Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 11 June 2014

VIỆT NAM & TRUNG QUỐC

 


Gió Chướng Từ Trung Quốc

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2014-06-10
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Tàu cá Trung quốc tràn ngập biển Đông thời gian gần đây
Tàu cá Trung quốc tràn ngập biển Đông thời gian gần đây
Photo: RFA

Hôm Thứ Tư 11 Tháng Sáu, Ngân hàng Thế giới vừa công bố tại thủ đô Washington một báo cáo cập nhật về tình hình kinh tế thế giới, với những điều chỉnh bi quan hơn cho các nền kinh tế đang phát triển trong suốt năm 2014. Đáng chú ý trong tài liệu này là cách lượng định về những rủi ro hay "gió ngược" xảy ra cho kinh tế toàn cầu. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu riêng về những rủi ro xuất phát từ nền kinh tế Trung Quốc. Xin quý thính giả theo dõi phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây cùng chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, sau dự báo lạc quan về kinh tế thế giới trong năm 2014 được đưa ra hồi Tháng Giêng năm nay, Ngân hàng Thế giới đã cập nhật lại tình hình. Trong báo cáo vừa công bố hôm Thứ Tư thì định chế tài chính này hạ thấp hy vọng tăng trưởng của kinh tế toàn cầu với những dự đoán bi quan hơn cho các nước đang phát triển. Chúng tôi đề nghị ông nhắc lại sơ qua những dự báo này và tập trung giải thích cho thính giả của chúng ta về những rủi ro cho thế giới xuất phát từ Trung Quốc vì ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu phơi bày những nhược điểm kinh tế của Trung Quốc.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ở đời thì chẳng có gì là bất biến cho nên sau những nghiên cứu và dự báo thì người ta thường xuyên điều chỉnh lại theo thực tế. Ngân hàng Thế giới đã cập nhật các dữ kiện thu thập, chủ yếu là tình hình trong quý một của năm nay, với những chi tiết mới nhất là vào tuần trước, để đưa ra những dự phóng cho toàn năm và cho hai năm tới.

- Một cách đại lược thì đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay không được là 3,2% như dự đoán mà chỉ còn là 2,8%, tức là một sự giảm sút đáng kể, và bản thân tôi thì cho là đáng ngại. Chúng ta không quên định chế tài chính quốc tế kia là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF thì định nghĩa suy trầm toàn cầu là nếu đà tăng trưởng bình quân của thế giới chỉ được có 2,5% thôi. Cũng theo Ngân hàng Thế giới thì đà tăng trưởng năm nay của các nền kinh tế đang phát triển chỉ còn là 4,8% tức là vẫn mấp mé dưới 5% trong ba năm liền, qua hai năm tới thì mới khá hơn.
- Con số đó tổng hợp nhiều khác biệt ở từng khu vực địa dư, với các nước Đông Á Thái Bình Dương vẫn dẫn đầu với tốc độ trên 7% một năm, trong đó có Việt Nam với hy vọng tăng trưởng từ 5,4% đến 5,8%. Ngân hàng Thế giới có khuyến cáo rằng đây là cơ hội cho các nền kinh tế đang lên đẩy mạnh nỗ lực cải cách trong một hai năm tới. Bây giờ ta nói đến chuyện gió xuôi gió ngược, là những thuận lợi hay rủi ro cho các nước, rồi mới trở về chuyện rủi ro từ Trung Quốc.

Theo thống kê chính thức của Trung Quốc, tổng giá trị xuất khẩu rừng của Trung Quốc trị giá 17,2 tỷ USD trong năm 2005, tăng gấp sáu lần từ năm 1997, làm cho nó trở thành một doanh nghiệp có lợi nhuận rất lớn
Theo thống kê chính thức của Trung Quốc, tổng giá trị xuất khẩu rừng của Trung Quốc trị giá 17,2 tỷ USD trong năm 2005, tăng gấp sáu lần từ năm 1997, làm cho nó trở thành một doanh nghiệp có lợi nhuận rất lớn
Dù có tăng trưởng bình quân hơn 7%, các nước đang phát triển tại Đông Á vẫn lệ thuộc khá nhiều vào các nước đã phát triển, chủ yếu là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Vũ Hoàng: Xin đề nghị ông nhắc sơ qua về những rủi ro hay thuận lợi đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta nghiệm thấy là dù có tăng trưởng bình quân hơn 7%, các nước đang phát triển tại Đông Á vẫn lệ thuộc khá nhiều vào các nước đã phát triển, chủ yếu là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản. Không kể Nhật Bản đang đẩy mạnh việc cải cách sau khi ào ạt kích thích kinh tế thì hai khối kinh tế Âu-Mỹ đều có triển vọng khả quan hơn. Đấy là gió xuôi.

- Ra khỏi phúc trình của Ngân hàng Thế giới mà nhìn trên tổng thể thì tuần qua ta thấy là kinh tế Mỹ vừa tạo thêm việc làm bằng tổng số việc đã mất kể từ nạn suy trầm năm 2008 và sẽ hy vọng tăng trưởng mạnh hơn trong mấy năm tới. Cũng tuần qua, Ngân hàng Trung ương Âu châu đã vượt được sức cản của nước Đức mà áp dụng biện pháp hạ lãi suất tới số không để kích thích kinh tế. Như vậy, sau các ngân hàng trung ương Hoa Kỳ, Nhật Bản hay Anh quốc, ngân hàng trung ương Âu châu đã coi nặng ưu tiên tăng trưởng và tìm mọi cách bơm tiền vào kinh tế. Nhìn cách khác thì khối công nghiệp hóa Âu-Mỹ-Nhật sẽ là lực đẩy khả quan hơn cho các nước.

- Chuyện thứ hai là vụ khủng hoảng Ukraine có vẻ lắng dịu với cuộc bầu cử Tổng thống đã hoàn tất, cho xứ này một hệ thống lãnh đạo mới. Nhờ đó mâu thuẫn giữa Liên bang Nga và các nước Tây phương sẽ không gây thêm chấn động kinh tế trên cả đại lục Âu-Á. Khi đó ta mới trở về mối rủi ro của nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới là Trung Quốc, trọng tâm của đề tài kỳ này.
Vũ Hoàng: Thưa ông, Ngân hàng Thế giới đánh giá tình hình Trung Quốc ra sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là như mọi khi, định chế này vẫn có vẻ lạc quan về kinh tế của Trung Quốc. Cùng với phúc trình cập nhật về kinh tế toàn cầu mà mình vừa nhắc tới, Ngân hàng Thế giới cũng có một báo cáo riêng về Trung Quốc với lượng định là lãnh đạo Bắc Kinh nỗ lực tái quân bình cơ cấu để chuyển dần từ sách lược đầu tư sang sách lược lấy tiêu thụ nội địa làm lực đẩy và hy vọng đạt mức tăng trưởng năm nay là 7,6%, tức là vẫn còn cao hơn chỉ tiêu 7,5%.

Một công nhân đang đứng trên các thanh thép ở một côn xưởng sản xuất thép tại Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông phía đông Trung Quốc tháng 4, 2014
Một công nhân đang đứng trên các thanh thép ở một côn xưởng sản xuất thép tại Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông phía đông Trung Quốc tháng 4, 2014
- Trong khi đó, và ta bước ra khỏi phúc trình của Ngân hàng Thế giới, nhiều trung tâm nghiên cứu kinh tế của các tập đoàn đầu tư và ngân hàng quốc tế lại có những dự báo bi quan hơn. Tuần trước, chúng ta đã đề cập tới chuyện này khi nói về điểm lật Minsky của kinh tế Trung Quốc. Kỳ này, ta sẽ tìm hiểu thêm là nếu Trung Quốc không cải cách được như đã dự tính và trôi vào một vụ khủng hoảng tài chính thì kinh tế thế giới sẽ gặp những rủi ro nào?
Vũ Hoàng: Xuyên qua những gì ông vừa trình bày thì dường như kinh tế Trung Quốc vẫn ở trong tình trạng "tranh tối tranh sáng" mà ở bên ngoài mỗi nơi lại đánh giá một khác? Ông giải thích thêm về điều ấy được không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin tóm lược như thế này để mình cùng hiểu ra sự tình.
- Kinh tế Trung Quốc lấy lực đẩy từ đầu tư hơn là tiêu thụ mà còn kềm hãm mức tiêu thụ nội địa và trong năm năm qua cứ tiếp tục bơm tín dụng để kích thích kinh tế, với tổng số nợ của khu vực công quyền lẫn tư nhân đã tăng 100% kể từ năm 2008 đến nay. Sau Đại hội 18 vào cuối năm kia và Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương của kỳ ba vào cuối năm ngoái thì lãnh đạo xứ này quyết định là phải chuyển hướng để tái quân bình cơ cấu, và mặc nhiên chấp nhận đà tăng trưởng thấp hơn để chuyển hướng an toàn.
Bắc Kinh tiếp tục kích thích kinh tế và trì hoãn việc chuyển hướng. Như vậy, càng tăng trưởng cao thì càng lao vào khủng hoảng vì nợ xấu.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Thực tế lại chẳng như vậy, cuối tháng trước thì họ áp dụng kỹ thuật gia tăng mức lưu hoạt bằng cách mua trái phiếu và đầu tuần này thì bơm thêm một lượng tiền bằng 16 tỷ đô la vào kinh tế. Khi thấy kinh tế xứ này tiếp tục tăng trưởng đến hơn 7,5% thì ta phải kết luận là họ chưa thể hãm đà để sửa sai. Có thể là vì lực cản chính trị lẫn kinh doanh bên trong, Bắc Kinh tiếp tục kích thích kinh tế và trì hoãn việc chuyển hướng. Như vậy, càng tăng trưởng cao thì càng lao vào khủng hoảng vì nợ xấu.
- Các tập đoàn đầu tư tài chính của quốc tế đều theo dõi chuyện này và lặng lẽ cảnh báo thân chủ về rủi ro xuất phát từ Trung Quốc. Khác với các định chế quốc tế, giới đầu tư mà tính nhầm hay dự báo sai thì bị lỗ và mất khách cho nên ta cần chú ý tới những lượng định của họ. Sau cả chục năm ngợi ca phép lạ kinh tế Trung Quốc, nếu các tập đoàn đầu tư tài chính mà cảnh báo về rủi ro từ Trung Quốc thì ta phải quan tâm.

Vũ Hoàng: Thưa ông, vì vậy mà tuần qua chương trình chuyên đề của chúng ta mới nói đến điểm lật Minsky của Trung Quốc, là khái niệm đang được giới đầu tư nhắc đến. Bây giờ ta sẽ tìm hiểu xem rủi ro đó là những gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Kinh tế Trung Quốc đứng hạng nhì thế giới, sau Mỹ và trước Nhật. Nền kinh tế này mua bán rất nhiều với các nước khác trên thế giới, cho nên nếu họ giảm đà tăng trưởng và mua ít hơn thì các nước bán hàng cho xứ này đều bị thiệt hại. Thí dụ như trong năm 2011, Trung Quốc mua tới 28% tổng số xuất khẩu của Úc, 24% của Nam Hàn, 19% của Nhật, 14% của Malaysia. Nếu kinh tế xứ này hãm đà tăng trưởng thì các nước bán hàng nói trên đều bị thiệt hại và nguyên nhiên vật liệu sẽ giảm giá. Ngược lại, nếu kinh tế Trung Quốc vẫn cố duy trì đà tăng trưởng thì lại dễ lao vào khủng hoảng vì nợ nần. Khi ấy thì các nước trên thế giới đều bị chấn động nặng.
Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì cả hai kịch bản, là Trung Quốc có cải cách kinh tế hay không, đều tác động đến xứ khác. Tại sao lại có trường hợp kỳ lạ này?
Theo kịch bản bi quan hơn, là nếu kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng khoảng 7% một năm thì trong trung hạn, từ hai tới năm năm, khủng hoảng tài chánh sẽ bùng nổ. Chúng ta nhớ lại cơn chấn động năm 2008... Một vụ khủng hoảng như vậy tại Trung Quốc sẽ có hậu quả dữ dội hơn vì TQ bị thất quân bình còn nặng hơn
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng sau nhiều thập niên lạc quan về nền kinh tế đông dân nhất địa cầu với đà tăng trưởng là 9% một năm, thế giới nên tự chuẩn bị cho những thay đổi vài chục năm mới có một lần.
- Trong kịch bản lý tưởng là Trung Quốc chủ động giảm đà tăng trưởng để cải tổ cơ chế thì tốc độ tăng trưởng sẽ chỉ còn là 5% hoặc thấp hơn nữa trong thập niên tới. Khi đó, các nước xuất khẩu vào Trung Quốc phải tính lại hậu quả ngay từ năm tới. Thứ hai, theo kịch bản bi quan hơn, là nếu kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng khoảng 7% một năm thì trong trung hạn, từ hai tới năm năm, khủng hoảng tài chánh sẽ bùng nổ. Chúng ta nhớ lại cơn chấn động năm 2008 từ vụ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ đã gây ra nạn Tổng suy trầm. Một vụ khủng hoảng như vậy tại Trung Quốc sẽ có hậu quả dữ dội hơn vì Trung Quốc bị thất quân bình còn nặng hơn.

- Tôi xin tóm lược như thế này cho dễ nhớ. Từ năm 2008 đến 2013, khi thế giới còn lao đao vì khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ rồi Âu Châu, thì Trung Quốc đã ào ạt bơm tín dụng kích thích kinh tế. Trong năm năm đó, tổng số nợ của khu vực nhà nước và tư nhân tại Trung Quốc đã tăng 100% và nay lên tới 420% của Tổng sản lượng GDP, là con số rất cao vì lên tới 47 ngàn 800 tỷ đô la. Nếu trong khối nợ khổng lồ này, chủ yếu là của hệ thống ngân hàng, có 25% là nợ xấu, khó đòi và sẽ mất thì họ cũng mất hơn chín ngàn tỷ đô la, là bằng tổng sản lượng cả năm. Số dự trữ ngoại tệ gần bốn ngàn tỷ đô la của Trung Quốc vẫn không thấm gì so với sự mất mát ấy.
Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại chuyện Việt Nam. Trong hoàn cảnh có hai mặt đều bất trắc như vậy thì Việt Nam nên làm gì để tránh được những tai họa từ Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta nên nhìn lại toàn cảnh để thấy ra những rủi ro xuất phát từ nước láng giềng này của Việt Nam.
- Thứ nhất, Việt Nam đang bị Trung Quốc uy hiếp ở ngoài khơi, với mặt nổi là giàn khoan và tầu bè có võ trang của Trung Quốc. Thứ hai, kinh tế Việt Nam lại quá lệ thuộc vào Trung Quốc vì chính sách sai lầm của mình và vì Trung Quốc không chỉ đầu tư vào nhà máy mà đầu tư vào những người lãnh đạo trong đảng. Thứ ba, khi thế giới thất vọng về kinh tế Trung Quốc và tìm thị trường khác thì Việt Nam có cơ hội thu hút đầu tư của các nước. Khốn nỗi, và đây là chuyện thứ tư, trong thời gian qua, giới ngân hàng quốc tế đã lỡ đầu tư vào hệ thống ngân hàng của Việt Nam đều thất vọng và đang lặng lẽ triệt thoái. Y như Trung Quốc, Việt Nam cũng có loại "ngân hàng công cụ" hay "captive banks", là công cụ cho các đại gia có quan hệ với lãnh đạo ở trên, mỗi phe nhóm lại có một hệ thống riêng và ỷ vào thế lực đó để kiếm lời bỏ túi mà gác bỏ mọi khuyến cáo hay đề nghị cải cách của quốc tế.
- Từ những biến động đang xảy ra ngoài Đông hải tới những chấn động sẽ xảy ra trên thị trường, Việt Nam nên nhìn lại tình hình mà dứt khoát cải cách về kinh tế và chính trị vì đây là thời cơ khả dĩ thoát ra khỏi vòng cương tỏa của Trung Quốc mà tìm ra một định mệnh khác cho mình.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/head-wind-fr-china-06102014131416.html

Việt Nam có thể làm gì với Trung Quốc?

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2014-05-14
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam
Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam
RFA files:UNCLOS-CIA
Nghe bài này

Khi Bắc Kinh đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì người Việt có thể làm những gì? Câu hỏi này đang khiến nhiều người ở trong và ngoài nước cùng thắc mắc. Tiết mục Diễn đàn Kinh tế nêu vấn đề với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa qua phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Là tư vấn kinh tế cho đài Á Châu Tự Do, lại theo dõi tình hình Trung Quốc từ nhiều năm qua, ông đã nhiều lần phân tích động thái của Bắc Kinh trong lĩnh vực an ninh và kinh tế. Điển hình là hai bài liền trong Tháng Bảy năm 2012 khi tập đoàn Dầu khí Hải dương CNOOC của họ tiến sâu vào thềm lục địa và phạm vi 200 hải lý của vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam để mở ra chín lô cho quốc tế thăm dò. Vì vậy, có lẽ ông chẳng ngạc nhiên khi tập đoàn này đưa giàn khoan tối tân nhất của họ vào một khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam và gây căng thẳng trong vùng biển Đông Nam Á từ đầu tháng Năm. Thính giả gần xa của chúng ta nêu câu hỏi là trong hoàn cảnh đó, Việt Nam có thể làm những gì khi kinh tế lại có nhiều quan hệ gắn bó với Trung Quốc? Ông nghĩ sao về thắc mắc này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ đây là vấn nạn nan giải vì ta cần hỏi ngược là Việt Nam nào ở đâu? Nhưng xin hãy nói về bối cảnh, về những gì có thể là mục tiêu của Trung Quốc. Nếu biết họ muốn gì, vì sao, may ra mình sẽ thấy được những khả năng ứng xử. Còn lại, làm được không thì tùy theo vị trí và tầm nhìn xa gần.
Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ khởi đi từ câu hỏi đó. Theo nhận xét của ông thì Trung Quốc muốn gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Từ nhiều năm nay, diễn đàn này nhận định rằng Trung Quốc là xứ đói ăn, khát dầu và cần trao đổi với thế giới bên ngoài, nhưng vì đa nghi và sợ sệt nên đòi kiểm soát sự trao đổi ấy. Nhiều nước Đông Á cũng cần trao đổi buôn bán như vậy mà giải quyết theo cách hoà bình và sòng phẳng. Trung Quốc giải quyết theo lối khác, có thể qua ba bước tuần tự.
Thứ nhất, do yêu cầu kiểm soát vùng biển cận duyên như vùng trái độn quân sự, năm năm về trước, họ mập mờ đưa ra lưỡi bò chính khúc, rồi gọi là khu vực "quyền lợi cốt lõi" để biện minh cho việc can thiệp. Đó là ăn cướp bằng pháp lý ngoa ngụy nếu các nước không phản ứng đồng loạt. Kế tiếp là bước khai thác lợi thế chiến thuật tại nơi họ đã chiếm của xứ khác, như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và mời quốc tế vào khai thác để vì lòng tham mà các nước mặc nhiên hợp thức hóa sự cưỡng đoạt. Việc mở rộng khu vực kiểm soát phòng không năm ngoái cũng nằm trong hướng đó. Bước thứ ba là sẽ còn lặng lẽ nâng cao khả năng quân sự để mở tầm kiểm soát ra khỏi vùng biển cận duyên mà không gây ra phản ứng đồng loạt của các lân bang.
Việc họ đưa giàn khoan tối tân vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không là bất ngờ vì nằm trong bước thứ hai, là khai thác lợi thế chiến thuật đã có sau khi chiếm Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1974, rồi một phần Trường Sa năm 1988 và chiếm Bãi cạn Scarborough của Phi Luật Tân vào năm 2012 mà không gặp sự chống đối chung.

Tàu hải cảnh TQ phun nước vòi rồng qua tàu kiểm ngư Việt Nam để đuổi ra khỏi khu vực
Tàu hải cảnh TQ phun nước vòi rồng qua tàu kiểm ngư Việt Nam để đuổi ra khỏi khu vực. AFP
Đó là ăn cướp bằng pháp lý ngoa ngụy nếu các nước không phản ứng đồng loạt. Kế tiếp là bước khai thác lợi thế chiến thuật tại nơi họ đã chiếm của xứ khác, như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và mời quốc tế vào khai thác để vì lòng tham mà các nước mặc nhiên hợp thức hóa sự cưỡng đoạt
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Suy như vậy, mục tiêu của giàn khoan 981 không hẳn là để tìm dầu trong một hạn kỳ có ba tháng. Họ thử xem phản ứng của nước thế nào thì tiến tới bước thứ ba là mở rộng tầm kiểm soát quân sự ra khỏi vùng biển cận duyên mà khỏi đụng với Hoa Kỳ. Qua từng bước, Bắc Kinh khai thác lòng tham và nỗi sợ của các nước để đạt mục tiêu là kiểm soát và nếu được thì thôn tính.

Vũ Hoàng: Phải chăng cũng do lòng tham hay nỗi sợ mà Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á là ASEAN đã không có một lập trường thống nhất về quy tắc hành xử với Bắc Kinh sau hội nghị cấp cao vừa qua tại Miến Điện hoặc như trong thượng đỉnh năm kia tại Cam Bốt?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta bắt đầu bước vào phần tìm hiểu về cách ứng xử của Việt Nam và các nước trong khu vực.
Trước hết, cả vùng Đông Á này đáng khinh và không là gương mẫu vì chọn con đường lý tài hơn lý tưởng và biến người dân thành sinh vật kinh tế. Nếu còn vài ngoại lệ thì đấy là Nhật Bản và Đại Hàn mà thôi, khi lãnh đạo hai xứ này còn nhắc nhở đến những giá trị tinh thần trong các quyết định.
Ngẫm lại thì với tất cả tội ác thời thực dân và những hạn chế ngày nay trong hành động, các nước Âu Châu và cả Hoa Kỳ đều đề cao một số nguyên tắc có giá trị toàn cầu, là tự do kinh tế, xã hội cởi mở và dân chủ chính trị với nhân quyền được tôn trọng. Không chỉ đề cao, họ cố thực hiện điều đó cho xứ khác và kịch liệt đả kích khi có vi phạm trong các xã hội Âu-Mỹ của họ.
Đông Á thì không. Dù có nhiều nền văn hoá cổ xưa với giá trị tinh thần đáng kính, các nước Đông Á ngày nay, nhất là tại Đông Nam Á, đều theo chủ nghĩa thực dụng, coi quyền lợi kinh tế còn quan trọng hơn nhân quyền, hay chủ nghĩa dân tộc và độc lập quốc gia. Vì vậy, các nước mặc nhiên rơi vào cái bẫy "trọng thương" và lý tài của Trung Quốc. Ở xa tầm đạn thì tham, ở gần thì sợ nên tự khuất phục. Người ta quên một khái niệm đã từng làm nên lịch sử là "chính nghĩa", là cái lẽ phải khiến con người có thể hy sinh tài sản lẫn mạng sống.

Việt Nam là nơi mắc bệnh lý tài Đông Á nặng nhất, từ trên đầu xuống, nên khó kêu gọi xứ khác cùng sát cánh trước bạo lực bành trướng. Trong môi trường văn hóa ấy, chủ nghĩa bá quyền và chính sách thực dân mới của Trung Quốc có sự thuận lợi hiển nhiên và Bắc Kinh dễ phân hóa lập trường của tập thể ASEAN.
Vũ Hoàng: Từ một chuyên gia kinh tế, nhận xét về văn hoá này của ông quả là đáng chú ý!
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng từ nếp văn hóa lý tài đó mới có chính sách kinh tế tai hại đấy. Ai cũng biết hệ thống kinh tế nhà nước có vấn đề mà sửa không được thì theo để kiếm chút cháo, mặc cho tư doanh cò con bị chết lâm sàng. Rồi còn viện dẫn thành quả ảo của Trung Quốc làm lẽ biện minh cho hệ thống kinh tế bất công và bất lực đó. Thực tế lại còn thê thảm hơn vậy nữa.
Giàn khoan HD 981 trên Biển Đông
Giàn khoan HD 981 trên Biển Đông (ảnh Xinhua)
Vũ Hoàng: Ông nói thê thảm hơn là thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta hãy nhìn vào thực tế Việt Nam mà có lẽ người Mỹ cũng biết.
Từ năm năm nay, hải quân của Việt Nam mới gia tăng ngân sách từ hơn trăm triệu lên khoảng 400 triệu đô la vào năm tới. So với bao nhiêu tỷ bạc đã bị thất thoát thì đấy là điều mỉa mai. Thành phần lãnh đạo xứ này sẵn có bãi đáp ở nước ngoài, không Mỹ thì Canada hay Úc. Họ có chân chạy nên tài sản và con cháu đều có chân đứng ở ngoại quốc. Ở dưới, phần tử ưu tú của xứ sở vì tương đối khá giả hơn quần chúng thì cũng mong con cái được học bên Mỹ để có tương lai khá hơn quá khứ 40 năm vừa qua của họ. Như vậy trước mối nguy Trung Quốc thì còn lại những ai? Là người chỉ sợ mất tiền trên thị trường cổ phiếu, những người vừa được phép biểu tình hay những người còn trong tù vì đã biểu tình chống Trung Quốc hay đòi dân chủ?
Một ví dụ là nếu có xung đột và cần võ khí tự vệ, dù mới chỉ là một bích chương cổ động chứ chưa nói tới súng đạn, thì lãnh đạo lại sợ võ khí này sẽ nhắm vào họ! Những người lãnh đạo sợ mất đảng hơn là mất nước nên cột tay đa số ở dưới
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Ngày nay, không thiếu người ở trong nước coi chuyện giàn khoan CNOOC là vở kịch được Bắc Kinh và Hà Nội dàn dựng để trục lợi với Mỹ. Vì lòng dân hoang mang bất định tới mức đó, hồi nãy tôi mới hỏi là Việt Nam nào, ở đâu? Một ví dụ là nếu có xung đột và cần võ khí tự vệ, dù mới chỉ là một bích chương cổ động chứ chưa nói tới súng đạn, thì lãnh đạo lại sợ võ khí này sẽ nhắm vào họ! Những người lãnh đạo sợ mất đảng hơn là mất nước nên cột tay đa số ở dưới.
Vũ Hoàng: Nếu những người có tâm huyết và thiết tha đến tương lai Việt Nam mà muốn làm gì đó, dù chỉ là kêu gọi tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, thì điều ấy có nên chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi ngờ rằng ta sẽ rơi vào cái chủ nghĩa lý tài tai hại, với lý luận bùi tai là nên dàn xếp qua thương thảo, chứ đừng cản trở việc giao lưu buôn bán vì đã làm ăn với nhau thì khó nã súng vào nhau. Lý luận đó chỉ là biện minh cho lẽ cầu an! Cho nên người ta vẫn có thể mở chiến dịch tẩy chay hàng hóa Trung Quốc để huy động lòng dân và để thử lòng người, chứ không nên chờ đợi là gây thiệt hại cho Trung Quốc. Thuần về kinh tế, có lẽ ta nên nhìn khác.
Vũ Hoàng: Thưa ông nhìn khác là như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc vì lãnh đạo có phân công lao động với Bắc Kinh như các nước chư hầu Đông Âu với Liên Xô thời xưa. Hà Nội chả mắc bẫy giao thương với Bắc Kinh mà đã đẩy cả nước vào cái bẫy đó. Tôi xin giải thích.
Việt Nam bán hàng nhiều nhất là cho các thị trường Âu Châu, Hoa Kỳ, ASEAN, Nhật Bản rồi mới đến thị trường Trung Quốc. Bán hàng gì? Đa số là hàng chế biến với nguyên vật liệu nhập từ bên ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc. Tức là Việt Nam chỉ là trạm trung chuyển các bán chế phẩm của Trung Quốc bán vào các thị trường Âu-Mỹ với phần gia công hay trị giá gia tăng là của công nhân Việt Nam. Hậu quả là Việt Nam nhận đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc, chỉ kém đầu tư của Nam Hàn và Nhật Bản, mà đạt xuất siêu với các thị trường Âu-Mỹ chừng nào thì nhập siêu với Trung Quốc chừng đó. Nôm na thì Việt Nam nhận làm công ty vệ tinh cho đại tổ hợp Trung Quốc và được thế giới nâng đỡ chừng nào thì dâng lại lợi thế đó cho Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Tháng Tám năm ngoái, nói về sự thoái trào của Trung Quốc vì đà tăng trưởng chậm mà lương bổng đắt hơn, ông có gợi ý về một cơ hội mới cho Việt Nam để thu hút đầu tư của thiên hạ và góp phần thay thế vai trò "công xưởng toàn cầu" của Trung Quốc. Thưa ông, liệu rằng vụ tranh chấp hiện nay với Trung Quốc có giúp kinh tế Việt Nam thoát khỏi cảnh ngộ vệ tinh kinh tế của Trung Quốc hay không?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi mong như vậy. Thật ra, hòn đá thử vàng để trắc nghiệm thực tâm của lãnh đạo Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc phải khởi đi từ việc tôn trọng và tin tưởng người dân chứ đừng là công cụ của Trung Quốc để đàn áp người dân của mình. Sau đó, nếu lãnh đạo nói đến chuyển hướng kinh tế để ra khỏi quỹ đạo Bắc Kinh, từ các dự án bô xít Tây Nguyên đến chuyện buôn lậu ở biên giới thì người dân mới tin. Nếu được giải phóng như vậy, người dân sẽ ngăn được nạn đảng viên cán bộ tiếp tay Trung Quốc gieo họa cho kinh tế Việt Nam.
Nếu nhà cầm quyền Việt Nam không làm nổi việc đó thì họ bị đào thải vì người dân sẽ nổi dậy sau khi Việt Nam bị mất chủ quyền vào tay Trung Quốc. Chẳng ai muốn một cơn chấn động như vậy nhưng điều ấy vẫn có thể xảy ra, như đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử của xứ này.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.


Hỏa mù đổi mới chính trị ở Việt Nam

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-05-06
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Bộ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh
Bộ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh
Courtesy dantri
Nghe bài này

Một số vấn đề chính trị cấm kỵ đụng tới lý thuyết của Đảng đang được quan chức, chuyên gia mang ra bàn và trở thành những câu chuyện bình thường. Phải chăng ở Việt Nam đang có một khuynh hướng mong muốn thay đổi tích cực.
Không phải ngẫu nhiên báo chí nhà nước đưa những tin thuộc lãnh vực chính trị nhạy cảm nằm trong vùng cấm. Thí dụ nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển kêu gọi thừa nhận xã hội dân sự tại Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân 2014. Dù sao thì ông Tuyển cũng đã về hưu và chỉ còn một chân trong guồng máy với chức vụ cố vấn đàm phán cao cấp về hội nhập quốc tế.
Những dấu hiệu đặc biệt
Sau câu chuyện của ông Tuyển, ngày 3/5/2014 Thời báo Kinh tế Saigon bản điện tử trích lời Bộ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh  nói rằng: “Việt Nam miệt mài nghiên cứu mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm.” Ông Bộ trưởng đã nói như thế vào cuối năm 2013 trong dịp là diễn giả tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với một thành phần thính giả đặc biệt là lãnh đạo các tỉnh thành toàn quốc.
Trả lời Nam Nguyên, LS Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Hà Nội nhận định:
“ Ông Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư cũng là một ông nói thật nói thẳng. Tôi nghĩ rằng trước đây đã có những ông từng nói như thế, bởi vì kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa nó là như nước với lửa, làm sao mà sống chung được. Cho nên, phải chăng trước đây người ta phải gắn chữ đó để làm yên lòng một số nhà bảo thủ thôi, còn bây giờ đến lúc phải nói thật, có nghĩa là nên cắt cái đuôi đó đi.”
Khi các các chính khách bắt đầu thẳng thắn nói sự thật và khi báo chí lề phải được đưa ra các thông tin trước đây thuộc vùng cấm, thì hẳn phải là một dấu hiệu đặc biệt. Luật sư Trần Quốc Thuận nhận định:
Tôi cho rằng khi ông Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư nói ra thì chắc có ông nào có tầm lớn hơn, có một xu thế lớn hơn ủng hộ thì ông ấy mới mạnh dạn nói ra được. Cũng như ông Trương Đình Tuyển cũng nói trong Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân ở Quảng Ninh là Việt Nam cần phải thừa nhận xã hội dân sự, thì cũng là một câu chuyện trước đây là cấm kỵ
LS Trần Quốc Thuận
“Tôi cho rằng khi ông Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư nói ra thì chắc có ông nào có tầm lớn hơn, có một xu thế lớn hơn ủng hộ thì ông ấy mới mạnh dạn nói ra được. Cũng như ông Trương Đình Tuyển cũng nói trong Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân ở Quảng Ninh là Việt Nam cần phải thừa nhận xã hội dân sự, thì cũng là một câu chuyện trước đây là cấm kỵ. Nhiều thứ cấm kỵ lần lần bây giờ trở thành bình thường, thành quen. Tôi cho đó là dấu hiệu tích cực và không phải vấn đề bất ngờ. Có dấu hiệu đang mở ra và tạo cho những khuynh hướng tích cực có đất nẩy mầm nó sinh sôi nẩy nở và lớn lên.” 


Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam (nay là Bộ Công Thương) SGTT
Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam (nay là Bộ Công Thương) SGTT


Trao đổi với chúng tôi, LS Trần Quốc Thuận nhận định là, ngay cả các cấp lãnh đạo cao nhất của đất nước cũng thừa biết rằng, không có mô hình nào trên cuộc sống thật này được gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vị cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho là Hiến pháp sửa đổi 2013 rồi sẽ phải sửa đổi nữa vì tự thân chứa đựng những điều mâu thuẫn với nhau. Thí dụ như kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hay mọi thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đã định hướng và chủ đạo thì không thể gọi là bình đẳng được, LS Trần Quốc Thuận nói là lấy làm tiếc vì ban soạn thảo Hiến pháp bỏ qua góp ý của nhân sĩ trí thức, cụ thể là Kiến nghị 72.
LS Trần Quốc Thuận nhận định:
“Mọi người đều thấy vấn đề đấy kể cả lãnh đạo cũng thấy. Người ta bảo nếu mà không thoát ra thì không sống được, nhưng mà thoát ra mà không giữ một cái gì lại gọi là trấn an thì nó lại không ổn, họ cho rằng bất ổn. Cho nên có thể nói những ý kiến bảo thủ trong Đảng cũng còn đáng kể, chưa kể những người đã nghỉ hưu như chúng tôi, nhiều người cũng sợ mất cái chủ nghĩa xã hội lắm. Nhưng chủ nghĩa xã hội làm gì có mà mất, đâu có mà mất…mất cái không có thì là điều buồn cười.
Bây giờ người ta đang cố gắng lèo lái để thoát ra tôi rằng điều đó cũng là một sự tỉnh táo. Nếu ông Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư mạnh dạn thế thì chúng tôi rất hoan nghinh.”


Sáng ngày 28/4/2014, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã diễn ra lễ khai mạc Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân 2014 với chủ đề “Động lực phát triển mới từ cải cách thể chế” Theo Trí Thức Trẻ
Sáng ngày 28/4/2014, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã diễn ra lễ khai mạc Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân 2014 với chủ đề “Động lực phát triển mới từ cải cách thể chế” Theo Trí Thức Trẻ


Điều gọi là “đã nhìn thấy trước mắt”
Theo SaigonTimes Online, Ông Trương Đình Tuyển có mặt trong phiên đàm phán song phương Việt Nam-Hoa Kỳ ngày 27/4/2014 ở Thủ đô Washington. Trở về Hà Nội, ông Tuyển bày tỏ lo ngại “thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay không tương thích với TPP”. Ông Tuyển đưa ra ví dụ, trong TPP đề cao vai trò của xã hội dân sự, đề cao sự tự do thành lập các hiệp hội. Theo lời ông đây là vấn đề rất nhạy cảm về chính trị với nhà nước Việt Nam.
Đối với khả năng Việt Nam chấp nhận cải tổ chính trị kinh tế, vượt qua các điều kiện để tham gia TPP. Học giả Đinh Kim Phúc từ Saigon nhận định:
Khi Việt Nam vào TPP rồi đối tác tự do thương mại với Châu Âu, khi mà những cái đó hình thành thì nó sẽ tự điều chỉnh và nó chi phối lại chính sách trong nước....Cho nên nhiều thứ nó sẽ đập trở lại, cho nên chính những thực tế đó nó sẽ làm thay đổi bản chất câu chuyện. Tôi cho rằng thời gian đó sẽ không dài, có lẽ đã nhìn thấy trước mắt
LS Trần Quốc Thuận
“Nếu nói bất chấp tất cả để bảo vệ hệ thống chính trị hiện nay thì tôi không nghĩ nhà nước Việt Nam bất chấp tất cả. Rồi nhượng bộ để làm sao thỏa mãn các đối tác nước ngoài thì tôi nghĩ cũng không là nhượng bộ. Trong đàm phán quốc tế rõ ràng từ khi Việt Nam gia nhập WTO rồi một số tổ chức khu vực, trước sau gì  nhà nước cũng có cách để thỏa hiệp đàm phán với quốc tế để Việt Nam gia nhập như các đối tác khác. Bài học này nhà nước Việt Nam có quá nhiều kinh nghiệm để vượt qua để mà hai bên cùng có lợi. Không hẳn Việt nam cần nước ngoài, nước ngoài cũng cần Việt Nam để mà đẩy mạnh tiến trình toàn cầu hóa, vấn đề hội nhập thế giới, đẩy nhanh quá trình dân chủ ở Việt Nam. Tôi nghĩ rằng hai bên sẽ tìm được tiếng nói chung.”
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, LS Trần Quốc Thuận bày tỏ hy vọng Việt Nam sớm đạt thỏa thuật với TPP cũng như FTA với EU. Ông cho rằng hội nhập sẽ tạo nhiều áp lực cải cách. Ông nói:
“Người ta đang chờ đợi khi Việt Nam vào TPP rồi đối tác tự do thương mại với Châu Âu, khi mà những cái đó hình thành thì nó sẽ tự điều chỉnh và nó chi phối lại chính sách trong nước. Việt Nam đã có cái cam kết và trong luật cũng qui định, nếu luật Việt Nam có khác biệt thì tuân theo điều ước quốc tế. Nhưng mà vào TPP dĩ nhiên họ đâu có chấp nhận định hướng (XHCN) đó được. Cho nên nhiều thứ nó sẽ đập trở lại, cho nên chính những thực tế đó nó sẽ làm thay đổi bản chất câu chuyện. Tôi cho rằng thời gian đó sẽ không dài, có lẽ đã nhìn thấy trước mắt.”
Nhiều người hy vọng cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam sẽ có đột phá, điều gọi là “đã nhìn thấy trước mắt” như LS Trần Quốc Thuận nhận định, thì ít ra cũng phải tới Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 2016. Điều mà các chuyên gia chính trị dự báo, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước nguy cơ tan rã phải chấp nhận cải cách để tồn tại.



Trung Quốc thoái trào, cơ hội cho Việt Nam?

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2013-08-14
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Công nhân Trung Quốc giờ cao điểm tại bến xe
Công nhân Trung Quốc giờ cao điểm tại bến xe đường dài trong Yunyang quận, Trùng Khánh, Trung Quốc, ngày 17 tháng 2 2013.
AFP
Nghe bài này
Đến bây giờ thì hầu hết các trung tâm kinh doanh và nghiên cứu của thế giới đã đồng ý về một thay đổi lớn trong luồng giao dịch toàn cầu, là khi kinh tế Trung Quốc đi vào một giai đoạn thoái trào kéo dài. Trong giai đoạn ấy, nhiều quốc gia có thể tìm ra cơ hội trám vào khoảng trống do Trung Quốc để lại sau nhiều thập niên tăng trưởng và thu hút đầu tư quốc tế. Việt Nam có cơ hội đó hay không? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về chuyện này qua phần trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.


Dấu hiệu khủng hoảng của TQ
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, sau 30 năm đạt mức tăng trưởng vượt bậc so với 30 năm khủng hoảng liên tục thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã có dấu hiệu trì trệ và phải cải sửa chiến lược phát triển nên sẽ có đà tăng trưởng thấp hơn, với nhiều rủi ro bất ổn ở bên trong. Chiều hướng ấy đã bắt đầu sau năm năm bơm tiền kích thích kinh tế mà chỉ kích thích sự lãng phí và để lại một núi nợ khổng lồ. Bên cạnh Trung Quốc, khối công nghiệp hoá Âu-Mỹ-Nhật cũng cố gắng cải sửa từ năm năm nay và bây giờ đã có nền móng tương đối quân bình hơn và bắt đầu hồi phục để đóng góp đến 60% vào mức gia tăng sản xuất của toàn cầu. Ngược lại, nhóm kinh tế đang phát triển lại có triệu chứng mệt mỏi và suy trầm, chứ không thể là đầu máy tăng trưởng cho kinh tế thế giới như người ta đã trông đợi trước đây....

Khi nhìn lại thì sự thay đổi sau năm năm sóng gió vừa qua, và nhất là sự sa sút của Trung Quốc sau mấy chục năm bung lên rất mạnh, đang đưa kinh tế toàn cầu vào một hoàn cảnh mới. Thưa ông, trong hoàn cảnh đó, Việt Nam có thể làm gì để khai thác cơ hội và giảm thiểu rủi ro?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ông vừa nêu lên một số điểm chính trong bối cảnh. Đó là thứ nhất, nạn suy trầm của khối kinh tế đã phát triển khiến các nước công nghiệp hóa trải qua giai đoạn cải tổ lớn và nay đã tạm có nền móng quân bình hơn để đạt mức tăng trưởng cao hơn, dù chưa mạnh thì vẫn có ảnh hưởng nhất vì đóng góp đến 60% vào đà gia tăng sản xuất của toàn cầu. Phần còn lại, là 40%, thuộc các nước đang phát triển, ngày nay cũng lại có triệu chứng hụt hơi chứ không sáng láng như họ đã mơ ước. Trong khung cảnh ấy ta mới nhìn vào Trung Quốc....
Đã vậy, vì quá lệ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu, khi thấy kinh tế toàn cầu bị Tổng suy trầm năm năm về trước, Trung Quốc bơm tiền kích thích kinh tế mà bơm không đúng chỗ và chỉ thổi lên bong bóng đầu cơ trong nạn sản xuất thừa nên sẽ bị khủng hoảng như các nước Đông Á đã từng bị
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Xứ này có dân số rất đông, áp dụng chiến lược phát triển của Nhật Bản và Đông Á nói chung, là khai thác lợi thế nhân công rẻ để làm gia công cho thế giới nhờ xuất khẩu hàng chế biến với giá cực thấp. Vì khởi đi từ một mức gần với số không, Trung Quốc có đà gia tăng ngoạn mục mà thật ra vẫn thiếu phẩm chất trong tăng trưởng. Khi lợi thế lương rẻ đã hết công hiệu, họ không bước lên trình độ sản xuất cao hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn, như các nước tân hưng Đông Á là Nhật Bản, rồi Đài Loan và Nam Hàn. Đã vậy, vì quá lệ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu, khi thấy kinh tế toàn cầu bị Tổng suy trầm năm năm về trước, Trung Quốc bơm tiền kích thích kinh tế mà bơm không đúng chỗ và chỉ thổi lên bong bóng đầu cơ trong nạn sản xuất thừa nên sẽ bị khủng hoảng như các nước Đông Á đã từng bị.
Các nữ công nhân TQ trong môt cơ sở may hàng xuất khẩu cho Hoa Kỳ. AFP
Các nữ công nhân TQ trong môt cơ sở may hàng xuất khẩu cho Hoa Kỳ. AFP
Chúng ta cần nhắc lại chuyện đó để thấy là sau khi bị khủng hoảng năm 1991, Nhật Bản không dám cải sửa nên trải qua 20 năm lụn bại đến nay mới có vẻ hồi phục. Ngược lại, Nam Hàn bị khủng hoảng năm 1997 mà lập tức cải cách nên có cơ sở vững mạnh hơn và cạnh tranh thắng lợi với chính Nhật Bản là một khuôn mẫu đi trước. Những bài học đó có thể là kinh nghiệm cho Việt Nam khi môi trường chung quanh đang có thay đổi, vừa mở ra cơ hội mới mà cũng đặt ra nhiều thách thức, chưa nói gì đến vấn đề an ninh vì vị trí riêng của xứ này bên cạnh Trung Quốc.
Thuận lợi và không thuận lợi của VN
Vũ Hoàng: Từ cái nhìn toàn cảnh về cả thời gian lẫn không gian để nói tới nhiều đổi thay đang xảy ra và có thể kéo dài khá lâu trong tương lai, thưa ông, đâu là những định đề chủ yếu mà Việt Nam cần quan tâm?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là như mọi nước nghèo vừa bước vào giai đoạn khởi phát hay "cất cánh", Việt Nam cần vốn nên phải huy động đầu tư từ bên ngoài. Các quốc gia kia, kể cả Trung Quốc, đều trải qua giai đoạn ấy. Khi đó, vấn đề chủ yếu là ta có gì hấp dẫn hơn xứ khác để thu hút đầu tư?
Thế rồi, sau mấy năm hồ hởi khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO với lượng đầu tư quốc tế tăng vọt vào năm 2007, tình hình lại sa sút, từ đỉnh cao là hơn 70 tỷ đô la vào năm 2008 lại sụt tới 23 tỷ năm 2009 và năm qua chỉ còn 13 tỷ so với kỳ vọng 17 tỷ. Mình cần nhìn lại chuyện này vì đấy là lúc mà khối công nghiệp hoá đang bị co cụm và họ dồn đầu tư vào các nước đang phát triển để tìm cơ hội kiếm lời cao hơn. Nghĩa là vì những sai lầm và thậm chí lạm dụng trong quản lý vĩ mô, khi thiên hạ tìm nơi đầu tư thì họ lại tránh Việt Nam.

Sau hai năm sóng gió và nhiều biện pháp cải sửa giữa những tai tiếng về các đại gia làm ăn phi pháp và về một núi nợ xấu chưa biết thanh toán thế nào, Việt Nam lại chớm có hy vọng thu hút đầu tư kể từ đầu năm nay, với ngạch số gần 12 tỷ trong bảy tháng đầu năm. Nhưng ta không quên là nhóm công nghiệp hoá lại thất vọng với các thị trường đang lên và rút vốn đầu tư về để khai thác tiềm năng phục hồi của khối Âu-Mỹ-Nhật ở nhà. Vì vậy, bên cạnh hy vọng vừa chớm nở và cơ hội sẽ thuận lợi hơn khi tư bản triệt thoái khỏi thị trường Trung Quốc để tìm nơi đầu tư có lợi hơn, Việt Nam nên thấy rằng mình không tất nhiên là nơi hấp dẫn nhất.
Mình cần nhìn lại chuyện này vì đấy là lúc mà khối công nghiệp hoá đang bị co cụm và họ dồn đầu tư vào các nước đang phát triển để tìm cơ hội kiếm lời cao hơn. Nghĩa là vì những sai lầm và thậm chí lạm dụng trong quản lý vĩ mô, khi thiên hạ tìm nơi đầu tư thì họ lại tránh VN
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Vũ Hoàng: Ông hàm ý Việt Nam cần xây dựng một môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế khi các doanh nghiệp có thể rút khỏi thị trường Trung Quốc để tìm vào nơi có lợi hơn?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta cần nhìn ra quy luật phũ phàng của kinh tế hay kinh doanh là "vui lòng khách đến, buồn lòng khách đi". Trong chuyện này, khách là các doanh nghiệp có vốn đầu tư.
Thứ nhất, họ ào ạt trút tiền vào rồi thất vọng bảo nhau triệt thoái thì đều có thể gây chấn động cho nền kinh tế, đấy là chuyện mà các nước tân hưng Đông Á đã thấy từ vụ khủng hoảng 1997-98. Thứ hai, các doanh nghiệp có thể quyết định đem tiền đầu tư vào rất nhanh thường là loại nhỏ và vừa, với những yêu cầu khác biệt với các tập đoàn lớn. Đầu tư vào một quán bán thịt bầm ngoài phố có khác với đầu tư của Intel hay Samsung ở vùng ngoại thành. Thứ ba và quan trọng nhất, Việt Nam nên nhớ rằng lợi thế nhân công rẻ không là yếu tố bất biến và vĩnh cửu vì chúng ta bán sự nghèo khổ cho khách đầu tư bằng lương bổng thấp để mong rằng nguồn vốn đó sẽ làm cho dân mình giàu hơn, tức là phải có lương cao hơn sau này nên ưu thế về lương sẽ phải hết.

Do đó, ngay từ khi thu hút đầu tư để dân mình làm gia công cho thiên hạ thì đã phải nghĩ đến việc tiến lên bậc thang cao hơn của chu trình sản xuất, để chế tạo mặt hàng có giá trị hơn, đòi hỏi tay nghề và kỹ thuật khác. Khi đó ta mới hy vọng giữ khách đầu tư ở lại để tìm doanh lợi cao hơn. Muốn vậy, nhân công của ta phải có năng suất cao và phải được giáo dục đào tạo theo hướng khác hơn là chỉ giữ khách bằng lương rẻ, vì ngoài Việt Nam còn có Miên Lào, Miến, Ấn, hay Bangladesh cũng sẽ khai thác lợi thể lương thấp. Đó là chuyện về dài mà phải sớm thấy ra.
Vũ Hoàng: Thưa ông, ngay trong hiện tại thì Việt Nam có những lợi thế nào khả dĩ huy động được nguồn lực đầu tư của các nước khi họ rút khỏi thị trường Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thú thật là không mấy lạc quan với chuyện hứng tiền chảy từ Trung Quốc vào Việt Nam. Trước hết, các tổ hợp quốc tế Âu-Mỹ-Nhật đã đầu tư vào Trung Quốc từ lâu và xây dựng được một chu trình cung cấp hội nhập, nôm na là làm cơ phận này để ráp chế với cơ phận khác cũng sản xuất tại Trung Quốc trước khi xuất khẩu ra ngoài. Với tình trạng thoái trào hiện nay, lãnh đạo Bắc Kinh đang cố gắng kích thích tiêu thụ thay vì kích thích đầu tư sản xuất để xuất cảng, vì vậy, thị trường nội địa của Trung Quốc vẫn còn sự hấp dẫn của nó nên chưa chắc là các tập đoàn đầu tư, kể cả Nhật Bản, đã rút hết và nhìn vào Việt Nam với thiện cảm.
Khi Intel hay Samsung đang nói đến chuyện bạc tỷ trút vào Việt Nam và đào tạo một thế hệ mới có khả năng rất cao về công nghệ tin học thì Hà Nội lại đòi bịt mắt giới trẻ bằng mạng lưới kiểm soát thông tin và gây phản ứng từ các tập đoàn Google hay Microsoft thì đấy là một cách quảng cáo xuất sắc về sự lạc hậu của lãnh đạo
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Thứ hai, khi quyết định đem tiền đầu tư vào Việt Nam chẳng hạn, thiên hạ chú ý đến những gì? Họ chú ý đến hạ tầng cơ sở. Hạ tầng này gồm có vật chất là hệ thống xây dựng và giao thông vận tải lẫn hủy thải phế vật. Hạ tầng này cũng có loại vô hình là nền tảng luật lệ thông thoáng minh bạch và bộ máy hành chính liêm khiết, hữu hiệu. Thứ ba, hạ tầng này còn có loại tinh thần là trình độ kiến năng, là kiến thức và khả năng của nhân công vì các tổ hợp quốc tế suy nghĩ cho 5-10 năm tới chứ không chơi trò mỳ ăn liền. Trong năm mười năm đó, họ sẽ đào tạo ra lớp nhân viên có tay nghề và có khả năng tiến lên bậc thang cao hơn của chu trình sản xuất. Do đó, họ quan tâm đến hệ thống giáo dục và đào tạo, nhất là trong các ngành kỹ thuật và quản trị.

Khi kiểm lại dù sơ sài như vậy, ta cũng thấy ra nhiều nhược điểm của môi trường Việt Nam là chưa có trục lộ giao thông hay mạng lưới yểm trợ hạ tầng tỏa rộng mà chỉ tập trung vào Sàigon, vùng đồng bằng Cửu Long và chung quanh Hà Nội, Đà Nẵng. Việt Nam cần khai thác tiềm lực của nhiều địa phương khác thì mới có được sự phát triển cân đối và công bằng, là điều Trung Quốc muốn làm từ lâu mà thất bại nên mới rơi vào thoái trào.
Vũ Hoàng: Nói về hạ tầng cơ sở của kiến năng như ông trình bày, thì kỳ trước, chúng ta cũng vừa nhắc đến Nghị định 72 về việc kiếm soát mạng lưới điện toán, ông nghĩ sao về chuyện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng đấy là tai họa vô lường và là một vụ tự sát chính trị.
Khi Intel hay Samsung đang nói đến chuyện bạc tỷ trút vào Việt Nam và đào tạo một thế hệ mới có khả năng rất cao về công nghệ tin học thì Hà Nội lại đòi bịt mắt giới trẻ bằng mạng lưới kiểm soát thông tin và gây phản ứng từ các tập đoàn Google hay Microsoft thì đấy là một cách quảng cáo xuất sắc về sự lạc hậu của lãnh đạo. Hoá ra Hà Nội cũng chẳng khác gì Bắc Kinh!
Từ đó, thiên hạ còn suy ra một chuyện khác. Cái gọi là ưu thế ổn định chính trị của Việt Nam cũng chỉ là chuyện ảo. Giới đầu tư quốc tế sẽ sớm hiểu ra nỗi lo sợ của chế độ và còn thấy rõ hơn khi lãnh đạo của Việt Nam vẫn duy trì vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước để bảo vệ quyền lợi của tay chân và thân tộc. Nói cách khác, nếu Việt Nam chỉ là một sao bản con con của Trung Quốc thì chưa thể là một giải pháp thay thế khi người ta đã thất vọng với Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.





No comments:

Post a Comment