VN bác bỏ Công hàm Phạm Văn Đồng
Cập nhật: 12:39 GMT - thứ sáu, 23 tháng 5, 2014
Việt Nam nói Công hàm
1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ
quyền với vùng biển đảo của Việt Nam.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, nói như vậy tại cuộc họp báo quốc tế hôm 23/5 ở Hà Nội.
Những ngày vừa qua, giới ngoại giao
và học giả Trung Quốc đã nhắc lại Công hàm 1958, nói đó là bằng chứng
Việt Nam thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy vậy, ông Hải nói khi văn bản của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng gửi cho Trung Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa đang được quyền
quản lý của Việt Nam Cộng hòa.
“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong
công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên
không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”
“Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền
sở hữu, quản lý được. Vậy nên điều đó càng khẳng định công văn của cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý,” theo ông Hải.
Ông Hải nhấn mạnh Trung Quốc “không có bất cứ chứng lý nào” chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo.
Tại cuộc họp báo, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng
dẫn ra chi tiết, theo đó, ngày 24/9/1975, khi trao đổi với Bí thư Thứ
nhất Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẩn, ông Đặng Tiểu Bình - Phó Thủ tướng
Trung Quốc thời đó – “đã nêu rõ việc Trung Quốc có vi phạm dẫn đến tranh
chấp chủ quyền với Việt Nam,” theo tường thuật của báo Dân Trí.
Lập trường của Trung Quốc hiện nay là chỉ công nhận có tranh chấp tại quần đảo Trường Sa.
Tàu quân sự
Tại cuộc họp báo ngày 23/5, Việt Nam cũng bác bỏ
cáo buộc của Trung Quốc nói rằng Việt Nam gửi tàu quân sự ra khu vực
Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981.
Ông Ngô Ngọc Thu, đại diện Cảnh sát Biển Việt Nam, nói chính Trung Quốc đã gửi tàu chiến ra biển.
“Tàu chiến của Trung Quốc có 5 loại, chúng tôi đã ghi được số hiệu, thông báo với phía Trung Quốc.”
“Một tàu có bệ pháo, 72.000 tấn, chở được rất
nhiều quân. Có cả tàu tên lửa, một tàu tuần tiễu ngầm… Đó hoàn toàn là
tàu của Trung Quốc, Việt Nam không điều tàu quân sự ở khu vực," ông Thu
khẳng định.
Trước đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập khả năng sử dụng biện pháp pháp lý để kiện Trung Quốc.
Trả lời về khả năng này, bà Nguyễn Thị Thanh Hà,
Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước Quốc tế, Bộ Ngoại giao, nói việc sử
dụng biện pháp hòa bình bao gồm “sử dụng cơ quan tài phán quốc tế”.
“Chúng tôi, với tư cách cơ quan tham mưu, có nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng mọi biện pháp,” bà nói.
Được hỏi liệu Việt Nam đã “hết kiên nhẫn” mặc dù
có 16 chữ vàng với Trung Quốc, ông Trần Duy Hải trả lời “chủ quyền lãnh
thổ hết sức thiêng liêng với dân tộc Việt Nam, nên không thể đánh đối
được”.
“Vàng rất quý, nhưng chủ quyền quốc gia còn quý hơn vàng,” ông Hải nhấn mạnh.
Ông Hải phủ nhận thông tin trên mạng internet nói quân đội Trung Quốc đưa quân, xe tăng đến gần biên giới Việt Nam.
“Xin khẳng định hoạt động giao thương ở biên giới vẫn diễn ra bình thường.”
“Trong cuộc gặp hai thứ trưởng Bộ Ngoại giao vừa
qua, hai bên đã thống nhất không sử dụng biện pháp vũ lực để giải quyết
bất đồng.”
Tại cuộc họp báo, Việt Nam cũng nhắc lại con số
chính thức của Việt Nam, theo đó, trong các vụ bạo loạn vừa qua, có hai
người quốc tịch Trung Quốc thiệt mạng ở Hà Tĩnh, và một người Trung Quốc
chết ở Bình Dương.
TQ lại nhắc Công hàm Phạm Văn Đồng
Cập nhật: 12:04 GMT - thứ ba, 20 tháng 5, 2014
Trung Quốc nói không có tranh chấp với Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa
Một nhà ngoại giao và một học giả Trung Quốc nói Công hàm 1958 là bằng chứng Việt Nam công nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.
Công hàm 1958 gây tranh cãi của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng lại được Trung Quốc đề cập trong bối cảnh Việt Nam và Trung
Quốc đối đầu vì vụ giàn khoan HD-981.Căng thẳng Việt – Trung đã gia tăng, với việc nổ ra các cuộc bạo động ở Việt Nam, sau khi Việt Nam lên án Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại khu vực biển Hoàng Sa.
Hôm 20/5, đại biện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia có bài đăng trên báo Indonesia Jakarta Post để biện hộ cho Trung Quốc.
Ông Lưu Hồng Dương nói quần đảo Tây Sa (tên Trung Quốc dùng để chỉ Hoàng Sa) là “lãnh thổ vốn vẫn thuộc về Trung Quốc”.
“Vị trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai.
“Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính
phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa
nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”
Ông Lưu Hồng Dương cáo buộc “việc chính phủ Việt
Nam gần đây thay đổi và từ chối công nhận Tây Sa là của Trung Quốc thật
vô cùng gây sốc”.
“Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc ‘estoppel’ [không được nói ngược],” ông Lưu cáo buộc.
Bày tỏ lập trường chính thức của Trung Quốc, ông
Lưu nói tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ tồn tại ở quanh quần
đảo Trường Sa.
Ông Lưu cáo buộc Việt Nam có “tiêu chuẩn kép” khi đã “đánh dấu 57 lô dầu khí ở trong vùng biển tranh chấp”.
Nói về cuộc đối đầu quanh giàn khoan HD-981, ông Lưu nói Việt Nam “phải bỏ mọi ảo tưởng và tiến hành hai biện pháp quyết định”.
“Một, ngay lập tức dừng mọi hoạt động nguy hiểm
chống lại giàn khoan Trung Quốc và rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển thuộc
Trung Quốc.
“Hai, thực thi lời hứa dừng mọi bạo lực trong nước để bảo vệ công dân và tài sản công ty Trung Quốc ở Việt Nam.”
Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về bài báo của ông Lưu Hồng Dương.
Trong một diễn biến liên quan, Tiến sĩ Ngô Sĩ
Tồn, Giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, có bài trả lời
phỏng vấn hãng tin Đức Deutsche Welle (DW), được đăng trên mạng hôm
20/5.
Ông này cũng nhắc lại về Công hàm Phạm Văn Đồng.
“Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn
Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong
công hàm gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.
“Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975,” tiến sĩ Ngô nói.
“Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.”
Công hàm ngoại giao do Thủ tướng Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, ông Phạm Văn Đồng ký năm 1958 để phúc đáp tuyên bố của
CHND Trung Hoa hôm 04/9 năm 1958 về hải phận 12 hải lý của nước này.
Viết trên BBC, Tiến sĩ Trần Công Trục, cựu
Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, cho rằng công hàm “không liên
quan gì đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, càng không có nghĩa là
Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc”.
“Bởi thời điểm này 2 quần đảo đang do chính thể
Việt Nam Cộng hòa, đại diện cho nhà nước Việt Nam quản lý, thực thi chủ
quyền,” ông Trục giải thích.
Tuy vậy, tranh luận trên BBC, ông Lý Thái
Hùng, một lãnh đạo của đảng Việt Tân ở Hoa Kỳ, lại nói công hàm
“vẫn đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông bao gồm luôn quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, và cho Trung Quốc lý cớ để cột
công hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm lược của họ hiện
nay”.
Nói như một nhà nghiên cứu khác, Dương Danh Huy,
công hàm có gây ra nghĩa vụ ràng buộc cho Việt Nam liên quan đến Hoàng
Sa, Trường Sa hay không là một vấn đề “còn tranh cãi”.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/05/140520_china_phamvandong_views.shtmlKhó xử Công hàm Phạm Văn Đồng
Cập nhật: 15:01 GMT - thứ tư, 26 tháng 2, 2014
Trung Quốc xây dựng mạnh đô thị Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa
Trong bài viết mới đây
của Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng “Công hàm 1958 do Thủ tướng Phạm Văn
Đồng ký gửi Trung Quốc chỉ ủng hộ và thừa nhận phạm vi lãnh hải 12 hải
lý mà Trung Quốc tuyên bố, không có chữ nào nhắc đến hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam mà Bắc Kinh yêu sách chủ quyền với tên gọi
Tây Sa, Nam Sa.”
Do đó mà việc kêu gọi hủy bỏ công hàm này là mắc lừa chủ trương hiện nay của Bắc Kinh.Đó là lý do vì sao đến giờ này Việt Nam vẫn chưa có những biện pháp cứng rắn hơn đối với những hành vi xâm phạm ngày một gia tăng của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Kẽ hở của Công hàm 1958
Đúng là Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập gì đến Hoàng Sa hay Trường Sa.Nhưng Công hàm đã viết:
"Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc."
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã viết:
"Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các
hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần
đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và
các đảo khác thuộc Trung Quốc."
"Việt Nam Cộng hòa là một thực thể chính trị, một chủ thể trong quan hệ quốc tế được quốc tế công nhận"
Ông Trần Công Trục
Dù giải thích thế nào đi nữa, Công hàm 1958 vẫn
đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông bao gồm luôn quần đảo
Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam, và cho Trung Quốc lý cớ để cột công
hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm lược của họ hiện nay.
Nói cách khác, cái “thòng lọng pháp lý của Bắc
Kinh đang giăng sẵn” như mô tả của Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ có thể có
được từ chính sợi dây thừng mà Công hàm 1958 đã cung cấp.
Trong bài viết, Tiến sĩ Trần Công Trục cũng đã
đề cập: “Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể chính trị, một chủ thể trong
quan hệ quốc tế được quốc tế công nhận. Vì vậy, Việt Nam Cộng Hòa là đại
diện cho nhà nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam để quản lý và thực thi chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.”
Tôi tán đồng cách nhìn này và vì thế Tuyên bố
của Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 4-2-1974 là một văn kiện quan trọng để
cho nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay khai dụng trong việc tranh luận với
Trung Quốc về vấn để chủ quyền biển đảo.
Chính tư thế pháp lý của VNCH năm 1974 đã nói
lên giá trị của Tuyên Bố 4-2-1974 và do đó, trực tiếp hủy giá trị của
Công hàm 1958 trong “chiêu bài lập lờ đánh lận con đen cho tham vọng
bành trướng” của Bắc Kinh.
Công hàm này chỉ mang tính ngoại giao trong bối cảnh của giai đoạn 1958 và càng không phải là một bản cam kết giữa hai quốc gia.
Tiến sĩ Trần Công Trục đã nhầm lẫn giữa một
“diplomatic note” với một “bilateral agreement” khi viết rằng: “theo
luật pháp quốc tế nếu như một chính thể đã chính thức công nhận một vấn
đề thì không thể hủy bỏ đơn phương một cách đơn giản như vậy là xong.
Tiền hậu bất nhất là điều tối kỵ khi đưa một vấn đề tranh chấp ra các cơ
quan tài phán quốc tế”.
Hơn thế nữa, ngay cả một cam kết giữa hai quốc
gia cũng chỉ được tôn trọng trong bối cảnh ngày nào nó còn bảo vệ được
quyền lợi của cả hai quốc gia.
Ngày nào còn tránh né việc công khai xác định
với Trung Quốc sự sai trái về pháp lý và vô hiệu lực của Công hàm Phạm
Văn Đồng, thì ngày đó nhà quyền cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục bị
lúng túng trong sự giải thích lòng vòng, vừa khó thuyết phục được công
luận vừa cho Trung Quốc thấy thế yếu của Việt Nam.
Mặt trận pháp lý
Trong nhiều thập niên vừa qua, nhà cầm quyền
cộng sản Việt Nam đã chọn phương thức "ngoại giao” để giải quyết các
tranh chấp biển đảo đối với Trung Quốc. Đến nay thì phương án này không
những không hiệu quả mà còn gây nguy hiểm cho Việt Nam khi thời gian kéo
dài chỉ càng củng cố và có lợi cho các ý đồ bành trướng tiếp của Trung
Quốc.
Khi Trung Quốc ỷ thế lớn và tìm cách gây chia rẽ
nội bộ các nước trong khối ASEAN thì việc ASEAN có thông qua Bộ quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (COC) với Trung Quốc hay không cũng sẽ chỉ mang giá
trị hình thức.
Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn tiến hành
phương án đấu tranh pháp lý, tức kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài
Liên Hiệp Quốc như Philippines đã làm vì có khá nhiều điểm tương đồng.
Mặc dù Philippines không kiện Trung Quốc về chủ
quyền biển đảo, mà kiện Trung Quốc "áp dụng và giải thích sai Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS)” như Tiến sĩ Trần Công Trục
phân tích, thì đó ít ra cũng là điểm khởi đầu cần thiết trong việc dùng
công pháp quốc tế buộc Trung Quốc phải “nói chuyện”, chứ không thể để họ
cố tình tránh né, phớt lờ như hiện nay.
Đương nhiên tiến hành một vụ kiện cần phải
nghiên cứu thật kỹ, nhưng không vì thế mà chần chừ quá lâu và nuôi hy
vọng quá nhiều vào việc ASEAN và Trung Quốc sẽ tiến hành tham vấn về Bộ
quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) như Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tuyên
bố hôm đầu năm 2014.
Sức mạnh toàn dân
Vận dụng bằng ngoại giao hay pháp lý để lấy lại
chủ quyền biển đảo đã bị xâm chiếm là những phương thức cần thiết nhưng
chắc chắn là chưa đủ và khiếm diện.
"Trách nhiệm giành lại chủ quyền không thể ủy thác vào chính quyền hay bất cứ một tập thể nào mà phải dựa trên nền tảng toàn dân"
So với nhiều quốc gia trong khu vực, Việt Nam có
ít nhất 138 chiến sĩ từ hai thể chế chính trị khác nhau đã hy sinh
trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974
và Trường Sa năm 1988.
Nếu coi nỗ lực bảo vệ và lấy lại chủ quyền các
phần lãnh thổ, lãnh hải của cha ông là mục tiêu tối hậu, Việt Nam cần
vượt lên trên mọi khuynh hướng chính trị, mọi nhu cầu ngắn hạn của những
chính phủ đang cầm quyền.
Nhưng để thực hiện được ước muốn tối thượng đó thì phải có nền tảng tối thiểu.
Nền tảng đó chính là sức mạnh của Toàn dân.
Lịch sử Việt đã chứng minh quá nhiều lần rằng không có cách nào khác.
Vì vậy, nếu thực tâm muốn bảo vệ chủ quyền đất
nước dựa trên nền tảng sức mạnh toàn dân, nhà cầm quyền cộng sản Việt
Nam cần phải:
Thả ngay những người yêu nước đang bị giam giữ và tôn trọng quyền bày tỏ lòng yêu nước của người dân;
Thực hiện tinh thần Hội nghị Diên Hồng bằng cách chấm dứt ngay chính sách độc quyền yêu nước;
Dẹp bỏ thái độ thù nghịch đối với những tiếng nói xây dựng, ôn hòa vì quyền lợi của Tổ quốc.
Nói tóm lại, khi một phần lãnh thổ, hải đảo đã
bị nước ngoài xâm chiếm, trách nhiệm giành lại chủ quyền không thể ủy
thác vào chính quyền hay bất cứ một tập thể nào mà phải dựa trên nền
tảng toàn dân.
Bài viết thê ̉hiện quan điểm riêng của ông Lý Thái Hùng, một lãnh đạo của đảng chính trị Việt Tân ở Hoa Kỳ.
Hoàn cảnh lịch sử của Công hàm 1958
Cập nhật: 10:29 GMT - thứ tư, 21 tháng 5, 2014
Một nhà nghiên cứu về Biển
Đông của Việt Nam đặt vấn đề Quốc hội hiện nay của Việt Nam
nên có nghị quyết phủ nhận giá trị Công hàm do cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng ký vào năm 1958.
Công hàm này được Trung Quốc sử dụng để nói
rằng Việt Nam đã thừa nhận tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền
đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.‘Công hàm hữu nghị’
Tuy nhiên, trao đổi với BBC, ông Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu về Biển Đông từ trong nước, đã đưa ra một số lập luận phản bác công hàm này.“Phải xét hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, đó là thời kỳ Chiến tranh Lạnh,” ông Phúc nói. “Trước sự bao vây của Mỹ và một số nước đế quốc, Trung Quốc sợ bị tấn công nên ra tuyên bố về lãnh hải.”
Do đó, công hàm do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký, theo ông Phúc, là ‘công hàm hữu nghị giữa hai người đồng chí anh em ủng hộ nhau để chống kẻ thù chung’.
"Đây là công hàm hữu nghị giữa hai người đồng chí anh em ủng hộ nhau để chống kẻ thù chung."
Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc
Hơn nữa, theo ông Phúc, Trung Quốc cũng là một bên ký kết hiệp định Geneve vào năm 1954 chia cắt Việt Nam thành hai miền trong đó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.
“Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa (để thừa nhận trong công hàm),” ông nói.
Ngoài ra, công hàm được ký năm 1958 này "chưa được Quốc hội thông qua", ông Phúc nói thêm.
“Quốc hội Việt Nam cũng chưa từng bao giờ ra nghị quyết phủ nhận chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”
“Cho dù thủ tướng một nước ký công hàm thừa nhận cái gì đó với những quốc gia có quan hệ ngoại giao nhưng không có nghị quyết của Quốc hội thì tôi nghĩ không có giá trị cao nhất,” ông nhận định.
‘Ý thức hệ chi phối’
Tuy nhiên nhà nghiên cứu này thừa nhận trong bối cảnh cuộc chiến ý thức hệ vào thời điểm đó đã "có ảo tưởng của những người lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa".
“Họ cứ nghĩ rằng Trung Quốc là đồng chí, là anh em, sau này giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì chuyện anh em sẽ dễ giải quyết. Trung Quốc sẽ hữu nghị, sẽ trả đảo lại cho Việt Nam,” ông nói và khẳng định yếu tố ý thức hệ ‘đã chi phối hành động các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ’.
Ông cho rằng công hàm này đã làm cho Việt Nam ‘yếu thế hơn’ trong quá trình tranh chấp với Trung Quốc và cho biết một số nhà nghiên cứu trong nước đã nghĩ đến khả năng Quốc hội hiện nay ‘ra nghị quyết phủ nhận công hàm năm 1958’.
"Cần nhìn nhận sự thật lịch sử đã diễn ra và phải biết đặt vấn đề giữa quá khứ và hiện tại như thế nào để có lợi nhất cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền,” ông nói.
Ý nghĩa của Công hàm 1958?
Cập nhật: 10:10 GMT - thứ tư, 21 tháng 5, 2014
Media Player
Trao đổi với BBC, ông Đinh Kim
Phúc, một nhà nghiên cứu về Biển Đông từ trong nước, đã đưa ra
một số lập luận phản bác công hàm 1958 do cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng ký mà Trung Quốc cho rằng đã thừa nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
“Phải xét hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, đó
là thời kỳ Chiến tranh Lạnh,” ông Phúc nói. “Trước sự bao vây
của Mỹ và một số nước đế quốc, Trung Quốc sợ bị tấn công nên
ra tuyên bố về lãnh hải.”Do đó, công hàm do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký, theo ông Phúc, là ‘công hàm hữu nghị giữa hai người đồng chí anh em ủng hộ nhau để chống kẻ thù chung’.
“Nhưng Trung Quốc đã diễn giải công hàm này cho rằng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thừa nhận Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc,” ông nói.
Hơn nữa, theo ông Phúc, Trung Quốc cũng là một bên ký kết hiệp định Geneve vào năm 1954 chia cắt Việt Nam thành hai miền trong đó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.
“Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa (để thừa nhận trong công hàm),” ông nói.
Ngoài ra, công hàm được ký năm 1958 này ‘chưa được Quốc hội thông qua’, ông Phúc nói thêm.
“Quốc hội Việt Nam cũng chưa từng bao giờ ra nghị quyết phủ nhận chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”
“Cho dù thủ tướng một nước ký công hàm thừa nhận cái gì đó với những quốc gia có quan hệ ngoại giao nhưng không có nghị quyết của Quốc hội thì tôi nghĩ không có giá trị cao nhất,” ông nhận định.
Tuy nhiên nhà nghiên cứu này thừa nhận trong bối cảnh cuộc chiến ý thức hệ vào thời điểm đó đã ‘có ảo tưởng của những người lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa’.
“Họ cứ nghĩ rằng Trung Quốc là đồng chí, là anh em, sau này giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì chuyện anh em sẽ dễ giải quyết. Trung Quốc sẽ hữu nghị, sẽ trả đảo lại cho Việt Nam,” ông nói và khẳng định yếu tố ý thức hệ ‘đã chi phối hành động các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ’.http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/05/140521_dinhkimphuc_1958_note.shtml
No comments:
Post a Comment