Hồi ký Trần Văn Giàu phần 1 (2)
Hồi Ký
1940-1945
Trần Văn Giàu
1940-1945
Trần Văn Giàu
Phần thứ nhất
TỪ NGỒI TÙ KHÁM LỚN
ĐẾN VƯỢT NGỤC TÀ LÀI
5. Căng Tà Lài: “Trại lao động đặc biệt”
Đường lên trại giam
Trên đường bờ quanh co từ nhà ra lộ đá, tôi tự hỏi không biết có
người vợ trẻ nào gian truân như vợ tôi không? Sau đám cưới hơn một
tháng, ông chồng đi đâu biệt tích, không biết sống chết, mãi đến ba
năm sau, khi ông ấy bị bắt, bị đưa ra toà, mới biết chắc chắn rằng
mình chưa phải đã goá chồng. May mà khi ấy tôi chỉ bị bắt có một
mình, bị bắt lúc đang đi trên đường cái, có nhiều tiền trong túi mà
không có địa chỉ cư trú, cho nên toà chỉ xử án năm tù treo vì cái
tội nghe lạ tai là “vô gia cư chuyên môn” (vagabondage qualifié)
tuy nó biết chán rằng tôi là “nhà cách mạng chuyên nghiệp”, chớ
không phải là “ma cà bông”.[1]
Lãnh án rồi, về nhà với vợ được hơn tháng tôi lại phải vào bí mật.
Từ đó lúc tôi mãn án lần chót là bảy năm đằng đẵng. Kỳ này, ngỡ rằng
có thể ở nhà vài tháng, cho đến đầu mùa thu, té ra cuộc vui sum họp
chỉ được tám ngày thì ông chồng bị bắt đi trại giam thời chiến, mà
chiến tranh thì biết khi nào dứt, chưa dứt thì mọi việc tàn bạo nhất
đều có thể xảy ra ở trại giam trên rừng sâu nước độc. Thật khó mà
tưởng tượng tâm trạng của một cô vợ ở trong tình cảm bi đát này.
Càng khó tưởng tượng tâm trạng của mẹ tôi, vừa mới gặp lại thằng con
yêu quý thì bị người ta cướp đi từ tay mình. Trời ơi là trời! Tai
hoạ sao mà dồn dập trút xuống một bà già quạnh hiu gần đất xa trời
như thế này?
Can đảm mấy cũng đứt ruột.
Đứt ruột mà vẫn phải can đảm; càng đứt ruột càng phải can đảm.
Hai chiếc xe hơi từ tỉnh lộ Tân An - Gò Công bật đèn lên, thấy Châu
Văn Giác ngồi với vài tên tính mã tà.[2]
- Cậu Mười[3]
đây rồi! Cậu cháu mình cùng đi trại giam cho có bạn.
Châu Văn Giác là một đứa con xứng đáng của đất Tầm Vu, cậu đã vào
T.K. (Thanh niên Cộng sản) từ 1930, đã đạt kỷ lục bãi thực[4]
dài mười hai ngày ở Khám Lớn, kỷ lục này bị phá bởi cuộc bãi thực ba
mươi ngày của các anh Tạ, Thâu, Ninh, Hiển, Quảng[5]
(cuộc này sở dĩ kéo dài đến thế là nhờ thủ thuật của nhà cầm quyền
Pháp bơm sữa vào hậu môn tù nhân). Quảng là cháu ruột của tôi, cũng
là người xứ Tầm Vu, hôm nay nó không bị bắt với Giác và tôi, bởi vì
sau cuộc chiến tranh kia, nó ho lao nặng, chắc Pháp thấy rằng không
cần bắt giam nó, nó cũng chết tới nơi rồi.
Một đêm, ở xà lim trại lính khố xanh[6]
thị xã Tân An, Giác và tôi được đánh thức vào khoảng một giờ sáng và
được lệnh đi ngay.
Đi đâu chừng này? Chừng này mà bị dẫn đi thì rất có thể là đi “thủ
tiêu” êm. Tôi sinh nghi. Hỏi mã tà. Hỏi đội sếp. Nếu tụi này ú ớ thì
chúng tôi sẽ chống lệnh, chúng tôi sẽ la ó để báo động cho nhân dân.
- Đi đâu giờ này? Ai ra lệnh? Đưa lệnh coi nào?
- Lệnh đây. Đi Sài Gòn. Phải có mặt ở Bà Chiểu trước hửng sáng, để
đi đâu nữa thì chúng tôi không biết.
Thế là không phải đi thủ tiêu êm. Tôi lên tới trại của Binh đoàn lưu
động Gia Định lúc bốn giờ sáng. Vào sân thấy ngồi ủ rũ trên ghế đá
mấy anh chàng quần áo tử tế, trong số đó có một cậu to béo, mặc quần
soóc, xách cặp da bóng loáng. Họ đang ủ rũ, hỏi ra mới biết, bởi vì
họ cũng ngờ rằng Tây nó sắp đem đi thủ tiêu trước khi trời sáng.
Thời kỳ chiến tranh mà! Còn đâu nữa chính phủ Mặt trận bình dân[7]
mà hòng nói luật với pháp? Trên sân, qua lại mấy toán lính khố xanh,
mấy thằng cò Tây nai nịt súng đạn, chờ lệnh, mặt sát khí đằng đằng.
- Chào các anh, từ đâu đến mà dám đến sớm hơn tụi này? (Tôi cà rỡn
hỏi).
- Bạc Liêu, Cần Thơ lên.
- Còn hai anh, từ đâu đến mà coi bộ tươi cười như vậy?
- Từ Tân An. Giác trả lời và giới thiệu luôn.
- Ông này là Giàu, tôi là Giác.
- Giàu nào? Có phải Trần Văn Giàu không?
- Mình là Tào Tỵ, hoạ đồ Tỵ Bạc Liêu, còn chú da bánh ít ngọt này là
Nguyễn Công Trung, công tử Cần Thơ.
Bây giờ tan biến cái lý nghĩa bị đem đi thủ tiêu trước trời sáng. Ai
nấy đều chắc rằng sắp phải bị đưa đi xa Sài Gòn nhưng chưa biết đi
đâu. Đi ra biển? Hay đi lên rừng? Hay đi xa hơn nữa tận Ấn Độ Dương,
tận châu Nam Mỹ? Lát nữa sẽ rõ.
Chờ xem.
Đúng năm giờ, một đoàn xe quân dụng bốn chiếc bắt đầu nổ máy trong
sân trại Binh đoàn lưu động. Chiếc đầu chở một thằng quan hai non
choẹt, cao nhồng, vẻ kiêu ngạo, vài thằng Tây nữa là ách đội.[8]
Chiếc sau chở khoảng một tiểu đội khố xanh. Hai chiếc giữa chở bọn
tôi, chừng vài mươi đứa. Xe ra cổng, không quẹo tay phải ra phía Sài
Gòn, mà quẹo tay trái về phía Gia Định. Tôi hơi mừng trong bụng. Rồi
đoàn xe trực chỉ Biên Hoà, không phải xuống bến tàu. Tôi nói nhỏ với
Giác:
- Thôi, yên trí; không phải ra biển mà đi lên rừng, ra biển khó về,
còn lên rừng thì như đi píc-níc thôi!
Trưa, đoàn xe đậu lại ở cây số 125 đường Biên Hoà - Đà Lạt. Không có
nhà dân, không có đồn bót, không một bóng người qua lại; chỉ nghe
tiếng vượn hú. Nhưng một trại bỏ trống với mấy bãi cứt bò đã khô
quéo, chứng tỏ rằng đây là một cửa rừng, chỗ thợ rừng kéo súc ra chờ
xe chở về dưới xuôi. Một đường đá nhỏ hẹp dắt đi đâu không biết, cỏ
cây mọc tùm lum. Một thầy đội bảo:
- Đường vào căng[9]
đó, chúng ta nghỉ ăn sáng cái đã.
Lính trải vài tờ nhật trình xuống cỏ, bày bánh mì, đồ hộp, bình
toong nước, ai có phần nấy.
- Y như hướng đạo sinh đi cắm trại mùa hè!
- Cứ quất no một bụng rồi sẽ xem ra sao.
Anh em bàn luận vui vẻ giống như đi cắm trại thật. Trừ tôi ra, tôi
quan sát đường đi nước bước từ hồi sáng đến giờ.
Từ đường 20 vô tới căng Tà Lài, chỉ mười bảy cây số, vậy mà chạy xe
mất quá một giờ. Càng vào sâu, cây cỏ càng lấp mặt đường, đá tảng
gập ghềnh. Không một ai lai vãng. Không một nhà, một chòi. Nhưng thú
rừng thì vô kể, nhiều nhất là các loài khỉ; khỉ trên cành cây cao
vút, khỉ dưới đất chạy qua đường, nhăn mặt như trêu người, la hét
như chào mừng bà con quá bộ đến thăm. Từng đàn công bay ào ào, kêu
chan chát, thằng quan hai nổ một phát súng hạ được một con công đuôi
dài rất đẹp. Thỏ lấp ló ở bụi gần, nai téc ở trảng[10]
xa. Thỉnh thoảng heo rừng nghênh mỏ, khoe nanh rồi vụt nhảy. Tôi
chợt nghĩ: thú nhỏ nhiều như vậy, chắc cọp ở đây không ít, cọp ở đây
góp phần quan trọng cho việc canh giữ chúng tôi trong trại.
Khu Tà Lài chụp từ vệ tinh: vùng đất màu nậu nhạt ở phía trên ảnh, gần giữa, có dòng sông Đồng Nai chảy qua. Góc trái phía dưới: hồ Trị An. Góc phải, phía dưới: đường trắng chạy ngang là đường 20.
Cuối đường là trại giam Tà Lài.
Tà Lài nguyên là trụ sở đặc biệt của thực dân Pháp tại vùng người
Thượng ở đông và đông bắc Biên Hoà. Xem như một quận lỵ, từ lâu bỏ
hoang. Nói là trụ sở, là quận lỵ, chớ thật ra không còn có đâu! Cư
dân?
– Vẻn vẹn chỉ có một nhà dân núp
trong vườn chuối sum sê bên cạnh một bến phà. Công thự? Chẳng có gì
cả ngoài ba cái nhà trệt bằng gỗ lợp ngói có thể chứa một vài ông
quan và một vài trung đội lính khố xanh nhưng đã bỏ hoang, không
biết từ hồi nào. Ba cái nhà đó ở giữa một khu đất rộng chừng bảy,
tám mẫu, cây to cao đã bị đốn sạch, nhưng cây nhỏ và cỏ tranh mọc
lên rậm rì, có nơi lút đầu. Ngày chúng tôi lên tới đó thì Tây mới
vừa làm xong một cái trại dài bằng tranh tre nứa chứa được khoảng
năm, bảy mươi người, một cái nhà bếp, một trạm y tế cũng bằng tranh
tre. Từ nay về sau mọi sự xây dựng ở trại giam này đều sẽ do bàn tay
của anh em chúng tôi.
Ảnh căn cước ở trại Tà Lài
(Nguồn: Tư liệu gia đình)
“Cầu thủ dự bị”
Ở Tà Lài được vài tuần, số anh em lên đến hơn trăm, mỗi tuần lại
thêm đông, tổ chức sinh hoạt, tổ chức lao động bắt đầu thành nề nếp.
Tôi bàn với vài đồng chí tin cẩn nhất trong Đảng uỷ căng như Văn,
Phúc, Giác, Đức về nhiệm vụ chính trị của những đảng viên cộng sản ở
cái trại giam lớn này.
Rõ ràng là bọn thực dân quyết định gấp rút bắt tập trung lại một chỗ
cho kỳ hết những ai mà chúng cho là nguy hiểm đối với quyền thống
trị của Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới này, trước hết là những
người cộng sản, nhưng không chỉ có cộng sản mà thôi. Hễ còn trại tập
trung thì còn thực dân Pháp và chiến tranh. Trại tập trung là nhà tù
không án, không thời hạn. Giam giữ là chính. Cái chính không phải là
đày ải, bắt lao động. Tách rời cá với nước, chiến sĩ với nhân dân
mới là mục đích lớn; mục đích lớn chắc không phải là dùng nhân công
này làm đường sá, xây đồn luỹ. Tất nhiên là vì nếu ở trại giam mà
các nhà cách mạng chết lần, chết hồi đi thì thực dân Pháp càng bằng
lòng. Về phần của ta thì ta phải xem việc tập trung ở trại giam này
như là một cơ hội để huấn luyện chiến sĩ, đào tạo thêm cán bộ cho
cuộc cách mạng nhất thiết phải nổ ra và thành công ngay trong cuộc
chiến tranh thế giới này. Các đồng chí đang hoạt động bí mật hiện
nay có khá đông, đủ năng lực, đủ tinh thần, nhưng tránh sao khỏi bị
bắt, bị giết. Chúng tôi ở trại giam phải tự xem như “cầu thủ dự bị”
để thay thế những người bị bắt, bị giết đó, để bổ sung cho lực lượng
cách mạng chỗ nào và khi nào cần. Tà Lài phải đóng vai một “trường
học nội trú” của Đảng. Việc chính của chúng tôi ở đây chưa chắc phải
là đấu tranh để cải thiện điều kiện ăn, ở, y tế, lao động, cái đó
tất nhiên là cần thiết mà không phải là chính yếu; cái chính yếu là
học, là huấn luyện.
Ban lãnh đạo căng, công khai, được toàn thể trại viên bầu cử, được
xếp căng công nhân, lo việc tổ chức ăn, ở, lao động. Ban này đa số
là đảng viên, mỗi trại hai người, trên hết là đại diện của toàn thể
trại viên đối với xếp căng: đồng chí Giàu. Đảng uỷ viên chuyên lo
việc huấn luyện chính trị tư tưởng, tổ chức lực lượng nòng cốt, liên
lạc với bên ngoài, công tác binh vận đối với lính khố xanh, công tác
dân vận đối với đồng bào Mạ[11]
trong vùng. Mọi khả năng đều được tính trước, bàn luận kỹ, phải biết
rằng thời này là thời chiến, không còn là thời bình nữa rồi.
Đồng chí Văn báo cáo nội bộ hẹp về nghị quyết Trung ương tháng 11
năm 1939 (họp ở ngoại ô Sài Gòn), về nhiệm vụ cách mạng Đông Dương
trong tình hình chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Nghị quyết
này, mãi cho đến tháng 5 năm 1940, tôi chưa được biết, tôi cũng
không biết rằng, cuối 1939, sau hội nghị Trung ương thì Ban Thường
vụ Trung ương đã bị bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm. Phúc nói riêng
với tôi là Xứ uỷ Nam Kỳ đã tính đến việc khởi nghĩa, phải bắt đầu
chuẩn bị để đón thời cơ, tin ấy phù hợp với việc cán bộ Mỹ Tho đến
nhà tôi báo cho tôi biết là tôi có thể được chỉ định vào Uỷ ban khởi
nghĩa khi tôi vừa ở Khám Lớn về nhà.
Trong trại giam Tà Lài, đảng viên cộng sản và hội viên các đoàn thể
do Đảng lãnh đạo chiếm đại đa số. Song, những người không cộng sản
cũng không ít, còn có tín đồ Cao Đài, nổi tiếng nhất là “Thiên Bồng
đại nguyên soái” Lê Kim Tỵ; lại có Tờ-rốt-kít như nhà báo ít tiếng
tăm Lê Văn Thử từ đệ tam sang đệ tứ, tiến lên đệ tứ rưỡi, cũng có
một tay nguyên thuộc công đoàn vô chính phủ ở Paris như Trịnh Hung
Ngẩu - nay là công thương gia. Lác đác vào trại có một ít cụ thuộc
các “hội kín” ngày xưa. Và, sao cho khỏi mấy tay trà trộn vào đây để
do thám.
Văn và tôi tổ chức nhiều tổ học tập lý luận. Vấn đề chính, nhiệm vụ
lớn là xây dựng, củng cố lòng tin vào một cuộc cách mạng nhất định
sẽ nổ ra thành công ngay trong thời gian chiến tranh thế giới này.
Văn là cựu sinh viên trường Đại học Đông Phương, khoá sau tôi, người
Vĩnh Long, nhỏ con mà râu xồm, tóc quăn, có lẽ gốc người Phù Nam gì
đó chăng? Văn ít nói mà làm việc nội bộ giỏi. Tôi thì thường xuyên
nói chuyện về thời sự, về các vấn đề chiến tranh và cách mạng thế
giới, trả lời cho các câu hỏi chính trị bất luận là của ai, Cao Đài
hay Trốt-kýt. Sinh hoạt tư tưởng xem như là thường xuyên, lính gác
cũng được dự, có khi cả sếp Tây nữa. Nhớ ngày Đức mở cuộc tấn công
chọc thủng chiến tuyến Maginot, tràn qua Bỉ và miền bắc Pháp, nhắm
Paris trực chỉ, một thằng sếp Tây xuống trại 1, tìm hỏi tôi: “Liệu
Paris có thất thủ hay không?”. Đông đảo anh em xúm nghe tôi và ông
sếp Tây tranh luận. Sếp Tây thì đoán rằng sau chiến luỹ Maginot thì
Pháp chỉ có thể lấy sông Loire làm phòng tuyến tự nhiên, chặn đứng
quân Đức ở đó; nghĩa là Paris chắc mất thôi. Còn tôi thì cho rằng
Paris có truyền thống cách mạng, sẽ không để cho quân phát xít chiếm
đóng cho dù quân của chính phủ bỏ ngỏ kinh thành. Đánh cá nhau: ăn
thua một chai champagne, có hàng trăm trại viên Tà Lài làm chứng. Ít
hôm sau, chỉ ít hôm sau thôi, tin tới tấp, chẳng những Paris thất
thủ mà nước Pháp cũng sớm đầu hàng nhục nhã! Tôi không dè rằng Pháp
yếu hèn đến thế. Ai, ngoài Hitler, tin rằng một đế quốc Pháp cường
quốc có hạng, mà bị bẻ gãy xương sống chỉ trong vòng hai ba tuần,
quân Pháp chạy chết như một đàn trừu non trước bầy sói dữ? Không
phải là tôi buồn bực gì về cái việc Pháp thua Đức. Pháp thua Đức có
thể thấy trước; nhưng tôi không thể đoán được là Pháp đo ván mau đến
thế. Tôi tính rằng Pháp cầm cự được ít ra cũng cả năm, Đức sẽ yếu đi
bớt, Liên Xô sẽ có thời giờ chuẩn bị thêm. Nay, ở mặt trận Tây Âu
như vậy là Đức gần như rảnh tay, nó có thể sớm đem phần lớn lực
lượng sang đông, đánh Liên Xô là kẻ thù chính của nó. Nước Đức làm
chủ thực tế của toàn thể lục địa châu Âu, đem toàn lực lục địa châu
Âu sang đánh Liên Xô thì mệt cho Liên Xô lắm, mà hễ mệt cho Liên Xô
thì cũng rất khó cho cách mạng thế giới.
Quả thật như vậy. Sinh hoạt tư tưởng của căng Tà Lài từ nay tập
trung vào vấn đề mặt trận Đức - Liên Xô. Hơn ai hết tôi khẳng định
rằng, tiến công Liên Xô thì Hitler đến ngày tận số. Nhưng rồi cũng
không hẳn như thế, ít nhất là ở những giai đoạn đầu. Phòng tuyến
Stalin chẳng hơn gì phòng tuyến Maginot. Quân Đức thắng trận này đến
trận khác; Hồng quân mất thành này đến thành khác, có khi một ngày
lui hàng mấy chục cây số; quân Đức vào tới ngoại ô Leningrad; Hitler
tuyên bố sẽ nghỉ đông trong Moscou! Các đồng chí cộng sản buồn hiu;
bọn đệ tứ, bọn thân Nhật lên chân; tụi nó lấy báo ghép lại thành như
một chiếc chiếu vẽ địa đồ chiến sự Đức - Liên Xô, tuỳ tin chiến sự
mà cắm cờ chữ vạn và cờ búa liềm, chữ vạn tiến mãi, búa liềm lui
hoài; họ uống trà, bình luận, nói móc họng. Cho đến một hôm Tào Tỵ
đi qua chỗ tụ họp ấy, nghe tụi kia chế nhạo nào là “Hồng quân vô
địch”, nào là “Liên Xô hùng cường”, nào là… Tỵ nổi nóng cho mỗi đứa
một đá, một thoi trời giáng, cả bọn tan như ruồi; anh em cản Tỵ lại,
không thì tay võ sĩ Tiều này còn đại náo thiên cung dài dài và được
nhiều người ủng hộ. Song vấn đề tư tưởng thì phải giải quyết bằng tư
tưởng, không giải quyết được bằng cùi tay gót chân. Văn và tôi bắt
đầu tìm cách giải thích sự cố Đông Âu trong nội bộ các đồng chí; rồi
sau đó tranh luận công khai cho mọi người phát biểu ý kiến: Đức Liên
Xô, ai sẽ thắng? Trở lại trước:
– Chủ nghĩa phát xít là gì? Do đâu ra?
– Nguyên nhân của chiến tranh thế giới lần thứ hai? Trong đó có
những vấn đề mà tôi đã nói với tụi cò Catinat hồi tháng Tư!
– Chiến tranh và cách mạng.
Trước mắt, thiết thực là vấn đề Liên Xô có đứng vững được không
trước sức tiến công vũ bão của Đức Hitler. Đảng uỷ, Văn và tôi cố
giữ cho được lòng tin Liên Xô sẽ chiến thắng. Trên lý luận thì như
vậy, nhưng thực tế chiến trường thì khác xa, rất khó giải thích,
không dễ giữ được một lòng tin tuyệt đối như trước.
Chuẩn bị khởi nghĩa
Từ khi đặt chân lên Tà Lài, Văn, Phúc đã cho tôi biết chủ trương
đường lối của Trung ương Đảng và của Xứ uỷ Nam Kỳ về vấn đề khởi
nghĩa.
Trung ương hội nghị lần thứ VI họp ở Bà Điểm quyết định chiến lược
mới của cách mạng giải phóng dân tộc, quyết định rằng ta có nhiệm vụ
làm cách mạng thành công trong cơ hội “trăm năm có một”, nghĩa là
trong chiến tranh thế giới lần thứ hai này. Nhưng, rủi quá, Trung
ương Thường vụ bị bắt sau đó ít lâu tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, Sài
Gòn. Xứ uỷ Nam Kỳ, căn cứ vào nghị quyết của hội nghị Trung ương lần
thứ VI, đã bắt đầu chuẩn bị khởi nghĩa. Kế đó, Pháp đại bại, đầu
hàng Đức, các cuộc xung đột biên giới giữa Đông Dương thuộc Pháp và
Thái Lan thân Nhật càng thúc giục cuộc chuẩn bị khởi nghĩa. Chúng
tôi ở Tà Lài được tin là Xứ uỷ không yêu cầu chúng tôi cùng hành
động, chỉ yêu cầu chúng tôi bảo toàn lực lượng, chờ ngày được giải
phóng. Nhưng về phần mình, chúng tôi không thể ngồi chờ mà phải sẵn
sàng hưởng ứng khi cần. Chúng tôi cũng chuẩn bị khởi nghĩa và chuẩn
bị bằng những cách sau đây:
Một là,
tuyên truyền vận động ráo riết cho mã tà đứng về phe cách mạng, đánh
Pháp, giành độc lập. Pháp mắc kẹt ở châu Âu, bị Đức đánh bại, thì
lính khố xanh, khố đỏ gì cũng dễ thấy được rằng Pháp hết thời rồi,
chỉ còn chờ ngày cút khỏi Đông Dương mà thôi. Ở trại Tà Lài mỗi tuần
thay phiên một tiểu đội hay là hơn nữa, ý định của Pháp là ngăn ngừa
lính bị chúng tôi tuyên truyền, thực ra, có thể xem như Tây nó
thường kỳ đem nộp thêm người để cho chúng tôi tuyên truyền cách
mạng. Các toán lao động ngoài rừng, ngoài đường đều có vài lính đi
theo, chúng tôi tuyên truyền vận động đến mức họ đồng ý tập cho
chúng tôi mở ráp súng và thỉnh thoảng bắn đạn thật, lính về báo cáo
với sếp Tây là đã bắn “đuổi cọp”. Đa số lính của “Binh đoàn lưu
động” vì vậy mà hiểu cách mạng, cảm tình với Đảng. Nếu ngày nào ta
quyết định khởi nghĩa lấy đồn Tà Lài, thì việc đó sẽ dễ như móc
thuốc lá trong túi áo.
Hai là,
tuyên truyền vận động cho đồng bào thiểu số địa phương thương và
phục những người bị giam ở trại. Việc này khó lắm. Vì đồng bào rất
ít biết tiếng Việt, còn anh em tụi tôi thì không biết tiếng Mạ chút
nào. Bà con lại ở cách trại giam tới năm, ba cây số hay xa hơn nữa,
chỉ có Phúc, sếp ê kíp đốn tre bứt mây, mới có dịp vào làng Mạ. Song
đồng bào thường qua lại Tà Lài. Chúng tôi tìm cách thỉnh thoảng tổ
chức những cuộc vui chơi ở trại thì đồng bào rủ nhau đến xem. Tụi
tôi sẽ có cách “tương kế tựu kế” gây cảm tình.
Ba là, tổ chức một
đội võ thuật, nói cho đúng một đội du kích hay tự vệ, không mang hẳn
tên gì mà thực chất là đội vũ trang, xung kích. Đội gồm những tay
“hào kiệt” được chọn kỹ: Tô Ký, Nguyễn Công Trung, Tào Tỵ v.v… Trong
rừng sâu thiếu gì chỗ tập luyện.
Bốn là rèn vũ khí
thô sơ. Anh thợ Ba Son[12],
Nguyễn Văn Khung, phụ trách công việc này, dao mác, xà beng của trại
thỉnh thoảng được báo cáo mất, hỏng, thật ra là đưa vào “binh công
xưởng” của Khung để rèn dao găm, mã tấu.
Và năm là
làm lương khô và tích trữ thuốc men, việc này do “Tiển cụt” sếp bếp
của căng, phụ trách: mỗi ngày để dành cơm cháy và phơi một số cơm
khô đựng trong bao bố tời treo ở bếp.
Đã có kế hoạch chiếm gọn đồn Tà Lài, ra lấy Xuân Lộc, thắng thì đánh
rốc về Biên Hoà, thất thì vào rừng núi làm du kích chiến tranh; Tà
Lài nổi dậy là phải tuỳ theo lệnh của Xứ ủy, không được tự động.
Sau đây là vài chuyện thuộc mưu đồ khởi nghĩa ở Tà Lài, chuyện xảy
ra vào cuối năm 1940. Chuyện “thi lội” là kế “điệu hổ ly sơn”, tạo
khả năng điều phần lớn Tây và lính đồn ra khỏi trại mà thường xuyên
chúng phải túc trực. Chuyện “xỏ vàm trâu cổ” là chuyện cốt làm cho
đồng bào người Mạ phục anh em bị giam cầm, tạo điều kiện quan hệ
thân ái giữa người Kinh và người Thượng mà Pháp cố tình chia rẽ; nhà
cầm quyền thực dân cho rằng Tà Lài không có tường cao cửa sắt như
Khám Lớn nhưng lại có rừng già nhiều cọp và có xóm làng người thiểu
số mà chúng tin là trung thành với Pháp cho nên chúng tin chắc rằng
tù nhân không thể nào vượt ngục mà không bị dân bản địa bắt nộp cho
chúng.
Tháng 7-1989 (kỉ niệm 200 năm cách mạng Pháp), Trần Văn Giàu được mời sang Pháp. Ảnh chụp trước cổng nhà tù La Roquette, nơi cậu học sinh Giàu bị giam năm 1930 trước khi bị trục xuất về nước (Ảnh N.N. Giao)
Thi lội
Phong cảnh Tà Lài khá hữu tình. Đồn ngói của Tây, trại tranh của tù
như giấu mình trong khu rừng mênh mông đầy muông thú, bên cạnh một
con sông lớn nước bao giờ cũng trong và đầy, sông Đồng Nai. Bên kia
sông về hướng Tây, một dãy núi xanh biếc. Bên dưới sông, một cái
thác tuyện đẹp, được tù nhân đặt tên là thác “Cồn Mai”, đá dưới nước
trồi lên, mai trên đá soi gương dưới nước. Khoảng trên của con sông,
dài không biết bao nhiêu kilômét, nước đầy, chảy nhẹ, nhiều cá tôm,
có cả sấu; chiều chiều đội đốn tre của anh Phúc thả bè về, quần áo
quấn trên cổ, hát giọng chèo đò. Một hôm chủ nhật, tốt trời, chúng
tôi xin phép tổ chức “thi lội” ở khoảng sông này. Sếp Tây đồng ý.
Trong một số anh em bị đưa đi lên trại giam Tà Lài, có Nguyễn Văn
Minh, biệt danh là “Minh lội”, người dong dỏng, khoẻ, vui tính, nổi
tiếng vô địch bơi lội Đông Dương. (Năm rồi trong cuộc thi bơi lội
toàn Đông Dương thì Minh đoạt giải nhất). Bị đưa lên Tà Lài về cái
“tội” không ra tội là “thuộc nhóm La Lutte[13]”,
chỉ có vậy thôi. Lên đây, Minh có một hồ bơi lý tưởng là khúc sông
Đồng Nai dài, rộng, sâu, nước chảy không mạnh. Những buổi chiều biểu
diễn của Minh được toàn căng tán thưởng, nhiều thầy chú[14]
ra xem, đôi khi sếp Tây cũng ra xem. Minh lội nhanh như cá và đẹp
như khiêu vũ ba lê.
Trong số thanh niên bị bắt lên trại giam Tà Lài, có Nguyễn Thanh
Liêm, con đỡ đầu của nghệ sĩ Văn Cừ, Cần Thơ. Liêm trẻ hơn Minh,
cũng dong dỏng, vui tính, đẹp trai, có tiếng bơi lội giỏi mà không
đi tranh giải vô địch bao giờ. Trên khúc sông Tà Lài, Minh và Liêm
đôi khi cũng tranh tài với nhau và mỗi lần như vậy cả hai đều được
trại viên, lính tráng cỗ vũ, đánh cá với nhau.
Tôi, Văn và Phúc nảy ra cái ý là, nếu một ngày nào đó ta phải chiếm
đồn Tà Lài để rồi ra đánh Xuân Lộc, thì khi ấy ta phải tạo ra một
tình hình thuận tiện cho cú đánh bất ngờ, là kéo sếp Tây và phần lớn
lính mã tà ra khỏi trại. Trong lúc đó một số ít người của ta ập vô
trại lấy hết súng đạn mà không phải đánh chác gì. Trước mắt ta hãy
thử tổ chức một cuộc đua tài bơi lội giữa vô địch Minh và những ai
muốn thử sức mình, nói cho đúng, giữa Minh và Liêm. Có giải thưởng.
Có cá độ. Sếp bắt Liêm, tôi bắt Minh.
Hội thi hôm ấy rất náo nhiệt.
Mấy trăm anh em ra mé sông, có cả mấy chục đồng bào Mạ qua đường
dừng chân xem đấu. Tiếng reo hò vang dội, càng vang dội khi Minh,
Liêm về gần mức ngang ngửa.
Tôi, sếp cùng hàng chục anh em và binh lính đứng trên chiếc phà cột
ở bến. Vui quá là vui! Hai thằng sếp Tây, ở trần trùng trục, tay
chống đầu gối cũng hét lên với mọi người. Tôi và Tào Tỵ đứng bên
hông hai sếp, cũng hét hò. Tôi thua – sếp thắng. Liêm vượt Minh tới
một thước.
Người thắng thực sự là Văn, Phúc và tôi, vì hội đua đã kéo được hầu
hết Tây tà ra khỏi đồn trại.
Khi cần sẽ có nhiều cách khác mà Tào Tỵ gọi là “dụ khị”, binh thơ
xưa gọi là “điệu hổ ly sơn”.
Xỏ
vàm trâu cổ
Trâu có vàm mới kéo cày, kéo cộ, kéo súc được. Trâu không vàm như xe
cam-nhông máy tốt, xăng đủ mà không có tay lái; vô dụng. Cho nên chủ
trâu ai cũng sớm lo xỏ vàm trâu. Người ta xỏ vàm trâu khi trâu còn
tơ. Không ai đợi tới trâu dậy cổ mới xỏ vàm bao giờ. Trâu đực bốn
tuổi thì cổ nó đã lớn cả ôm; lúc đó nó dữ lắm, sờ tới mũi nó thì
liệu hồn! Nó húc chết. Khép nó vào chuồng để xỏ vàm? Nó phá gãy bất
kỳ thứ cổng nào.
Vậy mà tôi đã mắt thấy một vụ xỏ vàm trâu cổ.
Người đã làm cái việc không ai dám làm đó là Tô Ký. Khi ấy Tô Ký mới
mười chín tuổi.
“Chủ mưu” là tôi. Bộ muốn hại thằng trẻ sao mà xui nó xỏ vàm
trâu cổ? – Không! Hay là sai tướng lên đánh Ma Thiên Lãnh? – Có mưu
đồ tựa như vậy; có mục đích chính trị chính đáng. Ai tinh lắm mới hé
thấy. Con mắt bình thường kể cả con mắt hay ngờ vực, cảnh giác của
bọn sếp Tây cũng không hơn mắt bịt bạc. Thôi thì hãy nói ngay rằng
việc xỏ vàm trâu cổ nằm trong kế hoạch của Đảng ủy trại tập trung Tà
Lài nhằm vận động đồng bào Mạ, tạo điều kiện cho một cuộc khởi nghĩa
hoặc một cuộc vượt ngục: phải có cách làm cho đồng bào (bản địa)
kính phục và thương yêu mình bằng một số hành động nổi bật nào đó,
chớ tuyên truyền miệng thì đồng bào có hiểu tiếng Việt đâu!
Tháng 10 năm 1940, bọn tôi, có mấy trăm người bị giam ở trại tập
trung Tà Lài. Trại nằm sát mé sông Đồng Nai. Tại đây có một bến phà.
Ở phía đông của bến phà có một ngôi nhà lụp xụp nuôi tới chừng ba
chục con trâu. Ngoài ngôi nhà này không hề có căn nhà nào khác. Ở
đây, bản làng đồng bào Mạ cách xa Tà Lài nhiều cây số, nhưng ngày
ngày vẫn có người mang nỏ, mang gùi, xách chà gạc,[15]
xách thịt rừng đi qua đây, có khi một vài lít rượu. Đỡ buồn cho tụi
tôi biết mấy!
Trong bầy trâu của chủ nhân ngôi nhà ở sát bến phà, có một con trâu
duy nhất không vàm. Đó là anh trâu cổ, cổ lớn như thùng bia. Sừng
dài mới chừng hai gang, nhọn hoắt. Cao lớn và gọn gàng. Da nó bóng
láng đen thùi lũi. Nó nghinh lên thì mắt nó như hai cục lửa, mũi phì
ra hai luồng khói. Thấy mà ghê. Thế mà chẳng lợi gì ráo cho chủ nhà
ngoài hai việc: nhảy cái và giữ cọp. Bảy, tám chú nghé đều là con
của anh trâu cổ này. Bầy trâu sáng đi ăn cỏ ở trảng thì anh trâu cổ
gom tất cả vào một cụm rồi nó đi rảo xung quanh, nhìn vào mé rừng.
Bầy trâu, chiều về nhà, nằm ở sân, nghé chính giữa, lớn xung quanh,
đưa đầu ra ngoài, còn anh trâu cổ ta thì tự cho phép mình đi đi lại
lại như một “chú cai”, hình như nó có ý thức cảnh giác: ở đây cọp
rình luôn. Người ta kể rằng, mới mấy tháng trước thôi, anh trâu cổ
húc xẹp lép một ông cọp già vào gốc cây bằng lăng!
– Anh trâu cổ này nếu có vàm thì tui cho người ta mướn kéo súc, được
nhiều tiền lắm: đổi lấy muối cũng được mấy chục giạ! Chủ nhà nói bập
bẹ với tôi như vậy.
– Sao không liệu xỏ mũi cho nó?
– Làm sao được? Nó chém chết. Sức trai, mưu già, ở mấy bản làng xung
quanh đây, không làm gì được; không ai dám làm. Có lẽ rồi phải để
người ta bắn nó, làm thịt bán thôi.
– Nếu có ai xỏ mũi con trâu cổ đó thì anh tính sao?
– Thưởng cho một đùi heo rừng và một vò rượu cần.
Tôi hẹn với chủ nhà, để tôi hỏi anh em tôi có ai biết xỏ mũi trâu
không rồi sẽ báo lại.
* * *
– Ê, Ba Ký ơi! Chú mày nói là lớn lên từ cái nghề làm ruộng chăn
trâu, vậy có biết xỏ mũi trâu không? Tôi hỏi.
– Dễ như quấn thuốc rê.
– Đừng chủ quan: không phải trâu tơ mà trâu cổ. Dám không? Được
không?
Tô Ký suy nghĩ một phút, chỉ một phút thôi, rồi trả lời:
– Lấy thế thì làm được liền.
– Thế là thế nào?
– Như vầy, như vầy…
– Uất Trì Cung tắm ngựa được thì chú mày xỏ vàm trâu cổ được chứ gì.
Có biết Uất Trì là ai không?
– Truyện Thuyết Đường Chinh Đông, nhiều truyện Tàu khác nữa trong
lịch sử bắc phương tôi thuộc làu làu. Tôi cũng sẽ làm việc “tắm
ngựa” cho các anh xem.
– Cố gắng nghen! Tôi sẽ bảo chủ trâu kêu đồng bào Mạ mấy bản xa gần
đến xem. Hễ đồng bào họ khen, họ phục thì tụi mình dễ vào bản làng,
vào làm gì chú Ba mày biết rồi, không phải chỉ có việc mua gà và mua
rượu.
Ngày giờ xỏ vàm trâu cổ đã tới.
Trên bãi cỏ bờ sông sau trạm y tế, bầy trâu non già ba chục con họp
đông đủ. Cũng đông đủ sếp Tây hai thằng, vài chục chú mã tà, mấy
trăm anh em tù nhân đều tề tựu, như để xem xiếc.
Tôi hồi hộp, dẫu rằng tin chắc ăn.
Tô Ký đầu trần, lưng trần, bận xà lỏn, tay cầm một sợi dây mây vót
nhọn. Coi như một võ sĩ sắp lên võ đài.
– Chắc ăn không mậy, Ba Ký? Văn hỏi.
– Như ba bó một giạ – Tô Ký đáp và cười có duyên.
Bỗng Tô Ký dõng dạc ra lệnh:
– Lùa hết trâu xuống sông một lượt!
Trót, trót, trót, roi quất đít trâu!
Trâu ùa xuống sông, con này trước con kia, con này sát con kia.
Nước Đồng Nai chảy không lấy gì làm mạnh.
Tô Ký cầm dây mây, nhảy trên lưng trâu, một con, hai con, ba con,
rồi nhảy lên lưng anh trâu cổ. Gã trâu cổ lúc này ở gần giữa bầy
trâu ba mươi con chen nhau như nêm. Đoạn Tô Ký hai chân kẹp cổ trâu
ngạnh, mình trườn dài ra trên đầu trâu, nằm giữa cặp sừng của nó,
với tay ra trước nắm mũi trâu, lấy dây mây đã vót nhọn, đâm một cái
sựt, kéo nhanh dây mây buộc chặt vào mang tai trâu. Tất cả làm xong
chừng một vài phút. Anh trâu cổ bị người ngồi trên cổ, nằm sấp trên
đầu, sờ mũi, đâm mũi; nó lồng lộn nhưng không cách nào được vì chân
không chấm đất, nó quơ sừng mà người ta nằm giữa hai cái sừng, nó
chém sao được, nó muốn hất mà hất sao được vì người ở cổ nó chớ có ở
trước mặt nó đâu; nó lồng phải, lồng trái đều đụng trâu khác; trước
nó, sau nó đều có trâu. Rốt cuộc, hình như nó bực lắm, mà phải chịu
thôi!
Cột dây vàm rồi, Tô Ký đứng phắt dậy trên lưng trâu ngạnh, nhảy qua
lưng trâu khác, một con, hai con, ba con, bốn con, rồi nhảy lên bờ,
hô: Xong!
Mấy trăm người hoan hô nhiệt liệt.
Sếp Tây Ménétrie nói:
– Vous êtes formidable! (Anh cừ thật)
Đội, cai, lính hết lời khen:
– Gan hết cỡ, mưu rất cao!
Đồng bào Mạ tỏ ý khâm phục, chỉ tay về phía mặt trời lặn, bảo: “Làng
tôi ở bên kia” như tỏ ý mời.
Bầy trâu xuôi dòng, tới Cồn Mai thì lên bờ, lại gặm cỏ. Riêng anh
trâu cổ rày đã có vàm, lồng lộn dữ dội: chạy tới, chạy lui, cụng vào
gốc cây, lăn trên bụi rậm, rống lên. Cuối cùng mệt lừ, nó nằm sấp
xuống bãi cỏ.
Mấy tháng sau, chúng tôi, trong đó có Tô Ký, vượt ngục Tà Lài. Địch
ra lệnh cho đồng bào xuống núi, xé rừng tìm bắt bọn tôi; chúng treo
giải thưởng cho đồng bào, hứa nào muối nào gạo, nào tiền nếu bắt
sống hay đem đầu về được. Nhưng chúng tôi vẫn an toàn ẩn náu trong
rừng núi Tà Lài để rồi an toàn về thành thị, về đồng bằng, tiếp tục
hoạt động cách mạng.
Không để bị khiêu khích
Tháng 12, được tin chính xác rằng khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23
tháng 11, đã hoàn toàn thất bại, nên chúng tôi bãi bỏ sự chuẩn bị
khởi nghĩa ở Tà Lài. Dĩ nhiên là công tác binh vận, tuyên truyền
trong đồng bào Mạ thì vẫn tiếp tục. Hàng trăm anh em ở các tỉnh mới
bị bắt đưa lên trại giam cho chúng tôi biết do khởi nghĩa đã nổ ra
cuối tháng 11 thất bại; thực dân Pháp đàn áp rất dữ dội, tàn sát dã
man hơn cả những năm 1930-1931. Chúng tôi không biết tình hình căng
Tà Lài sẽ ra sao để mà đối phó. Địch sẽ khủng bố tới mức nào ở trại
giam? Dù sao đi nữa thì mình cũng phải bình tĩnh, đề phòng, dự tính
các khả năng.
Một hôm, chủ tỉnh Biên Hoà La Rivière lên Tà Lài với một tiểu đội
lính khố xanh hộ vệ. Hôm đó, cũng như mấy hôm trước, từ sau khi nổ
ra khởi nghĩa tháng 11, trại viên không toán nào đi làm ngoài xa cả;
tuyệt đại đa số đều tập trung, già cả thì chẻ tre đan ky trong nhà,
trai trẻ thì xeo đá gánh đất làm con đường lớn gần sát trại đi lên
hướng đông bắc dọc theo sông Đồng Nai. Bỗng sếp căng dẫn chủ tỉnh[16]
đến chỗ tù nhân đang xeo[17]
đá đắp đường:
- Tất cả, tập hợp lại! Cuốc xẻng bỏ hết xuống đất! Sếp căng ra lệnh.
Anh em mới cũ, già trẻ non năm trăm người tập hợp lại dưới dốc. Sau
lưng y là toán lính lên cò súng trường nghe rôm rốp.
- Có biến rồi; chắc khủng bố; anh em nói với nhau.
- Bình tĩnh, bình tĩnh! Đứng thưa ra, thưa ra! Tôi bảo anh em.
Chủ tỉnh nói: Hãy nghe ta đây! Vừa qua, thừa lúc nước Pháp bại trận
ở châu Âu và bị rối ở biên giới Thái Lan, Đảng Cộng sản các nước đã
cầm vũ khí nổi lên toan đánh đổ chính quyền Pháp ở Nam Kỳ. Đảng của
các người đã hoàn toàn thất bại. Chính phủ đã và đang thẳng tay đàn
áp và đàn áp không thương tiếc. May lắm mươi, mười lăm năm nữa, đảng
của các người mới có thể ngóc đầu dậy. Ta báo tin cho các người
biết. Bây giờ các người hãy trả lời cho ta câu hỏi sau đây:
Hỡi các người ở căng Tà Lài này, tán thành hay phản đối cuộc bạo
động vừa qua ở Nam Kỳ?
Như thường lệ, là đại biểu được toàn thể anh em bầu cử, tôi dịch cho
anh em nghe. Tôi thấy anh em lo ngại lắm. Rõ ràng quá, thằng chủ
tỉnh cố khiêu khích. Mấy trăm cặp mắt ngó vào tôi như bảo phải trả
lời sao cho vừa giữ thanh danh của đoàn thể, vừa tránh khủng bố đẫm
máu cho anh em. Tôi yêu cầu các anh em ủng hộ tôi. Khó trả lời quá.
Nói tán thành khởi nghĩa thì thằng chủ tỉnh có thể sẽ ra lệnh bắn.
Lúc này, bắn chết năm, bảy chục, một hai trăm người, tụi Tây ở đâu
cũng dám làm, bọn tề xã còn dám tự tiện giết người kia mà. Còn nói
không tán thành hay phản đối khởi nghĩa mặc dầu khởi nghĩa đã nổ ra
rồi, đã thất bại rồi, thì hoá ra mình hèn quá, Tây nó khinh mình,
mình cũng xấu hổ với anh em. Tôi xoè tay làm dấu hiệu bảo anh em
đứng thưa ra hơn nữa. Rồi tôi bước tới mấy bước, đứng lên một tảng
đá lớn, khá cao, với ngụ ý là, nếu tôi bị bắn, tôi sẽ đổ từ trên
xuống, chớ không phải ngã bẹp. Tất cả diễn ra hết sức nhanh. Tôi trả
lời bằng tiếng Pháp, sau lưng tôi có Văn dịch lại cho tất cả anh em
nghe.
“Này ông chủ tỉnh! Ông hỏi vậy chúng tôi ở Tà Lài tán thành hay
không tán thành cuộc khởi nghĩa vừa mới xảy ra ở đồng bằng? Tôi xin
trả lời cho ông và tôi chắc ông đủ bình tĩnh để nghe. Ông ơi! Nước
Việt Nam (lúc ấy tôi nói là Đông Dương) của chúng tôi từ mấy chục
năm nay ở dưới quyền thống trị của nước Pháp, cũng như mấy tháng nay
nước Pháp yêu dấu của các ông bị quân Đức Hitler xâm chiếm, dày xéo,
thống trị. Chúng ta, ông cũng như tôi, đều là đồng cảnh ngộ mất
nước. Tôi được biết, và ông thừa biết hơn tôi, rằng hàng chục vạn
người Pháp thường dân và binh lính đang nổi lên cầm vũ khí tiếp tục
đánh Đức để giải phóng quê hương. Tôi tin chắc rằng trong thâm tâm
của ông chủ tỉnh, ông rất đồng ý với những người Pháp kháng chiến
rằng không thể van xin quân Đức rút lui mà nhất thiết phải đánh đuổi
chúng bằng vũ lực, bằng súng đạn. Ở góc trời Đông Dương xa xăm này,
vì tấm lòng yêu nước Pháp, vì ý thức bảo vệ danh dự người Pháp, ông
tuy không nói ra, ông không thể nói ra, mà ông thực sự một lòng với
những người Pháp kháng chiến trong lòng nước Pháp. Chẳng nói giấu
chi ông, ở cái xó rừng núi Tà Lài này, tôi sao lại không thông cảm
với đồng bào của tôi trong biến cố tháng 11 vừa qua ở Nam Kỳ?
Đó, tôi đã trả lời cho câu hỏi của ông chủ tỉnh”.
Thằng Rivière nãy giờ nín thinh, bây giờ tay không chống nạnh nữa;
nó nhìn xuống đất, rồi nhìn lên khi tôi nói tiếp:
“Còn như ông bảo rằng may ra mười, mười lăm năm nữa Đảng chúng tôi
mới sống lại được. Thì, ông ơi, làm sao biết được mười lăm năm hay
năm năm nữa, cục diện thế giới và cục diện Đông Dương sẽ biến đổi
hoàn toàn. Ông còn sống, tôi chắc cũng còn sống, mọi người ở đây
cũng còn sống, chúng ta tất cả là chứng nhân của lịch sử, chúng ta
nhất định sẽ vui mừng thấy được nước Đức của Hitler bị bẻ gãy xương
sống, nước Pháp của các ông và nước Việt Nam của chúng tôi đều được
tự do”.
Thằng Tây xem chừng mất hết cái hùng hổ ban đầu. Nó không nói năng
gì hết. Nó quay lưng đi; sếp căng và toán lính khố xanh mang súng
trên vai, theo sau, êm ru. Mấy trăm anh em chúng tôi cười thầm, bàn
bàn luận luận.
Thắng một trận!
Thoát nạn; khi nãy tưởng đâu đại biến tới nơi!
Ông Trần Hữu Độ[18],
tục gọi là ông “Hồi trống tự do” hay là ông “Biện chứng pháp”, vỗ
vai tôi, nói: “Thiệt chiến[19]
Tà Lài, nghe khoái thật”. Ở sở đan ky[20],
trong số người có tuổi, ông Trần Hữu Độ nổi tiếng là một kho truyện
Tàu và một kho tiếu lâm.
Vượt ngục
Ở căng Tà Lài cuộc sống không đến nỗi cực khổ quá, có thể nói thảnh
thơi là khác, được như vậy không phải do chế độ của trại giam mà do
tổ chức tù nhân của chúng tôi; công việc khoán phần lớn ở trong
rừng, chỉ có mã tà đi theo cốt để giữ không cho chúng tôi trốn hơn
là để thúc bách tù làm. Chỉ một lần sếp Tây đánh một đồng chí một
gậy, đồng chí ấy quơ xà beng lên đỡ, tất cả anh em đều đứng lên,
xẻng, cuốc dao, mác trong tay, mắt đổ dồn vào tên sếp Tây, nó khiếp
quá, bỏ đi luôn. Từ đó trở đi không có vụ đánh đập nào nữa. Ăn, thì
gạo thừa, cá khô đủ; chúng tôi còn đánh cá trên sông, mua thịt rừng,
rượu cần ở đồng bào thiểu số. Rau thì thiếu gì trong rừng. Thuốc men
không biết đâu là đủ, nhưng sốt rét thì có ký ninh, uống nước thì có
nước sông lọc bằng thuốc tím. Ở, thì nhà tranh vách nứa, tự làm,
nhưng được phát mùng, phát chiếu. Tây nó cốt được yên bằng việc tách
tụi tôi khỏi nhân dân, không cốt được kết quả lao động khổ sai.
Chúng tôi, cốt học tập dạy nhau để làm “cầu thủ dự bị” lúc cần,
không cốt đấu tranh vì lợi ích hàng ngày. Sếp, mã tà đều nể chúng
tôi, vì chúng tôi bao giờ cũng giữ nhân cách người yêu nước, người
cán bộ cách mạng, cộng sản.
Thế nhưng, chẳng những riêng mình tôi, rất nhiều anh em nuôi chí
vượt ngục ngay từ đầu. Có người muốn vượt ngục vì không muốn bị giam
giữ vô thời hạn. Có người cho rằng, ngày nào đó, Tây bị cách mạng
nổi lên đánh đổ hoặc bị một đế quốc khác giành lấy thuộc địa thì
chúng sẽ tàn sát mình trước khi tháo chạy, cho nên mình phải liệu
trước, thoát khỏi trại là hơn. Riêng tôi và một số cán bộ nòng cốt
xác định rằng thời kỳ chiến tranh đế quốc chính là thời kỳ cách mạng
giải phóng. Cơ hội trăm năm có một. Cha anh đã thất bại hồi chiến
tranh 1914-1918; bây giờ chúng ta nhất thiết phải thành công. Cho
nên chúng tôi đã tính đến vượt ngục từ những ngày mới đến Tà Lài;
còn tính đến khởi nghĩa ở Tà Lài nữa.
Vào thời điểm cuối 1940, khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, rất nhiều
đồng chí bị giết, bị bắt, kể đến hàng ngàn, nhiều hơn bất cứ lúc
nào. Cả Trung ương, Thường vụ đều bị bắt, chưa kịp phục hồi tổ chức
thì tới phiên Xứ ủy Nam Kỳ hai lần bị bắt, rồi lần lượt các tỉnh ủy
viên bị bắt, cơ sở Đảng và quần chúng bị đánh tan tác. Các bạn mới
lên căng sau này báo cáo tình hình bi đát ấy. Và hôm rồi tên tỉnh
trưởng La Rivière quả quyết rằng: “Hoạ may, mười, mười lăm năm
nữa, đảng của các anh mới có thể ngóc đầu dậy”.
Vậy thì đến lúc “cầu thủ dự bị” phải vào sân kẻo trễ. Đã đến
lúc các đồng chí bị giam ở Tà Lài, ai có nhiệt huyết, ai có tinh
thần, phải vượt ngục trở về với dân, hoặc để bổ sung cho phong trào
bị tổn thất quá nặng nề, hoặc gây dựng lại hệ thống cơ sở bị tàn phá
tan hoang. Các bạn mới lên căng Tà Lài kể lại một phần tình hình
địch khủng bố: nhà tù đầy nhóc, địch phải dùng các sân banh rào kẽm
gai để nhốt người dưới nắng, dưới mưa; chúng xỏ dây xâu chuỗi người
bị bắt để dẫn về trại giam, xỏ dây kẽm ngang bàn tay như ta lấy
nhánh trâm bầu xỏ vào mang con cá, địch phải dùng tới xà lan ghe
chài để giam chính trị phạm; chiến sĩ bị giam đông đến mức chỉ có
chỗ đứng, không có chỗ ngồi, nói chi chỗ nằm; bọn thực dân cho tù
uống nước bằng vòi rồng, cho ăn bằng cách rải cơm xuống xà lan, ghe
chài nêm đầy người như người ta rải lúa cho gà trên sân; đến một lúc
nào đó thì đám thực dân ra lệnh cho ca nô dắt những xà lan ghe chài
đầy người kia ra cửa biển rồi lạnh lùng đánh chìm! Nghe đau thương
hết sức! Pháp cố làm sao cho trong lúc chiến tranh này, không còn
một tổ chức cách mạng nào, nhất là không còn có Đảng Cộng sản, thì
mới giữ được Đông Dương trong tay Pháp. Toàn quyền Catroux đã công
khai tuyên bố như vậy ngay từ khi hắn chân ướt chân ráo mới đến trấn
nhiệm xứ này.
Phải vượt ngục thôi! Để góp phần xây dựng lại Đảng bộ mạnh. Không có
một Đảng bộ mạnh thì không có giải phóng.
Phải vượt ngục sớm; nếu chậm trễ thì có thể sẽ không còn cơ hội vượt
ngục nữa. Mấy hôm nay, ê kíp đan ky của Trần Hữu Độ được lệnh sản
xuất thật nhiều, đan bao nhiêu, xe cam-nhông chở đi hết bấy nhiêu.
Chở đi đâu? Để làm gì? Tụi Pháp chuẩn bị một “căng” nào ở núi cao
rừng sâu hơn Tà Lài? Và biết đâu chúng nó không thực hiện kế hoạch
đưa những người đặc biệt “nguy hiểm” đi xa hơn, đi các đảo thuộc địa
Pháp trên Ấn Độ Dương? Có thể lắm; và khi ấy thì không còn vượt ngục
được nữa. (Sau mới biết rằng dự đoán của chúng tôi là đúng: anh em
Tà Lài bị dời qua trại giam Bá Rá, và một số đồng chí như Phan Vân,
Minh, cả giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc cũng bị đưa sang tận
Madagascar).
Trong lúc chuẩn bị vượt ngục, Đảng ủy căng Tà Lài đặc biệt chú trọng
đến việc tập hợp tư liệu, thông tin về cuộc khởi nghĩa thông qua các
đồng chí mới bị đưa lên căng Tà Lài sau ngày 23 tháng 11 năm 1940,
nghiên cứu, sơ kết kinh nghiệm, rút ra một số bài học cần thiết để
trang bị cho anh em sắp về công tác.
Việc chuẩn bị vượt ngục được bắt đầu ngay sau Tết Tân Tỵ 1941: chọn
người, điều tra đường đi nước bước, phơi cơm khô, trữ thuốc men, tạo
một thiểu giấy tờ hợp pháp, kiếm tiền, bắt liên lạc với các đồng chí
bên ngoài còn sống sót. Ba anh được lệnh đi trước để sắp xếp thực
hiện một kế hoạch vượt ngục có quy mô; đó là Khước (người Mỏ Cày có
bộ râu Quan Công), “Minh Thẹo” (người Long Hồ, tháo vát) và
Khuy (được gọi là “con chim ngủ ngày”, lầm lì ít nói). Ba anh
đi trót lọt. Nhưng ở Tà Lài chúng tôi chờ mãi, không nhận được tin
gì của họ. Như vậy là phải thực hiện kế hoạch vượt ngục cho một số
ít người có năng lực đã được thử thách về các mặt lý luận, tổ chức,
đấu tranh. Phải từng toán nhỏ mới dễ đi trót lọt được. Tôi khá lúng
túng trong việc chọn người. Số anh em có tinh thần, có năng lực thì
nhiều; lựa ai, không lựa ai? Lấy nhiều thì khó đi trót lọt, lấy ít
thì hàng chục đồng chí tốt sẽ thắc mắc, phiền trách. Cuối cùng Đảng
ủy đồng ý tám người cùng đi. Ngoài tôi ra, còn có các anh:
- Văn, tức Kiệt, kỹ sư, nguyên là sinh viên trường Đại học Cộng sản
Đông Phương.
- Phúc (Dương Quang Đông), dân cựu trào, đã vào tổ chức từ năm 1927.
- Nhâm, công nhân, đã là thành ủy viên thành phố Sài Gòn cùng thời
với chị Minh Khai; lái xe, lái tàu đều giỏi.
- Giác, một cán bộ cựu trào từ năm 1930, đã từng hoạt động ở Cao
Miên.
- Đức, một cựu tỉnh ủy viên Bến Tre, giỏi nông vận.
- Trung, một cán bộ hoạt động công đoàn trong nhóm Dân chúng[21]
thời Mặt trận dân chủ.
- Tô Ký, một thanh niên Hóc Môn, võ giỏi, mưu trí, thuộc làu các
truyện Tàu như Tam Quốc, Đông Chu liệt quốc; tôi nhằm rằng tay này
có thể trở thành một cán bộ quân sự đắc lực; trong vụ “Xỏ vàm trâu
cổ” vừa qua, Tô Ký tỏ ra rất can đảm, mưu trí.
Tôi tính rằng với số tám người này cộng với ba anh đã đi trước, nếu
không bị mất mát hay ít bị mất mát, thì có thể thực hiện được nhanh
chóng kế hoạch gây dựng lại cơ sở và hệ thống tổ chức Đảng bộ Nam
Kỳ, tạo điều kiện tổ chức vượt ngục quy mô lớn cho anh em trại giam.
Vấn đề trước mắt là phải làm sao cho chúng tôi nhờ ít người mà vượt
ngục trót lọt.
Muốn đi trót lọt, phải quyết định đúng hướng đi. Chắc chắn là một
khi sếp căng và chủ tỉnh hay rằng tụi tôi đã thoát khỏi căng thì lập
tức chúng ra lệnh truy nã, cho cả bộ máy cai trị trong tỉnh Biên
Hoà, trong xứ Nam Kỳ, từ trên xuống đến xã, khắp các làng thiểu số,
ra sức săn lùng. Nhóm tụi tôi, gạo cội của cộng sản, mà tuột khỏi
tay chúng nó thì sẽ gây ra vô vàn khó khăn cho nhà cầm quyền. Vậy
chắc chắn là Pháp sẽ phải tức tốc, trong ngày, giăng một lưới dầy
đặc xung quanh Tà Lài trước hết chặn tất cả các ngõ ra. Chúng tôi
đoán bọn Tây sẽ chặn hướng đông là hướng ra đường 20, cách Tà Lài
mười bảy cây số; đồng thời chúng sẽ chặn hướng tây là hướng về Thủ
Dầu Một, và nhất là chặn hướng nam là hướng về Biên Hoà dọc sông
Đồng Nai. Tôi cho rằng Pháp không quan tâm mấy đến hướng bắc đông
bắc là hướng càng đi càng vào rừng sâu, lên núi cao, dân cư toàn là
người thiểu số, hướng ngược dòng sông Đồng Nai đầy gành thác. Cho
nên tôi đề nghị với anh em là ta nên đi theo hướng ngược sông, hướng
vào rừng sâu, núi cao, tuy dễ bị sốt rét rừng, nhiều cọp beo, nhưng
là hướng mà địch ít ngờ nhất, còn ta thì đã chuẩn bị lương thực,
thuốc men khá đầy đủ rồi, có thể chịu đựng một tháng hoặc hơn thế.
Vào một đêm tối trời đầu tháng ba năm 1941, thời giờ vượt ngục đến.
Tôi tiếp mấy người cai đội mới lên đổi gác, những cuộc tiếp ấy đã
thành lệ, cùng họ uống trà, đàm đạo, trong một cái chòi tứ giác ở
gần nhà y tế, còn bảy đồng chí khác đã bí mật tập kết tại một địa
điểm bờ sông. Buổi tiếp xong, tôi gọi Tào Tỵ lại, báo cho Tỵ biết
rằng đêm nay tụi tôi ra đi, Tỵ ở lại để giữ vững tinh thần của anh
em, và để lập kế sao cho Tây tà không thể sao biết sớm là ông Giàu
đã đi khỏi trại. Tỵ được lệnh phải ở lại. Ông Trương Phi ấy nổi
nóng, phản ứng dữ, nhưng mau chóng tuân theo quyết định của Đảng ủy.
Tỵ phải vào mùng của Giàu, đắp mền, nằm im cho đến gần sáng, đề
phòng khi lính đi rỏn nửa đêm thấy vắng ông Giàu, Giàu nằm đầu sập
tre trại một, lính tuần tra đêm đêm vẫn ghé coi ông Giàu còn đó hay
không. Gần sáng Tỵ sẽ báo lại với anh em rằng hồi hôm Giàu, Văn,
Phúc,… đã đi rồi. Đến lúc đó đoàn vượt ngục đã đi cách xa trại giam
mấy chục cây số bằng đường sông ngược lên phía đông bắc, hướng an
toàn nhất. Sáng ra, thay mặt cho các trại viên còn lại, Tỵ sẽ đem
bức thư của tôi gởi cho sếp căng. Thư ấy, Tô Ký còn thuộc lòng dù đã
mấy mươi năm sau. Trong đó tôi viết:
“Ông sếp căng:Hôm nay chúng tôi ra đi, xin để lại mấy dòng từ biệt.Chúng tôi ra đi không phải trước hết vì muốn gặp cha mẹ, vợ con.Gặp lại sao được trong tình cảnh tù vượt ngục?Chúng tôi ra đi, nói thật, không phải vì chế độ căng quá khắc nghiệt. Ở căng tuy khổ – mà ở nhà tù nào lại không khổ – nhưng ông sếp không ác. Vả lại ông và tôi đã nhiều lần tâm sự với nhau, thông cảm với nhau về cái nhục mất nước, nước ông và nước tôi.Chúng tôi ra đi vì mục đích giải phóng dân tộc chúng tôi, giành lại độc lập tự do cho đất nước chúng tôi.Chắc những người Pháp ở Pháp hiện giờ cũng đang chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân Đức Hitler, nhằm giành lại độc lập tự do cho nước Pháp. Hẳn rằng ông sếp đồng tình với những người Pháp yêu nước đó. Việc làm của họ và việc làm của chúng tôi giống nhau.Mong rằng, chúng tôi ra đi rồi, ông sếp và những người cộng sự của ông sẽ tiếp tục đối xử ôn hoà, phải lý với anh em chúng tôi còn ở lại.Xin chào từ biệt ông.Thay mặt các bạn của tôiTrần Văn Giàu”
Tào Tỵ kể lại: hửng sáng ngày hôm sau, khi anh lên văn phòng sếp
căng báo cáo lại rằng: Trần Văn Giàu và bảy người đã trốn đi từ bao
giờ không biết mà có để lại cho sếp một bức thơ, thơ đây. Ménétrier
bình tĩnh báo cáo ngay cho La Rivière, chủ tỉnh Biên Hoà, đồng thời
ra lệnh giới nghiêm ở trại giam: không một ai được ra ngoài hàng rào
dây kẽm gai. Chín giờ, La Rivière lên tới Tà Lài, liền tập hợp tù
nhân, la hét, đe doạ và tuyên bố: “Trong vài ngày, lâu nhất là một
tuần, các ngươi sẽ thấy người Mọi đem đầu của Trần Văn Giàu và đồng
bọn treo ở trước cửa trại giam”.
Hết Phần Thứ Nhất
1
Ma ca bông: biến âm từ danh từ tiếng Pháp
vagabond, người vô gia cư, lưu lãng, thường có ý xấu (ma
cà bông, ma cà cúi, lúi húi đi tìm).
2
Mã tà: hay ma tà, gốc từ tiếng Mã Lai mata
mata, chỉ chung lính cảnh sát, công an. Giữa thế kỉ XIX,
mã tà chỉ một loại lính trong quân đội thực dân, cũng
như ma ní (người gốc Phi luật tân). Trong Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861), Nguyễn Đình Chiểu viết: “Kẻ
đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn
kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng
súng nổ.” và “Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng
vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở
lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng
thêm hổ.”
3
Tức Mười Ký, tên trong nhà của Trần Văn Giàu.
4
Bãi thực: tức tuyệt thực, nhịn ăn để phản đối hay đòi
hỏi điều gì.
5
Có lẽ đây là cuộc tuyệt thực nổi tiếng tháng mười năm 1936 ở
Khám Lớn của Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo (bản đánh máy
viết nhầm là Tạ chăng?), Tạ Thu Thâu.
6
Lính khố xanh: cùng với Lính khố đỏ, là những
người Đông Dương ở trong các đơn vị “bản xứ” của quân đội
Pháp. Quân phục của họ là quần áo chẽn, nón dẹp (sau đổi nón
chóp), và giải thắt lưng (quần) màu đỏ (xanh) buộc ở bụng,
đầu giải buông thõng ở bẹn giống như cái khố nên người dân
Việt mới gọi là "khố đỏ/xanh". Khố đỏ là lính chính
quy (tirailleurs), khố xanh (miliciens) là địa phương
quân (cấp tỉnh).
7
Mặt trận bình dân (Front Populaire): Liên minh phái
tả nghị trường Pháp (1936-1937) gồm Đảng xã hội SFIO, Đảng
cấp tiến (Radical), có sự ủng hộ của Đảng cộng sản (không
tham gia nội các), mang lại nhiều quyền lợi vật chất và tinh
thần cho các thành phần lao động Pháp. Về đối ngoại, chính
quyền Léon Blum không dám ủng hộ chính quyền cộng hòa Tây
Ban Nha chống lại cuộc phản loạn của Franco. Đối với các
chính sách thuộc địa, chính quyền Léon Blum đề ra một vài
cải cách nửa chừng, song đã bị các thế lực thực dân vô hiệu
hóa. Tuy nhiên, thời kì này đã có tác dụng rất tích cực đối
với phong trào đấu tranh dân chủ, hợp pháp và bán hợp pháp ở
Việt Nam. Đảng Cộng sản đã vực dậy sau cuộc đàn áp 1931-32.
Tự do báo chí được mở rộng hơn (hẳn bây giờ). Dòng văn học
hiện thực nảy nở.
8
Ách: adjudant (thượng sĩ); đội: sergent (trung
sĩ); cai: caporal (hạ sĩ).
9
Căng:
camp (trại).
10
Trảng: vùng đất trống, không/thưa cây, ở giữa rừng
(clairière/glade)
11
Mạ hay Châu Mạ: dân tộc Tây Nguyên, ngữ hệ Môn
Khmer, hiện nay khoảng 33 000 người, sống ở các tỉnh Lâm
Đồng, Bình Phước, Đồng Nai (Tà Lài thuộc huyện Tân Phú của
Đồng Nai). Theo Bình Nguyên Lộc, tiếng Việt đã tiếp thu khá
nhiều từ của tiếng Mạ: sét (han rỉ), cẩm lai
(gỗ), cá long tong, chết giấc (ngất đi),
ngầy ngà (hay rầy mắng), thét rồi (mãi rồi),
bậu (dùng để gọi vợ), qua (dùng để tự xưng với
người yêu hay em út), lung (nhiều lắm)
12
Ba Son: từ tên gọi tiếng Pháp Arsenal de
réparation (Công xưởng sửa chữa tàu chiến), xưởng sửa
chữa tàu của Hải quân Pháp mở ra từ 1863 ở ngã ba sông Sài
Gòn và rạch Thị Nghè. Nơi đây Nguyễn Ánh đã từng lập xưởng
đóng chiến thuyền. Nửa đầu thế kỉ XX, Ba Son là nơi tập
trung một đội ngũ công nhân cơ khí (trong đó có người thợ
Tôn Đức Thắng).
13
La Lutte: tờ báo tiếng Pháp, xuất bản tại Sài Gòn.
Chỉ tồn tại từ 1933 đến 1937, tờ báo này có tiếng vang và
ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc đấu tranh chính trị ở Nam Bộ
thời kì Mặt trận Bình dân. Dưới sự chủ trì của Nguyễn An
Ninh, La Lutte (Tranh đấu) tập hợp cả hai xu hướng cộng sản
(đệ tam và đệ tứ) và những người tiến bộ khác. Có thể đọc
thêm bài của sử gia Daniel Hémery “Sài Gòn thập niên 1930:
LA LUTTE tờ báo chiến đấu” (http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/bao-la-lutte/)
14
Thầy chú: giám thị (nhà tù).
15
Chà gạc: dao rừng cán cong, phổ biến trong các dân
tộc vùng Tây Nguyên và miền núi Đông Nam Bộ.
16
Chủ tỉnh: administrateur, viên chức Pháp, cai
quản một tỉnh ở Nam Kì dưới thời thực đan (Nam Kì là thuộc
địa, nằm dưới chế độ trực trị). Ở Trung Kì và Bắc Kì, bộ máy
chính quyền vẫn là bộ máy của triều đình Huế, nhưng tại mỗi
tỉnh, các quan phủ, quan huyện chịu lênh của viên công sứ
(résident) người Pháp.
18
Trần Hữu Độ: nhà văn, bút hiệu Quân Hiến (1887-1945),
quê quán trà Vinh. Chịu ảnh hưởng của phong trào Duy Tân,
dịch sách Tân Thư của Lương Khải Siêu, viết
Tiếng chuông truy hồn
(1925), Hồi trống tự do (1926); năm 1928 bị tù vì tội
« xúi dân làm loạn » (tương đương với điều 88 của Luật hình
sự ngày nay). Ra tù, tham gia phong trào Đông dương Đại hội,
thành lập Tân Văn Hóa Tùng Thư, chịu ảnh hưởng mác-xít, viết
- Biện chứng pháp (1936), Mười một công thức của
Karl Marx làm cơ sở Duy vật sử quan (1936), Đế quốc
chủ nghĩa (1937). Bị giam lần thứ nhì năm 1941.
19
Thiệt chiến: giao tranh bằng lưỡi (thiệt), tranh
luận. Ý nói tới cuộc “thiệt chiến quần nho” giữa Khổng Minh
và bọn nho sĩ Đông Ngô thời Tam Quốc.
21
Dân chúng: tờ báo (tiếng Việt) công khai của Đảng
cộng sản, xuất bản tại Sài Gòn trong thời gian 1938-1939,
cùng trụ sở với tờ báo tiếng Pháp Le Peuple, ở số 43
đường Hamelin (nay là Lê Thị Hồng Gấm).
HỒI KÝ TRẦN VĂN GIÀU III
Xây dựng lại Xứ ủy Nam Kì, vạch ra đường lối và chương trình hành động trong khi mất liên lạc với Trung ương.
Phần thứ ba
TỔ CHỨC LẠI XỨ UỶ
Dự kiến kế hoạch kỹ mấy rồi cuối cùng cũng thấy
thiếu sót. Trong vụ vượt ngục Tà Lài của chúng tôi
cũng vậy thôi. Khi vượt ngục chúng tôi đều nghĩ rằng
và ít nhất là mong rằng, tuy thực dân khủng bố trước,
trong và sau khởi nghĩa Nam Kỳ, là dữ dội nhất từ
trước tới nay, nhưng, “cháy nhà cũng
còn bờ tre” ;
thế nào rồi Xứ uỷ cũng được tổ chức lại sớm hay
muộn, mạnh hay yếu. Cho nên bọn tôi dặn nhau là, trong
hoạt động của mình, trước hết phải xem còn ban lãnh
đạo nào không, xứ uỷ hay tỉnh uỷ, dù là lâm thời
được tổ chức lại sau tháng 11 năm 1940. Nếu có thể,
điều tra kỹ, rồi nhập vào đó hay liên lạc gắn bó,
tránh mọi sự chia rẽ bao giờ cũng tổn hại (hồi 1933
khi tôi về tới Nam Kỳ thì trước đó vài tháng Xứ uỷ
Nam Kỳ do đồng chí giáo Long làm bí thư, đã bị địch
tóm gọn nên tôi với các đồng chí Nữ, Bang lập Xứ uỷ
mới mà không lo sinh ra chia rẽ nghi ngờ nào). Bây giờ,
sau một thời gian dài hoạt động, ở hầu khắp các tỉnh
Nam Kỳ, cả đồng chí Phúc, tôi và các đồng chí Tà Lài
về, như nhau, đều không thấy dấu hiệu sống còn của
một xứ uỷ, một tỉnh uỷ nào hết. Cho nên, cuối cùng,
do tình thế bức bách, Phúc phải họp hội nghị đại
biểu các “tỉnh uỷ” lâm thời của anh lập ra rồi,
để bầu một xứ uỷ. Và tôi, cũng tựa như thế phải
họp hội nghị đại biểu các “ban cán sự” thành và
tỉnh của tôi dựng lên, để chỉ định một “ban cán
sự miền Đông” nhằm lãnh đạo chung. Khi ấy, vào năm
1943, Phúc và tôi chưa gặp lại nhau tuy đã có hẹn trước,
khi cần thiết thì lấy nhà bác hương trưởng Hoài (quận
Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho) làm địa điểm liên lạc, ở
đây sẵn có Khuy trong toán ba anh em Tà Lài vượt ngục
trước tiên.
Việc phải đến, đã đến. Tôi từ U Minh về, đầu năm
1943, đã ghé nhà bác hương trưởng Hoài. Ông này ở cách
nhà cha mẹ tôi không đầy mười cây số. Nhắc chuyện
cũ là năm 1926, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Sài Gòn
xuống lục tỉnh thì cụ bắt đầu ghé nhà ông hương
trưởng Ninh (là bố vợ, từ 1930) của tôi ; ông hương
trưởng Ninh đưa cụ Sắc qua bác Hoài, bác Hoài đưa cụ
Sắc đi Bến Tre, v.v… Tôi đã qua nhà bác Hoài từ năm
1933. Lần này đầu 1943, ghé nhà bác Hoài, tôi được
Khuy báo cáo hoạt động của anh ấy ở Mỹ Tho, Gò Công
và một phần nào hoạt động của Phúc ở đồng bằng
sông Cửu Long. Rồi, lên Sài Gòn, tôi bắt đầu theo dõi
đồng chí Mười Thức, thợ giày thành phố, để giúp
tôi hoạt động. Thức khi ấy là rể của ông Hoài, còn
Khuy là con nuôi. Lên tới Sài Gòn, tôi lập ngay ban cán sự
Thành, với ba đồng chí Oanh, Chí, Thức. Cả ba anh đều
là công nhân lao động đã từng hoạt động cách mạng,
suốt thời kỳ Mặt trận bình dân, quen biết rất nhiều
; vài năm nay các anh nằm im vì không được ai dẫn dắt.
Từ năm ngoái sau khi tôi ghé nhà Bảy Trấn, ở đó mấy
ngày, thì nhóm Phú Lạc có đi bắt liên lạc với nhiều
đồng chí ở hai tỉnh Chợ Lớn và Gia Định, cả Tân An
nữa. Liên lạc thôi chớ không tổ chức và hoạt động
gì, nhưng nhờ đó mà, đầu 1943, sau Ban cán sự Sài Gòn,
tôi đã tổ chức được Ban cán sự tỉnh Chợ Lớn, rồi
Ban cán sự tỉnh Gia Định, tới Ban cán sự tỉnh Tân An,
tỉnh nhà của tôi. Các đồng chí Hoằng (Tân An), Hoành
(Chợ Lớn), Tổng, Công, Khương, Nỉ (Gia Định) hoạt
động đắc lực. Tôi với tay đến Thủ Dầu Một, tìm
được Văn Công Khai, thợ cúp tóc là một “đồ đệ”
hồi ở Khám Lớn. Tới Biên Hoà, tôi liên lạc với Châu,
nguyên là cán bộ đã từng hoạt động với tôi ở quận
Càng Long (tỉnh Trà Vinh) từ năm 1933. Đồng chí Phải,
cựu sinh viên đại học Đông Phương, khoá trước của
tôi, nay ở Bà Rịa cũng hứa hoạt động trong tỉnh Bà
Rịa và thị trấn Vũng Tàu. Chưa bắt được mối ở Tây
Ninh. Thế nhưng bấy nhiêu “ban cán sự” đó nếu hợp
tác với các “tỉnh uỷ lâm thời” của Phúc, đã đặt
ra yêu cầu phải có một Xứ uỷ chính thức đủ danh
nghĩa lãnh đạo các đảng bộ toàn Nam Kỳ. Mà, cho đến
nay chúng tôi chưa thấy tăm hơi nào của một Xứ uỷ còn
sống sót sau đại khủng bố 1940-1941. Phúc nhạy bén và
bạo dạn hơn tôi ; vì vậy mà anh tổ chức đại biểu
hội nghị xứ ở Chợ Gạo tháng 10 năm 1943. Còn tôi,
không biết phải e dè cẩn thận hay là không nhạy bén
bạo dạn bằng, tôi quả thật sợ một cuộc đại biểu
hội nghị xứ đông đảo bị lộ bí mật, bị địch tóm
gọn trong lúc mới khôi phục, thì biết bao giờ mới vươn
lên nổi. Cho nên tôi vắng mặt ở hội nghị Chợ Gạo.
Tuy rằng lúc ấy tôi ở Phú Lạc chớ không đâu xa, từ
Phú Lạc đi Chợ Gạo bằng xe đạp chỉ mất một buổi
sáng. Vậy mà, anh em vẫn bầu tôi làm bí thư. Tôi cảm
động biết mấy ! Cơ sở của Phúc ở miền Trung, miền
Tây là chủ yếu ; cơ sở của tôi ở Sài Gòn và miền
Đông 1
là thứ yếu ; hai cánh hợp nhau thì có một Xứ uỷ chánh
thức khá mạnh từ gần cuối năm 1943.
Bầu cử Xứ uỷ, là một thành công lớn, lớn nhất từ
sau ngày vượt ngục Tà Lài. Tuy vậy, hệ thống và cơ sở
Đảng ở toàn bộ Nam Kỳ vẫn còn là vấn đề lớn, rất
lớn. Đi đôi với vấn đề tổ chức và vấn đề đường
lối chính trị mà bọn tôi biết bao lần đặt ra nhưng
chưa hề được giải quyết ổn thoả. Ổn thoả sao được,
bởi vì, giỏi mấy mình vẫn là một địa phương thôi.
Còn Trung ương 2
thì có những quyết nghị gì, mình hoàn toàn không biết.
Ở đây, tôi muốn nói thêm rằng nhà bác hương trưởng
Hoài, tuy bọn cầm quyền thực dân không đứa nào không
biết là nhà cách mạng, nhưng thực tế là một nơi dung
thân rất tốt của nhiều đồng chí : nhà ông ở xa trong
vườn, từ lộ cái vào phải hơn cây số vườn dừa,
trên đường vào có rất nhiều cầu qua mương, cầu bằng
thân cây dừa, xe đạp qua phải dắt, trên đường vào
toàn là nhà tá viên, bà con, ai coi bộ khả nghi thì người
nhà lấy chày giã gạo gõ nhịp trên cối giã làm hiệu.
Sau nhà bác hương trưởng là vườn, là dừa nước, là
sông rạch chằng chịt, thoát ra một phút thì có trời mà
kiếm. Tôi hay nghỉ ngơi, để viết sách, ở nhà bác
hương trưởng ở Tân Thuận Bình, Chợ Gạo, là vì vậy.
Nơi đây, từ 1943 tôi tổ chức một “nhà in”, một
“nhà xuất bản” in phát một số quyển như “Việt
Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của dân tộc”
thường ký tên là “Xuyên Vân Nhạn” 3,
mà mục đích là giúp các đồng chí tuyên truyền chống
“chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật, chống “Chủ
nghĩa Liên bang” cũng gọi là “chủ nghĩa Pháp Việt
phục hưng” của Decoux. Gây lại tin tưởng vào tiền đồ.
Xác định đường lối cách mạng
Việc lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ như vậy là đã xong về
cơ bản ; nói rằng làm xong về cơ bản nghĩa là sau khi
đã gây dựng lại một số tỉnh uỷ lâm thời (theo cách
của Dương Văn Phúc) và một số ban cán sự tỉnh hay
thành (theo cách của tôi), vấn đề còn lại về tổ chức
là các tỉnh thành phải lo gây dựng lại cơ sở của
mình, tập hợp lại quần chúng vài ba năm nay bị rời
rạc, tan tác. Xét ra thì việc lập lại Xứ uỷ tất
nhiên là một việc khó mà tương đối dễ ; bọn tôi có
kinh nghiệm bản thân, riêng tôi đã từng thực hiện loại
nhiệm vụ đó hồi 1933, thành công và thất bại ở những
chỗ nào, đến nay tôi hãy còn nhớ kỹ như là nhớ
chuyện ngày hôm qua ; phần khác những đồng chí nào
“kinh cung chi điểu” 4
thì thôi, chớ nếu đã đồng ý lãnh nhiệm vụ mới thì
đều là những đồng chí từng kinh qua cấp uỷ của Đảng
hay của hội, nhiều hay ít đều được quần chúng tin
cậy. Khó mà dễ là như vậy.
Còn hai việc lớn nữa phải làm cho tốt, cho mau ; một là
phải nỗ lực làm sao cho Đảng ở Nam Kỳ, sau một thời
gian tan vỡ, trở lại mạnh như trước, mạnh hơn trước,
ngõ hầu theo kịp với tình hình thế giới và trong nước
chắc chắn sẽ biến chuyển nhanh về hướng có lợi cho
cách mạng. Việc này là bình thường, là thường xuyên.
Hai là phải xác định đường lối cách mạng, xác định
đặc điểm và triển vọng của tình hình, đề ra các
nhiệm vụ cần kíp trên con đường chiến đấu của đất
nước và của địa bàn mình phụ trách. Việc này, thoáng
qua thì hình như là dễ, ta đã sẵn có đường lối chiến
lược “cách mạng tư sản dân quyền” từ năm 1930 rồi
kia mà, sau luận cương cách mạng tư sản dân quyền thì
ta đã có “chương trình hành động” phổ biến từ
1932, được Quốc tế Cộng sản tán thành kia mà.
*
Thật thà mà nói, Văn, bạn học tôi trường Stalin, Văn
nay đã chết rồi, chết từ 1941, chết trong tay mật thám,
thì không còn đồng chí vượt ngục nào có khả năng lý
luận khá. Toàn là những tay hoạt động thực tiễn giỏi
mà ít lý luận. Kể cả Phúc ; Phúc kiên trì hoạt động
thì ít ai hơn, ít ai bằng, nhưng ít đọc, càng ít viết,
Phúc (Bà Rịa) thì học nhiều mà không hoạt động tích
cực. Tây thì viết được mà chưa chịu ra. Nhiệm vụ
vạch đường lối rơi vào tôi, túng quá phải gánh, không
chối được, chờ liên lạc với Trung ương, chờ chỉ
thị thì chừng nào mới có ?
Tôi có ý thức rất rõ, có ý thức đầy đủ rằng, ngày
nay lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc đã vào một
thời kỳ mới, thời kỳ chiến tranh và cách mạng chắc
chắn rộng hơn thời kỳ chiến tranh 1914-1918 và cách mạng
vô sản sau chiến tranh đó. Đường lối đã vạch ra từ
hồi 1930, 1932 nay đâu còn thích hợp nữa. Vậy phải có
một đường lối mới thích hợp hơn. Trung ương hội
nghị lần thứ VI họp ở Bà Điểm cuối năm 1939, đã
bắt đầu đề ra một đường lối mới. Mà nay là 1943
rồi, không phải là 1939 nữa. Năm 1939, chiến tranh thế
giới còn là chiến tranh giữa phe Đức phát xít và Pháp,
Anh đế quốc thực dân. Nay chiến tranh đã mở rộng ra
khắp thế giới tây đông, mà mặt trận chính là Đức,
Nga, và nay Anh, Mỹ là tư bản chủ nghĩa, đồng minh của
Liên Xô là xã hội chủ nghĩa. Pháp đã mất nước từ
tay Đức. Hai ba năm trước, một mình Pháp thống trị
Đông Dương, bây giờ Đông Dương bị Pháp và Nhật cùng
thống trị. Thì đường lối cách mạng của Đảng ta
phải như thế nào mới đúng ? Đúng nghĩa là chắc chắn
đưa đến cách mạng thành công ?
Tôi hiểu rằng một cái Xứ uỷ cho dầu là cứng hơn,
vững hơn bọn tôi mấy lần đi nữa, cũng không có quyền
vạch ra đường lối cách mạng là đường lối của toàn
Đảng, toàn quốc ; cho nên xác định đường lối cách
mạng phải là nhiệm vụ của Đại hội Đảng hay là của
Ban chấp hành Trung ương Đảng, các cấp bậc ấy mới có
đủ quyền hạn. Nhưng ở Nam Kỳ bấy giờ không còn có
cơ quan Trung ương cũng không còn có uỷ viên Trung ương
từ sau những vụ bị bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm
và xung quanh cuộc khởi nghĩa 1940. Ngày nay nhìn lại thì
thấy rằng mãi cho đến sau cách mạng tháng Tám, chúng
tôi, không biết có nghị quyết hội nghị Trung ương lần
thứ VIII – một cuộc hội nghị Trung ương có Nguyễn Ái
Quốc tham dự 5.
Lúc đó chúng tôi cảm giác bơ vơ trong một thời cuộc
cực kỳ rối và khó. Phải tự vạch đường mà đi hay
là phải chờ đợi ? Mà chờ đợi đến chừng nào ? Chờ
đợi ai ? Trong lúc không thể dẫm chân một chỗ. Mà thời
thế xem chừng như là cấp bách. Sau Stalingrad rồi! Người
chiến sĩ cách mạng, đoàn thể cách mạng cần biết tự
động, có sáng kiến, phải sáng kiến tự động giống
như một sĩ quan cầm đầu một đơn vị chiến đấu đang
cơn hỗn loạn ở chiến trường, đứt liên lạc với cấp
trên và với tả hữu, tất phải tự động sáng kiến mà
tiến thoái. Nhớ lại hồi 1933, Xứ uỷ cũ không còn, Xứ
uỷ mới vừa thành lập, Trung ương không có, các bạn và
tôi vạch lấy con đường mà đi ; trong nhiều việc mới
chưa có tiền lệ, như việc tranh cử hội đồng thành
phố Sài Gòn, Xứ uỷ đã tự mình giải quyết đúng đắn,
lần đầu tiên kết hợp bí mật và công khai, dám sử
dụng các cơ hội hợp pháp để hoạt động cách mạng,
nhờ đó một phần mà gây lại được phong trào quần
chúng rộng lớn và sôi nổi ở Nam Kỳ. Bây giờ, mười
năm sau, tình thế đơn độc thì giống mười năm trước
mà tình hình chính trị của thời chiến ngày nay gay go
hơn biết mấy ! Nhưng rồi cũng phải tự vạch con đường
mà đi thôi. May là, trong Nam, từ cuối 1939, đã có nghị
quyết Trung ương lần thứ VI. Mà Trung ương hội nghị
lần thứ VI họp trong lúc ở châu Âu đã nổ ra chiến
tranh giữa Đức và Pháp, Anh, chưa có chiến tranh Đức -
Liên Xô, Pháp chưa bại trận. Á Đông thì quân Nhật chưa
vào Đông Dương, chiến tranh Thái Bình Dương chưa nổ ra.
Bây giờ, 1943, thì tình hình khác xa hồi cuối 1939, chắc
chắn là nghị quyết Trung ương VI còn có nhiều phần ứng
dụng được, nhưng không đủ nữa. Thì làm thế nào bây
giờ ? Suy nghĩ nhiều, thảo luận mãi, chúng tôi, đi đến
chỗ quyết định phải tự trao cho mình trách nhiệm vạch
ra đường lối mà đi tới, đó là đường lối cách mạng
do tôi đề nghị và tôi phải chịu trách nhiệm trước
lịch sử về sai đúng của nó.
Trần
Văn Giàu diễn thuyết tại Nhà hát lớn
Hà Nội ngày 13.03.1946 (mít tinh về
tình hình mặt trận Nam Bộ)
Hà Nội ngày 13.03.1946 (mít tinh về
tình hình mặt trận Nam Bộ)
Phúc sau này lấy tên là Năm Đông 6,
thấy tôi lúng túng nên đề nghị hãy lấy nghị quyết
Trung ương thứ VI làm cơ sở của đường lối rồi thi
hành châm chước theo tình hình mới, như vậy sẽ “hợp
pháp” hơn. Văn và Phúc chỉ có hai người trong đám vượt
ngục Tà Lài đã được biết nghị quyết ấy song cũng
chưa bao giờ nghiên cứu cho thấu đáo, cho nên, học lóm,
tôi chỉ biết vài nét đại cương ; nay Văn chết rồi,
còn Phúc thì quên ráo, trừ ra cái nhiệm vụ phải thừa
cơ chiến tranh thế giới để làm cách mạng giải phóng
thành công. Tìm kiếm mãi, tôi bắt gặp mấy đoạn chép
tay nghị quyết VI ở nhà Prigorny (Trân 7
- Phú Lạc) giấu trên mái lá của chuồng trâu. Tôi hết
sức cảm động khi đọc đoạn chót của nghị quyết,
lời kêu gọi thống thiết toàn thể đảng viên cộng sản
:
“ Các đồng chí ! Thời cuộc hết sức
nghiêm trọng,
nhiệm vụ mà lịch sử phú thác cho ta rất nặng nề. Là
những phần tử tiên tiến của giai cấp thợ thuyền và
là những con cháu tinh anh tận tụy với công cuộc giải
phóng dân tộc, chúng ta phải giác ngộ rõ cái sứ mệnh
lớn lao ấy và đủ can đảm, đủ nghị lực, đủ sáng
suốt để gánh vác nó.
Các đồng chí hãy xiết chặt hàng ngũ lại
!
Muôn người cố kết như một !
Tiến lên thực hiện Mặt trận thống nhất
dân tộc phản
đế Đông Dương.
Tiến lên lật đổ ách đế quốc, tranh lấy
độc lập,
giải phóng tự do, bình đẳng, hoà bình, hạnh phúc…”.
Và kêu gọi thống thiết toàn thể đồng bào :
“Anh chị em đồng bào !
Dân tộc chúng ta đứng ở vào tình thế một còn một
mất.
Là dòng dõi tinh anh của Trưng Vương, Triệu Ẩu, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng, lại là
dân tộc đông nhất, dân tộc Việt Nam hãy mau mau đoàn
kết lại, thống nhất Trung Nam Bắc, liên hiệp với Miên
Lào và tất cả các dân tộc thiểu số khác dưới ngọn
cờ Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương, kẻ xuất công người xuất của, ra sức đấu
tranh chống đế quốc chiến tranh và giải phóng các dân
tộc Đông Dương ra khỏi đế quốc Pháp.
Chỉ có chiến tranh giải phóng mới thật là chiến tranh
vì công lý, tự do”.
Đọc nghị quyết tháng 11 năm 1939, tôi chú ý đặc biệt
đến một số tư tưởng mang nhiều tính sáng tạo so với
luận cương cách mạng tư sản dân quyền (1930) và Chương
trình hành động (1932), những tư tưởng đem lại nhiều
gợi ý lớn cho tôi khi tôi phải đề nghị một dự thảo
đường lối cách mạng cho Xứ uỷ 1943. Những tư tưởng
gợi ý đó là :
“Đứng trong một tình thế ít nhiều
khác với tình thế
1930-1931, chiến lược cách mạng tư sản dân quyền bây
giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế
mới. Cách mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu
chốt của cách mạng tư sản dân quyền. Không giải quyết
được cách mạng điền địa thì không giải quyết được
cách mạng phản đế ; không giải quyết cách mạng phản
đế thì không giải quyết được cách mạng điền địa.
Các nguyên tắc ấy không bao giờ thay đổi được ; nhưng
nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực
hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là đánh
đổ đế quốc”.
Ngay khi đọc nghị quyết, tôi liền thấy rằng đây không
phải là “các nguyên tắc
ấy - cách
mạng phản đế và
điền địa song song, không tách, không cái nào thứ nhất,
cái nào thứ yếu - không bao giờ thay đổi được”.
Thực tế thì hội nghị Trung ương 1939 đã “thay đổi”,
nguyên tắc ấy, đã chuyển hướng chiến lược, trước
là cách mạng phản đế và điền địa, nay là cách mạng
dân tộc giải phóng, nhiệm vụ phản đế là “chính
cốt” ; không nói tách bạch ra nhưng cũng đã đủ rõ
rằng cách mạng điền địa là thứ yếu, nhưng cần viết
lại sao cho các đồng chí hiểu rằng dù nó là quan trọng
lớn, lớn nào cũng không bằng cách mạng phản đế ; đặt
cách mạng phản đế làm “chính cốt” là cốt để tập
hợp được lực lượng yêu nước của cả dân tộc đến
mức cao nhất có thể được. Đúng là đã có thay đổi
ở nguyên tắc chính. Nghị quyết nói rõ hơn nữa :
“Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế
quốc chiến
tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít
thuộc địa đã đưa đến vấn đề dân tộc thành một
vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu
địa chủ và tư bản bản xứ cũng căm tức đế quốc.
Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền
lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của
cuộc cách mạng, cả vấn đề điền địa cũng phải
nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết”.
Lâm thời không đưa ra khẩu hiệu “tất
cả
ruộng đất về tay dân cày” nữa mà đưa ra khẩu hiệu
“tịch thu ruộng đất của
thực dân và
của địa chủ
phản bội quyền lợi của dân tộc”.
Bạo dạn lắm và rất đúng, rất hay. Về sau, tôi nghĩ
rằng trên thực tế lịch sử, sự chuyển hướng chiến
lược lớn của Đảng ta đã bắt đầu từ tháng 11 năm
1939, còn nghị quyết Trung ương VIII thì tiếp tục và
hoàn thiện một sự nghiệp phát triển lý luận bắt đầu
từ nghị quyết Trung ương VI. Năm 1943, sau khi lập Xứ
uỷ, trong việc tự vạch một đường lối cách mạng,
chúng tôi ở Nam Kỳ, đặc biệt là tôi, đã chịu ảnh
hưởng cực kỳ sâu sắc của nghị quyết Trung ương VI
về sự xác định “nhiệm vụ chính cốt” của cách
mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam. Giống như cái
thời (1928-1929, khi tôi gõ cửa xin gia nhập Đảng Cộng
sản Pháp) mà tôi “phát hiện” ra trong nghị quyết của
Quốc tế Cộng sản đại hội lần thứ VI nhiệm vụ
chiến lược cách mạng điền địa gắn liền với cách
mạng phản đế.
Chưa hết cái sáng tạo của Hội nghị tháng 11 năm 1939,
tại Bà Điểm. Nghị quyết còn nói đến vấn đề tính
chất và hình thức của chính quyền cách mạng đã thành
công. Nghị quyết rút lại khẩu hiệu “lập
chính phủ
Xô Viết công nông” mà đưa khẩu hiệu lập chính phủ
cộng hoà dân chủ mang tính chất đoàn kết rộng rãi bao
gồm nhiều thành phần xã hội ngoài công nông tuy là dựng
trên cơ sở liên minh công nông.
Bạo dạn lắm ; cũng là thức thời lắm !
Vấn đề Miên Lào được quan niệm một cách khác hơn
hồi 1930, 1932 khi ra đời Luận cương chính trị và Chương
trình hành động. Nghị quyết tháng 11 năm 1939 nói :
“Không một dân tộc nào có thể giải
phóng riêng lẻ,
vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy nhất của
đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị.
Không thể có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống
trị ấy mà chẳng liên quan đến cả nền thống trị của
đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương
không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập
một quốc gia duy nhất vì các dân tộc Việt Nam, Miên,
Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền
giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình song sự tự
quyết cũng không nhất định nghĩa là rời hẳn nhau ra”.
Nói một cách khác hơn, rõ hơn, không đặt vấn đề
thành lập Liên bang Đông Dương như hồi 1930 nữa, mà đặt
vấn đề liên minh chiến đấu giữa Việt, Miên, Lào
chống đế quốc thực dân Pháp nhằm giành lại độc lập
cho nhau, mỗi dân tộc Việt, Miên, Lào có quyền quyết
định chế độ chính trị của mình mà cả ba đều ủng
hộ nhau để hoàn thành và bảo vệ nền độc lập đó.
Thế là rõ. Thế là hội nghị tháng 11 năm 1939 đã cho
phép ta đánh đổ một chính sách tuyên truyền “chia để
trị” của Pháp. Duy, ngay sau tháng 11 năm 1939, ta không có
cơ hội để tuyên truyền cổ động rộng rãi cho một
chiến lược đổi mới vừa hợp với lịch sử, vừa hợp
với lòng dân của cả ba dân tộc Việt, Miên, Lào.
Bên trên, tôi vừa nói đến ba chuyển hướng chiến lược
đặc biệt quan trọng của Trung ương hội nghị tháng 11
năm 1939. Ba điều ấy được chúng tôi, hồi 1943-1944, lấy
làm cơ sở để vạch ra đường lối của Xứ uỷ.
Đọc lại một số đoạn của nghị quyết VI, tôi lấy
làm lạ, đồng thời cũng rất cảm động, khi thấy rằng
cuối năm 1939, trong lúc Thường vụ Trung ương còn toàn
vẹn và an toàn mà hội nghị đã đặc biệt chú tâm đến
vấn đề nối chắp liên lạc dưới trên, Nam Bắc trong
Đảng bị địch làm tổn hại nguy hiểm. Nghị quyết nói
phải :
“Tìm cách khôi phục hệ thống Trung
Nam Bắc và phải
làm cho sự liên lạc từ chi bộ đến Trung ương được
khắng khít. Nhất là trong lúc này (là lúc) Đảng thay đổi
chính sách, phải làm cho chính sách ấy phổ cập trong
toàn Đảng… Và trong lúc tình thế nghiêm trọng này,
phong trào quần chúng sẽ tiến tới một tốc độ không
ngờ, nếu các tổ chức Đảng từ trên tới dưới không
liên lạc mật thiết như một người thì Đảng không thể
chỉ huy phong trào một cách đúng đắn được. Phong trào
cách mạng của quần chúng sẽ vì đó mà yếu ớt đi,
cách mạng sẽ không thực hiện được, Đảng ta sẽ mang
tội với vô sản, với dân tộc, với cách mạng toàn thế
giới”.
Chúng tôi càng thấm thía tầm quan trọng đặc biệt của
nhiệm vụ “khôi phục hệ thống Trung Nam Bắc” được
đặt ra ngay từ cuối năm 1939, nhiệm vụ càng cấp bách
vào năm 1943-1944… tới đó mà vẫn chưa thực hiện được,
tới đó mà chúng tôi ở Nam chưa biết Trung ương còn hay
không, còn thì đã vạch ra đường lối cách mạng thế
nào cho tất cả các tổ chức cộng sản đều theo đúng
như vậy. Về sau ai nói đông tây gì mặc kệ, chớ hồi
1943, khi lập lại Xứ uỷ chúng tôi Phúc, Giàu… nhắc
mãi cái câu tâm huyết của nghị quyết VI : “ Nếu các
tổ chức Đảng từ trên xuống dưới không liên quan mật
thiết như một người… cách mạng không thực hiện
được… ta mắc tội với vô sản, với dân tộc…”.
Không đành chịu ngồi chờ, bất đắc dĩ chúng tôi phải
tự vạch ra một đường lối cách mạng mà dù tự tin
mấy cũng không khỏi phải âu lo rằng có thể có sự
khác biệt đáng lẽ tránh được với các đồng chí ở
Bắc Trung. Sau này, ai hiểu được cho tôi thì tôi nhờ,
ai hiểu không được hay không muốn hiểu thì tôi chịu,
chớ bảo nhau “ngồi chờ” quyết không phải là thái
độ của tôi hay của bất cứ người “cách mạng chuyên
nghiệp” nào. Khi ấy, ở Nam Kỳ, ở trong tình thế phải
tự vạch ra con đường để mà đi tới trước, nếu có
sai biệt gì với bên trên (mà chúng tôi không biết chắc
là còn hay mất) thì tôi sẵn sàng chịu phê bình, nhưng
người ta không những phê bình mà còn công kích dữ dội,
ác liệt, cái lối xử sự ấy quả là khó chấp nhận
lắm.
*
Vấn đề “một cổ hai tròng”, ách của hai đế quốc Pháp và Nhật
Hồi cuối năm 1939, đầu năm 1940, chỉ có một mình Pháp
thống trị Đông Dương.
Khi ấy, trong những năm cuối thời Mặt trận bình dân,
đứng trước nguy cơ chiến tranh giữa Nhật- Pháp ở Đông
Á, anh Lê Hồng Phong chủ trương “phòng thủ Đông
Dương”. Còn tôi, dù ở trong Khám Lớn Sài Gòn, tôi có
gởi bài đăng ở báo Avant garde chủ trương là “giữa
bệnh dịch tả và bệnh dịch hạch, ta không lựa chọn
cái nào” (entre la peste et le choléra, on ne choisit pas). Khi
ấy, có mặt Honel nghị sĩ cộng sản Pháp được Đảng
Cộng sản Pháp phái sang Sài Gòn, anh ấy phản đối tôi
hết sức dữ dội, và không phải chỉ có một mình Honel
phản đối tôi. Nhưng quần chúng và cán bộ thì bàn tán
nhiều, không phải ai cũng ủng hộ “phòng thủ Đông
Dương”. Anh tuyên chiến với Đức. Đồng minh của Đức
là Nhật đem quân vào Đông Dương, Pháp-Nhật câu kết
nhau.
Ngay từ khi chiến tranh thế giới bắt đầu, Đảng đã
quyết định sẽ nhân cơ hội chiến tranh đế quốc để
làm cách mạng giải phóng thành công, điều này đã ghi
trong Luận cương chính trị 1930 và Chương trình hành động
1932. Giữa năm 1940, Pháp bị Đức đánh bại phải đầu
hàng, một chính phủ chư hầu, tay sai của Đức được
thành lập ở Pháp và Pháp được giữ nguyên các thuộc
địa. Chính phủ thuộc địa tại Đông Dương theo đường
lối của chính phủ Pétain ở Pháp. Quân Pháp theo Pétain
nắm trọn quyền ở Đông Dương. Những từ cuối năm
1940 và đầu 1941, Pháp buộc phải chấp nhận để quân
đội Nhật vào Đông Dương. Từ đó, thống trị Đông
Dương không phải chỉ có đế quốc Pháp mà còn có quân
phiệt Nhật. Một cổ hai tròng là thế. Ai đoán trước
được ? Cuối năm 1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Khởi nghĩa thất bại. Pháp đàn áp dữ dội, khốc liệt
nhất từ khi chúng đến đồng bằng Cửu Long, Đồng Nai.
Khi nổ ra khởi nghĩa Nam Kỳ chưa có đại quân Nhật vào
đây ; nay thì quân Nhật có mặt ở cả Bắc, Trung, Nam,
Miên, Lào nữa, đóng căn cứ hành quân khắp nơi. Nhật
dung dưỡng Pháp và Pháp phục vụ lại Nhật, hai thằng
đế quốc tuy có mâu thuẫn với nhau mà cùng nhau đè đầu
cưỡi cổ dân ta. Nhân dân và cả đồng chí nữa đặt
câu hỏi : một đế quốc Pháp, đã bị phát xít Đức
đánh bại, mà ta còn đánh đổ không nổi, ta còn thua,
nay thêm một đế quốc Nhật, đế quốc đó lại đang
thắng Mỹ, Anh, Hà như chẻ tre, cả hai kẻ xâm lược
Pháp, Nhật cùng thống trị dân tộc ta, thì ta làm sao
đánh đổ nổi chúng để giành lại độc lập ?
Trong câu hỏi có xen ý hoài nghi tiền đồ cách mạng.
Chúng tôi đã trả lời câu hỏi một cách đơn giản mà
không có ai trong số các đồng chí (và trong quần chúng
cảm tình) không cho là đúng :
Pháp sở dĩ chấp nhận để cho quân đội Nhật vào Đông
Dương vì chúng không có sức đương đầu với Nhật, một
trận Lạng Sơn đủ chứng tỏ điều ấy rồi. Đánh Nhật
thì Pháp (ở Đông Dương) chết ngay, mất hết. Nhân
nhượng thì may ra còn. Vả lại, chính phủ Pétain ở Pháp
chịu phục tùng Đức, mà Đức thì muốn cho Pháp cứ giữ
thuộc địa, Nhật là đồng minh của Đức ; cho nên Pháp
ở Đông Dương nuôi hy vọng có thể giữ được bộ máy
cai trị của chúng cho đến ngày hết chiến tranh mà chúng
tưởng rằng phe trục phát xít sẽ thắng.
Nhật tất nhiên là muốn ăn hết miếng mồi Đông Dương
chớ không muốn chia phần cho Pháp. Nhật hất cẳng Pháp
không khó khăn, dễ như móc thuốc lá trong túi. Nhưng nếu
như Nhật hất cẳng Pháp ngay thì cái khó khăn lớn của
Nhật là phải tổ chức ra bộ máy cai trị của chúng,
liệu bộ máy mới có giữ trật tự nổi trong một nước
có truyền thống cách mạng rất mạnh như Việt Nam không
? Chi bằng tạm để quân Pháp ở đó, buộc Pháp nếu
muốn tồn tại để chờ thời, thì một mặt phải làm
việc giữ trị an bằng bộ máy Nhà nước đã xây dựng
từ gần một trăm năm nay, mặt khác phải lo bảo đảm
hậu cần cho quân đội Nhật, cần lương thực có lương
thực, cần nhân công có nhân công, cần tiền có tiền,
bến tàu, sân bay, đường sá đều sẵn. Lợi hơn là trực
tiếp nắm tất cả quyền hành. Mà người chủ thật sự
là Nhật, không phải là Pháp. Đến lúc nào cần thiết
thì Nhật sẽ lật Pháp dễ như trở bàn tay, việc này có
ngày nhất định sẽ xảy ra, vấn đề là sớm hay muộn
chớ hai con chó không thể cùng chia êm một miếng mồi
ngon. Chúng nó sẽ cắn nhau, một con sẽ chết. Con chết
trước là thực dân Pháp. Hai kẻ thống trị sẽ còn một,
hai ách sẽ chỉ còn một, mà ách thống trị còn đó cũng
sẽ không kiên cố lâu dài gì bởi vì Nhật sẽ thua trong
cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trong cuộc xâm lăng
Trung Quốc. Nhật lật đổ Pháp sẽ không có phần trợ
lực nào hết dù là gián tiếp của lực lượng ta, nhân
dân ta đóng góp càng lớn thì cách mạng Việt Nam, cách
mạng Đông Dương càng có điều kiện dễ thắng lợi.
Vậy không có gì phải ngán, phải bi quan với cái sự
thật đáng ghét là một cổ hai tròng, một dân tộc thuộc
địa mà hai đế quốc hè nhau thống trị.
Cũng do nhận định như thế mà tôi đề nghị với các
đồng chí là ta không để ngang hàng thực dân Pháp với
quân phiệt Nhật, ta phải xem đế quốc Nhật là kẻ thù
số một mặc dù nó không ngồi ghế toàn quyền, thống
sứ, thống đốc ; tôi đề nghị khẩu hiệu chiến lược
là “đánh đổ đế quốc Nhật, bài trừ phản động
Pháp, Đông Dương độc lập muôn năm”. Khẩu hiệu này
bao hàm ý nghĩa rằng ta có thể cần phải lợi dụng mâu
thuẫn của Pháp và Nhật, hàm ý nghĩa rằng Pháp, Nhật
đều là kẻ thù của ta, mà bây giờ thì kẻ thù chính
là Nhật ; cũng hàm ý nghĩa rằng Nhật thế nào cũng sẽ
lật đổ Pháp, rằng những người Đông Dương yêu nước
trong trường hợp cụ thể và trong điều kiện nhất định
có thể là đồng minh chiến đấu của phe kháng chiến
Pháp chống Nhật và chống phe Decoux thân phát xít. Về
sau tôi mới biết được ở ngoài Bắc, các đồng chí ta
từ năm 1941,1942 đề ra khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi
Nhật” cho đến khi nổ ra sự kiện 9 tháng 3 năm 1945,
Nhật lật đổ Pháp. Như vậy là trước ngày 9 tháng 3
năm 1945 Nam, Bắc có sự khác biệt không phải đâu đó
muốn khác nhau như thế nào, mà vì hệ thống Đảng chưa
được khôi phục. Nhà làm sử về sau có thể đánh giá
là ở Nam Bộ, và riêng ở tôi, sai đúng tới mức nào,
nặng bao nhiêu nhưng trong vấn đề này, tôi muốn được
thấy rõ sai lầm của tôi nếu quả đó là sai lầm về
khẩu hiệu chiến lược.
Trong một lần Hội nghị Xứ uỷ ở Chợ Gạo năm đó
(cuối 1943), tôi đã yêu cầu các đồng chí chú trọng
đặc biệt đến nhiệm vụ – cũng mang tính chất chiến
lược – đấu tranh tư tưởng chính trị chống “chủ
nghĩa Pháp-Việt phục hưng” của thực dân Pháp ở Đông
Dương và “chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật. Vào
thời điểm đó, trong khi tôi nhận định rằng trong hai
kẻ thù đế quốc, đế quốc Nhật là số một, thì tôi
nhận định rằng trong hai tư tưởng địch thủ, không
cái nào là thứ hai, cả hai đều rất nguy hiểm ; từ năm
1943 trở đi, cái chủ nghĩa Đại Đông Á có sút giảm
ảnh hưởng bởi vì chiến tranh Thái Bình Dương bắt đầu
chuyển sang chiều hướng bất lợi khó gỡ cho Nhật và
bởi vì hơn vài năm nay đám thân Nhật coi như là “mỏi
mòn trông đợi”, mất dần tin tưởng vào Nhật cho đến
nỗi tướng Tòng Tỉnh chủ tịch Liên Á phải sang Sài
Gòn để “trấn an”, để “lên dây cót” cho đám tay
chân người bản xứ, cái xu thế của chủ nghĩa Đại
Đông Á càng lâu càng mất đà, khó gỡ. Còn cái “chủ
nghĩa Pháp-Việt phục hưng” cũng gọi la “chủ nghĩa
Pháp-Việt đề huề mới” của phái Decoux thì với cái
sức mạnh đang chuyển sang đà thắng của đồng minh Anh,
Mỹ, Liên Xô, dẫn đến chỗ thực dân Pháp và đồng
minh bản xứ lâu đời của chúng hy vọng một cuộc khôi
phục nước Pháp, hy vọng vào hoạt động của De Gaulle
và đám gaullistes ở Đông Dương. Cho nên, trên cơ sở
đường lối cách mạng (mà chúng tôi tự vạch ra), cuộc
đấu tranh tư tưởng chính trị chống chủ nghĩa
“Pháp-Việt phục hưng” và “chủ nghĩa Đại Đông Á”
được chúng tôi xem như là điều kiện cốt yếu để
đẩy phong trào cách mạng tới thành công. Về sau, tôi
nhận thấy rằng, trên mặt trận này, chủ trương đường
lối ở Bắc và ở Nam không có khác biệt nhiều, duy ở
trong Nam lực lượng thân Nhật, tiêu biểu là các giáo
phái, to lớn lắm, hoạt động dữ lắm, đấu tranh với
họ vừa vất vả, vừa tế nhị hết sức. Những quyển
sách loại “bỏ túi” của tôi phát hành lúc đó chống
“chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng” (hay là “chủ nghĩa
Liên bang của Decoux), chống “Chủ nghĩa Đại Đông Á”
của Nhật có giúp cho anh em ta tuyên truyền cách mạng,
khôi phục lòng tin vào cách mạng, nhưng phải nói rằng
có tác dụng quyết định trong việc khôi phục lòng tin
vào cách mạng là những chiến thắng của Hồng quân Liên
Xô từ Stalingrad trở đi.
Vấn đề tập hợp lực lượng
Vấn đề tập hợp lực lượng để đi tới khởi nghĩa
cách mạng là vấn đề rất lớn trong việc xác định
đường lối sau khi đã rõ đối tượng tính chất của
cách mạng. Nói giải phóng dân tộc, giành độc lập, các
thời kỳ, các tổ chức, các vị yêu nước đều nói ;
nhưng tới nay thì chưa ai làm được. Khởi nghĩa Yên Bái
1930, khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, đều biểu hiện ý chí giải
phóng dân tộc, nhưng đều thất bại ; một trong những
nguyên nhân lớn của sự thất bại là đã chưa tập hợp
đủ lực lượng để làm cách mạng. Nam Kỳ 1940 tập hợp
được lực lượng nhiều lần hơn Yên Bái 1930, mà cả
hai đều thiếu ; Nam Kỳ khởi nghĩa, ngay khi nhìn ở tầm
địa phương, cũng là một cuộc nổi dậy với lực lượng
tập hợp còn xa mới đủ : công nhân lao động thành thị
chưa nổi lên, không có binh lính nổi lên, đa số các
quận huyện không có nổi lên và ngay nông dân ở các
quận huyện có khởi nghĩa cũng chỉ một số ít cầm vũ
khí đánh giặc Pháp. Vả chăng, trong một cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, nếu chỉ có công nông binh trong tổ
chức của Đảng nổi lên thì một sự tập hợp lực
lượng như thế vẫn còn hẹp hay là chưa đủ rộng lớn
cần thiết. Xứ uỷ chúng tôi nhận định như vậy. Nhận
định như vậy, quyết không phải là “chê” các đồng
chí lãnh đạo khởi nghĩa 1940, nhận thấy khuyết điểm
ấy là để xác định rằng muốn khởi nghĩa thành công
phải có không chỉ hàng vạn mà hàng ức triệu người
nhất tề nổi lên mới được.
Từ nay cho đến khi có thời cơ khởi nghĩa, phải làm cho
kỳ được những gì trong trách nhiệm tập hợp lực
lượng ?
– Phải chú trọng đặc biệt vào công nhân, người lao
động ; chú trọng vào công chức của chính quyền ở
thành thị, trước hết là ở Sài Gòn đầu não ; thật
sự biến các xí nghiệp lớn và các công sở chính làm
“thành trì của cách mạng”, giống như đặt quả bom,
đặt trong bụng của địch nhân, như đóng cái đinh vào
đầu của chúng ; nếu quả ta tính đánh địch một đòn
chết tươi thì phải đánh thẳng vào bộ não, trái tim
của chúng ; có thể nghĩ ngay bây giờ là ngày mai, khi nổi
lên khởi nghĩa, ta sẽ chiếm các công sở Sài Gòn chủ
yếu bằng lực lượng cách mạng ở trong công sở đó.
Vậy từ bây giờ, ta phải dồn phân nửa sức mạnh của
đảng bộ vào công tác trọng tâm này, để không bao giờ
lặp lại cái dở tai hại của tháng 11 năm 1940, là nhiều
nơi ở nông thôn nổi lên mà Sài Gòn thì lại yên tĩnh.
– Phải thu hút đông đảo nông dân cho bằng và nhiều hơn
hồi 1930-1931, 1937-1938, đặc biệt là, ở mỗi tỉnh, ta
phải tập trung nhiều cán bộ giỏi hoạt động tổ chức
tuyên truyền ở các quận huyện gần châu thành của tỉnh
ấy là chính chớ không phải dàn đều ; cũng ra sức hoạt
động tổ chức tuyên truyền ở dọc theo các đường
giao thông huyết mạch. Trong toàn bộ Nam Kỳ thì nông vận
phải chú trọng riêng các tỉnh xung quanh Sài Gòn, làm
sống lại và mạnh hơn lên cái “vành đai đỏ” từng
nổi tiếng để có ngày tiếp ứng mãnh liệt cho lực
lượng khởi nghĩa của thành phố.
– Phải phát huy truyền thống binh vận và nắm cho kỳ
được số lính khố xanh ở Sài Gòn, Chợ Lớn và mỗi
tỉnh. Từ ngày Pháp đầu hàng Đức và dạ dạ vâng vâng
trước Nhật thì công tác binh vận có nhiều cơ hội
thành công hơn trước. Lênin đã làm khởi nghĩa ở
Petrograd với nhiều đơn vị lục quân và hải quân của
chính quyền tư bản. Năm 1940, các báo cáo về kết quả
binh vận là không đúng thực tế. Chúng tôi biết rõ tầm
quan trọng của binh vận, nhưng khác xa với Quốc dân
đảng, chúng tôi cho rằng chỉ khi nào chúng ta tập hợp
được một lực lượng công nông thật lớn thì binh lính
mới mạnh dạn đứng về phe cách mạng.
– Phải đặc biệt chú trọng tập hợp lực lượng
thanh niên ở thành thị và nông thôn, không phân biệt là
thanh niên thuộc thành phần giai cấp nào. Nếu ví Đảng
là một con người thì công nhân và thanh niên là tay mặt
tay trái của con người đó. Cả Pháp lẫn Nhật, mấy năm
nay đã chú trọng chinh phục thanh niên. Ta phải cản trở,
đánh bại những cố gắng ấy của chúng. Mấy năm nay,
cũng thấy nảy nở ra ở Sài Gòn và nhiều tỉnh một
phong trào sinh viên, học sinh chưa xác định rõ được
tính chất chính trị, mà điều chắc chắn nhất là Đảng
ta không được để cho tụi tay chân của Pháp, của Nhật
lôi kéo thanh niên ; ta phải quyết tâm giành thanh niên với
chúng. Nhiệm vụ này chỉ có thể hoàn thành tốt nếu
Đảng ta tạo được một sức mạnh lớn công nông liên
minh có khả năng “lôi kéo” các giai cấp trung gian và
nếu Đảng ta có một số cán bộ đại trí thức có
tiếng tăm và nhân cách. Chỗ này lâu nay là một nhược
điểm lớn của Đảng, ta cần phải khắc phục nhanh
chóng. Công tác này rất khó mà không thể xem nhẹ.
– Đặc điểm chính trị xã hội Nam Kỳ là có nhiều
chánh đảng và giáo phái lớn ; có cả chánh đảng hoạt
động dưới hình thức tôn giáo. Phải điều tra kỹ tình
hình đảng phái và giáo phái ở Nam kỳ, xem xét khả năng
“làm đoàn” trong một số phái có đông quần chúng,
phân hoá họ và cảnh tỉnh những cánh nào có thể cảnh
tỉnh, đoàn kết với họ. Công tác này khó khăn và tế
nhị, cần giao cho một số ít cán bộ có năng lực, có
tư cách. Khi cần, ta có thể bàn đến khả năng một số
ít đồng chí có năng lực, có tư cách đứng ra trợ lực,
hướng dẫn cho những người yêu nước nào đó thành lập
chính đảng cách mạng quốc gia, dân chủ, góp phần đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Vào năm 1943 trở đi, sau khi chiến dịch đại thắng của
Hồng quân Liên Xô tại Stalingrad thì các đồng chí cộng
sản nằm yên hay ẩn núp từ 1940, nay bắt đầu được
vực lên về mặt tinh thần ; số anh chị em đó còn nhiều
; có thể và cần phải đưa họ trở lại hoạt động
cách mạng với Xứ uỷ, đó là điều kiện quan trọng để
thực hiện nhiệm vụ “tập hợp lực lượng”. Tập
hợp lực lượng nhân dân tất nhiên phải bắt đầu và
đi song song với tập hợp lực lượng các chiến sĩ cộng
sản bị tan tác sau cuộc khởi nghĩa thất bại 1940.
Hồi cuối năm 1943 đó, khi vạch ra cho mình một đường
lối cách mạng thì tôi và các bạn của tôi chưa đặt
ra và bàn luận vấn đề lập “Mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế” mà Hội nghị Trung ương 1939 ở Bà
Điểm đã đặt ra. Tôi chưa biết có nghị quyết lập
Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) của hội nghị
Trung ương lần thứ VIII, năm 1941, ở Cao Bằng. Cho nên
chúng tôi tổ chức Đảng và hội, để tập hợp lực
lượng, y như hồi Đảng Cộng sản mới ra đời ; cũng
công hội, nông hội như trước chớ không phải “công
nhân cứu quốc”, “nông dân cứu quốc” v.v… (sau tôi
sẽ có dịp trở lại vấn đề này). Còn về việc lập
“Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” thì Nghị
quyết VI không nói rõ sẽ tổ chức ra sao ? Gồm những ai
? hoạt động cách nào ? Tôi nói với các đồng chí trong
cuộc họp để bàn về đường lối cách mạng và những
nhiệm vụ cần kíp rằng, khi nào năm, sáu nhiệm vụ lớn
(đã kể trên) được thực hiện có kết quả thì khi ấy
mới có điều kiện để lập Mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế ở Nam Kỳ ; chớ bây giờ thì chưa có
thể lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế được
; nếu bây giờ lập mặt trận thì mới chỉ có hình
thức, chớ chưa có thực tế bởi lẽ ta chỉ có Đảng
ta và các tổ chức công nông thanh phụ còn yếu ớt của
chúng ta, cái đó chưa phải là mặt trận. Mặt trận theo
đúng ý nghĩa của nó phải là một liên minh chiến đấu
theo một chương trình hành động chung giữa các chính
đảng, các đoàn thể, các giai cấp, các sắc tộc, các
tôn giáo, các thân sĩ tiêu biểu. Nay (1943, 1944) ta chưa có
điều kiện để lập mặt trận ; riêng Đảng Cộng sản
và công hội, nông hội chưa thành mặt trận ; liên minh
công nông là cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất
nhưng chưa trở thành tổ chức mặt trận rộng lớn mà
ta hướng tới.
Vấn đề tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Viết đến đây tôi muốn để ít thời giờ để kiểm
điểm và tự kiểm điểm về vấn đề : Tại sao Nam Bộ
không sớm tổ chức Việt Minh ? Tại sao ? Thời điểm đó
tôi chưa nghe hai chữ Việt Minh ? Tới tháng 7 năm 1945, tôi
mới có chương trình điều lệ Việt Minh trong tay, thì
làm sao hồi 1943,1944 có chủ trương theo đường lối của
hội nghị Trung ương VIII được ? Mà ví phỏng trước
hay trong các cuộc hội nghị đại biểu ở Phú Lạc, Chợ
Gạo tôi đã nắm được chương trình điều lệ Việt
Minh mà chưa được giải thích thật kỹ, chắc gì tôi
không “thắc mắc” về một số điểm trong đó có việc
biến đổi các công hội, nông hội thành “hội công
nhân cứu quốc”. Tuy vậy tôi sẽ tán thành tổ chức
“Hội thanh niên cứu quốc”, “Hội văn nghệ cứu
quốc”, “Hội phụ nữ cứu quốc”. Còn những tổ
chức mang tính chất giai cấp của công nhân, nông dân
(công hội, nông hội) thì bản chất của nó vốn đã đậm
đà chất cứu quốc rồi, bản chất và nhiệm vụ của
nó còn cao hơn là cứu quốc, nên tôi nghĩ rằng việc gì
phải lấy một cái tên khác tiêu biểu chỉ cho cách mạng
phản đế ? Mặt trận Việt Minh mà chúng tôi sẽ tổ
chức ở Nam Kỳ vào giữa năm 1945, sẽ bao gồm : Đảng
Cộng sản, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, đảng
Tân Dân chủ, Cánh tả đảng Quốc gia (Cư sĩ tịnh độ),
Cao Đài cứu quốc, hội binh sĩ yêu nước… không giống
như điều lệ Việt Minh chính thức, cho nên khi đó, một
số anh em mỉa mai gọi chúng tôi là “Việt Minh mới”,
gọi chúng tôi là “Việt Minh mới” là không đúng lắm,
nhưng cũng không phải là không duyên cớ ! Sau này tôi còn
nghe nói “Việt Minh thiệt, Việt Minh giả” nữa ! Phiền
phức quá ! Mà tránh sao được khi đồng chí ở mỗi nơi
đều ra sức tự động thúc đẩy phong trào cách mạng
phát triển, chớ không ngồi chờ.
Tôi nhớ rằng khi ấy các đồng chí ở Nam không mấy ai
quan tâm thực hiện vấn đề Mặt trận. Trái lại thì
anh em quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa giành chính
quyền. Khi ấy, sở dĩ, trong lúc Xứ uỷ Đảng mới khôi
phục, anh em ai nấy đều quan tâm đến vấn đề khởi
nghĩa, hẳn là vì ai nấy đều không thể quên cuộc khởi
nghĩa thất bại năm 1940, dưới thời kỳ của Xứ uỷ do
đồng chí Tạ Uyên lãnh đạo. Phải tránh vết xe đổ,
nhiều đồng chí nói. Đòn đau 1940 hãy còn thấm thía lắm
; nhưng hội nghị vẫn khẳng định với Trung ương VI
(1939) và luận cương chính trị (1930) rằng không thể nào
giành được độc lập mà không trải qua cuộc vũ trang
khởi nghĩa (lúc bấy giờ cũng được gọi là “bạo
động”). Khởi nghĩa, bạo động là thuộc vào đường
lối cách mạng, là bộ phận quan trọng bậc nhất của
một đường lối cách mạng.
Cuối năm 1943, chúng tôi ở Nam Kỳ quan niệm như thế nào
về khởi nghĩa, về “bạo động” cách mạng ? Tôi đã
nhiều lần ra sức thử tổng kết kinh nghiệm của cuộc
khởi nghĩa 1940, rút những bài học lớn. Nay cuối năm
1943, ở các cuộc hội nghị Chợ Gạo, Phú Lạc, để
“hoàn chỉnh” về cơ bản một đường lối cách mạng,
ít nhất là tạm thời trong lúc chưa nối được liên lạc
với Trung ương – tôi đã trình bày những ý kiến chủ
đạo sau :
Thứ nhất là : ý kiến của Nghị quyết VI. Nghị quyết
VI nói :
Muốn đi tới đánh đổ đế quốc, phải huy động dân
chúng chống đế quốc chiến tranh, và kêu gọi lòng ái
quốc chân chính, phát huy những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ; phải biết gắn kết với những quyền
lợi thiết thực của các tầng lớp nhân dân với quyền
lợi dân tộc và kêu gọi thống nhất dân tộc. Cái tinh
thần ái quốc và đòi thống nhất dân tộc, giải phóng
dân tộc càng phát triển thì tinh thần phản đế càng
mạnh mẽ. Mở rộng và nâng cao tinh thần dân tộc, làm
cho mỗi người trong các giai cấp có ý thức về sự tồn
vong của dân tộc và sự mật thiết của vận mệnh dân
tộc với lợi ích cá nhân mình ; đặt quyền lợi dân
tộc lên trên tất cả các quyền lợi khác ; thống nhất
lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh
đổ đế quốc Pháp…
“Xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ
tẻ vào cuộc đấu
tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế
quốc Pháp và bè lũ, dự bị điều kiện bước tới bạo
động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Như vậy nghĩa là giương cao ngọn cờ dân tộc, đi tới
khởi nghĩa vũ trang. Hoàn toàn không vì khởi nghĩa Nam Kỳ
thất bại mà chọn con đường nào khác ; không có con
đường nào khác để giành độc lập dân tộc ngoài con
đường dẫn đến khởi nghĩa, “bạo động” cách mạng.
Mọi sự tập hợp lực lượng đều nhằm vào một trận
thư hùng, một cuộc khởi nghĩa vũ trang quyết thắng,
không có quyền bại.
Trong cuộc chiến tranh thế giới ngày nay, đế quốc Pháp
ở Đông Dương rồi sẽ bị đế quốc Nhật lật đổ.
Cuộc hợp tác ma quỷ Nhật-Pháp sẽ chấm dứt không sớm
thì chầy. Rồi sau đó, phát xít Nhật hùng cường sẽ bị
quân Mỹ, Anh, Trung Quốc đánh bại, việc nhất định
phải đến, sẽ đến, chỉ có sớm hay muộn thôi. Chúng
ta tin chắc rằng không phải là Nhật đánh đổ Pháp thì
tự nhiên đem lại độc lập cho dân tộc ta và cho các
dân tộc Đông Dương, cái độc lập đó cho dù có tuyên
bố cũng quyết không phải là độc lập thực sự mà chỉ
là hình thức thôi, giả mạo thôi ; chúng ta không hề
muốn cái thứ độc lập ấy. Chúng ta cũng chắc chắn
rằng dù đồng minh Mỹ, Anh, Trung Quốc thắng Nhật cũng
không trả lại độc lập cho dân tộc Việt Nam đâu, mà
sẽ trả lại chủ quyền cho Pháp, hay nhiều nhất là họ
đặt chế độ “uỷ trị” và giao lại cho Mỹ và một
đế quốc nào khác. Ta phải nhận thức rõ rằng không
đời nào có “bất chiến tự nhiên thành”, không có
độc lập do ai ban cho mình ; chỉ có độc lập do bản
thân ta chinh phục mới thực sự là độc lập. Độc lập
thật sự chỉ có thể giành được bằng khởi nghĩa vũ
trang, bằng bạo động cách mạng. Một đường lối cách
mạng phải khẳng định điều này, hoàn toàn trái với
lời hứa hẹn của Nhật với các chính đảng và giáo
phái theo chủ nghĩa Đại Đông Á. Cũng khác hẳn với kế
hoạch “Liên bang Đông Dương” lừa bịp của Decoux.
Còn như hỏi : chừng nào mới khởi nghĩa, thì ta trả lời
rằng : khi các điều kiện khách quan đã đủ, đã chín
(hồi 1943,1944 chưa ai dùng chữ “chín muồi”) và khi tập
hợp đủ lực lượng. Còn như lực lượng tập hợp chưa
đủ, điều kiện khách quan chưa chín, mà cứ phát động
khởi nghĩa, là manh động, là khởi nghĩa non, mà non thì
thua. Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, là khởi nghĩa
non, nên thất bại thấy trước.
Hôm đó, một lần nữa, tôi nêu ra cái sai lầm lớn của
các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ. Tất nhiên
tôi không trách Thường vụ Trung ương đã bị bắt gần
một năm trước mà trách hai đồng chí ủy viên Trung ương
còn sót (là anh Tần và anh Lưu) sao không kiên quyết ngăn
cản Tạ Uyên và Xứ uỷ trên con đường bạo động non
dẫn đến thất bại kia. Cuối 1940 đã không có thời cơ
đủ chín cho khởi nghĩa, lại chưa có lực lượng đủ
mạnh cho bạo động, mà cứ bạo động, khởi nghĩa là
làm liều, nổi lên thì rất anh dũng mà thất bại thì
rất lớn, không đáng có. Lần tới, ta phải làm khởi
nghĩa theo khoa học và nghệ thuật Lênin, theo mẫu mực
cách mạng tháng Mười Nga. Nói cho rõ hơn, tôi và các
đồng chí của tôi không ưng ý với chủ trương khởi
nghĩa bằng lực lượng du kích, bằng khởi nghĩa địa
phương, bằng chiến lược “nông thôn bao vây thành thị”.
Tôi thấy hồi 1940 Xứ uỷ Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của
Mao Trạch Đông, việc phát hành quyển “chiến tranh du
kích” vào giữa năm 1940 nói rõ điều ấy. Bằng du kích
làm sao mà giành chính quyền được ? Phải làm khởi
nghĩa cách mạng, một cuộc quyết chiến bằng bạo lực
chính trị và bạo lực vũ trang kết hợp nổ ra trên đỉnh
cao nhất của một phong trào quần chúng, mà địch dù
thấy trước cũng không làm sao ngăn cản nổi, không làm
sao trở tay kịp. Chúng tôi lại đinh ninh rằng một cuộc
khởi nghĩa muốn thành công, phải là một cuộc tổng
khởi nghĩa toàn quốc, không phải là một cuộc khởi
nghĩa địa phương dù là một địa phương rộng lớn và
có tầm chiến lược như Nam Kỳ. Có thể đoán trước
rằng cuộc tổng khởi nghĩa sẽ nổ ra vào khoảng tàn
cuộc của chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào năm
tháng nào khó mà đoán trước, song từ nay tới đo ta phải
nỗ lực.
– Tập hợp lực lượng lớn nhất có thể được.
– Nối hệ thống tổ chức giữa Xứ uỷ với Trung ương
và toàn Đảng.
Đại để, chúng tôi, Xứ uỷ Nam kỳ, vào cuối năm 1943,
đã tự vạch ra một đường lối cách mạng như thế.
Ngoài chúng tôi ra, lúc ấy ở Nam Kỳ không thấy có ai
khác, không biết có nhóm nào khác vạch ra một đường
lối cách mạng.
Ban Tuyên huấn của Xứ uỷ Nam Kỳ lập ngay kế hoạch
phát hành một số sách “bỏ túi” (theo kiểu “cộng
sản tùng thư” hồi 1933, 1934) để phổ biến những vấn
đề thuộc đường lối mà Xứ uỷ đã vạch. Những
quyển sách “bỏ túi” đầu tiên là quyển “Việt Nam
trên đường độc lập”, “Rạng đông của một dân
tộc” của Xuyên Vân Nhạn (tức là tôi) mà sau đó bị
Trường Chinh 8
phê phán. Bộ sách bỏ túi này chú trọng công kích chủ
nghĩa Đại Đông Á của Nhật và chủ nghĩa Liên bang của
Decoux.
Từ cuối 1943, ở Nam Kỳ chúng tôi đã lập lại Xứ uỷ
và Xứ uỷ ấy tự trang bị cho mình một đường lối
chủ trương vận động cách mạng trong khi chờ đợi
những chỉ thị của Trung ương Đảng. Những chỉ thị
của Thường vụ Xứ uỷ cho Ban cán sự Sài Gòn trở
thành một bộ phận cấu thành chủ trương đường lối
của đảng bộ Nam kỳ.
Tôi trở lại Sài Gòn và từ nay tôi để gần hết tâm
lực, trí lực vào hoạt động ở Sài Gòn và các tỉnh
xung quanh Sài Gòn. Trên đường về lại Sài Gòn, tôi ghé
thăm mẹ. Nhà tôi cách Tân Thuận Bình Chợ Gạo khoảng
mười cây số. Từ năm 1941, tôi đã qua lại Chợ Gạo
đến ba lần mà đều “tam quá kỳ lư bất nhập” 9.
Về thăm nhà mẹ
Chuyện lớn phải lo mà chuyện nhỏ đừng
quên. Việc
công là trọng, mà việc tư thỉnh thoảng cũng phải nhớ.
Tôi hay nghĩ lẩn thẩn như vậy, khi ở chân trời góc
biển, tôi luôn luôn nhớ đến mẹ, đến vợ, đến làng
quê ; nhớ lắm.
Từ lâu, 1930, tôi được liệt vào loại cán bộ mà thời
ấy được người ta gọi là “thoát ly gia đình”. Khái
niệm “cán bộ thoát ly gia đình” ở Việt Nam trước
cách mạng cũng giống như khái niệm “cán bộ cách mạng
chuyên nghiệp” (révolutionnaire professionnel) Lênin đã dùng
khi Người viết sách “Làm gì ?”. Lênin cho rằng, để
xây dựng một đảng cách mạng nhất là trong điều kiện
khủng bố trắng, phải có một loại đồng chí làm “cách
mạng chuyên nghiệp” nghĩa là không làm nghề gì khác
hơn là làm cách mạng, số đồng chí đó để hết thời
giờ của mình vào hoạt động cách mạng. Bên Việt Nam
những năm 1920, 1930 (cả hồi đầu những năm 1940 nữa)
bọn tôi lấy cái ý mà không lấy cái từ của sách “Làm
gì ?” ; nhưng trong phiên toà thực dân Pháp xử tôi năm
1935, khi quan toà hỏi : “Ông làm nghề gì ?” thì tôi
trả lời : “Làm cách mạng chuyên nghiệp”. Chớ không
lẽ trả lời : “Tôi thoát ly gia đình” ? “Thoát ly gia
đình” để làm gì ? Có thể là để làm cách mạng, có
thể để làm bất cứ cái gì mà trong gia đình mình làm
không được, không nhất thiết phải là làm cách mạng.
Tuy vậy, tôi vẫn thích thú với khái niệm “thoát ly gia
đình” mà anh em ta dùng thời đó, bởi vì khái niệm ấy,
trong lịch sử xuất hiện của nó, đã có thời bao hàm
một ý nghĩa triết lý, chính trị. Mãi đến sau chiến
tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam còn nhiều gia đình
mang nặng tư tưởng, tình cảm, tập tục Nho giáo phong
kiến ; chẳng những phần lớn là các gia đình thân sĩ
theo đạo Khổng, Mạnh, Trình, Chu đều theo lối xưa như
thế, mà ngay cả một số gia đình trung nông, viên chức,
thương nhân cũng vậy. Tuổi trẻ thường bị ràng buộc
nhiều lắm bởi cương thường Nho giáo đã thâm căn từ
mấy chục đời rồi. Nhưng tuổi trẻ, nhất là tuổi trẻ
có ít nhiều Tây học, thấy rằng mình cần bay nhảy tự
do. Thanh niên Sài Gòn đã vỗ tay hoan nghênh Nguyễn An Ninh
khi anh Ninh tại một cuộc mít tinh ở Nam Kỳ Khuyến hội
học năm 1923, kêu gọi thanh niên hãy đi xa, đi thật xa
nhà tổ phụ để tìm lý tưởng mới, đừng lẩn quẩn
lại xó bếp gia đình chật hẹp và lạc hậu. Đó là cái
lý vào những năm cuối 1920, người ta gọi là “thoát ly
gia đình”, ý đó có nghĩa là chống lại tàn dư tư
tưởng tập quán phong kiến, đi tìm chân trời mới. Nhưng
ngay cả khi anh Ninh khi ấy cũng chưa chắc đã rõ lắm cái
“chân trời mới” đó là gì. Đến khi Nguyễn Ái Quốc
lập Thanh niên cách mạng đồng chí hội vào năm 1925 và
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) thì cái lý tưởng cách
mạng đã rõ. Khái niệm “thoát ly gia đình” ra đời
với nội dung mà Lênin đề ra trong sách “Làm gì ?” :
Đảng cách mạng chẳng những gồm đại đa số đồng
chí là những người lao động tay chân và trí óc, vừa
làm ăn bình thường, cầm búa, cầm cày, cầm bút, vừa
để một phần thời giờ cho công tác tuyên truyền, tổ
chức, hội họp, đấu tranh ; Đảng Cách mạng còn phải
có một số đồng chí dành hết quỹ thời gian của mình
cho hoạt động cách mạng, các đồng chí ấy thường
nhất là không ở tại nhà mình nữa, mà đi xa, nhiều khi
đi rất xa, từ Bắc vào Nam, từ nông thôn ra thành thị,
từ phố phường hay trường học, vào đồn điền, hầm
mỏ, để tuyên truyền, tổ chức, đấu tranh, in phát báo
bí mật, làm bất cứ việc gì dù lớn dù nhỏ, dù an dù
nguy mà Đảng cách mạng cần. Đó là những anh chị em
“thoát ly gia đình”, làm “cách mạng chuyên nghiệp”.
Loại cán bộ này trong Đảng Cộng sản đông tới hàng
trăm. Tôi là một trong số đó.
Từ cuối năm 1930, tôi đã bắt đầu “thoát ly gia đình”,
và trở thành người hoạt động “cách mạng chuyên
nghiệp”.
Ông bà Trần Văn Giàu những
năm
cuối đời
(ở nhà riêng 70 Phạm Ngọc Thạch, TP HCM)
Gia đình tôi không đến nỗi quá phong kiến lạc hậu,
với tâm lý : “cha mẹ còn, con cái không nên đi xa”.
Nhưng tôi vẫn phải thoát ly gia đình, trước tiên bởi
vì nếu không “vào bí mật” thì không hoạt động cách
mạng được, địch theo dõi sát quá và sẽ bắt giam tôi,
bắt luôn cả những ai đi lại với tôi. Thú thật, nếu
Đảng Cộng sản được quy chế hợp pháp hay nửa hợp
pháp, tôi sẽ thích làm người “cách mạng chuyên nghiệp”
mà không “thoát ly gia đình”. Hết ngày công tác tuyên
truyền, huấn luyện, tổ chức, hết đợt hoạt động
náo nhiệt và căng thẳng thì về nhà tìm yên tĩnh âu yếm
với cha mẹ, vợ con, chẳng hơn là đất khách quê người,
ăn trong bếp, ngủ dưới đất, nghe chó sủa đã phải đề
phòng hay sao ? Nhưng “thời thế thế, thế thì phải
thế”. Từ cuối 1930 đến nay (hết 1943), tôi chỉ được
sum họp với gia đình trước sau ba lần, cộng lại chừng
hơn ba tháng. Cha tôi chết ; con tôi chết ; mẹ tôi già,
tựa cửa trông tôi. Vợ tôi hiu quạnh, nước mắt ướt
gối. Tôi nhớ nhà lắm chớ ! Tim tôi đâu phải bằng đá
? Vượt ngục Tà Lài từ đầu năm 1941, đến giờ hơn
hai năm, gần ba năm, tôi chưa lén được về nhà lần
nào. Chị tôi, vợ tôi có bí mật đi thăm tôi. Nhưng má
tôi chỉ biết rằng tôi còn sống, mạnh giỏi, đang hoạt
động cách mạng. Nay, nhân một chuyến đi họp ở Mỹ
Tho, thấy tình hình cho phép. Tôi tạt qua nhà thăm mẹ.
Tôi thèm hôn mẹ tôi và thèm được mẹ tôi xoa đầu như
hồi còn nhỏ.
Thuở tôi còn học trường Tầm Vu, nhà tôi đông người
lắm ; tứ đại đồng đường : cha mẹ tôi, anh chị tôi,
cháu gọi tôi bằng cậu, chú và con của con đầu lòng
anh Năm tôi, chưa kể hai anh ở mùa, cầm cày, đập lúa,
chăn trâu. Nhưng rồi dần dà, anh Năm, anh Bảy, anh Mười
tôi ra riêng, mỗi người trấn một dãy ruộng ; tới
phiên chị Chín tôi cất nhà ở trong vườn. Vợ tôi vì
không có chồng ở nhà nên về bên xã Phú Ngãi Trị với
cha mẹ ruột, mấy tháng mới vô thăm tía má tôi một
lần, mỗi lần tía má tôi được con dâu về thăm thì
hai cụ như sống lại, ít hôm sau gạt nước mắt đưa
con dâu ra cửa ngõ, trông theo mà càng buồn. Rồi tía tôi
chết. Mẹ tôi còn chỉ có một mình. May có đứa cháu
gái goá bụa về ở cùng tại nhà dưới. Nhà tôi bây giờ
giống như một ngôi chùa không tượng Phật, chỉ có hai
bà vãi tối tối đốt nhang, đánh chuông. Cả ngày cả
đêm hầu như không có tiếng động nếu không có con Vện
già sủa trăng hay điểm khách qua đường ngoài cửa ngõ.
Hiu quạnh lắm. Buồn bã lắm. Bà con hàng xóm có người
nói : “Tại chú Út đi đâu mất mới ra cảnh này”.
Người khác bảo : “Ruộng vườn, nhà cửa, vợ trẻ, có
gì cột được chân ông ấy đâu ; làm trai phải vậy chớ
sao ? Nước mất mà nhà an thì cũng hiếm”. Ruộng nhà bị
bán đi lần lần, không còn mấy, trừ ruộng hương hoả
; nhưng nợ nần cũng được trang trải hết. Bồ lúa nhỏ
đi mà vẫn đầy. Túi tiền cạn mà không khổ. Má tôi,
chị tôi, cháu tôi đã sống được lại còn có thể chu
cấp cho tôi sống mà công tác. Vợ tôi tần tảo, nuôi
heo, chà gạo, làm tá điền cho ông Cụ, ăn chung mà làm
riêng nên dư dả, không ai dám khinh miệt, đạo đức
gương mẫu, dân làng kính nể, trong quê ngoài chợ ít ai
bảo con trai bắt chước chú Mười vì gian lao quá, nhưng
rất nhiều phụ huynh dạy con gái hãy theo gương cô Sáu,
một tấm gương chung thuỷ vì nghĩa như Kiều Nguyệt Nga.
Khi mặt trời sắp lặn thì tôi đã băng đồng, từ kinh
Chợ Gạo đi qua chợ Ông Văn, tránh lộ dây thép, tránh
cả lộ me, không sợ lính xét giấy thuế thân, chỉ sợ
gặp người quen. Trong mình tôi có thẻ thuế thân, trong
túi cũng lắm tiền, lưng quần lận một cây súng lục
đầy đạn, vai vác một cây đòn xóc có lủng lẳng một
đôi dép, đầu đội nón lá, chân đi đất, quần áo xềnh
xoàng như nông dân đi đồng. Ma nào mà biết rằng tôi là
ông Giàu đi về thăm nhà ? Vợ anh Hiển, người chợ Ông
Văn, báo cáo cho tôi tình hình tuần tra ban đêm của lính
đồn Ông Văn : “Chẳng có gì đáng lo, tụi lính đi kiếm
ăn ở những sòng cờ bạc. Theo báo cáo mới nhất thì từ
hơn một năm nay, làng lính không còn chú ý đến nhà tôi
nữa vì đã chú ý nhiều năm mà chẳng thấy gì”.
Trời nhá nhem thì tôi đã qua khỏi chợ. Trở ngại xem
như không còn. Cầu Đồn bây giờ không có đồn. Qua cầu
rồi thì tới làng tôi ; nhà tôi ở đầu kia làng, phải
mất một giờ nữa mới tới. Vào thời điểm này, đồng
đã khô vì lúa đã gặt xong. Tôi đi tắt, vừa để rút
ngắn quãng đường, vừa để tránh gặp người. Thời
đó, không ai ăn trộm lúa vì lúa quá rẻ, bán không được,
chỉ có Pháp thu mua để cung cấp cho quân Nhật và để
thay thế cho than đá đốt lò nhà đèn Chợ Quán Sài Gòn
; tôi không gặp một ai trên đường đi. Gần tới vuông
tre nhà tôi, tôi ngồi xuống để xem động tĩnh ra sao,
trước hết để nhìn rõ mộ cha tôi ; tôi mặc niệm hồi
lâu. Cha tôi chết khi tôi còn bị đày ra đảo Côn Lôn.
Chị Chín tôi có lần kể lại rằng trước khi tắt thở,
cha tôi dốc tàn lực, vịn cột nhà đứng dậy, lần theo
vách, vừa đi vừa kêu : “Ký ơi ! Ký ơi ! Con ở đâu
không về với tía”. (Ký là tên tôi hồi tôi chưa đi
học). Người nhà bà con ai cũng mủi lòng, dắt cha tôi
trở lại giường. Như vậy là cái hình ảnh cuối cùng
trong tâm trí cha tôi là đứa con bất hiếu này ! Tôi
nguyện lấy trung với nước mà làm hiếu với cha ; chớ
làm sao khác được ? Nhớ lại lần tôi bị trục xuất
từ Pháp về và hai lần tôi bị Pháp bắt bỏ tù về,
cha tôi không hề rầy la tôi sao không lo công danh, sao
không lo vợ con. Cha tôi không tham gia chiến đấu chống
Pháp như ông nội tôi, nhưng Cụ dù có ruộng vườn cũng
không hề ra làm hương chức. Cụ chỉ làm ông “tiên
bái” lo việc cúng tế thuần làng ; con trai lớn của Cụ
là anh Năm tôi thì tham gia nghĩa quân Thiên địa hội năm
1916, Cụ không ngăn cản.
Ở quê, chín giờ tối đã khuya. Xóm làng ngủ hết. Đường
không còn ai. Quan sát hồi lâu tôi không thấy động tĩnh
gì, bèn vo quần bước xuống một cái cống đào tự bao
giờ, tôi lớn lên đã thấy nó rồi ; cái cống xẻ ngang
bờ tre, cho nước sông lên, cho nước đồng xuống. Phải
vạch ô rô để vào mương, leo lên tiếp mới vào nhà chị
tôi ở góc vườn. Tôi vừa leo lên bờ thì, bất ngờ,
một con vật gì lủi tôi : con chó ; nó định sủa, nhưng
rồi nó nín thinh, nó ngửi được mùi tôi, rồi liếm tay
và vẫy đuôi lia lịa, kêu hự hự, mừng quýnh. Té ra con
Vện già ! Tôi rờ đầu nó, nó đứng lên ôm eo ếch tôi.
Hồi tôi từ Khám Lớn về nhà cách đây ba năm, ngày nào
tôi cũng cho Vện ăn ngon, vuốt ve nó, nói chuyện với nó.
Nó mến tôi lắm. Tối, nó ngủ dưới chân tôi, tôi trải
manh đệm cho nó nằm. Có một buổi tối nọ, mật thám
Tây, phủ Hoài và cả phủ Mai dắt lính đến nhà bắt
tôi thì Vện sủa dữ, bị thằng cò đá một đá, nó la
hoẳng, chạy trốn dưới sàn, nhưng nó dám đưa tôi ra
tới cổng. Bây giờ nó còn nhớ hơi tôi ! Như vậy là
Vện đã hay tôi về khi tôi còn lội dưới mương. Nếu
nó sủa ầm lên thì cũng sanh rầy : hàng xóm, mấy ông
già chưa ngủ, sẽ đoán rằng bà Bái có khách khuya. Con
Vện dường như cũng biết giữ bí mật cho chủ nó. Khôn
thật ! Chị Chín tôi còn thức. Linh tính khiến chị ngó
qua vách, hỏi khẽ : “Em đó hả ?”. Tôi khẽ lên tiếng
“Em đây !”.
Trong nhà chị tôi chỉ có một cây đèn dầu leo lét trên
bàn thờ Phật, ngọn chỉ bằng hột bắp, chiếu sáng lờ
mờ một khoảng bằng cái cơi trầu. Chị tôi mở cửa
sau rước tôi vào nhà. Hai cháu gái mừng cậu trong bóng
tối, khóc thút thít. Con Vện liếm chân tôi một hồi rồi
ra nằm ngoài sân, như để canh chừng.
Chị Chín tôi cực khổ với tôi lắm. Hồi tôi còn đi
học ở trường Tầm Vu, chị tôi phải dậy sớm nấu
cơm, rang vài bát cho tôi ăn liền, còn vài ba bát nữa thì
tôi đem theo trong một cái giạ nhỏ xíu xinh xinh với mấy
con tép hay một khứa cá kho khô. Khi tôi bị tù rạc thì
chị Chín tôi đi thăm. Tôi trốn ở Nam Trung Kỳ thì chị
Chín lặn lội đem tiền ra cho tôi. Chưa kể hằng đêm
chị tôi tụng kinh cầu Phật phù hộ em. Bây giờ chị kể
hết việc nhà, từ khi tôi trốn khỏi căng Tà Lài tới
nay ; chị nói : “đám lính rình rập mãi năm, sáu tháng
rồi thôi, em có thể ở nhà mấy bữa mà không hề gì”.
Trong lúc tôi bắc ghế trên phản với lên mái nhà cắt
năm ruột lạt cột lá dừa (đề phòng có biến sẽ đu
lên nóc) thì hai cháu Ba, Tư lên nhà thờ rước bà ngoại
xuống nhà tụi nó, nói rằng có ông thầy chùa ở chợ
Ông Văn sang thăm và lạc quyên để sửa tượng Phật. Má
tôi vô nhà chị tôi rồi mới hay rằng ông thầy chùa đó
là tôi. Mẹ con ôm hôn nhau, mừng mừng tủi tủi. Mẹ tôi
hôn tôi khắp mặt, cổ, tay, hôn tới đâu nước mắt cụ
thấm ướt tới đó. Trong đêm tối, tôi cảm thấy má
tôi già thêm nhiều so với ba năm trước. Làm da má nhăn
sâu hơn, cái răng cửa hồi đó còn, bây giờ rụng mất
rồi ; lưng má tôi còng hơn. Má tôi năm nay ngót 80 tuổi.
Bà kể lại rằng hôm cò Tây tới bắt tôi, má tôi tưởng
đâu Pháp bắt tôi đem đi bắn bởi vì chiến tranh đã nổ
ra rồi. Má tôi còn kể lại rằng, sau khi tôi bị bắt,
sáng sớm má tôi rải lúa cho bầy gà bầy vịt để dành
cho tôi thì má tôi khóc hết nước mắt. Má tôi cũng kể
lại rằng, khi tôi vượt ngục Tà Lài, đám quan chức
trong làng báo tin tôi đã bị dân thiểu số bắt lại,
chặt đầu đem nộp cho Tây lấy thưởng bằng gạo, bằng
muối. Nghe tin sét đánh đó, mấy lần má tôi chết ngất.
Mãi đến khi chị Chín tôi ra Nha Trang gặp tôi rồi về
nói cho má tôi biết thì má tôi mới tin chắc là tôi còn
sống. Má tôi cưng tôi nhất nhà, bởi vì tôi là con út,
là đứa có trách nhiệm nuôi cha mẹ lúc già và giỗ cha
mẹ khi mất ; nhưng bao nhiêu hy vọng của cha mẹ gởi vào
tôi đều chẳng được chút gì. Cha tôi chết khi tôi còn
ở tù. Không biết rồi khi má tôi theo cha đi, tôi sẽ có
mặt ở nhà không ? Hay lại cũng nơi chân trời góc biển
?
Cả má và chị Chín đều bảo tôi ở lại chơi một vài
ngày, để có thời giờ cho các cháu đi Phú Ngãi Trị
rước vợ tôi về An Lục Long. Tôi cũng muốn như vậy
lắm. Song, làm sao tính cho hết sự bất ngờ ? Rủi ro có
bề gì thì đã thiệt mạng mình mà mình lại đắc tội
với dân tộc, với Đảng. Nên tôi quyết định là quá
canh ba tôi sẽ lên đường ; mục đích về thăm mẹ đã
đạt rồi. Vài hôm nữa, tôi phải có mặt ở một địa
điểm thuộc tỉnh Chợ Lớn (Phú Lạc), hay một địa
điểm thuộc Gò Vấp (Hàng Điệp, Bào Lăng, Gia Định) để
họp với Ban cán sự thành Sài Gòn mở rộng. Đứng vững
trên căn cứ nơi ngoại thành Sài Gòn, tôi sẽ có dịp
nhắn vợ tôi lên, không muộn.
Gà gáy mấy chập. Trăng sắp mọc.
Tôi ôm hôn mẹ, chị, hai cháu, rồi gạt nước mắt ra
đi, không quên vuốt đầu vỗ lưng con Vện và để nó
hít tay tôi, nó vừa hít vừa ngoáy đuôi lia lịa. Tôi lại
vo quần, xuống mương, ra bằng ngõ đã vào. Đứng yên
trong bụi một lúc, không thấy động tĩnh gì, tôi thong
thả lên đường, chốc chốc ngoái lại mộ cha, nhà mẹ,
rặng tre thân thiết nơi đã chứng kiến tôi được sinh
ra, lớn lên và vào đời chiến sĩ. Tôi nào ngờ gặp mẹ
lần này là lần cuối. Tháng Tám năm 1945, cách mạng
thành công, tôi chưa kịp thu xếp một ngày về quê thăm
mẹ, thì kháng chiến chống Pháp nổ ra ; việc lớn này
chưa làm lại xảy ra việc lớn hơn. Má tôi mất năm
1950, khi tôi đang từ mặt trận Đăngrêch (Campuchia) về ở
Việt Bắc. Tôi ân hận mãi không được gặp lại mẹ
tôi ban ngày ban mặt hay dưới ánh sáng đèn điện để
ghi lại trong đáy mắt chân dung người mang nặng đẻ đau
sinh ra đứa con bất hiếu này.
(còn
nữa)
1
Miền Trung Nam Bộ, miền Tây Nam
Bộ, miền Đông Nam Bộ.
2
Trung ương : Năm 1943, Trường Chinh là quyền tổng
bí thư, hai ủy viên ban thường vụ khác là Hoàng Văn Thụ (bí thư xứ ủy
Bắc Kì, bị bắt tháng 8.1943, bị Pháp xử bắn tháng 5.1944) và Hoàng Quốc
Việt. Người tiền nhiệm của Trường Chinh, Nguyễn Văn Cừ, đã chủ trì Hội
nghị Trung ương tháng 11.1939 ở Bà Điểm (Nam Kì), sau đó bị bắt cùng
với nhiều người khác (như Lê Duẩn). Hội nghị Trung ương tháng 11.1940
họp ở Đình Bảng (Bắc Kì) cử Trường Chinh làm quyền tổng bí thư. Phan
Đăng Lưu trở về miền Nam phổ biến quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa mà
chính ông và xứ ủy Nam Kì đã quyết định mấy tháng trước đó : quá muộn.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23.11.1940) bị dìm trong biển máu. Phan Đăng
Lưu và hầu hết lãnh đạo ở Nam Kì bị bắt, nhiều người bị xử tử. Nguyễn
Ái Quốc đặt chân tới Pắc Bó (tháng 1.1941) sau 30 năm bôn ba, vào đúng
thời điểm mà tổ chức cách mạng do ông thành lập 11 năm trước đó bị đàn
áp nặng nề, hầu hết những người lãnh đạo bị thực dân bắt giam hoặc thủ
tiêu. Trong cái rủi cũng có cái may, có thể nói hai lần may. Một là
cũng với sự tiêu vong của
ban lãnh đạo 1930-1940, là thất bại của đường lối tả khuynh, giáo điều
mà họ đã áp dụng theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản – nhân danh đường
lối ấy, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán nặng nề và vô hiệu hóa, ngay sau
khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 2.1930), và nhất là trong
những năm 1934-1938. Hai là,
ở Liên Xô, Stalin rối bời trước cuộc tấn công của Hitler, Hồng quân
thua đậm trong thời kì đầu (tổng tư lệnh và phần lớn bộ chỉ huy Hồng
quân đã bị Stalin tàn sát từ cuối thập niên 1930) ; ở Trung Quốc, thì
Mao và lãnh đạo ĐCS Trung Quốc còn ẩn náu mãi tận Diên An ; Nguyễn Ái
Quốc không còn phải bận tâm vì các đồng chí "cồng kềnh" của mình, có
thể vạch ra và theo đuổi đường lối giải phóng dân tộc đã từng bị lên
án. Tất nhiên, thực hiện chính sách Mặt trận Việt Minh không dễ dàng
khi đất nước còn nằm dưới ách thống thị của bộ máy thực dân Pháp theo
Pétain và bộ máy quân phiệt Nhật Bản, hàng ngũ ĐCS bị đàn áp nặng nề,
liên lạc với các xứ ủy Trung Kì và Nam Kì dường như bị cắt đứt trong
mấy năm. Tình trạng phân hóa khá phổ biến : như ta sẽ thấy, Nam Kì sẽ
có hai xứ ủy ; ở Trung Kì, có tỉnh có tới ba tỉnh ủy bất đồng với nhau
(xem David G. Marr : Vietnam
1945 / The Quest for Power, University of
California Press, 1995).
3
Xuyên Vân Nhạn : con chim nhạn bay xuyên qua mây mù.
4 Kinh cung chi
điểu : con chim đã bị tên bắn rồi thì trông
thấy cành cong cũng kinh hãi (tưởng là cung).
5
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII : họp từ ngày 10
đến 19.5.1941 tại Pắc
Bó (Cao Bằng), chấp nhận sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, quyết định
thành lập Mặt trận Việt Minh : “ Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận,
của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân
tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ
của Đảng ta trong vấn đề dân tộc ” ; “Đế quốc Pháp
- Nhật chẳng những áp
bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các
dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một
anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là
không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật,
vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”. Quan niệm,
tầm nhìn, ngôn ngữ khác xa
quan niệm “trí, phú, địa,
hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những Trần Phú, Hà Huy Tập…
6
Năm Đông : Dương Quang Đông, tức Dương Văn Phúc
(1902-2003). Ông Năm Đông là nhà cách mạng lão thành đã tham gia Thanh
niên Cách mạng đồng chí hội của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sớm hoạt động
trong Công hội Đỏ của cụ Tôn Đức Thắng. Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kì.
Trong thời kháng Pháp, ông là Phó phòng Hàng hải Nam Bộ, phụ trách văn
phòng thường trực của ta ở thủ đô Xiêm quốc, Bangkok. Ông đóng vai
doanh thương có cửa hàng xuất nhập cảng lớn tại thủ đô Bangkok, mua sắm
tàu biển chở súng đạn, hóa chất, máy móc về nước đánh Tây. Trong cuộc
sống đầy gian nguy giữa hàng ngũ mật vụ Pháp bố trí dày đặc ở Xiêm,
dưới cái tên Xiêm là Nai Chran ông vẫn bình tĩnh làm tròn sứ mạng của
mình cho tới ngày bị phe đảo chính bắt. Xem tiểu sử đầy đủ trong cuốn Dương
Quang Đông xuyên Tây của
Nguyên Hùng (sách đã dẫn). Những năm
cuối đời, tuy tuổi cao, ông vẫn lên tiếng chống tiêu cực và sự lưu manh
hóa hàng ngũ đảng (như tố cáo sự gian trá của tướng Lê Đức Anh).
7
Tức Nguyễn Văn Trân : xem chú thích ở
các phần (I) và (IV).
8
Chúng tôi chưa tìm ra được những tập
sách bỏ túi này cũng như những lời phê phán của Trường Chinh. Rất mong
được bạn đọc giúp đỡ.
9
Tam quá kỳ lư bất nhập : ba lần đi qua ngôi nhà nhỏ
đó mà không ghé vào. Người biên tập xin cảm ơn nhà Hán học Nguyễn Xuân Diện
đã cho biết đây là tích Đại Vũ bận trị thủy, việc gấp, nên ba lần đi qua
nhà mà không có thời giờ tạt qua.
No comments:
Post a Comment