Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday 27 September 2018

NGUYỄN VĨNH LONG HỒ * CON CHÓ VỆN VÀ NGƯỜI TÙ CẢI TẠO

CON CHÓ VỆN VÀ NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
Nguyễn Vĩnh Long Hồ


Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người “sinh Nam tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm.
Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng 100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Hòa Bình, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn Chấn.
Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6. Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã cấy xong vụ lúa Đông - Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình. 
 
Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sĩ ở lán 4. Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm, hàn thử biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.
Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn. Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi!
Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776 do bộ đội csbv quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói, thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được khoảng 700 hột và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà...và một toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà. Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường...
Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía sau dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn: phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây, giấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại.. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.
Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại.. Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau dãy nhà sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói:
- “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy,” Đèo tiếp. “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!” Tôi hỏi:
- “Vậy chớ, mầy định đi đâu?” Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực:
- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm! Mầy còn phải hỏi lôi thôi!” Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
- “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát? Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!” Đèo quả quyết nói:
- “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.” Tôi nghi ngờ, hỏi:
- “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?” - “Mầy nhớ không? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại.. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!”
- “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi. Đèo nói, giọng quả quyết:
- “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!” Tôi cười, nói:
- “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để tao chuồn!”
Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối. Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía. Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:
- “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn tiếp tục gào lên:
- “Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn:
- “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!”Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của nó thật rõ ràng:
- “Chó tới! Chó tới....”
Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là“Chó tới!” chớ không phải “Chờ tớ!” thì đã muộn.. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặt lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám” là cái chắc!!!! Tôi thét lên, cầu cứu:
- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”
Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
- “Trúng chỗ nào vậy cha?”
Tôi bực quá thét:
- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!”
- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước.
- “Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch!”
Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung thình, con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh. Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước. Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như vậy.. Thế là thoát nạn! Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi phải lấy vạt áo che lại phần khẩu súng nước phía dưới , sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dãi tội nghiệp !!
Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dã ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã từng chà nát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật đó! Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: “May cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ sau một thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với tôi bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào!
Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
- “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!”
Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật, tôi lật đật can:
- “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua bển được rồi mà!”
Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
- “Mầy yên trí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!”
Tôi miễn cưỡng nói:
- “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!”
Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc “bác cùng chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”!!!! 
Mẹ kiếp! Sống ở miền Bắc XHCN nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người. Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi, người tù cải tạo và “đồng chí vện” ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặt con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn 2 lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”...
 Tôi nhìn con vện, tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt lườm nhìn nhau....tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: “Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng suất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.” Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. 
Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”.. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông anh càng ngày tròn trịa ra !! Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối. Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn còn thòm thèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện...
Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, nhưng Đèo cương quyết ngăn cản. Hắn nói:
- “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!”
Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ.
Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay. Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc. 
Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy....Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: “Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”
Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây “anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức nhối tàn bạo.. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh.. 
Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới, âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất.. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước mắt nhìn chúng tôi, hỏi:
- “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo. “Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!”Tôi nói:
- “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!” Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
- “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?”
- “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở. “Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông chỉ hai thanh niên, tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”
- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi.Ông cụ thở dài, nói:
- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy, các anh ạ!” Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
- “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?” Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi:
- “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?”
- “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. “Mầy thấy tao có nên giúp họ không?”
- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi, đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói. - “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả lời một cách dứt khoát. “Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!”
Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10 viên thuốc “con nhộng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”
Ông cụ nghe đến thuốc “con nhộng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó uống nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia súc. 
Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bậc thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về.. 
Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vã, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.
Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc “Reostop” còn đủ 10 viên rồi giấu dưới gối. Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cu, rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn dò:
- “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải cảnh giác chúng nó đấy!”
Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận” một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho chính bản thân mình.
Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị là cựu thiếu tá Trần Sĩ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác nữa? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để phòng thân.
 Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến hữu, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để lấy điểm. Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát - trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý cần thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy 10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.
Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” - tiếng lóng - một hình thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên “Reostop” của Lê xuân Đèo.
 Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng lớn... Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dõm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại thuốc nầy?
Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương, rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ.. Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép vào tội “chây lười lao động”. 
Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô.Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm.
Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa... Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy khò khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”, những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài não nuột.
 Đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình đang đánh nhau với Việt cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy: “Diều hâu! Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt cộng tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “bi trường khúc” đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo.
Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch.. Tôi mệt mõi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai.. Tôi nghe cả lán hoảng hốt, thét lên: “Đèo chết rồi! Đèo chết rồi!...”.. Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng. 
Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa khô; hình như, anh mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt người bạn tù...
Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. 
Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận đào huyệt còn có Trương Đăng Sĩ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách trại khoảng 2 cây số.... Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của anh.
Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về; hình như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo. Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi! Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cổng trại. 
Tên lính canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật đật bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.
Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ xuống, mồm rên ư ...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát: con mắt bên phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn rỉ máu âm ỉ. 
Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và thương mến. Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám vì nghĩa quên mình, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại của nó: “Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của tao!”.
Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: “Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!” Tôi đứng dậy lui gót, nhìn trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó với tôi chăng? Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng Lê Xuân Đèo. 
Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói: “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa đấy!! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu” !!!!
Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi ra cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối.
 Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.
Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.
Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
Quạnh hiu vằng vặt vây quanh mộ
Rên rỉ bầy ve tiếng não nùngGởi xác ốm nhom tận chốn nầy
Bao la rừng núi, suối trời mây
Người đi vĩnh viễn đã yên phận
Ngàn dặm người thương đâu có hay!
Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
Công danh phú quí lá vàng rơi
Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!
Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẻ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
- “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?”
Tôi nhanh trí, đáp:
- “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.”
Hắn nói:
- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.”
- “Được, việc gì thế?” tôi hỏi.Hắn nói như ra lệnh:
- “Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!”
Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà lòng quặn đau. Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.
Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp nơi gần như bất tận.. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những cơn mưa bụi.
Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ... Trời đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. 
Chỉ tội cho bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng vì đói và lạnh đến rét run. Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.
Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí. 
Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái: phái nữ đang lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn. Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối. Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
- “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ nó đi nhá!” Có tiếng quát vọng xuống:
- “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!” Đứng trên cầu thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:
- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!” Cụ vội vã chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:
- “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!” Tôi vội vàng đính chính ngay:
- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!” Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
- “À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?” Tôi buông thỏng một câu:
- “Đèo chết rồi!” Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
- “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo,, phải thế không?”
- “Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!”
Bà cụ nói:
- “Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhộng” của anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình nhỉ?”
Tôi buộc lòng phải thú thật, nói:
- “Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!”
Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
- “Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!”
Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
- “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em!”
Tôi hỏi:
- “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?”
Cụ Trừng giải thích:
- “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa xòe,” cụ Trừng cố mời. “Anh ở nán lại đây chơi với chúng tôi.”
Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa:
- “Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!”
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn lãnh đạo cộng sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam . Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi thì thầm báo cáo với hắn: “Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao!” 
\
Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại miền Bắc XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi gìn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sĩ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN!
Nguyễn Vĩnh Long Hồ


Nguồn:

http://batkhuat.net/van-conchoven.htm

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH * GIẤC MƠ CỦA BIỂN


Giấc Mơ Của Biển
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
(Tặng cho những ai cùng gánh chịu những bất hạnh trên biển. Cho tình duy nhất và vết thương đầu đời )
Hạ khép nhẹ cánh cổng và đứng nhìn lại căn nhà lần nữa. Bên góc cửa sổ phòng nàng, trận mưa đầu hôm làm rụng tả tơi những cánh hồng vừa mới chớm nở. Hạ thả bộ trên lòng lề đường. Cơn mưa buổi tối còn đọng từng vũng trên những mặt đường loang lổ. Ở đầu góc phố, chiếc xe bán phở và tiếng rao lanh lảnh của chú Tầu già thường đánh thức nàng dậy vào mỗi buổi sáng vẫn thường nhật. Hạ thoáng ngậm ngùi. Những thân quen này không biết có còn trở lại với nàng không nữa. Hôm qua, Mẹ Hải đã mời Hạ và mẹ nàng đến nhà. Bà đã chuẩn bị cho Hải một chuyến vượt biển. Hải có vẻ chần chừ. 
Bà biết tình cảm của Hải đối với Hạ, Hải không muốn rời xa nàng. Và mẹ Hạ đã đồng ý cho nàng ra đi cùng Hải. Thật sự Hạ chẳng muốn xa mẹ lúc này dù nàng rất yêu Hải. Ba thì đang còn bị cải tạo. Kinh tế gia đình chỉ nhờ vào mẹ và Hạ phụ giúp. Buổi sáng trước giờ đi học, nàng phải phụ mẹ gánh hàng rau ra chợ. Sau giờ tan học, nàng lại phải phụ mẹ gánh hàng về nhà. 
Đoạn đường từ nhà ra chợ dễ cũng gần cả cây số. Có một lần ngã bệnh nằm nhà đợi mẹ, nhìn mẹ oằn vai gánh hàng về nhà, Hạ thấy xót xa đến ứa nước mắt. Bởi thế hôm qua ở nhà Hải, nàng đã không cảm thấy háo hức như chàng. Hạ đã trả lời với mẹ: - Con chẳng thích đi mẹ ạ! Mẹ có vẻ ngạc nhiên và trố mắt nhìn nàng: - Sao vậy? Con không thích đi với Hải à? - Dạ không phải vậy, nhưng... - Nhưng thế nào? Mẹ hỏi gặng sau cái nhìn nhíu mày. Mới chị có ba năm sau ngày ba đi cải tạo, những tất bật cơm áo đã làm mẹ già đi thấy rõ, những nếp nhăn đã hằn sâu trên mặt và tóc mẹ đã bắt đầu điểm trắng. 
Mấy lần Hạ nài nỉ xin nghỉ học để phụ mẹ, nhưng mẹ vẫn khăng khăng từ chối. Nàng nghẹn ngào trả lời mẹ: - Con không thích xa mẹ. Con sợ... - Con sợ gì? Hạ ngã vào lòng mẹ và òa lên nức nở: - Rồi mẹ sẽ như thế nào khi không có con? Ai chăm sóc lúc mẹ đau bệnh? Mẹ nâng mặt Hạ lên và lần tay vuốt tóc nàng. Những ngón tay run rẩy chứng tỏ mẹ cũng rất đau lòng. Dẫu vậy, mẹ cũng dằn lòng cười! Con gái sắp lấy chồng rồi còn khóc. Không sợ Hải cười cho à? Mẹ nói tiếp: - Đừng bận tâm cho mẹ. Mẹ phải khỏi để đợi ba về chu - Nhưng ai sẽ phụ mẹ? Mẹ sẽ cực nhọc hơn nhiều. Mẹ cười và nói: - Không sao. Mẹ sẽ chịu được mà. Vả lại nếu con đi được, vài năm sau mẹ chẳng cần phải bận tâm nữa. Con sẽ lo được cho mẹ, mẹ an tâm hưởng già rồi. 
Nếu con chẳng đi, mẹ còn cực cả đời. Rồi còn lo nổi cho Ba con không nữa? Thấy Hạ còn chần chừ, mẹ hỏi tiếp: - Con không yêu Hải à? - Dạ có, nhưng... - Có là được rồi. Còn nhưng gì nữa. Mẹ nói đùa tiếp: - Con yêu Hải thì con phải về với biển chứ. Phải vậy không nào? Cuối cùng Hạ đã quyết định cho chuyến ra đi của mình. Căn nhà của Hải nằm tận cuối phố. Theo lời của người tổ chức, sáng sớm hôm nay họ sẽ đến đón Hạ và Hải tới điểm hẹn để đi. Mẹ Hạ đã đến nhà Hại từ sáng sớm và đang đợi nàng. Hạ bước vào nhà. Mẹ nàng, mẹ Hải và Hải đang ngồi trò chuyện ở phòng khách cùng người đàn ông lạ mặt. Hạ gật đầu chào mọi người. Người đàn ông ngước lên nhìn nàng và nói: - Thôi được. Giờ chúng ta lên đường. Hạ liếc nhìn mẹ. Quầng mắt mẹ hình như trũng sâu. 
Có lẽ đên hôm qua mẹ không ngủ. Hạ nuốt nghẹn ngào và vội vã quay người ra cửa như trốn chạy. Chợt có tiếng mẹ gọi ngược sau lưng: - Hạ. Đợi mẹ chút. Mẹ nắm tay Hạ và lần tay đeo chiếc nhẫn vàng vào tay nàng. Cái vốn liếng cuối cùng còn lại của mẹ dành để thăm nuôi Ba trong những lần tới. Mẹ hôn lên tóc nàng và thì thầm: - Con cất hộ thân. Nhớ cẩn thận và giữ gìn sức khoẻ. Đừng bận tâm cho mẹ. Hạ bật khóc. Những dồn nén bây giờ được dịp tuôn trào. Hải nắm tay nàng kéo vội ra cửa. Trời đã sáng hẳn. Mặt trời đã bắt đầu lên. Bến xe miền tây nhộn nhịp người qua lại. Tiếng lơ xe vọng lên ơi ới. 
Hải nắm tay Hạ đi theo người đàn ông dẫn đường bước lên chuyến xe đi rạch Giá. Xe đã đông đặc người. Xe bắt đầu lăn bánh. Hai bên đường, những đồng lúa èo uột cạn khô nước. Thành phố lùi dần sau lưng. Hạ cố chớp mắt. Căn nhà nàng, ngôi trường học, bạn bè, dẫy nhà lồng nuôi sống mẹ con nàng đi lần vào trong trí. Hạ thiếp ngủ trong vòng tay của Hải. Tiếng bánh xe dừng lại. Hải lay nàng dậy. Trời đã qua chiều và nắng hơi dịu lại. Hải và Hạ bước xuống theo dấu hiệu của người đàn ông dẫn đường và đi theo sau. Con đường đất đỏ chạy dài vào làng với những hàng dừa cao vút. Xóm nhỏ lưa thưa vài chục căn nhà nằm xa nhau rời rạc. Khoảng chừng mười phút di bộ, qua thêm một khúc rẽ vắng vẻ, Người đàn ông dẫn đường đưa Hải và Hạ vào một căn nhà nằm khuất sau một rặng dừa. 
Cả một chặng đường dài, bây giờ người đàn ông dẫn đường mới bắt đầu lên tiếng: - Cô cậu tạm nghỉ ngơi nơi đây cho đến tối. Tôi sẽ mang cơn cho hai người. Mệt mỏi lẫn lo âu, chẳng ai nuốt nổi miếng cơm nào. Ngồi dựa lưng trên chiếc sạp tre đan giữa nhà, cả hai chỉ mong cho trời mau tối. Hạ có cảm giác hình như lúc này thời gian trôi rất chậm. Hạ lại thiếp đi lần nữa. Hạ tỉnh dậy khi bên ngoài đã tối hẳn. Trời tối đen như đêm ba mươi. Hải đang đứng bên góc nhà nhìn mông lung ra màn đêm bên cửa. Người đàn ông dẫn đường quay lại với chiếc đèn pin trên tay. Sau khi dặn dó hai người vài điều cần thiết, ông ta mở cửa phía sau nhà và cả ba cùng bước ra ngoài. Hải nắm tay Hạ và bước theo vệt đèn pin của người đàn ông chiếu xuống đường. Con bờ đất dài trờn trợt. Mấy lần Hạ suýt té. 
Vài tiếng ễnh ương kêu đêm nghe não ruột. Len lỏi trong rạch dừa và những bờ đất gập ghềnh hơn cả cây số, cuối cùng cả ba đã đến bãi cát chạy dài theo mé biển. Những đợt sóng nhẹ liên tục vỗ vào bờ. Hạ thấy thấp thoáng có vài nhóm người ngồi sau những rặng dương. Người đàn ông dẫn Hải và Hạ nhập vào trong nhóm ấy và ngồi đợi tàu đến. Hạ thả mắt nhìn ra biển. Ở tận xa leo lét vài chiếc đèn của những ghe đánh cá đang nhấp nhô trên biển. Sương đêm bắt đầu xuống. Hải kéo nàng vào lòng. Hơi ấm từ người chàng tạo cho Hạ một cảm giác ấm áp, êm đềm. Hải thì thầm bên tai nàng: - Chẳng biết còn phải đợi bao lâu nữa. Em có mệt lắm không? - Chút xíu thôi. Em chỉ nhớ mẹ. 
Hải nhìn nàng mỉm cười. Mới chỉ có hôm qua Hạ đã mất đi vẻ hồn nhiên cố hữu của nàng và thay vào đó là những nét suy tư, buồn bã. Hải thấy thương nàng vô cùng. Chàng lần tay vuốt tóc Hạ và nhìn ra trời đêm. Chợt có ánh đén chớp tắt chạy dài trên biển chiếu vào bờ. Có ánh đèn từ bờ đáp trả. Vài tiếng xôn xao nổi lên. Có tiếng một người đàn ông lên tiếng: - Tất cả giữ yên lặng và trật tự. Tàu đang đến. Cũng chừng mười phút hơn, âm thanh xình xịch của chiếc ghe máy mỗi lúc một gần. Tiếng máy ghe tắt và tàu đang dừng lại ở mé biển. Tiếng người đàn ông khi nãy lại cất lên: - Giữ yên lặng và theo hàng một đi xuống biển. Hải kéo tay Hạ đứng dậy. Nhóm người bây giờ ào ạt đi vội xuống biển. Ai cũng muốn chen chân đi trước
. Đến đầu mé nước, Hải bồng Hạ trên tay và lội đến ghe. Lội nước đến đầu gối thì đến mạn tàu. Hạ lên trước theo đám phụ nữ và con nít. Nhóm đàn ông lên sau. Tiếng động cơ của máy nổi lên. tàu quay đầu tù từ tách bến kéo thành vạch nước dài trên biển. Chợt có tiếng la hét trên bờ vọng đến. Theo sau liên tục những tràng súng nổ. Đạn xé gió nghe chéo chéo. Người chủ ghe hét lên: - Tắt hết đèn trên ghe. Tăng hết tốc lực. Trên ghe tối đen không còn soi rõ mặt người. Tiếng máy rú to. Tàu rung mạnh và vọt bắn tới trước. Âm thanh trên bờ từ từ xa và chiếc ghe vẫn gầm gừ xé nước lao trên mặt biển. Cũng dễ gần hơn ba giờ chạy. Không nghe âm thanh tiếng ghe nào khác đuổi theo, mọi người bây giờ mới thở phào nhẹ nhõm. Con tàu vẫn tiếp tục lao nhanh trên mặt biển. Đã qua một đêm. Bóng đen đã bắt đầu nhạt và trời dần dần sáng. Con tàu hạ bớt tốc độ chạy bình thường. 
Tiếng người bắt đầu trò chuyện. Hạ vẫn còn mệt lả trong vòng tay của Hải ở cuối hầm tầu. Diện tích chiếc ghe vừa đủ năm mươi người ngồi chen chúc nhau. Thức ăn nôn mửa đầy trên ghe làm nàng cảm thấy lợm giọng. Hải đưa nàng chút sữa nóng. Hạ uống từng ngụm và cố nuốt trôi chén cháo đặc. Hải thì đang gặm lát bánh mì khô một cách ngon lành. Có lẽ đêm qua tới giờ quá lo lắng chàng chẳng ăn chút gì vào bụng. Ăn xong, Hạ thấm chút nước lạnh trên chiếc khăn tay nhỏ lau mặt. Bây giờ thì Hạ đã cảm thấy khoẻ đôi chút. Trong hầm tàu đã bắt đầu nóng. Có vài tiếng cãi vã nhau. Nắng lên cao trên biển. Con tàu vẫn tiếp tục tiến về hướng đông chạy. Tàu lắc lư. Hải cũng bắt đầu thấm mệt và thiếp đi theo nàng. Nắng tắt. Chiều xuống. Đêm về. Gần ba ngày tàu chạy mà bến bờ vẫn còn xa tắp. Đêm ngày thứ ba trên biển, Hải làm quen được người chủ tàu và đưa Hạ lên boong. 
Có vài vì sao lấp lánh và mảnh trăng non trên cao. Hai người ngồi dựa vào be thành tàu nghe sóng biển vỗ vào mạn thuyền. Hải thì thầm bên tai nàng: - Biển quyễn rũ thật em ạ! Anh có một ước mơ... Hạ ngước mặt nhìn chàng và hỏi: - Anh có ước mơ gì? Hải phóng tầm mắt nhìn ra xa, ánh mắt thoáng lên nét mơ mộng: - Nếu mọi chuyện tốt đẹp và bình yên, sau này có tiền để dành chúng ta sẽ mua một căn nhà nơi biển. Mình sẽ được ngắm trời chiều trên biển mỗi ngày và nghe tiếng sóng vỗ về đêm thì thật thú vị em ạ! Hạ cười. Nàng thực tế hơn không có lãng mạn như Hải. Nàng sẽ dành tiền gởi về cho mẹ để mẹ khỏi phải ngược xuôi tất bật cơm áo. Cha mẹ sẽ thảnh thơi hơn ở tuổi già. Hạ dấu suy nghĩ đó không nói cho Hải, sợ Hải lại nghĩ đến mẹ chàng và làm chàng mất vui. 
Trời chợt gầm chuyển như báo hiệu một cơn mưa sắp tới. Hai người bước xuống lại hầm tàu. Hải còn cố đặt vội nụ hôn trên má nàng. Con tàu trôi bập bềnh trên sóng không còn định hướng. Trận mưa buổi tối kéo theo trận bão dữ dội đã làm hư máy, gãy luôn bánh lái và làm vỡ một mảnh thành tàu. Vài người trên ghe còn khoẻ mạnh thay nhau tát nước. Con tàu vẫn trôi. Xa xa, ở gần đường chân trời ẩn hiện thuyền bè qua lại. Hình như tàu đã vượt ra ngoài hải phận quốc tế. Người chủ tàu treo những mảnh vải trắng trên đầu cột tàu. Lửa được đốt lên làm tín hiệu cấp cứu. 
Thêm hai ngày trôi qua nhưng vẫn vô vọng. Hạ và nhóm người trên tàu dường như kiệt sức. Hải vẫn bên cạnh an ủi nàng. Hạ liên tục mê man và thiếp đi trong giấc mơ trở về bên mẹ. Hạ choàng tỉnh khi nghe có tiếng reo hò trên boong tàu. Hình như đang có tàu đến cứu. Âm thanh của tiếng máy ghe nổ nghe mỗi lúc một gần. Hình dáng của một chiếc ghe đánh cá đã đến gần và cập sát vào ghe nàng. Có khoảng mười tên lực lưỡng tay cầm giáo mác, mình trần trùng trục chỉ có chiếc quần cụt nhảy lên ghe nàng. 
Có tiếng xô xát. Có vài người trên ghe kể cả chủ tàu đã bị đánh văng xuống biển. Hải kéo Hạ lùi ra sau lưng chàng nói nhỏ: - Hình như cướp biển. Em nằm úp xuống và đừng cử động. Hạ nghe lời Hải và làm theo lời chàng. Có tiếng bước chân đi lần đến hầm tàu. Một người đàn ông râu ria xồm xoàm đang bước xuống hầm tàu. Hắn xổ ra một chàng tiếng bản xứ ra dấu cho mọi người lên hết boong tàu. Hạ vẫn không tránh khỏi. Chúng dồn nhóm đàn ông trên ghe vào cuối đuôi tàu. Phụ nữ, trẻ con ở đầu buồng lái. Có năm tên đứng gác và năm tên còn lại bắt đầu lục soát vòng vàng tiền bạc. Chiếc nhẫn vàng trên tay Hạ mẹ cho để phòng thân cũng bị tháo ra. Xong xuôi, chúng nhìn quanh. Trên ghe chỉ độ khoảng năm cô gái suýt soát tuổi nàng. Những hình dáng tả tơi bệnh hoạn của những ngày lao đao trên biển chẳng còn chút sinh khí. Chúng dồn năm cô gái vào một góc trống ở đầu tàu. Trong đó có Hạ. Tiếng quần áo xé toạc. 
Những tiếng cười man sợ nổi lên. Và chúng thay nhau giở trò hãm hiếp. Hạ bị đẩy nằm dài xuống sàn tàu trong tầm nhìn của Hải. Tên râu ria khi nãy đè lên người nàng. Mùi hôi da thịt nồng nặc của hắn làm Hạ phát ói. Nàng thét lên và chưa kịp thiếp đi đã nhìn thấy dáng Hải lao tới. Một nhát búa của tên đứng gác loé lên và Hải đã ngã gục nằm bất động trên sàn tàu. Hạ tỉnh lại với cảm giác lạnh khi những giọt mưa nhỏ xuống trên người của nàng. Chung quanh đã hoàn toàn yên lặng. Chỉ còn nghe tiếng sóng vỗ. Nắng đã tắt và trời đang chuyển tối. Hạ nhìn chung quanh. Những thân người nằm la liệt bất động. Hải thì úp mặt trên sàn tàu. Nàng cố lết dần đến cạnh Hải và lật ngửa chàng lên. 
Một dòng máu đã khô chạy dài trên trán. Đôi mắt mở trợn trừng. Nàng ôm chầm lấy Hải. Thân thể đã lạnh toát. Hạ đưa tay vuốt mắt chàng. Đôi mắt nhắm lại. Nàng nhìn Hải. Cũng khuôn mặt mới đây còn còn thủ thỉ bên Hạ những ước mơ sau này của chàng. Một căn nhà trên biển. Nghe tiếng sóng, ngắm trời chiều. Tất cả chỉ còn là mộng tưởng. Bây giờ Hải nằm yên lặng bất động. Nàng thoáng thấy dấy lên nỗi hận. Giá như chuyến đi này không có nàng. Hải sẽ không đau lòng kháng cự để nhận cái chết thê thảm như thế vậy. Hạ nuốt nghẹn vào lòng. Những giọt nước mắt của nàng ứa ra chảy xuống trên người Hải. Hạ lần tay vuốt lại mái tóc chàng. Mái tóc bồng bềnh nghệ sĩ giờ khô cứng những máu. 
Hạ đặt một nụ hôn nghẹn ngào trên môi chàng. Mùi khô tanh của máu quyện lẫn trong miệng nàng vẫn thấy ngọt ngào. Hạ nhìn Hải lần nữa. Bằng hết sức còn lại, Hạ nâng đầu chàng lên và đẩy dần đến thành tàu. Hạ thoáng nghĩ như một an bài của Hải như tiếng tên gọi. Hải phải trả về lại với biển. Nàng nhắm mắt đẩy mạnh. Mặt biển dấy động và nước bắn lên tung toé. Hạ gục luôn trên sàn tàu. Hạ thả bộ dọc theo mé biển. Ở một khúc quanh, sóng vỗ mạnh vào những thành đá liên tục và nhịp nhàng học theo tiếng rì rào của sóng biển. Những bọt nước bắn lên từng chuỗi trắng xóa. Nàng đi qua đi lại nhiều lần và không biết đã đếm được bao nhiêu lần dấu chân trên cát. 
Nỗi đau đớn trong lòng Hạ vẫn chưa nguôi. Chuyến tàu năm mươi người chỉ còn lại không quá mười người. Hạ vẫn tưởng như một phép lạ đến với nàng. Trong tận cùng nỗi tuyệt vọng đợi chết, không còn chút tàn lực để nhảy xuống biển chết theo Hải, Nàng may mắn được cứu thoát nhờ một chiếc thuyền vượt biển khác đi ngang trông thấy. Cuối cùng thì chiếc tàu này cũng đến được một hòn đảo vùng Mã Lai. Hạ phải nằm bệnh viện điều trị mất mười ngày. Sau khi xuất viện, nàng được chuyển đến một căn trại dành cho những người tỵ nạn. 
Có khoảng hơn hai trăm người đang tạm trú tại đây. Hạ may mắn có cha là sĩ quan chế độ cũ, và là nạn nhân của hải tặc nên được phái đoàn Hoa Kỳ nhận. Những ngày nằm đợi lên đường định cư, nàng hay có thói quen thả bộ dọc trên biển mỗi buổi chiều. Với nàng biển vẫn quyến rũ, vẫn nồng nàn nhưng tận trong cùng tiềm thức là nỗi đau dầy xé trong hồn. Nàng phải đánh đổi một giá quá đắt trên biển và luôn cả người tình duy nhất đầu đời. Hạ chỉ báo tin cho mẹ với vài lời ngắn gọn là nàng đã đến nơi bình yên. Và nhờ Mẹ báo tin cho gia đình Hải biết rằng chàng không may mắn đã chết trên biển, và không nói rõ lý do. Một năm sau Hạ được định cư tại Mỹ. Nàng ghi danh học tiếp tục và kiếm được chân phụ nhà hàng buổi tối. 
Tháng lương đầu tiên nàng đã gởi hết cho mẹ. Cái tin mẹ nhận tiền đi sau cái tin Ba qua đời. Ba đã chết trong tù vì không chịu đựng được sự đầy ải. Tiền của Hạ gởi về đủ cho mẹ làm giỗ và ra Bắc tìm xác cha về. Rồi ba năm sau mẹ cũng qua đời vì sự nhớ con và nỗi cô đơn của mẹ. Hạ bây giờ chỉ còn lại một mình với hành trình đơn độc. Hạ đã ra trường, nàng dồn hết vào công việc để tìm quên với cánh cửa lòng luôn khép kín và không đón nhận bất cứ một thứ tình cảm nào khác đến với nàng. Cuối cùng rồi Hạ cũng mua được một căn nhà trên biển. Nàng cố gắng thực hiện ước mơ của Hải cho dù chàng đã chết. Hạ vẫn dành thời gian ngắm biển mỗi buổi chiều cùng lắng nghe tiếng sóng vỗ hằng đêm của biển. Và tự trong tiềm thức Hạ cho đến bây giờ, nàng vẫn tưởng tượng Hải mãi luôn ở bên cạnh nàng.
 ::: Nguyễn Thị Mỹ Hạnh:::
 

VÕ PHUƠC HIẾU * MỘT THUỞ YÊU NHAU

MỘT THUỞ YÊU NHAU 
 VÕ PHUƠC HIẾU

Một ngày nọ, thầy Quang Trí đang lặng lẽ ngồi trầm tư nơi bàn nước, nơi nầy thầy thường ngồi uống trà để tiếp những bực trưởng thượng hoặc các viên chức trong ban bệ Hội Tề đến thăm viếng chùa. Thầy đang cầm nơi tay một quyển truyện Tàu dầy cợm thầy rất thích đọc những khi rổi rảnh Phật sự để khám phá phong cách xử sự của người xưa. Đó là quyển Tam Quốc Diễn Nghĩa thầy ưng ý tình tiết vì nhờ đó bấy nay thầy đã rút ra vô số kinh nghiệm đời. Nhưng hôm nay dường như thầy lơ đểnh hay không buồn đọc, tâm thần để tận đâu đâu. Hay thầy đang suy gẩm về nỗi bất lực bấy nay của mình về vấn đề tình cảm của vợ.

Dù vậy, thầy đang trông ngóng, đứng ngồi không yên, mòn mỏi đợi chờ bóng hình cô Chín trở về chùa. Những tháng gần đây, sức khoẻ của cô đã sa sút hẳn. Sa sút đến mức khiến thầy Trí quan ngại. Thầy phải có phản ứng ngay cho kịp lúc. Vì cô lơ là biếng ăn, đêm đêm mất ngủ, không còn tha thiết đến việc làm hằng ngày, những việc trước đây cô rất hăng say, không làm không được. Cô mất cân nhiều quá, trở thành xanh xao gầy ốm nên thầy Trí nhờ một Phật tử tin cậy bơi xuồng đưa cô đến chẩn bịnh và chữa trị nơi một đông y sĩ nổi tiếng ở tận làng bên. Từ sáng sớm đến giờ phút nầy đã trưa trờ trưa trật, cô vẫn bặt tin biệt dạng.

Thầy không biết lành dữ thế nào nên nóng hơ. Bấy nay thầy luôn luôn bị ám ảnh, một nỗi ám ảnh thầy không sao xô đuổi khỏi tâm trí mình. Vì nó thường xuyên liên tục gây khổ thầy. Vì thầy cứ hoài nghi vợ mình vẫn còn có một khía cạnh tình cảm lăng nhăng vuột khỏi tầm tay thầy. Thầy dùng đủ mọi cách, ngay cả những thủ đoạn để dụ khị tìm hiểu, nhưng không sao kiểm soát được những suy nghĩ phức tạp của cô. Cô vẫn chặt lòng chặt dạ tiếp tục giữ kín trong lòng. Thầy rất khổ tâm, cái khổ tâm triền miên dằn dặt, đay nghiến thầy không ít. Chỉ vì thầy thất bại, do không làm chủ được người mình yêu.

Ngay như những tháng năm trước ngày trở về quê hương của Út Quyên với những hậu quả quá tai hại, cô Chín chẳng lúc nào biểu lộ hoàn toàn cô thuộc về thầy về mọi mặt. Nhứt là về mặt tình cảm thiêng liêng giữa hai người chồng và vợ. Trái lại theo suy diễn đa nghi tới tắp cuốn theo nỗi buồn của thầy thì cô thủ diễn hết mực khéo léo nhằm lừa dối gạt gẫm thầy để sống trong mộng tưởng, sống với hình ảnh khó có thể nhạt nhòa của một người đàn ông khác. Bao lần thầy trách thầm đây quả thật là một bất công đối với thầy, người đã yêu thương cô Chín với tất cả tâm hồn và tấm lòng chân thật. Nghĩ như vậy, thầy vụt nắm chặt đôi bàn tay gân guốc, lòng trổi lên một cơn hờn ghen giận dữ không lường được, ít khi thấy nơi thầy.

Vì thường ngày thầy vốn trầm tỉnh nguội lạnh, biết chế ngự mọi nông nổi cám dổ. Nhưng ngay sau đó, thầy vội thay đổi thái độ. Thầy trở lại nguôi ngoai và tỏ ra bình thản hơn. Nghĩ ra cũng lạ thật. Thời gian gần đây nhứt, con người thầy thay đổi bất thường lắm. Những người chung quanh đều nhận thấy không khó. Việc nầy khiến cho cô Chín dù có cứng rắn cách mấy nhưng cũng tỏ ra sợ sệt e dè. Đối với thầy, hy vọng càng to lớn bao nhiêu thì thất vọng càng chất ngất bấy nhiêu.

Cũng có thể lúc đó thầy đang nghĩ ngợi: «Dù sao, tôi cũng không bỏ cuộc nửa chừng được. Tôi phải đeo đuổi đến cùng. Vì tôi đã thực sự yêu nàng và một khi đã yêu, tôi không thể để nàng dễ dàng xa rời tôi, dù với một lý do nào. Cả ngày lẫn đêm, từ nay tôi sẽ quan tâm chú ý hơn đến vợ tôi. Tôi sẵn sàng trao cho người tôi yêu tất cả những gì tôi có, với một điều kiện duy nhứt là vợ tôi cũng phải sẵn sàng quên tất cả quá khứ để thành thật yêu tôi. Cũng như tôi đã thực lòng yêu nàng vậy».

Rồi không rõ sau đó vì một duyên cớ nào khiến thầy bất thần trở lại hằng hộc không kềm chế được như trước đó ít phút. Có thể thầy đang tự xét: «Tôi vốn là người chồng chính thức có cưới hỏi nàng rỡ ràng danh chánh ngôn thuận kia mà. Tôi không làm điều gì sai quấy đối với nàng. Tôi phải có quyền, cái quyền được hưởng những lời thương yêu và những vuốt ve âu yếm của cuộc đời chồng vợ». Thầy bực tức cau có vì nhận thấy cô Chín không thành thật đối với thầy. Và những cử chỉ lắm lúc hời hợt lạnh lùng của cô đã làm tăng nhanh, làm băng hoại mọi tình cảm nơi cô đối với thầy. Tuy sống với thầy cùng chung dưới mái chùa nhưng cô chỉ nghĩ đến Út Quyên, người yêu xưa và duy nhứt vì Út Quyên mà thôi.

Có những khi thầy không kềm chế được mình nên từng nặng lời gán cho Út Quyên là một tên vô loại ăn hại, cả đời chỉ sống tầm gởi bên ngoài xã hội. Anh ta không thể xứng đáng có một chút quyền nào cả đối với nàng. Nghĩ đến đây, thầy càng tỏ ra bất bình nên nhanh tay khép gọn quyển truyện đang đọc dang dở nửa chừng lại rồi đặt mạnh tay xuống bàn làm tung toé nước trà cùng khắp. Thầy không màng nhìn tới, cứ để nước tràn lan cùng khắp trên bàn. Quá ấm ức, thầy không còn can đảm nào để đọc tiếp, dù chỉ là đôi dòng hay một đoạn ngắn. Chỉ vì thầy rất bực dọc khi nghĩ tới gương mặt héo hon, dào dào thểu não của cô Chín ngày ngày cứ đeo đuổi nhởn nhơ trước mặt thầy mãi. Thầy không chịu nổi cảnh nầy.


Những ngày đầu tiên tiếp sau ngày thành hôn, cô Chín cứ tìm cách nhẹ nhàng tránh né trốn lánh những khát khao đòi hỏi của thầy Trí. Cô viện lẽ mãi lắc xắc sắp xếp không ngưng tay, làm những việc lỉnh kỉnh trong chùa đến khuya lơ khuya lắc mệt lã. Nhưng nay, sau biến cố bất thình lình vừa xảy đến cho cô khiến cô càng không quên giấc mơ đầu đời, giấc mơ vừa rực sáng vừa đắm chìm trong bế tắc tuyệt vọng, trong hư ảo. Thầy Quang Trí đã chọn cô Chín làm vợ, tiếng là để phụ giúp thầy trông nom quán xuyến những việc lớn nhỏ trong nhà chùa.

Lý do danh chánh ngôn thuận đó nhằm để biện minh cùng bà con bá tánh và đạo hữu trong làng. Nhưng thật tình và cũng đương nhiên dễ hiểu là với tư cách người chồng,thầy ước mong sao cô Chín cũng phải làm tròn bổn phận thiêng liêng của một người vợ hiền hậu gương mẫu, đương nhiên ngoài tư cách của người mến mộ sùng đạo, dấn thân hy sinh phục vụ nhà Phật. Suy đi nghĩ lại mãi không ra, sau cùng thầy đi đến một kết luận đậm nét bi quan. Thầy chỉ thấy ở cô sự hiện hình thô bạo của một quỷ dữ. Thầy còn đang suy nghĩ liên liên để cố xua đuổi lùa xa những hình ảnh không mấy tốt đẹp luôn ẩn hiện chờn vờn trong đầu mình thì cũng là lúc chiếc xuồng ba lá đâm đầu trực chỉ vào bến nước nhà chùa. Hai ba con chó cỏ hùa nhau chạy tới chạy lui quấn quít báo tin vui. Cô Chín vừa về đến chùa.


Thoát trông thấy từ hướng bến sông, thầy vội vã nhích lần xuống tận cầu nước đón cô. Và đồng thời thầy không quên hết lời cám ơn Phật tử đã thay mặt giúp thầy lo cho cô Chín vuông tròn và phải mất cả một ngày công. Nhưng cùng lúc thầy nhìn cô không nói một lời với đôi mắt đen sậm lườm lườm dễ sợ. Một cái nhìn trống không, chẳng có chút gì thiện cảm. Trái lại, cô Chín vẫn đối lại bằng một nụ cười trìu mến hiền hòa, nụ cười cởi mở làm lành nhằm tranh thủ cảm tình, lấy lòng thầy

 Cô rất cảm động khi thấy thầy Trí đích thân đến tận bến nước chùa nhà đón cô và không hề để ý đến thái độ của chồng. Cô vui vẻ thuật lại những lời chẩn đoán của vị đông y sĩ xác quyết bịnh tình của cô không có gì đáng quan ngại lắm. Cô chỉ có những triệu chứng mỏi mệt suy nhược thôi. Cô cần quan tâm tịnh dưỡng và nhứt là chú ý thuốc thang cho đều đặn trong đôi ba ngày hay nhiều lắm mười bữa sẽ khỏi ngay. Rồi đâu cũng vào đó.



Cô sẽ trở lại cuộc sống bình thường. Do vậy cô quá đỗi vui mừng với tin lành nầy và không ngưng cười duyên với thầy. Nhưng ác nghiệt thay! Thầy Trí cứ nghĩ là nụ cười tình tứ mơn trớn đưa duyên đó của cô không phải để dành riêng cho mỗi một mình thầy, mà sự thật chính là để dành cho một người khác, một người mà cô mường tượng thay thế vào vị trí của thầy từ những năm gần đây. Thầy ghen bóng ghen gió? Chớ thực tế thầy không hề minh chứng được một bằng cớ hiển nhiên nào. Nhưng hôm nay lòng thành thật của cô Chín đã bị hiểu lầm đáng tiếc.



Lúc ấy thầy Trí nhíu đôi mày gần như đâu chụm lại khiến cô Chín nhìn thấy, đâm ra bối rối. Tới phút đó cô không sao đo lường được việc gì sắp xảy ra cho thầy và cho cô. Thầy quá đau khổ và thất vọng tột cùng khi tự mình nghĩ về cảnh sống tạm bợ dối gian của cô Chín nên muốn vượt thoát khỏi cơn khủng hoảng tinh thần của mình. Thầy muốn chấm dứt ngay càng sớm càng tốt cảnh hai vợ chồng không hợp tâm hợp tánh, tình cảm trong bản chất thường xuyên đối nghịch, dù giữa nhau cố gắng giữ mối quan hệ lịch sự tối thiểu. Thầy âm thầm lấy quyết định sẽ hy sinh, hy sinh tình yêu, hy sinh sự nghiệp, hy sinh tất cả nhằm sớm chấm dứt cuộc đời phức tạp chung sống chồng vợ với cô. Thầy chấp nhận những tiếng thị phi chê cười của bàng dân thiên hạ, nhứt là của đạo hữu được nuôi dưỡng trong truyền thống luân lý xưa. Đường thầy thầy đi, đường cô cô đi. Mỗi người một hướng đời khác nhau. Không ai còn liên hệ bận bịu với ai nữa.



Qua đó, hai người sẽ trả lại cuộc sống tự do sồng phẳng cho nhau. Không ai bị thiệt thòi. Không ai trách móc phiền hà ai nữa. Riêng thầy, thầy cũng nghĩ thêm rằng việc đeo đuổi bám víu hoài công vào một mối tình ngang trái trắc trở bây giờ chẳng ích gì. Chỉ gây thêm đau khổ ngày càng trầm trọng hơn. Một khi thầy thấm thía hiểu rõ hơn ai hết, vì thầy nắm chắc và biết trước mình chính là người thất bại, người thua cuộc. Nhưng ngay khi đó, cô Chín mặt ửng hồng thẹn thùng, rục rè e lệ đặt nhẹ tay mình trên vai thầy và thỏ thẻ vài lời đầy tự tin trong ngập ngừng:


- Em sắp có con anh à!

Sự tình cờ cộng thêm niềm vui chân thật của cô Chín khiến thầy Trí không thốt được nửa lời. Thầy sững sốt tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Nhưng ngay sau đó, thầy bỗng trở nên vui vẻ lạ thường. Thầy đổi sắc mặt, choàng tay qua ôm cô Chín, ghì chặt cô vào lòng như một người đắc thắng toại nguyện:


- Từ nay, em vĩnh viễn là của anh, vĩnh viễn và duy nhứt phải không em? Xa rồi những cơn giông bão trong gia đình mình. Xa rồi những đêm đen tối để nhường chỗ cho ánh bình minh của ngày mới phải không em?

Cô Chín không một tiếng trả lời, trong khi thầy hớn hở lòng tràn ngập hạnh phúc. Thầy cười tươi nhìn cô:

- Khi em đã trở thành mẹ của con chúng mình, em sẽ có một cuộc sống mới hẳn và đồng thời tập tành yêu thương anh hơn, và chỉ một mình anh thôi nhé.

Bây giờ cô Chín mới hở môi:

- Anh thật sự cư xử quá tốt với em. Em không ngờ và quá đỗi xúc động. Em thành thật cám ơn anh.


Nói là nói như vậy. Nhưng trong thực tế thầy Trí vẫn chưa hoàn toàn an tâm để tin vào lời nói nơi cửa miệng đầu môi của cô. Thầy nghĩ là cô nói để làm vui lòng thầy trong hoàn cảnh nhất thời đưa đẩy tới với cô. Vấn đề tình cảm của con người quá phức tạp, đặc biệt là trong lãnh vực tình yêu, không thể trong đầu hôm sớm mai xoay chiều chuyển hướng dễ dàng được. Việc đổi thay nếu có cũng phải từ từ tiệm tiến qua từng giai đoạn đòi hỏi phải có thời gian tối thiểu. Thầy Trí không sao thoát khỏi định luật ngàn đời đó. Mà cuộc đời chồng vợ, mối tình giữa thầy Trí và cô Chín thực sự hết sức phiền toái, thăng trầm biến đổi không ngưng, ngay từ lúc hai người về chùa chung sống. Một cuộc tình không đồng thuận. Cuộc tình đơn phương đối với cô Chín.



Cuộc tình có khi thuận chiều, dù được thể hiện ngoài mặt, nhưng lắm lúc quá căng thẳng gần đến mức gãy đổ tan rã. Nhưng ngay lúc đó, cô Chín đang mơ ước. Cô nghĩ rằng đứa trẻ cô đang mang trong cơ thể mình là đứa con mà cô phải là vợ của người khác, chớ không phải của thầy Trí. Mặc dù nó chính là máu huyết của thầy. Mà người khác vừa nói đến đó không ai ngoài anh Út Quyên, người đã chiếm trọn quả tim cô. Đứa bé cô trông chờ mong đợi phải có mái tóc đen huyền, quăn quăn bó sát ót, thêm đôi mắt đen nhánh sắc sảo phát ra một nghị lực và sự thông minh vượt xa khỏi mức trung bình. Một đứa trẻ phải kháu khỉnh, đẹp gái hay đẹp trai giống hệt như Út Quyên vậy. Và cùng lúc, cô mường tượng đang nghe văng vẳng bên tai mình giọng cười vui vẻ liếng thoáng quá lôi cuốn hấp dẫn mà cô nhớ lại rõ ràng âm thanh như thuở còn son trẻ đắm đuối bên nhau. Người đời nói không sai chút nào cả, người đàn bà là một thế giới vô biên khó hiểu, một thế giới hoàn toàn bí mật.


Ngày tháng trầm trầm trôi qua… Năm nầy tiếp nối năm kia không ngưng… Cô Chín tiếp tục làm chiếu lệ những công việc lặt vặt hằng ngày, nhưng lại dè dặt giữ một nụ cười bí hiểm, làm như cô đang ngắm nhìn, đang sống với một hình hài ước mơ cô đang đắm đuối say mê, sung sướng hạnh phúc tròn đầy. Dù không hẳn tin tuyệt đối vào kết quả sau nầy, nhưng cô vẫn chuẩn bị chu đáo ở những ngày tháng sắp tới cho sự ra đời của đứa con trong mộng. Những đêm chập chờn thao thức không ngủ được, bao nhiêu kỷ niệm xưa lại bừng dậy, từng chập xuất hiện trong tâm trí cô. Mà toàn là những kỷ niệm êm đềm giữa cô và Út Quyên. Cô không sao quên được người yêu xưa. Cô nhắc lại từng lời nói cô đã quen tai khi nghe chàng thủ thỉ thì thầm với mình những đêm trăng sáng êm đềm tĩnh lặng. Cô nhớ từng cử chỉ âu yếm thoáng hiện thoáng mất cùng với âm hưởng ngọt ngào của giọng nói thôi miên bùi tai của chàng... Những kỷ niệm trân quý đó từng chập trổi dậy từ trong sâu thẳm của quá khứ, một quá khứ tưởng đã vùi sâu tận đáy tim cô, nhưng nay bỗng dưng sống lại sáng trưng trong cô.



Nhứt là thuở Út Quyên để ý theo dõi tranh thủ tình cảm cô, đã xảy ra quá lâu rồi mà giờ đây trở nên rất rõ nét như những ngày đầu họ mới gặp gỡ. Quá khứ quả có một lịch sử mà lịch sử chính là những sự kiện, những sự việc có thực, không thể phủ nhận hay cải sửa được. Khi mọi công việc trong gia đình và nhang đèn trong chùa đã hoàn tất xong xuôi đâu vào đó, cô có thói quen đem chiếc ghế đẩu đặt bên thềm chùa. Cô ngồi trầm ngâm nơi trước đây cô tựa vào cánh cửa chánh tiếp Út Quyên lúc chàng trở về thăm quê hương xứ sở. Những lúc đó cô dọn mình sống lại với dĩ vãng. Cô nhớ rõ ràng không chút sai chạy đúng nơi đúng chỗ đôi bàn tay của hai người va chạm hực lửa vào nhau. Và hầu như chiều nào cũng như chiều nào, trong cảnh hoàng hôn hấp hối, cô mơ tưởng hồi nhớ lại đầy đủ từng chi tiết dù nhỏ nhặt đến đâu. Đôi khi cô sống lại cái cảm giác buồn vui tới tắp trên đôi má mình về cái hôn chia tay giã từ nữa.


Cũng thường những lúc đó, cô ngồi im lặng. Lòng say sưa tận hưởng niềm hạnh phúc vô biên, hai mắt nhắm híp. Sau ngày đám cưới vì nặng chữ hiếu với mẹ cha, vì chiều theo ý nguyện chung của bà con trưởng thượng trong làng, cô không có đủ can đảm để quên những kỷ niệm ngày nào. Đối với những người đàn bà giàu tình cảm, họ khó mà quên được mối tình thơ mộng đầu đời, mối tình được kết tinh xây dựng trong một khung cảnh lãng mạn thuở xuân tươi! Họ nhớ mãi, nhớ hoài, nhớ miên man. Dù họ có muốn quên cũng không sao quên được. Thêm một trớ trêu trên cõi đời lắm chuyện là càng muốn quên, họ càng thêm nhớ. Và đến nay cô Chín vẫn giữ kín đáo và trân quý tấm ảnh bán thân của Út Quyên luôn luôn trong túi áo bà ba của mình để đêm đêm len lén lấy ra ngắm nhìn thỏa thích.



Thầy Trí lúc rày đã bớt phần nghi kỵ vợ mình. Sự tế nhị là phương thức của lời nói cũng như tình thương thể hiện ở cung cách xử sự chừng mực của thầy. Không khí gia đình không còn căng thẳng nặng nề như những ngày bão bùng sóng gió trước đây. Dù vậy cả hai đối xử với nhau rất mực lịch sự nhưng thực tế không hơn mức âu yếm thường tình của những người thiết tha yêu nhau. Mỗi người cố giữ nếp sống lịch sự đó cũng là quý rồi. Dù vậy thầy Trí không quên lén lút theo dỗi cô Chín và rất bằng lòng ưng ý khi thấy cô tỏ ra hân hoan sung sướng. Sự thực thầy đã giành cho cô một sự quan tâm khá vụng về. Lý do là vì thầy dù đã bớt đi phần nghi kỵ nhưng không quên hẳn. Cái khó và sự bế tắc khó có thể vượt qua của thầy là ở chỗ đó. Sự nghi kỵ của con người chung cuộc dễ làm mồi cho cái tâm rối loạn đảo điên của họ.



Thầy không thể dứt khoát về mặt tình cảm để thanh lọc tâm hồn. Phần cô Chín, cô đáp lại những thể hiện quan tâm hằng ngày của thầy Trí bằng cách tỏ ra là một người đàn bà tần tảo gương mẫu, người đàn bà ngoan ngoản biết chìu chuộng vâng lời chồng, người đàn bà cặm cụi hy sinh tuyệt đối cho gia đình, chỉ trừ mỗi một điều duy nhứt và quan trọng là cảm nghĩ riêng tư thầm kín của cô. Cô dành giữ riêng cho cô cái phần khúc mắc đầy bí hiểm nầy. Cũng giống như cánh đồng lúa thân quen trước mặt, cô thường trầm ngâm ngắm nhìn mỗi buổi chiều đã giữ riêng những ảnh hình và sinh hoạt trong quá khứ, từ trăm năm ngàn năm về trước. Nơi quả tim bé bỏng của cô, cũng như của hầu hết những người đàn bà trên cõi thế gian rối nhùi lắm chuyện vốn vô cùng phức tạp, chất chứa biết bao nhiêu ngăn ngách chằng chịt, nhưng chỉ có một ngăn ngách duy nhứt ở cô thầy Trí hoàn toàn bất lực không sao phăng đến được để khám phá sự thật.



Thầy Trí cũng như bà con lớn nhỏ xa gần trong dòng họ từ nhiều thế hệ xa xưa của thầy đều có nước da trắng trẻo trời cho, để không nói là xanh xao ẻo lả mà bàng dân thiên hạ ác mồm ác miệng hóm hỉnh thường trêu chọc gọi là nước da gà mái, tinh thần yếu đuối bạt nhược. Nước da nầy hầu như không thấy ở thôn quê sằn dã, vì nơi đây toàn là những người sạm nắng cháy da. Chỉ có thầy Trí là người may mắn thoát khỏi nhận xét đó.

Đôi mắt và mái tóc thầy đều có một màu đồng nhứt xam xám và nhứt là cái sọ luôn luôn có óc o tròn quay khá đặc biệt, mà gia đình thầy tỏ ra rất hãnh diện họ thuộc tông tộc con cháu của người Giao Chỉ rặt nòi. Không biết họ căn cứ vào đâu, dựa vào dữ kiện cụ thể nào mà có nhận định vừa kỳ lạ vừa quả quyết như vậy. Trúng hay sai thật ra chẳng ai biết. Nhưng trông họ tin tưởng tuyệt đối lắm. Họ xem như một bằng chứng hiển nhiên để xác định tộc hệ của mình. Còn riêng cô Chín, trái lại cô có mái tóc hơi oe oe óng mượt, óng ánh theo mặt trời trưa. Đôi mắt của cô được bà con ví như dòng nước phù sa màu mỡ tuông chảy cuồn cuộc nơi con sông quê hương thân thương của cô.


Đứa con được kết tinh giữa thầy Trí và cô Chín sanh ra sau vừa đúng chín tháng nặng nề cưu mang, được hai người thống nhứt chọn đặt tên là Quang Nghĩa, cái tên mang âm hưởng chan chứa đạo đức, phù hợp với danh tánh Quang Trí của thầy, vừa có trí tuệ vừa có nghĩa tình. Thật vẹn toàn trước sau. Nhưng sự ra đời của bé Quang Nghĩa tưởng mang lại hạnh phúc nhưng lại là một tai họa khó lường cho gia đình thầy, nhứt là cho cá nhân cô Chín. Nó vô tình trùng hợp với thời gian kể từ ngày anh Út Quyên trở về làng tám chín tháng về trước. Một sự trùng hợp vô cùng khủng khiếp đưa đến tai tiếng không ngờ được qua miệng lưỡi ác ý của những người vô trách nhiệm, ngày ngày chỉ «ăn không ngồi rồi», «chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng». Bé Quang Nghĩa có đôi mắt đen huyền lạ lẵm, chứng minh khả năng thông minh sau nầy theo như nhận xét của bà con. Mái tóc của bé cũng đen nhánh, lại quăn quăn bó sát ót trông rất dễ thương. Hình hài phương phi vậm vỡ, kháu khỉnh đẹp trai.



Nếu so sánh với trẻ con trong xóm, bé trội hơn nhiều. Khi bà Năm Giàu mừng rỡ được bà mụ trời thận trọng trao qua tay đứa bé còn đỏ hỏm, bà vội vàng nói với chàng rể là thằng nhỏ mới sinh, đứa cháu ngoại đầu tiên của bà giống hệt như khuôn đúc ông cố ngoại của nó. Tức là người duy nhứt trong gia đình bà mà bà còn giữ rõ trong ký ức những kỷ niệm về đôi mắt và mái tóc đặc biệt đó. Lời phát biểu của bà trước mặt chàng rể không phải không có ý.

 Dưới con mắt từng trải giàu kinh nghiệm sống, bà nhìn thằng bé có vẻ không được an tâm mấy. Về sau, bà khẳn định một cách chắc mẻm như ba bó vào một giạ, dường như để đánh tan mọi luận điệu vu vơ vô căn cứ của bà con lối xóm chung quanh bà. Họ thường hay nói ra nói vào đến mức nhức óc điên đầu, là sự giống nhau đó giữa Út Quyên và bé Quang Nghĩa thật là hy hữu. Có thể quá hiếm hoi, hầu như không hề thấy xảy ra trong xóm từ trước đến nay. Thật tình khó cho họ tin được. Nhưng có một điều là riêng ông cố ngoại mà bà Năm Giàu thường nhắc tới trong mỗi dịp thuận tiện đã qui tiên từ lâu lắm, cả nửa thế kỷ hơn nên chẳng một ai trong số người lắm chuyện dù không tin đôi lúc cũng không thể nói khác hơn bà được.


Dù thế nào đi nữa, khi nghe bà Năm phân trần như vậy, thầy Trí tỏ vẻ buồn buồn. Thầy không mấy an tâm. Thầy rất phân vân bối rối. Thầy cho đây là một hiện tượng quá kỳ lạ thầy chưa một lần gặp trong đời bao giờ. Thầy vẫn hoài nghi vì thực ra quả có những chi tiết lộ liễu không ổn nơi đứa bé, khi thầy tập trung ngắm nhìn kỹ nó đang nằm một cục trong chiếc nôi mây. Thầy không tin hẳn vào những lời có tính thuyết phục của bà mẹ vợ. Trái lại, ngay từ giờ phút được người nhà trịnh trọng đem đặt thằng bé nằm cạnh bên mình, cô Chín cố gượng dậy mở to đôi mắt để nhìn nó với vẻ thích thú, ân cần trìu mến. Dù lúc đó cô chưa hết đau đớn mỏi mệt, tứ chi bủn rủn rã rời.


Cô tỏ ra rất bằng lòng sung sướng là mẹ của đứa bé cô đã mang nặng đẻ đau lại giống như khuôn đúc đứa bé trong mộng của cô. Tuy nhiên trước mặt mọi người đang hân hoan vui vẻ đứng ngồi chung quanh để chia xẻ sự ra đời của bé Quang Nghĩa, cô thận trọng, không hề phát biểu cảm nghỉ của mình. Những lời đồn đãi chẳng có chút xây dựng cứ tiếp tục tràn lan khắp hang cùng ngỏ hẹp của xóm làng với một tốc độ khủng khiếp đến chóng mặt.

Việc nầy không ngớt lọt vào tai khiến thầy Trí rất đau khổ. Thầy đau khổ về những nghi ngờ nơi cửa miệng thế gian vô tình hay ác ý. Việc nầy hẳn đã làm vẩn đục không khí gia đình thầy không ít. Thầy thường lén nhìn cô Chín ngày ngày để tâm tưng tiu săn sóc đứa bé. Rồi những lúc đó, cô say sưa âu yếm ngắm nhìn thằng nhỏ mà không hề để ý đến những người chung quanh. Cô không để ý nhưng thầy Trí lại thấy rõ. Vì thấy rõ nên thầy chướng mắt hậm hực. Thầy kết án cô đã làm quá chức năng và tấm lòng thường tình của những bà mẹ trên thế gian. Cô làm một việc thầy không sao chấp nhận được. Nhưng thầy buộc lòng nhẫn nhục, cắn răng cố gắng lùa xa nỗi buồn oan khiên và nhứt là niềm đau ô nhục gia phong thầy đang cảm nhận và phải gánh chịu một mình.


Con người ai ai cũng muốn mình được hưởng hạnh phúc và hạnh phúc chân thật. Mà hạnh phúc chân thật dứt khoát phải đồng nghĩa với sự an lạc trong tâm hồn. Con người thầy Trí hiện không được an lạc bình ổn. Vì thầy nghĩ rằng mình chính là người ‘đi đổ vỏ ốc’ mà thủ phạm đã cao bay xa chạy biền biệt tận phương trời thăm thẳm nào rồi. Thật quá bất công đối với thầy. Quá phũ phàng là khác. Cùng lúc ấy, thầy cũng nghĩ thêm rằng con người thường tình sống giữa chợ đời nhiễu nhương giăng mắc cạm bẫy là một nhân tố đầy tội lỗi. Họ có được hưởng lòng rộng rãi thứ tha hay không?


**


Khi Quang Nghĩa vừa tròn hai tuổi, cô Chín hạ sanh thêm cho thầy Trí một đứa con trai khác. Đứa bé cũng kháu khỉnh bụ bẫm không thua gì Quang Nghĩa. Bé được cả hai thầy Trí và cô Chín thêm một lần nữa thống nhứt chọn đặt tên là Quang Hòa. Khác với Quang Nghĩa, Quang Hòa có nước da trắng trẻo, đầu cũng có óc o, không khác gì thầy Quang Trí và tộc họ của thầy. Thầy rất vui mừng cho là «con giống cha là nhà có phúc». Và đây mới chính là giọt máu của thầy. Lần nầy thầy tin chắc là như vậy, không hề đặt một câu hỏi hoài nghi nào khác. Cô Chín là người tế nhị. Cô rất công bằng trong tình thương con cái. Đứa nào cũng là con, con của cô cả. Do đó cô càng để tâm săn sóc trông nom tận tình Quang Hòa, cũng như giành sự chăm lo đặc biệt hơn đối với chồng mình.



Quang Hòa là con của cô mà! Hòn máu của cô, do cô cưu mang, đẻ đau mới có. Cô nguyện với lòng không một chút phân biệt. Nói thế nhưng đối với tình thương khó có thể cho cô cân bằng. Cả hai cha con thầy Trí và Quang Hòa không thiếu thốn chi cả về mặt vật chất trong nếp sống hằng ngày. Còn hơn là khác. Ngoại trừ tình thương yêu ẩn giấu có vẻ sâu đậm của cô Chín đối với bé Quang Nghĩa. Dù được che đậy khéo léo cách mấy, nhưng việc nầy không sao thoát được đôi mắt ganh tỵ và ghen tuông nghi kỵ của thầy Quang Trí. Mà sự ghen tuông ganh tị cũng như cảm xúc giận dữ hận thù là những biểu tượng đầu độc làm suy nhược tâm trí con người, đưa đẩy đến những hành động sai quấy khó lường. Lắm lần thầy Trí tỏ ra công khai ghét cay ghét đắng bé Quang Nghĩa vì thầy vẫn nghĩ không phải con của thầy. Và thầy làm như vậy cốt ý để cho cô Chín thêm đau khổ hơn.


Một ngày kia, thầy Trí thấy cô Chín đang ngồi cho Quang Hòa bú cạnh bếp lò, khi cô đang lo cơm nước buổi ăn trưa cho cả gia đình. Cũng vẫn nét mặt ngày ngày u buồn và mơ mộng, cô bỗng nghe tiếng khóc của Quang Nghĩa bất thần vang lên ngoài sân trước nhà. Ngay chính lúc đó, thầy Trí bất thình lình cao có bất bình khi thấy cô nhanh tay vứt bỏ bé Quang Hòa ra để nó nằm một mình trên chiếc vỏng vừa thúc thít khóc vừa gào la vô vọng.

Nó đang khát sữa do bị bật ra khỏi bầu sữa mẹ. Dù nó đang khóc ngất nhưng cô vẫn lật đật chạy một mạch ra sân vội vàng ẵm bồng, dỗ dành bảo bọc thằng bé Quang Nghĩa với những lời rất mực âu yếm thương yêu của một người mẹ hiền. Sự việc khiến thầy Trí càng bực tức, đùng đùng lên cơn nổi giận. Thầy vụt bỏ chân đi nhanh theo sau cô Chín sát gót. Khi thầy thấy cô vẫn còn trong tư thế ẵm bồng bé Quang Nghĩa trên tay và tai nghe những lời an ủi ngọt dịu khiến thầy như điên như dại. Thầy giận cá chém thớt, không dằn được cơn nóng giận. Thầy trút cơn hằn hộc:


- Buông ngay cái thằng hoang gia chết bầm đó xuống đất ngay. Buông ngay ra! Mau lên! Nếu không, anh sẽ giết cả hai mẹ con cho mà coi! Anh nói là anh làm đó!
Cô Chín nhìn chàng hãi hùng nhưng vẫn ghì chặt thằng bé trong vòng tay. Cô không nở rời nó trong khi nó hãy còn khóc thúc thít. Cô tiếp tục dỗ dành làm như không nghe những lời hăm dọa của chồng. Thầy Trí bèn quát to:

- Em có nghe anh nói gì không? Em có nghe không?

Mặt thầy đỏ phừng:


- Buông nó ra ngay. Hay em thách thức anh?

Thầy vẫn nói tiếp trước sự im lặng của cô Chín.

- Chính em đã thúc đẩy anh vào con đường tội lỗi để trở thành một tên sát nhân, em có biết không? Một khi em cương quyết cưởng chóng lại anh, bám víu vào cái kết quả ô nhục đó. Ô nhục cả dòng họ tông tộc anh!

Cô Chín trả lời nhỏ nhẹ, nhíu mày mặt đối mặt, mắt trong mắt:

- Không đúng như vậy. Không thể như vậy. Và cũng không hề như vậy đâu anh. Anh đã đi quá xa. Quá xa tầm suy nghĩ và tưởng tượng của em. Anh đã nghĩ sai quấy rồi.



Thầy tỏ ra sẵn sàng hùm hổ xông đến ngay để ra tay xiết mạnh cổ cô. Thầy vừa nắm vừa mở, rồi lại nắm chặt đôi bàn tay gân guốc của mình, như cố kềm hãm cơn nóng giận chăng. Không ai biết được việc gì vừa xảy ra trong giòng suy nghĩ của thầy. Nhưng tiếp đó không biết nghĩ thế nào, thầy vội quay về phía sau lưng mình, không còn bừng bừng trợn mắt nhìn thẳng vào mặt cô Chín nữa. Cơn bực tức giận dữ dường như cũng từ từ dịu xuống phần nào.

 Sau đó, thầy bỏ đi thẳng một mạch về phía cánh đồng lúa phía trước cổng nhà chùa. Thầy vội vàng, không kịp mặc áo choàng đàng hoàng và mủ nón chỉnh tề như thói quen của thầy mỗi khi thầy đi ra ngoài dạo xóm hay hành đạo. Có thể lúc đó thầy muốn mượn cảnh thiên nhiên thiên phú để thanh lọc tâm hồn? Mà thật vậy. Thầy không ngớt chăm chú nhìn sóng lúa lung linh đang uyển chuyển nhịp nhàng trên cánh đồng mênh mông vắng lặng. Thầy đang tập trung ngắm những bông hoa dại sắc màu rực rỡ lôi cuốn thầy dọc dài theo con đường mòn quanh co uốn éo bất tận.


Đôi tai thầy vẫn lắng nghe để thưởng thức tiếng hót líu lo của đôi chim vành khuyên đang trững giỡn trên bầu trời trong xanh quang đãng. Tất cả bối cảnh thiên nhiên đó đã có một mãnh lực giúp thầy thực sự thanh lọc tâm hồn để trở về với bản chất thiện tâm thuở sơ khởi của con người. Và biết đâu có thể lúc đó thầy chợt ý thức rằng thời gian dỗi hờn giận dữ một khi kéo dài bao nhiêu rốt cuộc chỉ là bấy nhiêu giờ phút hạnh phúc bị mất mát phí uổng đáng tiếc chăng?

 Một sự thay đổi rất đúng lúc nơi thầy. Nếu không, chẳng biết bi cảnh nào giữa cô Chín và thầy Quang Trí sẽ kết thúc ra sao. Thật khó mà lường trước. Cùng lúc ấy, cô Chín vừa bước ngang ngạch cửa đi thẳng vào phía trong chùa, tay vẫn còn ẵm bồng tưng tiu dỗ dành bé Quang Nghĩa. Cô thật vô tình nhưng cũng đáng trách. Cô quên phức tiếng khóc dây dưa của bé Quang Hòa đang dẫy dụa la khan đòi sữa nơi chiếc vỏng lác vô tri lạnh lùng.


Khi thầy Quang Trí trở về chùa chiều hôm đó sau những giờ phút chiến đấu với bản thân trong cô đơn, giữa cảnh thiên nhiên của trời mây ruộng đồng mênh mông bất tận, trăm năm ngàn năm vô tư hững hờ đến độ lạnh lùng đối với lòng ham muốn sân si của người đời. Thầy biết dằn lòng lắng dịu vì thầy vốn là người tu hành, dù gì thầy cũng thấm nhuần thấu hiểu giáo lý hỉ xã thứ tha của đạo Phật. Thầy bèn đi thẳng một mạch đến cạnh bên cô Chín, đặt tay mình trên vai cô và nói những lời êm dịu:


- Anh không còn gì để hờn giận trách móc em nữa đâu. Em an tâm và đừng buồn anh nhé. Anh van xin em. Anh đã biết thái độ bốc đồng hằn hộc hồi sáng sớm của anh không đúng. Một phút giận dữ không kiểm soát được. Và việc xử sự của anh thật hàm hồ nông nổi quá. Anh vô cùng hối hận. Anh mong em hãy quên để lo cho các con và gia đình.


Thầy vồn vã hơn:

- Đức Phật qua sự truyền đạt của các bậc chân tu từ bao thế hệ có rao giảng với chúng sinh, tất cả chúng ta, những người trên thế gian trần tục đều không sao thoát khỏi tội lỗi, những tội lỗi đáng bị trừng phạt nơi chín tầng địa ngục. Nhưng những tội lỗi đáng trách đó sẽ được thứ tha, nếu chúng ta biết phục thiện, nếu chúng ta biết ăn năn sám hối, sửa chữa lỗi lầm.


Thầy càng nhỏ nhẹ hơn nhằm thuyết phục cô Chín:

- Phần em, em cũng nên sám hối, hãy thú nhận tội lỗi để anh có cơ hội tha thứ em một lần và chỉ một lần nầy thôi. Vả lại, đây là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng sẽ giúp chúng ta tha thứ vĩnh viễn cho nhau, cho em cũng như cho chính bản thân anh. Anh tha thiết mong muốn như vậy. Em nghĩ sao?


Thầy càng dịu ngọt để tạo niềm tin nơi cô Chín:


- Anh cũng là một con người như bao nhiêu người thường xuyên lặng ngụp trong xã hội, mặc dù anh đã chọn con đường nương tựa nơi cửa Thiền. Anh có những đức tánh tốt đáng được đề cao trọng vọng mà dĩ nhiên tánh xấu cũng không thiếu gì. Nhưng anh biết dằn lòng kịp thời đúng lúc. Anh biết nhận lỗi lầm mình đã phạm. Anh biết sám hối.


Nhưng cô Chín sáng ý lắm. Cô hiểu ý thầy Trí nên trả lời một cách thẳng thắn và cương quyết. Cô đi thẳng vào vấn đề mà thầy quanh co, lập lờ lập lững:

- Em thành thật xét thấy em chẳng có tội lỗi nào đối với những gì anh đã lầm tưởng bấy nay cả. Anh có biết không? Em đã nhẫn nhục và can đảm cam chịu đau khổ biết dường nào, vì lẽ em xét ra mình trong sạch.

Giọng cô càng trong trẻo hơn:

- Em vô tội anh à. Em xử sự trong trắng như pha lê.


Thầy Trí bèn trở gót bỏ đi một mạch với thái độ chán chường vô vọng. Thầy im lặng không một lời phản đối, dù nhẹ nhàng. Thầy biết thầy hoài công trong ý định của mình. Thầy đã hoàn toàn thất bại. Cô Chín vội bám theo sát bên thầy, băng ngang qua gian phòng lớp lớp tượng Phật lớn nhỏ, khói hương vẫn còn nghi ngút. Gương mặt cô trở nên buồn hiu. Bước đi ngập ngừng. Cô tỏ ra cảm thông chia xẻ nỗi đau khổ và thất vọng của thầy lúc đó. Cô móm lời phân trần:


- Có thể em đã xử sự thiếu khôn khéo và phát biểu ý kiến mình quá vụng về mà chẳng để ý đến thôi…

Cô xác nhận:

- Em vô tình. Anh bỏ qua cho em vì em không hề cố ý.

Thầy bèn quay lại nhìn cô cảm thấy trong lòng mình bỗng loé lên một chút hy vọng. Thầy đang chờ đợi lời thú nhận cuối cùng của cô Chín, nhưng cô đưa mắt nhìn lên bàn Phật thì thào vừa đủ cho hai người nghe. Cô rất mực thành thật như bản chất cố hữu của cô:


- Em xin trình bày với anh một sự thật. Vì bản thân em, em không hề biết nói dối. Vì nói dối là có tội. Em biết rõ như vậy. Nếu như em có phạm tội lỗi thì chỉ thỉnh thoảng ở phút giây khủng hoảng yếu đuối trong tâm tư tình cảm của em thôi. Chớ tuyệt nhiên em vẫn là người vợ tuyệt đối trung thành với chồng, với anh. Em xin lập lại một lần và là lần cuối cùng cho dứt khoát là em không hề phạm một lầm lỗi ghê gớm nào đối với anh cả. Em nói có thánh thần hai bên vai vế chứng giám lòng thành.


Thầy Trí vụt đứng phắt dậy cắt ngang không cho cô nói tiếp. Thầy trở lại giận dữ như lúc đầu:

- Thì đó! Em hãy nhìn kia kìa! Cứ nhìn cho thật kỹ cái thằng con hoang gia chết bầm khó thương đó! Một bằng chứng hiển nhiên. Một bằng chứng quá rõ ràng. Đã rõ ràng như vậy mà bấy nay em vẫn quanh co chối từ. Bấy nay em không chịu nhìn nhận. Em quả tình ngoan cố quá mức! Anh không thể chấp nhận.

Thầy quát to:

- Em có biết không? Nếu không biết anh nhắc cho em biết. Những đứa con lén lút sinh ra bao giờ cũng giống hệt thằng cha nó. Bây giờ em hả dạ chưa? Hay còn gì để phân minh? Hoặc còn chi ấm ức?


Mà nghĩ cũng lạ. Dù hằn hộc đùng đùng giận dữ bao nhiêu nhưng thầy Trí vẫn giữ mức độ lịch sự tối thiểu đối với cô Chín bấy nhiêu. Lúc nào thầy cũng gọi cô bằng tiếng em chớ không hề dùng ngôn từ thô bạo mầy tao, mi tớ. Có lẽ trong thâm tâm lúc nào thầy vẫn yêu cô và không muốn cuộc sống chung giữa hai người phải tan rã, đổ vỡ trầm trọng. Cô Chín dằn lòng không đặng, nhưng tiếp tục trả lời cũng lịch sự không kém thầy Trí, nhưng trong lời nói phản phất hàm chứa ý hướng thách thức chừng mực:


- Đó là đứa trẻ sinh ra trong mộng của em mà! Nó có biết gì. Nó vô tội. Em thương yêu, em quyến luyến nó với tình mẫu tử thiêng liêng cao cả đậm đà. Tình mẹ đối với con chẳng lẽ là một tội lỗi hay sao? Anh bình tĩnh cắt nghĩa cho em xem thử coi! Em đang nóng lòng chờ lời soi sáng của anh.


Thầy nhìn cô trân trân, đôi mắt hườm hườm. Dù vậy thầy không muốn tìm hiểu thêm. Thầy đã túng lý? Biết giải thích ra sao! Phản ứng như thế nào? Thầy vội quay gót bỏ đi, trong lòng cực kỳ bực dọc. Mãi đến chiều tối hôm đó, trong bữa cơm gia đình thanh bạch bình thường như những ngày qua, quây quần bên vợ con đông đủ, thầy không nói một lời nào về cuộc đối đáp đầy sóng gió hồi sáng. Có những sự im lặng rất nguy hiểm vì có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.

Những tháng năm dài kế tiếp, thầy vẫn trở lại đề tài nhức nhối cũ, cứ từng chập làm nghẹt thở, băng hoại tâm trí thầy. Dĩ nhiên không khí gia đình không lúc nào lặng yên dông bão. Những lúc đó, thầy thường khảo tra hạch hỏi cô đủ điều, tiếp tục không buông bỏ ý định khuyến dụ cô hãy nhận tội lỗi mình để gia đạo được bình yên an ổn. Khốn thay cứ mỗi lần đó hầu như thầy đều đón nhận vỏn vẹn chỉ một câu trả lời duy nhứt:


- Em không hề là thủ phạm vô luân thường, vô đạo lý như anh thường tưởng và không ngớt kết tội em. Em có nói gì thêm nữa chắc anh vẫn đeo đuổi ý nghĩ của anh. Biết nói sao bây giờ để minh oan cho em đây.

Và cứ mỗi lần như vậy thầy càng hung hăng hơn:

- Em nói dối! Nói dối có hệ thống. Nói dối có tính toán. Dối chồng, gạt chồng. Qua mặt chồng để làm điều xằng bậy tai tiếng… chẳng phải là cái tội hay sao?



Mãi về sau, cô Chín còn sanh thêm cho Thầy Quang Trí ba đứa con nữa, tất cả đều là trai, hao hao giống hệt thầy, từ hình hài cho đến nước da và mái tóc. Nhứt là đầu chúng nó đều có óc o, niềm hãnh diện của thầy, cũng như của dòng tộc thầy. Dầu vậy, cô Chín vẫn phải chịu đựng triền miên những lời hằn hộc khuấy rầy của thầy. Đối với cô, cuộc sống chung qui chỉ là những chuỗi ngày dài đau khổ, là những cực hình phải gánh chịu được diễn tả qua lời kết tội vu vơ của ông chồng. Thầy Trí đã dựng lên trong sự nhẫn nại chịu đựng của cô một địa ngục trần gian hận thù và nghi kỵ. Chỉ vì một lý do duy nhứt, cô giành phần lớn tình thương cho riêng bé Quang Nghĩa và cả cảm tình nồng hậu cho Út Quyên trong âm thầm.


**


Một buổi chiều tháng chạp, thời tiết lập đông năm đó khá lạnh hơn những năm qua. Dù vậy nhà nhà vẫn náo nức chuẩn bị đón xuân mới. Ngoài trời những làn gió mạnh cứ lao vun vút từng cơn làm cho những cây cổ thụ cả trăm năm hơn sừng sững chung quanh chùa oằn oại rùng mình, rên siết hãi hùng lắm. Cô Chín Thú cũng vừa hoàn tất xong bữa cơm chiều không mấy thịnh soạn và đang sửa soạn lên bàn ăn cùng chồng và mấy đứa con nheo nhóc quây quần bên thầy Trí.

Chúng tranh nhau nói cười vô tư không dứt. Không khí gia đình xem ra thật ấm êm hạnh phúc tròn đầy vì mấy đứa con của hai ông bà đều còn nhỏ tuổi, ngây thơ chẳng hề để ý đến việc hệ trọng của cha mẹ. Bếp lửa năm ba lò đất nung được xây sát nhau còn hừng hực chưa tắt hẳn. Bỗng có tiếng gõ cửa chùa thúc hối dồn dập, xem như khẩn cấp lắm. Mọi người đều buông đũa bàng hoàng sững sốt, nhứt là thầy Trí và cô Chín.

Họ rất đỗi ngạc nhiên cùng đặt ngay một câu hỏi. Ai? Ai mà đến nhà chùa vào lúc tăm tối nầy? Thật lạ quá! Thầy Trí dợm đứng lên bước ra cửa ngóng xem chuyện gì đang xảy đến gia đình mình. Trong lúc đó cô Chín càng thêm bối rối thất sắc. Linh tính của người đàn bà báo cho cô một điều không ổn khi cô thầm nghĩ đến cảnh nầy những năm về trước khi Út Quyên hồi hương đến thăm cô. Quá khứ bỗng trở về trong cô. Cô càng bàng hoàng…


Cũng giờ nầy. Cũng cùng một nhịp gõ cửa hấp tấp như xưa. Cô thầm nghĩ:

- Chẳng lẽ…


Cùng một lúc, thầy Trí và cô Chín đưa mắt nhìn thom lom về phía cửa trước mong sớm khám phá một sự thật. Trong chớp mắt, cô Chín nhanh chân hơn, bước đến hé mở cửa. Cô rất dè dặt trong tư thế cẩn thận nhằm đề phòng một khi có bất trắc. Phản ứng tự vệ của cô rất dễ hiểu do cô sống trong cảnh thổ yên ắng vắng vẻ, xa hẳn bà con chòm xóm. Một luồng gió bỗng dưng thổi mạnh vào chùa làm tắt hết đèn đuốc và làm tung toé bụi than bếp lò vung vẫy khắp gian nhà nhỏ hẹp.

Và một ít tàn lửa đang ngúng muộn màn bật sáng chỉ vừa đủ cho mọi người trông thấy nhau trong căn phòng vốn ấm cúng. Thầy Quang Trí ngước mắt lên nhíu mày, cố nhìn xem người nào đến chùa vào lúc chập choạng tối? Trường hợp nầy rõ ràng rất hiếm. Thầy cố hồi nhớ, nhưng cuối cùng xác quyết một điều. Hầu như không hề xảy ra từ ngày hai người thành hôn đến nay và đã có đến bốn năm mặt con. Thầy đã từng đảm trách không biết bao nhiêu tang lễ cho bà con bá tánh nhưng có bao giờ tang chủ hay thân nhân của họ đến chùa thỉnh mời thầy vào lúc nầy đâu.


Thầy đang đặt tiếp nhiều câu hỏi. Nhưng có một câu làm cho thầy càng thêm thắc mắc. Việc gì đây? Lành dữ ra sao? Thầy vốn trầm tỉnh, dù hơi ngạc nhiên nhưng tiếp tục trở lại ngồi ở đầu bàn ăn chờ đợi sự phản ứng của cô Chín. Thầy ra lệnh bảo các con hãy giữ im lặng khi đôi tai thầy nghe tiếng thì thầm vội vã thúc bách giữa cô Chín và một người đàn ông nông dân già vẫn đứng lặng im trong bóng tối trước cửa chùa. Cô Chín lính quính rối loạn tinh thần đến đỗi không mời người khách lạ vào chùa khiến thầy Trí càng thêm khó hiểu. Nếu thầy nghi kỵ ngờ vực một việc gì thì không có gì là lạ cả. Thầy không phân biệt được rõ ràng người đàn ông lạ là ai và nhứt là những lời đối đáp nho nhỏ vừa đủ nghe đó của họ. Thầy đang nghĩ đến cái cảnh oái oăm ngày xưa. Thầy không giấu được cơn nóng giận bực mình. Thầy nôn nóng mong muốn mau biết sự thật. Tại sao hai người không nói chuyện với nhau to tiếng, mà dường như cố tình trao đổi vừa đủ nghe


. Lờn vờn trong trí thầy:

- Tại sao họ không vào chùa ngay? Tại sao họ cố tình muốn gạt thầy ra khỏi câu chuyện? Tại sao? Và tại sao vậy?

Nghĩ như thế thầy càng bực mình, khó chịu hơn. Vì thầy đinh ninh rằng họ cố tình che giấu những chuyện gì bí mật lắm hay sao, không cho thầy nghe. Thầy lúc nào cũng sẵn sàng và dễ dàng nghĩ xấu về cô Chín. Bởi vì thầy không buông tha xô đuổi ý nghĩ là cô Chín thường xuyên nói dối với thầy. Bây giờ ý nghĩ đó của thầy càng bừng lên mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Cũng vừa lúc đó, cô Chín nhanh nhẹn đóng vội hai cánh cửa để tránh những luồng gió mạnh cứ vun vút không ngưng, từng đợt thổi tạt vào phòng ăn. Và gian phòng khi đó được soi sáng nhờ một vài bóng đèn bong bóng vừa được thầy Trí vội vàng thắp trở lại, vừa ấm áp vừa im lặng. Ấm nước đang kêu siêu trên bếp lò chuẩn bị để pha trà sau bữa ăn còn dang dở, không một ai quan tâm để ý tới. Mọi người đang tập trung về sự kiện bí hiểm đang xảy ra.



Mặt thầy Trí trở nên lạnh như tiền. Không khí gia đình ở bữa cơm chiều sum hợp và hạnh phúc ít phút trước đó bỗng trở nên nặng nề khó thở. Thầy ngồi yên quan sát, không một lời. Đến khi cô Chín hiện rõ dưới ánh sáng lờ mờ, thầy Trí con người vốn tinh mắt, trông thấy gương mặt của cô xanh xao lo lắng, bối rối mất thần và đôi môi không còn đỏ mộng mà trở nên rung rẩy nhợt nhạt lạ thường. Thầy đoán biết ắt hẳn có một chuyện gì quan trọng lắm vừa xảy đến với cô. Thầy vội nghĩ chẳng lẽ một tai họa vừa đến với ông bà Năm Giàu.

Ông bà cha mẹ vợ của thầy trong tuổi gần đất xa trời mà mấy tuần lễ gần đây bệnh tình có cơ trở nặng thêm. Thầy biết như vậy nhưng nghĩ chẳng lẽ… rồi không dám đi xa hơn. Dù bán tính bán nghi thầy quyết dừng lại ở sự suy đoán của mình. Thầy nóng hơ. Con người thầy đang cồn cào chờ đợi một lời giải thích của cô Chín, nhưng nó không đến ngay với thầy. Lại một sự im lặng dễ sợ. Ngay mấy đứa nhỏ ngồi quanh mâm cơm cũng ngơ ngác lấy làm lạ. Chúng im re phăng phắt không dám hở môi.


Cô Chín nhanh chân bước trở vào nhà. Cô nhìn thẳng trước mặt mình với đôi mắt giản nở, nhưng không hề thấy chồng đang ngồi chăm chú theo dõi từng cử chỉ nhỏ nhặt của cô. Cô không để ý chi cả. Trong cô có quá nhiều xáo trộn đảo lộn. Cô đang bận tâm với những hình ảnh cứ lờn vờn trong trí qua lời tường thuật của người mới đến. Cô vội vàng bước đến đầu giàn bếp vói tay lấy chiếc áo tơi chầm bằng lá dừa nước khoát gọn lên vai chuẩn bị ra đi. Cô rất hấp tấp. Cô không nói một lời nào cả, dường như cô quên hẳn sự hiện diện của chồng. Bên ngoài thỉnh thoảng ông trời hầm hừ gầm thét và mưa cũng bắt đầu rơi lúng phúng. Vừa đi cô vừa nói lớn tiếng có lẽ lúc đó cô trực nhớ đến thầy Trí chăng? Cô phải nói lớn tiếng cốt để cho thầy Trí nghe:


- Em phải đi ngay anh ơi. Đi ngay về đình làng.

Thầy Quang Trí ngạc nhiên khi nghe cô nói ‘đi về đình làng’ thay vì đi về nhà cha mẹ vợ như thầy vừa nghĩ ít phút trước đây. Thầy nhíu mày thêm một lần nữa ra chiều suy nghĩ hun lắm. Nhưng thầy kịp nén lòng, cố bình tỉnh gạn hỏi lại cô Chín:

- Trời sắp tối tới nơi rồi, bên ngoài mưa gió như thế nầy mà em lại đi sao? Anh không hiểu vì lý do nào khiến em lại có quyết định vội vã như vậy. Anh không an tâm chút nào cả! Anh lo quá. Đêm hôm tăm tối đường lại xa, em là phận đàn bà yếu đuối.


Thầy không để cô kịp trả lời và vội vàng hỏi tiếp:

- Có việc gì cấp bách khẩn trương đến thế? Em không thể chờ đợi được đến sáng ngày mai hay sao? Mà việc gì vậy? Lành dữ ra sao khiến em phải vội vã?

Cô Chín đáp ngay, không phút giây suy nghĩ:

- Phải. Em phải đi ngay anh à. Ngay bây giờ. Em không thể chần chờ được. Chần chờ là trễ mất. Chần chờ sẽ không còn kịp nữa. Anh đừng lo ngại chi cả.


Cô phân trần:

- Em phải đi ngay vì hiện có một người đang nằm hấp hối nơi đình làng chờ đợi em. Từ đây đến đó tuy xa thì xa thật nhưng có bác Sáu cùng đi nên em cũng vững bụng. Em van xin anh, hãy hiểu cho em.

Khi ra gần đến ngạch cửa chánh, cô quay lại nói vói:

- Em phải đi ngay kẻo mất cơ hội. Anh an tâm, không có gì nguy hiểm đâu. Mưa chắc cũng sắp tạnh đến nơi rồi. Mà không tạnh cũng chẳng sao đâu vì em đã có áo tơi.


Ngay lúc ấy, thầy Quang Trí cũng vừa nhận ra và biết ngay người khách lạ không ai khác hơn là bác Sáu nên vững bụng, đúng như cảm nghĩ trước đó của cô Chín. Thầy không còn đặt một câu hỏi nào khác và cũng không nói thêm lời nào nữa. Ý như thầy ngấm ngầm bằng lòng để cô Chín ra đi. Mà dù thầy không bằng lòng hoặc hết lời cản trở chắc cũng không sao ngăn cản được cô Chín. Một khi người đàn bà đã quyết định dứt khoát thì không một ai có thể thuyết phục để làm xiêu lòng được.


Lão nông phu già mà cô Chín vừa gọi là bác Sáu tên họ là gì, trong thôn xóm chẳng nghe một ai nói đến tên họ bao giờ, chỉ biết họ đều gọi là lão Sáu Thố. Lão thuộc lớp tuổi khá hiếm hoi «thất thập cổ lai hi», nhưng đi đứng vẫn mạnh dạng và dáng thể bề ngoài trông còn sỏi lắm. Nhà lão là một thum lá tum húm khó nghèo nằm sát bên đình làng, chỉ cách nhau một mương ranh nhỏ hếu nhảy qua không cần bắt trớn. Do đó lão được bà con mời làm từ để gìn giữ, bảo quản ngôi đình cả một hai thập niên qua. Lão được giao cho phận sự trông coi không cho bầy trẻ chăn trâu trong xóm vì bê tha ham chơi hoặc mê bạc bài để trâu tuông vào dẫm đạp phá phách vườn tượt, cùng sớm hôm chăm lo phần đèn đuốc nhang khói mỗi đêm đến. Lão vui vẻ làm công việc thiện nguyện nầy từ sau ngày lão bước vào cái tuổi chỉ còn ưng nhìn việc ruộng nương vườn rẫy để nhung nhớ một thời đã qua quá xa rồi.



Nhưng khi cả hai, cô Chín và lão Sáu Thố ra đi vừa khỏi cổng chùa độ chừng năm mười phút là cùng, thầy Trí quày quả quay trở lại ngồi vào bàn ăn nhưng thầy ăn lểu lảo, ăn chiếu lệ. Thầy nuốt không trôi. Thầy đang suy nghĩ hun lắm. Sau đó thầy vội vã buông đũa đứng dậy đi thẳng vào phòng trong mặc áo quần, bỏ lững bữa cơm chiều cho mấy đứa con nhỏ tự lo liệu lấy. Chúng vẫn tiếp tục vui vẻ bên nhau, không để ý chi cả. Thầy quyết ra đi theo chân cô Chín và lão Sáu Thố. Trong trí thầy, những câu hỏi cứ trở đi trở lại mãi: «Ai vậy? Người nào? Lạ hay quen? Hay người trong quyến thuộc? Thầy có biết hay không?». Rồi thầy tự hỏi: «Tại sao cô Chín phải bận tâm đến thế? Tại sao cô xem quan trọng như vậy? Tại sao cô không nói rõ mà cứ lập lơ lập lững với thầy? Tại sao và tại sao?».


Bên ngoài, trời bắt đầu tối hẳn. Mưa rơi nặng hột. Mỗi giây phút qua càng to hơn. Gió đồng lạnh buốt lại vun vút từng cơn làm rát cả mặt mày. Cùng đi trên một đoạn đường với nhau nhưng thầy chỉ thấy lờ mờ những gì nhấp nhô ở ngay phía dưới chân mình. Do trời mù mịt rất nhanh. Thầy phải tập trung. Nếu sơ ý có thể bị vấp ngã bất kỳ lúc nào. Gió lạnh càng thổi mạnh hơn từng chập từng chập trên cánh đồng trơ trọi không có lấy một chòm cây to lớn làm rào chắn thiên nhiên. Mặt mày và đôi tay thầy bắt đầu lạnh cóng, chân đi khó khăn do con đường trở nên lầy lội trơn ướt. Tuy nhiên, thầy nhứt quyết không vì vậy mà bỏ cuộc nửa chừng.

Đã đi thì phải đi đến cùng. Đã quyết thì phải đạt cho bằng được mới nghe. Vì thầy cũng từng ý thức rằng giá trị của cuộc đời, dù chỉ là một khoảnh khắc, chẳng qua là sự chiến thắng quá đắt của cố gắng. Dù run lên lạnh toát, thầy tiếp tục cắn răng, bấm tay lầm lũi đi. Đi mãi. Đi hoài. Thỉnh thoảng dưới ánh sáng yếu ớt của những tia chớp vụt đến, thầy nhận thấy chập chờn hai bóng người thấp thoáng trước mặt. Do đó thầy vững tâm hơn và càng mạnh bước thêm. Những lúc thầy đến gần bên hai người, từng cơn gió mạnh dội ngược về phía thầy giúp đôi tai thầy nghe rõ ràng những tiếng vọng khiến thầy càng tức tối cành hông. Chỉ có người trong hoàn cảnh nầy mới thấu hiểu được sự bực tức của thầy. Cô Chín không ngớt miệng thúc hối lão từ đình Sáu Thố.


Cô đánh tiếng:

- Nhanh nhanh lên… Nhanh chân hơn đi bác Sáu. Cháu van xin bác ráng thêm một chút nữa đi. Chắc cũng sắp tới nơi rồi phải không bác? Không khéo chàng sẽ tắt hơi chết mất trước khi mình đến nơi.

Lão vội đáp to:

- Tôi không thể đi nhanh hơn được. Tôi không thể. Không thể!

Lão run run nói:

- Sức già của tôi có giới hạn. Bây giờ tôi đuối lắm rồi! Bên ngoài người ta trông tôi còn có nét lắm, nhưng thực sự bên trong đã rệu rã rồi cô à! Trời lại lạnh quá! Gió mạnh muốn đưa tôi dội ngược về phía sau. Chân cẳng tôi không còn vững nữa. Nhưng tôi sẽ cố gắng. Cố gắng tối đa. Cố gắng hết mình. Cô cứ an tâm đi trước đi, tôi sẽ theo sau…


Lão trấn an:

- Cô đừng lo cho tôi. Sớm muộn gì tôi cũng đến nơi mà. Nhưng cô hãy cẩn thận. Trời đã tối như mực rồi đó! Cô cứ lo phần cô. Không còn xa lắm đâu…

Gió mạnh vút qua người lão làm cho lão lảo đảo chập choạng gần té quị. Tuổi già sức yếu không sao cưởng chóng được những cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Cô Chín vội vàng quay lại đưa tay đỡ lão gượng đứng lên, xốc nách lão, dìu lão đi rất khó khăn.

Một sức mạnh phi thường của người đàn bà đầy quyết tâm giúp cô mãn nguyện để đến đúng lúc nơi Út Quyên đang nằm thở phều phào hấp hối. Số là thời gian gần đây khi còn ở trên đất Lào, Út Quyên trải qua một thời kỳ đen tối nhứt trong đời, khi công việc làm ăn của anh đang trên đà phát triển tốt đẹp bỗng bị phá sản nhanh chóng. Anh không kịp trở tay vì không đánh giá đúng mức biến chuyển của thời cuộc. Anh không dự đoán kịp lúc những thay đổi trầm trọng về hai mặt quân sự cũng như chánh trị trên thế giới, nhứt là ở Đông Nam Á. Lúc bấy giờ, lực lượng quân phiệt Nhựt Bổn thất bại thảm thương trên khắp chiến trường, từ các quần đảo Úc Châu xuyên qua Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba… lên tận các xứ Đông Dương.



Phi cơ Đồng Minh xuất phát từ các hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi Thái Bình Dương hằng ngày hằng đêm liên tục dội bom các mục tiêu quân sự của Nhựt cùng những phương tiện giao thông và kinh tế phục vụ guồng máy chiến tranh. Cơ sở khai thác gỗ rừng của Út Quyên và anh bạn Không Lay của anh cùng chung số phận bế tắc đường cùn của nền kinh tế thời buổi chiến tranh khốc liệt đang trên đà kết thúc rất cận kề. Những đơn đặt hàng của quân đội Phù Tang chẳng những không còn dồi dào như xưa, mà tai hại hơn là những đợt hàng anh đã giao hằng tháng hằng năm theo những giao kèo đã ký kết trước đó không được thanh toán sồng phẳng đúng thời hạn qui định.

Lâu ngày cơ sở dần dà trở nên kiệt quệ và sau cùng bắt buộc phải ngưng hẳn mọi hoạt động nhằm thanh lý những gì còn có thể vớt vát thu hồi được như máy móc, thớt voi, tàu bè, xe cộ… Sau khi thanh toán nợ ngân hàng không ngưng thúc hối réo đòi và trả lương công nhân đang rụt rịt có triệu chứng nổi dậy làm dữ đòi thiệt hại xứng đáng, kể như từ đó cơ sở bị phá sản. Anh và anh bạn Không Lay không còn mảy may hy vọng phục hồi.

Út Quyên thua buồn, một nỗi buồn trắng tay trong phút chốc phù du, khiến anh sa sút tinh thần. Anh mất ăn mất ngủ và nhuốm trọng bịnh. Lâu ngày cơ thể suy yếu hẳn, cơn bịnh trở nên trầm kha tuyệt vọng hơn. Mới hay tài sản trước đây càng to lớn bao nhiêu thì bây giờ phần số anh càng đen tối bấy nhiêu. Anh quyết định rời bỏ vương quốc Lào, nơi đã từng đưa anh lên tột đỉnh của thành công và danh vọng, nhưng giờ đây nhận chìm anh xuống tận đáy sâu của vực thẩm thất vọng cùn đường.

Anh ngán ngẩm cho cuộc đời bao lần ‘lên voi xuống chó’ của anh. Nhưng lần tuột dốc sau cùng nầy, anh cảm thấy không khi nào có cơ hội gượng lại được như những lần trước. Hơn nữa, nỗi buồn đục khoét tinh thần và cơn bịnh của anh ngày càng nặng thêm mãi. Anh cảm thấy khó có thể vượt thoát khỏi tử thần cứ chờn vờn trước mặt nên anh nhứt định sẽ thu xếp lên đường trở về quê hương xứ sở.



Vì theo nhận thức chơn quê của anh, con người nếu không còn nhớ đến nguồn cội gốc rễ, không còn biết tổ tiên dòng tộc, bà con láng giềng xa gần, người ấy không còn là một con người nữa. Không xứng đáng làm người trên thế gian. Vả lại, nếu có phải chết, anh mong muốn chỉ một điều duy nhứt trong đời là được chết ấm cúng nơi cố thổ chôn nhao cắt rún của mình. Dù sao cũng được gần gũi sum hợp bên cạnh ông bà cha mẹ, bên cạnh bà con chòm xóm, hơn là phải bỏ xác nơi đất lạ quê người trong cảnh bơ vơ, lạnh lẽo cô đơn cô độc.


Chiều hôm đó, hai bác nông dân tuy đã đứng tuổi nhưng vẫn đam mê say sưa làm việc dù đã quá giờ từ lâu. Họ còn nấn ná nán ở lại dầm cho dứt điểm chéo ruộng dang dở. Nhờ đó cả hai đã cứu mạng Út Quyên trong một tai nạn khó tưởng tượng được. Một tai nạn nếu không có ý Trời thương tưởng sắp xếp sự hiện diện cứu tinh của hai bác nông phu già nầy thì chắc chắn anh đã mạng vong. Chắc hẳn là như vậy, chớ không sao anh tránh khỏi. Quả thật đây là một may mắn cho anh. Số phần anh chưa đến đỗi hẩm hiu đen tối như anh tưởng. Trên đường trở về quê, anh phải đơn phương bách bộ một đoạn đường khá xa. Trời lại bắt đầu sẫm tối rất nhanh trên cánh đồng bát ngát, không một mái tranh mái lá, dù là một cái chòi canh chim canh cá.



Trong bối cảnh mập mờ đó mà chắc cũng do tâm trí đang dấy lên nhiều xúc động, anh mệt lã kiệt sức nên bất ý xẩy chân té đập đầu vào một mả đá ong nơi nghĩa địa trong làn. Vết thương nơi đầu nơi trán làm cho máu me tuôn ra lênh láng. Cái mả oan nghiệt nầy chắc lâu đời lắm. Vì lâu đời nên hiện nay coi như đã lạng, chỉ trừ lởm chởm nơi nầy nơi nọ một vài phần nhỏ nhô lên vừa khỏi mặt đất áng chừng non một tấc tây. Tuy anh té không trúng vào chỗ nhược, nhưng cả hai bác nông dân đều hồn phi phách tán do chưa từng thấy máu me tuông xối xả như vật trong đời. Họ lúng túng cứ ngỡ rằng anh khó có thể vượt qua cái chết cận kề do vết thương mở miệng khá to. Máu cứ tiếp tục phun phún từng giọt làm cho họ càng lo lắng hơn. Anh được cả hai dìu dắt thẳng vào đình làng cách đó vừa hơn mươi thửa ruộng gò.


Tiếp đó hai bác ráng gân cổ kêu réo ầm lên nhờ bác từ đình Sáu Thố tiếp tay chăm lo băng bó tạm vết thương. Đồng thời vì bất cập quá nên họ yêu cầu bác hãy mở rộng lòng từ bi giúp anh qua đêm để sáng sớm ngày mai tri hô cùng bà con lối xóm đến sẽ tính sau. Nhà cửa của bác Sáu tum húm hẹp té, bà con ác ý bảo con chó con mèo ngồi còn lú cái đuôi dài thượt ngoắc ngoa ngoắc ngoải ra ngoài. Giường ván chỉ đủ cho mỗi một gia đình vợ chồng bác, không có dư thừa nên bác không thể giữ anh ở lại nhà qua đêm được. Bác đành lòng đưa anh tạm thời qua đình rồi để nằm cẩn thận trên một chỏng tre ọp ẹp được đặt sát vách nơi phía sau hậu đình. Nơi nầy bác chỉ dùng đến để nằm nướn mỗi buổi trưa hoặc năm khi mười họa tạm nghĩ qua đêm nhằm trốn lánh tránh khéo mỗi lần bị bà Sáu lên cơn bất bình cằn nhằn cẳn nhẳn dai dẳng đến nhức đầu nhức óc. Chính nơi thâm u vắng vẻ tĩnh lặng nầy là chỗ lánh thân bất đắc dĩ của bác Sáu Thố. Bác rất ưng ý, thường cười hề hà với bà con chung quanh, làm như bác hãnh diện lắm.


Cũng chính nơi nầy, Út Quyên hết lời khẩn cầu bác cấp tốc đến chùa thầy Chánh báo cho cô Chín biết sự hiện diện mong manh của anh. Anh mong muốn được gặp mặt cô chỉ lần cuối cùng nầy trong đời. Anh ao ước được giã từ cô trước khi thanh thản ra đi chăng? Sự trung thành thủy chung như nhứt với mụn tình đầu thuở thanh xuân là cả một bí mật trong đời đối với những người trong cuộc, người ngoài không sao thấu hiểu nổi. Con tim quả có những khúc mắc riêng của nó. Trường hợp của Út Quyên không thể là một ngoại lệ.


Khi cô Chín đặt chân đến đình làng, cô vội vàng đến ngay tận bên chỏng tre theo sự hướng dẫn hấp tấp của bác Sáu Thố. Dù dưới ánh sáng lờ mờ liêu trai của ngọn đèn dầu, cô vẫn thấy không khó anh Út Quyên đang trong cơn hôn mê xem ra có vẻ khá trầm trọng. Mắt nhắm mắt mở lờ đờ, anh luôn nói lảm nhảm trong miệng. Anh muốn nói những gì? Cô Chín và lão Sáu Thố không nghe được gì rõ ràng, dù họ để tai gần như áp sát vào lồng ngực anh. Anh đang thều thào trối trăn chăng? Anh đã quá yếu. Lúc tỉnh lúc mê. Khi tỉnh chỉ trong một thoáng ngắn ngủi. Khi mê lại kéo dài hơn. Tay chân không còn cử động được, thỉnh thoảng ngo ngoe đôi chút. Cuộc sống của anh đếm từng giây từng phút.



Cô Chín quá đỗi xúc động, băn khoăn lo lắng. Cô vô cùng bối rối và hoảng hốt khi tự xét, biết mình hoàn toàn bất lực, không giúp được gì hữu hiệu người yêu trước tình huống bi thống ngoài tầm tay cô. Cũng như lão Sáu Thố, ông chỉ biết tắt lưỡi hít hà vô vọng. Trong khi đó đôi mắt Út Quyên tiếp tục nhắm híp, gương mặt hao gầy hốc hác, nhịp thở thoi thóp. Anh lấy hơi lên như cố sức bám lấy sự sống. Hẳn nhiên anh muốn sống, anh đang vận dụng sức tàn còn lại để níu lấy sự sống, mong đợi chờ một người. Những tưởng lực bất tòng tâm, sức không chiều lòng người trong tình thế chỉ mành treo chuông mà sao một phép lạ vừa đến với anh. Khi được nghe tiếng nói lao xao quen thuộc ngày nào của cô Chín, anh bắt đầu chớp chớp yếu ớt đôi mi xanh nhạt lạc thần. Tiếp sau đó, đôi mắt anh bắt đầu hé mở từ từ.


Lão Sáu Thố vui mừng ra mặt, một sự mừng vui ít khi thấy nơi lão. Lão hân hoan dợm nói… nhưng cô Chín khoát tay ra dấu bảo lão hãy giữ sự im lặng trong giây phút tế nhị nầy. Cô vội nắm lấy bàn tay Út Quyên để nhẹ nhàng lên ngực chàng, cùng lúc cố nhìn rõ đôi mắt lóng lánh và đôi môi từng chập mấp máy như cô muốn đoán biết xem ý chàng. Ông Trời rộng lượng dường như cũng chiều lòng người trước giờ lâm chung giã từ cõi tạm?

Đôi mắt đó không có gì thay đổi, vẫn đen huyền như xưa, nhưng lúc ấy không còn linh động để hớp hồn cô như ngày nào. Con ngươi giản nở rất to làm như anh đang nuối tiếc, tha thiết muốn tiếp nhận lần sau cùng ánh sáng lờ mờ muộn màng lúc cuối đời vậy. Thêm một chi tiết lạ lùng khi ấy là gương mặt xanh xao nhợt nhạt của con người sắp vĩnh viễn về cõi an lạc huyền bí lại nở một nụ cười hoan hỉ. Nụ cười mủm mỉm, vừa nhẹ nhàng thâm trầm ý nghĩa, vừa kín đáo bí hiểm. Có thể khi ấy anh đã nhận thấy rõ ràng sự hiện diện cứu tinh của cô Chín đến rất đúng lúc hay sao?


Cô Chín vội vàng nhít lần lần đến gần bên anh hơn, không chút dè dặt. Một cử chỉ rất tự nhiên thể hiện sự cảm thông chia xẻ sâu đậm nhằm an ủi vỗ về người sắp ra đi chăng? Liền sau đó, cô thận trọng nhẹ nhàng quỳ bên chiếc chỏng tre xiêu vẹo vì bị lão từ đình bỏ bê từ hai ba năm gần đây. Quang cảnh trong đình vẫn im lặng tuyệt đối, có thể nghe chẳng khó khăn tiếng đàn muỗi đói không ngớt bay vo ve đâu đó chung quanh hai người.

Cô Chín và Út Quyên thỉnh thoảng nói với nhau chỉ qua ánh mắt, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để họ hiểu nhau. Mà ở đời đâu phải chỉ có lời nói nơi đầu môi làm cho con người tâm đắc nhau. Trái lại sự im lặng qua ánh mắt có một sức mạnh vô biên, sức mạnh thôi miên vô bờ bến khiến tình cảm họ đồng chung một nhịp đập. Hơn nữa, một người khi đã yêu và yêu chân thật, dù trải qua phong ba bão tố không hề phân tâm thay đổi, nhứt là khi sự nghiệp của đối tượng không còn huy hoàng rực rỡ như xưa. Đó chính là trường hợp của Út Quyên hôm nay, ở giờ phút hệ trọng nầy và cũng là thái độ trước sau như nhứt của cô Chín nữa. Họ đã âm thầm nói lên cả một tấm lòng không ai có thể chê trách được.


Đến lúc nầy, lão Sáu Thố vẫn còn đứng đó, đứng im ngay sau lưng cô Chín. Lão đang chăm chú quan sát và chứng kiến cảnh tái hợp ly kỳ vô cùng cảm động lão chưa từng thấy nầy. Nhưng lão uể oải, bơ phờ mệt mỏi do sức khỏe lão lai của lão rầm rập xuống cấp rất mau. Lão không biết mình phải làm gì nơi đầu chỏng tre. Lão luống cuống xớ rớ mãi, nửa dợm bước ra ngoài, nửa muốn ở lại xem cô Chín có cần chi không.

Sau cùng lão có ý định nên lánh mặt nhằm tôn trọng phần riêng tư của hai người trong cuộc. Đã nói đến riêng tư thì cũng nên để cho cô Chín và Út Quyên giải quyết phần tư riêng của họ. Lão đã theo dõi, lòng man mác buồn theo dõi diễn tiến những giờ phút tái hợp thương tâm của cả hai trong bối cảnh mờ mờ ảo ảo, do gian phòng lúc ấy thiếu hẳn ánh sáng. Dù không nắm rõ được ẩn tình của người trong cuộc nhưng đứng trước phút lâm li cuối cùng của một đời người và chứng kiến sự quyến luyến nấn níu của cô Chín, lão không sao cầm được những giọt nước mắt cảm thông.



Nhưng cô Chín day qua nhè nhẹ khoát tay ra dấu yêu cầu lão hãy để cho cô được một mình cạnh người sắp chết. Cô muốn được trọn tình trọn nghĩa với người yêu đầu đời. Nếu như trong đời có những lúc con người yếu mềm trốn chạy hoặc lẫn tránh, nhưng với cô trong hoàn cảnh nầy cô không thể vô tình vì lương tâm cô rực sáng hơn lúc nào hết. Lão tuy cao tuổi nhưng vẫn còn minh mẩn sáng suốt lắm. Lão hiểu ý ngay nên cẩn thận không dám gây một tiếng động nào, dù nho nhỏ. Sau đó lão gật gật đầu mấy cái tỏ ra vâng lời cô.

Lão vội nhón gót, lui bước từ từ, âm thầm hướng thẳng về phía bên ngoài. Trong lòng lão vẫn không nguôi thắc thỏm lo âu trước cảnh ly biệt chia lìa lão đoan chắc không sao tránh khỏi trong phút chốc tới đây. Vừa bước ra khỏi ngạch cửa phía sau đình, lão bỗng giựt thót mình vì quá đỗi ngạc nhiên khi thấy thầy Quang Trí đang đứng yên bất động ở đó từ hồi nào chẳng biết. Lão càng lo âu hơn lúc nào hết do dự đoán một việc chẳng lành, có thể là bão bùng sấm sét sẽ ập đến với cô Chín mà hậu quả không biết như thế nào? Lão càng bấn loạn, lýnh quýnh hơn.


Lão có mồm có miệng nhưng không sao nói nên lời khi trông thấy đôi mắt thầy Trí lườm lườm, đăm đăm soi mói như muốn tìm hiểu thực hư tận bên trong tăm tối của ngôi đình vắng lạnh. Kinh nghiệm trường đời khiến lão đâm ra đứng tim trong tình huống đặc biệt nầy. Lão hồi hộp lo sợ cho người sắp chết đã đành và cả cho người sống nữa. Nhưng thực tình lão lo cho cô Chín nhiều hơn lo cho Út Quyên. Vì lão nghĩ chơn quê và đơn giản là người chết coi như dứt nợ trần. Chẳng còn gì phải lo cả. Mất còn, hơn thua chẳng nghĩa lý gì nữa. Hơn nữa, lão cũng nghĩ thêm là những người đang hấp hối chắc sẽ không nuối tiếc, chẳng buồn nấn níu những gì trên thế gian.

Họ chẳng màn bất cứ chuyện chi sẽ đến với họ. Cũng có thể khi ôn lại cuộc sống của chính mình bấy nay, lão nhận thấy rằng sống những ngày sắp tới, sống với tương lai, sống trong ước mơ, người ta thường tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Lý do là một khi tìm kiếm chinh phục niềm vui lúc nào cũng hơn khi phải triền miên than van thân phận về một nỗi buồn khó khuây. Nhưng nếu nhìn về đoạn đường đã qua, nhìn về quá khứ, người ta chỉ thấy toàn những đau khổ và thất bại mà thôi. Lão chẳng thường nghe nói chết là hết hay sao?



Thầy Trí liếc nhìn lão Sáu Thố rồi nhìn thẳng không rời cánh cửa sau đình làng đang hé mở, lúc lão bước ra vô tình không để ý khép lại. Phần lão, lão cũng không dám nhìn thầy thêm một lần nào nữa, dù là một thoáng ở khoé mắt. Nơi cửa nầy vợ thầy cũng vừa mới bước vào trước đó không lâu để biến dạng mất hút tận trong bóng tối. Mà bóng tối đối với thầy đồng lõa với tội ác lỗi lầm. Bóng tối đó thầy muốn khám phá bằng mọi giá. Cùng lúc đó tai lão Sáu Thố nghe tiếng nói của thầy Trí, tuy không lớn lắm nhưng âm hưởng cũng vừa đủ đưa lão vào trạng thái hoảng hồn hoảng vía:


- Lão cứ đi đi.

Thầy lên giọng dứt khoát:

- Đi ra ngoài mau lên. Cứ để tôi ở lại đây trông nom thay thế cho, một khi vợ tôi cần đến. Lão an tâm không có gì đâu để lão phải chần chờ lo lắng cả.


Lão Sáu Thố vốn là người mộc mạc hiền từ qua hình ảnh của một nông dân bám đất bám làng chí thú làm ăn lương thiện, không ham muốn, không ganh tỵ đua đòi, không cà kê lắm chuyện, xấu không giấu giếm che đậy mà tốt vẫn không phô trương khoe khoang. Chắc cũng nhờ lối sống trong sạch thức thời giữa thiên nhiên đất trời nên lão có tuổi thọ nhiều người ao ước. Lúc đó lão không chút phản ứng. Lão chỉ biết cúi đầu vâng lời, lặng lẽ bước ra phía sân đình, lòng vẫn lo sợ một việc gì đó sẽ xảy đến mà khổ nỗi lão không đủ trí thông minh và sức tưởng tượng để hình dung trước được.

 Lão đã khuất dạng sau hàng rào bông bụp dầy mịt và một liếp chuối già lùn tịt chính lão đích thân trồng chung quanh ngôi đình để có thêm chút ít huê lợi. Nơi đây tháng năm vẫn vắng vẻ u trầm, trừ những ngày lễ hội Kỳ Yên được tổ chức tưng bừng định kỳ hằng năm. Lúc nầy thầy Quang Trí chỉ còn lại một mình. Thầy bèn nhẹ nhàng bước lần lần tới phía trước rồi đứng tựa lưng vào một gốc cột trong bóng tối. Thầy giữ im lặng tuyệt đối. Thầy đứng đó, vẫn núp trong bóng tối đồng lõa, không xa cái chỏng tre nơi Út Quyên đang nằm hoi hóp cố gom góp sức tàn hơi muộn chống chỏi với tử thần. Thầy đang chú ý quan sát. Thầy đang tập trung theo dõi…


Và cô Chín vẫn không ngừng quan tâm trước bi cảnh chia ly, mất còn chỉ trong một chớp mắt của người tình xưa nên chẳng hề để ý đến những tiếng động dù nho nhỏ chung quanh cô. Cũng như sự hiện diện đâu đó của chồng mình mà cô không hề ngờ được. Thầy Trí thểu não lắng tai nghe từng tiếng động phát ra từ bên trong. Thầy cố tâm muốn biết rõ những gì đang xảy ra nơi thâm u vô cùng bí hiểm đó. Thầy mãi thắc thỏm không yên trong lòng, hy vọng sẽ phát hiện được những lời thú nhận của cả hai người đang đối diện nhau trong gang tấc, đang cận kề giữa sự chia ly sống chết, mất còn.

Thầy hy vọng muốn biết sự thật mà bấy nay thầy cam đành gánh lấy thất bại vì thầy đinh ninh rằng đến giờ phút cuối cùng trước khi cởi áo trả lại cho đời để đi vào cõi trường cửu vĩnh hằng, con người thường tịnh tâm tự mình ôn lại những đoạn đường mình từng trải qua với không biết bao nhiêu phong ba bão táp, hụp lặn nổi chìm. Họ có thói quen không giấu giếm sự thật. Họ sẽ nói lên tất cả những bí ẩn họ đã từng cố tâm che đậy trong cuộc sống trước đây. Họ sẽ sám hối và sẽ thú nhận mọi lỗi lầm mà họ từng chôn chặt trong sâu thẳm lòng mình. Qua đó, họ muốn sẽ được ra đi thanh thản, không vướng bận thêm bụi trần. Thầy cho đây quả đúng là giây phút sự thật, một sự thật duy nhứt mà thầy hằng trông chờ từ bao nhiêu năm qua. Thầy có chủ quan lắm không?! Hay thầy sẽ tiếp tục rước lấy thất bại não nề thêm một lần nữa, như trong suốt thời gian dài chung sống với vợ?


Cô Chín nhỏ nhẹ trút tâm tư tình cảm chất chứa từ lâu trong lòng mình cho người yêu xưa. Một tình cảm cô chưa một lần thố lộ cùng ai cả trong chuỗi dài quá khứ. Hôm nay và chỉ hôm nay thôi, trong bối cảnh tuyệt vọng của hai người, cô mới thầm thì thổ lộ cho Út Quyên biết một phép lạ nhiệm mầu đã đến với cô, khi cô hạ sanh bé Quang Nghĩa. Cô không hề tưởng tượng được nhưng lại là một sự thật. Sự thật hiển nhiên.

 Không biết sao bé Quang Nghĩa lại giống như in, giống như khuôn đúc anh Út Quyên thời thanh xuân trai trẻ. Dưới ánh sáng mờ ảo ma quái của ngọn đèn hột vịt nằm im lìm trên một kệ cây, khi mờ khi tỏ yếu ớt theo với nhịp những luồng gió mạnh thỉnh thoảng thoát qua từ nơi khe vách bổ kho chung quanh đình, thầy Trí nhìn rõ ràng, thấy tận tường cô Chín đang quỳ gối sát bên cạnh chỏng tre. Đôi mắt cô bộc bạch một sự ngưởng mộ và trìu mến hầu như thầy ít khi thấy ngoài đời. Ngay đối với thầy trong thời gian chung sống chồng vợ với nhau. Cô chăm chú và âu yếm nhìn thẳng gương mặt Út Quyền, gương mặt càng xanh xao không còn sức sống.


Út Quyên trông lạc thần, đầu vẫn còn mang một băng trắng thấm máu đã khô. Anh không còn cử động được, đôi lúc chỉ cục cựa khe khẽ vài ba đầu ngón tay. Nhưng anh vẫn còn tỉnh táo và hiểu biết trong chừng mực. Anh cố nhướng đôi mi, mở to tròng mắt thì thào:

- Làm sao có thể xảy ra như vậy? Bằng cách nào đứa con em mang trong bụng lại giống anh, như em vừa mới nói đó. Làm sao? Bằng cách nào?

Anh tiếp tục nói trong khó khăn:


- Bí mật! Thật khó hiểu quá. Chúng ta, anh và em, hai đứa mình không bao giờ và chẳng bao giờ phạm tội cả!

Anh khẽ lắc đầu:
- Chẳng bao giờ em à!

Anh lập lại:

- Chẳng bao giờ! Mình sống trong sạch và đạo đức mà! Đất trời chứng giám cho hai đứa chúng ta.


Đôi môi anh càng mấp máy nhẹ nhàng và giọng nói càng yếu dần. Anh thở khó khăn. Dường như anh đang thiêm thiếp. Dù vậy đôi tai anh vẫn nghe rõ những lời nức nở thầm thì phân trần của cô Chín:

- Anh à! Anh an tâm. Hãy nghe em giải thích, đừng nghĩ gì thêm ngay lúc nầy không nên. Em nói lên một sự thật, người bàng quan khó mà chấp nhận được. Nhưng đối với em, em tin chắc rằng tư tưởng và tinh thần rất quan trọng, nếu mình có được hai yếu tố đó, mình có thể làm được tất cả, đảo lộn tất cả. Em có nghe các bực chú bác trưởng thượng trong làng kể rất nhiều chuyện tương tự mà chính họ đã chứng kiến, nhưng là những sự việc theo em vốn nong cạn do em nghĩ là ít khi xảy ra trên thế gian lắm chuyện nầy. Nhưng cũng giống như mọi người, khi nghe qua, em nhập tâm.


Cô buông lời:

- Không dè...

Mắt cô lại sáng rực hẳn:

- Vì có những việc mình không cần phải suy nghĩ tìm hiểu, mà nếu có tìm hiểu suy nghĩ cũng chẳng đi đến đâu, chẳng giải quyết được gì. Mình chỉ chấp nhận như một niềm tin tuyệt đối anh à.

Cô thủ thỉ thêm:


- Những người có học thức cao rộng thường tỏ ra không tin. Họ bảo là chuyện hoang đường, không được chứng minh qua nhãn quan khoa học, nhưng trên thực tế họ cũng không thành công giải thích được gì cụ thể. Trái lại, với em những chuyện kể đó làm cho em càng thích thú. Tất cả đều có thể xảy ra, ngay những việc khó tin nhất trên đời nầy. Cũng có thể người giống người. Hay một sự trùng hợp lý thú, như bao nhiêu sự trùng hợp khác trong đời.


Đó chẳng qua là những lời tóm tắt gói trọn lòng tin của cô Chín. Lòng tin vào một chuyện khó tin. Cùng lúc đó, Út Quyên ra dấu rất bằng lòng mãn nguyện và từ giây phút ấy giữa hai người những lời qua lại không còn hữu ích và giá trị nào nữa. Dường như họ đang âm thầm muốn giữ cho bầu không khí thêm im lặng hơn và họ đưa mắt nhìn nhau với sự cảm thông và quyến luyến hiệp đồng. Sau cùng Út Quyền thều thào… Cô Chín vô cùng bối rối, khủng hoảng. Cô không còn nghe rõ lắm những lời thều thào đó, nhưng cô vẫn nắm bắt được nội dung chánh yếu của người yêu trăn trối:


- Mối tình đầu em đã trân quý dành riêng cho anh quá to lớn và vô cùng sâu đậm. Ở giờ phút ngắn ngủi cuối đời nầy anh xin xác nhận nó thiêng liêng tuyệt vời! Anh rất cám ơn em đã ắp ủ cho anh bấy nay, dù lắm trầm thống đắng cay, trái ngang không thành. Một cuộc tình dang dở, tan vỡ ngoài ý muốn chung của hai chúng ta. Thật đáng tiếc!



Út Quyên vẫn tiếp tục:

- Đáng tiếc nhất trong đời anh! Phải chi… nhưng thôi. Xin hãy cùng nhau dừng lại nơi đây. Hôm nay, trong giờ phút vĩnh biệt nầy, nó sẽ dìu dắt anh đi… Anh rất bằng lòng ra đi, đi trong thanh thản, đi trong toại nguyện. Anh không hề nuối tiếc gì cả.

Giọng anh càng xúc động:


- Anh ra đi… nhưng anh không biết anh sẽ đi về đâu, về nơi chốn nào… Thật bí hiểm quá! Nhưng cho dù về đâu, nơi chốn nào, anh vẫn mang theo anh hình ảnh tuyệt vời của em. Anh… anh… anh mong rằng một khi mọi đau khổ đã qua, em ở lại sớm tìm cuộc sống an bình và ý nghĩa hơn.


Cô Chín dường như cảm nhận được một kết thúc cận kề nên lật đật nắm tay chàng siết mạnh vào lòng mình. Cô như đang chờ đợi… Cô chẳng nghe thêm được những lời cuối cùng thoát ra từ đôi môi gần như lạnh ngắt màu chì của Út Quyên. Lại một sự im lặng tột cùng vây quanh bối cảnh chia ly tử biệt. Út Quyên đang đi vào giấc mê yên lành. Giấc mê chàng không sao tránh khỏi nhưng lòng chàng rất mãn nguyện, cam tâm. Chàng chỉ còn nhút nhít đôi chút như một phản ứng hoi hóp cuối cùng?


Khi cô Chín nhanh nhẹn cúi sát xuống chỏng tre để nghe hơi thở của người tình xưa rồi áp tai mình vào ngực chàng để nghe tim chàng còn đập hay không. Nhưng tiếp đó cô phát hiện không khó khăn là chàng không còn thở nữa. Nhịp tim đã ngừng hẳn. Chàng đã thực sự ra đi! Ra đi êm thắm! Ra đi nghìn thu biền biệt! Ra đi vĩnh viễn…! Cô bắt đầu đứng phóc lên, đôi mắt không rời người tình thuở đầu đời nhưng không hề hốt hoảng. Cô cũng chẳng lo sợ, chẳng nuối tiếc về sự chia ly vĩnh biệt, chấm dứt cuộc tình quá ư éo le ngang trái của mình. Cô vốn là người được biết dư thừa can đảm cùng chịu đựng và trong hoàn cảnh nầy sự chịu đựng và lòng can đảm nơi cô càng thể hiện đậm nét. Vì cô đã đau khổ quá nhiều ngay từ những năm tháng dài khi chàng còn sống. Dù vậy, hôm nay cô không khóc do nước mắt cô đã cạn dòng.


Cô đau khổ tận cùng rồi nên nếu đem so sánh với cái đau khổ hôm nay không sao so sánh được. Bây giờ, cô rất bằng lòng và mãn nguyện. Bằng lòng vì cô đã có thời gian đến đúng lúc để nói lên những gì ẩn giấu trong lòng. Mãn nguyện vì cô thấp thỏm chàng không có dịp thấu hiểu nỗi lòng của cô. Nhưng nay chàng đã hiểu và thanh thản ra đi. Tình yêu và cuộc sống thật sự của chàng chẳng phải là cuộc sống và tình yêu chàng chưa hề được hưởng?! Đối với sự hiểu biết mộc mạc quê mùa của cô Chín, vấn đề tâm linh tinh thần vô cùng mạnh mẽ và quyết định hơn phần xác thịt tầm thường của phàm nhân tục tử trên cõi đời lắm nghiệp chướng. Chính cô không lấy gì làm lạ về bằng cớ cụ thể mà cô là một chứng nhân. Cô rất tự tin và tin tưởng tuyệt đối vào phép lạ cô thừa hưởng nơi Thượng Đế uy quyền.


Cô ở lại với anh Út Quyên, với xác phàm của người yêu mãi cho đến hừng đông sáng. Lúc đó cô mới bước tréo qua nhà lão từ đình Sáu Thố để nhờ hai ông bà phụ giúp cô lo hoàn tất phần chung sự cho Út Quyên. Cô quyết định sẽ hỏa táng theo lời trăn trối của chàng và đem tro rải trên cánh đồng trước mặt đình làng, nơi chôn nhao cắt rún của chàng, nơi chàng gắn bó dấu yêu cả một đời. Cát bụi chung cuộc rồi cũng trở về với cát bụi. Nhưng ngay khi vừa lúc bước ra khỏi ngạch cửa phía sau đình để qua nhà lão Sáu Thố, cô Chín quá đỗi ngạc nhiên khi đối đầu với thầy Quang Trí đang ngồi im bất động trên một bệ cây kê sát vách đình. Cô không biết thầy ngồi nơi đây từ lúc nào.



Cô bật hỏi:

- Ủa sao lại có anh ở đây?

Chưa kịp nghe thầy Trí trả lời, cô liền hỏi tiếp:

- Anh đến đây từ lúc nào? Sao quá sớm như vậy? Các con ở nhà vẫn bình thường? Hay có việc gì không anh? Sự hiện diện của anh làm cho em lo quá, không an tâm chút nào!

Thầy Trí vẫn ngồi im bất động, không buồn để ý đến những câu hỏi của cô Chín. Lúc đó đầu thầy gụt xuống trong tư thế chán chường dường như thầy cố tình tránh né, không muốn nhìn cô Chín hay sao? Đôi tay thầy ôm chặt lấy đầu mình. Mặt mày thầy thểu não do xúc động mà chắc cũng do thức trắng cả đêm dài. Chỉ một thoáng ngắn ngủi tiếp theo, thầy mới định thần rồi vụt đứng lên khi nghe tiếng động nhè nhẹ của đôi chân cô Chín phía sau lưng mình và hồi nhớ những câu hỏi dồn dập của cô. Thầy bỗng ngoái về phía sau và nhìn cô với đôi mắt buồn bã, khổ sở thống thiết lắm. Thầy thốt lên ngay:


- Chín em! Em hãy rộng rãi và vui lòng tha thứ cho anh.

Câu nói lạ kỳ của thầy làm cho cô quá đổi ngạc nhiên. Cô sửng sốt chưa tìm ra nguyên do nào khiến chồng cô buông lời như vậy. Nhưng thầy Trí vội tiến đến gần bên và choàng vai cô nói thêm những lời hối hận:


- Em hãy tha thứ cho anh, hãy mở lòng rộng lượng tha thứ cho anh một lần. Và chắc đây cũng là lần cuối cùng trong đời anh em à! Anh đã sai, thật sự sai rồi, khi bấy nay từng nghĩ quấy về em. Bấy nay anh cố tâm tạo dựng những điều vô lý làm cho em đau khổ quá nhiều.


Thầy khe khẽ lắc đầu:

- Một người u mê bít bôi mang trong lòng nào là nghi kỵ nào là hận thù lại chính là người biết sự thật sau cùng! Đó đích thực con người anh hôm nay. Anh đã nghe hết và biết tất cả. Anh không còn xứng đáng nữa. Nỗi nhục của anh không sông nước nào có thể rữa sạch được. Anh van xin em.


Quá đỗi ngạc nhiên về những lời khẩn cầu chân thành và nhứt là thái độ hối hận của chồng, cô chỉ nhìn chàng nhưng tuyệt nhiên không nói lời nào. Cô tỏ ra cảm thông một người biết hối hận. Mà có nói gì lúc nầy cũng vô ích. Sự im lặng của cô nói lên tất cả. Và sau đó cả hai nắm tay nhau cùng đi ra phía ngoài, trong khi bình minh mang đến cảnh vật những ánh hồng chói chang của mặt trời sớm mai báo một ngày mới đầy hy vọng. Cả hai không trao đổi một lời nào nữa, nhứt là những gì vừa xảy ra trong đêm tối.


**


Cảnh tình nhức nhối vừa kể đối với ba nhân vật đáng thương hơn đáng ghét trong cuộc: thầy Quang Trí, anh Út Quyên và cô Chín Thú là vực sâu thăm thẳm của một mụn tình đầy trái ngang dang dở mà cũng là một hiện tượng huyền bí đã dầy vò dằn xé, xô đẩy tâm hồn họ trong khổ đau triền miên, chẳng bao giờ xóa lấp được. Trừ ở phút cuối cùng Thượng Đế đã tế nhị và ưu ái dành cho họ. Nhưng riêng sự huyền bí không cách nào giải thích tận tường đó đã từng vùi dập đẩy đưa thầy Quang Trí sa ngã lún dần trong cái hố trống không rùng rợn, nơi thầy quá chủ quan tin tưởng tuyệt đối vào niềm tin vững chắc nhưng vô căn cứ nơi thầy.


Nhưng nay sự nghi ngờ từng trổi dậy mãnh liệt từ hố sâu ấy bỗng nhiên tan biến phần nào khi đã lóa trong thầy ít nhiều sự thật. Sự thật thầy vừa khám phá trong một đêm thức trắng nơi đình làng. Từ ngày đó trở về sau, mãi cho đến khi thầy nhắm mắt xuôi tay trở về nước Phật, thầy luôn luôn không quên đặt mình trước những vấn nạn, những câu hỏi ở lãnh vực tâm linh tinh thần, ở lãnh vực tôn giáo… mà thầy không sao giải thích ổn thỏa. Thầy trở thành một con người trầm tư nghiêm nghị, buồn bã rũ rượi vì bị ám ảnh thường xuyên về những hoài nghi trước đây không ngớt quấy phá tác hại thầy một thời gian dài, chí đến phút cuối đời.



Nhưng có một điều hiển nhiên đáng được ghi nhận đậm nét và long trọng đề cao nơi đây là thầy Quang Trí đã hoàn toàn thay đổi hẳn thái độ trong việc cư xử đối đãi với cô Chín. Lần nầy thầy rất thành thật, không ai có thể chê trách được. Thầy tỏ ra dịu dàng, âu yếm, thương yêu cô hơn lúc nào hết. Sự hờn ghen ganh tỵ và giận dữ đôi khi đến mức vũ phu thô bạo không còn ngự trị nơi thầy nữa. Thầy đã chôn chặt vĩnh viễn nó trong quá khứ, trong quên lãng. Thầy không còn xem cô Chín như một người đàn bà mang trong mình nhiều mầm mống tội lỗi, người đàn bà lăn loàn mất nết, lộn nài bẽ ống, người đàn bà không tuyệt đối trung thành với chồng mình.


Mùa xuân mấy năm sau, thầy Quang Trí qua đời vì bị bịnh sưng phổi dây dưa lâu ngày do lơ đễnh hững hờ, không quan tâm chăm lo chữa trị thuốc men đúng mức. Và chắc có thể cũng do nội tâm bị khủng hoảng trầm trọng, bị dằn xé câu thúc từng chập những khi thầy vẫn hồi nhớ chuỗi ngày bão táp phong ba, ngụp lặn nổi chìm trong đời chăng? Những phong ba bão tố do chính thầy cố tình gây ra. Những ngày khó khăn cuối đời của thầy, cô Chín vẫn quanh quẩn túc trực trong nhà, không rời một phút một giây bên người chồng bất hạnh đáng cảm thông hơn là phiền trách. Cô quan tâm chăm lo săn sóc thầy đúng mức với tất cả sự quyến luyến thương yêu của một người vợ gương mẫu ngoan hiền. Một lần cô được thầy ngoắc lại gần bên để nghe thầy tâm sự:


- Chín! Em Chín! Em vui lòng ngồi đây, ngồi bên cạnh anh, sát bên anh để nghe anh nói đôi lời với tất cả lòng thành. Em xem đây như chút tình trăn trối lúc cuối đời của anh. Em quả thật là người vợ tuyệt vời, người vợ hiếm hoi trên cõi đời nầy, một tâm hồn trong sáng thánh thiện hơn anh gấp bội. Anh từng đứng trước đông đảo đạo hữu để thuyết giảng và anh nghiêm chỉnh thuyết giảng trọn một đời về những đức tánh tinh anh của Đức Phật. Những lúc đó, nhìn xuống cử tọa, anh thấy em ngồi im lặng chăm chú lắng tai nghe những lời của Đức Phật qua cửa miệng truyền rao của anh. Anh cám ơn em! Cám ơn em nhiều lắm!


Cô Chín vội vàng ngắt lời thầy, ý như cô muốn đính chánh một việc quan trọng. Cô đáp ngay:

- Không! Không đâu! Không phải như vậy đâu anh! Em xin phân trần cặn kẽ, nhưng em nói ra anh đừng buồn em mà trái lại anh nên thêm thương em nhé. Quả thật những lúc quan trọng đó, em có lắng tai nghe anh thuyết pháp, nhưng thực sự em nghe để mà nghe. Thế thôi. Thực tình, em chỉ nghe duy nhứt tiếng nói trong sâu lắng của con tim em.


Thầy Trí không giận không hờn, trái lại vui tươi, tỏ ra tâm đắc:

- Ắt hẳn lời nói của Phật cũng xuất phát từ quả tim của Người?!

Thầy Quang Trí không nói tiếp một lời nào nữa. Thầy đang chiến đấu với hơi thở khó khăn của mình, đôi tay yếu ớt lạnh tanh không giúp thầy cử động được. Thầy đang chiến đấu độc hành với tử thần.


Thầy cố gắng tỏ ý muốn hiểu thêm về một vài cái ý quá phức tạp vừa chợt đến với thầy về hiện tượng quá ly kỳ mà cô Chín đã trình bày dạo nào. Nhưng thì giờ lúc nầy không cho phép thầy. Đối với thầy đã quá muộn! Thầy cũng đang hồi nhớ quảng đời vừa qua của mình, nhứt là mối tình giữa thầy và cô Chín vốn thăng trầm sóng gió, lắm trái ngang éo le chung quanh một cuộc hôn nhân đầy diễn biến nghịch cảnh vì không được xây dựng trên tình yêu chân thực, xuất phát tự đáy lòng của mỗi người. Nhưng sau cùng thầy nói trong hơi thở hổn hểnh khó khăn ngắt khoản:


- Anh không hiểu được…

Chỉ một thoáng ngắn ngủi sau đó thầy chua chát chán nản nói tiếp:

- Cuối cùng rồi anh cũng chẳng hiểu gì thêm cả…

Đó là lời nói cuối cùng của thầy trên cõi tạm thế gian. Ngày tang lễ của thầy được gói ghém trong vòng thân tình, trong phạm vi nhỏ hẹp của gia đình. Dù vậy có một số người trong làng nhớ đến công khó bấy nay của thầy đều ăn mặc chỉnh tề với một màu đen tang khó lặng lẽ đi sau quan tài, miệng lâm râm khấn vái «Nam mô A di Đà Phật! Nam mô…». Sự dầy vò dằn xé về những ẩn ức hoài nghi liên tục của thầy Quang Trí trước khi thầy trả lại xác phàm cho thế gian, chỉ có duy nhứt một người biết rõ hơn ai khác.


Đó là người đàn bà trong cuộc, người đàn bà yếu đuối cô đơn từng bị thầy nghi kỵ oán hận, miệt thị rẻ khinh, cố tình dùng lời lẽ thô bạo nhằm hủy hoại phần tinh thần và tình cảm thiêng liêng của bà qua bao nhiêu thập niên kế tiếp. Đó là bà Chín Thú. Chỉ vì một số lỗi lầm bà không hề phạm vào. Bà vô tội. Bà đã bị hàm oan. Nhưng bà âm thầm can đảm chịu đựng. Những giọt nước mắt thương yêu chảy dài theo đôi má bà lúc hạ huyệt để thầy Trí bình yên nơi vùng miên viễn, khiến cho một vài người đưa tiễn cứ ngỡ là bà khóc thương chồng. Bà khóc thương thầy Quang Trí, nay kẻ mất người còn, kẻ âm cảnh người dương gian ngăn cách nên bà đã ăn năn hối hận vì đã từng dối gạt đức phu quân trước đây. Sự thực không phải như vậy. Họ không hiểu được nỗi lòng của bà. Bà không phải là người đàn bà tầm thường.


Nhưng đến đây, bà nói với tôi trong đôi mắt ngấn lệ. Vì cuối cùng bà hiểu rõ hơn ai hết về sự nông nổi của chồng. Bà chậm rãi kết luận:

- Một khi tôi đã hiểu chồng tôi, đã hiểu mọi sự việc từng xảy ra trong đời tôi, tất nhiên tôi đã tha thứ cho người. Vả lại, theo tôi được biết, trên cõi đời nầy nếu có một việc không thể tha thứ được là chính mình không biết thứ tha. Mình quá hẹp hòi.


Người đời thường hay nói không sai, tai họa không hề đến một lần bao giờ. Năm tang chế đó chưa kết thúc, bà lại trải qua một niềm đau khác, đay nghiến gậm nhấm bà mãi cho đến cuối đời. Bé Quang Nghĩa bất thình lình nhuốm bịnh, thuốc than tưởng đâu qua loa rồi sẽ chóng hết, không ngờ cũng qua đời ít lâu sau. Nó chẳng may quá vắng số trong lúc tuổi còn quá nhỏ, ngây thơ khờ dại. Bà thất thần ngã quị thêm một lần nữa trong đau khổ. Tiếp theo bà kể lể nỗi niềm bất hạnh đeo đuổi mãi không buông tha bà khiến tôi càng xúc động hơn:


- Tôi như điên như dại khi nó vĩnh viễn rời khỏi vòng tay bảo bọc dưỡng nuôi của tôi. Ngày đêm tôi thương nhớ nó. Tôi đã mất đi một điểm tựa để nhớ để thương. Tôi đã mất hẳn niềm tin ở một cuộc tình.

Bà cố gắng nói tiếp:

- Lúc nầy tôi không còn ở nơi chùa thầy Chánh mà dọn về sinh sống nơi nhà cha mẹ ruột của tôi. Ngôi nhà từ đường cả mấy thế hệ tiếp nối sống chung nhau, tuy không to lớn lắm nhưng cũng đủ cho gia đình chúng tôi nương náu khi gió mưa lúc nắng cháy. Hai ông bà cha mẹ tôi cũng đã ra người thiên cổ cách năm ba năm trước khi tôi trở về. Nhưng dù sao tôi mong tìm được một nơi an bình trong tâm hồn để tạm thời lánh thân. Tôi hy vọng như thế để qua tháng ngày. Vì chính là nơi tôi đã sống những ngày thơ ấu êm đềm thật hạnh phúc bên những người không dư giả, năm năm bằng lòng với định mệnh và thân phận hẩm hiu của mình. Tôi hy vọng như vậy nhưng hy vọng là một chuyện còn thực tế lại là một chuyện khác.



Mắt bà bỗng dưng hoen tròng:

- Thật sự tôi là người mất thần, cơm nước không màng đến, đêm đêm chẳng sao ngủ yên giấc, dù tôi cố gắng khắc phục bản thân. Tôi cũng không còn khóc được nữa như ngày xưa, do nước mắt tôi hầu như đã cạn. Ngày ngày tôi luôn than thân trách phận mình. Tôi khẩn cầu khấn nguyện Phật Trời, những người khuất mày khuất mặt cho tôi được mau mau theo chân thằng Quang Nghĩa. Theo chân anh Út Quyên và cả thầy Quang Trí nữa. Càng sớm càng tốt, chớ nếu kéo dài càng làm khổ thêm cho tôi không ích gì.


Bà tắt lưỡi thở dài:

- Tôi muốn trả lại đời những gì tôi đã vay mượn, tôi đã nợ nần ngay từ khi mới cất tiếng chào đời để tịnh tâm chuẩn bị đi vào cõi trường cửu vĩnh hằng. Tôi không còn thấy một chút ánh sáng nào lóa trong cuộc sống của tôi. Tôi thú thật không xấu hổ chi cả, một khi tôi đã chân thành xác nhận đã mất đi hẳn tiếng nói giọng cười với âm hưởng lôi cuốn quyến rủ ngày nào của anh Út qua hình hài son trẻ và tâm hồn trong trắng tinh anh của bé Quang Nghĩa.


Ngừng ít giây, bà nói tiếp:

- Nhiều lúc bà con lối xóm cám cảnh tuyệt vọng của tôi mang đến biếu xén tôi bao nhiêu thức ăn và bánh trái dân dã nơi thôn quê để giúp tôi thay đổi bữa. Hoặc họ mang con cháu đến quây quần đùa giỡn, chạy nhảy bên tôi mong tôi khuây khoả tìm lại niềm vui đã mất. Nhưng rốt cuộc đâu cũng vào đó, không sao thay đổi được gì nơi tôi.


Bà ngập ngừng:

- Tôi muốn chết như tôi đã nói vì không còn tha thiết sống nữa, nếu không có cái ngày tốt trời họ tụ tập năm ba người đứng tuổi qua nhà rủ tôi cùng họ đi chợ lúc tưng bửng sáng. Cái chợ chòm hỏm trong làng hẻo lánh le hoe ít chục người là cùng mà họ coi như đông đảo lắm, nhưng chỉ nhốm mỗi tháng một lần. Cũng lạ, nó được duy trì liên tục từ ngày tôi còn bé bỏng thúc thít đòi mẹ ẳm bồng trên tay.


Đến đây, bà bắt đầu đổi giọng có phần lạc quan hơn:

- Đó là một ngày chớm xuân, bông hoa trong vườn bắt đầu đua nhau nở rộ giữa tiết trời ấm áp mát mẻ. Chung quanh tôi, cánh đồng làng trăm năm ngàn năm ôm ấp những chòm cây cao lớn sum xuê rải rác đó đây, những con đường đất lầy lội lún phún cỏ chỉ cỏ mai dẫn thẳng vào xóm… tất cả vẫn còn y nguyên đó, thanh vắng và xinh đẹp như thuở nào. Cũng những cảnh náo nhiệt thân quen trên đồng không mông quạnh với lớp người áo vải một màu thâm thâm đen sẫm, đầu trần chân đất quanh năm thách thức thời tiết, vẫn giang nắng đội mưa nhởn nhơ dưới mắt tôi. Bất giác tôi nghĩ rằng mọi người trong chúng ta đều là những cái bóng chợt đến chợt mất trên bối cảnh đó của làng tôi, không để lại dấu vết hay một chút âm vang nào.


Đến đây, tôi nhớ rõ hình ảnh khó phai đó mà bà Chín Thú đã nhắc nhớ với tấm lòng hoài cảm, vừa thật thà vừa trân quý. Chúng tôi hãy còn đắm mình trong ánh sáng dịu hiền của buổi trưa hôm ấy trong khi sóng lúa chung quanh chúng tôi không ngớt rung chuyển nhẹ nhàng càng làm cho thiên nhiên thêm khởi sắc. Nhờ vào đó tôi mới mạnh dạng mở lời nói với bà khi ngước nhìn gương mặt nhăn nheo xếp nếp nhưng cực kỳ bình tỉnh của bà:


- Phải mà! Chắc tôi đoán không sai về bối cảnh nên thơ trước mắt chúng ta khiến bà bỗng vui sống trở lại?

Bà khe khẽ gật đầu tỏ vẻ biểu đồng tình. Nhưng không hiểu sao chỉ một đôi phút ngắn ngủi trôi qua bà lại thay đổi hẳn thái độ. Bà cười gượng:


- Tôi không nghĩ rằng tôi đang bắt đầu thích sống và yêu đời trở lại như anh vừa suy đoán đâu. Tuy nhiên, khi nhìn cảnh vật thiên nhiên đầy màu sắc rực rỡ gọi mời và hoạt cảnh sống động đang hiện ra trước mắt, trong tôi bỗng cảm thấy không còn gì có ý nghĩa để đợi chờ giây phút cuối cùng của đời mình. Tôi ngậm ngùi mơ ước sớm cởi áo trả lại cho cuộc sống phù du, cho cuộc đời nên hư thương ghét nổi chìm để tìm về nơi chốn luân hồi thảnh thơi an lạc.


Lời phát biểu đó của bà làm cho tôi rùng mình. Cái tuổi quá xa tám mươi của bà, tôi xem như quá thọ, quá đầy đủ cho một đời người. Nhưng tôi lại thay đổi cái nhìn và ý nghĩ của mình ngay lúc đó. Giọng nói thật thà chơn chất rặt người đồng quê ruộng rẫy làm ăn lam lũ đánh tan không khí im lặng giữa bà và tôi:


- Thằng Quang Hòa, đứa con trai thứ của tôi với thầy Quang Trí lâu nay về ở chung với tôi, hủ hỉ mẹ con có nhau, đỡ đần săn sóc những lúc hữu sự trong ngôi nhà từ đường khó nghèo, dù trải qua mấy thế hệ tiếp nối vẫn không thay đổi mảy may như tôi đã từng tâm sự với anh trước đây. Nó đã lập gia đình và có đến bốn đứa con trai gái đầy đủ cứ nheo nhóc rậm ra rậm rật tối ngày, dường như nhờ đó giúp tôi qua ngày tháng cứ âm thầm đến với tôi chầm chậm. Và cũng nhờ không khí vui nhộn không ngớt suốt tháng suốt năm, gia đình chúng nó muốn giúp tôi quên đi phần nào thằng Quang Nghĩa và cả những người thân yêu của tôi không còn nữa. Tuy vậy càng lớn tuổi, sống với quá khứ, tôi càng cô đơn xa lạ vì con cháu mới tấn lên thường hững hờ do không được gần gũi và thấu hiểu tâm sự mình. Dù cho thế nào đi nữa, chúng nó cũng không làm cho tôi nguôi ngoai, nếu có, chỉ là tạm bợ trong phút giây thoáng qua…


Bà ngưng một đỗi rồi nói tiếp:

- Bây giờ mấy đứa kế, chúng nó cũng đã nên vợ nên chồng đàng hoàng cả rồi, tuy không rình rang nhưng vẫn giữ nề nếp cũ xưa của ông cha để lại. Và đến lượt chúng nó cũng có con cái đầy đàn lủ khủ đến đỗi tôi không còn trí nhớ để nhớ hết tên từng đứa. Tất cả đều có nước da trắng trẻo ẻo lả và đôi mắt xam xám, đầu lại có óc o, nếu thầy Quang Trí còn sống chắc thầy vui mừng bằng lòng lắm. Vì không có một đứa nào có đôi mắt đen huyền thông minh thiên phú nhưng lì lọm và nước da sạm nắng thâm đen giống như thằng Quang Nghĩa ngày trước. Tức giống anh Út Quyên. Thấy chúng nó đùa vui chạy giỡn, tôi cũng thường hay quan tâm giúp đỡ chúng trong muôn một, khi thời giờ và sức khoẻ cho phép. Tôi đã quá già rồi…


Bà cũng hay ngồi trầm ngâm hằng giờ nơi cửa cái thềm nhà nhìn say sưa đắm đuối bóng cây cứ kéo dài theo ánh sáng mặt trời chiều để biến hẳn khỏi tầm mắt bà. Bà than thở:

- Tôi ngồi đây suốt ngày nầy qua ngày nọ để nhìn về dĩ vãng, để nhớ nhung quá khứ. Còn đâu dấu vết của anh Út Quyên, của thầy Quang Trí và của bé Quang Nghĩa. Cả ba đã đi quá xa rồi, đi không bao giờ trở lại. Cũng như những cái bóng thoáng qua nơi chòm cây ngay phía trước mặt tôi.


**



Bà Chín Thú chung cuộc cũng ra đi. Bà không thoát khỏi định luật sinh diệt, có sinh có tử, có sống có chết trong kiếp người. Hôm tuần lễ cuối tháng chạp, tôi trở về viếng ngôi làng của bà, chân dẫm đạp lên những con đường ngoằn ngoèo uốn éo thuở thơ ấu bà từng đi qua trên cánh đồng năm nào. Tôi lần theo lối cũ đường xưa đến tận ngôi nhà nơi bà thường ngồi hằng giờ nơi thềm để ngắm nhìn về phía xa xôi tận chân trời cho đến lúc hoàng hôn hấp hối, cảnh vật trở nên u trầm đen tối. Tất cả đều không thay đổi. Cánh đồng lúa vẫn rung động rùng mình theo từng cơn gió thoảng.

Chỉ có một khác biệt là cánh đồng xanh mởn ngày mùa hôm nay trở thành vàng mơ thơm thơm mùi lúa chín. Đình làng vẫn trơ trọi vắng hoe do bị bỏ phế sa sút. Một mái nơi hậu đình trên đà gần sập. Chỉ vì vợ chồng ông từ đình Sáu Thố không còn nữa để tu bổ và chăm lo phần nhang khói những khi đêm về. Ngôi chùa thầy Chánh vốn cổ kín rêu phong ngay từ ngày thầy Quang Chánh còn tại thế, hôm nay càng rêu phong âm ỉ hơn, nhưng một thời là nơi nương tựa của bà Chín với những đau khổ nhọc nhằn bà cưu mang trong âm thầm. Bây giờ ngôi chùa vẫn vang vang chuông mỏ và lời kinh chiều.


Tôi tiến lần vào vuông vườn nhà bà Chín, nơi bà thường tiếp tôi tâm sự trong ngấn lệ. Nơi đây tôi làm cho lủ trẻ, chắc hẳn là cháu chắt bà đang chơi giỡn ngoài sân sững sốt ngạc nhiên khi trông thấy người khách lạ. Những đứa trẻ đó làm cho tôi nhớ lại và sống với tuổi trẻ của mình. Tôi gọi chúng nó nhưng chúng nó nhìn tôi với sự ngỡ ngàng nên thơ, phảng phất một chút hiền hòa và sợ hãi vô căn cớ. Chỉ trong nháy mắt, chúng nó tua tủa ra tứ phía rồi biến dạng, cố tình trốn lánh người khách lạ là tôi. Tôi ngập ngừng quay lưng bước đi về phía chân trời xa, bóng cây hãy còn đeo đuổi trước mắt tôi và sau cùng xóa hẳn những dấu vết dưới chân tôi. Tôi bỗng nhớ lời của những bực trưởng thượng trong làng tôi thường hay nói và chính cha tôi lúc sinh thời cũng không quên nhắc nhở anh em chúng tôi:


«Đời người thực sự chẳng nghĩa lý gì, nó như cái bóng chóng qua không để lại một dấu vết. Những cuộc tình chung cuộc cũng chẳng hơn».

No comments:

Post a Comment