Wednesday, February 21, 2018
HOÀNG LONG HẢI TUỆ CHƯƠNG * NGƯỜI VỀ
NGƯỜI VỀ…
HOÀNG LONG HẢI TUỆ CHƯƠNG *
Mẹ có hay chăng con về,
Chiều nay thời gian đứng im để nghe…”
Người Về/ Phạm Duy
&
Trước 1975, Võ Phước Thọ, thiếu úy Cảnh Sát Quốc Gia, ngành Đặc Biệt, phục vụ ở Kontum. Theo lệnh Tổng Thống, anh theo đơn vị di tản về Pleiku, và thoát chết mấy lần trên Quốc Lộ 7.
Tôi không rõ vợ con Thọ như thế nào, ngoài một lần, Thọ rút ví cho tôi xem một bức hình một cô gái còn trẻ lắm, khá đẹp, nói: “Vợ em!” Thọ không nó gì thêm, nên tôi không rõ, vợ Thọ hiện ở hải ngoại, hay qua đời; còn như ở Saigon thì không, vì Thọ không được ai thăm nuôi, kể từ khi Thọ vào tù. Thọ kém tôi khoảng mười tuổi.
Khi ở “Trại Đá”, gặp luật sư Trần Danh San, Thọ rất ngưỡng mộ ông luật sư nầy, tích cực tham gia “Hội Nhân Quyền VN” của ông San, và được ông San cử giữ chức “an ninh” nội bộ, mục đích là theo dõi mấy tên “ăng-ten” sợ chúng theo dõi công việc của “Hội” và lén lút báo cáo cho Công An. Cũng may, chưa thấy ông San bị ai báo cáo gì. Công An có theo dõi ông, cũng vì những hoạt động của ông từ ngày ông bị bắt ở bùng binh trước Nhà Thờ Đức Bà Saigon.
Một người “tù già”, cùng trại tù với tôi, hơn tôi cỡ năm bảy tuổi gì đó, thương Thọ. Sau khi cả hai người ra tù, ông “tù già” gã con gái cho ông “tù trẻ” – trẻ là nói theo nghĩa tương đối – Anh em bạn tù nói với nhau là Thọ mới cưới vợ, nhưng không ai được mời “ăn đám cưới” cả.
Thọ thì nghèo đã đành, mà gia đình ông “tù già” có lẽ cũng không khá hơn. Thọ đã lớn tuổi – mười năm tù không những lớn tuổi mà già hẳn đi. Cô con gái con ông “tù già”, vì gia biến, chắc cũng lỡ thời. Có lẽ vì vậy mà họ làm đám cưới đơn giản cho nó xong, đáng thương hơn cả cô gái trong “Mầu tím Hoa Sim” của Hữu Loan nữa: “Nàng không đòi may áo cưới”. Thời Việt Cộng “ngăn sông cấm chợ”, may cái áo cuới đã không dễ gì, huống chi đám tiệc, nên các bạn tù cũ không ai được mời “ăn đám cưới” cũng dễ hiểu thôi!
Tưởng cưới vợ cho nó xong, bớt “lông bông”, có nơi ăn nơi ở, có người để yêu thương, đầm ấm, ai ngờ số phận Thọ đau đớn đến như vậy. Lấy nhau chưa được bao ngày thì Thọ ra người thiên cổ. Cô gái đã mang cái “dấu ấn gái già” nay mang thêm một “dấu ấn” khác nữa trong đời: góa chồng.
&
Sau hôm tôi gặp Nguyễn Tăng Dục, “nhạc sĩ tù ca”, què một chân, Dục cho tôi địa chỉ của Trắc, cho biết Trắc “mới về”.
Lại nghe bao nhiêu chuyện buồn của Trắc, cũng là một “Người về”. Tôi cũng được Trắc báo tin Thọ qua đời.
&
Trước ba mươi tháng Tư, Trắc cho vợ con “di tản” trước. Anh ở lại, chờ mẹ: Mẹ anh đã chạy vô Saigon rồi, trước khi Phan Rang mất vào tay giặc. Nhưng rồi bà nghe lời vợ đại tá Tự, Trần Văn Tự, (con trai nhà Cách Mạng Đệ Tứ Quốc Tế Trần Văn Thạch, bị Trần Văn Giàu thủ tiêu năm 1945), trở lại Phan Rang. Bà Tự thì “đi tìm chồng” vì ông đại tá Tỉnh Trưởng còn ở ngoài ấy, không “di tản chiến thuật”, còn bà mẹ Trắc thì “quyến luyến” mồ mả ông bà, quê cha đất tổ. Vậy là cả hai bà kẹt ngoài ấy, khi Việt Cộng chiếm Phan Rang.
Trắc không theo vợ con “di tản”. Anh ở lại chờ mẹ. Sau Ba mươi tháng Tư, Trắc “đóng tiền đi ở tù” như anh em chúng tôi vậy.
Khi Trắc được tha về thì nhà không còn. Ngôi nhà lầu một tầng, sát đường Hồng Thập Tự, trong khu vực trại gia binh Mạc-Ti-Nho, bị Việt Cộng chiếm mất.
Trắc về, không ở nhà mẹ vợ được, mặc dù, khi Trắc “đắc thời”, cả gia đình vợ nhờ Trắc không ít. Sau lưng nhà vợ, Trắc có một ngôi nhà nhỏ nữa, về sau, anh ta bán để lấy vốn tìm kế sinh nhai.
Ở tù về ít lâu, Trắc về Tri Thủy thăm mộ mẹ! Bà cụ chết trước khi Trắc được tha khoảng hơn 5 năm, chôn ở quê. Đám ma của mẹ do bà chị và ông anh rể của Trắc đứng ra lo liệu hết. Trắc chỉ được báo tin khi bà chị Trắc vào thăm em: “Mẹ qua đời rồi! Chị lo hết cho mẹ.” Trắc chỉ biết khóc thầm, những tưởng không di tản để gần mẹ. Trắc thương mẹ lắm, vì mẹ Trắc góa bụa khi bà còn trẻ, ở vây nuôi con. Không “di tản” để được sống gần mẹ, chăm sóc cho mẹ, ai ngờ khi Trắc ra tù, đành ngậm ngùi mà hát câu “Nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời” khi nghĩ đến mẹ. Trắc kể: “Ngồi bên mộ mẹ, tui nhớ câu hát của Trần Văn Trạch: “Má ơi! Má ơi! Con dzề đây Má ơi!” mà chảy nước mắt.”
Trước hôm Trắc về Phan Rang, ghé tôi nói: “Anh cho tui mượn hai chỉ vàng. Đi Phan Rang về tui trả lại anh. Ai ngờ anh ta đi biền biệt gần nửa năm không thấy mặt. Hỏi em gái cô Tú Trinh, cô ta chỉ nhà. Tới thăm, tôi thấy Trắc nằm liệt.
Hỏi ra, Trắc kể:
-“Về làng thăm mộ xong, hỏi thăm bạn bè cũ, phần đông tụi nó lên vùng phía Tây Phan Rang, đứa làm rẩy, đứa chăn nuôi. Tôi tìm lên chơi với tụi nó. Anh biết không, thấy tụi nó nuôi ngựa, tui làm “cao-bồi” phi ngựa chơi. Ba bốn đứa phi ngựa phóng qua phía dưới một cành cây, đu lên cành, cho ngựa chạy không. Tôi cũng phi như tụi nó. Tôi phóng lên nắm cành cây, bỗng vuột tay, rơi xuống. Ngày hôm sau, khi tỉnh dậy, tôi mới biết tôi nằm ở bệnh viện Phan Rang. Anh chàng bác sĩ Việt Cộng điều trị cho tui, cũng điệu đời. Biết tôi là cháu “Tông Tông”, anh ta cho xe đưa tôi vô Chợ Rẫy, nằm hết một tháng cũng chưa lành hẳn.”
Vậy là coi như tôi “bay” mất hai chỉ vàng, chỉ biết “cười trừ” với vợ.
Trắc nhờ một người bạn cũ đòi lại căn nhà lầu phía ngoài đường Hồng Thập Tự. Người bạn đó hiện là giám đốc sở Thông Tin Văn Hóa Thành phố. Cảm tình với người bạn cũ ăn ở hết tình với bạn, người bạn ấy giúp Trắc lấy lại căn nhà, bởi vì trước khi nhập ngũ, Trắc sinh hoạt trong Tổng Hội Sinh Viên Học Sinh Saigon.
Bấy giờ ông Nguyễn Văn K., anh của Tông Tông, làm Tổng giám đốc Tổng nha Thanh niên, cậu mà cũng là cha nuôi của Trắc, nên Trắc thường đến xin giúp đỡ phương tiện để sinh viên, học sinh thực hiện các công tác cứu lụt miền Trung, miền Tây, các vụ hỏa hoạn, nạn nhân chiến cuộc, v.v… Trắc thường hoàn tất tốt đẹp công việc, được các bạn cảm mến, trong đó có Trung, Việt Cọng nằm vùng, bí thư chi bộ học sinh sinh viên Saigon. Khi người bạn nầy bị bắt giam ở Chí Hòa, vì tình bạn học cũ, vì cùng sinh hoạt chung trong các công tác cứu trợ, Trắc vào thăm bạn ngay trong khám. Nhờ cái “chí tình” đó, không vụ lợi, không mưu đồ chính trị, mà Trắc được giúp đỡ đòi lại được nhà.
Kể xong câu chuyện, chợt nhớ bạn tù cũ, Trắc nói:
-“Thằng Đông có vô! Nó đi buôn đường dài Saigon – Đà Nẵng. Hễ vô tới đây là rủ nhậu. Để khi nào tui rủ anh tới nhậu cho vui”.
Dương Tiến Đông là người tôi khó quên: Năng động, lanh lợi, hoạt bát và có “máu buôn bán”, như tôi kể chuyện “buôn bán” của anh ở mấy bài trước. Đông thuộc dòng dõi “Dương Hiển Tiến”, một trong “ngũ phụng tề phi” của xứ Quảng. Bố anh ta làm thầu khoán xây cất, giàu có. Năm “cụ Ngô” mới về nước làm thủ tướng, thăm Đà Nẵng, tòa Đô Thị Đà Nẵng phải mượn xe hơi của bố ông, chiếc xe sang và đẹp nhất Đà Nẵng thời ấy, để “đón Ngô Thủ Tướng.”
Bố anh “di tản”qua Mỹ trước khi mất Saigon với cô vợ trẻ, để lại vợ lớn và hầu hết con cái. Điều “trái cẳng ngỗng” hơn nữa, chị gái của Đông là vợ “nhà thơ” Phan Duy Nhân, tức tên Việt Cộng nằm vùng Phan Chánh Dinh, con trai ông già kéo “ghi” ở ga xe lửa Đà Nẵng. Đông nói: “Thằng cha ấy” theo Việt Cộng vì mặc cảm con nhà bần hàn.”
&
Gặp nhau, Đông vừa vui vừa buồn. Anh ta vẫn nhớ tôi, vẫn mong gặp lại tôi, vừa buồn vì cái chết của Võ Phước Thọ.
Hôm Đông từ Đà Nẵng vô Saigon, Trắc xuống tìm tôi. Dĩ nhiên, Đông tổ chức một buổi nhậu tại ngôi nhà sắp bán của Trắc.
Tôi hỏi:
-“Này! “Ông” Trắc, có ngại gì Công An khu vực không?”
-“Không! Trắc trả lời. Thằng nầy cũng tham ăn lắm, tui kẹp cổ nó từ lúc mới về được ít lâu.”
Trong khi tôi và Trắc ngồi chờ thì Đông giao hàng, xong, mua đồ nhậu. Tôi báo cho Trắc một vài tin buồn:
Anh Lã Trung Tâm, chúng tôi thường gọi đùa là “ông già ham vui”, được tha sau tôi mấy tháng, về, vợ còn giữ cho cái xe Vespa standard cũ, chạy long vòng chơi hằng ngày, chẳng lo no đói gì cả. Một bữa đi nhậu về, say, nằm ngủ, sáng hôm sau đi luôn. Một số anh em bạn tù cũ, có đến đưa đám. Coi vậy mà đời ông nầy thật… khỏe.
Lê Quang Dung, cũng được tha sau tôi ít lâu. Về nhà, tình trạng khá bi đát. Hai đứa con trai, gởi về quê cho bà nội nuôi giúp. Hai vợ chồng không nuôi nỗi con. Khi tôi trốn ở căn phòng nhỏ gần “Cổng xe lửa số 6”, nhờ Dục cho địa chỉ, anh ta đến thăm. Hôm sau, Dung đem lại cho tôi mười cây thuốc lá Hoa Mai giả, nhờ “tiêu thụ” giùm. Tôi không từ chối được, phải nhận, rồi đưa cho người em gái tôi ở Cư Xá Thanh Đa, nhờ bán giúp cho Dung. Nhờ quen mấy người “buôn đường dài” Saigon – Sóc Trăng, mười cây thuốc Hoa Mai “đi” dễ dàng, tôi đem tiền lại cho Dung. Tháng sau, Nguyễn Phước Tần báo cho tôi Dung qua đời rồi. Một hôm, đói quá, Dung xỉu ngay gần cầu Khánh Hội, được người quen đưa về nhà. Đêm đó, Dung “đi” trên tay vợ.
Ngọc “xùi”, người thường than với tôi thằng chủ tịch phường thường tỏ ý cua kéo vợ anh ta. Chủ tịch phường nói: “Chồng mày không về được đâu! Mày còn trẻ, lấy chồng đi.” Có nghĩa là lấy y, làm vợ bé.
Ngọc “xùi” ngây thơ cứ hỏi tôi: “Mệ Hải, đúng ra nó phải khuyên vợ tôi tin tưởng vào cách mạng, có ngày khoan hồng cho tôi về. Tại sao y lại nói thế.” Tôi cười cười: “Nó khuyên vợ mầy chờ chồng, để khi mầy được tha, hai vợ chồng hợp sức “chống phá cách mạng” à? Tụi nó phải đập nát gia đình những “thằng ngụy” như bọn mình ra. Bọn mình được tha ra là “cùi”, gia đình tan nát, thì làm sao mà chống phá cách mạng” được? Thằng phường trưởng đó thi hành đúng “đường lối chính sách” của đảng nó đó. Đừng suy nghĩ chuyện ấy vô ích.
Sau 7 năm, Ngọc “xùi” được tha rồi không nghe tin tức gì anh ta cả, không biết bây giờ “gia đạo” như thế nào!
Trong khi chờ Đông về, Trắc pha cà phê cho cả hai chúng tôi. Tôi hỏi:
-“Ông có dự trù vượt biên không?”
-Thiệt xui! Anh à. Chắc là cái số tui không xa xứ được.Tụi bạn nó tổ chức, tui chỉ góp chút đỉnh. Trên đường ra “con cá lớn”, chiếc “tắc ráng” đưa tui đi bị hỏng máy. Thằng chạy tàu đò lui cui sửa làm sao mà cái vít lửa rơi xuống nước. Làm sao tìm lại được? Vậy là đành trở lui. Xui thiệt! Rồi tui làm hồ sơ gởi lén qua Bangkok. Thế nào cũng được đi.”
-“Đi đấy! “Ông” tin tưởng đi. “Giết không được, tha làm phước”. Đó là châm ngôn của kẻ ác.
-“Anh nghĩ số được đi có đông không? Loon lá như bọn mình có đi được không, hay phải “quan to súng dài” mới được.
-“Mỹ là đầu sỏ “thế giới tự do”, chơi trò “đem con bỏ chợ” như Ba mươi tháng Tư thì chơi với ai. Riết rồi ai cũng sợ Mỹ bỏ rơi, ghét Mỹ. Nay họ phải làm một cái gì để gây niềm tin nơi người dân ở các nước khác. Nhờ đó, có thể có một số được đi, chỉ một số thôi.”
-“Sao chỉ một số?” Trắc hỏi.
-“Liệu Mỹ cónuôi hết mấy trăm ngàn người như bọn mình không? Qua tới bên đó bọn mình già hết, đâu có đi cày, làm bồi bếp… cho tụi Mỹ được, chỉ nuôi báo cô. Họ sẽ không cho đi nhiều.
-“Anh tìm đâu ra mà nói như vậy?”
-“Ông tính coi. Việt Cộng thì yêu cầu ai tù hai năm trở lên thì cho đi. Mỹ thì đòi phải năm năm tù mới được. Đang cù cưa, có thể chọn một con số ở giữa: ba năm hay bốn năm.”
-“Nếu hai năm thì đông lắm, Mỹ sợ cái gánh nặng quá! Còn Việt Cọng đòi hai năm là ý gì?”
-“Không giết được thì cho đi cho khuất mắt. Đi chỗ khác chơi để cho “người ta” làm “cách mạng”.
-“Vậy thì “tình dân tộc nghĩa đồng bào” là cái gì?”
-“Là cái để tuyên truyền. Chủ trương “đấu tranh giái cấp” thì làm sao có tình nghĩa. Có tình nghĩa là không đấu tranh được, nhất là khi chủ trương “cách mạng triệt để”. “Triệt để” cũng có nghĩa là “cạn tào ráo máng đó “ông”.
Trắc nói:
-“Chí Phèo thì chỉ có hận thù. Mà cũng buồn cười anh biết không? Trước khi tù cải tạo, bọn mình biết gì về chính trị. Bây giờ thì ông nào cũng rành, “giảng bài” rang rảng như giáo sư đại học.”
-“Cộng sản họ cũng nói nhà tù là trường đại học mà. Đời tù đẩy bọn mình vô cái thế phải “học tập chính trị”.
Bỗng Trắc nói qua chuyện khác:
-“Anh biết thằng Thịnh không?”
-“Nó đi “thăm lăng bác” hồi năm 1976 kia mà! Về chưa?”
-“Về rồi. Tui mới gặp nó cách đây mấy tuần. Nó gọi bà Hồ Điệp bằng cô đó anh!”
-“Bà Hồ Điệp chương trình Tao Đàn của Đinh Hùng phải không? Bà nầy ngâm thơ hay lắm.”
-“Thằng Thịnh nói bà cô nó vượt biên, mất tích đâu ngoài biển. Bà ngâm thơ hay mà đẹp nữa.”
Tôi thấy lòng bùi ngùi. Một người đẹp, tài hoa như thế mà bỏ xác ngoài biển khơi, làm mồi cho cá! Mộc lúc sau, tôi buột miệng đọc câu thơ của Mạc Đĩnh Chi: “Vân Tán -Tuyết Tiêu – Hoa Tàn – Nguyệt Khuyết”. (1)
hoànglonghải
(1)-Khi cụ Trạng Mạc Đĩnh Chi đang đi sứ bên Tầu, thì có một công chúa nhà Nguyên chết, cụ Trạng được chọn thay mặt cho sứ các nước, đọc văn tế.
Bộ Lễ của Tàu trao cho cụ Trạng một tờ giấy chỉ có 4 chữ Nhất.
Mạc Đĩnh Chi ứng khẩu đọc ngay:
Thiên trường nhất đóa vân
Không trung nhất điểm tuyết
Lãng uyển nhất chi hoa
Quảng hoà nhất phiến nguyệt
Y, vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết
Nghĩa:
Một đóa mây trên trời,
Một giọt tuyết trong không trung,
Một cành hoa trong vườn thượng uyển,
Một mảnh trăng trong cung quảng hàn.
Than ôi: Mây tan, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết.
T.H.V- * CƯỠNG BỨC HỒI HƯƠNG -
Sáu lần vượt
biên thất bại vào những năm 80-88, từ Bà Rịa –Vũng Tàu đến Sóc Trăng
–Bạc Liêu, Cà Mau. Lớp bị lừa, lớp bị bắt, và dù tán gia bại sản tôi vẫn
quyết một lòng ra đi vì không thể nào sống dưới chế độ Cộng Sản .
Đến lần vượt
biên thứ bảy vào năm 1989 tôi mới thành công, đến được bến bờ tự do sau
bao cam go, gian khổ, bỏ lại người mẹ già, vợ và bốn đứa con còn nhỏ
dại.
Ban tổ chức
bao một xe đò chở khách vượt biên Sài Gòn. Vừa rời khỏi bến xe miền tây
Bình Chánh bọn vô lại đèo theo xe hăm dọa khai báo công an để đòi tiền
mãi lộ. Chúng tôi lo sợ nhìn nhau rồi gom góp tiền đưa cho chúng. Đến
Ngã Ba Trung Lương bọn chúng xuống xe, chúng tôi tiếp tục hành trình
xuống Cai Lậy lúc 2 giờ sáng. Người dẫn đường đưa cả nhóm đến một nhà
máy chà lúa sát bờ sông, có một tàu đã đậu sẵn. Chúng tôi xuống tàu và
chui vào hầm. Đây là ghe buôn chuyến dài 11m, ngang 3m. Bên trên được
ngụy trang toàn mía và chuối. Rời bến một ngày, tàu đã qua khỏi các trạm
kiểm soát đường sông. Đi thêm hai ngày nữa đã ra đến hải phận quốc tế,
mọi người được phép lên boong. Bấy giờ chúng tôi mới biết tất cả có 35
người trên ghe, kể cả chủ ghe, tài công, và thợ máy . Do đó cả gia đình
chủ ghe đi nên việc tổ chức tương đối chu đáo, lương thực đầy đủ, bến
bãi và các trạm kiểm soát đã được chủ ghe thu xếp trước . Đi thêm một
ngày nữa ghe ra khỏi hải phận Việt Nam, mọi người đang vui mừng thì
giông bão nổi lên. Mưa như trút nước kéo theo sấm chớp ầm ầm, trong biển
cả bao la, chiếc ghe nhỏ bé tròng trành như sắp lật úp. Người lớn, trẻ
em ai nấy đều say sóng, nôn mửa, mệt lả, và chỉ còn biết chấp tay cầu
khẩn Trời Phật cho giông bão qua đi. Tài công đã phải cố gắng, vất vả
điều khiển ghe cho khỏi bị lật. Sau gần một ngày giông bão, trời bỗng
trở lại bình thường như có phép lạ.
Đi thêm một
ngày nữa, chúng tôi thấy xác người bồng bềnh trôi trên mặt biển, cảnh
tượng trông thật hãi hùng ! Chúng tôi đều cảm tạ Trời Đất đã che trở cho
ghe vượt qua giông bão và cùng cầu nguyện cho những người xấu số .
Ngày hôm sau
chúng tôi nhìn thấy những đốm nhỏ từ xa . Khi đến gần hơn, mọi người
nhận ra ba chiếc ghe đánh cá Thái Lan. Lập tức đàn bà, con gái và trẻ em
chui xuống hầm cầu nguyện. Kẻ cầu xin Chúa Mẹ, kẻ cầu khẩn Trời Phật .
Đàn ông thanh niên chia nhau đứng hai bên thành ghe, tay cầm vũ khí như
dao, búa, rựa. Chúng tôi đã bàn trước, chiến đấu tới chết chứ không để
hải tặc nhảy qua cướp bóc. Ba ghe Thái bao vây chúng tôi từ ba hướng.
Trên mỗi ghe cũng có hai ba tên cũng cầm dao búa. Khi thấy chúng tôi mặt
đằng đằng sát khí, vũ khí trong tay, lại có cả một cây súng giả mà
chúng tưởng là thật nên đã xì xồ vài tràng tiếng Thái rồi tự động rút
lui. Chúng khuất bóng rồi anh tài công mới xem hải bàn định hướng trực
chỉ Mã Lai.
Sau một ngày
lênh đênh, không thấy một chiếc tàu ghe nào thì chúng tôi nhìn thấy
những ánh đèn khi ẩn khi hiện từ đằng xa. Khi đến gần chúng tôi nhận ra
một giàn khoan dầu. Tiếng loa phát ra từ giàn khoan bảo chúng tôi neo
lại tại chỗ chờ sáng sớm sẽ có người hướng dẫn vào. Ai cũng hồi hộp chờ
đợi, mỏi mệt với giấc ngủ chập chờn. Từ mờ sáng có hai người đi trên một
chiếc ca-nô đến hỏi chúng tôi là ai, từ đâu tới. Chúng tôi nói là người
Việt Nam, đi vượt biên. Họ điện đàm về giàn khoan rồi hướng dẫn ghe
theo ca nô vào cặp sát giàn khoan. Rất nhiều người ngoại quốc trên giàn
khoan vẫy tay chào chúng tôi. Vị chỉ huy mời người biết tiếng Anh làm
đại diện lên nói chuyện với ông. Sau khi biết chúng tôi là những người
vượt biên ông hỏi chúng tôi cần giúp đỡ gì không, ông cho người xem lại
thuyền, thấy còn tốt vẫn xử dụng được, ông đã cho chúng tôi dầu, lượng
thức ăn, nước uống và thuốc men, chỉ đường cho chúng tôi đến bờ biển Mã
Lai, theo sự hướng dẫn của ông sau khi cho thuyền chạy đến khoảng sáu
giờ chiều thì chúng tôi đến được bờ biển của tỉnh Trengganu Malaysia,
tại đây chúng tôi đã bỏ thuyền lại và lội lên bờ đến một ngôi làng gần
đó . Cảnh sát Mã Lai đã đến gặp chúng tôi và đưa tất cả về trạm tạm trú ở
Marang, nơi đây đã có những người vượt biên đến từ các thuyền khác ở
các nơi đều được đưa về đây.
Thế là sau
sáu ngày lênh đênh trên biển cả vượt qua cái chết chúng tôi đã đến được
bờ tự do. Ở Marang được một tuần, chúng tôi được cảnh sát Mã Lai đưa
xuống tàu chở đến đảo Pulau Bidong, gần đến đảo Bidong từ đằng xa chúng
tôi đã nhìn thấy đồng bào Việt Nam vẫy tay đón chào. Tàu cặp vào cầu
Jetty, chúng tôi được đưa lên đảo để làm thủ tục nhập trại, tất cả những
người đến đảo đều được mang số hiệu từng thuyền, chúng tôi được mang số
MC. Trên đảo tôi thấy có nhiều người mang bảng MB họ đã ở đảo hơn hai
năm rồi đang chờ để đi định cư. Đảo Bidong thật thơ mộng, với những hàng
dừa cao vút, vài quán nước gần bãi biển, các hàng quán ăn, shop may do
người Việt tị nạn làm chủ, sinh hoạt buôn bán thật sầm uất. Trên đồi tôn
giáo có nhà thờ, chùa và trường học, mọi người ở đảo được Cao Ủy Tị Nạn
lo cho đời sống từ nơi ăn chốn ở, đến việc học hành thật chu đáo.
Cuộc sống ở
đảo thật lý tưởng nếu như không có cái quyết định ngày 14 tháng 3 năm
1989 của Cao Ủy Liên Hợp Quốc đóng cửa tất cả các trại tị nạn trong vùng
Đông Nam Á. Thế giới tự do bắt đầu mòn mỏi về những người tị nạn, họ đã
bắt đầu quay lưng ngoảnh mặt đối với những người tị nạn Việt Nam, có
những người đã đến được bến bờ tự do nhưng thuyền của họ đã bị chính
quyền các nước sở tại kéo đi ra giữa biển thả trôi mặc cho giông bão,
hải tặc cướp bóc, không biết sống chết ra sao. Còn những người đã đến
được các trại tị nạn, sau ngày 14 tháng 3 năm 1989 đều bị trải qua một
cuộc thanh lọc bất công. Ở Mã Lai bắt đầu từ MC 327 đến tàu MC 612 tỉ lệ
lúc đầu được nhận là 17% sau này xuống còn 10%, những sĩ quan, quân
nhân, công chức của Việt Nam Cộng hòa cũng bị đánh rớt qua cuộc thanh
lọc, chỉ có những người thuộc diện đoàn tụ gia đình như vợ chồng con
cái, và một số rất ít người được công nhận quyền tị nạn, còn đại đa số
bị ghép vào di dân kinh tế, phải trả về Việt Nam. Chính sách nhận người
của các nước bắt đầu khép lại, những người tị nạn đến sau ngày 14-3-89
đều sống trong cảnh lo âu hồi hộp, chờ đợi được một tương lai đen tối
với những đau khổ đầy dẫy nước mắt cúng khắp Bidong.
Sau khi nhận
phong thư oan nghiệt của Cao Ủy Tị Nạn, một thuyền nhân tên LVH đã nhảy
trên mỏm đá cao xuống biển tự tử chết, và hai người khác HVT và NVK đã
dùng dao tự đâm vào bụng mình tự sát. Cảnh tang tóc đã diễn ra nơi hòn
đảo thơ mộng, tất cả đồng bào trên đảo đều ngậm ngùi tiễn đưa anh LVH
đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang đồi khu F, và sau đó đã tự
động tổ chức cuộc biểu tình trước văn phòng khu cao ủy để đòi quyền tị
nạn, nói lên những tiếng nói uất nghẹn của mình.
Những người
đến trước ngày 14-3-89, và những người được qua thanh lọc đều được
chuyển qua trại Sungei Besi để chờ đi định cư. Sinh hoạt trên đảo Bidong
trở nên ảm đạm mỗi khi nghe thông báo rời đảo, với cảnh tiễn đưa chia
tay hàng ngày nơi chân cầu Jetty, mừng cho người đi buồn cho kẻ ở lại và
người trở về Việt Nam vì không qua được cuộc thanh lọc. “Vượt biên có
số, định cư có phần”, câu này y như để an ủi cho những người tị nạn đã
rớt thanh lọc kém may mắn như chúng tôi. Đến đầu năm 1991 vì ngân sách
dành cho người tị nạn ngày càng eo hẹp chính quyền Mã Lai đã quyết định
đóng cửa trại Bidong và di chuyển tất cả những người tị nạn sang trại
Sungei Besi gần Kula Lumpua. Trại Sungei được chia làm bốn khu A, B, C
và thanh nữ. Khu A dành cho những người rớt thanh lọc, khu B dành cho
những người đậu thanh lọc, khu C dành cho những đồng bào Campuchia đi tị
nạn chiến tranh và khu thanh nữ dành cho nữ độc thân, vì số người tị
nạn còn ở lại quá đông nên Cao Ủy đã cho xây dựng thêm bốn khu nhà cao
tầng như chung cư cho đồng bào ở, được chia làm nhiều căn, mỗi căn 8m
vuông cho 10 người ở.
Trại Sungei
Besi lúc đầu cũng có đầy đủ các lớp sinh ngữ và trường dạy huấn nghệ cho
người tị nạn nhưng về sau các lớp học này đều bị đóng cửa. Các Cha, các
Sơ người nước ngoài đến làm việc thiện nguyện giúp đồng bào tị nạn
không được phép vào trại nữa, chỉ còn một số cố vấn người Mã Lai. Đời
sống người tị nạn ngày càng khó khăn, bị bóp nghẹt khẩu phần ăn đều bị
rút bớt, thư từ liên lạc đều bị cấm, mọi sinh hoạt đều bị hạn chế tối
đa. Cao Ủy và chính quyền Mã Lai cố tình gây ra cảnh khó khăn cho đồng
bào tị nạn để mọi người nản lòng, phải xin hồi hương trở về Việt Nam .
Nhiều phái đoàn đã vào trại kêu gọi mọi người hãy ghi danh trở về. Các
đoàn thể trong trại tị Nạn đã cùng hợp lực với nhau đứng lên tranh đấu
đòi quyền tị nạn, bằng những cuộc biểu tình tuyệt thực trước văn phóng
Cao Ủy Tị Nạn, đồng bào đã phá hàng rào ra đường đứng biểu tình, cảnh
sát Mã Lai được điều động tới để dẹp cuộc biểu tình, họ đã bắt đi một số
người đem ra trại giam ở ngoài Kula Lumpur. Để đối phó với người tị
nạn, Cao Ủy và Chính quyền Mã Lai đã dùng đủ mọi cách, mọi hình thức để
đàn áp người tị nạn, họ cài người vào các đoàn thể tranh đấu để gây chia
rẽ tạo ra những hiềm khích giữa các đoàn thể, và đã để mặc cho những
băng đảng, “bò tạc” trong trại chém giết lẫn nhau. Một đoàn thể lớn
trong trại vì nghe lời khuyến dụ của Cao Ủy và chính quyền Mã lai đã tự
đống tách rời khỏi cuộc đấu tranh để di chuyển sang một trại khác, họ
tưởng rằng sẽ được cho đi định cư, nhưng nào ngờ sau này cũng bị cho trở
về Việt Nam.
Trước những
cảnh sống xô bồ đó, một số rất đông người tị nạn đã nản lòng xin hồi
hương trở về VN. Những người còn lại ở trại vẫn đoàn kết với nhau để
tranh đấu, chính quyền Mã Lai cho rào lại các khu, đồng bào không còn
qua lại với nhau, sống như trại tù, chung quanh là những hàng rào kẽm
gai nhiều lớp, có cảnh sát ngày đêm đi canh tuần, đồng bào các khu vẫn
tiếp tục tranh đấu biểu tình không nhận thực phẩm cả tháng trời. Lực
lượng cảnh sát đặc biệt của Mã Lai huy động được cả ngàn người do một vị
tướng chỉ huy đã vào trại để dẹp biểu tình, họ đã tàn nhẫn dùng súng
bắn lựu đạn khói cay vào thẳng đống bào. Những tiếng khóc than của trẻ
thơ và phụ nữ đã vang vọng toàn trại. Nhưng cũng không lọt ra ngoài, mọi
tin tức về cuộc đàn áp này đã bị cảnh sát Mã Lai bưng bít. Sau đó cảnh
sát đã vào trại lùa hết đồng bào ra ngoài trường A. Tất cả đàn ông thanh
niên đều bị cảnh sát đánh đập bằng dùi cui và roi điện, họ đã bắt đi
hàng trăm người mà họ cho là những người cầm đầu biểu tình nhốt vô
“monkey house”, những người này bị đánh đập tàn nhẫn không còn đi đứng
được, họ được dìu ra cho đống bào thấy, không còn cảnh nào thương tâm
hơn, khi nhìn thấy những đồng bào mình bị cảnh sát Mã Lai đánh đập mang
thương thích đầy mình. Hơn hai ngàn người tị nạn bị lùa ra ngoài trường A
và nhà bếp sống khốn khổ như những người tù, phải nằm đất, ăn bốc, đi
làm vệ sinh, tắm rửa từ người lớn đến trẻ em, nam cũng như nữ, phải ngồi
xếp hàng dài chờ đợi cảnh sát cho đi vệ sinh, tứng năm người một, bọn
cảnh sát Mã Lai đã đi thẳng vào phòng tắm nữ để xem khi họ đang tắm,
thật là tồi bại cho một đất nước trước đây đã từng được tiếng là nhân
đạo, đã từng cưu mang hàng mấy trăm ngàn người tị nạn, sau này lại có
những hành động mọi rợ làm mất đi tiếng tốt của họ.
Sống ở ngoài
trường A gần 3 tháng chúng tôi hơn 300 người được chuyển đến khu C để
chờ cưỡng bức về Việt Nam, và chúng tôi đã bị cảnh sát Mã Lai áp giải
lên trên tàu đầu tiên về lại Vitệ Nam. Thế là sau hơn 7 năm sống tại
trại tị nạn Mã Lai từ năm 1989 đến năm 1996 chúng tôi đã phải trở về
Việt Nam . Mọi hy vọng đến được đất nước tự do đã bị tắt ngấm trong tôi.
Về đến Việt Nam thời gian đầu, tôi và những người trở về đã phải đi
trình diện công an phường, quận, đến thành phố. Bọn công an đã tra hỏi
chúng tôi đủ thứ, nhưng vì có Cao Ủy Tị Nạn đang còn ở VN giám sát, nên
bọn công an đã tạm để cho chúng tôi yên.
T.H.V
NĂM 2017:10 TỶKIỀU HỐI
10 tỷ USD kiều hối “đổ” về Việt Nam trong năm 2017
RFA
2018-02-20
2018-02-20
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh công bố
hôm 19/2/2018 cho biết số tiền kiều hối gửi về thành phố tính đến cuối
tháng 11/2017 là 4.55 tỷ đô la, ước tính tổng lượng kiều hối về Việt Nam
trong cả năm là hơn 10 tỷ đô la.
Theo báo cáo, nguồn kiều hối chủ yếu đến từ Mỹ (chiếm 60%) và châu Âu (chiếm 20%).
Ông Nguyễn Ngọc Cảnh, Giám đốc Sở Giao dịch Chứng khoán của Ngân hàng Nhà nước, ngày 8/2/2018 trả lời báo trong nước rằng nguồn kiều hối đã tăng mạnh, khoảng 10,4% vào cuối năm 2017.
Vào tháng 10 năm ngoái, Ngân hàng Thế giới dự đoán kiều hối về Việt Nam trong năm 2017 sẽ giảm 10% do chính sách nhập cư của Mỹ và chính sách 0% tiền gửi bằng đô la của Việt Nam.
Nguồn kiều hối chuyển về từ nước ngoài chủ yếu qua bốn kênh: ngân hàng thương mại, tổ chức kinh tế, hải quan hoặc bưu điện. Trong đó, khoảng 72% tiền gửi về qua các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, theo Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội quốc gia (NCIF) của Bộ Kế hoạch – Đầu tư nhận định: Năm 2018, kiều hối về Việt Nam sẽ gặp nhiều áp lực từ chính sách chống nhập cư của Hoa Kỳ và chính sách nâng lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
Theo báo cáo, nguồn kiều hối chủ yếu đến từ Mỹ (chiếm 60%) và châu Âu (chiếm 20%).
Ông Nguyễn Ngọc Cảnh, Giám đốc Sở Giao dịch Chứng khoán của Ngân hàng Nhà nước, ngày 8/2/2018 trả lời báo trong nước rằng nguồn kiều hối đã tăng mạnh, khoảng 10,4% vào cuối năm 2017.
Vào tháng 10 năm ngoái, Ngân hàng Thế giới dự đoán kiều hối về Việt Nam trong năm 2017 sẽ giảm 10% do chính sách nhập cư của Mỹ và chính sách 0% tiền gửi bằng đô la của Việt Nam.
Nguồn kiều hối chuyển về từ nước ngoài chủ yếu qua bốn kênh: ngân hàng thương mại, tổ chức kinh tế, hải quan hoặc bưu điện. Trong đó, khoảng 72% tiền gửi về qua các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, theo Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội quốc gia (NCIF) của Bộ Kế hoạch – Đầu tư nhận định: Năm 2018, kiều hối về Việt Nam sẽ gặp nhiều áp lực từ chính sách chống nhập cư của Hoa Kỳ và chính sách nâng lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
MỸ LAN* KHI NÀO VIỆT NAM HƠP NHẤT CHƯC TỔNG BÍ THƯ VÀ CHỦ TỊCH NƯỚC?
KHI NÀO VIỆT NAM HƠP NHẤT CHƯC TỔNG BÍ THƯ VÀ
CHỦ TỊCH NƯỚC?
MỸ LAN RFA
2018-02-21
Nhất thể hoá là khái niệm không còn mới ở Việt Nam. Cho tới thời điểm
hiện tại, nhất thể hoá đã được thực hiện ở nhiều địa phương trên cả
nước và thu được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, vấn đề nhất thể
hoá các chức danh cao nhất trong Đảng và Nhà nước liệu sẽ được áp dụng
trong bối cảnh hiện nay và quá trình này sẽ gặp những khó khăn hay thuận
lợi gì? Phóng viên đài RFA đã có cuộc phỏng vấn với Giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng, người đã có nhiều năm nghiên cứu về các chính sách đối nội và đối
ngoại của chính phủ Việt Nam.
RFA: Thưa giáo sư, ngày 13/2 vừa qua, Tổng bí thư CSVN, ông Nguyễn Phú Trọng, đã có cuộc gặp mặt chúc Tết các vị lão thành cách mạng, các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời gửi đi lời chúc tết đến đồng bào chiến sĩ cả nước và kiều bào ở hải ngoại. Theo truyền thống thì hoạt động này được chỉ được thực hiện bởi Chủ tịch nước vào thời khắc giao thừa trên sóng truyền hình quốc gia mà thôi. Giáo sư nhìn nhận sự việc này như thế nào?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Ngay sau khi được Đại hội Đảng lần thứ XII tái bầu làm Tổng bí thư, ông Trọng đã bắt tay vào việc củng cố quyền lực của Đảng trên toàn thể hệ thống chính trị qua viêc cắt cử người vào các vị trí lãnh đạo ở trung ương và chiến dịch đánh tham nhũng để loại bỏ các phần tử mà ông cho là bất xứng và lạm quyền. Kết quả là ngày nay Tổng bí thư là người có thực quyền cao nhất. Việc để cho ông Trọng chúc Tết cả nước phản ánh thực tế chính trị ấy. Để đề cao một phần nào vai trò của Chủ tịch nước trên bình diện quốc tế, ngay sau đó, ngày 14/2, ông Trần Đại Quang đã được cắt cử điện đàm với Tổng thống Donald Trump để trao đổi về nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề Biển Đông.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng Về trường hợp Quảng Ninh thì người ta khen nhiều lắm. Tuy nhiên, vấn đề gộp chức danh đã đươc ghi vào Nghị quyết của Đại hội XII từ hai năm trước đây. Tháng 3 năm ngoái, trong một hội nghị trực tuyến với sự tham dự của môt số ủy viên Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, môt số người đề nghị nên hợp hai chức danh thành một tại một số tỉnh. Trong giai đoạn đó cũng có người như Tiến sĩ Nguyên Sĩ Dũng đề cập đến khả năng hợp hai chức danh Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Nhưng trong bài diễn văn bế mạc Trung ương VI kết thúc hồi tháng 10 năm ngoái, ông Trọng chỉ nói đến việc nhất thể hóa chức vụ chỉ huy ở những huyện nào mà “điều kiện cho phép” mà thôi. Nghĩa là Đảng vẫn hết sức dè dặt. Trong tình trạng ấy, khó có thể nói rằng việc hợp nhất chức danh Tổng bí thư với Chủ tịch nước “sẽ sớm xảy ra nay mai.”
RFA: Vậy đâu là những khó khăn và thuận lợi của việc nhất thể hoá các chức danh cao cấp nhất trong Đảng và Chính quyền, thưa giáo sư?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Điểm thứ nhất, về phương diện nghi lễ, thủ tục ngoại giao thì nó làm giản dị trong việc những người lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam khi tiếp xúc với nước ngoài. Còn về phương diện thực tiễn, chính trị thì nó rất lợi vì nó tạo ra cái mà người ta gọi là “chỉ huy thống nhất” – chỉ có một người nói thôi. Còn cái phương cách gọi là lãnh đạo tập thể hay quyết định tập thể nó chỉ là kết quả của mẫu số chung nhỏ nhất thành ra không thể làm những quyết định có tính cách quyết liệt, kịp thời, nhanh chóng, vốn là những quyết định hết sức cần thiết để đối phó với tình trạng thế giới thay đổi rất nhiều. Vì thế nên Việt Nam trong quá khứ đã bị bỏ lỡ rất nhiều cơ hội vì sự lừng chừng. Đó là việc lợi của nó. Còn việc khó khăn hay không khó khăn thì mình thấy ở các nước, rất nhiều Đảng cộng sản có thể nói thầu hết, thì họ đều nhất thể hoá cả, Tổng bí thư kiêm nhiệm luôn nhà lãnh đạo của Hành pháp. Nhưng riêng Việt Nam thì Đảng lãnh đạo tuyêt đối và được đại diện bởi ông Tổng bí thư, còn Hành pháp thì chỉ thi hành thôi và việc thi hành đại diện bởi ông Thủ tướng nhưng ở Việt Nam thì hành pháp lại có thêm ông Chủ tịch nước nữa. Do đó, sự hợp tác giữa hai bên có khó khăn hơn và đó là vấn đề của Việt Nam vì đã có ông Thủ tướng lại có thêm ông Chủ tịch nước nữa. Có lẽ một phần vì nhưng lý do ấy mà Nikita Khrushchev, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nga Xô từ năm 1953 đã kiêm nhiệm luôn chức Thủ tướng năm 1958.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Như tôi đã nói thì đây là mô hình lý tưởng của các nước cộng sản mà hầu hết họ đã làm rồi, chỉ còn Việt Nam thôi. Tuy nhiên ở Việt Nam, vì lý do lịch sử hay là lý do cá nhân thì từ năm 1997, thì đã có chế độ Tam đầu chế, gồm Thủ tướng – Đảng - Quân đội thành ra vậy. Nhưng bây giờ đến giai đoạn này rồi thì họ bắt đầu dần cải tổ. Thành ra trong nhiều năm vừa rồi họ đã nói về chuyện nhập 2 chức danh đó để giản tiện nhưng thực tế chính trị Việt Nam chưa cho phép nhập 2 chức danh đó. Nhưng mà hiện nay chúng ta thấy họ đang làm từ từ. Họ mới sát nhập một số chức ở quận/ xã thôi. Trong Chính phủ như hội nghị tháng 3 tôi nói vừa rồi đó, thì họ chỉ nói đến nhất thể hoá ở cấp tỉnh thôi, còn ở cấp trung ương nhất thì chưa thấy ai đề cập đến. Ở ngoài thì có thể có một số người đã nói đến như ông Nguyễn Sĩ Dũng hay một số người khác nhưng trong Đảng chính thức thì chưa thấy có ai đề cập đến vấn đề này cả.
RFA: Xin cảm ơn giáo sư về buổi phỏng vấn!
RFA: Thưa giáo sư, ngày 13/2 vừa qua, Tổng bí thư CSVN, ông Nguyễn Phú Trọng, đã có cuộc gặp mặt chúc Tết các vị lão thành cách mạng, các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời gửi đi lời chúc tết đến đồng bào chiến sĩ cả nước và kiều bào ở hải ngoại. Theo truyền thống thì hoạt động này được chỉ được thực hiện bởi Chủ tịch nước vào thời khắc giao thừa trên sóng truyền hình quốc gia mà thôi. Giáo sư nhìn nhận sự việc này như thế nào?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Ngay sau khi được Đại hội Đảng lần thứ XII tái bầu làm Tổng bí thư, ông Trọng đã bắt tay vào việc củng cố quyền lực của Đảng trên toàn thể hệ thống chính trị qua viêc cắt cử người vào các vị trí lãnh đạo ở trung ương và chiến dịch đánh tham nhũng để loại bỏ các phần tử mà ông cho là bất xứng và lạm quyền. Kết quả là ngày nay Tổng bí thư là người có thực quyền cao nhất. Việc để cho ông Trọng chúc Tết cả nước phản ánh thực tế chính trị ấy. Để đề cao một phần nào vai trò của Chủ tịch nước trên bình diện quốc tế, ngay sau đó, ngày 14/2, ông Trần Đại Quang đã được cắt cử điện đàm với Tổng thống Donald Trump để trao đổi về nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề Biển Đông.
Khó có thể nói rằng việc hợp nhất chức danh Tổng bí thư với Chủ tịch nước “sẽ sớm xảy ra nay mai" - Giáo sư Nguyễn Mạnh HùngRFA: Tỉnh Quảng Ninh là địa phương đầu tiên trên cả nước đã áp dụng mô hình nhất thể hoá và đã thu được những thành công đáng kể. Hiện tại cũng đã có nhiều địa phương cấp xã, huyện đã được áp dụng mô hình này. Vậy giáo sư có nghĩ rằng việc nhất thể hoá các chức danh cao nhất, cụ thể là Tổng bí thư và Chủ tịch nước sẽ sớm xảy ra trong nay mai không? Ý kiến của ông như thế nào nếu trường hợp này xảy ra?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng Về trường hợp Quảng Ninh thì người ta khen nhiều lắm. Tuy nhiên, vấn đề gộp chức danh đã đươc ghi vào Nghị quyết của Đại hội XII từ hai năm trước đây. Tháng 3 năm ngoái, trong một hội nghị trực tuyến với sự tham dự của môt số ủy viên Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, môt số người đề nghị nên hợp hai chức danh thành một tại một số tỉnh. Trong giai đoạn đó cũng có người như Tiến sĩ Nguyên Sĩ Dũng đề cập đến khả năng hợp hai chức danh Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Nhưng trong bài diễn văn bế mạc Trung ương VI kết thúc hồi tháng 10 năm ngoái, ông Trọng chỉ nói đến việc nhất thể hóa chức vụ chỉ huy ở những huyện nào mà “điều kiện cho phép” mà thôi. Nghĩa là Đảng vẫn hết sức dè dặt. Trong tình trạng ấy, khó có thể nói rằng việc hợp nhất chức danh Tổng bí thư với Chủ tịch nước “sẽ sớm xảy ra nay mai.”
RFA: Vậy đâu là những khó khăn và thuận lợi của việc nhất thể hoá các chức danh cao cấp nhất trong Đảng và Chính quyền, thưa giáo sư?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Điểm thứ nhất, về phương diện nghi lễ, thủ tục ngoại giao thì nó làm giản dị trong việc những người lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam khi tiếp xúc với nước ngoài. Còn về phương diện thực tiễn, chính trị thì nó rất lợi vì nó tạo ra cái mà người ta gọi là “chỉ huy thống nhất” – chỉ có một người nói thôi. Còn cái phương cách gọi là lãnh đạo tập thể hay quyết định tập thể nó chỉ là kết quả của mẫu số chung nhỏ nhất thành ra không thể làm những quyết định có tính cách quyết liệt, kịp thời, nhanh chóng, vốn là những quyết định hết sức cần thiết để đối phó với tình trạng thế giới thay đổi rất nhiều. Vì thế nên Việt Nam trong quá khứ đã bị bỏ lỡ rất nhiều cơ hội vì sự lừng chừng. Đó là việc lợi của nó. Còn việc khó khăn hay không khó khăn thì mình thấy ở các nước, rất nhiều Đảng cộng sản có thể nói thầu hết, thì họ đều nhất thể hoá cả, Tổng bí thư kiêm nhiệm luôn nhà lãnh đạo của Hành pháp. Nhưng riêng Việt Nam thì Đảng lãnh đạo tuyêt đối và được đại diện bởi ông Tổng bí thư, còn Hành pháp thì chỉ thi hành thôi và việc thi hành đại diện bởi ông Thủ tướng nhưng ở Việt Nam thì hành pháp lại có thêm ông Chủ tịch nước nữa. Do đó, sự hợp tác giữa hai bên có khó khăn hơn và đó là vấn đề của Việt Nam vì đã có ông Thủ tướng lại có thêm ông Chủ tịch nước nữa. Có lẽ một phần vì nhưng lý do ấy mà Nikita Khrushchev, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nga Xô từ năm 1953 đã kiêm nhiệm luôn chức Thủ tướng năm 1958.
Ở các nước, rất nhiều Đảng cộng sản có thể nói thầu hết, thì họ đều nhất thể hoá cả rồi - Giáo sư Nguyễn Mạnh HùngRFA: Cho đến thời điểm hiện tại, nhất thể hoá đã được áp dụng tương đối thành công tại Trung Quốc với việc ông Tập Cận Bình kiêm nhiệm cùng lúc chức danh Tổng bí thư và Chủ tịch nước? Theo giáo sư, Việt Nam liệu có học tập hoàn toàn mô hình này và xác suất thành công khi đươc áp dụng ở Việt Nam?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Như tôi đã nói thì đây là mô hình lý tưởng của các nước cộng sản mà hầu hết họ đã làm rồi, chỉ còn Việt Nam thôi. Tuy nhiên ở Việt Nam, vì lý do lịch sử hay là lý do cá nhân thì từ năm 1997, thì đã có chế độ Tam đầu chế, gồm Thủ tướng – Đảng - Quân đội thành ra vậy. Nhưng bây giờ đến giai đoạn này rồi thì họ bắt đầu dần cải tổ. Thành ra trong nhiều năm vừa rồi họ đã nói về chuyện nhập 2 chức danh đó để giản tiện nhưng thực tế chính trị Việt Nam chưa cho phép nhập 2 chức danh đó. Nhưng mà hiện nay chúng ta thấy họ đang làm từ từ. Họ mới sát nhập một số chức ở quận/ xã thôi. Trong Chính phủ như hội nghị tháng 3 tôi nói vừa rồi đó, thì họ chỉ nói đến nhất thể hoá ở cấp tỉnh thôi, còn ở cấp trung ương nhất thì chưa thấy ai đề cập đến. Ở ngoài thì có thể có một số người đã nói đến như ông Nguyễn Sĩ Dũng hay một số người khác nhưng trong Đảng chính thức thì chưa thấy có ai đề cập đến vấn đề này cả.
RFA: Xin cảm ơn giáo sư về buổi phỏng vấn!
HUẾ 1968: CUỘC CHIẾN TÀN PHÁ THÀNH NỘI
HUẾ 1968: CUỘC CHIẾN TÀN PHÁ THÀNH NỘI
"Sau khi chúng tôi rút
chạy sang bên Lào, lực lượng của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đào bới lên
tất cả những xác chết, những hầm chôn người," ông Nguyễn Đắc Xuân, cựu
Ủy viên Mặt trận Liên minh Huế nhắc lại với BBC về cuộc chiến kéo dài 25
ngày tại cố đô hồi 1968.
"Họ nói là mấy ngàn người, một con số lớn. Họ nói rằng đó là những đồng bào Huế bị Mặt trận Giải phóng giết."
Ông
Xuân nói rằng việc Mỹ và phía VNCH đánh bom, nã pháo ác liệt khiến 80%
thành phố Huế bị phá hủy, và việc chôn cất người thiệt mạng trong điều
kiện chiến tranh lúc đó là vô cùng khó khăn.
"Nhưng mà khi tôi đi thực tế và theo tôi hiểu, thì chôn tập thể là bởi khi đó việc chôn một người đã là khó rồi."
"Cho nên có những hố bom đào lên, hay có cái gì đó có thể chôn được thì tất cả những người chết được cho xuống đó hết."
"Ít nhất 5, 6 ngàn người lính Giải phóng chết tại Huế, có người nào được đem xác ra ngoài đâu?"
"Việc cho rằng đó là những người do Mặt trận Giải phóng giết là không công bằng."
Cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Đắc Xuân được BBC thực hiện vào tháng 1/2018, nhân dịp kỷ niệm 50 năm trận Tết Mậu Thân.
Xem thêm:Ông Nguyễn Đắc Xuân: Nên tưởng niệm tất cả nạn nhân Huế
Xung quanh vụ Hoàng Phủ Ngọc Tường 'xin lỗi' về Mậu Thân
Tết Mậu Thân: 'Những bộ hài cốt Khe Đá Mài'
1968: Mồ tập thể đầu tiên bên Sông Hương
'Cuộc chiến Anh-Mỹ' về cách đánh ở VN
NGUYÊN THẠCH * CHUYỆN BUỒN VUI BA NGÀY TẾT
CHUYỆN BUỒN VUI BA NGÀY TẾT
NGUYÊN THẠCH
Nguyên Thạch (Danlambao) - Tết,
không phải ai cũng mong đợi, Tết lắm người vui cũng có khối kẻ buồn. Ba
ngày nghỉ làm này, Hai Say thư thả rong chơi đó đây để tìm hiểu cái sự
đời, ông mục kích nhiều chuyện, chuyện vui cũng nhiều, mà chuyện buồn
cũng không ít.
Ông đã "phát hiện" ra những cảnh ngộ cũng hơi ngộ, câu truyện đại khái
như sau, nhưng nếu có nhạt quá thì mời quí còm sĩ thêm vài bao muối.
Sốc óc
Gặp anh bạn, tui hỏi
- Ủa, Tết này không về VN sao?
- Không và có lẽ không bao giờ về nữa.
- Sao vậy?
- Trước nhất là còn CS thì không về, thứ đến ở VN bây giờ tình đời đổi trắng thay đen, đen bạc lắm.
- Chuyện gì vậy?
- Năm ngoái họp lớp, ngồi uống bia có đám quan lớn VC, chúng biết tui là "người Việt ở Mỹ" nên nói sốc óc tui.
- Nói sao?
- Chúng nói rằng: Tụi Việt kiều giờ sao so sánh bằng Việt cộng, Việt
cộng giờ giàu bạc mấy chục triệu đô Mỹ, nhà cửa mấy căn biệt thự, đất
đai bát ngát... tiền Việt kiều có bao nhiêu mà ngon, chúng cày bỏ mẹ.
Giờ Việt kiều chỉ đáng xách dép cho Việt cộng.
- Rồi ai trả tiền cho buổi họp lớp?
- Thì tui chứ còn ai.
Nghe xong Hai Say ngâm nga:
Hò... ơ... ơ...
Chuyện đời có tử có sinh
"Việt kiều" về nước hy sinh... là thường.
*
Tiền Việt kiều
Rồi ông được mời đến một nhà người quen, gia đình anh có 3 người ở Mỹ, 1
người ở Úc. Suốt cuộc tiệc, ông thấy rất nhiều lon bia uống nửa, còn
nửa la liệt nhưng khách vẫn khui lon mới.
Ngứa mắt ông Hai Say hỏi lớn:
- Bia lon nào cũng còn nửa lon sao không uống cho hết, khui lon mới chi cho phí?
Và ông được nhiều người cùng trả lời:
- Tiền Việt kiều mà, có sao đâu.
*
Quá liều
Hai Say kể tiếp: Ngày ông Táo chầu trời, thằng rễ Trời đánh không biết
cho bà mẹ vợ ăn uống thứ gì khiến bà ói mửa liên tục phải chở đi bệnh
viện.
Anh chàng kêu vợ đánh dây thép qua Mỹ khóc lóc, nói rằng mẹ nằm viện sắp
chết, anh chị và các cháu mau về để kịp chôn và nhận tang.
Thế là cặp vợ chồng ở Mỹ tức tốc bay về nhưng may là mẹ chưa chết mà chỉ
gầy đi. Tui đâm nghi, rủ ông rễ đi nhậu rồi "tâm sự" khéo và được ông
rễ trả lời:
- Tết này vã quá, không biết đào tiền đâu mà nhậu 3 ngày Xuân, tôi pha
thuốc xổ lãi trộn vào đồ ăn nhưng tui pha hơi nặng tay nên bà sém "đi
Pháp". Ý là tui chỉ muốn bà bịnh rồi kêu mấy đứa con của bả ở Mỹ về thì
tui mới có tiền lì xì Tết chứ.
*
Bưởi đẹp
Thời buổi kinh tế khó khăn, người ta nghĩ ra mọi cách để kiếm tiền. Hai
Say nhìn phía bên góc đường có hàng bưởi khá hoành tráng mà cô bán bưởi
cũng có cặp bưởi tròn trịa đồ sộ.
Tuy già nhưng Hai Say cũng cầm mắt không đậu nên nhìn bưởi mà khen đáo để:
- Bưởi ngọt không cô?
- Dạ bảo đảm ngọt đến lịm người bác ạ.
- Dạ không tin cứ thử.
- Úi, ban ngày ban mặt ai dám thử.
- Vậy tui mua về 1 cặp để cúng.
- Dạ ăn hay cúng thì tùy bác thích.
- Mấy ngày tết này, em bán có được không?
- Dạ rất đắt hàng, hốt khối bạc nhờ em có bưởi to và đẹp.
*
Xem bắn pháo bông cho đỡ đói
Hai Say đi ngang nhà chòm xóm, ông nghĩ bụng nếu không ghé thăm chào hỏi
và chúc Tết thì sợ cô hàng xóm nghĩ là cô nghèo nên ông khi dễ:
- Chào cô bạn láng giềng.
- Dạ mời bác vào chơi
- Ủa, Tết nhứt mà sao không bánh chưng, không dưa hấu, không ngũ quả mà chỉ lèo tèo mấy bịch bánh mứt trên bàn thờ vậy?
- Dạ làm công nhân may mặc, tháng 3 triệu rưỡi, ăn còn không đủ, đói lên đói xuống, lấy tiền đâu mua dưa hồng câu đối đỏ bác.
- Ừ, vậy đêm Giao thừa dẫn mấy trẻ lên tòa tỉnh xem bắn pháo bông cho đỡ đói.
*
Lỗi tại Việt Kiều
Ông Hai Say đi ngang một nhà có đám tang, tò mò ông ghé lại hỏi chuyện
nhưng lấy lý do là thắp nhang chia buồn cùng tang quyến. Ông mon men hỏi
thăm người mẹ của nạn nhân, câu chuyện như sau:
- Cháu mới 16 tuổi, trông đẹp trai bảnh quá mà đi núi uổng quá.
- Dạ, phải chi hỏng có Tết thì tụi nó không đua xe trong đêm Giao Thừa.
- Ồ, rồi sao?
- Dạ, nó té xe vỡ sọ khỉ.
- Trùi ui, ghê vậy.
- Dạ tại cậu nó ở Mỹ về chơi Tết, thấy cháu không có xe nên mua cho nó chiếc SH nội.
- Ừ SH là đẳng cấp rùi.
- Dạ, đẳng cấp gì, tại cậu nó cho tiền mua xe nên con tôi mới chết.
*
Sau cùng ông gặp một nông dân với bài thơ tâm sự của người cầm cuốc:
Đêm Ba Mươi thấy đời như mõm chó!
Đêm Ba Mươi đời đen như mõm chó
Chẳng bánh chưng cũng chẳng có dưa hồng
Nhà gió lùa vách trống bỏ không
Bởi thất mùa năm nay ruộng đồng ngập mặn
Đ... má Tết làm chi cho đời thêm cay đắng...
Tết gì đây, sao vắng nàng Xuân?
Tết ở đây sao lắm kẻ diễn tuồng?
Bày bánh vẽ đem dân đi buôn đi bán
Tết Việt Nam sao tràn đầy bọn Hán?
Tết làm chi cho buồn chán ê chề?
Bày vẽ chi cho lắm cuộc thảm thê?
Cho cảnh sống thêm bộn bề bận rộn
Mỗi lần Tết là mỗi lần khốn đốn
Nợ cứ đòi, biết trốn nơi đâu
Tết ơi Tết, ta ngao ngán buồn rầu...
Và như thể muốn nói câu giả biệt.
Việt Nam, dân khổ chi mà khổ hết biết!.
Subscribe to:
Posts (Atom)
No comments:
Post a Comment