Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Friday, 12 April 2019

SƠN  TRUNG * CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ QUẢ THỰC



Mùa hè 1952, Mao Trạch Đông gọi Hồ Chí Minh sang  nhận mệnh lệnh. Khi Hồ sang đến nơi thì Mao đã đi Mạc Tư Khoa phó hội cùng Stalin. Hồ bèn lót tót chạy sang Nga.Stalin và Mao Trạch Đông lệnh bắt họ Hồ thực hiện Cải cách ruộng đất..
Việt Công theo đường lối Liên Xô và Trung Cộng trong cách giết người cướp. Họ đã cử người sang Trung Cộng học nghề đạo tặc và sát nhân. Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người. (Wikipedia)  Mặt khác, bọn họ cũng tổ chức quy mô, nào pháp luật, quy tắc nghe rất xôm tụ.Năm 1953, thực tế là năm bắt đầu tiến hành CCRĐ, năm ĐCS chuẩn bị toàn bộ đường lối, chính sách và “luật pháp hoá” các chính sách của Đảng bằng quyết nghị của Quốc hội, sắc lệnh và nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ.
Hồ Chí Minh phát biểu  theo kiểu " nhân nghĩa bà Tú Đễ"  như sau: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ".( Bài nói tại Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Khóa I, Kỳ họp thứ ba)
 ". Đường lối của Đảng ở nông thôn là dựa vào bần cố nông (cố nông là vô sản, bần nông là nửa vô sản ở nông thôn), đoàn kết trung nông, liên hiệp với phú nông về chính trị, bảo tồn kinh tế của họ, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt ( Báo Nhân dân ngày 1 Tháng Một 1954).
Văn bản chính sách của Đảng về các quy định cải cách ruộng đất có ba đối tượng được hành xử khác biệt:
1 - Bản thân và gia đình đã tham gia vào cuộc chiến tranh giành độc lập.
2 - Tham gia vào ngành công nghiệp và thương mại của nhà nước.
3 - Hiến đất và tài sản.
Nhưng những lời nói đó,  bài viết , văn bản cộng sản là dối gạt, là  ba hoa, chich chòe không đáng một xu!
Việt Cộng đưa ra  Luật  Cải cách ruộng đất không biết do tay nào văn hoa và dối trá viết ra:
Điều 1. - Mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất là:
Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ,
Để thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân,
Điều 3. - Đối với địa chủ Việt gian, phản động, cường hào gian ác, thì tuỳ tội nặng nhẹ mà tịch thu toàn bộ hoặc một phần ruộng đất, trâu bò, nông cụ, lương thực thừa, nhà cửa thừa và tài sản khác.
Phần không tịch thu thì trưng thu. 
Tuyên ngôn Cộng sản tuyên bố mục đich quan trọng của Cộng sản là bãi bỏ quyền tư hữu.CCRĐ là tịch thu ruộng đất của nhân dân, nhân dân mất đất, mất quyền tư hữu mà trở thành nô lệ trong các công trường, nông trường với lương thực chết đói. Thành thử mục đich thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân là dối trá, là mồi ngon dụ dỗ, phỉnh gạt nhân dân.
Trưng thu là mua không trả tiền. Thực tế thì tịch thu hay trưng thu đều giống nhau, nghĩa là bị cướp sạch! 
Điều 4. - Đối với nhân sĩ dân chủ, địa chủ kháng chiến, địa chủ thường, thì:
Trưng thu toàn bộ ruộng đất hiện có cùng trâu bò và nông cụ.
Không đụng đến tài sản khác.
Giá trưng mua ruộng đất là giá sản lượng trung bình hàng năm của ruộng đất trưng mua.
Giá trưng mua trâu bò, nông cụ là giá thị trường ở địa phương.
Giá trưng mua được trả bằng một loại công phiếu riêng.
Công phiếu ấy được trả lãi 1,5 phần trăm mỗi năm.
Sau thời hạn mười năm sẽ hoàn vốn.
Điều 12. - Những người có ít ruộng đất, nhưng vì tham gia công tác kháng chiến, vì thiếu sức lao động, vì bận làm nghề khác mà phải phát canh hoặc thuê người làm, thì không coi là địa chủ.
Không đụng đến ruộng đất và tài sản của họ.
Ruộng đất và tài sản của phú nông.
Điều 13. - Kinh tế phú nông được bảo tồn.
Không đụng đến ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của phú nông.
Ruộng đất và tài sản của trung nông
Điều 14. - Bảo hộ ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của trung nông.
Trung nông thiếu ruộng đất được chia thêm ruộng đất.
Điều 36 quy định: “Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác”.
Các điều trên đều dối trá.
Việt Cộng theo lệnh Trung Quốc phải kết tội 5% dân chúng cho đúng chỉ tiêu. Ban đầu ít người xứng đáng là địa chủ, Việt Cộng phải bắt phú nông trung nông, có nơi bần nông cũng được "kich " lên cho đủ tỷ lệ %5. Có nơi như Hà Tĩnh vượt chỉ tiêu lên đến 6%-7%. 
 Vì vậy điều 13 bị  chính Việt Cộng vứt sọt rác!
  Còn điều 4 và 12 cũng là VẸM nói cho vui và để bịp thiên hạ. Thực tế Cán bộ, nhân sĩ , tư sản yêu nước bị giết, bị tù , bị cách chức, hoặc loại bỏ. 
 Tổng số cán bộ, đảng viên bị từng bị chỉnh đốn là 84000 người, chiếm tỷ lệ hơn 55%. Có những chi bộ tốt bị coi là chi bộ phản động, bí thư hoặc chi ủy viên chịu hình phạt nặng. Tình hình chỉnh đốn ở cấp huyện và cấp tỉnh cũng hỗn loạn. Số cán bộ lãnh đạo các cấp này bị xử lý oan sai cũng chiếm tỷ lệ lớn. Hà Tĩnh là tỉnh cá biệt, có 19 cán bộ tỉnh ủy viên, công an, huyện đội dự chỉnh đốn đều bị xử lý.
-Trường hợp Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, nguyên Tư lệnh Mặt trận Hà Nội năm 1946, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Hà Nội bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội vì có người đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rõ ràng". 
-Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu, trong đó có một người là trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị quy là địa chủ và bị tù một thời gian.
-Phó Bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ bị dân chúng đấu tố (vì họ thấy ông từng làm quan cho triều Nguyễn) và chết tại quê nhà Diễn Châu.
-Hoàng Giáp Thượng Thư Nguyễn Khắc Niêm, cha của nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện cũng bị dân đấu tố vì từng làm quan to cho triều Nguyễn, bị giam trong chuồng nuôi hươu, phải ăn cơm thiu và chết tại quê nhà Hương Sơn, Hà Tĩnh.(CCRĐ-Wikipedia)
 -Trường hợp bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên.
Trước Cách mạng tháng Tám, gia đình bà Năm từng ủng hộ Việt Minh 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bảy trăm lạng vàng lúc bấy giờ). Khi chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam tổ chức "Tuần lễ vàng", bà đóng góp hơn 120 lạng vàng. Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Năm tham gia các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc, trong đó có 3 năm làm Chủ tịch hội Phụ nữ. Khi thực hiện lệnh "tiêu thổ kháng chiến", bà đã cho san bằng khu biệt thự Đồng Bẩm.

Nhiều cán bộ cộng sản, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà. Bà Nguyễn Thị Năm cũng từng nuôi ăn, giúp đỡ nhiều cán bộ Việt Minh sau này giữ những cương vị quan trọng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị...[Hai người con trai Nguyễn Hanh và Nguyễn Cát đều tham gia chống Pháp. Nguyễn Hanh quân hàm Đại tá Trung đoàn trưởng 351, Sư đoàn 380, một trong những quân nhân cao cấp nổi tiếng chống Pháp. Người con thứ là ông Nguyễn Cát học "Trường thiếu niên Việt Nam Lư Sơn" tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Năm 1953 Nguyễn Hanh và Nguyễn Cát bị bắt giam đưa đi cải tạo đến cuối năm 1956 mới được thả về nhà.
-Trung nông còn bị đôn lên địa chủ cho đủ số 5%.
Cán bộ đảng viên bị" chỉnh đốn" lên đến 84.000 . Võ Nguyên Giáp nói đã thả 12 ngàn cán bộ. vậy 74.000 cán bộ ưu tú, đảng kiên trung kiên đi đâu? Cán bộ bị nạn 84 ngàn vậy con số địa chủ phải gấp năm, gấp mười!
Cái vô lý nhất là Việt Cộng theo lệnh Trung Cộng kết tội 5% nhân dân là địa chủ. Vì vậy số dân nghèo, có khi là bần nông bị kích lên làm địa chủ. Theo phương pháp tính toán khoa học nào để đi đến kết luân 5% dân chúng là địa chủ. Nhiều nơi hăng tiết vịt tăng số địa chủ lên 5-7%.
Cộng sản dấu diếm, bưng bít nên ta khó biết rõ con số nạn nhân CCRD.
 Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng người bị giết dao động khá lớn:
-Theo Wikipedia, tổng số người bị quy trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172.008 người; số người bị oan sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66% Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn".
 -Theo tuần báo Time ngày 1 tháng 7 năm 1957 thì khoảng 15.000 người bị xử tử.
-Theo Gareth Porter: từ 800 đến 2.500;
-Theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000;
-Theo giáo sư sử học James P. Harrison: vào khoảng 1.500 cộng với 1.500 bị cầm tù.
-Theo soạn giả Arthur Dommen thì cho rằng tính đến năm 1956 có khoảng 32.000 người bị hành hình trong vụ cải cách ruộng đất.
-Vũ Thư Hiên cho rằng con số nạn nhân là ít hơn con số 15.000 dẫn ở trên rất nhiều, tuy vậy ông chỉ có thể ước tính, chứ không có số liệu hoặc tài liệu nào cụ thể:
"Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị chết trong tù (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học."(DGBN, Ch,24)
-Đài RFA cho biết: Năm 1956 cũng là năm mà Việt Cộng công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế…”

- Michel Tauriac, nhà văn người Pháp đưa ra 500.000 Con số nầy cũng hợp lý nếu kể cả người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử” (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006)
Theo sách Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004, tức là một tài liệu mới của nhà cầm quyền Hà Nội, cho biết cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172,008 người, trong đó có 123, 266 người (71,66%) sau nầy được xác nhận đã bị giết oan.

Trong số 172,008 nạn nhân, bảng thống kê cho biết cụ thể như sau:



Thành phần


Số bị giết


Bị oan


Tỷ lệ


-Địa chủ cường hào:


26,453 người


20, 493


77,4 %


-Địa chủ thường:


82,777


51,480


62%


-Địa chủ kháng chiến:

586


290


49%


-Phú nông


62,192


51,003


82%





172,008


123,266


71,66 %



Những tác giả bộ Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2 dựa trên số thống kê do tài liệu của nhà cầm quyền cộng sản lưu trữ, nếu không đúng thì cũng thấp hơn số người thật sự bị giết, chứ không thể cao hơn, vì thông thường, CSVN hạ bớt những số liệu bất lợi cho họ. Nói cách khác, số người bị giết tối thiểu là 172,008 người, còn số thật sự bị giết không thể biết được, ngoài con số dự đoán tối đa của giáo sư Lâm Thanh Liêm là 200,000 người.


Tài liệu của Việt Cộng tương đối chính xác hơn các tài liệu phỏng đoán của các ông Tây mặc dù chê đậy, giấu diếm là " nghề của chàng". Cộng sản đưa ra 172.008 (có số lẻ nữa, chánh xác ghê! ), nhưng theo kinh nghiệm thực tế con số có thể gấp ba, gấp bốn! Thực tế có thể là khoảng 500.000. Giả sử mỗi gia đình có hai vợ chồng và ba con thì số tội nhân lên đến hai triệu rưởi người!
Nhà văn Tô Hoài cho biết
“Thế mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ lọt lưới, đến bước ba đưa tỷ lệ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ về chính trị cũng như về kinh tế”. (Ba người khác- trang 206)
Nhà văn Trần Mạnh Hảo,  nói về  cái tỷ lệ giết người trong chiến dịch CCRĐ ở làng của ông cao hơn các nơi khác:
“Làng tôi là làng công giáo Bùi Chu Phát Diệm, là làng tề, làng bị gọi là ác ôn, nên chỉ tiêu địa chủ trên giao nặng nhất: phải bắt cho được 15% địa chủ làng Bình Hải Đoài. Nghĩa là cứ 100 người dân thì phải nộp cho bác và đảng 15 tên địa chủ”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)
Nguyễn Minh Cần đưa ra lời kể của một người bạn : Đội mà ông bạn có chân về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn!. Làng nào cũng thế thôi, mấy ông "gột vịt" (ấp trứng nuôi vịt con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là "đủ yếu tố cấu thành tội", trong đó có tội "bị dân làng ghét cay ghét đắng". Địa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi "cổ máy nghiền thịt" của Đảng đã khởi động rồi! 

 


Tài liệu của Việt Cộng đưa ra có nhiều điểm không thực.
-Tài liệu Wikipedia cho biết có 6 đợt CCRD.

-Các số xã bị tỉnh lược.

Thanh Hóa 577 xã , chỉ khai đợt hai 66 xã, đợt ba 115 xã ,đợt bốn 207 xã,Bắc Ninh có 126 xã, khai đợt ba 60 xã; đợt tư 8 xã .
 Thanh Hóa  có  577 xã ( Wikipedia) , chỉ nói đến 207 xã

Phú thọ có  227 phường xã, khai 17 và 106..

 Tài liệu Việt Cộng nói miền Bắc dân số 10 triệu cũng không chính xác.Theo điều tra của Tổng cục thống kê (Việt Nam) tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên toàn Việt Nam có 85.846.997 người, quy mô phân bố ở các vùng kinh tế - xã hội, trong đó đông dân nhất là vùng đồng bằng sông Hồng với khoảng 19,5 triệu người, kế tiếp là vùng bắc Trung bộ và duyên hải nam Trung bộ với khoảng 18,8 triệu người, thứ ba là vùng đồng bằng sông Cửu Long với khoảng 17,1 triệu người. Vùng ít dân nhất là Tây Nguyên với khoảng 5,1 triệu người. Theo số liệu ước tính của The World Factbook do CIA công bố thì vào tháng 7 năm 2011, dân số Việt Nam là 90.549.390 người, đứng thứ 14 trên thế giới

Phần lớn các tài liệu cho rằng dân số Việt Nam khoảng 1954 là 24 triệu. Huỳnh Tâm viết :Theo một số tác phẩm lịch sử kinh tế của Việt Nam, miền Bắc Việt Nam dân số khoảng mười lăm triệu (15triệu) vào những năm 1953, vùng giải phóng dân số khoảng một triệu. Nhìn trung bình, theo "Chỉ thị ngày 04 tháng 5" (ngũ tứ chỉ kì), miền Bắc Việt Nam có khoảng 12.000-30.000 địa chủ bị thủ tiêu, 172.008 nông dân bị giết, thực thi theo tỷ lệ của chính sách cải cách ruộng đất. (Quê hương tôi cứ mãi điêu linh -Kỳ 2.
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/que-huong-toi-cu-mai-ieu-linh-ky-2.html )

Cứ lấy con số 15 triệu trong thời gian 1954 cho dân miền từ Nam Quan đến  sông Bến Hải thì tỷ lệ  5% là  khoảng 800.000  địa chủ! Mỗi gia đình thường có vợ chồng, ba con, chưa kể cháu thì nạn nhân là 4 triệu, chưa kể cường hào ác bá, "Việt gian", Quốc dân đảng và cán bộ đảng viện bị  chính đốn, con số thật khủng khiếp!

Vũ Thư Hiên bênh vực cho cái đảng đã hành hạ cha con ông Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000.[...]. thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người.(DGBN, Ch,XXIV, chú 3)

Ông còn sai lầm khi nói đến xã. Dưới xã còn có làng, xóm, giáp...Nhưng đơn vị chính là làng. Làng quan trọng nhất: " Phép vua thua lệ làng". Thế hệ Vũ Thư Hiên  tất biết làng là đơn vị hành chánh trong thực tế và trong  tâm thức người Việt. Đào Duy Anh cho biết; :" Những xã lớn chia ra nhiều thôn...Cũng có làng lớn chia ra nhiều giáp (VNVHSC, Bốn Phương,SG, 1961.tr.128).

 Tài liệu Wikipedia về xã cho biết:  Một xã bao gồm nhiều thôn (hoặc ấp, xóm, làng, bản) hợp thành. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, các đơn vị nhỏ hợp thành một xã không được coi là thuộc vào một cấp đơn vị hành chính chính thức nào của Nhà nước Việt Nam.
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2009, Việt Nam có 9.121 xã. Tỉnh có nhiều xã nhất là Thanh Hóa với 585 xã, tiếp theo là Nghệ An với 437 xã và Hà Nội với 401 xã. Đà Nẵng có ít xã nhất trong các đơn vị hành chính cấp tỉnh - 11 xã.. 10 tỉnh và thành phố có số xã lớn nhất (từ 207 đến 586) chiếm 1/3 số xã của cả nước.

 Thôn tức là làng. Xã có khoảng 10 làng tùy theo xã lớn nhỏ. Theo tài liệu  trên, Miền Bắc có 3.563 xã. Mỗi làng giả thiết có 3 địa chủ, thì số địa chủ toàn miền Bắc là:3.563 X10X5  tức là gần 2 triệu nạn nhân chết chóc, tù đày,  đói khổ, bị mất quyền làm người. Còn cường hào, ác bá nữa thì không biết là bao nhiêu!
Wikipedia cho biết tổng số cán bộ, đảng viên bị từng bị chỉnh đốn là 84000 người, chiếm tỷ lệ hơn 55%, còn Võ Nguyên Giáp  trong CCRĐ có nói hai vạn bị oan. .....Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! ( Nguyễn Minh Cần-  Xin Đừng Quên Nửa Thế Kỷ Trước)
Vậy hơn 70 ngàn cán bộ đảng viên đi đâu? Phải chăng họ đi thăm cụ Mác?Riêng đảng viên bị chỉnh đốn là 84 ngàn , không lẽ tài liệu đảng thổi phồng?Đảng vu khống đảng à?

Vũ Thư Hiên nói ông thoát khỏi đam mê cộng sản. Trong tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày ông tố Hồ Chí Minh nhưng cũng bênh vực Hồ Chí Minh. Trong các tài liệu khác cũng vậy. Như Hồ Tuấn Hùng tố Hồ Tập Chương người Miêu Lật Đài Loan chính là Hồ Chí Minh. Ông cũng như Bùi Tín, Dương Thu Hương, cải chính nhưng không nêu được lý do chính xác,. Ông theo Cộng sản tỏ vẻ thù hận Quốc Dân Đảng và Nguyễn Chí Thiện! Việc CCRD, ông cũng bảo người ta thổi phồng, ông  căn cứ vào đâu? Nay chính tài liệu VIệt Cộng nói có nạn nhân CCRD là 172.008 cộng với 84 ngàn cán bộ đảng viên trong Chỉnh Đốn Đảng, Ông có thấy ông quá lố không? Tài liệu của người ông cho là thổi phồng, còn tài liệu của ông nói có thành không, to thành nhỏ.
Việc nghiên cứu , nhất là nghiên cứu sử phải khách quan, chính xác, không phải như việc viết Lê Văn Tám thiêu mình làm bó đuốc xông vào đồn giặc, , Dũng sĩ dùng tay không hạ máy bay Mỹ...Việc này ta thấy rõ ông cũng như Bùi Tín, Dương Thu Hương cũng một duộc, lâu rồi cũng lộ đuôi cáo dài lê thê!

CCRD ở Việt Nam tàn ác tiếng tăm đồn về Trung Quốc.HòngVăn Hoan viết về việc này
Tham dự xong Hội nghị Trung ương về cải cách ruộng đất, tôi lại trở ra Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong cải cách ruộng đất, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong cải cách ruộng đất có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc không? Tôi trả lời: Kinh nghịệm cải cách ruộng đất của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban cải cách ruộng đất ở Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào phần lớn phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là ở nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công lao với cách mạng, đặc biệt là đánh tràn lan cả vào cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban cái cách ruộng đất Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc. (1)
Mệnh lệnh  bắt Hồ chí Minh  thực hiện có ba  mục đích:
-Biến Việt Nam thành cộng sản như Nga và Trung Quốc đã thực hiện
-Cải cách ruộng đất thì tịch thu nhà cửa, ruộng đất vàng bạc. Tịch thu ruộng đất để lập nông trường,HTX, cộng sản nắm quyền lợi kinh tế do đó có thể trả nợ cho Nga và Trung Quốc. CCRDĐ cũng cướp được một số vàng và nộp cho Nga và Trung Cộng. Tôi nghĩ rằng Việt Cộng và Trung Cộng rất khát vàng, bạc  và các kim khí khác vì trong cuộc tra khảo "địa chủ" và con cháu "địa chủ" cộng sản hỏi rất kỹ về vàng bạc và mâm thau, chậu đồng... Trung Cộng huy động một số đông đảo cán bộ sang Việt Nam để thẳng tay giết người và cướp vàng bạc một cách trực tiếp.
-Trung Cộng có mục đich tàn sát các nhà kinh doanh giỏi và các thành phần ưu tú ở miền Bắc nhằm dọn đường cho cuộc xâm lăng Việt Nam và chiếm biển Đông cùng xưng hùng xưng bá trên thế giới.
-Tàn sát nhân dân để dân chúng sợ hãi mà nộp tài sản, đem thân làm nô lệ cho Việt công sản Việt Cộng  bước qua giai đoạn thi hành chủ nghĩa cộng sản.

Khi phát động CCRD, tịch thu ruộng đất, nhà cửa, gia súc ,dụng cụ gia đình, cộng sản đem chia những thứ này cho nông dân để khêu gợi lòng tham của dân nghèo khiến họ hăng hái đấu tố và thi hành mọi chính sách của cộng sản. Những thứ tài vật được chia được gọi là "quả thực", một danh từ nhập cảng từ CCRD ở Trung quốc.(2  )
Tác phẩm "Ba Người Khác" của Tô Hoài do Đà Nẵng xuất bản 2007, 250 trang khổ nhỏ,  tường thuật kỹ càng về việc đấu tố và chia quả thực này. Nhân vật chính tên Bối, xưng tôi, không phải tự truyện của Tô Hoài.  Tô Hoài cho thấy gái nông thôn đa dâm cho nên  cán bộ Cải cách tha hồ hủ hóa. Người thôn quê cũng biết tính toán. Họ thả  con tép để băt con tôm.
  -Duyên đòi Bối cho nàng và bố nàng được kết nạp đảng.
 --Đương lúc ấy Duyên lại ỡm ờ bảo tôi: “Cắm thẻ nhận ruộng xong rồi em mới về nhà chồng chứ không thì để chúng nó cướp không công em đấu tranh à? Sao im thế? Hay là anh muốn truất phần em để anh chia cho con Đơm cháu địa ác ác? Thề đi, anh không thể chia cho em cho ruộng nhất đồng điền thì từ giờ đừng có đụng vào em mà chết gẫy xương đấy”.
- Duyên cười tăng tả đi, rồi quay lại:
“Anh phải giúp em cái này.”
“Giúp thế nào?”
“Tối nay, anh với em đến nhà địa chủ Thìn khuân cái cối đá.”
Cán bộ cải cách về thôn nghèo, không tìm đâu ra địa chủ. Họ phải kích các phú nông, trung nông, có khi cả bần nông lên địa chủ cho đủ chỉ tiêu 5% dân số. Họ theo đuờng lối "giết lầm hơn bỏ sót". Quan trọng hơn, họ theo tài liệu đảng :"ở đâu có nông dân là ở đấy có địa chủ, . Chỗ nào có nông dân, có ruộng, tất có bóc lột", Cả  thôn 4 địa chủ, 2 phản động, xã có37 địa chủ, mật thám, quốc dân đảng và các thành phần linh tinh.
Thôn Chuôm có thể nặng nhất bước này. Địa chủ Thìn nhiều ruộng đất, tôi cũng chưa đếm được nhiều bao nhiêu, ruộng nhà địa rải rác các xứ đồng, lại ruộng xâm canh bên kia sông. Trong thôn lại có bốn thằng phú, sáu trung nông cũng có thể vào diện vậ động san xẻ ruộng cho nông dân. Mà ở đâu, ruộng chia thế nào thì cũng thiếu. Công lao người ta cả tháng hội họp, tố khổ đấu tranh rồi, cái cây đợi ngày hái quả, bao nhiêu quả. [....]..
Họ xun xoe với anh đội và tự hào là được vào xâu  chuổi.  “Chào anh đội, đêm qua anh đội đã bắt được rễ, yên chí rồi thì hôm nay vào nhà em được chứ? Anh xâu chuỗi em đi. Đố anh tìm được thằng chuỗi nào hơn em. Hôm qua mà anh vào nhà em thì em đã được là rễ rồi, rễ cái chứ chẳng chơi, nói thật đấy.”
Họ cũng muốn leo cao làm trửởng thôn có quyền uy  đấu tố địa chủ thỏa thích:
“Ối, anh đã bảo được đấy nhé. Làm giấy cam đoan đi rồi cho tôi làm trưởng thôn, phế thằng tư Nhỡ đi. Tôi sẽ vạch cho đội lôi ra hàng đàn địa chủ. Cứ tính đứa nào có ruộng thì ghi tên nó là thằng địa, nhiều ít mặc kệ, có ruộng có đất chẳng là thằng địa thì là con hùm ăn thịt người à, có phải không anh đội?”
Mọi người nao nức nhận quả thực. Họ cãi cọ, giành giật.
( đến bước chia ruộng, chia quả thực, nông hội cãi nhau mấy đêm không xong, anh đội chắp tay quỳ xuống giữa cuộc họp: "Em lạy đội, em lạy các ông các bà nông dân, thế này thì em xin về, em chịu không làm được)
 Họ giành nhau cái áo, cái khố.Có người cậy thế, họ trấn lột chứ không phải chờ chia quả thực (3)
lột quần áo địa chủ mặc luôn vào ngườiTrưởng thôn Cối ở đâu xồng xộc chạy vào, cúi xuống, lột cái áo vét dạ đen địa chủ Thìn đương mặc, ngẩng lên cười hê hê: "Để cho mày khỏi vướng" rồi Cối xỏ tay vào mặc áo luôn.
 Tịch thu, trưng thu, trưng mua để đống đấy rồi chia. Ngoài kia trẻ con đánh trống rong cờ, tôi càng rối cả ruột. Các nhà địa chủ đứng ngồi rúm vào một xó, mấy người còn đến xỉa xói kể tội. Một lát, người ta đi lùng khắp nhà, lấy vôi vạch sẵn đánh dấu cái tủ, cái chum "những đồ này của nhà tôi, tôi đánh dấu sẵn kẻo mang đi đâu nữa thì lẫn mất". Người gánh, người khiêng, ai cũng gầy đói hom hem, nhợt nhạt, mới chỉ đem lên chỗ tập trung tạm, chẳng biết còn đưa đi đâu nữa mà đã hăm hở như đương khuân về nhà mình. [...].“Địa chủ cường hào gian ác Đoàn Văn Thìn có: ruộng 5 mẫu, 1 nhà ngói năm gian, 1 nhà gỗ ba gian, 1 trâu, 1 nghé, 10 chum, 15 vại, 4 giường, 2 phản, 1 yến gạo, 2 yến thóc, 7 cái nồi năm, nồi tám, nồi mười, mâm đồng 2 chiếc, mâm gỗ 8 chiếc... Tổ tịch, trưng, mua quyết định: tịch thu toàn bộ nhà ngói, nhà gỗ và diện tích ao vườn. Để lại cho nhà nó ở cái bếp đầu bờ rào. Tịch thu tất cả nồi đồng, sanh đồng, mâm đồng, cũi bát đĩa, hương án, đồ thờ. Trưng mua các phản gỗ, bàn toạ, ghế tràng kỷ, ván áo quan. Không mua thóc gạo đương có, không mua quần áo chăn chiếu đương mặc, đương đắp, không mua nồi niêu ang đất, tôn trọng tín ngưỡng không đụng đến đồ thờ, bát hương. Tôi yêu cầu đội khuân vác làm việc, đem các đồ đạc tịch trưng thu kể trên lên bãi quả thực.”(Ch.IV)

Rồi người ta khiêng đồ lên bãi quả thực trên xã hay đã vác trộm về, tôi nào phân biệt được. Tuyên bố xong, tôi nhảy xuống giữa những lộn xộn. Chẳng biết tổ trật tự lẫn lộn vào đâu, cũng chẳng biết ai đội khuân vác, ai hôi của. Có người đội ra cái thớt to như cái nón Chuông trên đầu.
Vách chưa lấy được cái gì, lon ton chạy. "Đứa nào kiếm cho tao cái quần, chọn cái mới ấy. Tao đã đóng khố sẵn để đợi mặc quần mới đây". Nhưng chẳng khi nào tôi còn để mắt đến Vách. Có người bê ra cái chĩnh, hét vào mặt tôi: "Em xin cái này về đựng nước cáy. Bao nhiêu đời bây giờ mới được cái chĩnh". Nhiều người chạy ra vườn thục cái thuốn vào gốc xoan, vào bụi hoa nhài nghi ngờ có chôn của. Trong nháy mắt, đống quả thực chỉ còn lại cái hương án, cái tràng kỷ và cỗ áo quan phải khiêng vác, không ai lôi đi được. [...]. Một bà lão nhặt được trong đống đồ đạc và quần áo bề bộn một cái cối đồng giã trầu, lấy ra nghiền xong một miếng trầu bỏm bẻm nhai, như con trâu già đêm nằm trong chuồng trệu trạo nhai lại. Rồi lại xăm xăm đi. Bà lão này khôn vặt, cứ la liếm nhặt những cái yếm, cái thắt lưng, cái ống đũa, chẳng ai để ý.(Ch.IV)

Việc chia quả thực rất náo nhiệt:

Ấy là quang cảnh những hôm các thôn rộn rịch lần lượt mít tinh tuyên bố xoá giai cấp địa chủ. Công tác lại tuần tự: chiều gọi loa, hô khẩu hiệu, tối họp xóm xong từng nhà về còn mạn đàm trao đổi ngày mai là ngày sung sướng nhất của nông dân, ngày mai giai cấp địa chủ bị tiêu diệt hoàn toàn ở xã ta và trên cả nước nữa. Mỗi thôn thành lập bốn tổ: tổ đem gia đình địa chủ ra đấu, phân hoá tại chỗ. Tổ sục sạo xem đồ đạc còn giấu diếm ở đâu và tịch thu sổ sách, giấy tờ trong nhà. Tổ vận chuyển quả thực ra để ngoài sân đền. Tổ làm trật tự kiêm ghi chép phân minh. Cuộc mít tinh xử án toàn bộ giai cấp địa chủ làm ở thôn Đìa, các thôn khác đến tham quan rồi về cứ theo thế mà làm hôm sau. Ở Chuôm, tôi làm trưởng ban, họp đến ba giờ sáng mới thành lập xong ban tịch, trưng, mua. Hội nghị đã nhất trí phương án mua những gì, cái gì tịch thu, cái gì không mua. Không mua lặt vặt cái thớt, bó đũa, cái vai cày. Những tấm ván áo quan thì tịch thu. Địa chủ chết được nằm hòm sang trọng à? Tao nhắm mắt chưa biết bó chiếu hay bó cót đây. Tịch thu cái cũi đựng bát đĩa chứ cái chậu cám lợn thì mua làm thèm vào. Phải làm mọi cái to nhỏ đúng chính sách đã bàn. (Ch.IV)

  Cuộc chia quả thực đã biến thành hôi của, trộm cắp với đủ thứ mánh mung.
Rồi người ta khiêng đồ lên bãi quả thực trên xã hay đã vác trộm về, tôi nào phân biệt được. Tuyên bố xong, tôi nhảy xuống giữa những lộn xộn. Chẳng biết tổ trật tự lẫn lộn vào đâu, cũng chẳng biết ai đội khuân vác, ai hôi của. Có người đội ra cái thớt to như cái nón Chuông trên đầu.
Vách chưa lấy được cái gì, lon ton chạy. "Đứa nào kiếm cho tao cái quần, chọn cái mới ấy. Tao đã đóng khố sẵn để đợi mặc quần mới đây". Nhưng chẳng khi nào tôi còn để mắt đến Vách. Có người bê ra cái chĩnh, hét vào mặt tôi: "Em xin cái này về đựng nước cáy. Bao nhiêu đời bây giờ mới được cái chĩnh". Nhiều người chạy ra vườn thục cái thuốn vào gốc xoan, vào bụi hoa nhài nghi ngờ có chôn của. Trong nháy mắt, đống quả thực chỉ còn lại cái hương án, cái tràng kỷ và cỗ áo quan phải khiêng vác, không ai lôi đi được. [...]. Một bà lão nhặt được trong đống đồ đạc và quần áo bề bộn một cái cối đồng giã trầu, lấy ra nghiền xong một miếng trầu bỏm bẻm nhai, như con trâu già đêm nằm trong chuồng trệu trạo nhai lại. Rồi lại xăm xăm đi. Bà lão này khôn vặt, cứ la liếm nhặt những cái yếm, cái thắt lưng, cái ống đũa, chẳng ai để ý. [...].  Các thôn đã lần lượt mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ, tiếp theo tịch thu, trưng thu, trưng mua đúng như kế hoạch. Đội trưởng Cự đi kiểm tra, đến thôn Am, thôn Chuôm thấy mít tinh đã xong ngay buổi sáng, bấy giờ chỉ còn một đám ở thôn khác chạy đến hôi của và mấy người đứng lẩn quẩn ngắm cái hương án có vẻ tiếc rẻ giá đem về bổ làm củi, nhưng nặng không ai dám khiêng. [...]. 

Hơn ba mươi gia đình nhà địa ngồi một phía đen ngòm bãi như quạ đậu. Các nhà phú nông đại diện được đến tham quan thì ngồi hàng ngoài. Người suốt chín thôn cơm nắm cơm đùm từ tinh mơ kéo đến bạt ngàn trong tiếng chiêng, trống, tù và inh ỏi. Đã đốt hết dưới thôn rồi thế mà trên xã không biết còn khiêng ở đâu ra những cái tủ đựng sách báo chữ Nho chữ ta chất cao như cây rơm, mồi lửa đã châm đốt cháy rừng rực như những cây đình liệu.[...]..Cuộc mít tinh xử án. Người ta sán đến chỗ các nhà địa chủ, im lặng nhìn như xem những con vật lạ, con gà mới mua hay cái rọ chuột. Anh đội nói: "Mặc kệ, không cần trật tự, cho quần chúng thoả lòng căm thù". Một đám vây lại chỗ một bà lão địa, hai mắt cùi nhãn đã loà hẳn. Bà lão mặc lồng hai cặp áo nâu da bò, khăn vuông láng thâm mới, nhai trầu thong thả, không biết điếc thật hay giả điếc, dửng dưng không để ý xung quanh. 


Đằng kia, một lão địa - lão này không có tội ác, không bị giam, lão chít khăn, áo bông dài sa tanh mới, hai tay chắp trước bụng áo như đứng hầu quan. Tiếng ai như tiếng thằng Vách quát: "A ha! Chúng nó mặc tất cả quần áo vào người để khỏi phải tịch thu đấy. Lột ra, lột hết ra. Tao có quần rồi, tao cần thêm một cái áo, đứa nào lấy cho tao". Một người hất tay trật cái khăn vố của lão địa. Nhưng cũng không ai lột váy, cởi áo lão địa ông, địa bà ấy. Cái khăn bị lệch mà lão địa cũng không dám giơ tay sửa lại, mồ hôi đậu từng nốt trên mũi lão. Chốc chốc, lão lại mắm môi ưỡn người đảo mắt nhìn xuống, ngước lên như cố nhịn đái hay nhịn ỉa chẳng biết.[...]. Các thôn vẫn đương kéo lên cả thôn Am, thôn Chuôm, mà tôi không biết, vì tôi quên không cho lệnh lên. Chỉ là còn ngửi thấy hơi của, người ta gọi nhau đi. Trên bờ tường, trẻ con leo ngồi đánh trống. Dưới kia, loa trõ xuống đầu đồng: A lô!A lô!. Nắng đã hẩng, người đi ồn ào, tiếng tù và ánh ỏi.(Ch.IV)


Chia ruộng đất, đồ đạc đưa đến kèn cựa, tức giận, hận thù, gây chia rẽ gĩa nông dân với nhau:
 
 Những buổi họp bàn chia ruộng, quả thực, chưa đâu vào đâu, ai cũng té tát, hằm hè tím tái vặc nhau. Ruộng đồng cạn, đồng sâu, và quả thực, cái nhà đầu hồi hay ở gian giữa, cả cái cối đá, cái bắp cày trên gác bếp cũng tranh nhau không ai nhường ai. Hôm sau mới chia thử đã loạn xạ. Chỉ có cái cối đã mà mấy người hét: Vần đi, vần đi. Người khác đá lại. Một người ở đâu tới, thủ sẵn cái thừng, đánh thòng lọng xuống lưng cối, khoác thừng vào vai, kéo xềnh xệch cái cối đá.
Tôi chặn lại:
- Không được, chưa chia.
Em chỉ ra xem thử để lúc em được chia thì mang đi cho dễ, em thử thôi mà. Rồi cười khà khà, đi vào. Trong này còn khối thứ, bỏ vào ngồi họp thì đứa khác ra cướp mất. Cứ đứng đây, tôi cái này, cái này. Ôi trời, còn biết đằng nào mà lần. Hai tai nghe quang quác, khoành khoạch, át cả tiếng anh đội cổ đã khản đặc nhìn những người nhà có đám phải rặn ra khóc.
Cuộc họp đối đáp chan chát.
- Ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng mặn, ruộng chua, lấy ráo. Bần cố chúng tôi đã mấy đời đói ruộng như con đói sữa mẹ.
- Cho tôi cái xướng mạ, tôi chỉ xin một thứ thế thôi.
- Cả lũ địa còn đánh đổ được nữa là chia cái ruộng đã có trong tay, khoan đã, rồi đâu vào đấy.
- Tôi không có màn. Anh đội ơi! Cho tôi một cái màn mới là thoả mãn bần cố nông.
- Đấy là sang mực quả thực. Mấy hôm nữa.
- Mấy hôm nữa thì bàn bây giờ làm mẹ gì cho tốn nước bọt.
Rồi lại nói ngay:
- Nhưng mà tôi cứ nói trước, tôi phải được cái áo ấm. Đáng nhẽ tôi khiêng địa chủ Thìn thì tôi được cái áo bành tô của nó, thế mà trưởng thôn Cối đã nẫng tay trên của con tôi. Cả đời mới trông thấy cải cách mà không được cái áo thì rét lắm. Mà tôi là cố nông, cố nông ba đời, bố tôi cần cái hòrn đến nơi rồi. Cái hòm ở nhà địa chủ Thìn là phần tôi, chưa dùng đến thì mùa hè để ông cụ được nằm cho mát cái lưng. Hề, hề, hề…
- Nhà tôi chỉ rặt giống nồi đất, đội về mà kiểm tra. Tien nhan đứa nào bảo bà có cái nồi tư đem giấu đi!
Rồi cuộc họp lại lái về ruộng đất, lại lung tung.
- Trung nông nhận ruộng giao canh của địa chủ thì hoa mầu tính sao? Tôi chỉ có hai miếng chó ỉa ấy, đổi nước mạ, nước khoai lấy ruộng có được không? Tôi là trung nông yếu, các ông các bà ạ.
- Yếu hay khoẻ thì cũng là trung nông, ai cho trung nông đổi chác mà đòi.
- Nói như cái nhà chị thì mấy tháng nay tôi đi đấu công toi à?
- Nguyên canh là thế nào, cào bằng đi, chia lại.
- Ruộng tôi cấy, động chệ đến mồ mả nhà ai mà chia lại!
- Báo cáo đầy đủ này. Tôi chưa có đất vườn, tôi chưa có cái chum, cái vại tử tể đựng nước cáy. Tôi xin nhận chỗ ao dừa nhà tư Nhỡ.
- Tôi phải được chia cái áo bông của thằng Thìn mới là đoàn kết bần cố, thằng Thìn còn cái áo bông dài năm ngoái vẫn thấy nó mặc rét.
- Các người ơi, để mắt đến thằng trung nông ọp ẹp này một tý. Nhà toàn ruộng nuôi giang sếu, bồ nông đồng chua, phải cho lên cắm thẻ đồng cao chứ.
- Đã bảo trung nông thì đợi ngõ ngoài nữa.
- Hay là nông hội tư túi chia cả ruộng cho con mẹ công thương bán bánh đúc chợ huyện?
- Đứa nào bảo ông tư túi, ông gang họng ra!
- Tôi như con chó hóng cứt, từ chặp tối điếc cả tai mà chưa được cục cứt nào đây.(Ch.IV)



 
MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA của Nguyễn Khắc Trường được nhà xuất bản Hồng Lĩnh in tại Hoa kỳ 1991, sách dày 459 trang. Tác phẩm này cũng đề cập đến việc phân chia ruộng đất của thời Cải cách đưa đến đánh nhau, thù hận nhau. Đoạn va78n sau đây tả cuộc ấu đả củaz hai phe tranh giành nhau.

Bà Đồ Ngật xồng xộc chạy vào cuộc họp:
- ơƠi các ông, các bà đảng viên ơi! Người ta đánh nhau ngoài đồng kia kìa! Người ta tranh đất, tranh ruộng đánh nhau to ở Đồng Chùa kia kìa!

- Thế thì nghỉ đã! - Một tiếng hô át cả lời ông Chỉnh. Rồi vẫn đúng thói quen tự do thoải mái, rùng rùng đến dăm người đứng tụt dậy. Chủ tọa chưa kịp nói gì thì mấy người đó đã huơ tay lao la cửa. Trong lúc nhốn nháo, ông Phúc, ông Địch vẫn nhận đó là những đàn em của Thủ.

Không muốn thì cuộc họp cũng dứt đoạn. Mọi người vội vã chạy tắt ra phía cổng làng. ở đấy là cánh đồng Chùa. Đồng Chùa nằm ở cửa ngõ phía nam của làng. Đó là tiền sảnh, là bộ mặt kiêu hãnh của làng. Đồng Chùa là một cánh đồng phăng phiu chỉ rộng hơn 20 mẫuBắc Bộ với những thửa, những ô ruộng có từ thời sơ khai của vùng này. Đây là nơi thượng đẳng điền duy nhất, là cơm giữa nồi, gái giữa làng, là nơi ngày xưa các bậc kỳ hào tranh giành nhau đến chết để được là người chủ điền có ruộng ở Đồng Chùa. Ngoài sự mầu mỡ của đất đai, cày cấy được hai vụ, cái chính Đồng Chùa là niềm tự hào, là tiếng tăm của chủ nhân, là đầu gà má lợn của ngôi thứ. Chính nơi đây năm xưa chi họ Trịnh Bá đã phải nhượng lại cả mẫu ruộng sâu cho chi họ Vũ Đình khi tên Trịnh Bá liều đánh canh bạc cuối cùng mà cái chức lý trưởng vẫn tuột khỏi tay. Phải nhượng lại ruộng ở Đồng Chùa, dù có được giá gấp năm gấp mười nơi khác, nhưng như thế là có nghĩa đã phải bán cả máu của mình để ăn! Chỉ đến khi có hợp tác xã, những chủ nhân của Đồng Chùa mới chịu nhả đất ra không một lời cò kè, mặc dù ruột gan quặn lại như muối xát.

 
Bây giờ đi vào khoán, giao đất cho từng hộ, thì nơi khó điều hòa, khó chia bôi nhất lại vẫn Đồng Chùa.Hai anhem Hảo - Hán và Vu con ông Vi đúng là những đảng viên tiền phong đi đâu. Bà Đồ mới hào hển kể xong, họ đã băng đi, lao vọt qua ô cổng như ụ súng, chạy phóng ra cánh đồng. Kia rồi! Cuộc chiến vì đất đai giữa những anh em, xóm giềng với nhau đang nổ tung giữa nắng quái đỏ khé. Một đám đông nhốn nháo ầm ĩ. Hai chục, hay ba chục? Cả đàn ông, đàn bà, đang hò hét vung tay, vung nón giữa thửa ruộng vừa gạt xong, còn lô nhô những đụn rạ. Bỗng đám đông tóe rát ra khi một tiếng chửi tục gầm lên, rồi hai người đàn ông cùng quần đùi áo cộc, vung gậy lên đập chát vào nhau. Chát bốp! chát bốp? Chát choáng! Chát...

Tiếng gậy tre già phang thẳng cánh nghe rợn thấu xương! Mấy người đàn bà kêu la oai oái. Bỗng một tiếng hét phía sau trùm lên tất cả, rồi một bóng người cao lớn xách gậy từ xa lao bổ lại. Cũng quần đùi, áo cộc, còn thêm mái tóc chờm vai. Mọi người kêu lên khi nhận ra tay dao búa nhất nhì của làng - Uởng? Đúng, lại U&ởng! Ưởng gầm vang cái giọng ồm ồm của mình nghe đây hả hê thách thức:
- Bác Hàm lui ra
Phải? Một trong hai người đang giao đấu để chiếm mảnh ruộng dưới chân chính là ông
Hàm. Và thật may cho ông, ông đang phải chống đỡ với một đối thủ trẻ, khỏe và nhanh
hơn ông rất nhiều. Tiếng thét của ưởng làm cả hai cùng sững ra. Ông Hàm vừa né người sang bên, thì Ưởng đã nhảy chồm tới như hổ thấy mồi. Mặt mũi tía sẫm lên như đồng hun.

- Thằng Hoạt hôm nay biết tay tao!
Vừa hét lên như tuyên án, ưởng vừa múa gậy vù vù thị uy. Đầu cây gậy cứ hoa lên nhoáng nhoáng như chớp. ưởng đang mong có dịp thực thi thấy miếng vừa học được! Thực ra không phải ưởng bảo vệ ông Hàm tới mức xả thân đâu, mà chính là Ưởng khoái đánh nhau! Hễ cứ được ục là chân tay Uởng như được nối dài ra, toàn thân say sưa bừng bừng như kẻ nghiện được rượu, kẻ háo sắc được gái? Riêng với Hoạt thì ưởng đã có ý chờ dịp. Hoạt có họ hàng xa với chi họ Vũ Đình, hơn Ưởng dăm tuổi, đôi bên đã vài lần va chạm. Giữa cái hôm bác cháu ông Hàm đi đào bới kia, khi Ưởng đã bị trói bằng chạc trâu, Hoạt còn dí đầu gậy vào trán ưởng. Ưởng đã rắp tâm sẽ chơi lại Hoạt từ hôm ấy.

Quả nhiên Hoạt thấy chờn trước sự hung hãn của con hổ non dám sẵn sàng thí cả tính mạng. Hoạt cũng đã là tay liều, nhưng liều để thắng: để được sống mà hưởng, chứ Hoạt không thích liều chết! Hoạt vừa lùi, vừa tìm cách chống đỡ, thì thật cũng phúc tổ cho Hoạt:Anh em Hảo - Hán đã lao tới. Đôi bên cũng có họ xa với nhau, anh em Hảo - Hán còn là cành trên. Hán xông lại nắm ngay lấy gậy của Ưởng, nói giật giọng:

- Cậu Ưởng, thôi ngay - Rồi Hán quay sang Hoạt, giọng rất hách - Còn anh, cũng liệu đấy!Ưởng văng tay Hán ra rít lên:
- Phải táng bỏ mẹ nó đi chứ!
Nhưng Hán vẫn nắm cứng lấy cây gậy của Ưởng, cây gậy cũng nóng như vùi vào lửa?
Hán quay sang nói nhỏ: Thôi đi cậu đứng có ngốc! Việc chủ yếu là để bác Hàm lấy lại
ruộng. Nếu nó còn láo thì sẽ choảng! ưởng bỗng rời tay ra, người đầm đìa nhẫy nhược
mồ hôi như một cây cột mỡ, Hoạt đã nhanh chân chõm ngay lấy dịp may biến sớm rồi.

Bây giờ các đảng viên mới chạy tới nơi. Thủ giận đến tái mặt trừng mắt nhìn Ưởng, nhìn ông Hàm mặt mũi tối sầm sầm đang lùi lùi lên bờ. Bà mẹ của Hoạt đầu tóc xác xơ, đi chui chúi sấn lại phía Thủ, nói the thé:
- Có ông Thủ mấy lại đủ mặt các ông tác bà đảng viên của làng chứng giám đây. Cái thửa đồng này ban chủ nhiệm đã cho tôi làm từ vụ chiêm, nói là ưu tiên gia đình liệt sĩ. Thế mà bây giờ ông Hàm lại bảo là đất hương hỏa của nhà ông ấy, phải giả ông ấy. Ông Hàm bảo ruộng này từ đời ông bà của họ Trịnh Bá dã đánh dấu bằng cột đá ong chôn ở đâu bờ, gia phả nhà ông ấy ghi như thế. Tôi chả biết gia phả với đá ong đá ve gì suất! Bây giờcòn làm gì áo đất hương hỏa. Ruộng đất là của hợp tác, thì hợp tác giao cho ai phải thuộcvề người ấy chứ. Nói như ông Hàm thì chả hóa ra ai tách thửa ruộng nào chỉ việc đi đánhdấu trộm vào đâu bờ, bảo đấy là đất hương hỏa của nhà mình à?

Thủ đang lúng túng, thì bà mẹ của ưởng cũng không phải tay vừa, sấn tới trước mặt mẹ Hoạt nói như xóc ốc:
- Vụ chiêm vừa rồi hợp tác mới là tạm giao, chưa thuận. Bà không nhớ ngày ấy người ta đã thắc mắc ầm lên à? Bây giờ phải lại cho đúng. Ruộng từ thời cha mẹ ông bà nhà người ta phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có. Bây giờ hợp tác không bắt góp tập trung nữa thì phải giả lại. Bà mẹ Hoạt cứ bám vào cái lý ưu tiên gia đình liệt sĩ, nên cũng không chịu. Ruộng này chính là xương máu của Bát, em Hoạt đã hy sinh ở đường 9 - Nam Lào.

- Bà không có con là liệt sĩ thì bà mới bảo phải chia lại!
Nghe vậy mẹ ưởng nhảy thách ngay lên. A thì ra bà ta kháy thằng ưởng nhà bà đi bộ đội chưa được một năm thì bị loại ngũ đây.
- Bà đừng có cậy suất ưu tiên liệt sĩ! Nếu ưu tiên thì phải là bà Điều, ông Diễm, cụ Một đang không có ai trông nom kia, con người ta cũng bỏ xác ở biên giới đấy, chưa đến lượt bà?


Nhưng mọi người đã không cho hai bà đành hanh phá ngang câu chuyện. Những tiếng nhao nhao át đi:
- Đề nghị xã và ban chủ nhiệm nhanh chóng giao đất giao ruộng cho chúng tôi. Vụ chiêm vừa rồi mới là giao thử chưa hợp lý? bây giờ vào làm mùa rồi phải giao lại, không nhanh thì để ruộng hoang à?
- Phải giao cho công bằng, chứ vừa rồi bao nhiều ruộng tốt là cán bộ với những người thân tín dấm dúi chia nhau, còn lại đầu trâu mõm bò đẩy cho dân là không được. Chúng tôi đã làm đơn xin tách khỏi hợp nhất để về hợp tác xã nhỏ, sao bây giờ vẫn ỉm đi? Hợp nhất mới chả hợp bét, làm ăn nát như tương, bắt chúng tôi đánh đu vào để mà ăn mày cả lũ à?
Một giọng đàn ông thủng thẳng như một lời kết luận:
- Không giao đất nhanh, không công bằng, còn choảng nhau to!
Xuân Tươi lại vỗ tay bồm bộp vào nhau, cao giọng:
- Đề nghị bà con giải tán. Chúng tôi sẽ báo cáo lên xã, lên huyện giải quyết nhanh chóng những yêu cầu của bà con. Những vấn đề này chúng tôi không đủ quyền hạn giải quyết.

Còn việc chia đất thì tôi được biết chỉ vài hôm nữa ban chủ nhiệm sẽ công bố.
Một tiếng đế theo nghe đã có mùi bông đùa. Xuân Tươi quả là một cái van xì hơi rất hữu hiệu:
- Bà con cũng không dám yêu cầu bác Xuân Tươi giải quyết đâu, vì toàn những việc tẹp
nhẹp cả, mà bác Xuân Tươi thì chỉ quen lo cách mạng thế giới thôi! Mấy hôm nay có vị tổng thống nào bị ám sát trượt nữa không? Hôm trước bác Xuân Tươi còn hỏi thầm tôi một mẫu là bao nhiều sào? Hớ hớ!
Thủ đi từng bước ủ rũ về phía bụi hóp ở đầu bờ, nơi ông Hàm và ưởng đang ngồi, như vẫn chờ để nhảy vào cuộc giao đấu mới. Lại cả chị Bé vừa chạy ai nữa. Vẫn quần xắn ống thấp ống cao, mặt chín rờ. Hai con mắt rừng rực như lên cơn sốt. Chị vừa cầm nón quạt phe phẩy, vừa nhìn ông Hàm với ánh mắt trung thành tuyệt đối, như sẵn sàng xông vào những cuộc giành giật nếu ông sai bảo. Chính chị lúc nãy đã nhận đi thay Đào ra thửa ruộng vừa đụng độ kia để phát bờ và khơi lại con mương cho nước vào để mai cày vỡ chuẩn bị làm mùa. Vừa phát được một quãng bờ thì Hoạt đã ra sừng sộ. Chị chạy về báo.


Ông Hàm bỏ tràng đục, sập sểnh đi ra, nói ầm è:
- Tôi đã báo bà cụ nhà anh từ hôm trước rồi, rằng là thửa ruộng này của ông bà tôi từ ngày xưa, văn tự nhà tôi có ghi vẫn còn kia. Ngày làm chiêm nhà anh cày cấy, tôi lên mạnngược mua gỗ không biết. Lúc về tôi đã nói ngay với ban chủ nhiệm giao ruộng thế là sai, anh Vinh đã hứa tới mùa sẽ điều chỉnh lại. Bây giờ ruộng ai phải về nhà ấy.

Hoạt mới bốn mươi tuổi, nhưng trông đã già và cũ kỹ, vốn cũng là anh bặm trợn nghe mẹ nói là phải giữ thửa ruộng này bằng được, nên khăng khăng:
- Của nhà ông từ thuở tám hoánh nào, bây giờ ai biết? Hợp tác xã bảo đây là ưu tiên ưu tiên cho u tôi có con liệt sĩ. Ông thắc mắc thì đi gọi ban chủ nhiệm ra đây.

Ông Hàm cũng quyết giữ cái lý của mình:
- Thì tôi đã bảo là ông Vinh chủ nhiệm đã hứa rồi. Ruộng đất bây giờ phải trả về tận gốc của nó. Anh không tin thì tôi sẽ cuốc cái góc ở chỗ đâu bờ kia cho anh xem. Dưới ấy có một cột đá ong dài nửa mét chôn đứng, có đánh dấu riêng của họ nhà tôi.
Thấy Hoạt bán tín bán nghi, lại pha chút hoang mang. ông Hàm liền xăm xăm vác cuốc lại chỗ góc đầu bờ, rồi bổ xuống hùng hục đầy tự tin. Mươi phút sau quả nhiên một cọc đá ong sần sùi màu da lươn hiện ra trước sự sửng sốt của Hoạt và một tốp gần chục người nghe thấy tiếng đã chạy đến. Nhưng khi ông Hàm nhờ một thanh niên nhảy xuống lay lay, rồi rút chiếc cột đá hình trụ nhỏ bằng gốc tre và dài tới đầu gối vứt lên bờ, thì Hoạt bỗng sực tỉnh như mình vừa bị đánh bùa mê, và kẻ bỏ bùa sắp công nhiên nẫng cả báu vật trước mắt mình. Hoạt liền lấy lại giọng sừng sộ:

- Không được, ông đừng có bịp bợm! Đừng có chơi cái trò cột mốc ăn người ấy!
Thế là cuộc cãi lý, cãi vã bắt đầu. Người đi làm xung quanh đổ đến. Người bênh Hoạt, kẻbảo vệ ông Hàm. Rất nhanh đám đông chia thành hai phái, ầm ầm như chợ. Đến khi mẹưởng, tức người chị họ ông Hàm và bà mẹ của Hoạt đã kịp thời ra chi viện, mổ tay choi choi vào mặt nhau, thì bà Đồ Ngật lúc ấy trên đường đi đến nhà người tình, tức ông QuảnNgư Tây học để làm cám, dừng lại đóng vai quan sát viên liền nảy ra sáng kiến hòa bình là lao đến nhà mẫu giáo, nơi cả làng đang thì thầm bàn tán là các ông ấy đang cạo nhaunhư cạo khoai để thông báo cho chi bộ một tin rất.... cực!


- Giữa lúc này mà bác làm như thế là chỉ thêm rối việc, hỏng việc - Thủ nhìn lướt cả ba người, giọng khàn hẳn đi, mặt buồn rầu u uất. Chị Bé cúi đầu nhìn xeo xéo sang bên ông Hàm mặt vẫn tím sàm vì nắng. Cặp mất cá rói của ông lại vằn lên thách thức. Ông nói nhỏ, nhưng rành rẽ:
- Đây là việc của tôi, không động gì tới chú. Tôi đã nghe dân chúng đang sui nhau phải nhanh chóng chia phần chiếm hết cánh đồng Chùa này, đến khi ban chủ nhiệm lập xongphương án chia thì sự đã rồi. Ai có đất hương hỏa ở đâu phải đánh dấu trước, tức là phảiphát bờ cuốc góc trước, chậm thì mất trắng mắt! Thửa ruộng này là cái túi, cái bao của cả Đồng chùa. Lộc cả đồng đều tụ hết vào đây. Gia phả nhà ta các cụ đã dặn dù thế nào cung phải giữ bằng được. Ngày xưa có lúc túng quá, các cụ đã phải mang ruộng ra gán nợ, nhưng qua vụ gặt có thóc liền chuộc lại ngay, mà cũng chỉ cần chuộc có cái mảnh ba sào này thôi. Con mẹ thằng Hoạt nó cũng biết cái thế đất ấy. Hôm trước tôi đã nói thẳng
với ban chủ nhiệm là riêng thửa ruộng này, tôi còn sống thì đừng có ai động vào. Baonhiều năm hợp tác hợp tếch làm ăn phá gia chi tử đã đủ lắm rồi! Ngay làm chiêm mớisểnh mắt một tý mà mấy anh đã chia bậy, chính dạo ấy chú vừa trúng bí thư, nên đãkhuyên tôi nán chịu. Giờ thì mặc tôi! Mang tiếng là nhà nông, nhưng chú đã biết gì chuyện đất cát! Với nhà nông đất là ngọc điền. Đất phải thuận, phải vượng, thì cái lộc cái thọ mới ban. Mẹ con thằng Lộc có mọc thêm tay thêm đầu cũng không nhảy được vào thửa độcđiền này Uởng nhanh nhảu tiếp ngay:

- Mai cậu cứ cho người ra cày, cháu sẽ đứng kèm!
Ông Hàm ư hừm trong cổ định nói nữa, thì ngoài kia lại có tiếng tranh cãi ầm ầm. Lại cóhai chủ hộ cùng quả quyết nhận thửa ruộng này dứt khoát phải là ruộng nhà tôi!. Xuân Tươi vẫy tay gọi Thủ. Ông Hàm đứng dậy lững thững bỏ về. Chị Bé vác cuốc men mén đi theo sau, lặng lẽ và cúc cung như cái bóng của ông Hàm hắt lại. Mặc dù mấy hôm nay chị em Đào có vẻ chờn chờn không ngấm nguýt chị nữa, bởi đêm đêm về khuya, Đào cứ nghe thầy chị thầm thào như nói với ai dưới nhà ngang, rồi lại có mùi trầm hương thoang thoảng bay ra, đầy vẻ bí hiểm. Nhưng ban ngày chị vẫn rất nhũn nhặn và phụUCc tùng ông Hàm thật là vô điều kiện. Chị cứ như chiếc lạt mềm xoắn dần vào mấy bố con ông chủ nhàghê gớm. Mặc! Ghê thì chị cũng
có cC
ách của kẻ ghê! Cách ấy là vừa trần tục, lại vừa phùthủy, nào!

Trên Đồng Chùa vẫn nhấp nhô đây người. Chỗ túm năm, chỗ tụm bảy. Thửa ruộng phíacuối mương nước ai đó lại đang đốt ra, khói bốc um tùm. Ông Hàm nói đúng, người ta đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch lấn chiếm thật ráo riết. Tùng ở dưới đồng quay lên,bỗng trông thấy bà Sang trong tốp mấy bà đang nghe mẹ Hoạt kể lể, giọng đã khàn đặc.
Tùng đi lại nói dấm dằn:
- U đi về, ra đây làm gì. Chuyện không liên quan gì đến nhà mình.
Rồi Tùng quay lên chỗ ông Chỉnh đang ngồi bên bụi hóp, nơi ông Hàm vừa lúc nãy giải thích cho Thủ tại sao phải giữ bằng được thửa ruộng hương hoá kia. Ông Chỉnh đưa cho Tùng điếu thuốc. Cả hai dùng im lặng nhả khói, lim dim nhìn ra Đồng Chùa trải dài hun hút xuống tận Soi Dâu giáp sông Công. Nắng nhạt nhòa đã phải sương chiều, đuối dần rồi tắt lịm dưới những chân rạ. Đúng là Đồng Chùa đẹp thật, phẳng phiu vuông vức như một cơ thể sực dài vai rộng. Vậy mà cái cơ thể này đã nhiều phen ốm o đói rách. 


Và bây giờ người ta đang dùng cả luật rừng để xâu xé giành giật, như giành giật một miếng mồi.
Ông Chỉnh quay sang Tùng, giọng bỗng trở nên xa xăm:
- Cái chính sách này, cái khoán về từng hộ ấy mà đúng đáy Tùng ạ. Vấn đề đất đai đối với nông dân bao giờ cũng là cơn sốt, ở đây là cơn sốt vỡ da để lớn!
Tùng hỏi ngờ vực:
- Đúng thì phải vui, chứ đánh nhau như trâu đực nhốt chung chuồng sao còn đúng?
Ông Chỉnh bỗng trở nên sôi nổi:
Cái đúng là thường phải trả giá đau đớn! Chứ cái vui trước đây chỉ là vui bề mặt, vui lấy lòng! Cái vui cha chung không ai khóc! Nhớ ngày tao được về học ở trường quân chính trên tỉnh kia, vì gần nên tối nào cũng mò về, thấy dân làng cư xao xác về những nghị quyết, những chỉ thị. Nào là chỉ thị 100, nghị quyết 64, chỉ thị 28 về ruộng đất. Nông dân mà nhiều chỉ thị hơn cả lính. Nghe cứ rồi mù mù. Ao vườn của dân phá đi. Rời làng rời xóm để lấy mặt bằng tăng diện tích cho sản xuất của hợp tác. Thoạt nghe cũng thấy bùi tai. Cứ tưởng ra tay phen này thì đất cát phải nhả ra thóc gạo ê hề. Nhưng hóa ra đó là cái hăng máu vịt của anh thích mơ mộng và liều chí mạng. Cấm thèm nghe ai! Cho nên mới thành ra cứsau một đợt chỉ thị như vậy thì xóm làng lại xơ xác tham, mặt người cứ méo như bị! Taocòn nhớ cái hôm vừa ở bến đò lên, bụng đang đói bỏ mẹ, bất chợt gặp ông Đáng lúc ấyđang là bí thư đảng ủy, thế là ông ấy túm ngay lấy tuyên truyền mô hình cấp huyện. Mỗihuyện sẽ là một pháo đài về kinh tế và quân sự, nghe hách lắm. Không chừng phen nàychúng ta lại làm một điểm tựa để bênh cả thế giới lên không biết chừng! Rồi thì khối anhda đen da đỏ ở cùng trời cuối đất, cũng phải tiền lưng gạo bị đến đây để ta dạy cho cáchxây dựng mô hình cấp huyện! A phải, đúng hôm ấy ông Đáng vừa đi tham quan QuỳnhLưu và Định Công ở trong kia về. May mà ta chưa kịp triển khai làm theo hai cái mô hình ấy! Chứ không thì còn đói nữa? Dạo ấy dân đã chán ruộng lắm rồi, họ dắt nhau đi đàovàng, đi chặt gỗ trộm của lâm nghiệp để xuôi sông bán. 



Ngày mùa mà lúa ở Đồng Chùa
chó chạy hở đuôi. Vì anh nông dân đã chán đất thì còn lấy đâu ai thóc. Giống như thằng lính bất mãn, vào trận mà vứt súng thì còn làm được trò trống gì? Nhưng từ vụ chiêm đến giờ người ta lại ham đất, quý đất, thế tức là cái anh khoán này đã hợp với lòng họ. Nhữngngười đi lang thang đã mò vào hết rồi đấy. Đến lão Tám lé đào được vàng cũng bổ về xinthanh toán nợ nần để chuộc lại đất. Vấn đề bây giờ là ở người điều hành. Các cha ở đây
chưa điều hành tốt vì có nhiều ràng buộc quá, như con rết bị vướng víu quá nhiều chân
cẳng nên không bứt mình lên được.- Nhưng người ta không muốn cắt những ràng buộc đâu chú à - Tùng nói dăm chiêu - Vừa rồi ở dưới đồng kia, ông cậu, ông dượng bên nhà cháu nhìn cháu có vẻ bực bõ lắm. Vừa nghe bác Xuân Tươi nhắc sáng mai các đảng viên tiếp tục họp, thế là cậu Phúc nháy dượng Tính dượng Địch về ngay. Đi qua chỗ cháu đang đứng mà cả ba ông đều lờ đi!
- Đã run rồi hả? - ông Chỉnh bật cười khùng khục. Cười mà nghe chua chát như phải uống
hàn the! - Thấy chưa? Động vào tim họ có phải đùa đâu. Anh em ruột rà họ cũng cắt
phéng! Nhưng thôi đừng lo vẫn còn đến dăm người ủng hộ ta với cậu. lúc chạy ra đây ông
Bằng, ông Hải: cô Xuân, cậu Dụ bảo rằng ta nói thế là phải, đã đến lúc cần mạnh bạo rũ
cái chăn chấy rận này ra! Đây là cuộc thi gan, cưỡi lưng hổ rồi đấy, đừng có nản nhảy
xuống mà toi! Ông Thủ đến đấy!

Chỉnh nói nhỏ. Tùng ngửng lên. Theo bờ mương, Thủ đang đi thong thả đến chỗ hai
người. Vẫn dáng người dong dỏng thanh thoát, gương mặt trái xoan ưa nhìn, nhưng bây
giờ đượm buồn nên trông lạnh lạnh. Dẫu vậy Thủ vẫn lịch lãm hơn hẳn cái cách phản ứng
mặt nặng mày nhẹ của anh em ông Quàng. Cả Chỉnh và Tùng bỗng trở nên ngượng nghịu
chưa biết nói gì, thì Thủ đã tươi ngay nét mặt, khẽ gật đầu, rồi ngồi xuống nói vừa thân tình
vừa khiêm tốn quá thể:

- Bác Chỉnh với anh Tùng thấy chưa? Mới chỉ có chia đất chậm một tí mà đã đủ thứchuyện rầy rà. Anh Vinh và ban chủ nhiệm phân chia vừa không tỉ mỉ, lại không cương
quyết, ai đến gặp riềng cũng đều hứa hẹn để cho đẹp lòng, thế là hỏng to. Còn ithững
điều hai đồng chí nói hôm nay - Thủ hạ giọng trầm trầm: - Tôi thấy đúng cả! Những nhận
xét về tôi, tôi cũng không phản đối! Nhưng tôi chỉ xin các đồng chí hai điều. Thứ nhất là
giữa lúc trong đảng và ngoài quần chúng đang có nhiều thông tin sai lạc, lòng người bất
an, thì chúng ta nên xử trí với nhau thế nào? Đã cần thay luôn cả bộ máy chưa? Không
khéo ta lại làm rối thêm, lợi bất cập hại! Bây giờ trình độ đảng viên và quần chúng nâng
cao lắm rồi không dễ dàng để cho người lãnh đạo làm sai đâu. Thứ hay là việc phát triển
đảng ở đây. Đúng là chậm và có nhiều thiếu sót. Nhưng đổ chỉ cho tôi thi thật là oan quá!
Vì các tổ đảng người ta không đưa lên, thì tôi biết làm thế nào? Chả nhẽ tôi ép họ. Các
đồng chí quen tác phong nói thẳng, nói hết của quân đội, tôi rất quý. Nhưng đặc điểm ở
nông thôn ta nó khác lắm. Làm đúng, làm phải, nhưng không được lòng họ thì cũng không
tác dụng. Đồng chí Tùng phụ trách xã đội, vì là việc chuyên ngành, nên hàng ngày ít va
chạm. Rồi ở cương vị khác đồng chí sẽ thấy, phải giải quyết trăm thứ bà giằn. ở nông
thôn công việc không phân chia tách bạch được đâu. Nhiều lúc thấy để một mình anh Sửu
giải quyết thì sẽ hỏng, thế là phải nhảy vào tham gia. Lúc khác thì chính anh Sửu đề nghị
tôi cùng xem xét. 
Nhưng đến lúc họp lại mang tiếng là bao sân. Rồi các đồng chí làm sẽ
rõ, khổ lắm.Thủ vẫn tiếp tục kể lể về nỗi vất vả của người cán bộ nông thôn bằng giọng vừa nhũn
nhặn,vừa ngán ngẩm, vì cứ phải ôm rơm nhặm bụng khiến Chỉnh và Tùng bỗng thấy mình
đã quá lời với Thủ trong cuộc họp! Mặc dù Tùng đã biết Thủ có tài cảm hoá, tài xoay
chuyển tình thế, đến chao chát như bà Chung hội trưởng hội phụ nữ xã, cũng là đảng ủy
viên, bên ngoài cũng hay bất bình với Thủ, nhưng cứ vào họp, nghe Thủ ngọt nhạt phân
tích với giọng vẫn vi, thế là bà Chung lại đuối lý, tịt ngòi. Tùng biết những ca cẩm của bà
Chung là đúng, là Thủ cùng không chối! Nhưng có điều sau đó Thủ lẳng lặng phủi những ý
kiến của đồng chí rất là quý hoá như phủi bụi! Nên ngay từ lúc nãy khi nghe Thủ nói, Tùng
đã thầm tự nhắc minh là hãy tỉnh táo, tỉnh táo! Lá thư của người vô danh nào đó đã ném
qua cửa sổ cho rơi đúng vào giường của Tùng trưa nay đang hé mở cho Tùng và ông
Chỉnh thấy những bộ mặt của Thủ thật hãi hùng quá! Có thật Thủ dám làm những việc như
thế không? Phải thận trọng xem xét. Và muốn cho rõ hư thực ra sao thì hãy đứng xa xa
mới nhìn thấu đáo nhưng tròn méo lồi lõm, chứ đừng nhập thẳng vào thì không khác gì
như ngồi dưới chân đèn, để biến thành cái chân đèn th


Chính lúc ở ngoài Đồng
Chùa nổ ra cuộc tranh giành đất cát đến mức đôi bên vác gậy phang nhau chan chát như
trâu húc, thì cô thống lúc đó đang nằm ở trong buồng ngang người đắp chiếu chăn đơn vì
cô thấy khó ở từ lúc trưa. Nghe thằng Hữu cháu đích tôn phồng mồm trợn mắt kể lể về
cuộc giao đấu cực kỳ ở ngoài đồng, cô lắc lắc mái đầu bỗng gáo nói rất tỉnh táo: Đấy, có
đúng là ma sống nổi lên thì chẳng có bùa ngải nào trị nổi, phải không nào? Bùa ngải chỉ
yểm được ma chết, chứ ma sống thì chịu! Rồi cô sai bà Thành là con dâu cả đi hái lá
hương nhu và ngải cứu về nấu một nồi nước lớn để cô tắm rửa, thay đồ, rồi cô gọi ông
Hiển tức anh ruột chủ nhiệm Lê Văn Vinh, là trưởng nam vào dặn dò. Ông Hiển vội vã giục
con đi gọi chú Vinh tới Khi con cháu đã tề tựu đông đủ quanh giường, cô thống giương
cặp mắt bạc mờ nhìn khắp lượt tỏ ý mãn nguyện. Cặp môi mỏng ăn trầu cắn chỉ khẽ mấp
máy, nhưng đã không ra tiếng. Cô giơ tay lên bắt chuồn chuồn, rồi bỗng chới với hững hụt
đổ xuống. Cô thoát tục, hiển thánh! Người cao niên nhất cuối cùng của làng chuyên sống
bằng nghề yểm tà trị quỷ có tới non non một thế kỷ, nhưng bây giờ phải tự nhận là hết
phép, là bất lực trước những con ma sống đã chính thức vĩnh biệt Giếng Chùa! Chim chết
để lông, người chết để tiếng, cô thống hỡi! dầu cho cô được mát mẻ nơi chín suối, và xin
cô hãy rộng lượng chín bỏ làm mười đừng quên phù hộ độ trì cho bà con.


Cuộc chiến vì đất đai giữa những anh em, xóm giềng với nhau đang nổ tung giữa nắng quái đỏ khé. Một đám đông nhốn nháo ầm ĩ. Hai chục, hay ba chục? Cả đàn ông, đàn bà, đang hò hét vung tay, vung nón giữa thửa ruộng vừa gạt xong, còn lô nhô những đụn rạ. Bỗng đám đông tóe rát ra khi một tiếng chửi tục gầm lên, rồi hai người đàn ông cùng quần đùi áo cộc, vung gậy lên đập chát vào nhau. Chát bốp! chát bốp? Chát choáng! Chát...


Tiếng gậy tre già phang thẳng cánh nghe rợn thấu xương! Mấy người đàn bà kêu la oai
oái. Bỗng một tiếng hét phía sau trùm lên tất cả, rồi một bóng người cao lớn xách gậy từ
xa lao bổ lại. Cũng quần đùi, áo cộc, còn thêm mái tóc chờm vai. Mọi người kêu lên khi
nhận ra tay dao búa nhất nhì của làng - ưởng? Đúng, lại ưởng! ưởng gầm vang cái giọng
ồm ồm của mình nghe đây hả hê thách thức:
- BácHàm lui ra
Phải? Một trong hai người đang giao đấu để chiếm mảnh ruộng dưới chân chính là ông
Hàm. Và thật may cho ông, ông đang phải chống đỡ với một đối thủ trẻ, khỏe và nhanh
hơn ông rất nhiều. Tiếng thét của ưởng làm cả hai cùng sững ra. Ông Hàm vừa né người
sang bên, thì ưởng đã nhảy chồm tới như h
ổ thấy mồi. Mặt mũi tía sẫm lên như đồng hun.
- Thằng Hoạt hôm nay biết tay tao!


Vừa hét lên như tuyên án, ưởng vừa múa gậy vù vù thị uy. Đầu cây gậy cứ hoa lên nhoáng
nhoáng như chớp. ưởng đang mong có dịp thực thi thấy miếng vừa học được! Thực ra
không phải ưởng bảo vệ ông Hàm tới mức xả thân đâu, mà chính là ưởng khoái đánh
nhau! Hễ cứ được ục là chân tay ưởng như được nối dài ra, toàn thân say sưa bừng
bừng như kẻ nghiện được rượu, kẻ háo sắc được gái? Riêng với Hoạt thì ưởng đã có ý
chờ dịp. Hoạt có họ hàng xa với chi họ Vũ Đình, hơn ưởng dăm tuổi, đôi bên đã vài lần va
chạm. Giữa cái hôm bác cháu ông Hàm đi đào bới kia, khi ưởng đã bị trói bằng chạc
trâu, Hoạt còn dí đầu gậy vào trán ưởng. ưởng đã rắp tâm sẽ chơi lại Hoạt từ hôm ấy.
Quả nhiên Hoạt thấy chờn trước sự hung hãn của con hổ non dám sẵn sàng thí cả tính
mạng. Hoạt cũng đã là tay liều, nhưng liều để thắng: để được sống mà hưởng, chứ Hoạt
không thích liều chết! Hoạt vừa lùi, vừa tìm cách chống đỡ, thì thật cũng phúc tổ cho Hoạt:
anh em Hảo - Hán đã lao tới. Đôi bên cũng có họ xa với nhau, anh em Hảo - Hán còn là
cành trên. Hán xông lại nắm ngay lấy gậy của ưởng, nói giật giọng:
- Cậu ưởng, thôi ngay - Rồi Hán quay sang Hoạt, giọng rất hách - Còn anh, cũng liệu đấy!
ưởng văng tay Hán ra rít lên:
- Phải táng bỏ mẹ nó đi chứ!
Nhưng Hán vẫn nắm cứng lấy cây gậy của ưởng, cây gậy cũng nóng như vùi vào lửa?
Hán quay sang nói nhỏ: Thôi đi cậu đứng có ngốc! Việc chủ yếu là để bác Hàm lấy lại
ruộng. Nếu nó còn láo thì sẽ choảng! ưởng bỗng rời tay ra, người đầm đìa nhẫy nhược
mồ hôi như một cây cột mỡ, Hoạt đã nhanh chân chõm ngay lấy dịp may biến sớm rồi.
Bây giờ các đảng viên mới chạy tới nơi. Thủ giận đến tái mặt trừng mắt nhìn ưởng, nhìn
ông Hàm mặt mũi tối sầm sầm đang lùi lùi lên bờ. Bà mẹ của Hoạt đầu tóc xác xơ, đi chui
chúi sấn lại phía Thủ, nói the thé:
- Có ông Thủ mấy lại đủ mặt các ông tác bà đảng viên của làng chứng giám đây. Cái thửa
đồng này ban chủ nhiệm đã cho tôi làm từ vụ chiêm, nói là ưu tiên gia đình liệt sĩ. Thế mà
bây giờ ông Hàm lại bảo là đất hương hỏa của nhà ông ấy, phải giả ông ấy. Ông Hàm
bảo ruộng này từ đời ông bà của họ Trịnh Bá dã đánh dấu bằng cột đá ong chôn ở đâu
bờ, gia phả nhà ông ấy ghi như thế. Tôi chả biết gia phả với đá ong đá ve gì suất! Bây giờ
còn làm gì áo đất hương hỏa. Ruộng đất là của hợp tác, thì hợp tác giao cho ai phải thuộc
về người ấy chứ. Nói như ông Hàm thì chả hóa ra ai tách thửa ruộng nào chỉ việc đi đánh
dấu trộm vào đâu bờ, bảo đấy là đất hương hỏa của nhà mình à?
Thủ đang lúng túng, thì bà mẹ của ưởng cũng không phải tay vừa, sấn tới trước mặt mẹ
Hoạt nói như xóc ốc:
- Vụ chiêm vừa rồi hợp tác mới là tạm giao, chưa thuận. Bà không nhớ ngày ấy người ta
đã thắc mắc ầm lên à? Bây giờ phải lại cho đúng. Ruộng từ thời cha mẹ ông bà nhà
người ta phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có. Bây giờ hợp tác không bắt góp tập trung
nữa thì phải giả lại. Bà mẹ Hoạt cứ bám vào cái lý ưu tiên gia đình liệt sĩ, nên cũng không
chịu. Ruộng này chính là xương máu của Bát, em Hoạt đã hy sinh ở đường 9 - Nam Lào.
- Bà không có con là liệt sĩ thì bà mới bảo phải chia lại!
Nghe vậy mẹ ưởng nhảy thách ngay lên. A thì ra bà ta kháy thằng ưởng nhà bà đi bộ đội
chưa được một năm thì bị loại ngũ đây.
- Bà đừng có cậy suất ưu tiên liệt sĩ! Nếu ưu tiên thì phải là bà Điều, ông Diễm, cụ Một
đang không có ai trông nom kia, con người ta cũng bỏ xác ở biên giới đấy, chưa đến lượt
bà?


 
Nhưng mọi người đã không cho hai bà đành hanh phá ngang câu chuyện. Những tiếng
nhao nhao át đi:
- Đề nghị xã và ban chủ nhiệm nhanh chóng giao đất giao ruộng cho chúng tôi. Vụ chiêm
vừa rồi mới là giao thử chưa hợp lý? bây giờ vào làm mùa rồi phải giao lại, không nhanh
thì để ruộng hoang à?
- Phải giao cho công bằng, chứ vừa rồi bao nhiều ruộng tốt là cán bộ với những người
thân tín dấm dúi chia nhau, còn lại đầu trâu mõm bò đẩy cho dân là không được. Chúng
tôi đã làm đơn xin tách khỏi hợp nhất để về hợp tác xã nhỏ, sao bây giờ vẫn ỉm đi? Hợp
nhất mới chả hợp bét, làm ăn nát như tương, bắt chúng tôi đánh đu vào để mà ăn màmày cả
lũ à?
Một giọng đàn ông thủng thẳng như một lời kết luận:
- Không giao đất nhanh, không công bằng, còn choảng nhau to!
Xuân Tươi lại vỗ tay bồm bộp vào nhau, cao giọng:
- Đề nghị bà con giải tán. Chúng tôi sẽ báo cáo lên xã, lên huyện giải quyết nhanh chóng
những yêu cầu của bà con. Những vấn đề này chúng tôi không đủ quyền hạn giải quyết.
Còn việc chia đất thì tôi được biết chỉ vài hôm nữa ban chủ nhiệm sẽ công bố.
Một tiếng đế theo nghe đã có mùi bông đùa. Xuân Tươi quả là một cái van xì hơi rất hữu
hiệu:
- Bà con cũng không dám yêu cầu bác Xuân Tươi giải quyết đâu, vì toàn những việc tẹp
nhẹp cả, mà bác Xuân Tươi thì chỉ quen lo cách mạng thế giới thôi! Mấy hôm nay có vị
tổng thống nào bị ám sát trượt nữa không? Hôm trước bác Xuân Tươi còn hỏi thầm tôi
một mẫu là bao nhiều sào? Hớ hớ!
Thủ đi từng bước ủ rũ về phía bụi hóp ở đầu bờ, nơi ông Hàm và ưởng đang ngồi, như
vẫn chờ để nhảy vào cuộc giao đấu mới. Lại cả chị Bé vừa chạy ai nữa. Vẫn quần xắn
ống thấp ống cao, mặt chín rờ. Hai con mắt rừng rực như lên cơn sốt. Chị vừa cầm nón
quạt phe phẩy, vừa nhìn ông Hàm với ánh mắt trung thành tuyệt đối, như sẵn sàng xông
vào những cuộc giành giật nếu ông sai bảo. Chính chị lúc nãy đã nhận đi thay Đào ra thửa
ruộng vừa đụng độ kia để phát bờ và khơi lại con mương cho nước vào để mai cày vỡ
chuẩn bị làm mùa. Vừa phát được một quãng bờ thì Hoạt đã ra sừng sộ. Chị chạy về báo.
Ông Hàm bỏ tràng đục, sập sểnh đi ra, nói ầm è:
- Tôi đã báo bà cụ nhà anh từ hôm trước rồi, rằng là thửa ruộng này của ông bà tôi từ
ngày xưa, văn tự nhà tôi có ghi vẫn còn kia. Ngày làm chiêm nhà anh cày cấy, tôi lên mạn
ngược mua gỗ không biết. Lúc về tôi đã nói ngay với ban chủ nhiệm giao ruộng thế là sai,
anh Vinh đã hứa tới mùa sẽ điều chỉnh lại. Bây giờ ruộng ai phải về nhà ấy.
Hoạt mới bốn mươi tuổi, nhưng trông đã già và cũ kỹ, vốn cũng là anh bặm trợn nghe mẹ
nói là phải giữ thửa ruộng này bằng được, nên khăng khăng:
- Của nhà ông từ thuở tám hoánh nào, bây giờ ai biết? Hợp tác xã bảo đây là ưu tiên ưu
tiên cho u tôi có con liệt sĩ. Ông thắc mắc thì đi gọi ban chủ nhiệm ra đây.
Ông Hàm cũng quyết giữ cái lý của mình:
- Thì tôi đã bảo là ông Vinh chủ nhiệm đã hứa rồi. Ruộng đất bây giờ phải trả về tận gốc
của nó. Anh không tin thì tôi sẽ cuốc cái góc ở chỗ đâu bờ kia cho anh xem. Dưới ấy có
một cột đá ong dài nửa mét chôn đứng, có đánh dấu riêng của họ nhà tôi.
Thấy Hoạt bán tín bán nghi, lại pha chút hoang mang. ông Hàm liền xăm xăm vác cuốc lạichỗ góc đầu bờ, rồi bổ xuống hùng hục đầy tự tin. Mươi phút sau quả nhiên một cọc đá
ong sần sùi màu da lươn hiện ra trước sự sửng sốt của Hoạt và một tốp gần chục người
nghe thấy tiếng đã chạy đến. Nhưng khi ông Hàm nhờ một thanh niên nhảy xuống lay lay,
rồi rút chiếc cột đá hình trụ nhỏ bằng gốc tre và dài tới đầu gối vứt lên bờ, thì Hoạt bỗng
sực tỉnh như mình vừa bị đánh bùa mê, và kẻ bỏ bùa sắp công nhiên nẫng cả báu vật
trước mắt mình. Hoạt liền lấy lại giọng sừng sộ:
- Không được, ông đừng có bịp bợm! Đừng có chơi cái trò cột mốc ăn người ấy!
Thế là cuộc cãi lý, cãi vã bắt đầu. Người đi làm xung quanh đổ đến. Người bênh Hoạt, kẻ bảo vệ ông Hàm. Rất nhanh đám đông chia thành hai phái, ầm ầm như chợ. Đến khi mẹ ưởng, tức người chị họ ông Hàm và bà mẹ của Hoạt đã kịp thời ra chi viện, mổ tay choichoi vào mặt nhau, thì bà Đồ Ngật lúc ấy trên đường đi đến nhà người tình, tức ông Quản Ngư Tây học để làm cám, dừng lại đóng vai quan sát viên liền nảy ra sáng kiến hòa bình là lao đến nhà mẫu giáo, nơi cả làng đang thì thầm bàn tán là các ông ấy đang cạo nhau như cạo khoai để thông báo cho chi bộ một tin rất.... cực!
- Giữa lúc này mà bác làm như thế là chỉ thêm rối việc, hỏng việc - Thủ nhìn lướt cả ba người, giọng khàn hẳn đi, mặt buồn rầu u uất. Chị Bé cúi đầu nhìn xeo xéo sang bên ôngHàm mặt vẫn tím sàm vì nắng. Cặp mất cá rói của ông lại vằn lên thách thức. Ông nói nhỏ, nhưng rành rẽ:
- Đây là việc của tôi, không độngĐây là việc của tôi, không động gì tới chú. Tôi đã nghe dân chúng đang sui nhau phảinhanh chóng chia phần c
hiếm hết cánh đồng Chùa này, đến khi ban chủ nhiệm lập xongphương án chia thì sự đã rồi. Ai có đất hương hỏa ở đâu phải đánh dấu trước, tức là phải phát bờ cuốc góc trước, chậm thì mất trắng mắt! Thửa ruộng này là cái túi, cái bao của cả Đồng chùa. Lộc cả đồng đều tụ hết vào đây. Gia phả nhà ta các cụ đã dặn dù thế nào cung phải giữ bằng được.
 



Ngày xưa có lúc túng quá, các cụ đã phải mang ruộng ra gánnợ, nhưng qua vụ gặt có thóc liền chuộc lại ngay, mà cũng chỉ cần chuộc có cái mảnh ba
sào này thôi. Con mẹ thằng Hoạt nó cũng biết cái thế đất ấy. Hôm trước tôi đã nói thẳng
với ban chủ nhiệm là riêng thửa ruộng này, tôi còn sống thì đừng có ai động vào. Bao
nhiều năm hợp tác hợp tếch làm ăn phá gia chi tử đã đủ lắm rồi! Ngay làm chiêm mới
sểnh mắt một tý mà mấy anh đã chia bậy, chính dạo ấy chú vừa trúng bí thư, nên đã
khuyên tôi nán chịu. Giờ thì mặc tôi! Mang tiếng là nhà nông, nhưng chú đã biết gì chuyện
đất cát! Với nhà nông đất là ngọc điền. Đất phải thuận, phải vượng, thì cái lộc cái thọ mới
ban. Mẹ con thằng Lộc có mọc thêm tay thêm đầu cũng không nhảy được vào thửa độc
điền này \Uởng nhanh nhảu tiếp ngay:
- Mai cậu cứ cho người ra cày, cháu sẽ đứng kèm!
Ông Hàm ư hừm trong cổ định nói nữa, thì ngoài kia lại có tiếng tranh cãi ầm ầm. Lại có
hai chủ hộ cùng quả quyết nhận thửa ruộng này dứt khoát phải là ruộng nhà tôi!. Xuân
Tươi vẫy tay gọi Thủ. Ông Hàm đứng dậy lững thững bỏ về. Chị Bé vác cuốc men mén đi
theo sau, lặng lẽ và cúc cung như cái bóng của ông Hàm hắt lại. Mặc dù mấy hôm nay chị
em Đào có vẻ chờn chờn không ngấm nguýt chị nữa, bởi đêm đêm về khuya, Đào cứ
nghe thầy chị thầm thào như nói với ai dưới nhà ngang, rồi lại có mùi trầm hương thoang
thoảng bay ra, đầy vẻ bí hiểm. Nhưng ban ngày chị vẫn rất nhũn nhặn và phục tùng ông
Hàm thật là vô điều kiện. Chị cứ như chiếc lạt mềm xoắn dần vào mấy bố con ông chủ nhà
ghê gớm. Mặc! Ghê thì chị cũng có cách của kẻ ghê! Cách ấy là vừa trần tục, lại vừa phù
thủy, nào!
Trên Đồng Chùa vẫn nhấp nhô đây người. Chỗ túm năm, chỗ tụm bảy. Thửa ruộng phía
cuối mương nước ai đó lại đang đốt ra, khói bốc um tùm. Ông Hàm nói đúng, người ta
đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch lấn chiếm thật ráo riết. Tùng ở dưới đồng quay lên,
bỗng trông thấy bà Sang trong tốp mấy bà đang nghe mẹ Hoạt kể lể, giọng đã khàn đặc.
Tùng đi lại nói dấm dằn:
- U đi về, ra đây làm gì. Chuyện không liên quan gì đến nhà mình.
Rồi Tùng quay lên chỗ ông Chỉnh đang ngồi bên bụi hóp, nơi ông Hàm vừa lúc nãy giải
thích cho Thủ tại sao phải giữ bằng được thửa ruộng hương hoá kia. Ông Chỉnh đưa cho
Tùng điếu thuốc. Cả hai dùng im lặng nhả khói, lim dim nhìn ra Đồng Chùa trải dài hun hút
xuống tận Soi Dâu giáp sông Công. Nắng nhạt nhòa đã phải sương chiều, đuối dần rồi tắt
lịm dưới những chân rạ. Đúng là Đồng Chùa đẹp thật, phẳng phiu vuông vức như một cơ
thể sực dài vai rộng. Vậy mà cái cơ thể này đã nhiều phen ốm o đói rách. Và bây giờ
người ta đang dùng cả luật rừng để xâu xé giành giật, như giành giật một miếng mồi.
Ông Chỉnh quay sang Tùng, giọng bỗng trở nên xa xăm:
- Cái chính sách này, cái khoán về từng hộ ấy mà đúng đáy Tùng ạ. Vấn đề đất đai đối với
nông dân bao giờ cũng là cơn sốt, ở đây là cơn sốt vỡ da để lớn!
Tùng hỏi ngờ vực:
- Đúng thì phải vui, chứ đánh nhau như trâu đực nhốt chung chuồng sao còn đúng?
Ông Chỉnh bỗng trở nên sôi nổi:
Cái đúng là thường phải trả giá đau đớn! Chứ cái vui trước đây chỉ là vui bề mặt, vui lấy
lòng! Cái vui cha chung không ai khóc! Nhớ ngày tao được về học ở trường quân chính
trên tỉnh kia, vì gần nên tối nào cũng mò về, thấy dân làng cư xao xác về những nghị quyết,
những chỉ thị. Nào là chỉ thị 100, nghị quyết 64, chỉ thị 28 về ruộng đất. Nông dân mà nhiều
chỉ thị hơn cả lính. Nghe cứ rồi mù mù. Ao vườn của dân phá đi. Rời làng rời xóm để lấy
mặt bằng tăng diện tích cho sản xuất của hợp tác. Thoạt nghe cũng thấy bùi tai. Cứ tưởng
ra tay phen này thì đất cát phải nhả ra thóc gạo ê hề. Nhưng hóa ra đó là cái hăng máu vịt
của anh thích mơ mộng và liều chí mạng. Cấm thèm nghe ai! Cho nên mới thành ra cứ
sau một đợt chỉ thị như vậy thì xóm làng lại xơ xác tham, mặt người cứ méo như bị! 



Tao còn nhớ cái hôm vừa ở bến đò lên, bụng đang đói bỏ mẹ, bất chợt gặp ông Đáng lúc ấy
đang là bí thư đảng ủy, thế là ông ấy túm ngay lấy tuyên truyền mô hình cấp huyện. Mỗi
huyện sẽ là một pháo đài về kinh tế và quân sự, nghe hách lắm. Không chừng phen này
chúng ta lại làm một điểm tựa để bênh cả thế giới lên không biết chừng! Rồi thì khối anh
da đen da đỏ ở cùng trời cuối đất, cũng phải tiền lưng gạo bị đến đây để ta dạy cho cách
xây dựng mô hình cấp huyện! A phải, đúng hôm ấy ông Đáng vừa đi tham quan Quỳnh
Lưu và Định Công ở trong kia về. May mà ta chưa kịp triển khai làm theo hai cái mô hình
ấy! Chứ không thì còn đói nữa? Dạo ấy dân đã chán ruộng lắm rồi, họ dắt nhau đi đào
vàng, đi chặt gỗ trộm của lâm nghiệp để xuôi sông bán. Ngày mùa mà lúa ở Đồng Chùa
chó chạy hở đuôi. Vì anh nông dân đã chán đất thì còn lấy đâu ai thóc. Giống như thằng
lính bất mãn, vào trận mà vứt súng thì còn làm được trò trống gì? Nhưng từ vụ chiêm đến
giờ người ta lại ham đất, quý đất, thế tức là cái anh khoán này đã hợp với lòng họ. Những
người đi lang thang đã mò vào hết rồi đấy. Đến lão Tám lé đào được vàng cũng bổ về xin
thanh toán nợ nần để chuộc lại đất. Vấn đề bây giờ là ở người điều hành. Các cha ở đây
chưa điều hành tốt vì có nhiều ràng buộc quá, như con rết bị vướng víu quá nhiều chân
cẳng nên không bứt mình lên được.
- Nhưng người ta không muốn cắt những ràng buộc đâu chú à - Tùng nói dăm chiêu - Vừa
rồi ở dưới đồng kia, ông cậu, ông dượng bên nhà cháu nhìn cháu có vẻ bực bõ lắm. Vừa
nghe bác Xuân Tươi nhắc sáng mai các đảng viên tiếp tục họp, thế là cậu Phúc nháy
dượng Tính dượng Địch về ngay. Đi qua chỗ cháu đang đứng mà cả ba ông đều lờ đi!
- Đã run rồi hả? - ông Chỉnh bật cười khùng khục. Cười mà nghe chua chát như phải uống
hàn the! - Thấy chưa? Động vào tim họ có phải đùa đâu. Anh em ruột rà họ cũng cắt
phéng! Nhưng thôi đừng lo vẫn còn đến dăm người ủng hộ ta với cậu. lúc chạy ra đây ông
Bằng, ông Hải: cô Xuân, cậu Dụ bảo rằng ta nói thế là phải, đã đến lúc cần mạnh bạo rũ
cái chăn chấy rận này ra! Đây là cuộc thi gan, cưỡi lưng hổ rồi đấy, đừng có nản nhảy
xuống mà toi! Ông Thủ đến đấy!
Chỉnh nói nhỏ. Tùng ngửng lên. Theo bờ mương, Thủ đang đi thong thả đến chỗ hai
người. Vẫn dáng người dong dỏng thanh thoát, gương mặt trái xoan ưa nhìn, nhưng bây
giờ đượm buồn nên trông lạnh lạnh. Dẫu vậy Thủ vẫn lịch lãm hơn hẳn cái cách phản ứng
mặt nặng mày nhẹ của anh em ông Quàng. Cả Chỉnh và Tùng bỗng trở nên ngượng nghịu
chưa biết nói gì, thì Thủ đã tươi ngay nét mặt, khẽ gật đầu, rồi ngồi xuống nói vừa thân tình
vừa khiêm tốn quá thể:
- Bác Chỉnh với anh Tùng thấy chưa? Mới chỉ có chia đất chậm một tí mà đã đủ thứ
chuyện rầy rà. Anh Vinh và ban chủ nhiệm phân chia vừa không tỉ mỉ, lại không cương
quyết, ai đến gặp riềng cũng đều hứa hẹn để cho đẹp lòng, thế là hỏng to. Còn ithững
điều hai đồng chí nói hôm nay - Thủ hạ giọng trầm trầm: - Tôi thấy đúng cả! Những nhận
xét về tôi, tôi cũng không phản đối! Nhưng tôi chỉ xin các đồng chí hai điều. Thứ nhất là
giữa lúc trong đảng và ngoài quần chúng đang có nhiều thông tin sai lạc, lòng người bất
an, thì chúng ta nên xử trí với nhau thế nào? Đã cần thay luôn cả bộ máy chưa? Không
khéo ta lại làm rối thêm, lợi bất cập hại! Bây giờ trình độ đảng viên và quần chúng nâng
cao lắm rồi không dễ dàng để cho người lãnh đạo làm sai đâu. Thứ hay là việc phát triển
đảng ở đây. Đúng là chậm và có nhiều thiếu sót. Nhưng đổ chỉ cho tôi thi thật là oan quá!
Vì các tổ đảng người ta không đưa lên, thì tôi biết làm thế nào? Chả nhẽ tôi ép họ. Các
đồng chí quen tác phong nói

Ch.XXIV,219

Đừng tưởng đất này đã hết ma. Ma còn đang đẻ sinh đôi sinh ba nữa cơ đấy! Các vị có nhớ hôm trước hợp tác họp để đòi chia ruộng khoán không? Cứ như cuộc chọi gà, chọi trâu ngày xưa! Chả ai chịu nhả miếng nào. Cả làng có mỗi xứ Đồng Chùa là thượng đẳng điền, thì từ ông cán bộ đến bà xã viên, ai cũng muốn vơ giật về mình. Có đời thuở nào anh em ruột cũng cãi nhau, tranh nhau đất hương hoả ngay ở đấy. Vợ chồng ông Tý Hỏi mới kinh, bỏ nhau mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai cũng tranh thửa tốt. Vợ chồng thách nhau giữa làng: mày mà làm ông phá. Mấy là đòi ruộng cũ không được thì bù lu bù loa lên, cứ nhao nhao như chào mào ăn dom! Xưa nay người ta chỉ sợ người chết chứ ai sợ người sống? Có đúng không hở? Chỉ sợ ma chứ ai sợ người. có phải không hở? Thế mà hôm ấy tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, thấy hốt quá Nhìn chả thấy người đâu, toàn ma. Những thân người sống ngồi đấy mà mà cấm còn nhận ra ai nữa.


Càng nhìn càng thấy đúng là những ụ mối, những bao bì dựng ngược, cái cao cái thấp lố nhìn đây nhà! Những con ma tham, ma ác từ đấy chui ra, con nào cùng lành chanh lành chói mồm năm miệng mười, chả còn bùa đâu mà yểm cho xuể! Đấy, các người đừng có vội tí toé, ma nó vẫn ngủ gà ngủ gật ngay trong lòng các người! (Ch.I,tr.9)



Cô Thống Biệu, một tay phù thủy, đã nói bóng bảy như là một triết gia về những con người xã hội chủ nghĩa: - Đừng tưởng đất này đã hết ma. Ma còn đương đẻ sinh đôi, sinh ba nữa cơ đấy! Các vị còn nhớ hôm trước hợp tác họp để chia ruộng khoán không? Cứ như cuộc chọi gà, chọi trâu ngày xưa! Chả ai chịu nhả miếng nào. Cả làng có mỗi xứ Đồng Chùa là thượng đẳng điền, thì từ ông cán bộ đến bà xã viên, ai cũng muốn vơ giật về mình. Có thuở đời nhà ai anh em ruột cũng cãi nhau, tranh nhau đất hương hỏa ngay ở đãy. Vợ chồng ông Tý Hôi mới kinh, bỏ nhau, mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai cũng tranh thửa đất tốt. Vợ chồng thách nhau giữa làng [.. . .]. Xưa nay người ta chỉ sợ người chết chứ ai sợ người sống, có đúng không hở? Chỉ sợ ma chớ ai sợ người, có đúng không hở? Thế mà hôm ấy tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, thấy hốt quá! Nhìn chả thấy người đâu, toàn ma! Những thân người sống ngồi đấy mà cấm còn nhận ra ai nữa.[ .. ]Đấy các người đừng có vội tí toét, ma nó vẫn ngủ gà ngủ gật trong lòng các người!
 (15)

_____

CHÚ THÍCH:
 (1). Hoàng Văn Hoan. Giọt Nước Trong Biển Cả.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5641&rb=08 )
(2).Quả thực 果實 có nghĩa gốc là trái, quả và là một danh từ thực vật học còn nghĩa bóng là kết quả vật chất do lao động tạo ra hay do đấu tranh đem lại. Nghĩa bóng này đã được cho trong Từ hải, bản hiệu đính 1989: “Dụ chỉ thông qua lao động hoặc đấu tranh sở thủ đắc đích thành quả”. Đảng Cộng sản Trung Quốc từng quan niệm rằng cải cách ruộng đất ở Trung Quốc là một cuộc cách mạng long trời lở đất và trong cuộc cách mạng này, của cải vật chất của địa chủ hoặc những người bị quy là địa chủ bị tịch thu để chia cho bần cố nông. Những thứ bị tịch thu đó gọi là quả thực. Trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc trước đây, ta cũng mượn hai tiếng quả thực mà dùng theo nghĩa này. http://petrotimes.vn/qua-thuc-la-gi-106981.html
(3). -Trưởng thôn Cối ở đâu xồng xộc chạy vào, cúi xuống, lột cái áo vét dạ đen địa chủ Thìn đương mặc, ngẩng lên cười hê hê: "Để cho mày khỏi vướng" rồi Cối xỏ tay vào mặc áo luôn cho đỡ vướng
-Vách mặc cái áo nâu bạc, đóng cái khố đuôi lươn, đít hóp lại, hai đầu gối nhô ra như hai hòn cuội tay cầm chiếc đòn xóc, chốc chốc lại hoa lên múa. Trong bộ râu quai nón, phùn phụt ra những tiếng hét: Hoan hô... Hoan hô...T rong bộ râu quai nón, phùn phụt ra những tiếng hét: Hoan hô... Hoan hô... Có người hỏi: Đi mít tinh mà lại đóng khố à? - ấy, ra đây kiếm cái quần địa chủ để mặc, khỏi phải cởi

No comments:

Post a Comment