Mậu Thân 1968- Ai thắng ai bại?
Vũ Ngự Chiêu Trong số những trận đánh có tầm chiến lược quan trọng từ 1959 tới 1975, cuộc tổng tấn công vào các thành phố và tỉnh lỵ miền Nam đúng dịp Tết Mậu Thân (1968) được liệt vào hàng đầu. Đây là một chuyến “làm ăn” táo bạo của Lê Duẩn (1908-1986), Bí…
Vũ Ngự Chiêu
Trong
số những trận đánh có tầm chiến lược quan trọng từ 1959 tới 1975, cuộc
tổng tấn công vào các thành phố và tỉnh lỵ miền Nam đúng dịp Tết Mậu
Thân (1968) được liệt vào hàng đầu. Đây là một chuyến “làm ăn” táo bạo
của Lê Duẩn (1908-1986), Bí thư thứ nhất Đảng Lao Động [Cộng Sản] Việt
Nam, đưa đến những thiệt hại to lớn về nhân sự cho Bắc quân. Nhưng về
mặt chính trị và ngoại giao–dù có dự đoán trước hay chăng–ba đợt tấn
công vào Sài Gòn-Chợ Lớn trong năm 1968 tạo một ảnh hưởng sâu đậm tại
chính nước Mỹ. Bộ trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara, và rồi Tổng
thống Lyndon B. Johnson cùng đa số thành phần chủ chiến đều nghiêng về
phía tìm một giải pháp chính trị. Mặc dù hòa đàm Paris, nhóm họp từ mùa
Xuân 1968, chưa giải quyết được ngay cuộc chiến Việt Nam, tình trạng vừa
đánh vừa đàm kéo dài hơn bốn năm nữa, chiến dịch Mậu Thân đánh dấu một
khúc quanh quan trọng. Ít nữa, nó cũng giảm hẳn cường độ cuộc chiến ở
phía Bắc vĩ tuyến 17, kế hoạch Rolling Thunder [Sấm Rền] hầu như chấm
dứt từ đầu tháng 11/1968–một cuộc xuống thang rõ ràng sau gần 5 năm “leo
thang.”
Để có thể cân nhắc lẽ thắng-bại của cuộc
Tổng Tấn Công-Tổng Khởi Nghĩa [TTC-TKN] Mậu Thân 1968, không thể chỉ dựa
trên thứ thông tin mạo hóa, sản phẩm của các hệ thống tuyên truyền,
chiến tranh chính trị của cả hai phe. Cũng không thể chỉ căn cứ vào số
xác chết, bị thương, hay số vũ khí tịch thu ở trận địa. Trước hết, cần
minh định bản chất cuộc chiến Việt Nam và nhìn lại diễn tiến của giai
đoạn 2 của cuộc chiến 30 năm (1945-1975).
Cuộc chiến
Quốc-Cộng ở Việt Nam, xét cho cùng lý, là một cuộc chiến ủy thác giữa
các siêu cường, một trong những điểm nổ của thế “chiến tranh lạnh” giữa
hai khối Tư Bản và Cộng Sản (1947-1991). Trên cơ bản, nó là một cuộc
chiến “tiền đồn” mà sự thắng bại không có yếu tố quyết định đến đại thể.
Cuộc
chiến tiền đồn Việt Nam đã khởi đầu không do chính người Việt. Tham
vọng thực dân Pháp-Bri-tên đã bóp tắt mọi hy vọng cho nền hòa bình tại
bán đảo Đông Dương sau khi Thế chiến thứ hai (1939-1945) vừa chấm dứt.
Thủ tướng Winston Churchill của Bri-tên–tác giả thuật ngữ “bức màn sắt”
từ năm 1946–không chỉ cực lực chống đối kế hoạch Quốc tế quản trị
[International Trusteeship] cho Đông Dương của Tổng thống Franklin D.
Roosevelt (1933-1945) mà còn tiếp tay cho chính phủ Charles de Gaulle
(1944-1946) đặt một đầu cầu viễn chinh ở India để tái chiếm Đông Dương
từ năm 1944. Người kế vị của Churchill còn công khai cho liên quân
Pháp-Bri-tên đánh chiếm Sài Gòn từ cuối tuần 22-23/9/1945, và rồi ép
buộc tù binh Nhật tham gia vào việc mở rộng vùng kiểm soát suốt miền Nam
vĩ tuyến 16, đưa đến những cuộc tắm máu giữa hai phe Quốc-Cộng bản xứ.(
1) Trung Hoa, trong thời gian giải giới quân Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến
16, cũng góp phần vào việc đảng tranh tanh máu của người Việt. Nhưng phe
chống Cộng, dù nhân số thắng vượt, cuối cùng bị thua. Từ cuối năm 1946,
Đảng Cộng Sản Đông Dương [CSĐD]–dưới chiêu bài Việt Minh–giành được độc
quyền kháng Pháp. Vì lý do này hay lý do khác, phe chống Cộng phải
nương dựa vào Trung Hoa, Pháp, và rồi Liên bang Mỹ cho chính sự sinh tồn
của mình và gia đình; với hy vọng sẽ giành được độc lập một cách ôn
hòa. Chua chát là người Hoa hay Pháp đều có hậu ý riêng khi lập ra những
tổ chức chính trị hay các đơn vị tiền tiêu chống Cộng bản xứ. Qua các
thí nghiệm Nam Kỳ tự trị, Tây kỳ tự trị, hay Tây Bắc tự trị, v.. v… trên
thực tế người Pháp đã biến Việt Nam thành một xứ lâm chiến “phong kiến
mới,” với Pháp và Việt Minh thủ diễn vai trò hai đại lãnh chúa
[war-lords]. Từ năm 1948, Pháp khởi đầu thí nghiệm Bảo Đại (1913-1997),
hy vọng lấy bớt ngọn gió “độc lập” khỏi cánh buồm kháng chiến của Việt
Minh, và gom các sứ quân chống Cộng (Ki-tô, Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa
Hảo, Nùng, Thái, Rhadé, v.. v…) dưới lá cờ quốc gia của cựu hoàng Bảo
Đại để xin viện trợ Mỹ.( 2)
Chiến thắng của Mao Trạch
Đông tại Hoa lục trong hai năm 1948-1949 làm thay đổi hẳn cán cân quyền
lực tại Đông Dương. Hồ Chí Minh (1892-1969) và Việt Minh chẳng còn lựa
chọn nào khác hơn ngả về phía tân Quốc Tế Cộng Sản (Cominform) do Josef
V. Stalin cầm đầu, với sự phụ tá của Mao. Từ tháng 1/1950, Stalin ủy
thác cho Mao và Lưu Thiếu Kỳ [Liu Shaoqi] giúp đỡ Hồ thành lập các đại
đơn vị bản xứ và cung cấp cố vấn tới cấp Sư đoàn.( 3) Đối lại, các chính
phủ Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam–cung cấp
viện trợ cho Pháp tiếp tục tham chiến ở Đông Dương (NSC 68) sau ngày
chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Năm 1954-1955 chính phủ Dwight D.
[“Ike”] Eisenhower (1953-1961) còn trực tiếp can thiệp vào Nam Việt Nam,
quyết biến phần đất phía Nam vĩ tuyến 17 thành một “tiền đồn chống
Cộng” của Thế Giới Tự Do.
Với những người Việt chống
Cộng hay không Cộng Sản, đây là việc làm đáng ca ngợi. Từ năm 1950, sự
nhập cảng chủ thuyết Mao vào Bắc Việt–qua các đợt chỉnh cán, chỉnh quân,
cải cách ruộng đất–gây hoang mang, sợ hãi trong mọi giới. Chính các cán
bộ dày công kháng chiến cũng bị hạ tầng công tác, tù đày hay xử tử.
Hàng chục ngàn phú nông bị “đấu tố,” hành quyết hay tự vẫn. Hơn nửa
triệu giáo dân mang theo chuông nhà thờ và ảnh tượng thờ phụng từ Bắc
vào Nam, cùng khoảng hơn 200,000 người Lương, mong chờ một vận hội mới.
Nhưng dư luận thế giới cho rằng Mỹ đã vi phạm Hiệp định Geneva
20-21/7/1954 giữa Pháp và Việt Minh–Hiệp ước này qui định rằng sự phân
chia nước Việt thành hai vùng tập trung quân đội Bắc và Nam vĩ tuyến 17
chỉ có tính cách tạm thời, và vấn đề thống nhất sẽ được quyết định bằng
một cuộc tổng tuyển cử trong vòng hai năm.( 4)
Cơ
quan tuyên truyền của khối Cộng Sản đã khai thác triệt để khía cạnh bất
hợp pháp này của Mỹ–dù sau hậu trường chính trị, chính Viacheslav
Molotov và Chu Ân Lai (1898-1976) mở cửa cho việc phân chia Việt Nam
theo vĩ tuyến 17 trong một thời gian vô hạn định. Cả Mat-scơ-va và Bắc
Kinh đều khuyến khích Hà Nội nên dùng khẩu hiệu thống nhất đất nước theo
qui định của Hiệp ước Geneva như một chiêu bài chính trị và ngoại giao,
để củng cố miền Bắc theo chế độ chuyên chính vô sản (“dân chủ nhân dân”
hay “dân chủ tập trung”). Mat-scơ-va không đồng ý việc đánh chiếm miền
Nam. Bắc Kinh cũng đã tạm hài lòng với sự an toàn của cửa ngõ chiến lược
Đông Nam qua sự thành hình của một nhà nước hữu nghị ở Bắc Việt. Những
người cầm đầu Trung Nam Hải chẳng muốn có một cuộc chiến Triều Tiên thứ
hai; trong khi đại lục Trung Hoa còn ngổn ngang trăm ngàn khó khăn về
chính trị, kinh tế, xã hội.
Đó là chưa nói đến sự rạn
nứt khó tránh của cái gọi là khối Cộng Sản Quốc Tế, dựa trên chủ thuyết
Karl Marx–một chủ thuyết Tân Trung Cổ đã y cứ trên tư duy từ giòng lịch
sử phương Tây, đặc biệt là các nước đang kỹ nghệ hóa Âu châu, thiếu bề
rộng toàn cầu (như Mỹ châu, Á châu và Phi châu). Đồng thời, cũng thiếu
chiều sâu về các nền văn hóa nông nghiệp cổ thời và hiện trạng văn
hóa-xã hội-kinh tế của Á châu–những nền văn minh không Ki-tô. Bởi vậy,
thuyết của Marx bị Nga hóa thành Marxist-Leninism, rồi bị Hán hóa thành
tư tưởng Mao Trạch Đông (và, sau 1978, thêm vĩ ngữ “lý luận Đặng Tiểu
Bình”), trước khi bị sụp đổ tại các nước Đông Âu và Nga.
Sự
hiềm khích giữa Nga Sô và Trung Cộng ngày một trầm trọng từ khi Nikita
S. Khrushchev hạ bệ Stalin năm 1956 và chủ trương “sống chung hòa bình”
với khối Tư Bản. Tuy vậy, Bắc Kinh cũng chỉ muốn được sinh tồn, hiện đại
hóa Hoa Lục, đưa Trung Hoa lên hàng cường quốc Á châu, tránh những cuộc
đương đầu không cần thiết với Liên bang Mỹ. Bởi thế, Mao có lần đưa ra
“Mao ngữ” “cái chổi và đống bụi”–chổi chưa quét tới, đống bụi được nằm
yên. Mao và giới lãnh đạo Trung Cộng ngầm muốn cho Nam Việt Nam hưởng
tình trạng như Đài Loan hay Nam Hàn.
Pháp–phần vì
quyền lợi kinh tế và văn hóa, phần vì niềm bi phẫn bị ép buộc rời Nam
Việt Nam–và một số nước Á Phi không-liên-kết nghiêng thiện cảm về chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà [VNDCCH] ở Hà Nội.
Dĩ
nhiên, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn và giới lãnh đạo Đảng LĐVN không đành lòng
trước hiện trạng hai “nước” Việt Nam. Nhưng trong giai đoạn 1954-1958
phe Cộng Sản chỉ có thể giữ thế “phòng thủ chiến lược” ở miền Nam, trong
khi thực hiện những biện pháp củng cố uy quyền ở miền Bắc–qua 5 đợt cải
cách ruộng đất, hợp tác xã nông nghiệp, và công thương nghiệp. Cuộc đấu
tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Geneva, tức tổ chức tổng tuyển
cử để thống nhất đất nước, chỉ là những chiến dịch tuyên truyền cho có.
Tại
miền Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm không đủ khả năng thiết lập một chính
quyền mạnh. Trong hai năm 1954-1956, nỗ lực thu hồi quyền chỉ huy quân
đội và cảnh sát, song song với tham vọng tiêu diệt các sứ quân Bình
Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài, cùng các đảng phái chống Cộng, khiến họ Ngô
không thực hiện được những cải cách cần thiết tại mặt trận nông thôn–mặt
trận có tính cách chiến lược, sống còn của miền Nam.( 5) Ngay tại các
quận lỵ, tỉnh lỵ hay thị xã, thành phố, chế độ công an trị và giáo phiệt
của họ Ngô chỉ đủ khả năng kềm chế các thành phần chống hoặc không Cộng
Sản. Quốc sách diệt Cộng tương đối thành công ở miền Trung, trong khi
miền Nam hơn 10.000 cán bộ Cộng Sản (trong số 40,000 cán bộ được gài
lại) vẫn sống tiềm sinh tại các mật khu hay dưới các giả túc Bình Xuyên
và giáo phái.( 6)
Từ đầu năm 1959, tại Hội Nghị thứ
15 (mở rộng) Ban Chấp Hành TƯ Đảng LĐVN (khóa II) đã có nghị quyết thống
nhất đất nước (chiếm miền Nam bằng võ lực) và đưa miền Bắc “tiến lên”
xã hội chủ nghĩa. Theo báo Nhân Dân, Nghị quyết này ban hành ngày
13/5/1959, sau khi Hồ Chí Minh từ Bắc Kinh trở về. Thực ra, Hội nghị 15
đã nhóm họp từ ngày 12 tới 22/1/1959. (Hai Xứ ủy viên miền Nam là Nguyễn
Văn Xô và Phan Văn Đáng tham dự). Tiếp đó, tháng 3/1959, Bộ Chính trị
[BCT] Đảng LĐVN ra chỉ thị về việc tổ chức xây dựng căn cứ cách mạng ở
Cao nguyên Trung phần (Tây nguyên bao gồm miền rừng núi Liên khu V và
vùng Đông Bắc Nam bộ). Rồi cho thành lập các đơn vị vũ trang ở Quảng
Ngãi (3/1959), Bình Định (7/1959), Khánh Hòa, Phú Yên, v.. v… Đồng thời,
gia tăng cường độ các vụ khủng bố, ám sát viên chức xã, ấp tại quận Trà
Bồng, Quảng Ngãi của sắc dân Cor, Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long v.. v…. Ngày
7/5/1959, BCT cũng chỉ thị cho xứ ủy Nam bộ “Cần phát động một phong
trào đấu tranh chính trị rộng rãi trong quần chúng, đồng thời tùy từng
nơi, từng lúc ra sức phát triển hoạt động vũ trang tuyên truyền để đưa
địch vào thế thụ động, cô lập hơn nữa về chính trị.” (7)
Mãi
tới trung tuần tháng 5/1959, Đảng LĐVN mới có cơ hội để công bố chính
sách mới. Cơ hội thứ nhất là ngày 6/5/1959, chính phủ Ngô Đình Diệm ban
hành Luật 10/59 nhằm diệt Cộng và thiết lập tòa án quân sự lưu động để
xét xử cán bộ Việt Cộng. Toà Mặt Trận này có quyền chung thẩm; dùng Dụ
số 47 năm 1956 để trừng trị “Việt Cộng.” Ngay trong ngày 7/5/1959, Ban
Bí thư [BBT] Đảng LĐVN chỉ thị cho XUNB về những biện pháp đối phó với
Luật 10/59. Một tuần sau, ngày 14/5, Võ Nguyên Giáp cũng gửi điện văn
cho Ủy Ban Quốc tế Kiểm soát đình chiến phản đối Luật trên.( 8)
Cơ
hội thứ hai là đột biến chính trị ở Lào, một vương quốc trung lập, nơi
Hà Nội có ảnh hưởng lớn trên tổ chức Pathet Lào tức Neo Lao Hak Sat (Mặt
trận Yêu Nước Lào). Ngày 11/5/1959, Phoui Sananikone bắt giữ các lãnh
tụ Pathet Lào, kể cả Souphanouvong, Phoumi Vongvichit và Đại tá
Singkapo. Việc bắt giữ này đưa Kaysone Phomvihane lên cầm đầu Pathet
Lào. Rồi ngày 17/5, quân Pathet Lào rời Cánh Đồng Chum [Plaine de
Jarres] rút qua lãnh thổ Việt Nam, từ chối sát nhập vào quân đội Hoàng
Gia. Sau đó, phát động du kích chiến ở vùng Sầm Nưa, với sự giúp sức của
các “chuyên gia” Hà Nội. Chu Huy Mân và Trần Văn Trà (1919-1996) nhận
lãnh “nghĩa vụ quốc tế” của “Đoàn 100” và “Đoàn 959” [thứ nhất] trong
cuộc nổi loạn này.
Mặc dù Mat-scơ-va không đồng ý cho
Hà Nội tấn công miền Nam, và Bắc Kinh thì chỉ muốn Hồ Chí Minh “trường
kỳ mai phục,” Hà Nội vẫn làm ăn theo ý mình. Liên Sô và Trung Cộng miễn
cưỡng xuôi theo, tiếp tục viện trợ cho Hà Nội để gây thiện cảm giữa lúc
rạn nứt giữa Mat-scơ-va và Bắc Kinh ngày càng trầm trọng, và tránh tiếng
thiếu tinh thần nghĩa vụ quốc tế.( 9)
Cách nào đi
nữa, từ tháng 5/1959, Thượng tá CS Võ Bẩm được lệnh lên đường vào Nam,
khai mở đường giây liên lạc, sau này được biết như Binh Đoàn 559. Bẩm
người Quảng Ngãi, trước đó đã được Trần Lương, Bí thư Khu V, và Tướng
Nguyễn Văn Vịnh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thống Nhất, giao nhiệm vụ chuyển
thuốc men và một số súng đạn cho Khu V. Qua tháng 7/1959, Hà Nội còn tổ
chức một đường giây hải thuyền 759 hay 125 để chuyển vận khí giới vào
Nam dọc theo duyên hải.
Từ tháng 11/1959, Xứ Ủy Nam
Bộ và Khu V (Trung bộ) bắt đầu phát động chiến dịch “khởi nghĩa” hay
“đồng khởi” khắp miền Nam (Nghị quyết 4). Những ngày gần Tết Canh Tí
(1960) chính phủ Ngô Đình Diệm bị choáng váng vì những đợt đột kích của
Cộng Sản khắp nơi, từ Cà Mau tới Bình Dương. Chấn động dư luận nhất là
cuộc đột nhập Bộ Chỉ huy Trung đoàn 32 của Sư đoàn tân lập 21 (nguyên là
Trung đoàn 39, Sư đoàn 13 Khinh chiến) ở Trảng Sụp, Tây Ninh đêm 25
rạng 26/1/1960. Khoảng 200 VC vượt các trạm gác, xuyên qua doanh trại
các Tiểu đoàn. Giao tranh diễn ra trong khoảng 1 tiếng đồng hồ. 23 quân
nhân VNCH chết, 43 bị thương, mất một số lớn vũ khí trong kho (2,000).
Bộ Chỉ huy Trung đoàn, hai doanh trại bị phá hủy và 4 doanh trại khác bị
hư hại. (10)
Chiến lược của Cộng Sản thời gian này
là lập căn cứ, đấu tranh võ trang ở vùng rừng núi, đấu tranh chính trị
và bán quân sự ở nông thôn, và đấu tranh chính trị tại các thị trấn và
thành phố. Những hành vi khủng bố, ám sát viên chức hành chính và an
ninh cấp thôn, xã ngày một gia tăng. “Phiến Cộng” cũng không ngừng đánh
phá các trung tâm dinh điền hay Khu Trù Mật ở cao nguyên Trung phần và
miền Tây đồng bằng Cửu Long, kể cả việc sử dụng “đạo quân tóc dài.” “Bức
tường người” của Ngô Đình Diệm xây dựng từ năm 1955-1956 bị lung lay
tận rễ gốc. Tuy nhiên, Hà Nội vẫn giữ bề ngoài hợp pháp; chờ đợi thời
cơ. (11)
Tình hình suy thoái an ninh miền Nam khiến
viên chức Mỹ không ngớt báo động về Oat-shinh-tân. Thêm vào đó, sự bất
mãn và chống đối chính phủ ngày một gia tăng. Tại Sài Gòn, chế độ bị
choáng váng vì một bức tranh bìa đặc san Xuân nhật báo Tự Do–tờ báo chịu
ảnh hưởng của Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội của Trần Kim Tuyến.
Chẳng hiểu họa sĩ Phạm Tăng muốn vẽ gì mà được diễn dịch thành “6 con
chuột đang gậm nhấm trái dưa hấu Việt Nam;” và người ta liền truyền tụng
rằng 6 con chuột đó tiêu biểu anh chị em họ Ngô. Hai tháng sau, thêm
một trái bom chính trị nổ tại Sài Gòn, tức Bản kháng thư (manifesto)
phản đối chế độ độc tài Ngô Đình Diệm được phân phối trong cuộc họp báo
của 18 nhân vật tên tuổi tại khách sạn Caravelle ngày 26/4/1960. Hầu hết
các chính khách này từng hợp tác với chế độ.( 12)
Tháng
9 năm 1960, tại Đại hội thứ III của Đảng LĐVN, Hồ Chí Minh và Bộ Chính
Trị lại ra nghị quyết “giải phóng miền Nam bằng võ lực.”( 13) Theo tuyên
truyền của Hà Nội, miền Nam đã trở thành thuộc địa của đế quốc Mỹ, và
đánh chiếm miền Nam là cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước,” một cuộc
thánh chiến giải phóng. Chính quyền chống Cộng miền Nam bị hạ giá thành
“Ngụy quyền,” “ tay sai đế quốc Mỹ.” Vì áp dụng triệt để lẽ phải của
họng súng, Hà Nội chẳng cần nhắc nhở gì đến những mưu toan chiến lược
của Trung Cộng và Nga Sô, mà chỉ ca ngợi Nga Sô và Trung Quốc vĩ đại,
nhiệt liệt hoan hô bất cứ ai đang cầm quyền ở hai nước đàn anh, không
tiếc lời “ngàn đời nhớ ơn” viện trợ của “phe ta.”( 14) Và, dĩ nhiên,
luôn luôn có thành kiến tiên thiên: Bất cứ ai chống lại chủ thuyết Cộng
Sản đều là phản động, phản cách mạng, phải ngừng hiện hữu.
Nghị
quyết của Hà Nội năm 1960 và tình hình suy thoái an ninh ở miền Nam
khiến Đại sứ Elbridge Durbrow phải đề nghị với Oat-shinh-tân áp lực Tổng
thống Diệm cải cách chính trị, kể cả việc nghiên cứu cho hai vợ chồng
Cố vấn Ngô Đình Nhu rời nước và giải tán hoặc ra công khai Đảng Cần
Lao.( 15) Nhưng ngọn lửa tiếp sức cho Nghị quyết trên là cuộc đảo chính
hụt của Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến trong hai ngày 11-12/11/1960.
Đúng lúc cuộc đảo chính vừa diễn ra ở Sài Gòn, Bộ Chính Trị Đảng LĐVN
quyết định cho Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam [MTDTGPMN] ra công
khai.( 16)
Mặc dù là con đẻ của Đảng Cộng Sản, tổ
chức đại chúng này (giống như tổ chức Việt Minh hay Liên Việt) lôi kéo
được một số người không Cộng Sản, nhưng chán ghét hoặc là nạn nhân của
chính phủ.( 17) Chính vì thế đã có nhiều người cả đoan rằng cuộc xâm
lăng miền Nam của Cộng Sản chỉ là “cuộc nội chiến” giữa những phe phái
miền Nam.( 18)
Nhờ có cán bộ và khí giới xâm nhập từ
miền Bắc, và sự chỉ đạo chặt chẽ từ Hà Nội, tổ chức MT/GPMN ngày một lớn
mạnh. Cơ cấu hành chính nông thôn của chính phủ Diệm ngày một suy sụp.
Năm 1960, tỉnh trưởng Vĩnh Long là Khưu Văn Ba bị ám sát. Năm sau, tỉnh
trưởng Phước Thành bị đấu tố ngay giữa nhà lồng chợ trước khi bị treo
cổ. Chiến trận rộ lên ở vùng cao nguyên vào đầu mùa khô 1961, khiến
chính phủ Ngô Đình Diệm phải tuyên bố tình trạng lâm nguy, kêu gọi Thế
Giới Tự Do cứu giúp–và chính Diệm ngầm yêu cầu Liên bang Mỹ gửi quân tác
chiến vào Nam. Tuy nhiên, trước sự chống đối của dư luận Mỹ và thế
giới, chính phủ John F. Kennedy (1961-1963) chỉ hứa sẽ giúp Việt Nam
bằng mọi phương tiện, ngoại trừ việc trực tiếp tham chiến. Quyết định
này của Kennedy tạo nên những căng thẳng trong liên hệ Mỹ-Việt vào cuối
năm 1961, và báo chí Sài Gòn–theo lệnh của Ngô Đình Nhu–mở một chiến
dịch bài Mỹ xâm phạm chủ quyền và nền độc lập của miền Nam. Dẫu vậy,
cuối cùng, hai bên đồng ý thực hiện “kế hoạch chống phản loạn” [CIP],
với điều kiện Mỹ ngưng đòi hỏi Tổng thống Diệm cải cách về chính trị. Từ
cuối năm 1961, miền Nam bắt đầu kế hoạch bình định nông thôn qua việc
chấn chỉnh các khu trù mật và dinh điền cũ thành những thí điểm “xóm
chiến đấu” ở Tây Ninh, Quảng Ngãi và Vĩnh Long, theo nguyên tắc “vết dầu
loang” [oil spot]. Tiếp đó, tháng 3/1962, chính phủ phát động quốc sách
Ấp Chiến Lược [ACL], theo kế hoạch của Robert [“Bob”] Thompson, một
chuyên viên chống phản loạn Bri-tên. Tuy nhiên, đã qua trễ. Cộng Sản tìm
mọi phương cách bẻ gãy quốc sách ACL–qua việc tấn công, phá vỡ các ACL
bằng quân sự, chính trị và binh vận–đồng thời gia tăng xâm nhập cán binh
từ Bắc.( 19)
Cuộc đánh bom Dinh Độc Lập vào tháng
2/1962, rồi đến cuộc đảo chính 1/11/1963 và những năm tháng hỗn loạn
chính trị sau đó–với nhiều cuộc đảo chính, chỉnh lý, xuống đường biểu
tình ở các thị xã và tỉnh lÿ lớn, và nhất là mối hiềm khích giữa Phật tử
với giáo dân Ki-tô trong hai năm 1964-1966(20)–khiến từ năm 1964 chính
phủ Lyndon B. Johnson quyết định oanh tạc trả đũa miền Bắc, và rồi đưa
quân tác chiến Mỹ vào Nam Việt Nam để cứu vãn tình thế. Lê Duẩn không
chịu lùi, quyết leo thang “tiến công,” xâm nhập từng đại đơn vị chính
qui vào Nam. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), Ủy viên Bộ Chính
Trị, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị, được giao quyền chỉ huy khoảng
200,000 bộ đội “sinh Bắc tử Nam” để chống lại “cuộc chiến cục bộ” (tự
giới hạn) của Mỹ. Vào Nam (“đi B”) từ mùa Hè 1964, Nguyễn Chí Thanh được
chỉ định làm Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam (mới được tái lập, hoạt
động dưới danh nghĩa Đảng Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam trong MT/ GPMN),
kiêm Chính ủy B-2.
Sau ngày Thanh vào Nam, tổ chức lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17–với hai chiến trường B-1 và B-2 từ năm 1961–cũng thay đổi.
“B-2”
gồm 5 tỉnh phía Nam Trung bộ và toàn miền Nam, chia làm 4 Quân Khu: Khu
6 (Nam Trung bộ), Khu 7 (Đông Nam bộ), Khu 8 (Trung Nam bộ) và Khu 9
(Tây Nam bộ), cùng Đặc khu Sài Gòn/Gia Định (T-4).
Khu
V (B-1) chia ra làm hai: “B-1,” gồm 8 tỉnh duyên hải miền Trung, từ
Quảng Trị vào Khánh Hòa; “B-3,” tức Mặt Trận Tây Nguyên gồm 3 tỉnh
Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột, với Nguyễn Chánh làm Tư lệnh, Đoàn Khuê
làm Chính ủy. Tháng 9/1965, Chu Huy Mân làm Tư lệnh kiêm Chính ủy B-3.
Tháng 4/1966, lập thêm Quân khu Trị-Thiên (B-4), do Lê Chưởng làm Tư
lệnh kiêm Chính ủy. Hai tháng sau, 6/1966, lập Mặt Trận Đường 9 (tức
B-5), do Vũ Nam Long (Đoàn Văn Ưu, 1921-?) làm Tư lệnh; Nguyễn Xuân
Hoàng, Chính ủy.
Mặt Trận Tây Nguyên, trực thuộc Bộ
Tổng Tham Mưu ở Hà Nội, là nơi hoạt động của các đơn vị từ Bắc xâm nhập.
Cuối năm 1967, “B-3” có hai đại đơn vị Nông trường 1 (SĐ 1) và Nông
trường 10 (SĐ 325B), cùng Trung đoàn 24, các đơn vị pháo, phòng không,
quân y, vận tải, v.. v…
Các đơn vị vũ trang tại các
quân khu khác cũng được tổ chức lên cấp sư đoàn (công trường): Sư Đoàn
2, Sư Đoàn 3 “Sao Vàng” thành lập ngày 2/9/1965 tại Bình Định (Quân khu
5); Tư lệnh, Giáp Văn Cương; Chính ủy, Đặng Hòa; Sư Đoàn 9 thành lập
ngày 2/9/1965 tại Phước Thành, Bình Long; tham gia chiến dịch Dầu Tiếng
(1965); Tư lệnh, Hoàng Cầm; Chính ủy, Lê Văn Tưởng; Sư Đoàn 5 thành lập
ngày 23/11/1965 tại Bà Rịa (Căn cứ Mây Tầu); Tư lệnh, Nguyễn Hoà; Chính
ủy, Lê Xuân Lựu; Sư Đoàn 7 thành lập ngày 13/6/1966 tại Phước Long; tư
lệnh, Nguyễn Hòa; Chính ủy, Dương Cự Tẩm.
Thanh áp
dụng chiến lược đã quen thuộc của Mao Trạch Đông: Lấy nông thôn bao vây
thành thị cho tới lúc ung thối, rồi sẽ dứt điểm.( 21) Nhưng đối thủ của
Thanh là William C. Westmoreland, một cựu Tướng Nhảy Dù. Ngoài ra, còn
có cả một đạo quân cơ giới tối tân bậc nhất thế giới. Đó là chưa nói đến
oanh tạc cơ chiến lược B-52 (lần đầu tiên yểm trợ chiến thuật tại Bến
Cát ngày18/6/1965) mà chỉ những bộ đội “sinh Bắc tử Nam” mới đầy đủ kinh
nghiệm nói về mức tàn phá. Bởi thế, bày ra trận đánh nào, Thanh thua
trận đó–từ Đức Cơ (Pleiku, 8/1965), An Khê (9/1965), tới Pleimei
(10/1965), Ia Drang (10-11/1965), Ia Drang 2 (Sa Thầy, 10-12/1966), Tây
Ninh (11/1966), v.. v…
Với chiến lược “truy diệt
[search-and-destroy],” Westmoreland đã có thể tảo thanh cả những chiến
khu bất khả xâm phạm trong giai đoạn 1945-1954: Tam Giác Sắt, Chiến khu
C, Chiến khu D (chiến dịch Cedar Falls, Junction City, v… v…).
Song
song với chiến lược “truy diệt” này là một chương trình bình định (xây
dựng) nông thôn. 54 tiểu đoàn chính qui VNCH, kể cả Nhảy Dù và Thủy Quân
Lục Chiến, được giao nhiệm vụ yểm trợ cho 555 toán cán bộ Xây Dựng Nông
Thôn bình định và cải tổ dần từng thôn ấp. Trên lý thuyết, đây là một
chiến lược lý tưởng nhất: sử dụng hơn 500,000 quân Mỹ và Đồng Minh để bẻ
gẫy các lực lượng chính qui Cộng Sản, trong khi thanh lọc dần những cán
bộ hạ tầng Cộng Sản, theo chính sách vết dầu loang. Trên thực tế, dẫu
có nhiều khiếm khuyết–như lãnh đạo yếu kém, tệ nạn phe đảng, tham nhũng,
hối lộ tràn lan–“kế hoạch hai gọng kìm” này khiến chính quyền miền Nam
ngày thêm vững mạnh. (22) Ít nữa, cũng vững mạnh hơn giai đoạn “kiêu
binh” 1963-1966. Đồng thời, chính phủ Johnson bắt đầu hợp hiến hoá chế
độ miền Nam; đưa Nam Việt Nam trở lại tình trạng một quốc gia có hiến
pháp (1/4/1967), quốc hội, v.. v…
Từ tháng 5/1967,
Nguyễn Chí Thanh có ý định thay đổi chiến lược: đưa chiến tranh vào
thành phố để gỡ rối cho hạ tầng cơ sở nông thôn. Thanh muốn tung ra
những đợt đột kích kéo dài ít ngày, rồi triệt thoái. Nhưng cái chết đột
ngột của Thanh vào mùa Thu 1967 khiến Hà Nội–đúng hơn, Lê Duẩn, Lê Đức
Thọ và Văn Tiến Dũng–cải tiến kế hoạch đột kích thành phố và thị xã
thành một cuộc Tổng Tấn Công. Có lẽ vào thời gian này, yếu tố “ngoại
giao” hay “mặt trận chính trị” mới được thêm vào, giúp kế hoạch “Tổng
Tấn Công” hay “Tổng Công Kích” có kích thước lớn lao hơn.( 23)
Sự
thay đổi chiến lược này được thực hiện trước tiên bằng việc tăng cường
nhân sự cho miền Nam. Phạm Hùng (Phạm Văn Thiện, 1912-1988), một cộng sự
viên đắc lực của Lê Duẩn trong thời chiến tranh Pháp-Việt ở miền Nam,
Ủy Viên Bộ Chính Trị, được chỉ định làm Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam,
kiêm Bí Thư “B-2”. Hoàng Văn Thái (tức Xiêm, 1915-1986), tay chân thân
tín của Giáp, vào nắm toàn bộ lực lượng võ trang B-2. Vũ Nam Long (Đoàn
Văn Ưu, sinh 1921) được điều từ Quân Khu IV Bắc Việt vào Đặc khu
Trị-Thiên (B-4) (thành lập từ tháng 4/1966) để phụ tá Trần Văn Quang.
Tiếp
đến việc cải tổ khu vực lãnh thổ Huế và Sài Gòn. Đồng thời, để gây
tiếng vang và nhắm mục đích kéo quân Mỹ ra xa các thành phố, Cộng Sản mở
năm mặt trận lớn: Trận Cồn Tiên ở vùng vĩ tuyến 17 từ cuối tháng 6/1967
tới tháng 9/1967; trận Lộc Ninh (Phước Long) ở gần biên giới Miên từ
27/10 tới 5/12/1967; trận Dak To (Kontum) (11/1967); và, đặc biệt, chiến
dịch Khe Sanh-Đường 9 sát ranh giới Lào từ ngày 20/1 tới 15/7/1968. Mặc
dù các đơn vị CSBV thiệt hại nặng nề, quyết tâm đánh lớn, đánh lâu của
Cộng Sản khiến các chiến lược gia Đồng Minh và VNCH phải gợi nhớ đến bài
học quân sử Điện Biên Phủ (1954).( 24) Chính vì thế, mặc dù phát hiện
nhiều bằng chứng khả tín, ít ai tiên đoán được, hoặc công khai cảnh cáo
dư luận thế giới về một cuộc Tổng Tấn Công trên toàn lãnh thổ miền
Nam–một cuộc tự sát tập thể (kamikaze) trông thấy trước mắt.( 25)
Cho
đến hiện nay, Hà Nội vẫn chưa công bố hết động lực khiến Lê Duẩn, Lê
Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng đã có quyết định
lạ lùng trên. (Vai trò của Hồ Chí Minh trong lối đánh “cách mạng” kiểu
Việt Nam này còn là một dấu hỏi: Ở số tuổi 76, thường xuyên đau yếu,
sống tại Hoa Nam nhiều hơn Hà Nội đang “sơ tán”, Hồ có tiếng nói nào
chăng?)
Theo nội dung bài nói chuyện của Lê Duẩn tại
Hội nghị TW lần thứ 14, vào đầu năm 1968, CSBV đã “mạnh hơn” Mỹ và Đồng
Minh về phương diện quân sự. Mặc dù về quân số, tỉ lệ là 3/1, nhưng lực
lượng cơ động Cộng Sản 2, phe Mỹ và Đồng Minh chỉ có 1. Duẩn khẳng định:
“Địch chưa bao giờ diệt ta một đại đội [sic]; Ta diệt từng tiểu đoàn
địch.” “Về quân sự nó thua rồi.” Bởi thế phải nắm lấy “thời cơ,” tiến
công (Tổng tấn công) theo đúng lời Karl Marx và Lenin chỉ dạy: “Cách
mạng là tiến công; không tiến công là thất bại.”
Trong
khi đó, những chuyển biến chính trị trong hai năm 1966-1967 cho thấy
chế độ miền Nam sắp suy sụp, Cộng Sản sẽ thay Phật Giáo làm chủ tình
hình chính trị các tỉnh lỵ và thị xã. Duẩn giải thích thêm: Từ khi Phật
Giáo thất bại (“tự thiêu là bạo lực”), “quyền lãnh đạo thuộc về ta;” Sài
Gòn có vài ba vạn [20,000-30,000] đảng viên đang nằm im; “Ta làm chủ Đà
Nẵng 70 ngày;” “cuối năm 1967, ta đã chỉ đạo quần chúng đô thị;” “Quần
chúng đã chín muồi, muốn nắm chính quyền;” “hầu hết đô thị đều sôi nổi,
coi như bây giờ không có con đường nào khác, phải khởi nghĩa, phải đánh
đổ Mỹ.” Vấn đề quan trọng là “làm sập chính quyền của nó;” “phải phá
hết, phá rất dữ hậu cứ của nó;” “Phải chuyển qua tổng công kích, tổng
khởi nghĩa.” Mỹ thua, sẽ phải ngồi vào bàn hội nghị.
Rồi
Duẩn hy vọng “300,000 người Sài Gòn cầm súng đánh Mỹ;” “Ta mạnh lên,
chúng vọt xuống;” “tất cả các lực lượng phản chiến sẽ ngả về ta.” Duẩn
cũng nhấn mạnh: Tổng tấn công là “một chiến dịch”, “một giai đoạn”, 3
tháng, 6 tháng, còn kéo dài. Và tiết lộ “đã bàn với TWC;” “thấy nhu cầu
của quần chúng thực sự, nguyện vọng quần chúng thực sự;” “Ta không bàn
với ai, bí mật lắm.” Chủ trương lớn, đã đề ra từ nghị quyết 11, 12 [năm
1965]; Duẩn từng nói với Lưu Thiếu Kỳ và Leonid Brezhnev. “Ta khởi đầu,
ta sẽ kết thúc. Độc lập, không nghe ai cả.” (26)
Trung
tướng Trần Độ–tức Tạ Ngọc Phách (1923-2002), Phó Chính ủy B-2, người
được giới tình báo, truyền thông phong (một cách lầm lẫn) là cấp chỉ huy
của mặt trận Sài Gòn–tiết lộ với một ký giả vào năm 1981 rằng Cộng Sản
tin tưởng có thể thắng lợi, chiếm giữ được một số thành phố. Riêng về
phản ứng chính trị ở Mỹ chỉ là điều may mắn, không trù liệu trước.( 27)
Nhận xét này phản ánh nội dung bài nói chuyện dẫn trên của Lê Duẩn. Tuy
nhiên, còn quá ít tài liệu để phán xét mức độ sâu sát của lời chứng
trên. Dù ở cương vị Phó Chính Ủy B-2 chưa hẳn Trần Độ biết rõ hết những
lý do thầm kín của cuộc Tổng Tấn Công-Tổng Khởi Nghĩa Mậu Thân 1968.
Y
sĩ Dương Quỳnh Hoa–một cán bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, từng bí mật
vào Sài Gòn “công tác” trong trận Mậu Thân, và có chân trong Chính phủ
Lâm thời Cộng Hòa miền Nam– cũng than van, vào năm 1981, rằng Hà Nội đã
“tính toán sai lạc” một cách thảm hại, khiến suy yếu cuộc nổi dậy ở miền
Nam (Karnow 1984:545). Giống như trường hợp Trần Độ, nhận xét này phần
nào hữu lý, nếu chỉ dựa trên những lời tuyên bố của Lê Duẩn tại Hội nghị
trung ương thứ 14; đặc biệt là “nguyện vọng” nổi dạy lật đổ chính quyền
của dân chúng miền Nam (Tổng Khởi Nghĩa).
Y sĩ Hoa,
cùng nhiều thành viên MT/GPMN, cũng hàm ý rằng Hà Nội đã nhân cơ hội Mậu
Thân làm suy yếu lực lượng võ trang của MT/GPMN, hầu có thể chi phối
hoàn toàn tình thế. Từ Hội nghị 14 (khóa III), Hà Nội đã dự trù cho khai
sinh một Măt Trận II, chuẩn bị thành lập một chính phủ trung ương lâm
thời cho miền Nam Việt Nam, với những khuôn mặt mới mẻ hơn, kể cả vài
khuôn mặt thân Pháp.( 28)
Tuy nhiên, nếu khách quan
phân tích, khi tung ra cuộc tự sát tập thể Mậu Thân 1968, Hà Nội đã nhắm
vào ba mục tiêu chính: gỡ rối về quân sự, mở mặt trận chính trị ở quốc
ngoại, và làm suy yếu tiềm lực chống Cộng của thị dân miền Nam.
Một
trong những mục đích chính của Hà Nội nhằm khích động tinh thần cán
binh. Như chúng ta đã biết, từ năm 1965, cường độ các trận đánh giữa
Cộng quân và lực lượng Đồng Minh ngày thêm gia tăng. Số tổn thất của
Cộng Sản về phi pháo rất cao.( 29) Đáng lưu ý hơn nữa là cái chết của
Nguyễn Chí Thanh vào mùa Thu 1967.( 30)
Trong khi đó,
kế hoạch phong tỏa kinh tế và những cuộc hành quân bình định của
VNCH–do 555 toán Xây Dựng Nông Thôn phụ trách dưới sự bảo vệ của các đơn
vị chủ lực, cùng tài trợ, cố vấn của Bộ Tư lệnh MACV và các nha sở liên
hệ, dưới sự phối hợp của Robert W. Komer–khiến tinh thần cán binh Cộng
sản xuống rất thấp.( 31) Số cán bộ hồi chính ngày một lên cao (20,242
cho cả năm 1966, 13,551 người trong 4 tháng đầu năm 1967, và lên tới
trên 27,000 cho trọn năm). (The Pentagon Papers (Gravel), I:15) Tình
trạng “lạc ngũ”–tức bỏ đơn vị, lang thang trong rừng–cũng xuất hiện.
Đánh vào thành phố, bởi thế, là đi vào cửa chết để tìm cái sống.
Trước
hết, tấn công vào các thành phố sẽ khiến Đồng Minh và quân VNCH phải
cắt giảm các cuộc hành quân truy diệt, rút về thế thủ, bảo vệ các vòng
đai an ninh. Các đoàn Xây Dựng Nông Thôn sẽ mất lực lượng quân sự yểm
trợ, dễ bị thanh toán. Lực lượng Nghĩa quân (Dân vệ) hay Địa Phương quân
(Bảo An) cũng bị xuống tinh thần. Tại vùng IV, chẳng hạn, khoảng 400
tiền đồn đã rút lui không một tiếng súng kháng cự trong dịp Tết Mậu
Thân. Những viên chức hành chính địa phương cũng mất điểm tựa cần thiết.
Các cơ sở nông thôn của CS sẽ có cơ hội khôi phục.
Dĩ
nhiên, một cuộc tấn công qui mô như thế phải tổn thất lớn lao về nhân
mạng và vũ khí.( 32) Chưa tài liệu CS nào cho biết yếu tố tổn thất có
được nghiên cứu hay chăng. Sự im lặng này–dù đã gần 40 năm trôi
qua–chứng tỏ sự nhẫn tâm của giới lãnh đạo Cộng Sản: Chẳng những thản
nhiên ném hơn 80 chục ngàn cán binh vào tử địa–mà một số không nhỏ còn
dưới 18 tuổi–Lê Duẩn, Lê Đức Thọ cùng các cán bộ cao cấp còn lừa bịp họ
là nhất định sẽ chiến thắng, giải phóng trọn vẹn được miền Nam, dân
chúng các đô thị đang trông chờ họ, và nhất định sẽ có tăng viện cho các
đoàn quyết tử tiền phong. Ba tiếng “Tổng Khởi Nghĩa” được điền thêm vào
kế hoạch Tổng Tấn Công nguyên thủy có lẽ phần nào mục đích tác động
(động viên) tinh thần này, hơn thực tâm tin tưởng rằng CS đủ khả năng
lật đổ chế độ có vẻ suy yếu sau nhiều biến loạn chính trị tại miền Nam
từ năm 1963. Lê Minh, người chỉ huy mặt trận Huế, cũng thú nhận và ngầm
chỉ trích dã tâm bịp bợm cán binh cùng sách lược thí quân của Hà Nội.
Song
song với ý niệm thí quân để giải tỏa áp lực của Đồng Minh tại nông
thôn–nguồn cung cấp tài nguyên nhân, vật lực–là một mặt trận ngoại giao
vừa hé mở.
Từ năm 1962, đã bắt đầu có những cuộc tiếp
xúc bí mật giữa Mỹ và Bắc Việt. Chiều ngày 22/7/1962, nhân dịp ký Hiệp
ước về Lào, Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm gặp W. Averell Harriman tại khách
sạn Hotel Suisse, Geneva. Harriman cho Khiêm biết rằng Kennedy đã quyết
định tăng viện cho Nam Việt Nam vì cuộc chiến tranh du kích tại miền
Nam do miền Bắc điều khiển (bằng chứng là báo cáo của UBQT/KSĐC), và Mỹ
sẽ chấm dứt sự hiện diện quân sự nếu Hà Nội trở lại tình trạng Hiệp định
Geneva qui định. Khi Khiêm biện bạch đây thuần chỉ là cuộc nổi dạy của
dân chúng miền Nam, không hề có lính miền Bắc tham chiến, Harriman nói
không muốn thảo luận nhiều về vấn đề này, và tuyên bố sự can thiệp của
Mỹ chỉ chấm dứt khi nào Bắc Việt ngừng xâm lăng miền Nam. Từ ngày này,
có nhiều nỗ lực bí mật của phe “chủ hòa” miền Bắc, qua trung gian nhiều
chính phủ và tổ chức–đặc biệt là Liên Sô Nga, Liên Hiệp Quốc, Pháp và
Vatican–để tìm giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, mãi tới đầu năm 1967, Phó
Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Nguyễn Duy Trinh mới nêu lên điều kiện để
hòa đàm: ngưng oanh tạc Bắc Việt và triệt thoái quân viễn chinh Mỹ khỏi
Việt Nam vô điều kiện. (33)
Ngày 8/2/1967, TT Johnson
viết thư cho Hồ Chí Minh, và được phúc đáp tương tự. Bảy tháng sau,
ngày 26/9, Johnson đồng ý ngưng oanh tạc có điều kiện (thường được biết
như Phương thức San Antonio). Cuối năm 1967, sau những chuyến xuôi ngược
của đại diện Vatican giữa Roma và Hà Nội (Johnson 1971:268-269), Trinh
lại thêm một lần đề cập đến vấn đề “điều kiện” hòa đàm. Cơ hội cho hòa
đàm đã hé mở.
Tuy nhiên, hòa đàm ở thế nào, mạnh hay
yếu? Muốn thắng lợi ở bàn hội nghị, cần mạnh ở chiến trường. Hoặc, phải
tạo được chứng cớ để thổi phồng sức mạnh của mình ở chiến trường. Thực
tế, về trang bị, vũ khí hay khả năng tác chiến, CSVN khó thể đương đầu
một đạo quân hùng mạnh, cơ giới tối tân như lực lượng Mỹ và Đồng Minh.
Dẫu vậy, đạo quân Mỹ cũng có nhược điểm: cần một thời gian khá dài để ổn
định tình hình, và nhiều quân số hơn nữa để chiến thắng. Nhưng Johnson
từng tuyên bố cuộc tham chiến của Mỹ sẽ ngắn hạn, ánh sáng ở cuối đường
hầm không xa, và để chiến thắng tổng số quân Mỹ cần thiết chỉ lên tới
525,000 người vào giữa năm 1968. Đáng lo hơn nữa, cứ bốn năm nước Mỹ có
một cuộc tranh cử Tổng Thống cùng một nửa số ghế trong Thượng Viện; và,
một Tổng Thống chỉ có thể giữ chức vụ tối đa trong hai nhiệm kỳ, tức 8
năm.
Đó là chưa nói Việt Nam–ngoài công dụng ngăn
chặn sự bành trướng ảnh hưởng của Liên Sô xuống vùng Đông Nam Á–chẳng có
gì quyến rũ. Mỹ tiếp tục giữ quân chiến đấu ở Việt Nam phần lớn vì niềm
kiêu hãnh của một siêu cường, vì an ninh, thịnh vượng chung của toàn
vùng Đông Nam Á, và vì những cuộc bầu cử tại chính nội địa Mỹ–tức không
một Tổng thống hay một chính đảng nào, dù Dân Chủ hay Cộng Hòa, muốn đi
vào lịch sử như đã bại trận tại Việt Nam–hơn quyết tâm biến miền Nam
Việt Nam thành một tiền đồn đích thực của tự do, dân chủ. Nói cách khác,
mục đích chính của Mỹ là nhằm ngăn chặn sự bành trướng của khối Cộng
Sản xuống vùng Đông Nam Á, và như một hệ luận, chỉ muốn có một chính phủ
“thân hữu” ở miền Nam, tức một tiền đồn chống Cộng.
Cuộc
tấn công của Cộng Sản vào Sài Gòn, Huế và các thành phố miền Nam có lẽ
còn nhằm mục đích ngoại giao này. Từ tháng 1/1967, Bộ Chính trị, Quân ủy
TW và rồi Hội nghị TW lần thứ 13 (khóa III) đã quyết định chấp nhận vừa
đánh, vừa đàm–mở đường cho tuyên ngôn của Nguyễn Duy Trinh ngày
27/1/1967. Tháng 6/1967, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (thứ nhất),
Lê Duẩn đã công bố quyết định tổng tấn công để khai thác cuộc tranh cử
năm 1968 tại Mỹ.( 34) Những nỗ lực dàn xếp một giải pháp chính trị của
nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế–kể cả Liên Sô, Pháp, Vatican và đường
giây “Pennsylvania” của Kissinger-Sainteny (hay Aubrac-Mai Văn Bộ)–khiến
Hà Nội chưa có quyết định dứt khoát. Cái chết của Nguyễn Chí Thanh cũng
có thể là một yếu tố gây nên sự đình trễ này.
Hiện
chưa đủ tài liệu để xác định vai trò Trung Cộng hay Liên Sô Nga trong
cuộc Tổng Tấn Công 1968. Theo Lê Duẩn, kế hoạch Tổng tấn công được hoàn
toàn bảo mật, và là quyết định riêng của Bộ Chính Trị. Tuy nhiên, chính
sách đối với Mỹ của hai đàn anh trong khối Cộng Sản (hay Xã Hội Chủ
Nghĩa, nếu muốn) ít nhiều ảnh hưởng đến quyết định của Hà Nội. Tưởng
cũng nên lược thuật qua thế “một cổ hai tròng” của Hồ Chí Minh và Lê
Duẩn trong giai đoạn 1954-1967 để có thể phân tích sâu sát hơn vai trò
của Mat-scơ-va và Bắc Kinh.
Từ năm 1954, và nhất là
sau khi Nikita S. Khrushchev lên chức Bí thư thứ nhất năm 1957, điện
Kremli phát động chính sách sống chung hoà bình. Tháng 10/1959, khi thăm
Bắc Kinh, Khrushchev đề nghị Mao không nên dùng võ lực để trắc nghiệm
sự vững chãi của chế độ tư bản. Bắc Kinh, từ Hội nghị Geneva 1954, và
rồi Hội nghị Bandung 1955, cũng khẳng định lập trường sống chung hòa
bình. Nhưng sau khi Khrushchev hạ bệ Stalin năm 1956, rạn nứt bắt đầu
giữa hai đàn anh khối Quốc Tế Cộng Sản. Tháng 4/1960, Nhân Dân Nhật Báo
[Renmin Ribao] đăng bài “Chủ thuyết Lenin vạn tuế,” gián tiếp tấn công
Khrushchev. Từ đó, những cuộc trao đổi lời nhục mạ không ngừng leo
thang. Liên Sô chỉ trích kế sách “Bước Đại Nhảy Vọt” của Mao là “khùng”
và đi theo “đường lối Trotskyite.” Trung Hoa thì chê Khrushchev “xét
lại” [revisionist]. Sau Đại hội thứ XXII của Đảng CS Liên Sô, Mao lên án
Khushchev đã phản bội sử mệnh đấu tranh giai cấp. Mao còn đưa ra thuyết
“thế giới thứ ba,” tức các nước nghèo và kém phát triển, như một đối
lực với hai siêu cường Nga-Mỹ. Rạn nứt Nga-Hoa lên cao điểm sau những
cuộc chạm súng ở biên giới, dài theo sông Ussuri (1969).
Hồ
Chí Minh và Đảng LĐVN phải nỗ lực đi giây giữa hai đàn anh–nguồn cung
cấp quân và kinh viện cần thiết. Hồ còn muốn đứng ra hòa giải hiềm khích
giữa Mat-scơ-va và Bắc Kinh, nhưng thất bại.
Về
trường hợp thống nhất Việt Nam, Mat-scơ-va nhấn mạnh vào nỗ lực tìm một
giải pháp hòa bình. Vì vậy, năm 1956, Nga đồng ý với Bri-tên giúp Pháp
cởi bỏ trách nhiệm về hiệp định Geneva. Mat-scơ-va cũng khuyên nhủ Hà
Nội chấp nhận nền trung lập ở Lào và Miên; và, chống đối việc đánh chiếm
miền Nam bằng võ lực. Tại Đại hội kỳ III của Đảng LĐVN (9/1960), các
viên chức Nga vẫn khuyên Hồ thống nhất đất nước một cách hòa bình, theo
tinh thần Hiệp định Geneva. (Zhai 2000:89)
Để lôi kéo
Hà Nội về phe mình, Bắc Kinh–song song với những nỗ lực khai thác sự
mâu thuẫn giữa Đảng CSVN và Nga–bí mật tiếp tay Hồ và Lê Duẩn đấu tranh
chính trị và võ trang giới hạn ở miền Nam.
Tháng
10/1959, khi Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh xin quân viện và cố vấn, Chu Ân
Lai gửi một phái đoàn chuyên gia xuống Bắc Việt, do Đại tướng La Thụy
Khanh [Luo Riqing] cầm đầu. La Thụy Khanh nhận lệnh là Bắc Kinh, trong
khả năng, sẽ thỏa mãn tất cả những yêu cầu của Hà Nội. Tới Hà Nội ngày
10/11/1959, Khanh đi khảo sát cả 5 quân khu, phi trường, hải cảng và các
nhà máy của CSBV. Thủ tướng Đồng ba lần bày tỏ hy vọng lớn lao ở viện
trợ của Bắc Kinh. Bắc Việt cũng xin được xây dựng một số kho tiếp liệu ở
sát biên giới và trong lãnh thổ Trung Hoa. Tháng 3/1960, Bắc Kinh bắt
đầu gửi chuyên viên qua Bắc Việt. (Zhai 2000:82-83)
Tháng
5/1960, khi thảo luận về miền Nam, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đề nghị
áp dụng một chiến lược linh động: tranh đấu chính trị tại các đô thị và
quân sự tại nông thôn; nhưng không muốn leo thang chiến tranh. Tháng
12/1960, sau khi MT/GPMN thành lập, Bắc Kinh công nhận ngay. Khi Lê Duẩn
hỏi Chu Ân Lai về kinh nghiệm “công xã nhân dân” của Bước Nhảy Vọt, Chu
khuyên chỉ nên chú trọng vào hợp tác xã nông thôn và kỹ nghệ nhẹ. Chu
cũng đề cập đến thuyết “thế giới thứ ba” và yêu cầu Hà Nội ủng hộ cuộc
tranh chấp biên giới của Trung Hoa. Tuy nhiên Hà Nội muốn đứng ngoài mọi
tranh chấp giữa các nước anh em. (Zhai 2000:83-89)
Từ
năm 1962, Bắc Kinh và Hà Nội xích lại gần nhau hơn. Bắc Kinh tiếp viện
cho MT/GPMN 97,000 vũ khí đủ loại. Bắc Kinh cũng nhấn mạnh vào giải pháp
trung lập miền Nam. Đầu năm 1963, nhiều nguồn tin Pháp ghi nhận số cố
vấn Liên sô giảm từ 60 tới 15% trong hai năm 1960-1961; trong khi cố vấn
TC tăng từ 28% tới 80%. (FRUS, 1961-1963, III:271)
Trong
khi đó Liên Sô vẫn theo đuổi lập trường “sống chung hòa bình” với khối
tư bản. Năm 1963, Khrushchev còn ký với Mỹ và Bri-tên Hiệp định hạn chế
thí nghiệm bom nguyên tử. Việc này khiến Hà Nội nghiêng hẳn về Bắc Kinh.
Sau khi Mao Trạch Đông lên tiếng chống đối ngày 31/7/1963, báo Nhân Dân
trong hai ngày 6 và 9 tháng 8/1963, và tạp chí Học Tập số tháng 9/1963
nhiệt liệt ủng hộ. Tháng 10/1963, Nhân Dân lại đả kích Yugoslavia theo
đúng lập luận của Bắc Kinh, lên án Tito là dụng cụ của đế quốc Mỹ, và
đang phản bội Marxist-Leninism, trở lại với tư bản. Tháng 11/1963, Học
Tập chỉ trích việc Liên Sô bảo vệ Tito, và bênh vực cho những điều mà
Liên Sô lên án là “giáo điều.”
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn
giữ bề ngoài trung lập trong cuộc đương đầu Nga-Hoa. Khi Chu Ân Lai
triệu tập một buổi họp với các lãnh tụ CS Đông Nam Á tại Quảng Đông vào
hạ tuần tháng 9/1963 để bàn việc thành lập một liên minh 11 đảng “chống
lại bọn xét lại Nga Sô,” Lê Duẩn không đồng ý. Duẩn cũng không tán thành
đề nghị viện trợ một tỉ Mỹ Kim của Đặng Tiểu Bình, nếu Hà Nội ngưng
nhận viện trợ của Mat-scơ-va.( 36)
Bắc Kinh vẫn không
ngớt khoét sâu mâu thuẫn giữa Hà Nội và Mat-scơ-va. Nhân cơ hội
Mat-scơ-va đòi Hà Nội trả nợ, ngày 4/6/1963, Mao Trạch Đông nói với một
đại biểu của phái đoàn Hà Nội tại Vũ Hán là Trung Hoa thì khác, khi các
đồng chí vay của Trung Hoa, bao giờ muốn trả cũng được, mà không trả
cũng chẳng sao.( 37)
Hội nghị TW lần thứ 9 khóa III
của Đảng LĐVN (12/1963) có thể coi như dấu mốc tách biệt chính sách miền
Nam giữa Mat-scơ-va và Hà Nội. Tháng 12/1963, Tướng Lý Thiên Hữu [Li
Tianyou], Phó Tổng Tham Mưu trưởng QĐGPND, dẫn một phái đoàn qua Bắc
Việt. Lý Thiên Hữu ở lại miền Bắc tới 2 tháng và trao cho Hà Nội một kế
hoạch chống kế hoạch chống phản loạn của Mỹ. (Zhai 2000:120) Ngày
27/12/1963, Mao còn viết thư cho Hồ, khen ngợi là đã có một buổi hội
kiến xuất sắc với Mao. (38)
Việc Mỹ bắt đầu oanh tạc
trả đũa Bắc vĩ tuyến 17 từ ngày 8/2/1964, khiến Lê Duẩn và nhóm chủ
chiến mạnh hơn. Nỗ lực vận động tìm giải pháp chính trị cho miền Nam
Việt Nam của Liên Sô, và nhất là Thủ tướng Alexi N. Kosygin, khiến Hà
Nội thân thiết hơn với Bắc Kinh. Ngày 7/2/1964, có tin cán bộ cao cấp
của Trung Cộng và Bắc Việt họp tại Mông-tự (Mengtzu), gần biên giới
Hoa-Việt. Phi cơ chiến đấu của Trung Cộng tập trung tại khu vực này.
(FRUS, 1964-1968, I:64)
Ngày 30/8/1964, Bắc Kinh lên
án Liên Sô yểm trợ Mỹ can thiệp vào Việt Nam, qua Liên Hiệp Quốc. Tuy
nhiên, sau khi Hà Nội đưa ra đề nghị ngày 22/2/1965 là các nước anh em
XHCN công khai lên án Mỹ gia tăng chiến tranh xâm lược ở miền Nam, sáu
ngày sau, 28/2, Bắc Kinh từ chối. Trong năm 1965, Bắc Kinh còn bốn lần
bác bỏ đề nghị của Liên Sô phối hợp hành động ủng hộ CSBV, lập cầu không
vận qua Trung Hoa, hay thành lập phi trường trên lãnh thổ TH để chuyển
tiếp vận cho Bắc Việt. (Sách Trắng, 1979:48) Năm 1966, Mao hai lần phản
đối việc thành lập Mặt trận Quốc tế ủng hộ Việt Nam do Hà Nội và đại
diện Đảng Cộng Sản Nhật Bản đề nghị, vì không muốn Liên Sô tham dự.
(Sách Trắng, 1979:48-49) Dụng tâm của Bắc Kinh là muốn Hà Nội cùng hai
nước Miên và Lào phải nằm trong vùng ảnh hưởng của mình. Để lôi kéo Hà
Nội, Bắc Kinh khôn khéo sử dụng viện trợ như những sợi giây cương.
Ngày
8/4/1965, Lưu Thiếu Kỳ nói với Lê Duẩn là Bắc Kinh sẵn sàng giúp Bắc
Việt bất cứ những gì Hà Nội cần. Duẩn và Giáp xin tăng viện trợ và quân
chiến đấu TC. Duẩn nói cần “phi công chí nguyện, bộ binh chí nguyện,
cùng tất cả các chuyên viên cần thiết.” Duẩn còn muốn quân TC thực hiện 4
nhiệm vụ: giới hạn việc Mỹ oanh tạc phía Nam vĩ tuyến 19 hoặc 20; bảo
vệ Hà Nội; bảo vệ vài trục lộ tiếp vận chiến lược; và, giúp lên tinh
thần [to boost morale]. (Zhai, 2000:133)
Trong hai
ngày 21-22/4/1965, Võ Nguyên Giáp thảo luận với La Thụy Khanh và Dương
Thành Vũ, Đệ nhất Phó T/TMT, tại Bắc Kinh việc gửi quân TC qua Việt Nam.
Chu Ân Lai cũng thành lập hai bộ phận để điều khiển việc viện trợ cho
Hà Nội. Một Ủy ban Viện trợ Việt Nam tại Hội đồng Trung ương Nhà Nước,
do Dương Thành Vũ và Lý Thiên Hữu cầm đầu; và Đoàn Chỉ huy Viện Trợ Việt
Nam, do La Thụy Khanh trách nhiệm tại Ban Trung ương Đảng. (Zhai,
2000:134)
Tháng 5/1965, khi Hồ qua Bắc Kinh cầu viện,
được Mao tiếp ở Trường Sa [Changsa]. Hồ yêu cầu TC giúp tu bổ 12 trục
lộ phía Bắc Hà Nội. Tháng 6/1965, Văn Tiến Dũng đạt thỏa ước viện trợ
với La Thụy Khanh. Nhưng ngày 16/7/1965, Bắc Kinh thông báo cho Hà Nội
biết là chưa tiện gửi phi công chí nguyện qua Bắc Việt. (39)
Trong
hai năm 1966-1967–dù Hoa lục đang xáo trộn vì cuộc “cách mạng văn hóa”
(văn cách), khiến gần 100 cán bộ lãnh đạo, kể cả Chủ tịch Nhà Nước, Phó
Chủ tịch Đảng CSTH Lưu Thiếu Kỳ, Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình, Bí thư Bắc
Kinh Bành Chân, Đại tướng La Thụy Khanh, Tổng Tham Mưu trưởng, v.. v… bị
hạ bệ, nhục mạ–Bắc Kinh vẫn đều đặn viện trợ cho Hà Nội. Bắc Kinh còn
gửi qua Bắc Việt một số chí nguyện quân phụ trách việc giao thông vận
tải, và nhất là phòng không. Tổng số chí nguyện quân Trung Cộng lên tới
300,000 người, trú đóng tại Yên Bái, Thái Nguyên, v.. v… Bắc Kinh cũng
thiết lập Bộ Tư lệnh Tây Nam, đề phòng Mỹ tấn công. Thống chế Bành Đức
Hoài được cử làm Phó Tư lệnh.
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn
luôn e ngại tham vọng “bá quyền nước lớn” của Trung Cộng, sợ Bắc Kinh sẽ
dùng xương máu trai tráng Việt để mặc cả với Mỹ trên đầu cổ mình. Nỗ
lực của Bắc Kinh mở rộng ảnh hưởng tại Lào và Miên càng khiến Lê Duẩn và
các lãnh đạo Hà Nội thêm hoài nghi. (Sách Trắng, 1979:49-51)
Dẫu
vậy, ở thời điểm cuối 1967, đầu 1968, Lê Duẩn vẫn giữ bề ngoài thuần
phục Bắc Kinh, và nghiêng dần về chính sách “vừa đánh, vừa đàm” của
Mat-scơ-va. Tháng 12/1967, Bộ Chính trị Đảng LĐVN quyết định mở cuộc
tổng tấn công. (Hiệp, 2002:197-198) Nhưng mãi đến ngày 21/1/1968 mới
chọn Giao Thừa Mậu Thân làm giờ G.
Ngày Tết Mậu Thân
1968 là thời điểm lý tưởng nhất, vì mùa tranh cử sơ tuyển (giữa những
ứng cử viên của mỗi đảng, Dân Chủ hoặc Cộng Hòa) tại Mỹ sắp bắt đầu. Cho
dẫu thất bại về quân sự cũng đủ gây tiếng vang trong dư luận Mỹ. Và,
qua hệ thống tuyên truyền cùng tình báo tinh vi, cuộc tấn công có thể
giúp mở ra một mặt trận chính trị ngay trong nội địa Mỹ–mặt trận có tính
cách quyết định.
Đã dầy kinh nghiệm về việc mở mặt
trận chính trị tại nội địa Pháp những năm đầu thập niên 1950, Liên Sô và
Hà Nội chỉ thay đổi chút ít chiến thuật cho phù hợp với “những túi khôn
nhân loại” ở Mỹ–đại diện bằng những người viết tham luận (editorials)
trên các tờ báo có nhiều độc giả, hay các nhà “thông thái” của ba đài
truyền hình–những cá nhân chẳng có nhiều kiến thức về Việt Nam nói
chung, và nhất là lối “lý luận” của những “người Cộng Sản Việt Nam” nói
riêng. Thủ thuật của Hà Nội, bởi thế, trước hết muốn chứng tỏ được sự lì
lợm và quyết tâm chịu đựng để kéo dài cuộc chiến (theo kiểu Việt Nam).
Đồng thời, khéo léo và tỉ mỉ khai thác mâu thuẫn giữa các nước Tây
phương với Mỹ, và giữa các phe nhóm Mỹ, phát động phong trào phản chiến ở
Mỹ.
Những ai đã sống ở “lục địa đã mất” (lost
continent), hẳn biết rõ người dân Mỹ bình thường dưới phố chẳng mấy quan
tâm, và cũng không có thì giờ để quan tâm, đến tình hình thế giới. Cuộc
mưu sinh nghiệt ngã và nếp sống của một xã hội hậu kỹ nghệ hoá khiến
chủ nghĩa cá nhân lên cao cùng độ. Một trận football (bóng bầu dục),
baseball (khúc côn cầu), basketball (bóng rổ), hay một buổi đại nhạc hội
lôi kéo số người xem nhiều hơn một bài diễn văn của Tổng thống Mỹ hay
chuyến viếng thăm của một quốc trưởng nước bạn. Nước Mỹ quá rộng lớn–bờ
biển Đông (Đại Tây Dương) và Tây (Thái Bình Dương) khác biệt nhau tới ba
giờ, tức một phần tư khoảng cách từ Mỹ sang Việt Nam–nên truyền hình,
truyền thanh và báo chí đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn
dư luận. Và, những nhân vật ảnh hưởng mạnh mẽ các tổ hợp truyền thông
này không phải là chính quyền, mà chính giới đại tài phiệt, tức những
người cung cấp tiền quảng cáo. Nước Mỹ, dù không còn giàu có như xưa,
vẫn là đại siêu cường kinh tế. Đời sống ở Mỹ, dù chưa và sẽ chẳng bao
giờ là thiên đường, nhưng hòa bình, sung túc nhất trần gian. Nên ít
thanh niên Mỹ muốn đi lính, nhất là phải thiệt mạng ở một xứ nhỏ bé
nhiệt đới như Việt Nam. Và, chẳng có gì ngạc nhiên khi khối Liên Sô-Bắc
Việt đã đưa tinh thần phản chiến và phong trào hòa bình lên hàng đầu tại
Mỹ.
Để tiếp tay cho các phong trào phản chiến Mỹ,
Liên Sô còn vận động các phong trào chống đối việc Mỹ tham chiến tại
Việt Nam trên khắp thế giới. Cũng chính từ thời điểm này, xuất hiện một
loại văn chương tuyên truyền ca ngợi lòng ái quốc của Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời là những nỗ lực bôi bẩn chế độ miền
Nam, nhấn mạnh sự độc lập và tính chất “tự phát” của Mặt Trận Dân tộc
Giải Phóng Miền Nam; hoặc, loan tin một chiều, chỉ nói lên những nửa sự
thực ở miền Nam, quên bẵng đi những sự thực tồi tệ, sắt máu hơn ở miền
Bắc. Tác phẩm đầy lỗi lầm của những cây bút phản chiến Pháp như Jean
Lacouture, Philippe Devillers, Paul Mus, v.. v… được chuyển dịch qua Mỹ
ngữ, hay trích dẫn trong các tác phẩm nghiên cứu nặng mùi chính trị của
nhiều học giả Mỹ. Ngay đến hồi ký của Jean Sainteny cũng được dịch qua
Mỹ ngữ. Dù phải ít năm sau mới sản xuất ra những trí thức phản chiến
David G. Marr, Gareth Porter hay Frances Fitzgerald, tất cả đã khởi đi
và phát triển từ cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân 1968.( 40)
Ngay
sau khi cuộc Tổng tấn công vừa bắt đầu, giới truyền thông Mỹ nghiêng
hẳn về phía Cộng Sản, khích động những xúc động và tinh thần chủ bại.
Chuyến viếng thăm miền Nam của Walter Cronkite, trưởng ban tin (anchor)
của tổ hợp truyền hình CBS, trong tháng 2/1968 đánh dấu sự thay đổi lập
trường này. Ngay đến một số công chức cũng bị ảnh hưởng. Bởi thế, trong
các cuộc họp mật của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [HĐ/ANQG] Mỹ vào hai ngày
12 và 13/2/1968, các cố vấn cao cấp của Johnson chia làm hai phe rõ
ràng–McNamara, dù sắp rời chức vụ vào cuối tháng, chủ trương hoà đàm.
Phe “diều hâu” có Tướng Earle C. Wheeler, Tổng Tham Mưu Trưởng Liên
quân, và giới quân sự. Wheeler đề nghị động viên các quân nhân trừ bị để
tăng viện cho chiến trường Việt Nam.
Vì đã được
Tướng Matthew Ridgway, cựu Tư lệnh mặt trận Nam Hàn trong thập niên
1950, cảnh cáo rằng hiện trạng quân lực Mỹ không đủ khả năng phản ứng
hữu hiệu nếu xảy ra một biến loạn nào đó ngoài Việt Nam–như trường hợp
Berlin hay Bắc Hàn chẳng hạn–Johnson chỉ chấp thuận tạm thời gửi qua
Việt Nam một Lữ đoàn TQLC và một Trung đoàn thuộc Sư đoàn 82 Dù, khoảng
hơn 10,000 người (Johnson 1971:385-387). Sau chuyến viếng thăm các binh
sĩ trên ngày 17/2, trước khi họ lên đường qua Việt Nam, Johnson bỗng đổi
ý về cuộc chiến, và cử Wheeler qua thị sát tình hình để có quyết định
dứt khoát.
Ngày 21/2, Wheeler rời Oat-shinh-tân, trực
chỉ Sài Gòn. Westmoreland đề nghị Wheeler gửi thêm 205,000 quân tăng
viện trước cuối năm 1968 để, nếu cần, mở rộng chiến tranh qua biên giới
Miên, Lào và vĩ tuyến 17 hầu tiêu diệt các căn cứ hậu cần của CSBV. Tuy
nhiên, McNamara không chấp thuận. Johnson cũng không có quyết định dứt
khoát, giao cho người sẽ kế vị McNamara là Clark Clifford cầm đầu một
ban điều nghiên để có quyết định cuối cùng.
Trong khi
đó, Hà Nội lại tung ra những cuộc tấn công ngoại giao mới. Ngày 21/2,
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc là U Thant xin yết kiến Johnson, thông báo
rằng có tin Hà Nội sẽ đồng ý thương thuyết nếu Mỹ ngưng oanh tạc tức
khắc–một nguồn tin chẳng có gì mới lạ, đã được U Thant tung ra từ năm
1965. Năm ngày sau, cơ quan CIA báo cáo cũng có tin Hồ Chí Minh đang chờ
đợi để thương thuyết, nhưng với điều kiện phải ngưng oanh tạc trước.
Cuối tháng 2/1968, thêm một nhân viên ngoại giao India mật báo rằng Hà
Nội muốn thương thuyết tức khắc, và đồng ý không xâm nhập quân vào miền
Nam sau khi Mỹ ngưng oanh tạc. Dù tất cả các nguồn tin trên đều không
được kiểm chứng, nhưng những chiếc bong bóng hòa bình tiếp tục được thả
ra cho tới đầu tháng 3/1968 (Johnson 1971:395, 401).
Bởi
thế, trong phiên họp HĐ/ANQG Mỹ hai ngày 4-5/3/1968, Johnson dứt khoát
bác bỏ đề nghị xin tăng viện của Westmoreland, và sẽ chỉ gửi thêm không
quá 22,000 quân qua Việt Nam. Johnson cũng nghiêng về đề nghị của Ngoại
trưởng Rusk là nên tạm ngưng oanh tạc phía Bắc vĩ tuyến 20 từ tháng
4/1968, khi mùa mưa bắt đầu, để chờ phản ứng của Hà Nội, và sẽ công bố
trong một bài diễn văn sắp tới (Johnson 1971:399-400). Điều này có nghĩa
Johnson đã chịu nhường bước trước đòi hỏi của CSBV, dù bán chính thức.
Trong những ngày kế tiếp, qua các cuộc họp và tham khảo ý kiến với cố
vấn, các nhà thông thái, cũng như Đại sứ Ellsworth Bunker và Tướng
Creighton Abrams, Johnson đi dần đến một quyết định lịch sử–không tái
tranh cử nhiệm kỳ Tổng thống thứ 2, 1969-1973, để tìm cách rút chân khỏi
Việt Nam trong danh dự.
Đánh vào thành phố còn là phương thức sử dụng “bạo lực cách mạng” quen thuộc của Cộng sản.
Trước
hết nó có thể vô hiệu hóa những phần tử chống Cộng độc lập và uy hiếp
tinh thần thị dân. Chỉ nguyên việc mang chiến tranh vào thành phố–nghĩa
là đưa điêu tàn, đổ nát, xáo trộn vào những khu vực vốn được coi như an
toàn của miền Nam–đủ minh chứng nghệ thuật cao đẳng trong việc sử dụng
“bạo lực cách mạng” của Lê Duẩn: khủng bố tinh thần dân lành, khiến họ
phải ngưng cộng tác với chính quyền hiện hữu, hoặc ít nữa “bình chân như
vại.”
Chưa hết. Tại các khu vực Cộng Sản tạm chiếm,
việc truy lùng, ám sát, thủ tiêu những nhân vật chống Cộng có thành tích
là một việc làm quen thuộc, có chỉ thị rõ ràng. Năm 1969, chẳng hạn,
đài phát thanh Hà Nội nhìn nhận đã “tiêu diệt hơn 3,000 tên ác ôn, phản
động” ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân. Hơn một thập niên sau những cựu đao
thủ phủ Tết 1968 vẫn còn kiêu hãnh tuyên bố với một toán làm “lịch sử
truyền hình” Mỹ rằng họ chỉ “trừng trị” những “con rắn độc” phản động,
chống đối cách mạng. Ngay đến năm 1988, có người còn khoe khoang công
lao “trừng trị… Việt gian” của mình (Huế 1988:75).
Tuy
nhiên, giới truyền thông quốc tế hầu như không một phản ứng. Ngược lại,
người ta khai thác tối đa tấm ảnh Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn chết
một sĩ quan đặc công của CSBV trước cổng chùa Ấn Quang. Người chụp được
tấm hình này–Eddie Adams–bỗng nổi danh thế giới, được trao tặng giải
thưởng. Sự thiên vị của giới truyền thông quốc tế quá rõ và khắc
nghiệt.( 41)
Đáng lưu ý rằng “bạo lực cách mạng” của
CS trong dịp Mậu Thân 1968 không mang lại yếu tố tâm lý họ mong đợi.
Ngoại trừ thiểu số đã nghiêng về phía CS từ trước–như Luật sư Trịnh Đình
Thảo, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Giáo sư Lê Văn Hảo, v.. v…– phần đông
thị dân miền Nam sinh ra oán ghét, chống đối CS mạnh mẽ hơn. Tại Huế
chẳng hạn, khi CS bắt đầu rút lui, những người bị dẫn theo lên rừng
“phản kích lại CS ngay tại chỗ.” Có trường hợp họ đã “chống lại, bóp cổ
chết ngay mấy người tự vệ đang canh giữ, có trường hợp (họ) tung lựu đạn
giết cả xe trong lúc bộ đội cho … đi nhờ xe” (Huế 1988:75-76). Tại
nhiều nơi, dân chúng thẳng tay tố giác vị trí ẩn núp của tàn binh CS. Đó
là chưa nói đến một phản ứng “tiêu cực” hơn: Dân chúng tìm đủ cách di
tản khỏi những khu vực bị quân Cộng sản làm “ô nhiễm.”
Tóm
lại, trên lãnh vực nội địa, cuộc Tổng Tấn Công-Tổng Khởi Nghĩa Mậu Thân
1968 là thất bại lớn cho phe Cộng Sản, hoặc văn hoa hơn, chỉ là một thứ
“tổng diễn tập” cho chiến thắng quân sự 1975. Nhưng những hậu quả chính
trị–như loại bỏ thực lực chính trị-quân sự của MT/GPMN–và nhất là ngoại
giao khiến “Nghị quyết Quang Trung” của CSBV được coi như bước ngoặt
quan trọng trong giai đoạn 2 của chiến cuộc Việt Nam, 1959-1975.
Về
phía Việt Nam Cộng Hòa, chỉ nguyên việc để Cộng Sản bí mật chuyển khí
giới vào thành phố, hay âm thầm chuyển quân tới tuyến tấn công là khiếm
khuyết rất lớn.
Các cơ quan an ninh quân sự cũng như
dân sự chịu một phần trách nhiệm. Hoặc vì tư lợi, hoặc vì cầu nhàn, họ
đã không kiểm soát được những đường giây đưa chất nổ và vũ khí tới các
“cơ sở” Cộng Sản trong thành phố. Một số viên chức cao cấp–như trường
hợp Trung tá Tỉnh trưởng Thừa Thiên–không báo cáo hết sự thực về tình
trạng an ninh trong tỉnh. Đó là chưa kể tệ nạn tham nhũng, móc ngoặc đã
thành cố tật trong hàng ngũ các đơn vị Cảnh sát, an ninh kiểm soát giao
thông–những đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn; tức những cái giá mà
xe hàng, hay thuyền bè phải trả để không bị kiểm soát lúc rời hay cặp
bến, hoặc “mãi lộ” dọc đường, khiến CS an toàn đưa vào các thành phố và
thị xã hàng tấn thuốc nổ, đạn dược, và vũ khí.
Ngoài
ra, phần vì không khí cổ truyền ngày Tết, phần vì thái độ tắc trách,
hoặc tự tin quá mức vào tình trạng an ninh của thủ đô hoặc các thị xã,
đa số đơn vị ứng chiến không đầy đủ quân số hoặc không sẵn sàng chiến
đấu. Tại Quảng Ngãi, chẳng hạn, khi Tư lệnh Sư Đoàn 2 BB tới kiểm tra
một Tiểu đoàn ứng trực vào ngày mồng 1 Tết, quân số vỏn vẹn 50 người–tức
chưa đầy hai trung đội (Sơn & Dương 1968:269). Quân số ứng trực chỉ
khoảng 30 phần trăm ở Cần Thơ hay Bến Tre.
Các cơ
quan tuyên truyền của chính phủ và quân đội cũng phản ứng vụng về. Mặc
dù một sĩ quan Tâm Lý Chiến của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung nhanh
trí cho chạy những bản nhạc hùng vào mờ sáng mồng 2 Tết–loại nhạc hùng
này lại khiến những người đa nghi nghĩ đến một cuộc đảo chính. Từ ngày
1/11/1963, người dân Sài Gòn đã được nghe loại nhạc hùng này nhiều lần.
Thành một thói quen. Rạng sáng mồng 2 Tết, khi biết rõ tiếng nổ ngoài
đường phố là tiếng súng mà không phải tiếng pháo đón Xuân, những điệu
nhạc quân hành trên đài Sài Gòn khiến người ta nghĩ ngay đến một cuộc
đảo chính. Vì, mới chỉ nửa tháng trước, Thiệu có vẻ “sẵng giọng” với Mỹ
về việc thương thuyết với Cộng Sản. Ngoài ra, mặc dù Nguyễn Cao Kỳ nhận
đứng chung liên danh ứng cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để duy trì
tình “huynh đệ chi binh,” tình trạng con chim hai đầu của Đệ Nhị Cộng
Hòa Việt Nam quá hiển lộ. Tin đồn Kỳ và phe miền Bắc–tức Loan, và Lê
Nguyên Khang, Tư lệnh Quân Đoàn III kiêm Tư lệnh TQLC–sẽ làm đảo chính
được loan truyền trong mọi giới.( 42)
Trong khi đó,
ban tham mưu cùng những người thân cận Kỳ và Thiệu khiến liên hệ giữa
hai người vô cùng căng thẳng, ngột ngạt. Thiệu rất ít khi nói chuyện với
Kỳ, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Tướng Nguyễn Đức Thắng là một thí dụ
khác phản ảnh sự phân hoá ở giai tầng lãnh đạo–Thiệu chẳng bao giờ tha
thứ việc Thắng đã đích thân yêu cầu Thiệu rút lui, nhường cho Kỳ tranh
cử Tổng thống; và, nhất là, Thắng được sự ủng hộ nhiệt thành của các
viên chức Mỹ. Bởi thế, sáng ngày mồng 2 Tết, nếu Kỳ không lên tiếng trên
đài phát thanh vào khoảng 7 giờ, tinh thần dân quân còn hỗn loạn đến độ
nào!
Mãi tới chiều ngày mồng 3 Tết (1/2/1968) thị
dân Sài Gòn mới được đọc số báo Tiền Tuyến đặc biệt về cuộc tấn công của
Cộng Sản. Huế và các tỉnh khác hoàn toàn “im lặng vô tuyến.” Nhưng ít
ai tin tưởng những bản tin đăng trên Tiền Tuyến–cơ quan tuyên truyền của
quân đội. Người tò mò phải mở các đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (V.O.A) hay
Bri-tên (đài B.B.C.) để theo dõi tình hình. Ngày mồng 8, mồng 9 Tết mới
có vài tờ báo tư nhân như Sống, v.. v… được bày bán. Những đoạn “tự ý
đục bỏ” trên mặt báo gây nhiều bàn cãi hơn là những tin tức đăng tải.
Nực
cười nhất là nguồn tin cả hai Tướng CS Trần Độ và Trần Văn Trà đã tử
trận trong dịp tấn công. Theo Tổng Nha Thông Tin, Trà chết ở Vĩnh Long,
Độ chết ở Chợ Lớn với đầy đủ quân hàm. Đài V.O.A. còn bình luận chi tiết
tin này cùng tiểu sử khá đầy đủ của Trần Độ. Độ được phong lên chức
“chỉ huy trận đánh Sài Gòn.” (Năm năm sau, Trà vào trại David đại diện
MT/GPMN trong Ủy Ban Bốn Phe. Rồi, mùa Xuân 1975, tham dự vào cuộc đánh
chiếm Sài Gòn hay “Chiến dịch Hồ Chí Minh.” Trần Độ sau này làm Chủ
Nhiệm Ủy Ban Văn Hóa của Quốc Hội Hà Nội).
Sai lầm
“kỹ thuật” này có nhiều lý do. Thứ nhất, vì không được huấn luyện chu
đáo, cấp chỉ huy tiền tuyến không biết rõ cách mang quân hàm của bộ đội
chính qui Bắc Việt. Cũng có thể vì những mục đích bí ẩn nào đó. Tuyên
truyền, khích lệ tinh thần quân dân–hoặc để giới báo chí ngoại quốc nhắc
nhở đến tên tuổi mình.( 43)
<p><span>Tại Cao Nguyên, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp tiết lộ những năm 1969-1971 cực kỳ khó khăn. Các đường tiếp tế từ Bắc vào hay từ Miên qua đều bị ngăn chặn, khẩu phần gạo cắt giảm từ 500 grams gạo một ngày xuống 250 grams, rồi 125 grams, dù từ tháng 5/1969 đã phải điều một sư đoàn và các đơn vị không tác chiến khác “tập kết lần thứ hai”ra Bắc. Một sư đoàn vào Nam làm ăn, mỗi hạt gạo là một giọt máu dưới những thảm bom B.52. Dân chúng thì còn đói hơn quân. Bệnh binh đông gấp bội thương binh. (Hiệp, 2002: 86-89, 122-123, 130-153, 159-160)</span></p>một
sư đoàn và các đơn vị không tác chiến khác “tập kết lần thứ hai”ra Bắc.
Một sư đoàn vào Nam làm ăn, mỗi hạt gạo là một giọt máu dưới những thảm
bom B.52. Dân chúng thì còn đói hơn quân. Bệnh binh đông gấp bội thương
binh. (Hiệp, 2002: 86-89, 122-123, 130-153, 159-160)
Long
đong không kém là các tổ chức MT/GPMN hay Liên Minh. Ngoại trừ những
người được đưa ra trình diện trên sân khấu chính trị thế giới Paris, các
cấp lãnh đạo MT/GPMN trôi giạt đó đây theo những đợt tảo thanh của liên
quân Việt-Mỹ. Phải tới năm 1972–sau khi quân viễn chinh Đồng Minh đã
triệt thoái gần hết, và Thiệu do vô tình hay cố ý, mắc phải một lỗi lầm
chiến lược to lớn là đưa quân qua Miên (1970) và Hạ Lào (1971), khiến
lực lượng Tổng Trừ Bị cùng Thiết Kị, Bộ Binh, Pháo Binh vùng I thiệt hại
nặng nề–Văn Tiến Dũng mới đích thân mang đại quân vào xâm lăng Quảng
Trị, đồng thời mở mặt trận An Lộc. Mùa Xuân-Hè rực lửa này, cũng một năm
tranh cử Tổng Thống khác của nước Mỹ, mới thực sự thay đổi cán cân quân
sự ở miền Nam Việt Nam.( 55)
Cuộc Tổng Tấn Công của
Lê Duẩn, tưởng cũng nên nhắc, tạo cơ hội cho chính phủ Thiệu đình chỉ
lệnh giải ngũ các sĩ quan trừ bị, kêu tái ngũ những cựu quân nhân (33
tuổi trở xuống hay dưới 5 năm quân vụ), và rồi tổng động viên–một biện
pháp được dự trù từ năm 1967 để đáp ứng nhu cầu gia tăng nhân lực khoảng
100,000 người, một trong những bước đầu tiên chuẩn bị cho chiến lược
Việt Nam hoá chiến tranh.( 56) Các thanh niên trên 19 tuổi bị bắt buộc
trình diện từ ngày 1/3/1968, và hai tháng sau, tới lượt những người 18
tuổi. Đáng ghi thêm là chỉ có đám đông thấp cổ, bé họng chịu ảnh hưởng
của lệnh Tổng động viên này. Từ năm 1964, con cháu những ông bà lớn đều
đã du học ngoại quốc. Theo Trần Văn Đôn “tâm sự” với Lansdale, chẳng
hạn, Đỗ Cao Trí gửi con học ở Nhật; Cao Văn Viên có con học ở
Switzerland (Thụy Sĩ). Đôn cũng gửi con học ở Thụy Sĩ.( 57) Sau này,
chính Thiệu vào năm 1969, còn cấm phổ biến tờ Newsweek tại miền Nam vì
tuần báo trên loan tin vợ Thiệu mua nhà cửa để cùng các con lập nghiệp ở
hải ngoại.
Dĩ nhiên chiến thắng quân sự của VNCH và
các binh sĩ Đồng Minh có giới hạn của nó. Tại nội địa Việt Nam, vết
thương Mậu Thân có thể nói khó hàn gắn. Nhiều thành phố và thị trấn bị
phá hoại. 13 xưởng kỹ nghệ bị đổ nát, và 20 hãng xưởng khác bị thiệt hại
nhiều hay ít. Số tiền cần mua đồ trang bị và sửa chữa lên tới 25 triệu
Mỹ Kim, và khoảng 10 triệu đồng lương nhân công.
Số
người tị nạn chiến tranh lên tới 821,000 người, tạo nên một gánh nặng
cho ngân quỹ, ước lượng sơ khởi vào khoảng 100 tỉ đồng. Tại Sài Gòn, từ
ngày 6/2, chính phủ phải thiết lập 117 trung tâm tạm cư, tiếp đón khoảng
200,000 người chạy loạn. 132,000 người trong số này không còn nhà cửa
để cư ngụ. Nhờ sự tăng cường 2,500 cán bộ XDNT từ Trung tâm Huấn luyện
Vũng Tàu, việc phân phối 8,000 tấn gạo, thực phẩm và nước uống phần nào
cải thiện. Một số cửa hiệu tư nhân cũng lẻ tẻ hoạt động trở lại.
Cuộc
tổng tấn công Mậu Thân cũng mở đầu một nấc thang lạm phát và mất giá
mới của đồng bạc. Tất cả những mặt hàng hóa–từ đồ tiêu dùng tới thực
phẩm–đều lên giá đột ngột, gấp đôi, gấp ba, và chẳng bao giờ lùi xuống.
Ngày
1/3, Thiệu công bố kế hoạch cải tổ quân sự và hành chính của mình, với
chiêu bài diệt trừ tham nhũng. Để ra uy, ngày 11/3, Thiệu cách chức 8
tỉnh trưởng. Đồng thời vận động loại bỏ chính phủ Nguyễn Văn Lộc và các
chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia cùng Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Thực
tế, mục đích chính của Thiệu chỉ nhằm củng cố uy quyền cá nhân và phe
đảng. Nạn tham nhũng, mua quan bán tước vẫn tiếp tục lan tràn như dịch
hạch. Theo một cựu cố vấn Cảnh Sát Mỹ, Thiệu và Trần Thiện Khiêm trở
thành người cầm đầu hai trong ba đường dây buôn lậu ma túy và phế vật
chiến tranh lớn mạnh nhất.
Những biện pháp mới về tài
chánh, kinh tế như thuế T.V.A của chính phủ Trần Văn Hương thứ
hai–chính thức thay chính phủ Nguyễn Văn Lộc từ ngày 25/5/1968, và bàn
giao chức vụ hai ngày sau–khiến vật giá leo thang hàng tuần, hàng tháng.
Cơ khổ nhất vẫn là giới công chức và quân nhân, những người có đồng
lương cố định.
Diễn biến tự nhiên là người có chức,
có quyền thâm lạm của công, buôn bán quân trang, quân dụng, bày vẽ tục
lệ lính kiểng, lính ma. Chưa đầy năm năm sau ngày lật đổ Ngô Đình Diệm,
người ta công khai mua bán từ tấm giấy hoãn dịch tới các chức vụ Tỉnh
trưởng, Quận trưởng, và đơn vị trưởng.( 58) Một sĩ quan cao cấp đặc
trách bình định, khi được Lansdale hỏi có bao nhiêu tỉnh trưởng trong
sạch ở miền Nam, thực thà nói chỉ thấy có một người. Về các Tư lệnh Quân
đoàn, Sư đoàn lương thiện, không tham nhũng, nhân chứng này cũng nói
chỉ có một.( 59)
Những hậu quả giây chuyền này–đặc
biệt là tâm trạng bất an, luôn luôn chuẩn bị hành lý, tư trang bỏ chạy
ra ngoại quốc vì viễn ảnh bị Mỹ bỏ rơi của thiểu số được ủy thác nắm
quyền ở miền Nam–là một hậu quả cần được nghiên cứu kỹ càng hơn.
Chưa
hết, cách nào đó, chiến thắng quân sự của VNCH hay các đơn vị chiến đấu
Mỹ ở Việt Nam trở thành công dã tràng xe cát. Số phận miền Nam không
được định đoạt bằng khả năng tác chiến và mồ hôi, xương máu của họ.
Tương lai Việt Nam được quyết định ở Oát-shinh-tân, Mat-scơ-va và Bắc
Kinh. Thêm vào đó có áp lực của Liên Hiệp Quốc và Tây Âu, đặc biệt là
Pháp và Bri-tên. Giáo hội Ki-tô Roma, dưới sự hướng dẫn của Paul VI,
cũng đóng góp một vai trò quan trọng.( 60)
Những ngày
cuối tháng 2/1968, Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Mỹ qua Việt Nam thị
sát mặt trận. Ngay sau chuyến đi của Wheeler–và trong bối cảnh sôi động
của cuộc vận động sơ tuyển danh vị ứng cử viên Tổng Thống Mỹ của hai
chính đảng–giới báo chí tiết lộ tin Westmoreland xin tăng viện 206,000
quân.( 61) Đồng thời, vì một nguyên do nào đó, họ cũng khua chiêng gõ
trống cho một giải pháp chính trị. Những cá nhân tham vọng như Eugene
McCarthy, Robert Kennedy và Martin Luther King bắt đầu chỉ trích chính
sách của Johnson.
Ngày 26/3/1968, Johnson phải triệu
tập một phiên họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia mở rộng, với sự tham dự của
những khuôn mặt có uy tín nhất của Mỹ để thảo luận về tương lai Việt
Nam.( 62)
Năm ngày sau, Johnson tuyên bố không ra tái
tranh cử nhiệm kỳ 1969-1973, và sẽ tìm mọi cách giải quyết cuộc chiến.
Ông cũng chính thức kêu gọi Mat-scơ-va, Bắc Kinh và Hà Nội hãy đáp ứng.(
63)
Khúc quanh lịch sử quan trọng của miền Nam Việt
Nam đã điểm: Thượng tuần tháng 5/1968, Mỹ và CSBV ngồi vào bàn hội nghị ở
Paris. Để chào mừng hội nghị, CSBV tung ra cuộc tấn công kỳ II vào Sài
Gòn–theo tinh thần “vừa đánh vừa đàm.”( 64) Tháng 6/1968, Westmoreland
rời Việt Nam.( 65) Lansdale–người giúp Nguyễn Văn Thiệu củng cố quyền
lực, và thiên về chính sách sử dụng thiểu số Ki-tô để thống trị và độc
quyền chống Cộng ở miền Nam–cũng lên đường về nước.( 66)
Giai đoạn chuẩn bị cho kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh bắt đầu, báo hiệu cuộc giải kết của nước Mỹ.
(Houston, 1997 – 2005)
Phụ chú:
1.
Xem Vũ Ngự Chiêu, “Social and Cultural Change in Vietnam between 1940
and 1946;” Part III: “Brutality of World Politics;” Ph.D. Dissertation,
1984, UW-Madison. Xem thêm Idem., “Hồ Chí Minh – Nhà Ngoại Giao, 1945 –
1946;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84, tháng 8 – 9/2005, tr.
152-193. Bài này cũng đã được phổ biến trên nguyệt san Đi Tới (Québec,
Canada, 2004), nhật báo Người Việt (Santa Ana, CA, 2004), cùng nhiều
websites như Chuyển Luân, Diễn Đàn Dân Chủ, v.. v… năm 2004.
2.
Thí nghiệm Bảo Đại chính thức khai sinh qua việc trao đổi văn thư giữa
Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại ngày 8/3/1949, thường được
biết như Hiệp ước Elysée. Tuy nhiên, từ năm 1948, Pháp đã cho thành lập
chính phủ lâm thời Việt Nam, với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tương.
Xem các văn kiện liên hệ trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, tập I – B:
1947 – 1954 (Houton: Văn Hóa, 1997). Phe chống Cộng thường tuyên truyền
rằng Hiệp ước Elysée này cho Quốc Gia Việt Nam nhiều quyền hơn hai Tạm
ước 6/3/1946 và 14/9/1946 mà Hồ Chí Minh đã ký kết với Pháp. Thực tế,
Hiệp ước Elysée chỉ có hình thức, thiếu thực chất. Nó cũng tiếp sức đẩy
Hồ vào sâu hơn khối Cộng Sản.
3. Xem, chẳng
hạn, những công điện của Mao từ Mat-scơ-va gửi về Bắc Kinh và báo cáo
của Molotov trong hai tháng 12/1949 và tháng 1/1950. Xem thêm Quiang
Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950 – 1975 (Chapel Hill: The Univ. of
North Carolina Press, 2000), ch. I.
4.
Chính phủ Ngô Đình Diệm (1954 – 1963) đã từ chối hiệp thương và tổng
tuyển cử với lý do “không ký Hiệp định,” và “không có tự do bầu cử ở
miền Bắc.” Đúng ra là phe Quốc Gia Việt Nam không được quyền dự những
buổi mật đàm về quân sự cũng như chính trị. Xem Chính Đạo, Cuộc Thánh
Chiến Chống Cộng (Houston: Văn Hoá, 2004). Xem thêm Bernard B. Fall, The
Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger,
1964).
5. Xem Philip Catton, Diem’s Final
Failure (Lawrence, Kansas: Univ. of Kansas Press, 2002). Dù trọng tâm
sách là Ấp Chiến Lược, nhờ được tham khảo tư liệu của rất nhiều văn khố,
kể cả văn khố VNCH, Catton đã xuất sắc tiếp cận vấn đề nông thôn của
Việt Nam. Khuyết điểm duy nhất là tác giả không khai triển vấn đề tinh
thần “thánh chiến” của cả hai phe Cộng Sản và Ki-tô. Vài biên khảo khác
của các tác giả Việt, như Lâm Thanh Liêm, không sử dụng tài liệu văn khố
VNCH hay VNDCCH.
6. Văn Kiện Đảng Toàn Tập
[VKĐTT], 29:1968, 2004:1 – 40. Theo Trần Văn Trà, trước khi ra Bắc vào
cuối năm 1956, Lê Duẩn đã chấp thuận cho thành lập căn cứ quân sự ở miền
Đông Nam Bộ, U Minh (Cà Mau) và Đồng Tháp Mười; Trà, Những chặng đường
lịch sử của B.2 thành đồng. Tập I: Hòa bình hay chiến tranh. (Hà Nội:
NXB QĐND, 1992), I: 152 – 153. Đầu năm 1958, Nguyễn Văn Linh cho phép
“trừ gian một cách có chọn lọc [như chém Lâm Quang Phòng nhân một buổi
ăn giỗ];” Ibid., 1992:121.
7. Nhân Dân [ND]
(Hà Nội), 14/5/1959; Hội nghị này họp làm nhiều đợt; VKĐTT, 20:1959,
2002:57 – 92, 245 – 259, 511 – 517; Trần Văn Trà, “Quân Giải Phóng Miền
Nam Việt Nam;” Chung Một Bóng Cờ (Hà-nội: 1993) , 274 – 275. [Sẽ dẫn Trà
1993b]
8. VKĐTT, 20:1959, 2002:511 – 517; Trà, 1992:134.
9.
Ngày 22/4/1962, Nhân Dân đăng bài “Lê-Nin Người Thày của Cách Mạng
Việt-Nam” của HCM. Nguyên bản bài này đã đăng trên tờ Sự Thật tại
Mat-scơ-va nhân dịp ngày sinh thứ 92 của Lenin (1870 – 1924): Theo Hồ,
Việt Nam có câu tục ngữ “Uống nước phải nhớ đến nguồn”, “Nhân dân Việt
Nam và nhân dân lao động khắp thế giới đời đời nhớ ơn Lê Nin vĩ đại, nhớ
ơn Đảng cộng sản, Chính phủ và nhân dân Liên Xô.” Ngày 27/12/1965, tại
Hội nghị lần thứ 12 Đảng LĐVN, Lê Duẩn cũng thành khẩn tiết lộ “ngàn đời
nhớ ơn Liên Xô, Trung Quốc” và “sẽ giáo dục con em chúng ta điều này.”
VKĐTT, 26:1965, 2003:514 – 615. Lê Duẩn cũng phân tích khá kỹ liên hệ
quốc tế với phe Cộng Sản. Theo Duẩn,“Phe ta không có quyết tâm đầy đủ để
cùng chúng ta chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam.”; nhưng Hà Nội vẫn làm
ăn; vì độc lập, tự chủ (Bài này không đề cập đến HCM, nhưng nhắc đến
những cuộc tranh cãi trong Bộ Chính Trị); Ibid., 2003:607 – 616. Tưởng
cũng nên thêm, từ tháng 3/1965, việc bố trí người đi B được chuyển qua
Ban Tổ chức TW của Lê Đức Thọ, và có dấu hiệu cho thấy Trung tướng
Nguyễn Văn Vịnh bị thất sủng; Ibid., 2003:564 – 621. Năm 1967, Nguyễn
Văn Vịnh cũng bị cách chức. Nhiều cán bộ cao cấp, như Hoàng Minh Chính,
Nguyễn Minh Cần, bị bắt giam hay trốn qua Nga giữa cao trào đánh “xét
lại.”
10. Tư lệnh Sư đoàn là Trung Tá Trần
Thanh Chiêu, bị cách chức, phạt 5 năm không được thăng chức. Thiếu tá
Mân (?),Trung đoàn trưởng, bị truy tố ra Tòa, giáng xuống Đại úy, không
được thăng thưởng trong vòng 5 năm; The Pentagon Papers (Gravel), I:338;
Báo cáo của Williams ngày 20/3/1960; FRUS, 1958 – 1960, I:343 – 344.
Theo Trần Văn Trà, chỉ huy trận này là Nguyễn Hữu Xuyến, chỉ huy mặt
trận miền Đông Nam Bộ; Trà, 1992:152 – 153, 215 – 221.
11.
Điện số 160 ngày 28/4/1960 của TWĐ gửi Nam Bộ và Khu V nhấn mạnh “Tình
hình miền Nam đang ở thế giằng co,” CS mạnh ở chính trị, VNCH mạnh về
quân sự, “đấu tranh chính trị là chủ yếu,” phối hợp với “vũ trang tuyên
truyền” không phải “du kích cục bộ.” Đề nghị xây dựng lực lượng vũ trang
lên cấp D [tiểu đoàn] của “R” không bảo vệ được nhân dân, chưa có lợi;
Đảng tuyệt đối bí mật, chỉ công khai tổ chức quần chúng; VKĐTT, 21,
2002:288-305. Điện số 34 ngày 30/4/1960 của TWĐ gửi Nam Bộ và Khu V chỉ
thị “Phải tăng cường lãnh đạo đô thị, nhất là sinh viên, học sinh;”
Ibid., 2002:306-308. Ngày 18/7/1962, trong thư gửi TWCMN, Lê Duẩn vẫn
nhấn mạnh: Dùng lực lượng chính trị và quân sự để cướp lấy những vùng
nông thôn rộng lớn nhưng vẫn giữ thế hợp pháp của quần chúng. Thế hợp
pháp là “cái khiên” của quần chúng; Ibid., 23, 2002:712.
12.
Gồm có: Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên,
Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỉ, Trần Văn Đỗ,
Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm
Hữu Chương, Trần Văn Tuyên, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Hồ Văn Vui
(Linh mục, Chánh xứ Tha La, Tây Ninh; The Pentagon Papers (Gravel), I:
320-321; AMAE (Paris), CLV, SV, 10:122ff. Theo Y sĩ Phan Quang Đán,
chính Đán soạn thảo tuyên cáo trên, nhưng không ký tên. Có tin Trần Văn
Văn là người soạn thảo. Bản thảo của tuyên ngôn đã được một mật báo viên
trao cho Tùy viên Quân sự Mỹ từ ngày 11/4/1960. Ba ngày sau, mật báo
viên trở lại Tòa Đại sứ lấy lại bản chính Việt ngữ và bản dịch Anh ngữ.
Theo tin tình báo Mỹ, nhóm này lập thành Đảng Tự Do Tiến Bộ; FRUS,
1958-1960, I:438.
13. VKĐTT, 21:1960, 2002:905 – 912.
14. Xem các chỉ thị của Ban Bí thư về các lễ hội mừng kỷ niệm Tháng 10 Nga hay Quốc Khánh Trung Cộng, v.. v…
15.
US-Vietnam Relations, 1945 – 1967, Bk 10, tr. 1311 – 6; FRUS, 1958 –
1960, I: 575 – 9. Ngày 14/10/1960, với sự chấp thuận của BNG Mỹ, Durbrow
đọc rồi trao cho Diệm một văn thư bằng tiếng Pháp: Yêu cầu Diệm thi
hành một chính sách cởi mở hơn: nên bổ nhiệm một Bộ trưởng Quốc Phòng,
để Diệm rảnh rang chú trọng những kế hoạch toàn diện. Bổ nhiệm một hay
hai người chống Cộng đối lập vào chính phủ. Khuyến khích các Bộ trưởng
nhận trách nhiệm hơn đệ trình ngay cả những việc không quan trọng lên
Phủ Tổng thống. Cải tổ Đảng Cần Lao từ dạng bí mật hiện tại ra công
khai, hoặc giải tán nó. Cho Quốc Hội quyền điều tra bất cứ bộ hay nha sở
chính quyền nào, qua hình thức những buổi tường trình công cộng, v.. v…
Tuyên bố những sửa đổi trên trong bài diễn văn ngày Quốc Khánh
26/10/1960 sắp tới; FRUS, 1958 – 1960, I:tài liệu 203, 205. Durbrow cũng
đề nghị cho vợ chồng Nhu và Trần Kim Tuyến nhận nhiệm vụ ở ngoài nước.
Diệm trả lời rằng những tin đồn về Nhu là do CS gây ra; Ibid., I:595 –
596, 603 – 604. Và, dĩ nhiên, không chịu cắt bỏ “bộ óc chính trị của
mình.”
16. Ngày 11/11/1960, Bộ Chính Trị
Đảng LĐVN điện cho Xứ Ủy miền Nam, cho lệnh lợi dụng khai thác ngay cuộc
đảo chính của Nhảy Dù; có thể cho ra công khai Phong trào MTGPMN (đã bí
mật tổ chức từ cuối năm 1959). Khẩu hiệu tranh đấu là “Hòa bình, trung
lập.” Hôm sau, 12/11, BCT lại điện cho Xứ Ủy miền Nam, đồng ý cho ra
công khai MTGPMN. Ngày 16/11, Ban Bí thư ban hành chỉ thị về cách đưa
MTGPMN ra công khai. Ngày 24/11, BBT chuyển cho Xứ Ủy miền Nam bản Tuyên
Ngôn của MTDT/GPMN đã được BCT phê chuẩn; VKĐTT, 21:1960,
2002:1012-1029. Về biến cố 11/11/1960, xem Chính Đạo (ed), Nhìn Lại Biến
Cố 11/11/1960 (Houston: Văn Hóa, 1996); Nguyễn Chánh Thi, Một Trời Tâm
Sự (Xuân Thu, 1987); Vương Văn Đông, Binh biến 11/11/1960 (Văn Nghệ,
2000); Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, 3 tập (Houston: Văn Hóa,
2000-2004), tập I.
17. Xem Douglas Pike,
Viet Cong: The Organization and Techniques of the National Liberation
Front of South Vietnam (Cambridge, MA: MIT Press, 1966, 1967); Chung một
bóng cờ, nhiều tác giả (Hà Nội: XNB Chính trị Quốc Gia, 1993). Cần ghi
nhận là mặc dù sử dụng một số tài liệu bắt được tại trận địa, tác phẩm
của Pike khó tránh những sơ sót vì thủ thuật chiến tranh chính trị của
Hà Nội và những khoảng trống của tin tức tình báo Mỹ. Ngay những tư liệu
hiện đã được giải mật của Việt Nam cũng cần sử dụng một cách thận
trọng; và chỉ có giá trị tạm thời.
18. Ngày
29/11/1961, khi viếng thăm Sài Gòn, TNS Allen Ellender cho rằng tình
hình rối loạn ở Nam Việt Nam chẳng liên hệ gì đến Bắc Việt; FRUS,
1961-1963, I:698-699. Một số tác giả Pháp, kể cả Philippe Devillers,
nghiêng về lập luận này; “The Struggle for the Unification of Vietnam;”
The China Quarterly, No. 9 (Jan-March 1962), p. 15; dẫn trong Pike,
1967:75-6n4.
19. Ngày 3/2/1962, TT Diệm ký
nghị định số 11-TTP, tuyên bố quốc sách ACL, và thành lập Ủy Ban Liên Bộ
đặc trách ACL. Ủy viên gồm Bộ trưởng các bộ Quốc Phòng, Nội Vụ, Giáo
Dục, Công Dân Vụ, Canh Nông, v.. v… Bùi Văn Lương, Bộ trưởng Nội Vụ, giữ
chức Tổng Thư ký. Ngô Đình Nhu làm Chủ tịch. Đặc ủy viên: Đại tá Huỳnh
[Hoàng?] Văn Lạc; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/1CH, HS 7621; FRUS, 1961-1963,
II:96; Catton, 2002:98. Mỗi Khu Chiến thuật có một Ủy Ban đặc trách ACL
[HS 7622]. Ngày 19/3/1962, chấp thuận kế hoạch bình định vùng đồng bằng
(ACL) của Robert [“Bob”] J. K. Thompson. [HS 8038] Đại tá Hoàng Văn Lạc
được giao chỉ huy, dưới quyền điều động trực tiếp của Nguyễn Đình
Thuần. Xem thêm chi tiết trong TTLTQG II (TP/HCM), PTT/D1CH, HS 7626;
Catton, 2002:91 (ACL Gia Huỳnh (xã Gia Lộc, quận Phú Đức, Tây Ninh; ACL
Định Thanh Quảng Ngãi); HS 7631; Catton, 2002:97 (chấp thuận đề nghị của
Bùi Văn Lương đưa ACL lên hàng quốc sách); HS 7629 (Những cuộc nói
chuyện và chỉ thị của Ngô Đình Nhu; [10/1961; Catton, 2002:120-121])
Ngày 23/3/1962, chính thức phát động chính sách “Ấp chiến lược.” Thí
điểm đầu tiên là khu vực Bến Cát (Bình Dương), tức chiến dịch Mặt trời
mọc (Sunrise). Người phụ trách chương trình “Ấp Chiến Lược” này là
Albert Phạm Ngọc Thảo. Chỉ huy tổng quát là Tướng Văn Thành Cao; The
Pentagon Papers (Gravel), II:674. Ngày 18/5/1962, mở đầu chiến dịch Hải
Yến (Sea Swallow, Phú-Yên) Chiến dịch này cũng tương tự như chiến dịch
Mặt Trời Mọc tại Bình Dương. 600 nhân viên công dân vụ, chia làm 70
toán, tham dự chiến dịch. Dự trù tăng thêm 11 toán vào cuối tháng
5/1962. Và, hoàn thành 80 ấp chiến lược vào cuối năm 1962. Ngày
1/5/1963, Rufus Phillips, Phó Giám đốc USOM, ghi nhận: Đại cương, mặc dù
trên lý thuyết Ấp Chiến Lược thật tuyệt hảo, nhưng việc thực thi gặp
nhiều khó khăn lớn: thiếu sự hiểu biết về nguyên tắc Ấp Chiến Lược, và
thiếu ý chí thực hiện. Các viên chức mọi cấp khiến dân chúng xa lánh hơn
là ngả theo chính phủ; FRUS, 1961-1963, III:256-257.
20.
Xem Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, in lần
thứ hai (Houston: Texas, 1997). Tài liệu văn khố của Phủ Thủ tướng và
Phủ Tổng thống VNCH tại TTLTQG 2 (TP/HCM) về những cuộc xô xát giữa Phật
Giáo, Ki-tô Giáo và chính quyền trong 5 năm 1963-1968 đã mở cho các nhà
nghiên cứu chuyên nghiệp. Tài liệu văn khố tại Thư viện Tổng thống
Lyndon B. Johnson tại Austin, Texas, cũng đã giải mật. So sánh hai nguồn
tài liệu này sẽ có hình ảnh khá trung thực.
21.
Lê Duẩn cho rằng chiến lược của Đảng LĐVN không phải là lấy nông thôn
bao vây thành thị, mà đã được sáng tạo theo thực tế Việt Nam. Tuy nhiên,
những biến đổi trên chỉ là chi tiết; cơ bản vẫn là lấy nông thôn làm
căn cứ. Võ Nguyên Giáp và các chiến lược gia CSVN cũng thường thích đề
cập đến cái gọi là chiến tranh nhân dân. Thực ra, là chiến tranh hoá
nhân dân–bắt mọi giai tầng quốc dân đều trở thành nạn nhân của chiến
tranh. Ngày 2/9/1965–nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập chế độ
CSBV–Thống chế Lâm Bưu [Lin Pao], Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Cộng, cũng
đề cập đến chiến lược … chiến tranh nhân dân này.
22.
Các toán XDNT vùng Cao nguyên tăng từ 84 lên 120 toán. 54 tiểu đoàn tác
chiến được tăng cường cho các Toán XDNT. Ngoài ra còn có 218 đại đội
ĐPQ và 738 trung đội Nghĩa quân; Douglas Pike (Ed), Bunker Papers:
Report to the President from Vietnam, 1967-1973, 3 vols. (Berkeley, CA:
Univ. of California Press, 1990), I:291. [Sẽ dãn Bunker 1990]. Tuy
nhiên, các đơn vị trưởng Việt Nam không thích thú gì nhiệm vụ bảo vệ
lãnh thổ. Tại vùng IV, SĐ 21 và 9 quyết định luân chuyển các đơn vị bình
định mỗi ba tháng. SĐ 7, các đơn vị thường lo an ninh của riêng đơn vị
mình hơn là các xã có nhiệm vụ bảo vệ. Tại Vùng III, nhiều đơn vị–đặc
biệt là SĐ 18 BB–mượn cớ bình định để tránh hành quân. Tại Vùng II, có
trường hợp binh sĩ đánh cướp làng xóm và các toán XDNT. Tại Vùng I,
tương đối khả quan hơn; Clarke 1988:252-253. Về thuật ngữ “kế hoạch hai
gọng kìm,” xem “Nghị quyết lần thứ năm Trung Ương Cục, tháng 5/1967;”
VKĐTT, 28:1967, 2003:486-488.
23. Kế hoạch
của Thanh–“Nghị quyết lần thứ năm Trung Ương Cục, tháng 5/1967;” VKĐTT,
28:1967, 2003:503 (tổng công kích tổng khởi nghĩa ở các đô thị và vùng
nông thôn do địch kiểm soát), 505 (đánh địch ở ngay hậu phương của
chúng)–nhằm thực hiện Nghị quyết Bộ Chính Trị tháng 10-11/1966. Tuy
nhiên, Nghị quyết tháng 3/1967 của Thường vụ Khu V chỉ nhấn mạnh vào
“đánh phá bình định,” không đề cập gì đến “Tổng công kích-Tổng khởi
nghĩa;” Ibid., 2003:560-596. Thời gian này, Bắc Kinh vẫn chủ trương phải
tiếp tục chiến đấu chống Mỹ. Ngày 10/4/1967, khi họp với Giáp và Đồng
về những kế hoạch Mỹ có thể thực hiện, Chu Ân Lai không nói gì đến vấn
đề thương thuyết; Zhai, 2000:171. Hôm sau, 11/4, Chu Ân Lai khuyến khích
Hà Nội nên tiếp tục chiến tranh. Đả kích Liên Sô và lưu ý Hà Nội về
việc Mat-scơ-va không thực hiện lời hứa giúp đỡ Trung Cộng; Ibid. Theo
một nguồn tin Nga, Giáp và Đồng long trọng hứa sẽ tiếp tục cuộc chiến;
Zhai, 2000:172. Có dư luận cho rằng Võ Nguyên Giáp không tán thành, và
bị nhóm Lê Duẩn/Lê Đức Thọ cho là “nhát.” Tuy nhiên, việc đả kích Giáp
có lẽ nằm trong chiến dịch thanh trừng sâu rộng hàng ngũ CSBV, tức loại
bỏ hầu hết tay chân thân tín của Hồ Chí Minh, để Duẩn củng cố quyền lực.
Ngay đến Phạm Ngọc Thạch, y sĩ riêng của Hồ, cũng bị đi B, chết trong
năm 1968. Xem Nguyên Vũ, Paris: Xuân 1996 (Houston: Văn Hoá, 1997), tr.
25-26; Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con người & huyền thoại, tập III:
1945-1969 (đang in). Nên lưu ý thêm là trong thời gian này, một loạt
những cuộc thanh trừng xảy ra ở miền Bắc (Nguyễn Văn Vịnh, Nguyễn Minh
Cần, Hoàng Minh Chính, v.. v…)
24. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 14 [tháng 1/1968] đề ra những mục tiêu sau: kéo
cho được lực lượng cơ động của địch ra ngoài để tiêu diệt; hướng công
kích chủ yếu là các thành thị; khởi nghĩa tại các vùng nông thôn và quận
lỵ bị tạm chiếm; phải lập tức kết hợp phát động quần chúng khởi nghĩa;
Thành lập Mặt Trận thứ hai và tổ chức chính quyền mới; thành lập Chính
phủ trung ương và chính quyền địa phương; VKĐTT, 29:1968, 2004:41-68. Đã
có nhiều biên khảo về trận Điện Biên Phủ. Đáng lưu ý nhất là các hồi ký
của Võ Nguyên Giáp, Lê Trọng Tấn, Henri Navarre, v.. v… Nhiều tài liệu
văn khố Pháp, Mỹ và Trung Cộng cũng đã mở. Nhưng vì một lý do nào đó,
Quân ủy TW Đảng CSVN vẫn chưa giải mật các công điện, báo cáo về chiến
dịch này. Xem Chính Đạo, “Từ Điện Biên Phủ tới Geneva;” Cuộc Thánh Chiến
Chống Cộng (2004). Lê Duẩn, thuở sinh thời, cũng có vẻ đánh giá thấp
chiến công Điện Biên Phủ (trận Điện Biên Phủ chỉ sử dụng 40,000 bộ đội;
trận Quảng Trị tới 70,000).
25. Theo hồi ký
Tổng thống Johnson, ấn hành năm 1971, ông đã dự đoán được cuộc tấn công
kamikaze này từ cuối năm 1967, và tâm sự với một số viên chức cao cấp
Australia và ngay cả Paul VI, khi ghé Roma nhờ Paul VI móc nối với Hà
Nội về các vấn đề thương thuyết, tù binh và lính Mỹ mất tích. Điều khiến
Johnson ân hận là đã không báo động cho dư luận Mỹ trong bài diễn văn
thường niên đọc trước Quốc Hội ngày 17/1/1968. Xem Johnson, The Vantage
Point: Perspectives of the Presidency, 1963-1969 (New York: Holt,
Rinehart and Winston, 1971), tr. 379-380. Sẽ dẫn: Johnson 1971. Thực ra
các chuyên viên tình báo và giới chức quân sự không biết chắc thời điểm
(trước hay sau Tết) và biên độ (trên 40 tỉnh lỵ, thị xã, thành phố) của
cuộc tổng tấn công. Xem chương I và II, supra. Những tài liệu về trận
Mậu Thân bằng Việt ngữ không nhiều. Về phe VNCH, có Phạm Văn Sơn và Lê
Văn Dương. Cuộc Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân
1968 (Sài Gòn: 1968); Bùi Đức Lạc, “Mậu Thân ở Huế;” Lên Đường
(Houston), I: 3 (1/2/1989), tr. 105-119; Hoàng An, Thanh Liêm, Thanh
Nhã, Tết Mậu Thân 1968: Sài Gòn Máu Lửa (Sài Gòn: 1968). Phía CSBV có
Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng, Thành Ủy Huế, Huế, Xuân 1968 (Huế: 1988);
Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng, Thành Ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, Tổng Tấn
Công và Nổi Dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn-Gia Định (Sài Gòn: 1988);
Mậu Thân Sài Gòn (Sài Gòn: NXB Trẻ/TPHCM, 1988). Xem thêm William C.
Westmoreland, Report on Operations in South Vietnam, January 1964-June
1968 (Washington, DC: GPO, 1968) và Vietnam, l’heure décisive:
L’offensive du Têt, Frévrier 1968 (Paris. Edition Laffont, 1968).
26. VKĐTT, 29, 2004:1-40. Về nghị quyết 12, tháng 12/1965, xem Ibid., 26:1965, 2003:622.
27.
Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Penguin Books, 1984), tr.
523. Sẽ viết tắt: Karnow 1984. Về lược sử Trần Độ, xem Nguyên Vũ,
“Chuyến tàu thống nhất;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 85, tháng
10-11/2005, tr. 144-145.
28. Từ ngày
21/1/1968, BCT đã mật lệnh cho Phạm Hùng, Võ Chí Công và Trần Văn Quang
thành lập Liên Minh Dân tộc, Dân chủ và hòa bình. Tổ chức này có cờ hình
chữ nhật, với hai giải đỏ kẹp vào giữa một giải màu xanh da trời (giống
cờ MT/GPMN), với ngôi sao vàng. Sẽ thành lập cấp Ủy Ban ở các thành phố
lớn; cơ quan trung ương đặt tại Sài Gòn. Chính quyền cách mạng sau này
sẽ là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 8/4/1968, Nguyễn Duy Trinh gửi
điện mật cho TWC, yêu cầu cho ra Mặt Trận II. Ngày 8/5/1968, BCT gửi
điện cho Phạm Hùng: Chưa nên lập chính phủ liên hiệp tại miền Nam ngay.
Ngày 14/5/1968, BBT gửi điện cho Khu ủy Trị-Thiên: Liên Minh của Lê Văn
Hảo ở Huế nên bày tỏ thái độ với MT/GPMN. Xem thêm Điện mật số 44, ngày
8/2/1968, BCT gửi Phạm Hùng và TWC (Phê bình về bản tuyên cáo khẩn cấp
của Liên Minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình do đài B phát
đi ngày 7/2/1968: Tuyên ngôn này có những điểm không có lợi. Phải mềm
dẻo để Mỹ có thể thương thuyết. Tuyên ngôn ở Huế tốt); VKĐTT, 29:1968,
2004:165, 171-174, 208-215, 243-244, 253-254.
29.
Theo tài liệu Mỹ, từ 1/1/1961 tới 31/1/1968, số CS chết ước lượng
khoảng 259,447 người, và bị thương 389,171; so với 54,137 VNCH chết,
117,528 bị thương, 27,448 bị bắt hay mất tích. Mỹ chết 16,945 người, bị
thương 56,237, bị bắt 232, và mất tích 748; LBJL, NSF, Vietnam Country
File, Box 104. Theo một nguồn tin khác, trong năm 1967 có 8,534 Cộng sản
tử trận, và 27,178 người về hồi chính. Trong số này, 17,671 bộ đội.
Hoàng Ngọc Lung, The General Offensives of 1968-1969 (Washington D.C.:
U.S. Army Center of Military, 1978), tr. 10; sẽ viết tắt: Lung 1978.
Thượng tướng CS Đặng Vũ Hiệp, trong tập hồi ký nặng tính chất tuyên
truyền kiểu Mao-ít, cũng ghi nhận những khó khăn muôn mặt của cán binh
CSBV tại Mặt Trận Tây Nguyên (B-3) từ 1965 tới 1967; Idem., Ký ức Tây
Nguyên (Hà Nội: NXB Quân đội Nhân Dân, 2002). Hiện nay, nên ghi nhận,
còn khoảng 300,000 quân nhân CSBV bị chết nhưng không tìm được xác. Mặc
dù vấn đề công bố xác chết Cộng sản của phe Đồng Minh và VNCH thường
không đúng sự thực, và phóng đại quá đáng, câu chuyện khôi hài bên lề
Quốc Hội Mỹ về cái gọi là Body count (sau này được giới phản chiến Mỹ
khai thác tối đa) chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về quân sự của ông dân
biểu đã nêu ra câu hỏi: “Nếu Cộng sản tổn thất như thế, tại sao phải xin
thêm viện quân?” Thực ra, việc thay thế quân số tổn thất là lẽ thường.
Một nguồn tin khác nữa ghi nhận có khoảng 129,200 quân chính qui Cộng
Sản ở miền Nam năm 1967; gồm 9 Sư đoàn, 45 Trung đoàn và 230 Tiểu đoàn.
Năm sau, số Cộng quân tăng lên 147,200 người, gồm 10 Sư đoàn, 152 Trung
đoàn, 274 Tiểu đoàn. 75 phần trăm cán binh thuộc thành phần “sinh Bắc,
tử Nam;” U.S. News & World Report, 12/8/1968.
30.
Theo tin quân sự Mỹ, Nguyễn Chí Thanh chết vì bị thương trong một cuộc
oanh tạc của B.52 ở vùng Mỏ Vẹt. Theo Cộng Sản, Thanh chết vì bệnh tim ở
Hà Nội. Theo Hoàng Văn Hoan, Lê Duẩn hãm hại Thanh.
31.
Năm 1973, khi theo một đơn vị của Sư đoàn 3 Bộ Binh VNCH tiến vào mật
khu an toàn của Cộng Sản thuộc vùng Quảng Nam, người viết bắt được giấy
tờ tùy thân và nhật ký của một cán bộ Cộng sản tên Trần Văn Hãnh. Tập
nhật ký nhỏ, ố vàng mầu giấy này, phần nào nói lên thảm trạng và tinh
thần sa sút của các cán binh Cộng Sản. Theo Hãnh, trong hai năm
1965-1966, cán binh đã bẻ trộm ngô (bắp), sắn (mì) của dân chúng, hay
dùng lựu đạn và cốt mìn bắt cá. Sức khỏe sa sút, vô vàn cực nhọc mới
mang nổi cấp số vũ khí và đạn dược cơ hữu (khoảng 60 cân Tây). Lúc nào,
nơi nào, Hãnh cũng nhớ đến người vợ giáo viên tên Sơn, và đứa con không
biết mặt cha, ở Thanh Hóa. Trong một tập hồi ký về Tết Mậu Thân ở Huế,
Lê Minh–người chỉ huy mặt trận, Phó Bí thư Trị-Thiên-Huế, đặc trách an
ninh, kiêm Bí thư Thành ủy Huế–cũng thú nhận nạn thiếu ăn, thiếu quân
số, và sức khỏe suy sụp của Trung đoàn E-6: Cả Trung đoàn chỉ có 1,800
quân, không Tiểu đoàn nào tới 350 tay súng, mỗi tiểu đội chỉ chừng 7
người. Vì thiếu ăn, có Tiểu đoàn với 320 lính mà chỉ có “70 người chiến
đấu được, còn thì đau ốm;” Huế 1988:43.
32.
Tại Huế, 60 phần trăm tổng số hơn 5,000 quân CS tham chiến bị thương
vong; Huế 1988:72. Xem thêm những phụ bản về tổn thất trong Chính Đạo,
Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại?, tái bản lần thứ hai, (Houston: Văn Hóa,
1998).
33. FRUS, 1961-1963, II:544-545. Ung
Văn Khiêm (1908-?), tốt nghiệp trường sĩ quan Hoàng Phố năm 1929, gia
nhập Đảng CSĐD từ năm 1930. Năm 1932, bị kết án 20 năm khổ sai. Từ 1949
tới 1951, Ủy viên Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, rồi Ủy viên
Trung ương cục miền Nam; SHAT (Vincennes), 10H 3990, 3976, 3980. Tháng
2/1953, là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động VN. Bộ trưởng
Ngoại Giao từ ngày 23/1/1961; VKĐTT, 22:1961, 2002:115-117. Tháng
6/1961, cầm đầu phái đoàn VNDCCH tham dự Hội nghị QT (14 nước) về Lào.
Năm 1964, mất chức Ngoại trưởng. Về những cuộc tiếp xúc bí mật giữa Hà
Nội và Oat-shinh-tân, xem Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị (1997).
34.
Xem Chính Đạo, 55 Ngày & 55 Đêm: Cuộc sụp đổ của VNCH, tái bản lần
thứ năm (Houston: Văn Hoá, 1999), phần I. Xem thêm U.S. Department of
Defense, United States-Vietnam Relations, 1945-1967, 12 books
(Washington, DC: GPO, 1971). Tập nghiên cứu được biết như “Tài liệu Ngũ
Giác Đài” [The Pentagon Papers] này do McNamara cho lệnh biên soạn năm
1967, và tiết lộ cho báo Washington Post và New York Times năm 1971.
Chúng tôi sử dụng bản của Bộ Quôc Phòng; và, đôi chỗ, sử dụng ấn bản của
Thương Nghị sĩ Gravel năm 1971 (5 tập; sẽ dẫn: [The Pentagon Papers
(Gravel)]). Bộ trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara là một trong những
người chủ hòa đầu tiên. Xem Idem., In Retrospect: The Tragedy and
Lessons of Vietnam. (New York: Time Books, 1995), tr. 262.
35.
Hiện nay, các tài liệu CS đều ghi Hội nghị thứ 14 diễn ra vào tháng
1/1968. Chỉ riêng tập Việt Nam Những Sự Kiện, 1945-1986 của Viện Sử Học
Hà Nội (ấn bản 1990) ghi là Hội nghị 14 khóa III họp vào tháng 6/1967.
Chi tiết trên có vẻ chính xác hơn, vì dịp này “Sáu Vi” (Thanh) đang có
mặt ở Hà Nội (hoặc mới từ trần). Về Đề cương báo cáo của Văn Tiến Dũng
ngày 23/1/1967, Nghị quyết của BCT ngày 27/1/1967 và Nghị quyết Hội nghị
thứ 13 ngày 27/1/1967; xem VKĐTT, 28:1967, 2003:116-140, 141-170,
171-179.
36. Sách Trắng; Sự thật về quan hệ
Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà Nội: Sự Thật, 1979), tr. 45-46.
Tham dự buổi hội thảo này có HCM, Lê Duẩn, Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh),
Nguyễn Chí Thanh, Kaysone Phomvihane (Làp) và D.N. Aidit (Đảng CS
Indonesia). Bắc Kinh đửa ra “ba chống” [sam fan]: Chống đế quốc
[Anti-imperialism], chống phong kiến [anti-feudalism] và chống thư lại
tư bản [anti-bureaucratic capitalism]. Bốn phương pháp để thực hiện các
mục tiêu trên: vận động quần chúng và mở rộng mặt trận thống nhất; đấu
tranh vũ trang ở nông thôn và thành lập căn cứ; củng cố lãnh đạo đảng
trên mọi phương diện; và gia tăng liên hệ giữa các nước và trợ giúp lẫn
nhau. Chu Ân Lai hứa sẽ biến thành hậu phương của các phong trào cách
mạng tại Đông Nam Á. Chu cũng đề nghị những biện pháp thực tiễn để tiếp
cận chiến tranh chống phản loạn của Mỹ; Zhai, 2000:117-119. Tài liệu
Sách Trắng năm 1979 của Hà Nội, và thanh minh của Bắc Kinh là những tài
liệu đặc biệt phản ánh tình “môi hở răng lạnh” giữa hai nước anh em thù
nghịch này từ 1950 tới 1977. Hoàng Văn Hoan, qua hồi ký Giọt nước trong
biển cả (Bắc Kinh: 1986) và báo tháng Tin Việt Nam (Bắc Kinh) cũng cung
cấp một số chi tiết phản bác Lê Duẩn.
37.
Nguyên văn: “Don’t worry when you borrow from China. You can pay the
Chinese debts whenever you are ready and it is all right even if you do
not pay;” Zhai, 2000:124.
38. Mao gửi Hồ, 27/12/1963; Mao wengao, 10:465-66; dẫn trong Zhai, 2000:120.
39. Sách Trắng, 1979:47-48; Zhai, 2000:134-135.
40.
Ngày Thứ Bảy, 15/4/1967, Mục sư Martin Luther King cầm đầu 200,000
người biểu tình chống chiến tranh tại New York. Ngày này, 50,000 người
biểu tình chống chiến tranh ở San Francisco. Năm 1978, khi tác giả tới
Đại học Wisconsin-Madison để bắt đầu chương trình Tiến sĩ Sử học Đông
Nam Á, còn nhiều khẩu hiệu như “Long Live Ho Chi Minh” [Hồ Chí Minh Muôn
Năm] trên các vách tường ở khu trung tâm thị xã (downtown), dấu tích
của phong trào phản chiến trong thập niên 1970. Một cựu Thiếu tá Không
quân Mỹ tâm sự rằng ngày mới hồi hương, “bọn hippies gọi chúng tôi là lũ
sát nhân.” Tại Việt Nam, từ năm 1969-1970, đã có tinh thần phản chiến
ngay trong các giới quân viễn chinh Mỹ.
41.
Theo Colby, sau này Adams tỏ vẻ hối tiếc đã công bố bức hình trên. Xem
thêm nhận xét về giới truyền thông của Tướng Lansdale, thuộc Văn Phòng
Liên Lạc Đặc Biệt (SLO), trong những báo cáo mới giải mật năm 1996-1997;
LBJL, NSF, Vietnam Country File, Boxes 104, 107.
42.
Thiệu biết rõ loại tin đồn này. Có lần, khi được tin sắp có đảo chính,
Thiệu mời Khang vào Dinh Độc Lập ăn tối, rồi cầm chân Khang một thời
gian khá dài, trước khi cho về. Tháng 8/1968, Thiệu cất chức Tư lệnh QĐ
III của Khang (trên danh nghĩa từ chức vì để xảy ra vụ tai nạn “hỏa lực
bạn” ở Chợ Lớn. Theo Bunker, mặc dù Kỳ đã phẫn chí rút về Nha Trang, từ
tháng 4 tới tháng 7/1968, Thiệu ba lần báo động có đảo chính; Báo cáo
ngày 11/7/1968, Bunker gửi Tổng thống; CĐ 39970, 10/10/1968, Bunker gửi
Ngoại Giao.
43. Trong một báo cáo về Tướng
Loan vào tháng 9/1967, Lansdale ghi nhận một chuyện vui bên lề cuộc biểu
tình của Phật giáo ngày 13/9/1967: Loan ngồi trên lề đường, một tay
choàng ngang vai Đại Đức Hộ Giác, tay khác cầm chai bia “33,” chuyện trò
rất thân mật. Lansdale ghi nhận: Chẳng có ký giả ngoại quốc nào muốn
chụp hình Loan và Hộ Giác thân mật ngồi bên nhau; chỉ thấy họ chụp hình
Tổng Giám Đốc CSQG Việt Nam Cộng Hòa ngồi trên lề đường uống bia, một
mình. Nên ghi thêm là từ năm 1966, chính sách Phật Giáo của Mỹ đã thay
đổi hầu như 180 độ. Một viên chức cao cấp Mỹ cho rằng Thượng tọa Trí
Quang, nếu không phải là Cộng Sản, thì cũng đang thủ diễn vai trò một
Kerenski [mở đường cho Cộng Sản lên cầm quyền ở Nga].
44.
Về Trần Văn Ân, xem Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, tập III: Nhân Vật
Chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hoá, 1997). Xem thêm những hoạt
động và phê bình của Thủ tướng Trần Văn Hữu về Ân trong Chính Đạo, Việt
Nam Niên Biểu, 1939-1975, tập I-B: 1947-1954 (Houston: Văn Hoá, 1997).
Về liên hệ giữa Ân với Lansdale, xem LBJL, NSF, Vietnam Country File,
Box 107.
45. Tại hải ngoại, Tôn Thất Thiện
tiếp tục đánh bóng chế độ Ngô Đình Diệm và đả kích các Tướng làm đảo
chính năm 1963. Thiện hay viết báo, dạy cách viết “sử” hay phê bình “sử”
theo lối tuyên truyền nhồi sọ ngày còn phụ trách Việt Tấn Xã (kiểu ba
tập tài liệu về cuộc tranh đấu của Phật Giáo đệ nạp cho phái đoàn điều
tra Liên Hiệp Quốc)–dù chính Thiện có rất ít kiến thức sử học. Ngoài ra,
Thiện còn bí mật vận động gửi tiền về “mua chuộc người trong nước.”
Chính sách “hoà giải, hòa hợp” này, thực ra, là con dao hai lưỡi. Mới
đây, nhóm Tôn Thất Thiện đã bị Nguyễn Hộ tố cáo là mạo danh ông ta lập
“mặt trận ma.”
46. Báo cáo ngày 20/3/1968, Bunker gửi Tổng thống; Bunker, 1990, II:388.
47.
Bùi Thị Nga, “Xuân Mậu Thân 1968: Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân
chủ và Hòa bình Việt Nam và chính phủ Cách Mạng Lâm thời Cộng Hòa miền
Nam Việt Nam;” Làm đẹp cuộc đời (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc Gia, 1995),
tr. 318, 320. Tháng 10/1968, hai ủy viên của Liên Minh là Trần Quang
Long và Trần Triệu Luật chết vì bom; Lê Hiếu Đằng, “Nhớ mãi tấm lòng và
đức độ của người trí thức ấy;” op. cit., tr. 324. Sau 1975, hầu hết
những người sống sót của Liên Minh đều sinh hoạt trong Mặt Trận Tổ Quốc.
48. Báo cáo ngày 9/4/1968, Lansdale gửi Bunker; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 107.
49.
Thiếu tá Nguyễn Mâu, một hung thần của Phật Giáo tại Huế từ ngày 20/8
tới 1/11/1963, được khôi phục làm Phụ tá Chánh sở Cảnh Sát Đặc Biệt từ
năm 1967-1968, đã tìm mọi cách khích động Trần Văn Hương bài Phật Giáo.
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (TP/HCM) có nhiều hồ sơ về hoạt động chống
và vu cáo Phật Giáo của Mâu. Xem danh sách sơ lược các tài liệu chúng
tôi đã tham khảo trong Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84, tháng
8-9/2005, tr. 203-206.
50. Báo cáo ngày 29/2/1968, Bunker gửi Tổng thống; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 105.
51. Nguyễn Văn Linh, Thành Phố Hồ Chí Minh 10 Năm (Sài Gòn: 1985) tr. 51. Sẽ viết tắt: Linh 1985.
52. Trần Văn Trà, Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, 2 tập (Houston: Văn Hóa, 1987) tập I:58. Sẽ dẫn: Trà 1987.
53.
Nghị quyết số 183/NQ/TW ngày 16/10/1968 [Lê Duẩn ký]; VKĐTT, 29:1968,
2004:478-481) Lê Chưởng vẫn giữ chức Chính ủy kiêm Phó Bí Thư. Trần Văn
Quang (Trần Khắc Kính) chỉ còn chức Phó Bí thư Quân Khu; Huế 1988:83.
Năm 1974, Quang được điều ra Hà Nội, làm Phó Tổng Tham Mưu Trưởng.
Quang, tưởng nên ghi nhận thêm, từng là tác giả một báo cáo về tình
trạng tù nhân và lính Mỹ mất tích, gây sôi nổi dư luận Mỹ một thời vào
đầu thập niên 1990.
54. Huế 1988:71. Tại Sài
Gòn, Lansdale thúc dục các giới chức Việt phải khai thác tối đa những
cuộc thảm sát ở Huế. Nữ văn sĩ Nhã Ca sau này đoạt giải thưởng văn
chương qua tập Giải Khăn Sô Cho Huế.
55. Xem
United States Senate, Committee on Foreign Relations, Vietnam, May
1972. A Staff Report (Washington: GOP, 1972). Xem thêm Cao Văn Vien
& Dong Van Khuyen, Reflections on the Vietnam War (Washington D.C.:
US Army Center of Military History, 1980), tr. 103-115; Ngô Quang
Trưởng, The Easter Offensive, Indochina Monographs (Washington, D.C.: US
Army Center of Military History, 1980).
56. Mãi tới năm 1969 thuật ngữ Việt nam hoá [Vietnamization] mới thành hình, dưới thời chính phủ Richard Nixon (1969-1974).
57.
Đa số con cháu Tướng, Tá và các chính khách “du học” chưa hẳn đã xuất
sắc. Hoàng Đức Nhã, chẳng hạn, “du học” ở một trường nhỏ miền Đông
Texas, nhưng về nước, làm Bí thư cho Thiệu, lên tới chức Tổng trưởng Dân
Vận-Chiêu Hồi, và rất kiêu ngạo. Hội Ái Hữu Các Cựu Sinh Viên Đại Học
Mỹ qui tụ hầu hết những thành phần con ông, cháu cha này. Trong hai năm
1967-1968, Chủ tịch Hội trên có liên hệ chặt chẽ với cơ quan CIA Mỹ.
58.
Xem Nguyên Vũ, Xuân Buồn Thảm: Những Ngày Cuối Cùng của Nam Việt Nam,
tái bản (Houston: Văn Hoá, 1991), chương II. Theo Lansdale, trước năm
1968, người có liên hệ vào việc mua bán chức Tỉnh trưởng này là vợ Đại
tướng Cao Văn Viên; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 104; trích đăng
trong Nguyên Vũ, Paris: Xuân 1996, Phụ bản 12, tr. 231.
59. LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 104.
60.
Nên ghi nhận là thời gian này Bắc Kinh vẫn còn muốn Hà Nội phải đốt
cháy hết Trường Sơn. Ngày 13/4/1968, sau khi Hà Nội chấp thuận thương
thuyết, Chu Ân Lai trách Phạm Văn Đồng đã nhân nhượng Mỹ hai điểm: Đồng ý
thương thuyết khi Mỹ mới chỉ tạm ngưng oanh tạc phía Bắc vĩ tuyến 20
(thay vì ngưng oanh oanh tạc toàn miền Bắc; và chọn Paris thay vì Phom
Penh hay Warsaw. Ngày 7/5/1968, Chu Ân Lai trách Xuân Thủy, người phụ
trách bang giao quốc tế, là Hà Nội đã quá vội vã khi nhận thương thuyết.
Mao Trạch Đông đã nói với Phạm Văn Đồng là đồng ý thương thuyết, nhưng
phải thương thuyết ở vị thế cao. Lai thì bảo Xuân Thủy là Hà Nội đã
khiến Mỹ thu được tại bàn hội nghị những gì không lấy được ở chiến
trường. Từ tháng 5 tới tháng 10/1968, Bắc Kinh tiếp tục đả kích việc
thương thuyết. Zhai, 2000:172-173. Xem thêm hồi ký Mai Văn Bộ về thái độ
của Tòa Đại sứ Trung Cộng ở Paris trong thời gian hòa đàm.
61.
New York Times, 10/3/1968. Theo McNamara, ngày 23/2/1968, tức bốn ngày
trước khi rời Ngũ Giác Đài, ông ta bác bỏ đơn xin tăng viện; In
Retrospect, 1995:315.
62. Xem Chính Đạo, Mậu Thân 68, 1998:Phụ Bản III.
63.
Johnson đã có ý định không ra tái tranh cử từ trước ngày bầu cử sơ khởi
của Đảng Dân Chủ tại New Hampshire; Johnson 1971:451. Bắc Kinh, tưởng
nên ghi nhận, chưa muốn hòa đàm. Ngày 29/6/1968, Chu Ân Lai bảo Phạm
Hùng rằng Hà Nội rơi vào bẫy của Mat-scơ-va và nhường thế tiên cơ cho
chính phủ Johnson. Ngày 1/11/1968, sau khi Johnson tuyên bố ngưng oanh
tạc miền Bắc, báo chí Trung Cộng mới đề cập đến vấn đề hòa đàm ở Paris.
Ngày 17/11/1968, Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn Đồng rằng Mao đồng ý
chiến lược “vừa đánh, vừa đàm.” Nhưng từ năm 1968, Bắc Kinh cũng bắt đầu
đi trực tiếp với MTGPMN, và tổ chức các lực lượng Hoa kiều tại miền
Nam; Sách Trắng, 1979:51-54; Zhai, 2000:173-175. Năm 1979, Hà Nội công
khai tố cáo Bắc Kinh đã phản bội nhân dân Việt Nam, “đàm phán với Mỹ
trên lưng nhân dân Việt Nam;” Sách Trắng, 1979:55-71.
64.
Sau khi Johnson tuyên bố ngày 31/3/1968, Hà Nội “tiến công ngoại giao”
bằng tuyên cáo ngày 3/4/1968, là sẵn sàng gặp Mỹ. Ngày 3/5/1968, Hà Nội
đề nghị họp tại Paris. Ngày 13/5/1968, Mỹ đồng ý. Xem Chính Đạo, Mậu
Thân 68, 1998:Phụ Bản II. Xem thêm nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 15
(29/8/1968); VKĐTT, 29:1968, 2004:359-392); Nguyễn Thị Bình, et al. Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris
về Việt Nam (Hà Nội: NXBCTQG, 2001).
65. Johnson đã quyết định thay Westmoreland bằng Tướng Creighton Abrams từ tháng 3/1968.
66.
Xem, chẳng hạn, báo cáo ngày 27/2/1968, Lansdale gửi Bunker; LBJL, NSF,
Vietnam Country File, Box 107. Tưởng nên ghi thêm, trong một dạ tiệc
đưa tiễn Lansdale, một nhóm thanh niên và sinh viên Ki-tô từng cung cấp
nhiều tin sai lạc về các tổ chức sinh viên không Ki-tô và thanh niên
Phật tử, tổ chức một buổi ca nhạc loại bỏ túi, trong đó có bài “Từ biệt
Ed Lansdale.” Theo Đỗ Ngọc Yến, bài này do sáng kiến của Yến; chỉ có
điều Yến không ngờ nó là bài hát để tiễn biệt một phạm nhân Mỹ bị treo
cổ; Phỏng vấn điện thoại ngày 9/11/1997.
——————————————————————
PHỤ BẢN III
BUỔI THẢO LUẬN TẠI BẠCH CUNG NGÀY 26/3/1968
Ngày
26/3/1968, TT Lyndon B. Johnson triệu tập một buổi họp đặc biệt, gồm
những “nhà thông thái” (wisemen), tại Bạch Cung để thảo luận về tình
hình Việt Nam sau Tết Mậu Thân.
Tham dự buổi họp này có những nhân vật đáng kể sau:
– McGeorge Bundy, Cựu Cố vấn An Ninh Quốc Gia của các Tổng Thống John Kennedy và Johnson cho tới năm 1966.
– Arthur Dean, một nhà ngoại giao kinh nhiệm, từng thương thuyết hiệp ước đình chiến ở Đại Hàn năm 1953.
– Cyrus Vance, nguyên Thứ trưởng Quốc Phòng của chính phủ Johnson.
– Douglas Dillon, cựu Bộ trưởng Ngân Khố.
– Tướng Omar Bradley, Tổng Tham Mưu Trưởng thời TT Harry Truman.
– Tướng Maxwell Taylor, cựu Đại sứ ở Việt Nam.
– Robert Murphy, một nhà ngoại giao kỳ cựu từ thập niên 1930.
– Tướng Matthew Ridgway, cố vấn quân sự của TT Dwight Eisenhower.
– Henry Cabot Lodge, nguyên Đại sứ tại Liên Hiệp Quốc và Việt Nam.
– George Ball, cựu Thứ trưởng Ngoại Giao dưới thời TT Kennedy và Johnson.
– Dean Acheson, cựu Ngoại trưởng thời TT Truman, nổi danh là một “cold warrior” (chiến binh chiến tranh lạnh Mỹ-Nga).
Thái
độ chống chiến tranh Việt Nam của Dean Acheson–người từng cổ võ việc
ngăn chặn luồng sóng đỏ tràn ngập Đông Dương 18 năm trước–có ảnh hưởng
lớn đến quyết định của TT Johnson.
Hai tài liệu dưới
đây trích ra từ hồ sơ “Meeting with Special Advisory Group” (Họp với
Nhóm Cố Vấn Đặc Biệt), ngày 26/3/1968, Hồ Sơ Ghi Chép các Buổi họp, Hộp
2, LBJL [Austin, Texas]).
TÓM LƯỢC CÁC GHI CHÚ
26/3/1968
McGeorge Bundy: Có một sự thay đổi lớn về vị thế của chúng ta. Buổi họp trước chúng ta thấy nhiều lý do để hy vọng.
Chúng
ta đã hy vọng rằng sẽ có tiến triển đều đặn, dù chậm. Đêm qua và ngày
hôm nay, sự việc không còn đầy hy vọng như trước, đặc biệt là ở vùng
nông thôn.
Dean Acheson: Tóm lược ý kiến của đại đa
số khi ông nói rằng với khoảng thời gian còn lại, chúng ta không thể
tiếp tục hoàn tất những việc chúng ta định làm, và chúng ta phải bắt đầu
việc giải kết.
Ý kiến này được những người sau đồng ý:
George Ball
Arthur Dean
Cyrus Vance
Douglas Dillon
và chính tôi (McGeorge Bundy)
Chúng
tôi đều nghĩ rằng chúng ta (Mỹ) phải làm bất cứ điều gì để giúp chính
phủ Nam Việt Nam mạnh hơn một cách thiết thực và rõ ràng.
Có 3 người trong chúng tôi có quan điểm khác:
– Tướng Bradley
– Tướng Taylor
– Bob Murphy
Họ nghĩ rằng chúng ta không nên tự làm suy yếu vị thế của mình và cần làm những gì mà các tướng lãnh yêu cầu.
Tướng
Ridgway có một quan điểm khác. Ông muốn giúp Quân lực Nam Việt Nam hùng
cường hơn để có thể hoàn thành nhiệm vụ trong 2 năm.
Khi
thảo luận, Ball, Goldberg và Vance đề nghị phải ngưng oanh tạc lúc này.
Những người khác đồng ý ngưng oanh tạc, nhưng phải đợi cho tình thế
Vùng I/CT sáng sủa hơn.
Về việc gửi thêm quân (qua
VN), cảm nghĩ chung là những người xin tăng viện cần phải chứng tỏ rõ
ràng lý do xin tăng quân. Tất cả chúng tôi nghĩ rằng cần có một cuộc leo
thang quan trọng. Chúng tôi cũng đồng ý rằng không nên mở rộng thêm
chiến tranh. Điều này đi ngược lại quyền lợi quốc gia chúng ta.
Không thể nghĩ đến việc xử dụng bom nguyên tử.
TÓM LƯỢC
RIDGWAY: Tôi đồng ý với bản tóm lược của McGeorge Bundy.
Arthur
DEAN: Tôi đồng ý. Tất cả chúng ta đều có cảm giác là không nhìn thấy
được một giải pháp quân sự nào. Chúng ta cảm thấy không còn đủ thời gian
nữa.
DEAN ACHESON: Đồng ý với sự trình bày của
Bundy. Nỗ lực của chính phủ Việt Nam hay Mỹ đều không thể thành công
trong thời gian còn lại. Thời gian bị giới hạn bởi những phản ứng trong
nước (Mỹ). Chúng ta không thể xây dựng một miền Nam Việt Nam độc lập.
Bởi thế, ta phải làm một cái gì đó chậm nhất là vào cuối Hạ (1968).
HENRY
CABOT LODGE: Chúng ta phải đổi từ chiến lược “truy diệt” sang chiến
thuật xử dụng sức mạnh quân sự (Mỹ) làm lá chắn cho phép xã hội miền Nam
phát triển tốt đẹp như xã hội miền Bắc có đủ khả năng thực hiện. Ta cần
tổ chức miền Nam theo căn bản khu-phố-bên-những-khu-phố,
quận-bên-những-quận.
DOUGLAS DILLON: Ta phải thay đổi
trọng tâm (chính sách). Tôi đồng ý với Acheson. Buổi thuyết trình tối
qua khiến tôi đi đến kết luận là ta không thể đạt chiến thắng quân sự.
Tôi đồng ý với Lodge rằng phải ngừng chiến thuật truy diệt, và chuyển
sang giải kết. Tôi sẽ chỉ gửi số quân cần thiết sang (Việt Nam) để hổ
trợ lực lượng đã ở đó.
GEORGE BALL: Tôi cùng một quan
điểm với Acheson. Từ năm 1961, tôi đã nghĩ rằng ta không thể đạt được
mong muốn ở đó. Tại Hoa Kỳ, dư luận rất chia rẽ. Trên thế giới, việc
oanh tạc (Bắc Việt) khiến chúng ta bị mất uy tín. Đó chính là điểm thất
bại trọng tâm của (chính sách) chúng ta. Oanh tạc (Bắc Việt) có nhiều
điểm bất lợi hơn hữu ích. Ta cần ngưng oanh tạc trong vòng 6 tuần lễ để
trắc nghiệm thiện chí của Bắc Việt. Càng kéo dài thời gian oanh tạc,
càng khiến ta bị cô lập với thế giới văn minh. Tôi muốn Giáo Hoàng hay
(Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc) U Thant đưa ra đề nghị ngưng oanh tạc. Tổng
Thống (Johnson) không thể tự mình tuyên bố điều này.
Ngưng oanh tạc sẽ khiến tình hình trong nước lắng dịu xuống.
CY VANCE: McGeorge Bundy nói lên được quan điểm của tôi. Tôi đồng ý với George Ball.
Trừ khi chúng ta phải làm một cái gì thật gấp, thái độ trong nước có thể khiến chúng ta phải triệt thoái.
Về (tăng viện), ta đừng nên gửi quá 13,000 người …
Tướng
TAYLOR: Tôi rất bất mãn. Tôi có cái nhìn khác hơn quí vị. Ta đừng nên
hàng phục ở mặt trận trong nước. Cần phải có phản ứng.
[Thẩm
phán Tối cao Pháp viện] FORTAS: Hoa Kỳ chưa hề có ý định đạt được thắng
lợi quân sự ở đó; ta luôn luôn muốn đạt một sự thỏa thuận hay duy trì
hiện trạng giữa hai miền Nam-Bắc. Tôi đồng ý với Tướng Taylor … Đây
không phải lúc phía ta thay đổi thái độ. Tôi không nghĩ rằng ngưng oanh
tạc sẽ đem lại điều gì tốt đẹp ở thời điểm này. Tôi không tin là nên
thay thế một thảm kịch bằng một thảm kịch khác.
ACHESON:
Vấn đề không giống như Fortas nêu ra. Vấn đề là chúng ta có thể làm
được những gì chúng ta đang muốn làm ở Việt Nam chăng? Tôi nghĩ là
không. Fortas nói chúng ta không cố gắng đạt một chiến thắng quân sự.
Vấn đề là liệu chúng ta có thể sử dụng quân sự ngăn cản người Bắc (đừng
xâm lấn) người Nam? Tôi không nghĩ vậy. Người Bắc có thể lươn lẹo, dồn
người Nam vào đường cùng, và bẻ nát họ.
No comments:
Post a Comment