Tháng Tư và chuyện của người bên thắng- bên thua cuộc
Bác Hiền biết tôi qua một lần nghe tôi trả lời phỏng vấn đài
“Tiếng nói người Việt Quốc gia” về Quỹ 50k. Rồi bác liên lạc với tôi qua
điện thoại, chỉ điện thoại thôi, bởi bác ko biết bất cứ một phương tiện
liên lạc nào khác.
Bác bảo đang sống ở bên Mĩ, bác gọi để hỏi thông tin của những gia
đình TNLT khó khăn nhất, tên, địa chỉ và số điện thoại liên lạc của họ.
Bác muốn gửi tiền giúp đỡ họ. Bác bảo bác cũng chỉ hưởng tiền trợ cấp,
ko có bao nhiêu, nên bác dùng cái tâm của mình để vận động quyên góp
từng người. Bác ko bỏ lỡ bất cứ một cơ hội quyên góp nào mỗi khi có cuộc
gặp gỡ, thậm chí đi xin.
Cứ vài ngày tôi lại nghe điện thoại của bác, lần nào cũng như lần nào, giọng bác vui lắm, đại loại:
– Cô Hạnh ơi, tôi đã xin được 75 đồng, tôi góp vào 25 đồng nữa là đủ
100 đồng. Cô cho tôi xin tên và số điện thoại của một gia đình.
Có lần 5h sáng đã thấy chuông điện thoại của bác trong khi 4h tôi mới
ngủ, cảm giác ngái ngủ thật không dễ chịu chút nào, nhưng tôi nhanh
chóng hoà vào niềm vui “đã đủ 100 đồng” của bác. Và tôi thường khản cổ
mỗi khi đọc cho bác chép xong một địa chỉ, tên người, số đt, bởi bác
lãng tai lại gọi qua điện thoại mà là điện thoại quốc tế nên càng khó
nghe hơn, cứ phải nói thật to và nói đi nói lại nhiều lần.
Đi xin từng đồng đô, mà thấm thoắt bác đã gửi về được hơn 7000 đô.
Thương bác, tôi khuyên bác tạm nghỉ ngơi, đừng đi xin nữa. Nhưng bác trả
lời từ trong gan ruột:
– Cô ạ, tôi cũng từng là một người tù, tôi ở tù cộng sản 13 năm sau
năm 1975, địa ngục trần gian cô ạ, nên tôi thương những người tù lắm.
Tôi muốn làm cái gì đó cho họ trong khả năng của tôi. Năm nay tôi đã gần
80 tuổi, sống được ngày nào biết ngày đó thôi, nên tôi cố từng ngày,
làm gấp, kẻo nằm xuống lại tiếc chẳng làm được gì. Nhiều lúc cũng buồn
khi đi xin tiền có người bảo: “Những người ấy họ đấu tranh chỉ để được
đi tị nạn, giúp làm gì”. Lại phải giải thích rằng nghĩ như thế là sai,
nhưng trong lòng cứ buồn mãi, sao đồng bào mình lại vô cảm thế!
Thì ra bác từng là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hoà. Tính cách của
bác toàn đối lập với những “tên ác ôn nguỵ quân nguỵ quyền” mà tôi được
tuyên truyền trước kia, bác hiền khô, thật thà, nhường nhịn, chứa chan
tình thương, và đặc biệt yêu quê hương. Mỗi lần nghe bác than thở về vận
nước và xót xa thương quê, tôi buồn phát khóc.
Những khi liên lạc với tôi, bác thường xen kể về những năm tháng tù
đày trước kia, ko hề có chút cường điệu. Những gì mà những người tù VNCH
phải chịu đựng cũng hoàn toàn trái ngược với những “nhân đạo, khoan
hồng” của chính quyền cộng sản đối với tù binh mà tôi từng được tuyên
truyền.
Lâu dần thành quen, bác đã như một phần trong cuộc sống của tôi. Cứ
vài ngày không thấy bác gọi là tôi lại mơ hồ lo lắng hay bác nằm xuống
rồi. Bởi chỉ bác gọi cho tôi, chứ điện thoại của tôi ko gọi được quốc
tế. Mà bác gọi cho tôi cũng ko hiện số, nên tôi ko thể gọi cho bác được.
Tôi thuyết phục mãi bác mới nhờ cháu ngoại lập facebook. Tôi nhẹ hẳn
người vì ko phải gào qua điện thoại nữa, nhắn tin là dễ dàng và chính
xác nhất, và khi nào cần là tôi có thể nhắn hoặc gọi cho bác.
Nhưng hoá ra bác lại lo cho tôi hơn là tôi lo cho bác. Cứ vài ngày ko
thấy tôi đăng bài là bác lại gọi, lo tôi ốm, lo tôi bị bắt đi tù. Thấy
giọng tôi khoẻ khoắn bác lại cười hiền hậu đúng như gương mặt của bác.
Có lần bác thở dài: “Thời chúng tôi đi tù mà có người ở ngoài như cô thì tốt biết mấy!”. “Nhưng mỗi thời một khác cô nhỉ?”, bác lại tự trả lời.
THÁNG TƯ, truyền thông lề đảng rục rịch hoan hỉ khoét vào cái vết
chém trên thân thể Việt Nam suốt 44 năm vẫn còn rướm máu. Tôi cũng từng
có thời lên đồng cùng với cỗ máy lừa gạt đó, nhưng nay tôi chỉ thấy đau.
Và tôi muốn kể câu chuyện của hai người cùng một giống nòi nhưng khác
chiến tuyến mà tôi từng được nghe.
Chuyện tù cộng sản của một người lính VNCH
Chỉ một ngày sau 30/4, chính quyền mới đã cho loa gọi những binh lính VNCH ra trình diện để “nhận khoan hồng, về sống với gia đình”. Họ ra rả nói về chính sách hoà hợp hoà giải, toàn những điều tốt đẹp.
Chỉ được ở với gia đình 4 ngày thì bác Hiền bị gọi lên tập trung, ko ngờ ngày đó bắt đầu cho 13 năm địa ngục trần gian.
Tháng 12/1976, bác Hiền cùng hàng ngàn người tù bị đưa ra Bắc bằng tàu thuỷ, đi từ Tân Cảng.
Họ bị nhét vào một con tàu chở hàng. Con tàu đó có 3 khoang, trước đó
một khoang chở than, một khoang chở xi măng, và một khoang chở vôi. Thì
nay mỗi khoang nhốt 500 người như chở súc vật, ngồi chồng lên nhau, nằm
chồng lên nhau. Ai ở khoang vôi thì đầu tóc người ngợm trắng phớ,
khoang than thì đen xì, khoang xi măng thì người bạc phếch. Cứ hai người
còng vào nhau bằng một chiếc còng tay, người này đi vệ sinh thì người
kia cũng phải đi theo. Có một câu chuyện đau lòng, khi bước qua cầu để
lên tàu, một người trong số họ đã trượt chân ngã xuống biển, thế là
người kia cũng rơi theo. Cai tù dửng dưng đứng nhìn họ vùng vẫy rồi chết
chìm, ko đếm xỉa đến việc cứu người.
Cả khoang 500 người chỉ có 2 cái xô để đi tiểu, và để nguyên đó cả
ngày mới cẩu cái xô đi đổ một lần. Có lần không may cái xô bị rớt, nước
tiểu đã cũ đổ tung toé vào đầu vào mặt mọi người.
Tàu đi đến Hải Phòng là 3 ngày 4 đêm, những ngày đêm ko tắm rửa, thức ăn thì đầy cát.
Từ Hải Phòng bác Hiền bị đưa đi Lào Cai, tiếp tục những ngày lao động khổ sai.
Một lần làm việc trong rừng, bắt chuyện với một người kiểm lâm đã từng vào Sài Gòn sau năm 75, bác Hiền hỏi ông ấy:
“Ông thấy Sài Gòn thế nào?”
“Ôi, chẳng khác nào thiên đường, rất hiện đại và thứ gì cũng có. Trước kia tôi tưởng khác cơ”. Người ấy trầm trồ.
Năm 1978 bác Hiền bị đưa về Tân Lập, Vĩnh Phúc.
Những người tù bị vắt kiệt sức lao động, ăn uống đói khát, nên chết
nhiều lắm. Họ chết vì đói, vì kiệt sức chứ không bệnh tật gì, cứ 10
người thì khoảng 2 đến 3 người chết. Không mấy ngày không có người chết.
Có những người sáng ko thấy dậy đi làm, mở màn ra gọi đã chết từ khi
nào. Có người đang làm việc thì chết vì say nắng.
Trung tá Văn Lạc được vợ từ Miền Nam ra thăm và tiếp tế. Đói khát
kham khổ đã lâu, nên khi ăn những thức ăn ngon vợ gửi vào, ông Lạc đã bị
trúng thực mà chết ngay sáng hôm sau.
Trung tá phi công Phạm Bình Minh ngã bệnh vì kiệt sức. Khi vợ ông đến
thăm, quản giáo ko cho gặp mà hẹn đến hôm sau. Đêm hôm đó ông chết, ko
đợi được đến sáng gặp vợ. Người vợ để thể hiện tình cảm sắt son với
chồng, đã đi làm tấm bia cho chồng, đọc một bài thơ, rồi chị cắt phăng
mái tóc dài đặt lên mộ chồng.
Biết bao những câu chuyện đau thương trong những trại tù ấy, xung quanh những thân phận ấy, tử thần luôn rình rập họ bất kể ngày đêm.
Biết bao những câu chuyện đau thương trong những trại tù ấy, xung quanh những thân phận ấy, tử thần luôn rình rập họ bất kể ngày đêm.
Tháng 4/1982, bác Hiền cùng nhiều người tù được đưa về Nam bằng tàu
lửa, tiếp tục 5 năm tù tại Đồng Nai. Trên tàu lửa họ vẫn bị xích tay hai
người một vào nhau.
Nhưng có một chuyện lạ. Tàu chạy qua các ga miền Bắc, biết trên đó là
những người tù VNCH, những người dân bán hàng rong ở dưới đã tới tấp
ném đồ ăn lên tàu cho họ, nào là đậu phộng, dưa hấu, bánh kẹo…, bất cứ
thứ gì trong rổ hàng mà họ đang bán.
Nhưng tất cả đều bị đám áp giải tù ném lại xuống, những người tù đói khát không được nhận một thứ gì.
Qua chuyện này mới thấy rõ, bảy năm sau chiến tranh, nhận thức của
người dân Miền Bắc đã thay đổi nhiều, họ không còn coi những người lính
VNCH là kẻ thù, là xấu xa độc ác như họ từng bị nhồi sọ.
Chuyện của bác Hiền dài lắm, nhưng facebook không phải chỗ kể dài, tôi sẽ kể thêm ở những bài viết khác.
Bác Hiền ra tù năm 1988, sau 13 năm khổ sai đày đoạ. Năm 1993 bác
được sang Mỹ theo diện HO. Dẫu cuộc sống nay bình yên đủ đầy, nhưng nỗi
đau thương quê, thương nước đã khiến bác không thể vô tư hưởng yên vui.
Facebook Nguyễn Thúy Hạnh.
(Bà Hạnh phụ trách quỹ 50k giúp tù nhân lương tâm ở Việt Nam hiện nay)
No comments:
Post a Comment