Ông già Bến Ngự bên bờ sông Hương
10:25 | Thứ ba, 14/02/2017 6
Sừng sững tượng đài
Công viên Lê Lợi thật thoáng, ngay đầu cầu Trường Tiền. Từ xa đã thấy
tượng đài Phan Bội Châu. Tượng là khuôn mặt phóng lớn. Hai hàng chân
mày gồ lên. Vầng trán cao rộng, những nếp da nhăn, bộ râu rậm rì. Nửa
chùm râu và chiếc cằm cương nghị và thách thức. Hậu diện pho tượng, đôi
tai và vành cổ đắp nổi hình ảnh vùng lên phá xiềng nô lệ thời Hai Bà
Trưng.
Tác giả bên tượng đài chí sĩ Phan Bội Châu. Ảnh: Phan Cảnh Duy
Giờ đây, “Ông già Bến Ngự” thỏa lòng ngắm dòng sông mà suốt 15 năm
Người thả thuyền lênh đênh. Ôi dòng Hương êm ả, cảnh vật hữu tình giúp
bậc nghĩa sĩ kềm lòng chiến đấu rồi lắng lòng phát tiết kho tàng tâm
tưởng sâu xa cho đồng bào, cho mai hậu.
Ông già Bến Ngự
Chí sĩ Phan Bội Châu thì tôi biết từ tuổi học trò, “Ông già Bến Ngự”
thì mới nghe. Tôi thích tên gọi này quá. Nghe thân thương làm sao. Vì
sao là ông già. Bắt đầu chuỗi ngày bị giam lỏng, chưa đến sáu mươi mà.
Ngày xưa tuổi này đã được coi là ông già rồi chăng. Hay là biệt danh mới
có lúc cụ già hơn.
Phan Bội Châu. Ảnh tư liệu
Dốc Bến Ngự. Thật cảm khái được thăm nơi cụ
sống cũng là nơi yên nghỉ ngàn thu. Nhà tranh vách đất ba gian tại dốc
Bến Ngự, tượng trưng ba kỳ (Bắc - Trung - Nam).
Ngôi nhà này được cụ dùng làm nơi ăn ở, diễn thuyết, dạy học trò,
sáng tác văn thơ và gặp gỡ bạn hữu cuối đời. Năm 1925 cụ Phan Bội Châu
bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc). Thực dân Pháp lén lút đưa về Hà Nội.
Nhân dân cả nước đấu tranh đòi ân xá cho cụ. Cụ bị giam lỏng ở Huế 15
năm.
Bến Ngự. Theo đường Phan Bội Châu tôi đi bộ
xuống dốc Bến Ngự. Có cây cầu vắt ngang sông An Cựu. Dọc theo hai bờ
sông là hai con đường Phan Chu Trinh và Phan Đình Phùng. Ba con đường
mang tên ba nhà ái quốc họ Phan. Thật là ý nghĩa. Đứng trên cầu Bến Ngự,
tôi ngó bên này cầu, ngó bên kia cầu, theo mút dòng An Cựu. Tần ngần
trước cửa chợ Bến Ngự, tôi như thấy bóng dáng một ông lão râu dài có
gương mặt điềm đạm, dịu hiền, dáng người thẳng, áo dài mũ dạ thăm hỏi
chuyện trò với người này người nọ.
Theo hồi ức của Đào Duy Anh: “Để thoát khỏi cảnh cô liêu tù túng
trong ngôi nhà Bến Ngự cụ đã mua một chiếc đò và thuê người chèo, sống
trôi nổi trên sông Hương với cảnh nước rộng trời cao... mỗi khi có khách
xa muốn thăm thì phải hẹn trước để người nhà đưa xuống đò khi vào bến
bên bờ tả sông An Cựu”. Chắc là đò đưa ông đã tới lui nhiều lần từ Bến
Ngự dọc sông An Cựu ra sông Hương. Đâu là Bến Ngự xưa. Chỗ nào là bến đò
của “Ông già Bến Ngự”?
Bậc thầy trong tâm tưởng
Ở trong ngôi nhà tranh dốc Bến Ngự, trên chiếc đò lênh đênh trên sông
Hương, cảnh vật thật hữu tình, dòng sông thật êm ả, bao cảm hứng tuôn
tràn, ông soạn biết bao nhiêu sách quý, cho bao lời dạy. Không biết
duyên nào cho tôi gặp được sách Chu Dịch của Sào Nam Phan Bội Châu.
Nước giếng trong không đậy. Khi tôi là
giảng viên trẻ chuyên ngành ung thư học Đại học Y khoa Sài Gòn, thầy tôi
- giáo sư Đào Đức Hoành đã truyền sức cho tôi: “Hãy học tinh thần của
giếng. Nước giếng trong ai cần thì cứ múc. Giếng không sợ cạn. Càng múc
nước lên càng trong, đầy mà không tràn. Không được đậy lại, phải để mọi
người dùng. Theo đó mà lo cho người bệnh, chỉ dạy cho đàn em”. Ông lật
sách Chu Dịch của Sào Nam chỉ cho tôi đúng quẻ Thủy Phong Tỉnh dạy về
tinh thần của giếng.
Ảnh: T.L
Tôi ngẫm nghĩ mãi về điều này, cứ theo gương của giếng chắc là tròn y
đức. Thấy bệnh thì chữa, càng tận tình chữa bệnh thì càng thêm nhiều
điều để học hỏi, thêm nhiều kinh nghiệm. Tận tình truyền thụ kiến thức
cho đàn em và học trò, không hẹp hòi giấu nghề. Thì cũng như giếng vậy,
giữ luôn được đầy mà không tràn, cung cấp nước trong nước mát cho mọi
người.
Giếng Trời in bóng sao Khuê. Đến thủ đô Hà Nội, hễ có dịp là tôi viếng Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Gác Khuê Văn giản dị. Vách gác có cửa sổ hình tròn và những thanh gỗ
tỏa ra bốn phía, sao Khuê tỏa sáng. Gác đơn sơ tao nhã, soi bóng giếng
Thiên Quang. Thiên Quang Tỉnh là giếng Trời. Giếng hình vuông. Đây rồi!
Cụ Phan Bội Châu bàn về hào thượng quẻ Tỉnh: “Nước đã lên miệng giếng
rồi, thời nên để cho tất thảy người dùng, chớ nên che trùm lại. Hễ ai
muốn múc thời tùy ý múc. Quân tử đem tài đức ra gánh vác việc đời. Hễ
lợi ích cho thiên hạ thời cứ làm, mà chẳng bao giờ tiếc công”. Rõ là lời
người xưa dạy các tiến sĩ theo đạo của giếng để làm phụ mẫu chi dân.
Giếng Trời in bóng sao Khuê.
Thiên Quang Tỉnh. Ảnh: Trần Kim Liên
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời. Phảng phất
như cụ Phan tâm đắc quẻ Phong Sơn Tiệm. “Tượng như con chim hồng bay tới
tuột đường mây mà không chốn đậu: không phải là vô dụng mà chính là một
hạng người siêu nhiên xuất thế, không làm việc nhân gian - có khí tiết
thanh cao, nêu một cái gương cao thượng cho người đời. Thiệt là chim
hồng bay ở đường mây, mà cọng lông rơi xuống còn được dùng làm nghi biểu
(Hồng tiệm vu quỳ kỳ vũ khả dụng vi nghi)”. Học giả Nguyễn Hiến Lê tán
thêm, “trong 64 quẻ Dịch, chỉ có Hào Thượng quẻ Tiệm cho hình ảnh đẹp
nhất” “cánh hồng bay bổng đường mây tuyệt vời”. “Ông già Bến Ngự” đúng
là con chim hồng trong quẻ Tiệm: cánh hồng bay bổng tuyệt vời. 64 quẻ
trong Kinh Dịch là 64 tình huống của cuộc đời, dạy cho ta hiểu cuộc
sống. Cụ Sào Nam Phan Bội Châu là bậc thầy trong tâm tưởng của tôi.
Tình bạn đẹp quá. Cụ Phan ra đời năm 1876,
cụ Huỳnh nhỏ hơn 7 tuổi. Cụ Huỳnh Thúc Kháng và cụ Lê Sỹ Liêm trực tiếp
mua, xây ngôi nhà trên dốc Bến Ngự cho cụ Phan từ năm 1925-1927 bằng
tiền quyên góp của đồng bào ba miền. Khi “Ông già Bến Ngự” qua đời (năm
1940), chính cụ Huỳnh cho xây mộ và nhà thờ.
Mỗi lần cầm quyển Chu Dịch của Sào Nam Phan Bội Châu mà tôi
còn lưu giữ, có lời giới thiệu của Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng, nhà xuất
bản Khai Trí, 62 Lê Lợi, Sài Gòn, lòng tôi bồi hồi cảm kích. Không có cụ
Huỳnh chắc kho tàng quý báu này không tới tay hậu thế.
Sau này, thấy cụ Phan bàn quẻ Trạch Sơn Hàm tôi chợt hiểu tấm lòng
của hai người bạn. Quẻ Trạch Sơn Hàm, hình tượng trên núi có cái chằm
nước, “vì Sơn có vũng thũng xuống mà đựng được Trạch, Trạch vì trong
lòng trống không mới chứa được nước”. Lòng mình trống không, chẳng có
định kiến, mới tiếp nhận được người. Hàm nghĩa là cảm, là chứa. Cảm chân
thật thì lâu dài.
Đứa con cưng của Bình Dương, trọn tấm lòng với Huế
Lê Thành Nhơn. Đứa con cưng của Thủ Dầu Một
Bình Dương (cái nôi của mỹ thuật sơn mài) - học trò và người thầy yêu
quý của Trường Mỹ thuật Sài Gòn lại dành cả tấm lòng cho Huế. Bộ ba tác
phẩm cô gái Việt Nam, tượng Quán Thế Âm và tượng danh nhân Phan Bội Châu
đứng mãi bên bờ sông Hương.
Cô gái Việt Nam. Tượng thiếu nữ bằng xi
măng trắng cao 2,8m nặng gần 5 tấn, tạc tại Sài Gòn năm 1970 về Huế nhân
dịp “Festival Nghề truyền thống Huế 2011”. Cô gái Việt Nam hiện đặt tại
công viên Hai Bà Trưng, ngang trường Đồng Khánh cũ. Thật khế hợp.
Cô gái Việt Nam. Ảnh: Trần Kim Liên
Tượng Quán Thế Âm. Vào lúc phác thảo tượng
Phan Bội Châu, nhà điêu khắc Lê Thành Nhơn làm tượng Quán Thế Âm bằng
đồng dựng ngay ở sân Trung tâm Văn hóa Liễu quán của Phật giáo Huế trên
đường Lê Lợi. Phong cách lạ, trên đầu là khối hình chóp gợi dáng các vũ
nữ Apsara trong nghệ thuật Chăm.
Tượng Phan Bội Châu. Năm 1974, được nhà
điêu khắc Lê Thành Nhơn đắp bằng đất sét ở vườn trường Cao đẳng Mỹ thuật
Huế, được ghép 13 mảnh đồng nặng 7 tấn cao 4,5m, dày 2,5m rộng 3,5m
bằng kỹ thuật của phường Đúc.
Hãy nghe họa sĩ Vĩnh Phối: “... với cây trường kiếm thần kỳ dài hơn 1
mét là dụng cụ thay thế chiếc bay và dao của các điêu khắc gia... Như
một hiệp sĩ với đường kiếm bay bướm diệu kỳ... Tái tạo một cách linh
động tài tình khuôn mặt nhà ái quốc vĩ đại của đất nước... Tôi thường
gọi anh là Michelangelo Nhơn...”. Sự so sánh quá đẹp. Tôi đã đến
Florence nước Ý và chiêm ngưỡng mê man bức tượng David của nhà điêu khắc
thần thánh Michelangelo thời Phục hưng. “Đất đai Thủ Dầu Một dễ đưa tôi
đến điêu khắc”, nhưng chắc dòng máu pha trộn chất Chăm phải góp phần
làm nên “truyền nhân” của Michelangelo.
Ngắm tượng “Ông già Bến Ngự” thật lâu thật kỹ tôi như thấy còn thiếu
thiếu. Xem mấy tấm ảnh, thấy dáng một nhà nho áo dài, mũ dạ, mặt nghiêm
trang mà thư thái. Làm sao được, nhà điêu khắc mới 34 tuổi khó mà nắm
bắt cái sâu thẳm của Sào Nam Phan Bội Châu, khác nào cánh hồng bay bổng
đường mây.
Cứ mong có dịp đến Huế để được chiêm bái “Ông già Bến Ngự”, bậc thầy cao cả luôn trong tâm khảm tôi.
Nguyễn Chấn Hùng
No comments:
Post a Comment