10- Kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương
15/09/201012:00 SA(Xem: 35662)
- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Lời Tựa Của Soạn Giả
- A. Tập Một Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu
- Lời Nói Đầu
- Lời Tựa Của Soạn Giả
- I.- Hiển Giáo Tâm Yếu
- Ii. Mật Giáo Tâm Yếu
- Iii. Hiển Mật Song Biện
- Iv- Vui Mừng Gặp Được Lời Trước Thuật Này
- V- Chuẩn Đề Sám Pháp
- Vi- Vào Đạo Tràng Trì Chú Chuẩn Đề- Cách Ngồi Kim Cang Tọa
- Vii- Cách Dùng Kính Đàn
- Viii- Nhập Nhà Mới & Trị Ma Quỷ
- Ix- Chú Tỳ Lô Giá Na
- X- Chú Quảng Bát
- B. Tập Hai Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
- Lời Giới Thiệu
- Lời Tựa
- I- Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Quyển 1
- Ii- Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Quyẻn 2
- Iii- Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Quyển 3
- Iv- Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Quyển 4
- V- Kinh Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni
- Vi- Kinh Thất Phật Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni Pháp
- Vii- Thất Câu Chi Độc Bộ Pháp
- Viii- Chuẩn Đề Biệt Pháp
- Ix- Kinh Thánh Lục Tự Tăng Thọ Đại Minh Đà Ra Ni
- C. Tập Ba Kinh Chuẩn Đề Đà La Ni Hội Thích
- Mục Lục
- Quyển Thượng
- 1- Lời Tựa
- 2- Phần Kinh Văn
- 3- Nghi Quỹ Niệm Tụng
- Quyển Trung
- 4- Văn Tán Thán
- 5- Bố Tự Pháp
- 8- Bố Sắc Trí Ca Pháp
- 9- Phạt Thi Ca Ra Noa Pháp
- 10- A Tỳ Giá Lỗ Ca Pháp (Hàng Phục Pháp)
- Quyển Hạ
- 11- Nói Đến Phương Pháp Họa Tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề (Cũng Gọi Là Tôn Na Bồ Tát)
- 12- Phụ Ngũ Hối Kinh (Nghi Pháp Sám Ngũ Hối)
- 13- Trì Tụng Pháp Yếu
- 14- Tu Bi Điền Và Kính Điền
- 15- Quán Tự Tại Bồ Tát Cam Lồ Chơn Ngôn
- 16- Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn
- 17- A Di Đà Phật Nhất Tự Tâm Chủ
- 18- Văn Thù Bồ Tát Ngũ Tự Tâm Chú
- 19-đại Bảo Quảng Bát Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà Ra Ni
- 20- Công Đức Bảo Sơn Đà Ra Ni
- 21- Tam Tự Tổng Trì Chơn Ngôn
- 22- Sổ Châu Công Đức Pháp
- 23- Hành Du Già Bí Mật Pháp Yếu
- 24- Tụng Kệ Sái Tịnh Kết Ấn Hộ Thân
- 25- Triệu Thỉnh Cúng Dường
- 26- Bổn Tôn Gia Trì
- 27- Tán Thán
- 28- Phụ Bản Trì Chú Tháp
- D. Tập Bốn Kinh Mạt Pháp Nhất Tự Đà La Ni
- 1- Kinh Đại Đà Ra Ni Mạt Pháp Trung Nhất Tự Tâm Chú
- 2 & 3- Kinh Đại Phương Quảng Bồ Tát Tạng Kinh Trung Văn Thù Sư Lợi Căn Bổn Nhất Tự Đà Ra Ni
- 4- Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Chú Tạng Trung Nhất Tự Chú Vương Kinh
- 5- Uế Tích Kim Cang Thuyết Thần Thông Đại Mãn Đà Ra Ni Pháp Thuật Linh Yếu Môn
- 6- Uế Tích Kim Cang Cấm Bách Biến Pháp Kinh
- 7- Thần Biến Diên Mạng Pháp
- 8 -Phật Nói Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng
- 9- Phật Nói Thất Tinh Chơn Ngôn Thần Chú
- 10- Kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương
- 11-phật Nói Kinh Trang Nghiêm Vương Đà Ra Ni Chú
- 12-phật Nói Kinh Trì Cú Thần Chú
- 13-kinh Tăng Huệ Đà Ra Ni
- 14-quán Thế Âm Thuyết Trừ Nhất Thiết Nhãn Thống Đà Ra Ni
- 15- Quán Thế Âm Linh Chư Căn Cự Túc Đà Ra Ni
- 16-hoạch Chư Thiền Tam Muội Nhất Thiết Phật Pháp Môn Đà Ra Ni
- Phụ Lục
- 1- Thiên 1 Lời Tựa Của Ông Tướng Duy Kiều
- 2- Thiên Ii Tịnh Tọa Công Phu Theo Thứ Lớp Tập Luyện
- 3-thiên Iii Lục Diệu Pháp Môn (Sáu Phương Pháp Huyền Diệu)
- 4-thiên Iv Thiện Căn Phát
- 5-thiên V Kết Quả
NAM MÔ NHẤT THIẾT CÔNG ĐỨC TRANG NGHIÊM VƯƠNG KINH HỘI THƯỢNG PHẬT
BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)
KINH NHẤT THIẾT CÔNG ĐỨC TRANG NGHIÊM VƯƠNG
(MỘT QUYỂN)
Đời Đường, Ngài Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh
phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Thích Viên Đức dịch thành Việt văn.
(MỘT QUYỂN)
Đời Đường, Ngài Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh
phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Thích Viên Đức dịch thành Việt văn.
Như thật tôi nghe, một
thời đức Bạc Già Phạm ở tại thành Vương Xá, nơi Yết Lan Đạt Ca, trong vườn Trì
Trúc Lâm cùng các đại Bí sô chúng, đầy đủ 500 người. Các vị đại Bồ Tát gồm có
1.200 vị, đều đắc Đà Ra Ni, biện tài trôi chảy, được trí vô nhiễm, dạo vô ngại
cảnh, khéo quyền phương tiện, nhiếp dẫn chúng sanh, quán sát thế gian, tâm hành
bình đẳng, nhiêu ích từ bi, lòng ưa thuần tịnh, ở chỗ chư Phật, pháp mầu thâm
sâu, thường hay thưa hỏi.
Các Ngài ấy gọi rằng: Từ
Thị đại Bồ Tát, Thường Cần Dũng đại Bồ Tát, Bình Đẳng Trụ đại Bồ Tát, Đại Huệ
đại Bồ Tát, Vô Biên Biện đại Bồ Tát, Dũng Huệ đại Bồ Tát, Quán Tự Tại đại Bồ
Tát, Trừ Nghi đại Bồ Tát. Những vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy đều là bậc
Thượng thủ. Còn có các vị Thích, Phạm, Hộ Thế, Tứ Thiên Vương, Long, Thần, Bát
Bộ và các ngoại đạo, số có sáu ngàn (6000) cùng đem quyến thuộc, thảy đều vân
tập những đại chúng này đều đến chỗ Phật, lễ chân Phật rồi hữu nhiễu ba vòng,
trời mưa hoa màu, tấu thiên âm nhạc, thiêu các danh hương làm lễ cúng dường.
Bấy giờ đại chúng đều
thốt lên rằng: Lành thay! Lành thay! Giáo pháp Như Lai, đủ đại oai đức, hễ có
lòng tin, hay đoạn phiền não, nói lời ấy rồi lại ngồi một bên.
Lúc ấy đức Thế Tôn nhập
vào “Năng đoạn hoặc ly cấu Tam ma địa”. Khi nhập định này, đại địa tức liền sáu
món chấn động. Trời mưa hương bột, mầu nhiệm chiên đàn, hoa thơm cõi trời rưới
khắp nơi ấy. Phóng đại hào quang chiếu khắp thế giới, nếu các hữu tình đọa
trong ác thú mong nhờ hào quang đều được giải thoát. Cho đến tất cả Thiên,
Long, Dược Xoa những chúng Bát Bộ, chỗ ở cung điện thảy đều chiếu sáng, nghe
thiên âm nhạc, hương trời mầu nhiệm. Chư Thiên thần kia thấy việc hy hữu không
thể nghĩ bàn, lòng sanh suy nghĩ, ai làm thần lực, thù thắng như thế khiến đất
đại động, trời mưa hương hoa, phóng đại hào quang chiếu sáng cung thất thảy đều
rực rỡ. Suy nghĩ thế rồi cùng nhau bảo rằng: Đây là Như Lai hiện đại oai đức, không
phải các trời, hay có điềm ấy. Chúng ta nay đây hãy đến vườn Trúc nơi chỗ Thế
Tôn lễ bái cúng dường, nghe pháp mầu nhiệm. Các chư Thiên kia cầm hoa Ốt bát
la, hoa Câu vật đầu, hoa Phần đà lợi, hoa Tô kiện đề, hoa Mạn đà la, hoa Ma ha
Mạn đà la. Đến chỗ Thế Tôn đầu đảnh lễ kính nơi hai chân Phật mà vì cúng dường,
trời mưa các hoa khắp cả đại địa, ngập đầy đầu gối chân. Chấp tay cung kính,
chiêm ngưỡng tôn nhan. Lại có Bồ Tát vô lượng phương khác như Ngài Chấp Kim
Cang Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương Bồ Tát, cùng muôn ức chư Thiên trì chú Thần
vương, thấy hào quang lớn đều dùng oai lực làm diệu trang nghiêm, hương hoa đẹp
đẽ, các thứ âm nhạc qua đến chỗ Phật cùng các quyến thuộc đều nhiễu ba vòng,
chấp tay chí thành, lễ hai chân Phật, cúng dường đã xong, đầy đủ oai nghi, lui
ngồi một bên.
Bấy giờ, Ngài Từ Thị và
các đại Bồ Tát thấy các đại chúng đều đã vân tập khởi niệm thế này: Ta xem đại
chúng đều đến chỗ Phật, chắc sẽ diễn nói, pháp đó thù diệu không thể nghĩ bàn,
thảy đều lặng lòng chờ nghe lời mầu. Lúc lấy Thế Tôn biết các Bồ Tát tất cả đại
chúng lòng nghĩ như thế liền xuất thiền định dạy Bồ Tát Trang Nghiêm Vương
rằng: Này thiện nam tử! Ông hãy đi xem cõi đại địa này, sẽ thấy những gì. Khi
ấy Trang Nghiêm Vương Bồ Tát thừa giáo chỉ Phật từ tòa đứng dậy liền xem đại
địa, đã xem khắp rồi trở về chỗ Phật cung kính đảnh lễ nơi hai chân Phật,
rồi đứng một bên mà bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con vâng lời Phật, xem
cõi đại địa đã có người trời, tất cả đại chúng đều đến vân tập, mong đức từ bi
vì các chúng sanh làm việc nhiêu ích.
Lúc bấy giờ, Đức Phật
dạy Trang Nghiêm Vương Bồ Tát rằng: Ông nên nhất tâm lắng nghe ta nói. Ta nay
sẽ vì sáu mươi bốn ức chúng sanh hữu duyên, thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ Chấp Kim Cang Bồ
Tát liền từ tòa đứng dậy chấp tay hướng Phật bạch đức Thế Tôn: Nay có vô lượng
ức số Thiên Long, Dược Xoa và các La Sát, Càn Thát Bà, A Tô La, Yết Lỗ Trà,
Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già, Người và Phi nhân cùng các ngoại đạo đều đến vân
tập. Bạch đức Thế Tôn! Nay chính là lúc, mong Ngài vì nói. Kinh Nhất Thiết Công
Đức Trang Nghiêm Vương hay tiêu hết thảy nghiệp chướng, hay diệt các tội khổ,
hay dứt tất cả ma nghiệp, hữu tình chưa tin khiến sanh kính tín, trừ bỏ đói
khát, thường được giàu vui, tiêu các bệnh tật, xa lìa uổng tử, cũng khiến hữu tình,
dứt trừ hối hận đều được an ổn, thường thọ khoái lạc. Bạch đức Thế Tôn! Con lúc
xưa kia từng ở chỗ Phật Điển Quang nghe thọ kinh này vừa được nghe xong, tất cả
diệu pháp đều được hiện tiền, tất cả ác đạo thảy đều đóng bít, chỗ có nghiệp
chướng đều được tiêu trừ. Cúi mong Như Lai từ bi xót thương vì chúng diễn nói.
Thưa lời ấy rồi Thế Tôn yên lặng.
Bấy giờ Ngài Chấp Kim
Cang Bồ Tát cũng lại ân cần ba lần thưa thỉnh, nói pháp như thế. Đức Phật dạy
Chấp Kim Cang Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Ông chớ thỉnh ta nói kinh Nhất Thiết
Pháp Công Đức Trang Nghiêm Vương, vì cớ sao thế? Ta nếu nói ra, đối với đời ác
sau này sẽ có chúng sanh không thể tín thọ, lại nói như vầy: Kinh đây chẳng
phải Như Lai tuyên nói, cũng chẳng khen ngợi, hủy báng kinh này hay chiêu hai
món thiện ác nghiệp báo. Bởi chúng sanh kia vì tội xan tham, không hay cung
kính cúng dường kinh điển, đối thuyết pháp sư cũng không gần gũi, hủy báng kinh
này, rộng làm bất tín, ở trong hiện đời tạo các ác nghiệp, về đời mai sau đọa
trong địa ngục, chịu khổ đốt cháy. Này thiện nam tử! Như Vương Kinh này càng
nên tôn trọng cũng như cha mẹ, lại hay diệt trừ các ác nghiệp chướng. Tuy nhiên
trong đời ác thế ngũ trược cũng chẳng phải thời nói, cũng chẳng phải thời nghe.
Bởi vì sao vậy? Chớ nên khiến kia tất cả ngoại đạo và các hữu tình đọa nơi địa
ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, chịu khổ lâu dài. Vậy nên chúng sanh tín tâm kém
thiếu, vui đắm các dục, siêng quản tục vụ, buôn bán tranh tụng, đối kinh điển
này ắt khởi bán tâm. Những chúng sanh đây sau khi mạng chết đọa vào tám địa ngục
lớn, phải chịu cực khổ.
Khi ấy trong chúng có
tám muôn người, đều từ chỗ ngồi đảnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: Thưa đức
Thế Tôn! Chúng con đem lòng tin sâu kinh điển, tôn trọng cúng dường, biên chép
đọc tụng, rộng truyền kẻ khác. Nếu có người ngu, không tin pháp đây vì bởi mạn
pháp cũng lại hủy báng khinh chê nơi con, con lúc bấy giờ hết thảy nhẫn chịu.
Báo ân kinh này trọn không hờn giận. Chỉ mong vì nói thù thắng kinh điển. Sở dĩ
vì sao? Vương kinh mầu này nơi đời vị lai lơi ích chúng sanh, như Phật không
khác. Nói lời ấy rồi, trở về chỗ ngồi.
Ngài Chấp Kim Cang Bồ
Tát bạch Đức Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát làm thế nào cầu thiện
tri thức?
Phật dạy: Này thiện nam
tử! Cầu thiện tri thức phải nên thành tựu bốn pháp như vầy: Một là thường đến
thưa hỏi, hai là khởi lòng tin cần, ba là ý ưa thanh tịnh, bốn là tôn trọng mến
pháp.
Chấp Kim Cang Bồ Tát lại
bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Làm thế nào Bồ Tát an trụ A Lan Nhã?
Phật dạy: Thiện nam tử!
Thành tựu được bốn pháp thì an trụ A Lan Nhã:
Một là bỏ lìa nhà thế
tục, hai là xa lìa ác tri thức, ba là xả bỏ hết tài vật, bốn là thường nhiếp tự
tâm.
Bấy giờ Quán Tự Tại Bồ
Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con không thấy có người được nghe kinh
này mà đọa ác thú. Bạch Thế Tôn! Kinh này có đại oai đức, khó thể nghĩ lường.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người tạm nghe kinh này mà lễ bái khen ngợi, cung kính
cúng dường thì thu hoạch được phước vô lượng huống gì biên chép, lưu hành, thọ
trì, đọc tụng, các thứ hương hoa vì đó cúng dường, còn đối thuyết pháp sư, nên
đem những thứ y thực cúng dường. Người như thế đó được tất cả chư Phật cùng
chung hộ niệm vì họ thọ ký sẽ được sanh sang thế giới An Lạc. Pháp sư như thế
cùng Phật không khác. Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ta cũng cúng
dường Pháp sư như thế và sẽ thọ ký, được sanh An Lạc thế giới mau chứng Bồ đề. Nếu
lại có người đối chỗ chư Phật và kinh điển này, tôn trọng cung kính rồi dùng
hương thơm, hoa đẹp, hương hoa, hương bột, y phục anh lạc, các thứ âm nhạc,
tràng phan, bảo cái, lọng tàn, màn trướng mà cúng dường ấy thì người này trọn
không bao giờ hoạnh tử, không có oán giặc, binh chiến lo sợ, cũng không cha mẹ,
vợ con quyến thuộc, bằng hữu tri thức, buồn khổ lo rầu! Có mong cầu chi đều
được toại ý. Thiện nam tử! Chư Phật ra đời việc đó rất khó, được nghe kinh này
lại càng khó hơn. Nếu kinh điển này lưu hành chỗ nào, hoặc là thành ấp, tụ lạc,
lan nhã, tòng lâm, các nơi trụ xứ, phải biết chỗ ấy tức là chư Phật Thế Tôn đều
đã nhiếp thọ.
Khi bấy giờ Chấp Kim
Cang Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát vì nhân duyên
gì mà gọi tên Quán Tự Tại? Thế Tôn dạy rằng: Thường lấy mắt tịnh xem xét thế
gian, nơi có chúng sanh an ủi dụ dẫn, thành thục từ bi, lợi ích an ổn. Nếu xưng
danh ấy, có việc mong cầu đều khiến đầy đủ, bởi nhân duyên đó, tên Quán Tự Tại.
Lại bạch Phật nữa rằng: Nếu có chúng sanh chỉ xưng danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ
Tát, mà việc mong cầu còn được đầy đủ huống gì có người cúng dường Như Lai và
kinh điển này, biên chép đọc tụng, rộng vì kẻ khác, lưu hành truyền nói, y phục
hương hoa mà vì cúng dường, người này được phước vô lượng vô biên.
Quán Tự Tại Bồ Tát bạch
Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Kinh này có đại oai đức hay làm Phật sự. Cúi mong
Thế Tôn lại vì thương xót các chúng sanh ấy nên nói chú Đà Ra Ni.
Phật dạy: Thiện nam tử!
Có Đà Ra Ni gọi rằng Thắng Diệu. Ta lúc xưa kia còn làm Bồ Tát, nơi Thắng Diệu
thế giới chỗ Phật Diệu Âm, cùng các đại chúng đồng khen Thần chú Đà Ra Ni này,
đã thọ được rồi chứng pháp Thập Địa Vô Lượng chúng sanh thảy đều đồng chứng Vô
sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ trong hội các
chúng Bồ Tát đều đứng cả dậy mà bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Cúi mong từ
bi thương xót lân mẫn, hết thảy chúng con mà nói Thần chú Đà Ra Ni ấy.
Bấy giờ Thế Tôn dùng
tiếng Phạn âm liền nói chú rằng:
“Đát Điệt Tha, Thệ Dã
Thệ Dã, Thệ Da Phược Ha, Khê Phược Ha, Thệ Dã Phược Ha, Hốt Lỗ Hốt Lỗ Bát Đầu
Ma, Bệ A Bà Ma Phạm Mê Tát Ra Tát Rị Nê, Địa Lỵ Địa Lỵ, Địa Ra Địa Lỵ Đề Bà Đả
Bát Lợi Ba Rị Nê, Du Đà Ốt Đa, Lạt Nĩ Bát Ra, Chước Yết Ra Nĩ Bà, Lạt Nĩ Bô,
Lạt Dã Bà Già Phạm
Ngã đệ tử tên …(tự xưng
tên mình) do Phật gia hộ, tất cả sở cầu, nguyện mong viên mãn. hết thảy tội
nghiệp đều được tiêu trừ TÓA HA.”
Phật dạy: Thiện nam tử!
Thắng Diệu Đà Ra Ni chú này, hay trừ tất cả tội chướng, hay bẽ gãy tất cả tha
quân, vĩnh viễn không đói khát, tật dịch tai nạn, các việc bịnh khổ. Thường được
giàu có, kho lẫm dẫy đầy, tăng ích thọ mạng. Đà Ra Ni chú này là chư Phật Mẫu.
Nu có kẻ trai lành và người gái tín nào tín tâm đảnh lễ, cung kính cúng dường,
biên chép đọc tụng, thọ trì kinh chú, còn lại cúng dường pháp sư trì kinh thì
người đó nghiệp chướng đều được tiêu diệt, không gặp hoạnh tử, nơi trong hiện
thân thường được hoan hỷ khoái lạc. Cha mẹ vợ con bằng hữu quyến thuộc thảy
được an ổn, có việc mong cầu đều được toại ý. Chấp Kim Cang Bồ Tát lại bạch
Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con cũng đem lòng cung kính trì dịch kinh điển ấy.
Nếu lại có người đem hương hoa mầu nhiệm và các đồ ăn uống cúng dường pháp sư
và kinh điển này, con cũng tùy hỷ đồng tâm cúng dường kinh ấy. Những người nhơn
dân và vị quốc chủ tại quốc gia kia con đều ủng hộ khiến khỏi suy hoạn khổ não,
mong cầu điều chi thì được toại nguyện. Bạch đức Thế Tôn! Con nay khởi lòng
phát tâm dõng mãnh, vì Quốc chủ kia và người tín thọ, cũng vì tuyên nói chú Đà
Ra Ni để mà ủng hộ. Phật dạy, thiện nam tử! Ông hay vì các chúng sanh làm điều
lợi ích an vui mà nói Đà Ra Ni nên ta tùy hỷ. Lúc ấy Chấp Kim Cang Bồ Tát nhờ
Phật thần lực đã gia trì nên nói Thần chú Đà Ra Ni rằng:
“Nam ma tát bà
bột đà, đát tha yết đa nẫm. Nam
ma a di đa bà dã, đát tha yết đa dã. Nam ma tát bà bồ đề tát đõa nẫm. Nam ma tát bà
mộ hiết địa kê tệ. Đát điệt tha hổ hô mê, hổ hô mê, mạt để mộ ha mạt để, bạt
chiết la mạt để, điệt lật trà bạt chiết la mạt để, đát tha yết đa, a nô bát lị
bà lợi đế, tát ra tát ra, a dũ mục xí, bậc lệ cu trí, tỳ cu đa mục xí, ngật lật
bế, ngật lật ba, lộc kế, tát đế a nô táp mạt ra bạt già phạm bạt chiết ra ba nĩ
tát bà ba bạt yết ma thật dã.
Ngã đệ tử tên … (tự xưng
tên mình) sở hữu nguyện cầu, giai đắc toại ý, đương giữ ngã nguyện, dĩ Phật Đà
thật ngữ, Bồ Tát thật ngữ, Thanh Văn thật ngữ TÓA HA.”
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
lại có người muốn vào địa vị Bồ Tát, nguyện thấy các đức Như Lai, muốn sanh về
cõi tịnh độ, mong cầu phú quí, tài bảo giàu có, sống lâu không bịnh, nên trì
kinh điển vi diệu này cho đến pháp sư, viết chép đọc tụng, hương hoa âm nhạc, y
phục ẩm thực, tràng phan, bảo cái mà làm lễ cúng dường. Người như vậy con sẽ
theo ủng hộ làm cho chỗ mong cầu nguyện mãn, thường khởi lòng thương mến coi
như con một.
Bạch Thế Tôn! Nếu lại có
người bẩm tánh si độn muốn cầu thông minh và hộ cõi nước khiến không tật dịch.
Phải nên đối với tháng bạch nguyệt, ngày mùng tám bắt đầu khởi công tu niệm một
ngày đoạn thực niệm tụng chú này. Mười lăm ngày cho đến hết tháng. Trong thời
gian ấy chỉ ăn ba thứ bạch thực, như cơm (bánh), sữa, bơ. Thanh tịnh tắm rửa
sạch sẽ, tụng Thần chú này mãn mười vạn biến. Nếu có sức lực tụng mãn ba mươi
vạn biến, thường nên tùy sức cúng dường Tam-Bảo. Hãy khiến một vị họa sư thọ bát
quan trai giới. Thân y tinh khiết mà họa tượng kia. Nơi giữa an bày tượng Phật
Thích Ca, ngồi trên tòa sư tử, đang thuyết pháp nghi. Bên phía hữu an bày tượng
Quán Tự Tại Bồ Tát, đồ phục sức trang nghiêm đầy đủ, đứng trên hoa sen, thân có
bốn tay. Tay trên bên hữu cầm bổn Phạn kinh, tay dưới cầm tràng chuỗi, tay trên
bên tả cầm hoa sen trắng, tay dưới cầm bình Quân trì. Bên phía tả an bày Chấp
Kim Cang thần, tay hữu cầm Kim Cang xử, tay tả đưa lên nương cầm đầu xử. Nét
mặt vui vẻ, anh lạc nghiêm thân. Nơi bốn bên an để Hộ Thế Tứ Thiên Vương. Những
tôn tượng này đều đeo dây lụa, đầy Xá lợi Phật, qua lại nơi thân như trái quai
lạc.
Lại nữa, ở trước tượng
có thể làm một cái Đàn, (Mạn Đà La) tùy theo lớn nhỏ, bốn mặt mở bốn cửa, lấy
ngưu phẩn thoa đắp (phân trâu trắng thơm ở tuyết sơn) các thứ hương hoa bày
khắp trên ấy, lư hương phải đủ năm cái, để thiêu riêng năm thứ hương nghĩa là:
Trầm hương, đàn hương, tô hạp hương, an tức hương, huân lục hương. Ở bốn cửa
đàn, mỗi cửa an hai bình, hoặc đầy nước tịnh thủy, hoặc lại đầy sữa, đèn thắp
mười sáu chén tùy chỗ mà an trí. Treo tràng phan, bảo cái và các âm nhạc, nước
hương thơm rưới sái nơi đất, hương hoa đồ ăn uống, mà làm lễ cúng dường. Ở nơi
đàn tứ giác, khiến người đọc tụng kinh này, thường thường tắm rửa, mặc y thanh
tịnh, ăn ba món bạch thực. Người trì cầu nguyện ấy, lấy hoa để trong tay, hãy
chấp tay lại trình bày việc mình sở cầu, khởi tâm từ niệm, tùy lòng phát
nguyện, lấy hoa ấy tán rải cúng dường Phật, có việc sở nguyện gì đều được tùng
tâm. Ở trong thời gian bảy ngày, con sẽ vì kia hiện tướng trạng thù thắng, khiến
thấy hảo mộng, cùng chung nói chuyện, người kia tâm mong cầu đều được viên mãn,
trừ lòng nghi không tin. Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Ông hay thương xót hữu
tình mà nói chú pháp này.
Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ
Tát bảo chấp Kim Cang Bồ Tát rằng: Kinh điển mầu nhiệm này khó có thể được gặp
gỡ chúng sanh bạc phước ở trong quốc gia kia, tuy có kinh điển này mà không
được thấy, cũng lại không thể biên chép đọc tụng, nghe học thọ trì. Bởi vì sao
vậy? Do có ác ma làm sự chướng ngại. Lại nữa thiện nam tử! Nếu có chúng sanh khi
biên chép đọc tụng kinh điển này có bốn thứ ác ma nó làm não loạn. Những gì là
bốn thứ:
1. Là sanh lòng biếng nhác.
2. Là khởi tâm không tin.
3. Là đối chỗ của pháp sư không sanh tôn trọng.
4. Là tâm không thường định.
Người này liền biết đó
là ma sự.
Lại nữa có bốn nghiệp ác
ma. Gì là bốn:
1. Là xa lìa thiện tri thức.
2. Là không như lý tác ý.
(Khởi tâm không hợp chân
lý)
3. Là không hiểu rõ văn tự.
4. Là chỉ thấy hiện tại, nói không vị lai, tạo các ác nghiệp, lòng không lo sợ,
nói không nhân quả.
Ta nói kẻ đó còn làm
những điều phi pháp, ưa quản tục vụ, tham nhiễm ràng buộc, chúng sanh như thế
sẽ đọa địa ngục, trải vô lượng kiếp, chịu đại khổ não.
Lại nữa có bốn thứ ma.
Gì là bốn:
1. Là tham đắm tiền tài vật chất.
2. Là gần gũi bạn ác.
3. Là chướng ngại pháp sư.
4. Là đối pháp sư thuyết pháp hay tìm vạch lỗi lầm.
Những chúng sanh ấy do
nghiệp ác này cho nên sẽ chịu nghèo cùng khốn khổ. Không thấy bạnh lành, xa lìa
tôn sư, khởi tướng tà kiến, nói không nhân quả. Phải đọa địa ngục chịu nhiều
kịch khổ.
Phật dạy: Này đại chúng,
ta nay trở lại ba lần, nói thật mà dạy các ông rằng, chớ nên buông lung coi nhẹ
kinh điển này, phải một lòng kính thọ đừng sanh phỉ báng.
Khi ấy đức Thế Tôn muốn
trùng tuyên lại nghĩa trên mà nói lời tụng rằng:
Ta từng tuyên nói các
Vương kinh,
Khiến các chúng sanh đắc
Chánh giác
Nay đây lại nói chơn
diệu điển,
Ông nghe cung kính khéo
tu hành.
Về sau khỏi chịu cực
thống khổ,
Đọa nơi địa ngục trải
nhiều kiếp.
Hãy đối kinh này sanh
tín tâm,
Đời đời thường làm Chơn
tử ta
Còn lại cúng dường kinh
điển này
Sẽ được sanh sang về cõi
Tịnh.
Hiện không La Sát quỷ
thần khi,
Cũng không các ác đến
nhiễm xâm.
Nếu Vương kinh này ở chỗ
nào,
Không các tai ách hay
hại người.
Cầu nguyện việc chi thảy
tùy tâm,
An vui mau đến đạo Bồ
đề.
Khi ấy Tứ Thiên Vương
nghe tụng này rồi rơi lệ buồn khóc, khắp thân run rẩy, lễ hai chân Phật, bạch
thưa Thế Tôn: Chúng con Tứ Thiên Vương, nếu thấy pháp sư thủ trì kinh này, con
sẽ cúng dường khi họ thuyết pháp, đến các người nghe đều được phò hộ. Nếu có
quốc vương đối kinh điển này biên chép đọc tụng, thọ trì cúng dường, con sẽ ủng
hộ bảo vệ cho đến nhơn dân trong nước đó, cơi như con một, cũng đem y phục anh
lạc mà cung cấp, khiến cõi nước kia giàu có tài bảo, không còn kém thiếu, nếu
khi chiến trận thường khiến đắc thắng. Nghĩ báo ân Phật, con không biếng nhác.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người nghe kinh điển này không sanh tín tâm cúng
dường pháp sư. Con đối với người ấy không có phương tiện gì mà cứu thoát họ,
chỉ sanh lo buồn!
Phật dạy: Lành thay!
Lành thay! Ông hộ Chánh pháp hay sanh tâm ân trọng như thế.
Khi bấy giờ, Trì Quốc
Thiên Vương Càn Thát Bà chủ, từ tòa đứng dậy đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung
kính mà bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Về đời sau này có các chúng sanh
thường làm không lành, không tin Như Lai, đối kinh điển này không thể cúng
dường viết chép đọc tụng, cũng không làm điều bố thí, không tin bố thí là hiện
đời được quả báo vui. Lòng đại từ của đức Thế Tôn vì những người không tin như
vậy mà nói kinh điển khiến cho họ thọ hành. Phật dạy: Thiện nam tử! Có hai việc
khiến các chúng sanh đọa đại địa ngục, sanh tử luân hồi: một là dâm dục, hai là
giận hờn. Lại có bốn pháp khiến các chúng sanh được sanh trong cõi trời, người.
Những gì là bốn:
1. Là các chúng sanh tâm hành bình đẳng.
2. Là đối ngôi Tam-Bảo sanh tâm ân trọng.
3. Là có của riêng mình đều đem bố thí.
4. Là kiên trì giữ gìn phạm hạnh (hạnh tốt) đừng cho khuyết phạm.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn
tuyên lại nghĩa này mà nói bài tụng rằng:
Bố thí hay có đại oai
thần,
Nơi ba ác thú vớt chúng
khổ.
Chúng sanh bị hoặc xan,
tham, si,
Các thứ nhiễm dục não
lòng kia
Nghe kinh điển này không
kính thọ,
Đối trong Phật pháp không
tin thí.
Xả thân thường đọa nơi
ác thú,
Phải chịu vô biên đại
kịch khổ.
Ích lợi Quốc chủ và nhân
dân,
Ta nói kinh này đủ oai
đức.
Khiến lìa bịnh dữ các tà
não,
Không bị dược xoa thảy
làm hại.
Nếu có tin kinh người
biên chép,
Cúng dường hay sanh vô
lượng phước
Hết thảy chúng sanh trí
như Phật,
Nhiều kiếp nói phước
không thể hết.
Nếu có kinh nơi nhiều
kiếp số,
Cúng dường tất cả chư Bồ
Tát.
Không bằng đối Vương
kinh mầu này,
Tạm thời lòng tin viết
một chữ.
Công đức trước trì so
phước này,
Đó là ức phần chẳng bằng
một.
Vậy nên người trí đối
kinh này,
Một lòng phụng hành
không biếng trễ.
Bấy giờ Bồ Tát Quán Tự
Tại bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Đời sau này nếu có kẻ trai lành và người
gái tín nào đối với kinh điển này đem lòng tin kính thâm sâu, dùng hương thơm
hoa đẹp và các đồ ăn uống, y phục, ngọa cụ, hết thảy đem cúng dường cho vị sư
thuyết pháp cho đến người biên chép đọc tụng kinh này thì người ấy hiện đời
quyết chắc sẽ thu hoạch được vô lượng phước lợi, thân họ được nhiêu ích lìa các
bịnh khổ. Trong sáu căn như nhãn v.v… được thanh tịnh không bịnh hoạn, không
gặp nạn ách nước, lửa, đói khát, cũng không bị độc dữ trúng thương, tất cả hữu
tình thấy đều vui mừng, khi mạng gần chết, thấy Đức Phật Bất Động đến an ủi mà
bảo rằng: Này thiện nam tử! Ông tu căn lành phước kia vô luợng, trong mười
phương tịnh độ Cực Lạc thế giới hãy tùy ý thọ sanh.
Lúc bấy giờ Quán Tự Tại
Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn vì
muốn thương xót các chúng sanh trong Nam Thiệm Bộ Châu cho nên Ngài nói kinh
điển này. Đời đương lai rộng làm Phật sự lợi ích chúng sanh. Đại Minh chú này
hay trừ tất cả cực trọng nghiệp chướng.
Phật dạy: Thiện nam tử!
Ác nghiệp chúng sanh tội kia sâu nặng, không nghe kinh này, không thể biên chép,
thọ trì đọc tụng. Nếu có chúng sanh được nghe kinh điển này chép viết thọ trì,
tôn trọng cúng dường, phải biết đó là sức oai thần của Phật. Nếu lại có người
đối với kinh điển này, hay vì người khác mà nói chừng một chữ, hãy cúng dường người
đó như Phật không khác. Bởi vì sao? Thiện nam tử! Kinh này là quá khứ bảy ngàn
chư Phật đã tuyên nói, tất cả Bồ Tát thảy đều tùy hỷ, chư Thiên ủng hộ là Bồ Tát
mẫu.
Khi ấy, Chấp Kim Cang Bồ
Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Kinh điển này nơi đời vị lai sẽ ở chỗ nào
lưu thông đầy đủ?
Phật dạy: Thiện nam tử!
Kinh đây sẽ ở trong cung Hải Long Vương và ba mươi ba cõi trời đều có đầy đủ.
Trong Nam Thiệm Bộ Châu chỉ có phần ít tùy chỗ lưu thông. Phật dậy: Thiện nam
tử! Ta nay đem kinh điển này giao phó (phú chúc) cho ông, phải nên thọ trì,
cúng dường ủng hộ như Phật không khác. Tại chỗ lưu thông chớ khiến đoạn dứt,
lợi ích chúng sanh rộng làm Phật sự.
Chấp Kim Cang Bồ Tát
bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay thọ Phật giáo sắc lưu bố kinh này, cũng
lại ủng hộ trì kinh pháp sư.
Phật dạy: Hay thay! Hay
thay! Thiện nam tử! Đây chính thật là ông đã làm Phật sự đó.
Lại nữa, Quán Tự Tại Bồ
Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con nay chí thành kính lễ, vi diệu kinh
điển như vậy, đối với kẻ thuyết pháp và người biên chép thảy đều cúng dường.
Bạch Thế Tôn! Nếu có nước bạc phước vô đạo quân vương, dẫu có kinh này không
thể cúng dường, cho đến pháp sư, kinh này ẩn mất. Nước kia sẽ có tai nạn ác sự,
họa biến hiện tiền. Như vậy phải biết Chánh pháp muốn diệt. Người trí thấy rồi
hãy đem tâm ân trọng cúng dường.
Phật dạy: Lành thay!
Lành thay! Thiện nam tử! Như lời ông đã nói, giả sử có người mãn đủ ngàn tuổi,
dùng đủ thú vui, cúng dường chư đại Bồ Tát và Thanh Văn chúng, số kia như cát
sông Hằng, lại lấy của thất bảo đồng như số cát ấy mà làm việc bố thí, sau rồi
tự xả bỏ thân. Thiện nam tử! Như phước đó so với phước cúng dường trì
kinh cho đến một câu, một chữ, trăm ngàn vạn phần kia không bằng một, huống gì
đem hết khả năng biên chép đọc tụng. Vì sao thế? Bởi kinh chú này có đại oai
lực, nếu thọ trì ấy, rõ thân không bền chắc như huyễn hóa, như chiêm bao, biết
pháp vô ngã, mong nhờ Phật thọ ký đắc được đại Bồ đề.
Khi ấy đại chúng, tất cả
Bồ Tát và các thiên, long, dược xoa, a tô la, yết lạc trà, người và phi nhơn
v.v… đều cùng một lòng, đồng thinh khen Phật: Hay thay! Hay thay! Đây là lần thứ
hai chuyển đại pháp luân. Chúng con thảy đều cung kính cúng dường. Kinh này ở
quốc độ thành ấp nào cũng sẽ ủng hộ và người thuyết pháp ấy, nếu có chúng sanh
hủy báng kinh này, thì hiện thân đắc vô lượng trọng tội, sau khi mạng chết sẽ
đọa vào địa ngục. Con bỏ người ấy không còn ủng hộ.
Phật dạy: Thiện nam tử!
Ta nay cũng đem kinh điển này phó chúc cho ông, đời sau này tuyên dương rộng
rãi, chớ cho đoạn dứt. Kinh này có lợi ích lớn, an vui trời, người, ruộng phước
thêm lớn, lìa ba ác thú. Chớ sanh nghi hoặc, thường khuyến thọ trì. Khi Phật
nói kinh này, sáu vạn bốn ngàn người đều được Vô sanh Pháp nhẫn.
Quán Tự Tại Bồ Tát lại
bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh tín tâm biên chép, thọ trì,
đọc tụng, cúng dường kinh này thì người ấy khi mạng chết sẽ sanh về chỗ nào?
Được bao nhiêu phước?
Phật dạy: Này thiện nam
tử! Ông có thể hỏi việc phước thù thắng ấy. Người này mạng chết xa lìa ác thú
thường sanh Tịnh độ. Giả sử có người tu hành Bồ Tát hạnh, bỏ đầu, mắt, tay,
chân và vợ con, cũng lại không bằng người trì kinh điển này. Kinh này ở chỗ nào
địa phương nào chính đó là tháp, đều nên cúng dường.
Quán Tự Tại Bồ Tát lại
bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Về đời sau người trì kinh này, con vì họ thọ
ký, tiêu diệt ngũ nghịch cực trọng tội chướng, trong chín vạn kiếp thường được
giàu sang, nơi tám vạn kiếp làm Chuyển Luân Thánh vương.
Phật dạy: Như vậy! Như
vậy! Thiện nam tử! Ta nhớ thời quá khứ vô lượng kiếp, có đức Phật Thế Tôn gọi là
Vô Biên Công Đức Pháp Trí Thanh Tịnh Tinh Tú Vương Như Lai. Ta khi bấy giờ làm
Bà la môn, nơi chỗ Đức Phật kia được nghe kinh này, thọ trì đọc tụng đắc pháp
Nhãn tịnh. Những kẻ đồng nghe từ đó về sau không đọa ác thú, lần lượt sẽ được
Vô thượng Bồ đề. Thiện nam tử! Ta trong vô lượng nhiều đại kiếp, vì pháp này mà
bỏ các tài bảo, đầu, mắt, tay, chân, vợ con, thành, ấp, tu tịnh phạm hạnh không
lòng hối não. Các ông cũng nên như vậy tu tập.
Khi ấy đại chúng nghe
nói việc khổ hạnh quá khứ, thảy đều rơi lệ buồn khóc, mà bạch Phật rằng: Hy hữu
Thế Tôn! Đời sau đây có ai hay thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh điển này thì
được phước vô lượng. Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di v.v… đối
với vương kinh này mà không hay đọc tụng, Đà Ra Ni chú cũng không chịu thọ trì,
lại cũng không siêng năng tu lục độ, nơi kẻ khổ não, không lòng lân mẫn.
Người như thế đó nơi vô lượng kiếp đọa trong biển sanh tử, chịu nhiều khổ não.
Thiện nam tử! Thí như người phụ nhơn, thân mạng chửa nặng cho đến mười tháng,
khi ấy phụ nhơn lại thêm bịnh khổ, thân thể chi tiết đau nhức dường như dao
cắt, không thể uống ăn. Khi muốn sanh nở chịu đại kịch khổ, mà nghĩ như vầy:
Nếu tôi qua khỏi nạn này, vĩnh viễn không còn dâm dục, thường tu phạm hạnh. Sau
mới vừa sanh lại làm ác pháp, bèn quên khi trước khổ hoạn thống thiết. Thiện nam
tử! Đời sau này chúng sanh ngu si cũng lại như thế! Không tin kinh này, cũng
không đọc tụng, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tu định, tu huệ, tham
đắm dục tình, ưa việc thế gian, không tu nhơn hạnh ba nghiệp thanh tịnh. Những chúng
sanh này đọa địa ngục rồi, sanh lòng hối hận. Như người phụ nhơn thân mang dạ
chửa, lại gặp cực khổ, chịu khổ não rồi, từ địa ngục ra đã được thân người, ham
đắm ngũ dục. Địa ngục khổ kia không hay ghi nhớ, lại tạo nghiệp dữ.
Thiện nam tử! Thí như có
người ham ưa uống rượu, uống rồi hôn mê, không biết xứ nhà, Phật Pháp Tăng bảo,
cha mẹ vợ con, từng không nhớ nghĩ, không lòng cung kính, do rượu hôn mê, sa
vào những chỗ thi lâm hiểm nạn cũng không lòng lo lắng sợ sệt, lại nghĩ như
vầy: Đâu có loại trời, rồng, dược xoa hay làm ta sợ. Người hay như thế, tuy nơi
khi ấy thân mình nằm lăn trên gai bén nhọn lại tưởng là vui. Sau khi tỉnh rượu
ôm lòng hối tiếc, tự biết phi pháp , nói ta từ nay cho đến khi chết không dám
uống rượu làm các lỗi lầm. Sau gặp ác duyên trở lại tham uống đồng như trước kia
tạo các tội lỗi. Ngu si hữu tình cũng lại như thế! Do tham nhiễm ấy chứa nhiều
tiền của, làm điều kiêu mạn buông lung phóng dật, không nhớ nghĩ Tam-Bảo, trái
bỏ tôn thân, cung không tu hành thí giới nhẫn nhục v.v… không muốn mong cầu cõi
Phật tịnh độ. Những hữu tình này thường ở trong biển khổ sanh tử không có kỳ
hẹn, đọa trong địa ngục thọ khổ lâu dài, dẫu được làm người khi ở bào thai chịu
các khổ não, thân bị bức bách liền lại nghĩ rằng: Ta nếu được khởi các ách nạn
này, lại không làm tội để chịu cực khổ, thường tu nghiệp lành, nguyện sanh tịnh
độ, kia được thân người do tánh ngu si, làm các tội nghiệp, trở đọa ác đạo. Vậy
nên các ông phải khéo tu hành chớ có buông lung, đây là lời tóm lược của ta.
Khi ấy, Cù Thọ A Nan Đà
bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Kinh này lại có tên gì? Làm thế nào thọ trì?
Phật dạy: Kinh này gồm
có năm tên:
1. Là tên Cứu tất cả chúng sanh khổ ách.
2. Là tên Bồ Tát chơn thật đã hỏi.
3. Là tên Thần thông Trang Nghiêm Vương.
4. Là tên Hay thành chư Phật Chánh Giác.
5. Là tên Tất cả pháp Công Đức Trang Nghiêm Vương.
Phật nói kinh này rồi,
các đại Bồ Tát và chúng Thanh Văn, thiên, long, dược xoa, a tô la, càn thát bà,
người và phi nhân thảy đều đại vui mừng tín thọ phụng hành.
No comments:
Post a Comment