Vì sao người dân hoảng sợ trước đại dịch Vũ Hán
Đại
dịch viêm màng phổi cấp tính xuất phát từ Vũ Hán, Trung Quốc đã gây mối
lo ngại lớn lao và thậm chí hoảng sợ cho người dân Việt Nam.
Nói đến dịch bệnh, chẳng cứ người dân Việt Nam, mà bất cứ nước nào đều có những lo ngại nhất định. Tuy nhiên, nếu theo dõi mạng xã hội mấy hôm nay, người ta thấy rất nhiều người dân quan tâm đến cộng đồng, đến sức khỏe của mình và gia quyến, đều hốt hoảng trước việc dịch lan tràn và nguy cơ lan rộng với mức độ hoảng sợ hơn nhiều.
Phải chăng, người dân Việt Nam đã cảnh giác hơn đối với dịch bệnh và có điều kiện chăm lo cho sức khỏe của mình và cộng đồng hơn?
Đó chỉ mới là một dữ liệu, một điều kiện mà thôi.
Đằng sau việc lo lắng, hoảng sợ của người dân Việt Nam còn nhiều điều khác.
Trước hết, người dân mất lòng tin vào hệ thống truyền thông, báo chí Việt Nam. Người dân Việt Nam đã rất có kinh nghiệm trong việc đón nhận thông tin từ báo chí Việt Nam, nhất là khi có những thông tin ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng, ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống người dân, nhất là ảnh hưởng đến sự ổn định theo ý đảng… thì lập tức hệ thống tuyên truyền, báo chí được lệnh nói theo ý đảng nhằm ru ngủ người dân dù tai họa cận kề.
Bởi điều rất đơn giản, là khi cả cộng đồng chịu ảnh hưởng, chịu tai họa… thì đảng vẫn yên chí giữ chiếc ghế quyền lực đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Những quan chức đảng cướp được lắm của nhiều tiền, với những điều kiện tiện nghi, đội ngũ chăm sóc y tế riêng, những cơ đồ lâu đài biệt lập… thì bệnh tình, dịch bệnh là điều không đáng lo ngại.
Tất cả hậu quả, thiệt thòi mất mát dù là cả mạng sống, đều là “quyền lợi” của riêng người dân. Do vậy, hệ thống truyền thông của đảng đã ra sức nói theo hướng có lợi nhất cho đảng, mặc xác người dân khốn đốn hoặc tiêu vong.
Đại thảm họa Formosa là một ví dụ điển hình. Không chỉ là biển chết, là căn bệnh ung thư đối với hàng loạt người dân, là hủy hoại môi trường mà còn là sự suy vong nòi giống Việt bởi thảm họa do Formosa gây ra.
Thế nhưng, chính quyền tự xưng “của dân, do dân, vì dân” đã bằng mọi cách bưng bít dư luận và lái theo hướng mặc xác người dân. Thậm chí quan chức cộng sản còn làm nhiều trò xúi người dân khờ dại lao vào nơi có chất độc.
Qua cách hành xử của nhà nước Việt Nam, người ta thấy rằng với đảng, điều quan trọng hơn, vẫn là giữ vững chiếc ghế đã cướp được, bó từ người dân thật nhiều tiền, vẫn là xà xẻo, tham nhũng là hàng đầu, mặc xác dân lành.
Đặc biệt với những vụ án mà những nhân vật đó thật sự có uy tín, mọi người dễ dàng nhìn thấy họ yêu nước, thương nòi, có tinh thần cộng đồng… đều được báo chí nhà nước nói ngược về phía họ.
Chẳng hạn, với các tù nhân lương tâm, những người hoạt động cộng đồng được quý mến nhưng không vừa lòng đảng thì lập tức báo chí được lệnh xung trận và bịa đặt, chửi rủa bất cứ luật lệ và họ là ai.
Vụ án Đồng Tâm, mà tội ác là tàn sát một ngôi làng, để rồi nửa đêm xông vào nổ súng bắn chết một cụ già Lê Đình Kính gần trăm tuổi. Ba tên công an đã bị chết vì một cái cớ “lãng nhách” là té giếng.
Thế nhưng, ban Tuyên giáo của đảng đã ra lệnh cho báo chí đưa tin theo Công an, mà công an Việt Nam xưa nay đã được đảng nuôi làm bầy chó giữ nhà nên đã bằng mọi cách bịa đặt theo hướng có lợi nhất cho sự tồn tại của đảng.
Chẳng hạn, bất cứ một quan chức nào có những lời nó, hành động hết sức mất nhân tính, độc ác và gây tai họa cho cộng đồng hay gây những tội ác nghiêm trọng… đều được báo chí nhà nước tung hô là hiền lành, là vô sự, là người được kính trọng…Vụ một sĩ quan công an mới bắn chết 5 người trên chiếu bạc vào ngày hôm nay đã là một chứng minh rất rõ ràng.
Chẳng ai có thể tin được khi thấy một Bộ Trưởng Bộ Thông tin- Truyền thông ngồi nhồm nhoàm ăn cá làm mẫu tại vùng biển mà chỉ một thời gian ngắn sau đó, nhà cầm quyền buộc phải thừa nhận Formosa xả thải độc hại giết môi trường.
Chẳng ai có thể tin được khi một ông Cục trưởng cục quản lý Nông lâm sản lại phát biểu rằng: Nếu hàng thủy sản bị nước ngoài trả lại do lượng kháng sinh và độc tố vượt mức cho phép, dân chỉ cần luộc lên là ăn được.
Chẳng ai tin được khi Đà Nẵng công bố gà ăn cá bị chết là do gà ăn quá no chứ không phải do nhiễm độc chết.
Trong khi truyền thông Việt Nam đã mất lòng dân chúng, thì một sự bất tín, vạn sự bất tin” là kinh nghiệm từ bao đời của người dân Việt Nam.
Chính điều đó đã hạn chế những thông tin cần thiết đến với dân chúng khi đại dịch lan truyền, góp phần làm tăng sự lan truyền của đại dịch ở Việt Nam.
Điều người dân Việt Nam, ai cũng biết rất rõ về hiện trạng ngành y tế Việt Nam hiện nay như thế nào.
Trừ một cơ sở duy nhất là Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương và các cơ sở phục vụ Ban này – Một Ban lập ra để bảo vệ sức khỏe của các đầy tớ nhân dân – thì còn lại từ Nam đến Bắc, từ miền xuôi đến miền ngược, nạn thiếu cơ sở vật chất của ngành y tế là chuyện đã xảy ra không chỉ một thời.
Ngày nay, thay vì đến bệnh viện để được cách ly, để được điều trị sức khỏe, người dân đến bệnh viện để chen chúc nhau 3-4 người một giường bệnh chưa đầy một mét chiều rộng. Người bện chen chúc không chỉ trên giường bệnh mà cả dưới gầm giường bệnh… Câu chuyện bệnh nhân chui từ gầm giường ra chào Bộ trưởng Y tế là một câu chuyện điển hình.
Rồi nạn thuốc giả được bày bán, được nhập về công khai trong ngành y tế do em chồng của Bộ Trưởng Bộ Y tế mà Bộ trưởng không biết, cũng là một vấn đề gây lo ngại cho cộng đồng.
Người dân trả tiền viện phí ngày càng cao, chen chúc nhau để tự lây nhiễm cho nhau trong các bệnh viện để rồi nhận thuốc giả uống vào cơ thể.
Người dân đến bệnh viện để rồi nhận kết quả xét nghiệm với các mẫu que thử bị xé đôi, bị nhân bản hoặc các bản kết quả xét nghiệm chỉ có bằng máy photocopy mà không cần qua bác sĩ hoặc thí nghiệm…
Với một nền y tế như vậy, người dân lo lắng trước sinh mạng của chính mình, của gia đình, người thân và cộng đồng là điều không có gì lạ.
Hiện nay, đại dịch virus Vũ Hán đã và đang lan truyền với mức độ chóng mặt. Chính quyền Việt Nam đang chống dịch bằng mồm là chính mà chưa có một động thái nào để có thể làm an lòng dân chúng.
Mặt khác, với thể chế chính trị hiện nay, khi mà nhà cầm quyền CSVN đang ngày càng lệ thuộc vào quan thầy Bắc Kinh, mọi vấn đề liên quan đến Trung Quốc đều thuộc vấn đề nhạy cảm và đều được nhà nước CSVN kiêng dè, sợ hãi thì đại dịch Vũ Hán càng có cơ hội để bùng phát tại Việt Nam.
Ngoài việc người Trung Quốc có thể ra vào Việt Nam như đi chợ, được xâm nhập bất cứ một nơi nào trên đất nước, thậm chí tổ chức các ổ cờ bạc, tội phạm mà không sợ bị trừng trị. Bởi nếu bị bắt, họ cũng chỉ bị dẫn độ về Trung Quốc theo Hiệp định dẫn độ mà thôi, thì trong đại dịch này, khi mà Trung Quốc đã là nơi không an toàn, thì việc đổ vào Việt Nam trốn dịch, mang theo mầm bệnh vào đây là điều không tránh khỏi.
Mới đây, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết: “Việt Nam và Trung Quốc có hiệp ước biên giới, do vậy muốn đóng cửa biên giới phải có thỏa thuận với Trung Quốc chứ không thể đơn phương”.
Trong khi các nước hết sức cảnh giác với đại dịch Vũ Hán, thậm chí tìm mọi cách đưa công dân rời khỏi Vũ Hán, đóng cửa biên giới với Trung Quốc thì Việt Nam vẫn loay hoay trong vòng cương tỏa của Trung Quốc và chống dịch bằng mồm.
Đó chính là những nguyên nhân để người dân Việt Nam hoảng sợ trước đại dịch Vũ Hán.
Ngày 31/1/2020
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Nói đến dịch bệnh, chẳng cứ người dân Việt Nam, mà bất cứ nước nào đều có những lo ngại nhất định. Tuy nhiên, nếu theo dõi mạng xã hội mấy hôm nay, người ta thấy rất nhiều người dân quan tâm đến cộng đồng, đến sức khỏe của mình và gia quyến, đều hốt hoảng trước việc dịch lan tràn và nguy cơ lan rộng với mức độ hoảng sợ hơn nhiều.
Phải chăng, người dân Việt Nam đã cảnh giác hơn đối với dịch bệnh và có điều kiện chăm lo cho sức khỏe của mình và cộng đồng hơn?
Đó chỉ mới là một dữ liệu, một điều kiện mà thôi.
Đằng sau việc lo lắng, hoảng sợ của người dân Việt Nam còn nhiều điều khác.
Trước hết, người dân mất lòng tin vào hệ thống truyền thông, báo chí Việt Nam. Người dân Việt Nam đã rất có kinh nghiệm trong việc đón nhận thông tin từ báo chí Việt Nam, nhất là khi có những thông tin ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng, ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống người dân, nhất là ảnh hưởng đến sự ổn định theo ý đảng… thì lập tức hệ thống tuyên truyền, báo chí được lệnh nói theo ý đảng nhằm ru ngủ người dân dù tai họa cận kề.
Bởi điều rất đơn giản, là khi cả cộng đồng chịu ảnh hưởng, chịu tai họa… thì đảng vẫn yên chí giữ chiếc ghế quyền lực đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Những quan chức đảng cướp được lắm của nhiều tiền, với những điều kiện tiện nghi, đội ngũ chăm sóc y tế riêng, những cơ đồ lâu đài biệt lập… thì bệnh tình, dịch bệnh là điều không đáng lo ngại.
Tất cả hậu quả, thiệt thòi mất mát dù là cả mạng sống, đều là “quyền lợi” của riêng người dân. Do vậy, hệ thống truyền thông của đảng đã ra sức nói theo hướng có lợi nhất cho đảng, mặc xác người dân khốn đốn hoặc tiêu vong.
Đại thảm họa Formosa là một ví dụ điển hình. Không chỉ là biển chết, là căn bệnh ung thư đối với hàng loạt người dân, là hủy hoại môi trường mà còn là sự suy vong nòi giống Việt bởi thảm họa do Formosa gây ra.
Thế nhưng, chính quyền tự xưng “của dân, do dân, vì dân” đã bằng mọi cách bưng bít dư luận và lái theo hướng mặc xác người dân. Thậm chí quan chức cộng sản còn làm nhiều trò xúi người dân khờ dại lao vào nơi có chất độc.
Qua cách hành xử của nhà nước Việt Nam, người ta thấy rằng với đảng, điều quan trọng hơn, vẫn là giữ vững chiếc ghế đã cướp được, bó từ người dân thật nhiều tiền, vẫn là xà xẻo, tham nhũng là hàng đầu, mặc xác dân lành.
Đặc biệt với những vụ án mà những nhân vật đó thật sự có uy tín, mọi người dễ dàng nhìn thấy họ yêu nước, thương nòi, có tinh thần cộng đồng… đều được báo chí nhà nước nói ngược về phía họ.
Chẳng hạn, với các tù nhân lương tâm, những người hoạt động cộng đồng được quý mến nhưng không vừa lòng đảng thì lập tức báo chí được lệnh xung trận và bịa đặt, chửi rủa bất cứ luật lệ và họ là ai.
Vụ án Đồng Tâm, mà tội ác là tàn sát một ngôi làng, để rồi nửa đêm xông vào nổ súng bắn chết một cụ già Lê Đình Kính gần trăm tuổi. Ba tên công an đã bị chết vì một cái cớ “lãng nhách” là té giếng.
Thế nhưng, ban Tuyên giáo của đảng đã ra lệnh cho báo chí đưa tin theo Công an, mà công an Việt Nam xưa nay đã được đảng nuôi làm bầy chó giữ nhà nên đã bằng mọi cách bịa đặt theo hướng có lợi nhất cho sự tồn tại của đảng.
Chẳng hạn, bất cứ một quan chức nào có những lời nó, hành động hết sức mất nhân tính, độc ác và gây tai họa cho cộng đồng hay gây những tội ác nghiêm trọng… đều được báo chí nhà nước tung hô là hiền lành, là vô sự, là người được kính trọng…Vụ một sĩ quan công an mới bắn chết 5 người trên chiếu bạc vào ngày hôm nay đã là một chứng minh rất rõ ràng.
Chẳng ai có thể tin được khi thấy một Bộ Trưởng Bộ Thông tin- Truyền thông ngồi nhồm nhoàm ăn cá làm mẫu tại vùng biển mà chỉ một thời gian ngắn sau đó, nhà cầm quyền buộc phải thừa nhận Formosa xả thải độc hại giết môi trường.
Chẳng ai có thể tin được khi một ông Cục trưởng cục quản lý Nông lâm sản lại phát biểu rằng: Nếu hàng thủy sản bị nước ngoài trả lại do lượng kháng sinh và độc tố vượt mức cho phép, dân chỉ cần luộc lên là ăn được.
Chẳng ai tin được khi Đà Nẵng công bố gà ăn cá bị chết là do gà ăn quá no chứ không phải do nhiễm độc chết.
Trong khi truyền thông Việt Nam đã mất lòng dân chúng, thì một sự bất tín, vạn sự bất tin” là kinh nghiệm từ bao đời của người dân Việt Nam.
Chính điều đó đã hạn chế những thông tin cần thiết đến với dân chúng khi đại dịch lan truyền, góp phần làm tăng sự lan truyền của đại dịch ở Việt Nam.
Điều người dân Việt Nam, ai cũng biết rất rõ về hiện trạng ngành y tế Việt Nam hiện nay như thế nào.
Trừ một cơ sở duy nhất là Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương và các cơ sở phục vụ Ban này – Một Ban lập ra để bảo vệ sức khỏe của các đầy tớ nhân dân – thì còn lại từ Nam đến Bắc, từ miền xuôi đến miền ngược, nạn thiếu cơ sở vật chất của ngành y tế là chuyện đã xảy ra không chỉ một thời.
Ngày nay, thay vì đến bệnh viện để được cách ly, để được điều trị sức khỏe, người dân đến bệnh viện để chen chúc nhau 3-4 người một giường bệnh chưa đầy một mét chiều rộng. Người bện chen chúc không chỉ trên giường bệnh mà cả dưới gầm giường bệnh… Câu chuyện bệnh nhân chui từ gầm giường ra chào Bộ trưởng Y tế là một câu chuyện điển hình.
Rồi nạn thuốc giả được bày bán, được nhập về công khai trong ngành y tế do em chồng của Bộ Trưởng Bộ Y tế mà Bộ trưởng không biết, cũng là một vấn đề gây lo ngại cho cộng đồng.
Người dân trả tiền viện phí ngày càng cao, chen chúc nhau để tự lây nhiễm cho nhau trong các bệnh viện để rồi nhận thuốc giả uống vào cơ thể.
Người dân đến bệnh viện để rồi nhận kết quả xét nghiệm với các mẫu que thử bị xé đôi, bị nhân bản hoặc các bản kết quả xét nghiệm chỉ có bằng máy photocopy mà không cần qua bác sĩ hoặc thí nghiệm…
Với một nền y tế như vậy, người dân lo lắng trước sinh mạng của chính mình, của gia đình, người thân và cộng đồng là điều không có gì lạ.
Hiện nay, đại dịch virus Vũ Hán đã và đang lan truyền với mức độ chóng mặt. Chính quyền Việt Nam đang chống dịch bằng mồm là chính mà chưa có một động thái nào để có thể làm an lòng dân chúng.
Mặt khác, với thể chế chính trị hiện nay, khi mà nhà cầm quyền CSVN đang ngày càng lệ thuộc vào quan thầy Bắc Kinh, mọi vấn đề liên quan đến Trung Quốc đều thuộc vấn đề nhạy cảm và đều được nhà nước CSVN kiêng dè, sợ hãi thì đại dịch Vũ Hán càng có cơ hội để bùng phát tại Việt Nam.
Ngoài việc người Trung Quốc có thể ra vào Việt Nam như đi chợ, được xâm nhập bất cứ một nơi nào trên đất nước, thậm chí tổ chức các ổ cờ bạc, tội phạm mà không sợ bị trừng trị. Bởi nếu bị bắt, họ cũng chỉ bị dẫn độ về Trung Quốc theo Hiệp định dẫn độ mà thôi, thì trong đại dịch này, khi mà Trung Quốc đã là nơi không an toàn, thì việc đổ vào Việt Nam trốn dịch, mang theo mầm bệnh vào đây là điều không tránh khỏi.
Mới đây, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết: “Việt Nam và Trung Quốc có hiệp ước biên giới, do vậy muốn đóng cửa biên giới phải có thỏa thuận với Trung Quốc chứ không thể đơn phương”.
Trong khi các nước hết sức cảnh giác với đại dịch Vũ Hán, thậm chí tìm mọi cách đưa công dân rời khỏi Vũ Hán, đóng cửa biên giới với Trung Quốc thì Việt Nam vẫn loay hoay trong vòng cương tỏa của Trung Quốc và chống dịch bằng mồm.
Đó chính là những nguyên nhân để người dân Việt Nam hoảng sợ trước đại dịch Vũ Hán.
Ngày 31/1/2020
J.B Nguyễn Hữu Vinh
No comments:
Post a Comment