Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 2 April 2019

Tết đầu tiên ở Mỹ, Tết cuối cùng ở Việt Nam

3
Tết 1973 với gia đình hai bên nội ngoại. Tác giả đứng ở bià trái (Ảnh gia đình)
Thày u tôi rời làng quê ở Nam Định di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954. Khi mới vào, thày u ở Khu 7 xứ Nghĩa Hoà, Ngã ba Ông Tạ, là một trong nhiều xứ đạo mới được thành lập để định cư người Bắc di cư.
Thày có một người anh và một cô em gái và u có một anh trai, đều ở lứa tuổi 20 hay 30, đã có gia đình, cùng nhau rời quê vào Nam. Ai cũng nghĩ chỉ tạm xa anh em, bà con làng xóm hai năm thôi, khi có tổng tuyển cử thống nhất đất nước rồi sẽ được trở về với quê cũ ở làng Long Cù, quê nội; hay làng Chiền, quê ngoại, thuộc xã Trực Chính, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Mỗi khi gia đình xum họp thày u thường kể cho con cháu nghe về nguồn gốc gia đình như thế.
Chừng một năm sau ngày rời quê Bắc, u sinh ra tôi ở xứ Nghĩa Hoà, có cha chính xứ là Đinh Huy Năng và được linh mục phó xứ Đinh Bình Định rửa tội.
Ít lâu sau thày u dọn ra Khu 9, trước đó là vườn nhài. Đến tuổi đi học, tôi vào trường tiểu học Nghĩa Hoà có thày Nguyễn Văn Tích làm hiệu trưởng và được học với các thày Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Độ, Đinh Canh Phê (tức thày gíáo Thành), Nguyễn Văn Lộc và thày Thuỷ. Thày Thuỷ dạy lớp Nhì được chừng nửa niên học thì đi quân dịch, có thày Lộc thay.
Cô và bác phía thày cùng sống ở Nghĩa Hoà. Bác phiá u là hiến binh, được giao nhiệm sở ở nhiều tỉnh thành nên ngày còn bé vào dịp tết tôi được theo thày u đi Phước Tuy, Đà Lạt, Tây Ninh, Vũng Tầu để chúc tết bác. Tôi nghe thày u kể lại chứ không nhớ những chuyến đi xa này, chỉ nhớ một lần tết ra nhà bác ở Vũng Tầu, ở chơi với các anh chị nhiều ngày, sáng sáng ra sân quyét hoa đại, đem phơi khô và chiều đi lễ nhà thờ ở bãi trước.
Hình bên trái: Tết Kỷ Hợi 1959 ở Long Hải, Phước Lễ. Tác giả đứng bên phải, cạnh anh con bác và thân phụ đứng sau cùng với người bác. Hình bên phải: Tác giả, bên trái, cùng hai bạn bên những cành mai tại chợ hoa Nguyễn Huệ năm 1975 (Ảnh gia đình)
Một người chú, chồng của em gái thày tôi, làm nghề thủ công, bán hàng rong. Chú người làng Báo Đáp nên khéo tay. Khi thì chú làm đèn Trung thu, khi làm hoa giấy, nhuộm quần áo, khi đạp xe đi bán cà-rem, bánh bông lan, bánh su, bán đu đủ bò khô. Cô chú không có con nên đời sống cũng đủ. Vào những ngày nghỉ chú thường chở tôi đi chơi bằng xe đạp, mua chim, cá cảnh về cho tôi chơi.
Hình kỷ niệm của tác giả tại chợ hoa Nguyễn Huệ, trước ngân hàng Việt Nam Thương Tín (Ảnh gia đình)
Nhiều năm tôi đã đi với cô chú ra gian hàng bán hoa giấy, hoa ny-lông ở chợ Tết Ông Tạ. Có một năm cô chú cho tôi đi Long Xuyên bán hàng tết. Tôi nhớ chiếc xe ngựa chở mấy bồ hoa hai bên, từ nhà ra bến xe Miền Đông ngồi trên chiếu trong xe mà cứ nơm nớp lo cỗ xe bị chổng ngược lên hay sợ ngựa nổi chứng phóng nhanh nên hai tay cứ bám chặt thành xe.
Tôi thoáng nhớ chợ tết miệt vườn đông sạp hàng hoa, trái và ký ức còn ghi đậm là những đêm ngủ tại sạp hàng, có mắc mùng nhưng vẫn bị muỗi đốt ngứa ơi là ngứa.
Gia đình tôi nghèo. Thày là lính, u lo việc nội trợ chăm sóc đàn con thơ nên tết về nhà chẳng có hoa, chỉ hạt dưa, ít bánh mứt, còn bánh chưng chỉ được ăn rán khi tết đã qua. Cô chú chẳng giầu, nên năm nào cũng chờ đến chiều 30 Tết chú đạp xe lên chợ hoa Nguyễn Huệ, có năm mua được bó lay-ơn là loại hoa chú thích, nhưng đắt nhất. Còn không cũng mua một chậu cúc, thược dược hay vạn thọ để trưng ba ngày tết. Nhà tôi hay nhà cô chú chưa bao giờ có mai hay đào khi tết về. Nhưng ngày đầu năm cô chú lại vẫn muốn tôi là người xông đất, cô bảo vì tôi học giỏi. Tết năm nào cũng vậy.
Tết về tôi nhớ nhất là tiếng pháo nổ rền vang trong đêm giao thừa và ba ngày tết. Nghe người lớn nói pháo nổ giòn nhất là hiệu Điện Quang hay Nhật Quang bán ở nhiều nơi ngoài đường Lê Văn Duyệt.
Cuốn lịch bỏ túi năm 1975 tác giả còn lưu giữ (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Đêm giao thừa nghe pháo nổ không ngủ được, nôn nóng chờ sáng Mồng Một được mặc quần áo mới, ở nhà chờ có chú bác, bà con hàng xóm đến chúc tết gia đình và mừng tuổi.
Sang ngày Mồng Hai tôi cùng với những đứa trẻ trong xóm ra ngã ba đường, đem những đồng tiền mừng tuổi còn mới ra đánh bầu cua tôm cá hay ăn quà. Khi thấy nhà nào chuẩn bị đốt tràng pháo dài treo trước cửa, đám trẻ chúng tôi bu lại, bịt tai xem. Pháo nổ hết thì ùa vào đống xác pháo đỏ hồng giành nhau tìm pháo xì, pháo đẹt. Pháo nổ lớn có pháo đùng, pháo đại nhưng tôi thích nhất và còn nhớ trò chơi gọi là “pháo kích” của mấy anh lớn trong xóm. Một ống dài chừng một mét, đường kính mười phân, một đầu bít kín, gần cuối có đục một lỗ bằng đầu đũa, đầu kia là lon sữa ghi-gô chụp lên. Bỏ vào một cục khí đá, rồi dựng ống lên một giàn tre như súng pháo kích và đặt ở giữa đường. Một anh lấy que diêm, đốt qua lỗ đã đục. Một tiếng nổ thật to vang lên, chiếc lon ghi-gô bắn cao lên trời rồi rớt ở một khoảng xa giàn phóng chừng hai chục mét. Mỗi lần nghe tiếng nổ lớn, bọn trẻ con vỗ tay thích thú.
Tết Mậu Thân. Như nhiều người Việt, tôi không thể nào quên. Đêm giao thừa và ngày Mồng Một pháo nổ rền vang khắp xóm ngõ. Sáng Mồng Hai tôi đang tụ họp quanh một bàn bầu cua tôm cá ở ngã ba đường. Bỗng dưng một anh lính hải quân trong xóm phóng xe Honda về đến nhà, tay bị băng bó, anh nói Việt Cộng đã tấn công vào Bộ Tư lệnh Hải quân và đài phát thanh. Trong xóm vẫn nghe tiếng nổ giòn và dài như pháo. Một bác lớn tuổi ra ngã ba đường nói lớn để thông báo cho biết thủ đô đang bị tấn công và yêu cầu mọi người ai về nhà nấy. Một số còn tiếp tục trò chơi đỏ đen, ông cầm bàn bầu cua hất tung toé lên và yêu cầu giải tán.
Không khí vui tết trong an bình bỗng tan nhanh và xóm ngõ tràn ngập lo âu. Người lớn và thanh niên lo tổ chức canh gác tại các ngã đường vào ban đêm. Một đêm nghe tiếng la lớn và chân người chạy rầm rầm. Sáng nghe tin có kẻ lạ vào xóm ăn trộm gà bị bắt, hắn than thở nhà nghèo, dân đấm hắn mấy quả rồi thả cho đi cùng với con gà trộm được.
Lên cấp ba, học trường Nguyễn Bá Tòng, tôi mới biết phố xá Sài Gòn nhiều hơn vì có những ngày cúp cua lớp học thêm bên trường Trường Sơn, Ziên Hồng đi chơi quanh bưu điện hay bên nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế và thấy cuối năm tây có nhiều tiệm bán đèn ông sao, có những sạp bán thiệp Giáng Sinh, gần tết bán thiệp xuân với hình mai, đào, hình ông đồ với bút mực giấy đỏ.
Khi lên đại học, chợ hoa Nguyễn Huệ trở nên quen thuộc hơn vì thường cùng bạn chiều chiều đi rảo quanh ngắm hoa tươi, chụp hình kỷ niệm. Ngắm hoa thôi chứ không có tiền mua và cũng để có dịp nhìn những cô gái bán hàng xinh như hoa.
Chợ Bến Thành năm nào cũng tưng bừng, nhộn nhịp, rộn ràng với nhạc xuân và những lời quảng cáo mời khách mua vang vang từ cửa hàng kem Hynos, nai khô cá thiều và rượu dâu Đà Lạt là những tiệm bán sản phẩm ngay mặt tiền của chợ.
Chợ Tết năm 1975 có hai cô gái ở gian hàng kem Hynos trông dễ thương nên mấy đứa bọn tôi có tán tỉnh chọc ghẹo mà được chú ý. Hai cô hẹn gặp sau giờ bán hàng sẽ nói chuyện nhiều hơn. Hai cô gái xinh này là Phạm Ngọc Châu và Ngọc Anh, nhà ở bên Khánh Hội, là em của thi sĩ Phạm Thiên Thư hiện đang tu ở chùa Vạn Hạnh. Biết thế ba đứa chúng tôi rất vui, vì quen được người đẹp và lại là em của một thi sĩ nổi danh nữa. Hẹn sau tết có dịp gặp lại nhau.
Tết năm đó, dù đã lớn, là sinh viên năm thứ hai trường luật, nhưng tôi vẫn nhận được nhiều tiền mừng tuổi từ cô chú bác và người thân của gia đình. Có lẽ vì mọi người biết tôi con nhà nghèo, học giỏi nên quí mến thưởng cho vào dịp tết.
Từ năm lớp 11 tôi bắt đầu đi làm thêm để có tiền mua sách học, cho các em ít để tiêu vặt vì thày u có 7 người con và u đã phải tần tảo buôn bán ngoài chợ. Tôi đi vẽ quảng cáo trong hai năm cuối bậc trung học và hai năm đầu đại học đọc mô-ran, sửa bản chữ cho một nhà in.
Với số tiền mừng tuổi được hơn mười nghìn, tôi mở trương mục tiết kiệm tại một ngân hàng ở Ngã tư Bảy Hiền.
Sau tết tình hình quân sự và chính trị bất ổn. Nhưng tôi vẫn lạc quan tin tưởng vào giải pháp chính trị hoà giải theo tinh thần của Hiệp Định Paris đã được các bên ký kết hai năm trước.
Mấy bạn thân thường tụ họp, đàn ca những “Ca khúc Da vàng” với niềm mơ ước quê hương hết chiến tranh của Trịnh Công Sơn, những bài “Bình ca” của Phạm Duy để mừng đất nước đã có hoà bình:
Mang giầy vớ tốt mang khăn áo lành
Tôi chào đất nước tôi nay thái bình…
Với lý tưởng phục vụ quốc gia từ những ngày còn ở bậc trung học, tôi tham gia vào các sinh hoạt chính trị, đã đi vận động cho giáo sư Nguyễn Duy Bảo, ứng cử viên vào hội đồng tỉnh Gia Định và ông đắc cử. Năm sau có bầu cử thượng viện, tôi tham gia vận động cho liên danh của bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ nhưng ông không thắng cử.
Lên đại học tôi gia nhập phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, với linh mục Đinh Bình Định là phó của phong trào, và có sự ủng hộ của nhiều nghị sĩ, dân biểu đối lập với chính quyền.
Tôi và một anh bạn tìm đường gia nhập Đảng Quốc tiến của cựu nghị sĩ Trương Vĩnh Lễ, người đã ra tranh cử phó tổng thống trong liên danh với Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đã được gặp ông Ngọc, là tổng thư ký của đảng này, nhà ở trong hẻm cạnh Đại học Vạn Hạnh, nhưng chưa chính thức được kết nạp.
Tình hình quân sự trở nên căng thẳng sau khi Phước Long bị cộng sản chiếm, rồi đến Buôn Mê Thuột. Nhiều tin đồn được loan truyền như sẽ có đảo chánh, sẽ có một Mậu Thân thứ hai, sẽ có đổ bộ ra Bắc.
Dân tình hoang mang. Tôi nghe câu nói “Tú tài Mậu Thân, cử nhân Ất Mão” mà cũng lo vì nếu đúng thế thì như sau Tổng Công kích Tết Mậu Thân 68, tuổi nhập ngũ được đôn lên theo lệnh tổng động viên, thanh niên có tú tài đều phải vào quân đội. Ất Mão 1975 sẽ là lúc những sinh viên có bằng cử nhân cũng phải lên đường tòng quân.
Đầu tháng Tư tình hình quân sự trở nên bi đát hơn. Nhiều người dân lánh nạn cộng sản từ những tỉnh phiá bắc đã chạy về tới Sài Gòn. Có đảo chánh chăng khi một máy bay đã ném bom vào Dinh Độc Lập?
Tôi lo, nhưng vẫn chú tâm vào việc học để chuẩn bị cho kỳ thi cuối năm chỉ còn hơn hai tháng nữa.
Thấy tương lai đất nước bất ổn, tôi quyết định rút tiền tiết kiệm mới bỏ vào ngân hàng hôm sau tết. Trong trương mục có 10 nghìn đồng, tôi rút ra 9 nghìn. Rủ bạn đi ăn những món ngon của Sài Gòn mà trước đây ít khi được ăn là bánh mì Hương Lan trước cửa bưu điện, kem trên đường Lê Lợi.
Món ngon nhất là phở xào áp chảo trong một tiệm gần cầu Trương Minh Giảng, đối diện rạp chiếu bóng Minh Châu, chỉ nhớ gọi đó là quán ông Điền. Một đĩa phở xào giòn với thịt bò thơm ngon, giá 700 đồng.
Chẳng bao lâu miền Nam dần bị bộ đội cộng sản chiếm hết. Chiều 29/4 tôi nhảy xuống tàu ở bến Kho 5, con tàu Saigon II, không có máy, được kéo ra khơi. Tôi ra đi một mình, bỏ lại hết tất cả người thân và bạn bè.
Sổ trương mục tiết kiệm của tác giả (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Tết Ất Mão là cái tết sau cùng của tôi trên quê hương.
Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển rồi qua các trại tị nạn, tháng Tám năm 1975 tôi được định cư ở thành phố đại học Berkeley.
Tháng Hai năm 1976, một buổi sáng đang ngồi trong lớp ở một trường đại học cộng đồng, nhìn ra cửa sổ thấy tuyết lất phất rơi. Cái lạnh càng làm nhớ nhà da diết.
Không rõ tết là ngày nào mà chỉ đoán qua tin tức nghe được trên làn sóng ngắn của đài BBC, đài VOA mới biết xuân đang về trên quê nhà.
Tối đến, nhà có mấy anh chị em con bác phiá u tôi nữa, nhưng cũng không có hai bác ở bên nên ai cũng buồn, cũng nhớ nhà. Nơi đất mới tết về thiếu vắng mẹ cha, không bánh chưng, kẹo mứt, pháo nổ, nhạc xuân. Nằm đắp chăn cho ấm người và ấm lòng. Nhưng không ngăn được giòng nước mắt khi trong ký ức còn văng vẳng những câu ca:
Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
Khi thấy mai đào nở vàng bên hiên…
Mẹ ơi hoa cúc hoa mai nở rồi
Mà sao đời con sao còn lênh đênh…
Tết Bính Thìn 76 là cái tết đầu tiên của tôi trên đất Mỹ. Một cái tết lạnh và buồn, rất buồn.
Bùi Văn Phú

No comments:

Post a Comment