Tết đầu tiên ở Mỹ, Tết cuối cùng ở Việt Nam
Thày u tôi rời làng quê ở Nam Định di cư vào Nam sau Hiệp
định Genève 1954. Khi mới vào, thày u ở Khu 7 xứ Nghĩa Hoà, Ngã ba Ông
Tạ, là một trong nhiều xứ đạo mới được thành lập để định cư người Bắc di
cư.
Thày có một người anh và một cô em gái và u có một anh trai, đều ở
lứa tuổi 20 hay 30, đã có gia đình, cùng nhau rời quê vào Nam. Ai cũng
nghĩ chỉ tạm xa anh em, bà con làng xóm hai năm thôi, khi có tổng tuyển
cử thống nhất đất nước rồi sẽ được trở về với quê cũ ở làng Long Cù, quê
nội; hay làng Chiền, quê ngoại, thuộc xã Trực Chính, huyện Nam Trực,
tỉnh Nam Định.
Mỗi khi gia đình xum họp thày u thường kể cho con cháu nghe về nguồn gốc gia đình như thế.
Chừng một năm sau ngày rời quê Bắc, u sinh ra tôi ở xứ Nghĩa Hoà, có
cha chính xứ là Đinh Huy Năng và được linh mục phó xứ Đinh Bình Định rửa
tội.
Ít lâu sau thày u dọn ra Khu 9, trước đó là vườn nhài. Đến tuổi đi
học, tôi vào trường tiểu học Nghĩa Hoà có thày Nguyễn Văn Tích làm hiệu
trưởng và được học với các thày Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Độ, Đinh Canh
Phê (tức thày gíáo Thành), Nguyễn Văn Lộc và thày Thuỷ. Thày Thuỷ dạy
lớp Nhì được chừng nửa niên học thì đi quân dịch, có thày Lộc thay.
Cô và bác phía thày cùng sống ở Nghĩa Hoà. Bác phiá u là hiến binh,
được giao nhiệm sở ở nhiều tỉnh thành nên ngày còn bé vào dịp tết tôi
được theo thày u đi Phước Tuy, Đà Lạt, Tây Ninh, Vũng Tầu để chúc tết
bác. Tôi nghe thày u kể lại chứ không nhớ những chuyến đi xa này, chỉ
nhớ một lần tết ra nhà bác ở Vũng Tầu, ở chơi với các anh chị nhiều
ngày, sáng sáng ra sân quyét hoa đại, đem phơi khô và chiều đi lễ nhà
thờ ở bãi trước.
Một người chú, chồng của em gái thày tôi, làm nghề thủ công, bán hàng
rong. Chú người làng Báo Đáp nên khéo tay. Khi thì chú làm đèn Trung
thu, khi làm hoa giấy, nhuộm quần áo, khi đạp xe đi bán cà-rem, bánh
bông lan, bánh su, bán đu đủ bò khô. Cô chú không có con nên đời sống
cũng đủ. Vào những ngày nghỉ chú thường chở tôi đi chơi bằng xe đạp, mua
chim, cá cảnh về cho tôi chơi.
Nhiều năm tôi đã đi với cô chú ra gian hàng bán hoa giấy, hoa ny-lông
ở chợ Tết Ông Tạ. Có một năm cô chú cho tôi đi Long Xuyên bán hàng tết.
Tôi nhớ chiếc xe ngựa chở mấy bồ hoa hai bên, từ nhà ra bến xe Miền
Đông ngồi trên chiếu trong xe mà cứ nơm nớp lo cỗ xe bị chổng ngược lên
hay sợ ngựa nổi chứng phóng nhanh nên hai tay cứ bám chặt thành xe.
Tôi thoáng nhớ chợ tết miệt vườn đông sạp hàng hoa, trái và ký ức còn
ghi đậm là những đêm ngủ tại sạp hàng, có mắc mùng nhưng vẫn bị muỗi
đốt ngứa ơi là ngứa.
Gia đình tôi nghèo. Thày là lính, u lo việc nội trợ chăm sóc đàn con
thơ nên tết về nhà chẳng có hoa, chỉ hạt dưa, ít bánh mứt, còn bánh
chưng chỉ được ăn rán khi tết đã qua. Cô chú chẳng giầu, nên năm nào
cũng chờ đến chiều 30 Tết chú đạp xe lên chợ hoa Nguyễn Huệ, có năm mua
được bó lay-ơn là loại hoa chú thích, nhưng đắt nhất. Còn không cũng mua
một chậu cúc, thược dược hay vạn thọ để trưng ba ngày tết. Nhà tôi hay
nhà cô chú chưa bao giờ có mai hay đào khi tết về. Nhưng ngày đầu năm cô
chú lại vẫn muốn tôi là người xông đất, cô bảo vì tôi học giỏi. Tết năm
nào cũng vậy.
Tết về tôi nhớ nhất là tiếng pháo nổ rền vang trong đêm giao thừa và
ba ngày tết. Nghe người lớn nói pháo nổ giòn nhất là hiệu Điện Quang hay
Nhật Quang bán ở nhiều nơi ngoài đường Lê Văn Duyệt.
Đêm giao thừa nghe pháo nổ không ngủ được, nôn nóng chờ sáng Mồng Một
được mặc quần áo mới, ở nhà chờ có chú bác, bà con hàng xóm đến chúc
tết gia đình và mừng tuổi.
Sang ngày Mồng Hai tôi cùng với những đứa trẻ trong xóm ra ngã ba
đường, đem những đồng tiền mừng tuổi còn mới ra đánh bầu cua tôm cá hay
ăn quà. Khi thấy nhà nào chuẩn bị đốt tràng pháo dài treo trước cửa, đám
trẻ chúng tôi bu lại, bịt tai xem. Pháo nổ hết thì ùa vào đống xác pháo
đỏ hồng giành nhau tìm pháo xì, pháo đẹt. Pháo nổ lớn có pháo đùng,
pháo đại nhưng tôi thích nhất và còn nhớ trò chơi gọi là “pháo kích” của
mấy anh lớn trong xóm. Một ống dài chừng một mét, đường kính mười phân,
một đầu bít kín, gần cuối có đục một lỗ bằng đầu đũa, đầu kia là lon
sữa ghi-gô chụp lên. Bỏ vào một cục khí đá, rồi dựng ống lên một giàn
tre như súng pháo kích và đặt ở giữa đường. Một anh lấy que diêm, đốt
qua lỗ đã đục. Một tiếng nổ thật to vang lên, chiếc lon ghi-gô bắn cao
lên trời rồi rớt ở một khoảng xa giàn phóng chừng hai chục mét. Mỗi lần
nghe tiếng nổ lớn, bọn trẻ con vỗ tay thích thú.
Tết Mậu Thân. Như nhiều người Việt, tôi không thể nào quên. Đêm giao
thừa và ngày Mồng Một pháo nổ rền vang khắp xóm ngõ. Sáng Mồng Hai tôi
đang tụ họp quanh một bàn bầu cua tôm cá ở ngã ba đường. Bỗng dưng một
anh lính hải quân trong xóm phóng xe Honda về đến nhà, tay bị băng bó,
anh nói Việt Cộng đã tấn công vào Bộ Tư lệnh Hải quân và đài phát thanh.
Trong xóm vẫn nghe tiếng nổ giòn và dài như pháo. Một bác lớn tuổi ra
ngã ba đường nói lớn để thông báo cho biết thủ đô đang bị tấn công và
yêu cầu mọi người ai về nhà nấy. Một số còn tiếp tục trò chơi đỏ đen,
ông cầm bàn bầu cua hất tung toé lên và yêu cầu giải tán.
Không khí vui tết trong an bình bỗng tan nhanh và xóm ngõ tràn ngập
lo âu. Người lớn và thanh niên lo tổ chức canh gác tại các ngã đường vào
ban đêm. Một đêm nghe tiếng la lớn và chân người chạy rầm rầm. Sáng
nghe tin có kẻ lạ vào xóm ăn trộm gà bị bắt, hắn than thở nhà nghèo, dân
đấm hắn mấy quả rồi thả cho đi cùng với con gà trộm được.
Lên cấp ba, học trường Nguyễn Bá Tòng, tôi mới biết phố xá Sài Gòn
nhiều hơn vì có những ngày cúp cua lớp học thêm bên trường Trường Sơn,
Ziên Hồng đi chơi quanh bưu điện hay bên nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế và
thấy cuối năm tây có nhiều tiệm bán đèn ông sao, có những sạp bán thiệp
Giáng Sinh, gần tết bán thiệp xuân với hình mai, đào, hình ông đồ với
bút mực giấy đỏ.
Khi lên đại học, chợ hoa Nguyễn Huệ trở nên quen thuộc hơn vì thường
cùng bạn chiều chiều đi rảo quanh ngắm hoa tươi, chụp hình kỷ niệm. Ngắm
hoa thôi chứ không có tiền mua và cũng để có dịp nhìn những cô gái bán
hàng xinh như hoa.
Chợ Bến Thành năm nào cũng tưng bừng, nhộn nhịp, rộn ràng với nhạc
xuân và những lời quảng cáo mời khách mua vang vang từ cửa hàng kem
Hynos, nai khô cá thiều và rượu dâu Đà Lạt là những tiệm bán sản phẩm
ngay mặt tiền của chợ.
Chợ Tết năm 1975 có hai cô gái ở gian hàng kem Hynos trông dễ thương
nên mấy đứa bọn tôi có tán tỉnh chọc ghẹo mà được chú ý. Hai cô hẹn gặp
sau giờ bán hàng sẽ nói chuyện nhiều hơn. Hai cô gái xinh này là Phạm
Ngọc Châu và Ngọc Anh, nhà ở bên Khánh Hội, là em của thi sĩ Phạm Thiên
Thư hiện đang tu ở chùa Vạn Hạnh. Biết thế ba đứa chúng tôi rất vui, vì
quen được người đẹp và lại là em của một thi sĩ nổi danh nữa. Hẹn sau
tết có dịp gặp lại nhau.
Tết năm đó, dù đã lớn, là sinh viên năm thứ hai trường luật, nhưng
tôi vẫn nhận được nhiều tiền mừng tuổi từ cô chú bác và người thân của
gia đình. Có lẽ vì mọi người biết tôi con nhà nghèo, học giỏi nên quí
mến thưởng cho vào dịp tết.
Từ năm lớp 11 tôi bắt đầu đi làm thêm để có tiền mua sách học, cho
các em ít để tiêu vặt vì thày u có 7 người con và u đã phải tần tảo buôn
bán ngoài chợ. Tôi đi vẽ quảng cáo trong hai năm cuối bậc trung học và
hai năm đầu đại học đọc mô-ran, sửa bản chữ cho một nhà in.
Với số tiền mừng tuổi được hơn mười nghìn, tôi mở trương mục tiết kiệm tại một ngân hàng ở Ngã tư Bảy Hiền.
Sau tết tình hình quân sự và chính trị bất ổn. Nhưng tôi vẫn lạc quan
tin tưởng vào giải pháp chính trị hoà giải theo tinh thần của Hiệp Định
Paris đã được các bên ký kết hai năm trước.
Mấy bạn thân thường tụ họp, đàn ca những “Ca khúc Da vàng” với niềm
mơ ước quê hương hết chiến tranh của Trịnh Công Sơn, những bài “Bình ca”
của Phạm Duy để mừng đất nước đã có hoà bình:
Mang giầy vớ tốt mang khăn áo lành
Tôi chào đất nước tôi nay thái bình…
Tôi chào đất nước tôi nay thái bình…
Với lý tưởng phục vụ quốc gia từ những ngày còn ở bậc trung học, tôi
tham gia vào các sinh hoạt chính trị, đã đi vận động cho giáo sư Nguyễn
Duy Bảo, ứng cử viên vào hội đồng tỉnh Gia Định và ông đắc cử. Năm sau
có bầu cử thượng viện, tôi tham gia vận động cho liên danh của bác sĩ
Nguyễn Tiến Hỷ nhưng ông không thắng cử.
Lên đại học tôi gia nhập phong trào chống tham nhũng của linh mục
Trần Hữu Thanh, với linh mục Đinh Bình Định là phó của phong trào, và có
sự ủng hộ của nhiều nghị sĩ, dân biểu đối lập với chính quyền.
Tôi và một anh bạn tìm đường gia nhập Đảng Quốc tiến của cựu nghị sĩ
Trương Vĩnh Lễ, người đã ra tranh cử phó tổng thống trong liên danh với
Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đã được gặp ông Ngọc, là tổng thư ký của đảng này,
nhà ở trong hẻm cạnh Đại học Vạn Hạnh, nhưng chưa chính thức được kết
nạp.
Tình hình quân sự trở nên căng thẳng sau khi Phước Long bị cộng sản
chiếm, rồi đến Buôn Mê Thuột. Nhiều tin đồn được loan truyền như sẽ có
đảo chánh, sẽ có một Mậu Thân thứ hai, sẽ có đổ bộ ra Bắc.
Dân tình hoang mang. Tôi nghe câu nói “Tú tài Mậu Thân, cử nhân Ất
Mão” mà cũng lo vì nếu đúng thế thì như sau Tổng Công kích Tết Mậu Thân
68, tuổi nhập ngũ được đôn lên theo lệnh tổng động viên, thanh niên có
tú tài đều phải vào quân đội. Ất Mão 1975 sẽ là lúc những sinh viên có
bằng cử nhân cũng phải lên đường tòng quân.
Đầu tháng Tư tình hình quân sự trở nên bi đát hơn. Nhiều người dân
lánh nạn cộng sản từ những tỉnh phiá bắc đã chạy về tới Sài Gòn. Có đảo
chánh chăng khi một máy bay đã ném bom vào Dinh Độc Lập?
Tôi lo, nhưng vẫn chú tâm vào việc học để chuẩn bị cho kỳ thi cuối năm chỉ còn hơn hai tháng nữa.
Thấy tương lai đất nước bất ổn, tôi quyết định rút tiền tiết kiệm mới
bỏ vào ngân hàng hôm sau tết. Trong trương mục có 10 nghìn đồng, tôi
rút ra 9 nghìn. Rủ bạn đi ăn những món ngon của Sài Gòn mà trước đây ít
khi được ăn là bánh mì Hương Lan trước cửa bưu điện, kem trên đường Lê
Lợi.
Món ngon nhất là phở xào áp chảo trong một tiệm gần cầu Trương Minh
Giảng, đối diện rạp chiếu bóng Minh Châu, chỉ nhớ gọi đó là quán ông
Điền. Một đĩa phở xào giòn với thịt bò thơm ngon, giá 700 đồng.
Chẳng bao lâu miền Nam dần bị bộ đội cộng sản chiếm hết. Chiều 29/4
tôi nhảy xuống tàu ở bến Kho 5, con tàu Saigon II, không có máy, được
kéo ra khơi. Tôi ra đi một mình, bỏ lại hết tất cả người thân và bạn bè.
Tết Ất Mão là cái tết sau cùng của tôi trên quê hương.
Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển rồi qua các trại tị nạn, tháng Tám năm 1975 tôi được định cư ở thành phố đại học Berkeley.
Tháng Hai năm 1976, một buổi sáng đang ngồi trong lớp ở một trường
đại học cộng đồng, nhìn ra cửa sổ thấy tuyết lất phất rơi. Cái lạnh càng
làm nhớ nhà da diết.
Không rõ tết là ngày nào mà chỉ đoán qua tin tức nghe được trên làn
sóng ngắn của đài BBC, đài VOA mới biết xuân đang về trên quê nhà.
Tối đến, nhà có mấy anh chị em con bác phiá u tôi nữa, nhưng cũng
không có hai bác ở bên nên ai cũng buồn, cũng nhớ nhà. Nơi đất mới tết
về thiếu vắng mẹ cha, không bánh chưng, kẹo mứt, pháo nổ, nhạc xuân. Nằm
đắp chăn cho ấm người và ấm lòng. Nhưng không ngăn được giòng nước mắt
khi trong ký ức còn văng vẳng những câu ca:
Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
Khi thấy mai đào nở vàng bên hiên…
Khi thấy mai đào nở vàng bên hiên…
Mẹ ơi hoa cúc hoa mai nở rồi
Mà sao đời con sao còn lênh đênh…
Mà sao đời con sao còn lênh đênh…
Tết Bính Thìn 76 là cái tết đầu tiên của tôi trên đất Mỹ. Một cái tết lạnh và buồn, rất buồn.
Bùi Văn Phú
No comments:
Post a Comment