II.NGUYỄN DU
Buớc tưới chuyển hướng
Bước tới tìm kiếm
Đối với các định nghĩa khác, xem Nguyễn Du (định hướng).
Nguyễn Du 阮攸 | |
---|---|
![]()
Tượng đài Nguyễn Du
| |
Sinh | 3 tháng 1, 1766 Bích Câu, Thăng Long |
Mất | 16 tháng 9, 1820 (54 tuổi) Huế |
Bút danh | Tố Như, Thanh Hiên, Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ |
Công việc | Nhà thơ Quan nhà Lê trung hưng Quan nhà Nguyễn |
Quốc gia | Đại Nam |
Tác phẩm nổi bật | Truyện Kiều |
Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820)[cần dẫn nguồn] tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ (南海釣屠), là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc".[1]
Tác phẩm Truyện Kiều của ông được xem là một kiệt tác văn học, một trong những thành tựu tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.
Mục lục
Tiểu sử
Theo một bản gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766) tại phường Bích Câu, Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Tư, hiệu Nghị Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận công. Mẹ là bà Trần Thị Tần [2]
(24 tháng 8 năm 1740 - 27 tháng 8 năm 1778), con gái một người làm chức
câu kế. Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông
Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được năm con, bốn trai và một gái).[3][4]
Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giàu sang phú quý.
Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát liền kề. Cụ thể, vào năm Ất Mùi 1775, anh trai Nguyễn Trụ (sinh năm 1757 qua đời). Năm Bính Thân 1776 thân phụ ông mất. Năm Mậu Tuất 1778 thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần cũng tạ thế. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa. Mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi)
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý,
bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một
người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.
Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Sinh đồ).
Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh
thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong
năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ Giải nguyên khoa thi Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.
Năm Giáp Thìn Tháng 2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long.
Năm Kỷ Hợi (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ (Quỳnh Côi, Thái Bình).
Tháng mười, năm Tân Hợi (1791),
anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây
Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây
Sơn phá hủy.
Năm Quý Sửu (1793),
Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú
Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là
Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù)
Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).
Năm Quý Hợi (1803), Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.
Năm Ất Sửu (1805) ông được thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm Đinh Mão (1807) được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê nghỉ.
Năm Quý Dậu (1813) ông được thăng Cần chánh điện học sĩ (hàm Chính tam phẩm) và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham tri bộ Lễ (hàm Tòng nhị phẩm).
Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.
Năm (Canh Thìn) 1820 Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm Canh Thìn (1820) lúc 54 tuổi.
Đại Nam thực lục chép về Nguyễn Du: Du
là người Nghệ An, học rộng giỏi thơ, càng giỏi về Quốc ngữ. Nhưng là
người nhút nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì.[6] Đại Nam liệt truyện chép: Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tõ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không nói được.[7]
Người đời sau, như ý kiến của các ông Trịnh Vân Định, Trần Nho Thìn cho
đó là một cách khéo léo để giữ toàn mạng và thăng tiến trong thời loạn,
mặc dù trong văn thơ của Nguyễn Du thường đề cao những anh hùng thời
loạn, nhưng ông chọn cách sống khác, cống hiến nhưng "ẩn dật" trong chốn
quan trường.[8]
Tác phẩm
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc,
như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành... nên ở
thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả, là tài làm thơ
bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy, thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.
Chính trên cơ sở này, mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc
của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực
đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú
đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận.
Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến Truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.[9]
Văn bản
Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền, Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai (Hà Nội lúc ấy). Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An
thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay,
việc sưu tập, nghiên cứu phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn
tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn
được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác
phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.[10]
Tác phẩm bằng chữ Hán
Theo
gia phả họ Nguyễn Tiền Điền, thì Nguyễn Du để lại ba tập thơ chữ Hán:
Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.
Những năm đầu thế kỷ XX, khi biên soạn cuốn Truyện cụ Nguyễn Du,
các cụ Lê Thước và Phan Sĩ Bàng đã thu thập được một phần lớn những bài
thơ đó, nhưng chưa công bố, chỉ mới trích dẫn một số bài lẻ tẻ mà thôi.
Khoảng năm 1940-41, ông Đào Duy Anh lại làm công việc đó một lần nữa.
Ông cho chúng ta biết tình hình như sau:
Ba tập thơ chữ Hán chính họ Nguyễn Tiên Điền cũng không giữ được
tập nào. Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi
đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh
sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du
(Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất
bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương
Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài,
viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. Tập
thơ được sáng tác trong ba gia đoạn:
Giai đoạn "Mười năm gió bụi", từ năm 1786, năm Tây Sơn bắt đầu
đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh,
khoảng cuối những năm 1795 đầu năm 1796.
Giai đoạn "Dưới chân núi Hồng", từ năm 1796 đến năm 1802
Giai đoạn 3 "Ra làm quan ở Bắc Hà", từ năm 1802 đến cuối năm 1804
(trong giai đoạn này có lần nhà thơ được cử đi nghênh tiếp sứ thần nhà
Thanh sang phong sắc cho Gia Long).
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm
40 bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi được thăng
hàm đông các học sĩ vào làm quan ở Kinh (gần 4 năm) cho đến hết thời kỳ
làm cái cai bạ dinh Quảng Bình (3 năm, 5 tháng). Ông viết khi làm quan ở
Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
Bài đầu tập thơ, Phượng hoàng lộ thượng tỏa hành, đúng là bài làm
trên đường đi vào Kinh nhậm chức: Từ tỉnh lỵ Hà Tĩnh đi vào có núi
Phượng Hoàng và quán Phượng hoàng, và bài Nễ giang khẩu hương vọng, gần
cuối tập, có câu:
Độc bão hương tâm dĩ tứ niên
(Ôm nỗi nhớ quê đã bốn năm trời).
Như vậy là rất khớp.
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang
phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Chúng tôi có theo dõi cuộc đi xứ này trên bản đồ theo những tài liệu mà
các phái đoàn của ta gần đây đi tham quan Trung Quốc tìm được và đã đối
chiếu với các bài thơ, thì thấy cách sắp xếp các bài thơ đã ổn. Bài
Thăng Long (tháng 2 năm 1813) và bài cuối tập là bài Chu Phát làm khi
trở lại. Võ Xương (cuối năm 1813). Từ đó, nhà thơ lên thuyền về Nam quan
theo con đường đã đi lần trước, nên không có thơ nữa. Chỉ có một vài
bài còn Cối, Vương thị (vợ Tần Cối), không ở chỗ thích đáng của nó, làm
ta ngờ rằng nhà thơ nhân nhớ đến những nhân vật đó mà làm thơ, chứ không
phải tức cảnh sinh tình như tuyệt đại đa số các bài trong tập này.
Trường hợp này giống trường hợp bài Độc Tiểu Thanh ký (số 78 Thanh hiên
thi tập), bài này không phải làm khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh ở Tây
Hồ, mà làm khi còn ở nhà, nên không ở trong Bắc hành tạp lục.
Với cách sắp xếp đó có thể hiểu được tâm sự của Nguyễn Du trong
từng giai đoạn. Có thể xem ba tập thơ này là ba tập nhật ký ghi trong
một khoảng thời gian dài, từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm nhà
thơ 49 tuổi (1814), trước lúc chết 5 năm. Bài thơ nào cũng chứa đựng một
lời tâm sự. Ngay những bài tức cảnh vịnh sử khi đi sứ Trung Quốc cũng
không phải là những bài tức cảnh, vịnh sử thuần túy mà đều có bao hàm
tâm sự của nhà thơ, bộc lộ thái độ sống của nhà thơ một cách hết sức rõ
rệt.
Tập thơ 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một công trình tập
thể đã được Cụ Lê Thước và Trương Chính thu thập tài liệu, dịch nghĩa,
chú thích, sắp xếp.
Tác phẩm bằng chữ Nôm
Về
văn thơ nôm, Nguyễn Du sử dụng tài tình hai thể thơ dân tộc lục bát và
song thất lục bát. Ông đã làm mới ngôn ngữ văn học Tiếng Việt.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
Nguyễn Du lưu lại trong kho tàng văn học Việt Nam thiên trường
thi bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh được truyền tụng trong dân gian và được
liệt vào tài liệu giáo khoa dạy ở bậc trung học. Đoạn Trường Tân Thanh
là áng văn chương tuyệt tác, viết theo thể thơ lục bát gồm 3254 câu,
dài nhất trong các tác phẩm xưa nay.
Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Tên phổ
biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo
thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh
quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật
chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ
điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi
ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi
đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809).
Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn".
Ngoài ra, Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch
nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), là một ngâm khúc gồm có 184 câu
theo thể song thất lục bát, trong đó chứa đựng tấm lòng từ bi của người
Phật tử Nguyễn Du đối với cảnh khổ của muôn vạn sinh linh, cũng là một
tác phẩm giá trị được nhiều học giả nghiên cứu, trích giảng. hiện chưa
rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn
lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì
Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng
triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các
chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh
hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn
trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).
Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội
dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái
phường vải.
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Thơ Nôm của Nguyễn Du đều thấy chỗ đậm, chỗ nhạt những yếu tố
hoặc biểu hiện của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa
hiện thực trong văn học. Các tác phẩm thơ Nôm của ông đều thể hiện tư
tưởng, tình cảm sâu sắc, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác
phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn
chương bất hủ là Truyện Kiều.
Trước năm 1930
Trong
quãng thời gian hơn một trăm năm này, người bình luận các tác phẩm của
Nguyễn Du là các nhà nho. Ở thế kỷ XIX, các nhà nho thường qua những bài
thơ vịnh, những bài tựa mà bộc lộ cách nhìn, chính kiến của mình với
tác phẩm. Sang thế kỷ XX, các nhà nho lại phát biểu bằng những bài văn
chính luận. Nhưng bình luận ở giai đoạn nào họ cũng đều chia làm hai
dòng khen và chê. Tuy nhiên, dù khen hay chê thì tất cả họ đều đánh giá
cao nghệ thuật văn chương của Nguyễn Du. Nhưng văn chương được nhìn như
có sự tách rời của hình thức với nội dung.
Từ 1930 đến 1945
Nghiên
cứu phê bình văn học thời gian này đã thành một bộ môn riêng biệt, mang
ý nghĩa hiện đại. Các tác phẩm của Nguyễn Du trong giới nghiên cứu, phê
bình thấy rõ ba khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng phê bình ấn tượng chủ quan với các ông Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư
- Khuynh Hướng giáo khoa qua những công trình của các ông Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm
- Cách tiếp cận kiểu khoa học của ông Nguyễn Bách Khoa
Từ 1945 đến 1975
Trong giai đoạn chia đôi đất nước này, tại miền Bắc, việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du trong quan hệ với hiện thực đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học mácxít.
Tác phẩm văn học được nhìn nhận như là sự phản ánh đời sống xã hội và
bộc lộ thái độ của nhà văn đối với hiện thực đó. Hai công trình theo
hướng này xuất hiện sớm và đáng chú ý hơn cả là cuốn: Quyền sống của con người trong "Truyện Kiều" của Hoài Thanh (1949) và bài báo Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung "Truyện Kiều" của Đặng Thai Mai
(1955). Vấn đề tinh thần nhân đạo và tính hiện thực của "Truyện Kiều"
được hai tác giả chú ý đặc biệt và coi là giá trị cơ bản của tác phẩm.
Ở miền Nam, thời kỳ 1954–1975 cũng có nhiều người để tâm phê bình
nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du. Dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh
Nguyễn Du trên các tập san Văn (số 43, 44) và Bách khoa thời đại (số 209) nhiều bài phê bình được công bố. Trước đó, năm 1960, có cuốn Chân dung Nguyễn Du tập hợp một loạt bài viết về Nguyễn Du của nhiều tác giả. Trước sau năm 1970 cũng thấy một số công trình khá công phu của Phạm Thế Ngũ, Đặng Tiến, Nguyễn Đăng Thục...
Từ 1980 đến nay
Trong
giai đoạn này, các tác phẩm của Nguyễn Du được tiếp cận bởi nhiều
phương pháp mới: phong cách học, thi pháp học, ký hiệu học... Đã xuất
hiện một số công trình đáng chú ý của Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu...
Nhìn chung các tác giả đều cố gắng khách quan hóa việc phân tích
tác phẩm, muốn làm cho các kết kuận của mình là hiển nhiên, "không còn
tranh cãi". Tuy vậy mọi việc không đơn giản, các ý kiến vẫn cứ rất xa
nhau, điều đó có nghĩa là những cuộc tranh luận sẽ vẫn tiếp diễn và như
vậy nghiên cứu, phê bình về các tác phẩm của Nguyễn Du sẽ tiếp tục tiến
triển.
Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có
vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và văn hóa dân tộc. Hơn
nữa nó lại rất năng sản. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng tạo văn học và văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều
bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng thức của
nghệ thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều... Đặc biệt
là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình,
nghiên cứu.
Thơ văn viết về Nguyễn Du (trích)
-
- Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
- Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn
- Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
- Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
-
-
-
- (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng – Chế Lan Viên)
-
-
-
-
-
- Tiếng thơ ai động đất trời
- Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
- Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
- Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
-
-
-
- (Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu)
-
-
-
-
-
- Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước
- Giở trang Kiều còn rung động ý thơ
- Thơ Người mãi sống cùng đất nước
- Dù mai sau dù có bao giờ
-
-
-
- (Thăm mộ cụ Nguyễn Du - Hoàng Trung Thông)
-
-
-
Trong mắt người nước ngoài
![]() | Xin hãy đóng góp cho bài viết này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. |
Nguyễn Du là một nhà thơ văn lớn của thế giới lúc bấy giờ.Trong mắt
những người nước ngoài, họ coi ông là một vị thánh của nền thơ ca Việt
Nam. Họ quý trọng ông vì ông đã góp công vào nền thơ ca thế giới. Ông là
một nhân vật kiệt xuất của thơ ca Việt Nam
Tưởng niệm
Ngày 17/11/2015, tại Hà Nội, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Hà Tĩnh
đã tổ chức họp báo giới thiệu về các hoạt động kỷ niệm 250 năm ngày
sinh của ông. Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du
(1765-2015) diễn ra ngày 05/12/2015 tại thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.[11] với chương trình nghệ thuật “Tiếng thơ ai động đất trời” do Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch chỉ đạo và Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam thực hiện với sự tham gia của gần 650 nghệ sĩ[12]
Lễ kỷ niệm có các chuỗi hoạt động chính: Tổ chức các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế; xuất bản Truyện Kiều,
các tác phẩm của Nguyễn Du ra nhiều thứ tiếng khác nhau; xây dựng phim
tư liệu, các tác phẩm âm nhạc, hội họa… về thời đại, cuộc đời, sự
nghiệp, tác phẩm của Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thi ngâm Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều,
diễn trò Kiều, nói chuyện về tác phẩm của Nguyễn Du; tổ chức các hoạt
động hưởng ứng kỷ niệm tại Thủ đô Hà Nội là nơi sinh và tại tỉnh Bắc Ninh (quê mẹ của ông); tuần Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du, bắt đầu từ ngày 28/11 đến 05/12/2015 tại Hà Tĩnh.
Bên cạnh đó, từ 17/11 đến 25/11/2015 tại Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra Tuần triển lãm về Nguyễn Du do Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam tổ chức. Triển lãm quy tụ tương đối đầy đủ các ấn bản bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Nôm
những sáng tác của Nguyễn Du cũng như các công trình nghiên cứu, biên
khảo, chú thích về Nguyễn Du của nhiều lớp học giả. Điểm nhấn của triển
lãm là những bản Nôm gốc như bản in Kim Vân Kiều tân tập (năm Bính Ngọ, niên hiệu Thành Thái - 1906), bản chép tay Kim Vân Kiều thích chú (Kỷ Mão 1879). Ngoài ra, còn có 20 bức thư pháp của các thành viên Chi hội Thư pháp (Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Thành phố Hồ Chí Minh) cũng sẽ được trưng bày với nội dung là những trích đoạn các sáng tác của Nguyễn Du (Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh…).[13]
Chú thích
- ^ “Long trọng Kỷ niệm 250 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập 23 tháng 5 năm 2017.
- ^ Theo "Tuyển tập Trương Chính" Nhà xuất bản Văn học 1997. Bà Tần là vợ trắc thất hàng thứ ba, bà sinh ngày mồng 6 tháng 7 năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Hưng. Bà lấy chồng năm 16 tuổi, năm 17 tuổi bà sinh con đầu lòng là Nguyễn Trụ (1757), sau bà còn có năm bà khác nữa
- ^ Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1120.)
- ^ Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, nxb Giáo dục, 2002, tr 27
- ^ Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, 2002, tr 27-30.
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007, tr. 82-83. Dẫn lại tại [1]
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 357. Dẫn lại tại [2]
- ^ Trịnh Văn Định, Những cách thế lựa chọn của kẻ sĩ tinh hoa trong lịch sử, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 29, số 2 (2013), trang 10-18
- ^ Nguyễn Huệ Chi, Tạp chí Văn học, tháng 11-1966(Nguyễn Du-Về tác gia và tác phẩm)
- ^ Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, nxb Giáo dục, 2002, trang 11-12
- ^ “Nhiều hoạt động kỷ niệm 250 ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du”.
- ^ “650 nghệ sĩ tham gia đêm nghệ thuật kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Nguyễn Du”.
- ^ “Hoạt động Kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du”.
Tham khảo
- Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Thơ chữ Hán Nguyễn Du (phần giới thiệu của Trương Chính). Nhà xuất bản Văn học, 1978
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển 2). Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1963.
- Thạch Trung Giả, Văn học phân tích toàn thư. Nhà xuất bản Lá Bối, 1973.
- Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình Bày, Sài Gòn, 1967.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của:
|
- Nguyen Du (Vietnamese poet) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Nguyễn Du tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Trịnh Văn Định, Những cách thế lựa chọn của kẻ sĩ tinh hoa trong lịch sử, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 29, số 2 (2013), trang 10-18
|
No comments:
Post a Comment