
quốc của Trời. Với Einstein, giữ được sự hồn nhiên và nhạy cảm của tâm
hồm để ngưỡng mộ thế giới là điều kiện để bước vào vương quốc của vũ
trụ, của “đạo vũ trụ”. Đối với ông, ai không biết rằng cái đẹp nhất là
cái bí ẩn nhất của tạo hóa, nếu ai “không còn khả năng ngạc nhiên, sửng
sốt trước nó, người đó coi như đã chết, ánh mắt đã tắt lịm đi.”8
Chúng
ta nhớ lại, cái gì cuối cùng đã khai sáng con người? Cái gì đã tạo nên
lý tính? Cái gì đã tạo ra khoa học hiện đại? Cái gì đã giải phóng chúng
ta khỏi u mê? Cái gì đã tạo ra hình hài của con người? Đó chính là các
tinh tú trên trời và vũ trụ. Chúng ta là một phần của vũ trụ, hay nói
vui như một nhà hóa học ví dí dỏm, “sản phẩm tái chế từ bụi tinh tú”,
nhưng biết tư duy. Ngạc nhiên, sửng sốt, wonder, là mở
rộng trái tim trước vũ trụ, để học, suy ngẫm, nhìn thấy. Ngạc nhiên là
con đường để thành người của chúng ta. Thế giới không phải để cho chúng
ta tiêu pha, mà để chúng ta giải các bài toán, như ý tưởng tuyệt vời của
Kant. Ngạc nhiên là mở rộng trái tim để nhận thêm năng lượng trí tuệ
của vũ trụ, như cây cỏ, sinh vật nhận ánh sáng mặt trời, và để đánh thức
trong chúng ta ý thức về một sự liên thông của đại gia đình vũ trụ mà
con người là một thành viên. Và ngạc nhiên để chúng ta khỏi quên làm
“những vị khách tốt, đi nhẹ nhàng trên hành tinh như các sinh linh khác
của nó cùng sống chung trên đó” (Chỉ một trái đất của Hội nghị Môi trường Stockholm năm 1972).
***
Tại
Hội chợ Thế giới New York tháng 8, năm 1938, tại Thành phố New York,
Einstein được mời viết một thông điệp để đưa vào một “Capxun thời gian”
(time capsule) chứa đựng nhiều hiện vật của thế giới loài người được
chôn cất sâu xuống 15 mét cẩn thận, và sẽ chỉ được đào lên năm 6939,
nghĩa là sau đúng 5.000 năm kể từ khi được niêm phong. Không biết lúc đó
thế giới sẽ ra sao, con người vẫn còn là con người, văn hóa con người
vẫn còn tồn tại, và người ta vẫn còn biết Einstein là ai? Hoa vẫn còn
nở, chim vẫn còn hót, nhạc Bach, Mozart vẫn còn được yêu thích?
Những
điều được trình bày trên đều có tính tư biện, phỏng đoán, nhằm cố gắng
“giải mã” một bí ẩn của Einstein. Chúng ta chờ xem có thêm những nỗ lực
khác hay không.
NXX
Cuối tháng 10, 2017
Chú giải:
- Xem Albert Einstein, Mặt Nhân Bản, nxb Tổng hợp Thành phố HCM
- Xem thêm EINSTEIN của Nguyễn Xuân Xanh, nxb Tổng hợp Thành phố HCM
- Xem thêm Mặt Nhân Bản
- Mặt Nhân Bản trong Lời dẫn nhập
- Xem thêm EINSTEIN
- Trong EINSTEIN, hay Mặt Nhân Bản
- Xem Mặt Nhân Bản, Lời dẫn nhập
- Xem thêm EINSTEIN
SƠN TRUNG * VĂN HÓA ẨM THỰC BẮC NAM
VĂN HÓA ẨM THỰC BẮC NAM
Sơn Trung
Nói đến văn hóa ẩm thục Việt Nam, ta phải viết một quyển sách như quyển Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng mới xứng. Nhưng ở đây trong một bài báo, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược.
Miền Bắc và miền
Trung có một nền văn hóa ẩm thực truyền thống, lúc nào cũng mâm cao cổ
đầy khi cúng gỗ, tiệc tùng. Miền Nam cũng theo phong thái đó, cũng mâm
cao, cỗ đầy chứ không kém. Nói về văn hóa ẩm thực thì có nhiều loại.
Loại hàng rong thì Bắc Nam Trung đều có, mà phong phú nhất là Hà Nội 36
phố phường. Sau này, Sài gòn cũng trở thành trung tâm ẩm thực đa đạng,
gồm Tây, Tàu, Ấn Độ, Miên, Thái...
Trong các món ẩm thực, tại Miền Nam tôi thấy phong phú nhất là hủ tiếu,
phở, bún bò Huế đứng hang nhì. Nhưng văn hóa Tây phương khá mạnh với món
bánh mì. Sáng mở mắt, mẹ cho con năm ba đồng mua khuc bánh mì lót dạ.
Buổi trưa, đám công nhân hay phu xe xich lô cũng ăn một khuc bánh mì
thịt có xà lach, cà chua và nước tương.
Buổi chiều có thể họ đi nhậu, nhưng đa số sống thanh đạm không thể ngày nào cũng nhậu nhẹt, say sưa. Cái thói chiều chiều ăn nhậu, lê la quán này sang quán khác là tập nhiễm XHCN của các tham quan.
Miền Bắc là cái nôi văn hóa Việt Nam, nó chuyển tải văn hóa truyền thống từ đến Nam Quan, Cà Mâu. Ấy thế mà mấy anh Cán Ngố vào Nam đã khinh miệt miền Nam ngu si:" ."Thịt luộc lên là đủ rồi, cần gì phải làm giò, chả, nem, ruốc, chà bông! Cán Ngố vào Nam vẫn không quên "cầu tiêu hai đáy "thơm tho của miền Bắc, chê trách dân Nam không dùng phân Bắc nghĩa là phá hoại kinh tế XHCN! Mấy trăm năm, dân Trung và Nam không dùng phân bắc là họ phá hoại kinh tế phong kiến và thực dân chứ!
Bắc Nam Trung đều ăn cơm là chính. Tại miền núi Bắc Kỳ và miền Trung, đắt cằn sỏi đá cho nên phải độn khoai sắn, ngô. Miền Nam chưa bao giờ ăn khoai sắn ngô độn. Ấy thế mà sau 1975, người ta đã bắt ăn bo bo là một loại thực phẩm gia súc về cho dân ta.
Wikipedia định nghĩa: Bobo, Vietnamese name for Job's Tears, a plant of south-east Asia
Subscribe to:
Posts (Atom)
No comments:
Post a Comment