Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 6 June 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 466

TUYẾT XỨ THI CÁC


 



     CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ
NGUYỄN KHÔI
                          ------
Lời thưa : Bài thơ "Có một  thời như thế" - đó là thời "Xây dựng chủ nghĩa" - THỜI BAO CẤP...NK viết cách nay đã 27 năm, tưởng là "Cái thời ấy đã qua " rồi...nhưng thực nó lại chưa qua, nó tự chuyển  biến/ chuyển hóa sang một Xã hội đang  bị xuống cấp/ tha hóa một cách toàn diện...Xin đăng Bài thơ làm Tư liệu về "một cái nhìn của một Quan chức cùng thời" để mọi người suy ngẫm, cùng chia sẻ, để thế hệ con cháu biết được " à , Xã hội Việt Nam thời đó , nó là như thế..." 
:
Ta đã trải một thời đầy biến động
nay Tổng Bí Thư mai đã bị "đòm" (1)
bao "lãnh tụ" hết đường kiếm sống
đến Lê nin cũng hết thuở tôn sùng.
Có một thời Đảng là Thần thánh
Nghị Quyết ra thành Luật thi hành
ăn "định suất", yêu đương phải báo cáo
Sống như trong Trại lính...luôn phải cảm ơn.
Có một thời Đình chùa bị phá
Lý tưởng là Chủ nghĩa Mác- Lê nin
Hát tập thể, ngắm trăng tập thể
"Đoàn thể" lo cả việc cưới xin.
Có một thời Bán buôn là phạm pháp
làm như Trâu mà chẳng được ăn
Nuôi Lợn để bán cho Nhà nước
V.A.C của Hợp tác, cấm làm riêng.(2)
Có một thời tự hào là Bần , cố
Văn hóa lớp 3 nắm đủ chức quyền
"Dép cao su" được toàn dân chiêm ngưỡng
Áo trắng, quần xanh là "mốt" của thanh niên.
Có một thời Con gọi Cha là "đồng chí"
cụ 80 thì gọi là "anh"
Chủ tịch Nước, toàn dân kêu là "Bác"
Mọi người làm theo "kẻng" điểm danh.
Có một thời họp hành vất vả
Gà gáy rồi Hợp Tác họp chưa tan
Một người sống bị mọi người "theo dõi"
đến chết rồi còn cảm thấy bất an
Có một thời "Phở không người lái"
Muốn mua gì ra Mậu Dịch mà mua
"Xếp hàng cả ngày" sống bằng tem phiếu (3)
"Kế hoạch hóa" mọi điều đến cả chuyện riêng tư.
Có một thời "ông chủ" lại núp danh "đầy tớ"
"Cu ly" được tôn là "giai cấp cầm quyền"
"Đầy tớ" sống cuộc đời Vương giả
"Giai cấp cầm quyền" lại khổ quá Dân đen.
Có một thời Chân Lý hạ xuống thành Định Lý
mọi lời thề như gió bay đi
mọi lời Hứa nhàm như Công Lý
mọi Quyết định do Cấp Ủy đưa ra...
Có một thời ai cũng có thể là "Người lãnh đạo"
Cán bộ đầy đường ăn/ phá/ hà hiếp nhân dân
Kẻ ngu nhất luôn tự khoe sáng suốt
Bài bản nực cười bắt cả Nước phải tuân...
Có một thời "Đẹp" là tội lỗi
"cái Tôi" bị phê, bị đánh tơi bời
Nói theo Đảng, đi theo lời Đảng gọi
"Mình vì mọi người" phải hát, phải vui...
Có một thời chỉ hút thuốc lá Trường Sơn và đọc thơ Tố Hữu
"Sống như anh", "Bất khuất" (4) là sách gối đầu giường
Toàn dân sống và làm theo lời Bác
phải biết căm thù, phải biết yêu thương.
Có một thời mọi hành động rất "duy Ý chí"
Phá rừng đi để lập Nông trường,
làm cầu Thăng Long, xây Lăng vĩ đại
Dân cuồn cuộn đi bới đất tìm vàng...
Có một thời sống chỉ vì Xã hội
Gia đình chia ly để vì Đảng/ vì Dân
-Vợ liệt sĩ...bây giờ ai thăm hỏi ?
Con bụi đời, mù chữ chạy lông bông...
Có một thời luôn họp hành kiểm điểm
-Ăn nói ra sao, tư tưởng thế nào ?
Sống cảnh giác và làm ăn giả dối
trả Lương vờ, làm cũng vờ thôi...
Có một thời như sống bằng hy vọng
Kế hoạch vẽ ra trên gió trên mây
Các Quan chức ăn giỏi, nói giỏi
mặc Nhà quê tăm tối, sình lầy...
Có một thời hão huyền, không tưởng
Sống cực đoan và thiên kiến cực kỳ
- đã là Mỹ thì cái gì cũng xấu
còn Liên Xô là tốt đến mê ly.
Có một thời đến như là phi lý
- ai cũng muốn thoát ly, không thích ở nhà mình
Vinh dự được vào Đoàn, vào Đảng
Mình chẳng  còn là mình hơn Kịch sĩ trứ danh.
Có một thời những con người chân chính
phải về  vườn sống cảnh lầm than
Bao chiến tích cũng trở thành vô ích
tức (khí) ngồi nhìn Lũ Cơ Hội tham lam...
Có thời Đảng độc quyền lãnh đạo
mọi riêng/ chung có Đảng lo rồi
Nhân danh Đảng- lũ đặc quyền/ đặc lợi
Vô kỷ cương, tiêu cực đẻ như Ruồi...
Có một thời Trí thức thành "Học giả"
bị trói hoài trong cơ chế Quan liêu
làm đầy tớ cho những thằng ngu dại
vì vợ con chẳng còn "sĩ" bao nhiêu.
Có một thời mình nghĩ mình tài giỏi
luôn dạy đời và lớn tiếng tự ngợi ca
Mình tự khen mình là Vĩ đại
Ta nhìn rốn ta bảo "Tầm nhìn xa" (5)
Đấy là thời vĩ cuồng ấu trĩ
Tự cho ta tốt đẹp nhất trên đời
rất khoái chí xơi "Quả Lừa" to tướng
Nay vẫn còn vị đắng trên môi.
Cái thời ấy qua rồi như Ác mộng
có bao điều còn nhức nhối lương tâm
còn hậu quả di căn cho hậu thế
là Hồn Ma lởn vởn khắp thôn làng.
               -----
(1) Xê au xe cu- Romania
(2)vườn, ao ,chuồng
(3) XHCN
(4) tác phẩm của Trần Đình Vân, Trần Đĩnh
(5) của Nguyễn Khải
     Hà Nội , ngày 3-4-1990
         NGUYỄN KHÔI
         (Nhà văn Hà Nội)



Thư Không Niêm Gửi Bạn... Những “chiến hữu” mau quên....  “áo gấm về làng”, tủi nhục đồng đội.
(Thay lời một vị thương phế binh VNCH đang kẹt ở VN
gửi người bạn cũ ngày xưa đã vượt biên nhưng nay lại viện dẫn đủ mọi lý do để về vui chơi)

Gửi nhờ tập vé số trên tay,
Chống nạng đến đây để gặp mày.
Hụt hẫng thấy mày ngồi giữa quán,
Đang cùng bầy cán bộ vui say.

Không muốn bị mang tiếng quấy rầy,
Khi lòng đang thất vọng chua cay,
Nên đành mượn tạm vài trang giấy,
Viết bậy đôi câu gửi tới mày.

Mày hãy cùng tao nhớ lại ngày,
Cùng mày trong bóng tối chia tay,
Mày thề rằng nếu Trời cho thoát,
Mày ắt không quên mối hận này.

Từ đó, trong đau đớn dập vùi,
Bọn tao mòn mỏi đợi tin vui.
Ngờ đâu hạnh phúc lùi xa mãi,
Nghĩ đến Quê Hương lại ngậm ngùi.

Mày trở về chơi đã lắm lần,
Lúc thì viện cớ gặp người thân,
Lúc theo “từ thiện” tìm danh vọng,
Hí hửng vô tròng bọn ác nhân.

Hàng vạn hàng trăm các hội đoàn,
Tranh đua làm thiện thật gian nan.
Hân hoan vì chút hào quang giả,
Họ đã an nhiên giúp bạo tàn.
 
Mày cũng lần theo đóm múa may,
Hết quà lại cáp phát rền tay.
Tiền Tây, tiền Mỹ xài như rác,
Lầu các thi nhau mọc dẫy đầy.

Mày biết dân đây được những gì,
Khi đoàn cứu trợ đã ra đi?
Đất đai ngập lụt, nhà tan nát,
Ngơ ngác trên tay một gói mì!

Biết chăng vì những đứa như mày,
Sự thật quê nhà chẳng chịu hay,
Hãnh diện ta đây về “cứu viện”,
Nên bầy quỷ đỏ hiện còn đây.

Mày có biết mày đã tiếp tay,
Nuôi dân cho chúng để rồi nay,
Chúng càng thêm có đầy phương tiện,
Để khiến dân ta mãi đọa đày.

Cả bầy chúng vẫn sống xa hoa,
Xuất ngoại đầu tư, sắm sửa nhà,
Con cái tiêu ra hàng bạc triệu,
Đồng tiền đó liệu lấy đâu ra?

Mày so với chúng được bao lăm,
Tỷ phú tiền Tây chúng cả trăm.
Của cải một thằng trong Bắc phủ,
Thừa nuôi dân sống đủ nhiều năm.

Phải chăng vì cật ấm cơm no,
Mày lại mơ màng chức vị to,
Nên mới trở cờ o bế giặc,
Qua sông ngoảnh mặt với con đò?

Tao xót xa nhìn lũ bạn thân,
Ngày xưa vượt biển lắm gian truân,
Nay khuân tiền bạc về quê cũ,
Góp sức nuôi bè lũ hại dân.

Bạn mình giờ lắm kẻ giàu sang,
Áo gấm xênh xang rộn xóm làng.
Có đứa vênh vang bằng cấp lớn,
Hùa theo lũ ngợm chống Cờ Vàng.

Có thằng may mắn lắm đồng ra,
Thơ thới về đây, bỏ vợ nhà.
Có đứa làm sui gia với giặc,
Ra ngoài trở mặt líu lo ca.

Thấy miệng mày thoa mỡ nói năng,
Lòng tao chua xót chợt hay rằng,
Xuống thuyền mấy đứa đêm hôm đó,
Giờ đã “vinh quy” đủ bấy thằng!

Tao tưởng bao năm ở nước ngoài,
Chúng mày phải biết rõ hơn ai,
Ngày ngày đọc thấy nhiều tin tức,
Sao lại vô tâm được thế này?

Lần cuối cho tao nói một lời:
Nếu còn người trở lại ăn chơi,
Đua đòi danh lợi, buôn “từ thiện”,
Thì chớ mơ chi chuyện vá trời.

Nắng chiều cuốn xác lá trôi,
Bóng đôi nạng gỗ đơn côi ngược dòng.

Trần Văn Lương




ĐỌC BÁO NGOẠI QUỐC * ĐẢNG DÂN CHỦ SUY NGHĨ VỀ BÀ CLINTON


 ©  Tài liệu của  AFP thuật  sau  sau diễn văn nhậm chưc của Tổng thống Trump , các nhà chiến lược hàng đầu đảng Dân Chủ nói rằng  rằng " Nhờ ông Trump mà chúng tôi  mở được trí khôn và có cơ hội để  lãnh đạo."

WASHINGTON - Một nhóm các nhà chiến lược hàng đầu của Đảng Dân chủ đã sử dụng dữ liệu mới về cuộc bầu cử tổng thống năm ngoái để đạt được một kết luận  rằng họ đã biết đich xác tại sao bà Hilary Clinton thất bại.
 "Nhiều đảng viên Dân chủ  cho rằng bà  Clinton chẳng làm được gì  trong khi Donald Trump đã làm quá nhiều  và vượt hẳn bà Clinton.

Tuy nhiên, thông tin mới cho thấy Clinton đã có một vấn đề lớn hơn  là cử tri đã tín nhiệmTrump  cũng như  họ  đã ủng hộ Tổng thống Barack Obama vào năm 2012 và  đã ủng hộ Trump bốn năm sau đó.
Những cử tri Obama-Trump đã chiếm 2/3 lý do mà Clinton đánh mất, theo Matt Canter, phó chủ tịch cao cấp của Tập đoàn Global Strategy Group về chính trị. Trong phân tích của nhóm, khoảng 70%   tổng số phiếu của Obama trong năm 2012  nay bà đã đánh mất số phiếu này.


 Canter và các thành viên khác của Nhóm Chiến lược Toàn cầu đã đưa ra một báo cáo chi tiết về những phát hiện của họ đối với các thượng nghị sĩ, các nghị sĩ, các đồng nghiệp và các viện nghiên cứu - tất cả là một phần của nỗ lực để giáo dục các nhà lãnh đạo đảng về những gì dữ liệu nói thật sự đã xảy ra trong cuộc bầu cử năm ngoái.

"Chúng ta phải chắc chắn rằng chúng ta học đúng bài học từ năm 2016.
Kết luận của ông được chia sẻ rộng rãi bởi các đảng viên Dân chủ khác, những người đã kiểm tra dữ liệu, bao gồm các thành viên cao cấp của chiến dịch của Clinton và các quan chức tại công ty phân tích số liệu của đảng Dân chủ. (The New York Times, trong phân tích riêng của nó, đã đạt được một kết luận tương tự.)

 Mỗi nhóm đánh giá bằng cách phân tích các hồ sơ của cử tri - các báo cáo cho thấy ai đã bỏ phiếu trong mỗi tiểu bang và kết hợp chúng với dữ liệu hiện có về cử tri, bao gồm thông tin nhân khẩu học và lịch sử bỏ phiếu. Các nhóm xác định cách mọi người bỏ phiếu - theo cách nào là toàn diện nhất để phân tích cử tri thiếu một cuộc tổng điều tra đầy đủ.

 Những phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với Đảng Dân chủ, ở điểm thấp lịch sử, đó là cố gắng tìm ra cách nó có thể giành lại quyền lực. Phần lớn các cuộc tranh luận về cách tiến hành đã tập trung vào việc liệu đảng này có nên giành lại cử tri da trắng của giai cấp công nhân - những người chiếm đa số cử tri Obama - Trump hay không - thay vào đó tập trung vào huy động cơ sở của họ. Canter nói. "Chúng ta phải làm cả hai."Đảng Dân chủ đã nhanh chóng thừa nhận rằng ngay cả khi các cử tri chuyển đổi lòng trung thành đã trở thành vấn đề lớn nhất của Clinton.
 Chẳng hạn, bà có thể thắng nếu các vận động viên người Mỹ gốc Phi tại Michigan và Florida khớp với năm 2012.

 Hillary Clinton tham dự lễ nhậm chức của Donald Trump


 Sau một cuộc vận động tranh cử tổng thống cay đắng, tất cả các cặp mắt đều  chăm chú nhìn bàHillary Clinton khi bà cùng chồng, cựu Tổng thống Bill Clinton, tại lễ nhậm chức của Donald Trump vào ngày 20 tháng 1 năm 2017. Trong hình trên, Hillary Clinton bắt tay với Trump bắt tay trong suốt Buổi ăn trưa khai mạc tại National Statuary Hall.


Công ty của Cantor tiến hành điều tra và nhận thấy đảng Dân Chủ đã bỏ quên cử tri da trắng và cơ sở của họ bằng một thông điệp mạnh mẽ bắt nguồn từ chủ nghĩa dân túy kinh tế.  

 Một cuộc đối thoại về việc những người Dân chủ tiếp tục tham gia vào một cuộc tranh luận chắc chắn sẽ trở thành một cuộc thảo luận về việc liệu nó có nên bao gồm một hình thức chủ nghĩa dân túy kinh tế tương tự như một cuộc vận động của Sen Bernie Sanders, hay thay vào đó là trung tâm chính trị.Canter lập luận rằng "nước sốt đặc biệt" của tổng thống Trump kết hợp chủ nghĩa dân túy kinh tế với một chủ nghĩa dân túy chính trị làm xáo trộn cả hai bên.
 
"Chúng tôi không cần phải là người của đảng Cộng hòa," Canter nói. "Tất cả những gì chúng tôi đang nói là đây là thách thức bầu cử Để giành chiến thắng, đây là thách thức chúng ta phải giải quyết Và có rất nhiều tranh luận tốt về cách chúng ta có thể giải quyết nó."

 http://www.msn.com/en-ca/news/politics/democrats-say-they-now-know-exactly-why-clinton-lost/ar-BBAz1Gn


Clinton: Thất cử lỗi tôi một phần; lỗi Nga, FBI một phần




Cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton dự diễn đàn phụ nữ ở New York, ngày 2/5/2017

Trong cuộc phỏng vấn lớn lần đầu tiên kể từ sau thất bại trong cuộc đua tranh chức tổng thống tháng 11 năm 2016, bà Hillary Clinton tự nhận trách nhiệm thất cử về phần mình. Nhưng bà cũng nói với phóng viên Christine Amanpour, người phỏng vấn bà tại một diễn đàn phụ nữ ở New York hôm thứ Ba, rằng Nga và Giám đốc FBI James Comey đã góp phần giúp ông Donald Trump của Ðảng Cộng hòa ghi điểm giành chiến thắng được xem là ngược dòng.
Bà Clinton nói nếu cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 27 tháng 10 thì hôm nay bà đã đang là tổng thống Mỹ:
“Tôi đang trên đà giành chiến thắng thì cùng lúc xảy ra vụ Jim Comey thông báo điều tra ngày 28/10 và vụ WikiLeaks Nga làm dấy lên nghi ngờ trong công chúng, những người đang nghiên về xu hướng ủng hộ tôi bỗng dưng thấy lo ngại."
Cựu ứng cử viên tổng thống của Ðảng Dân chủ Dân chủ dẫn đầu các cuộc thăm dò dư luận trước bầu cử cho đến khi giám đốc FBI thông báo mở lại điều tra về việc bà Clinton dùng máy tính chủ cá nhân cho email công vụ trong khi bà làm bộ trưởng ngoại giao Mỹ.
Mặc dù bà Clinton không bị truy tố trong vụ điều tra đó, cuộc vận động tranh cử của bà bị trúng một đòn mạnh chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử. Hồi tháng 1, các cơ quan tình báo Mỹ kết luận rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin ra lệnh phá khả năng thắng cử của bà Clinton và giúp ông Trump giành chiến thắng.
Cựu đệ nhất phu nhân, cựu thượng nghị sĩ, và cựu ngoại trưởng Clinton nay nói rằng bà đã trở lại là một công dân năng động chính trị. Trong cuộc phỏng vấn hôm thứ Ba, bà nói về nhiều vấn đề trên thế giới, trong đó có mối đe dọa hạt nhân Bắc Triều Tiên. Bà nói sức mạnh quân sự chỉ là một trong các công cụ để bảo vệ lợi ích của Mỹ, và rằng ngoại giao và phát triển cũng giữa một vài trò quan trọng tương đương như vậy.
Bà Clinton nói: “Bắc Triều Tiên lâu nay – không chỉ Kim Jong Un mà cha của ông ấy – luôn luôn muốn tìm cách kéo Mỹ vào thương lượng, để nâng cao tầm cỡ và vị thế của họ, và chúng ta phải hết sức thận trọng với ý đồ đó của họ. Chúng ta không nên trao cái cơ hội đó mà không có một khung chiến lược lớn hơn để cùng đưa Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Nam Triều Tiên vào áp lực lên chế độ Bình Nhưỡng để buộc họ rốt cuộc phải mang đến bàn thương nghị một hứa hẹn thay đổi có thực."
Bà Clinton cho biết bà đang viết sách kể về kinh nghiệm là phụ nữ đầu tiên được một chính đảng lớn của Mỹ đề cử ra tranh chức tổng thống Hoa Kỳ.
 http://www.voatiengviet.com/a/ba-clinton-nhan-that-cu-la-do-ba-nhung-cung-do-cho-nga-fbi/3836374.html



PHẠM TÍN AN NINH * NGƯỜI HỒI CHÁNH

Người Tù Binh Hồi Chánh Bên Bờ Sông Ba


 Tôi gặp lại anh trong 1 dịp rất tình cờ . Mùa Hè năm 2008 , vợ chồng tôi cùng mấy người bạn trên đường từ thác Niagra trở lại New York bằng chiếc mini-van , ghé lại thành phố Buffalo để tìm mua 1 hộp thuốc nhỏ mắt .

Người Tù Binh Hồi Chánh Bên Bờ Sông Ba


Buổi tiệc khao quân tất niên bị huỷ bỏ , thực phẩm phân phát cho binh sĩ và trại gia binh . Chúng tôi rời bản doanh Sông Mao lúc 12 giờ trưa . Chi Đoàn 2/8 TK tăng phái hộ tống lực lượng bộ binh đến Đèo Cả , ranh giới tỉnh Phú Yên . Sau đó được lực lượng Thiết Kỵ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn mở đường và đón đơn vị chúng tôi từ Đèo Cả đến Đèo Cù Mông , Bình Định . Nghỉ đêm và đón giao thừa tại Vạn Giã , sáng hôm sau tiếp tục di chuyển . Chúng tôi đến căn cứ An Khê lúc 4 giờ chiều ngày Mồng Một Tết .
Đến quày Pharmacy trong 1 cửa hàng Target , tôi may mắn gặp 1 dược tá người Việt . Nếu không nhìn kỹ cái bản tên trên nắp túi áo và với cái tên khá đặc biệt , chắc chắn tôi không thể nào nhận ra anh , người tù binh , đã bị Đại Đội Trinh Sát của đơn vị tôi bắt trong 1 cuộc hành quân thám sát bên bờ Sông Ba , nằm trong địa phận quận An Túc ( An Khê ) vào giữa tháng 02/1972 .


Đúng vào sáng ngày 30 Tết Nhâm Tý ( 1972 ) khi chuẩn bị cho buổi tiệc khao quân tất niên tại bản doanh Sông Mao , Trung Đoàn 44 nhận lệnh phải di chuyển gấp lên An Khê để cùng Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái , thành lập 1 chiến đoàn , thay thế vị trí của 1 Lữ Đoàn thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước , làm lực lượng trừ bị cho Quân Đoàn . Giai đoạn đầu , Chiến Đoàn phối họp với Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , hành quân tảo thanh tiêu diệt các lực lượng địch dọc theo hai bên QL-19 và đảm trách giữ an ninh lộ trình 24/24 con đường huyết mạch này từ Bình Khê đến Pleiku , để kịp thời cho các nhu cầu chuyển quân , tiếp tế lên chiến trường Pleiku và Kontum . Thời gian này Sư Đoàn 22BB đang bổ sung quân số quân dụng , chuẩn bị di chuyển lên Tân Cảnh để đối phó với tình hình đột biến . Một lực lượng lớn Cộng quân từ miền Bắc và Lào ào ạt xâm nhập qua biên giới , tăng cường cho Mặt Trận B-3 của Tướng CS Hoàng Minh Thảo , trong ý đồ đánh chiếm Tây Nguyên .

Một Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 44 được nhanh chóng thành hình . Trung Tá Trần Quang Tiến , Trung Đoàn Trưởng 44BB là Chiến Đoàn Trưởng , Trung Tá Trần Lý Hưng , Thiết Đoàn Trưởng TĐ 3KB là Chiến Đoàn Phó . Cá nhân tôi đảm trách Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn . Một toán liên lạc của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , do 1 vị Đại Tá chỉ huy , được đặt bên cạnh BCH Chiến Đoàn . Ngoài Thiết Đoàn 3 KB , Chi Khu An Túc và 1 tiểu đoàn Địa Phương Quân của TK Bình Định cũng được đặt dưới quyền chỉ huy , điều động của Chiến Đoàn .


Hai hôm sau , Chiến Đoàn được lệnh tổ chức 1 cuộc hành quân khẩn cấp , giải toả hai căn cứ cấp đại đội thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm trên Đèo An Khê , vừa bị 1 lực lượng Công quân bất ngờ tấn công và đang vây hãm . Sư Đoàn Mãnh Hổ đã phái 1 lực lượng tiếp ứng , nhưng bị phục kích , thiệt hại khá nặng . Lực lượng địch được uớc tính gồm 1 tiểu đoàn và 1 đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng .


Nhờ hoả lực hùng hậu và những kỵ binh dũng cảm trên các chiến xa M-113 của Thiết Đoàn 3KB , cùng các phi công tài ba gan dạ thuộc Phi Đoàn Mãnh Sư 243 , sau những kế hoạch nghi binh , tạo các bãi đáp giả , lừa địch rất hiệu quả , từng đại đội bộ binh được tuyển lựa các binh sĩ trẻ , trang bị nhẹ , đổ xuống , vừa khép vòng vây vừa ngăn chặn lực lượng tăng viện của địch . Đại Đội 44 Trinh Sát nổi danh thiện chiến , với hai toán Viễn Thám được trang bị mặt nạ chống hơi ngạt , chia làm hai cánh bất ngờ nhảy xuống ngay sau lưng địch , từng toán nhỏ lao vào tấn công bằng hơi cay , lựu đạn , và cả M-72 , dưới sự yểm trợ chính xác hữu hiệu của các trực thăng võ trang , nhanh chóng tiêu diệt hai cái chốt chặn của địch ở hai bên dốc đèo , làm đầu cầu cho lực lượng Thiết Giáp có bộ binh tùng thiết , đồng loạt tấn công , nhanh chóng làm chủ chiến trường . Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ , cả hai căn cứ đã được giải toả , địch quân tháo chạy , bị các đơn vị bao vây tiêu diệt , có mấy tên bị ta bắt sống . Chiến Đoàn đã ghi 1 chiến tích vẻ vang cho đầu năm mới .


Sáng hôm sau Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT và Tưóng Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại Việt Nam từ Sài gòn bất ngờ bay ra An Khê quan sát chiến trường và ngợi khen các đơn vị tham chiến .


Ngay chiều hôm ấy , qua hệ thống siêu tần số , Tướng Lam Sơn , Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II cho biết , theo tin tức không ảnh của Mỹ ghi nhận , có dấu hiệu địch xuất hiện trong khu vực bên kia bờ Sông Ba , khu này nằm tiếp giáp Vùng Oanh Kích Tự Do , lệnh Chiến Đoàn cho 1 đơn vị cấp đại đội thâm nhập , thám sát tình hình . Ông Chiến Đoàn Trưởng bảo tôi và Đại uý Trần Công Lâm , Đại Đội Trưởng 44 Trinh Sát , dùng CNC bay dọc theo bờ sông , thám sát địa thế , tìm 1 khúc sông thuận lợi và an toàn nhất để vượt sông . Sáng sớm hôm sau , sau khi thông báo cho TTHQ/ Quân Đoàn & Sư Đoàn Mãnh Hổ , yêu cầu tạm ngưng mọi cuộc tác xạ hay oanh kích trong vùng , đúng 5 giờ sáng , hai toán Viễn Thám vượt sông trước làm đầu cầu để toàn bộ Đại Đội Trinh Sát sang sông . Nhiệm vụ hành quân lục soát trong khu vực được ấn định 16 cây số vuông , theo đề nghị của Quân Đoàn .


Sau 2 tiếng đồng hồ , không có cuộc đụng độ nào , Chiến Đoàn nhận được báo cáo của Đại Đội Trinh Sát bắt được 2 tù binh , 1 nam 1 nữ , và cả hai xin được hồi chánh . Theo trình bày của anh Đại Đội Trưởng Trinh Sát . Người đàn ông bị phát giác trước , khi đang trên đường xuống sông lấy nước . Anh ta khai là y sĩ thuộc 1 tiểu đoàn chính quy CS , đã đào ngũ hơn 1 tuần . Anh xin được hồi chánh cùng với người vợ mới gặp , cô là người Thượng , dân ở vùng này , không phải đồng chí của anh . Sau đó , anh hướng dẫn đến 1 hốc đá , chỉ người con gái , và cây súng K-54 được chôn trong 1 bụi rậm gần đó . Vì cuộc hành quân đang tiếp diễn , nên tôi yêu cầu Đại Đội Trinh Sát an ninh bãi đáp để tôi dùng CNC bốc về khai thác . Khi trực thăng đáp xuống , đích thân Đại uý Lâm dẫn giải đến giao cho tôi cùng giấy chứng nhận y sĩ và mấy tấm ảnh . Hai người được giữ lại BCH Chiến Đoàn để tiếp tục khai thác trước khi chuyển giao cho Ty TT Chiêu Hồi Bình Định . Khi cô con gái bước lên trực thăng , chúng tôi đã khá bất ngờ , ngạc nhiên về sắc đẹp kỳ lạ của cô . Thấy áo quần rách rưới , chúng tôi mua cho cô mấy bộ bà ba . Khi mặc vào , trông cô thích thú lắm . Vì cả hai đang bị bệnh , người đàn ông thỉnh thoảng lên cơn sốt , nên chúng tôi sắp xếp cho ở tạm trong trạm xá ( đang trống ) của Đại Đội Quân Y để điều trị . Tất nhiên có sự canh gác đề phòng . Anh Bác sĩ Quân Y lại là bạn thân đồng hương , nên tôi thường ghé lại đây thăm và nhân tiện có nhiều dịp nói chuyện với vợ chồng anh tù binh hồi chánh . Mặc dù đã được Ban 2 ( Tình Báo ) cho chúng tôi biết khá đầy đủ chi tiết sau khi khai thác , nhưng qua những cuộc tâm tình riêng , tôi biết thêm nhiều điều lý thú khác . Anh tên Trúc Bạch , họ Hồ . Làm tôi nhớ tới cái hồ có tên Trúc Bạch mà người phi công Mỹ nổi danh John McCain đã nhảy dù xuống và bị bắt , khi phi cơ của ông bị bắn rơi , lúc ấy ông còn ở trong nhà tù Hilton Hà Nội . Tôi hỏi anh có biết sự việc này không , hay là anh đã có công trạng gì , nên được mang tên cái hồ đặc biệt này kể cả họ Hồ ? Anh cười ngượng ngùng , bảo là , bố mẹ anh gặp nhau lần đầu tiên bên bờ hồ này , rồi sau đó nên duyên và đặt tên cho anh , thằng cu đầu lòng để làm kỷ niệm . Ông bà đều là giáo viên . Trước dạy ở Hà Nội , nhưng vì lý lịch nên sau này phải đổi lên vùng sâu vùng xa mới giữ được nghề cũ . Bố anh gốc người Phát Diệm . Gia đình theo đạo Công Giáo từ mấy đời trước đó . Bố anh chỉ có 1 bà chị , nhưng đã theo chồng di cư vào Nam từ 1954 . Ngày ấy cả xứ họ đạo đều đi , nhưng vì mẹ mang thai anh gần đến ngày sinh , nên bố đành ở lại . Bà cô anh vào Nam , 1 thời gian ở Ngã Ba Ông Tạ , nhưng sau đó mất liên lạc , không biết đã chuyển đi đâu . Bố anh bảo người bà con trong làng vào Nam rất đông , nên nếu tìm bà cô cũng không khó lắm . Tôi cho anh biết là tôi có quen nhiều bạn bè ở vùng Công Giáo Hố Nai , đa số là người Bùi Chu Phát Diệm , tôi có thể hỏi thăm tin tức cho anh . Đang học trường Trung Học Y tế thì anh bị động viên chuyển sang Quân Y , và được đưa vào B ( chiến trường miền Nam ) bổ sung cho Sư Đoàn 2 Sao Vàng . Dù học chưa xong , anh vẫn được cho làm y sĩ . Anh bảo chỉ biết cứu thương và học được 1 số thuốc Nam , trị bệnh bằng các loại lá cây . Hơn nữa đơn vị cũng chẳng có thuốc men gì , ngoài 1 ít thuốc ký ninh của Trung Cộng viện trợ .Anh cũng kể về sự nghèo nàn khốn khổ của dân chúng miền Bắc , chính sách hộ khẩu như 1 hình thức nắm cái bao tử để tạo áp lực với dân , đặc biệt là ép buộc thanh thiếu niên phải vào Nam chiến đấu . Anh cũng kể về mối tình đầu của anh với 1 cô bạn học , khá xinh . Khi biết cô là con của 1 đảng viên trong ban bí thư thành phố , anh ngại . Chưa kịp lùi bước , thì cô cũng kịp khám phá anh ta gốc Công giáo , gia đình lại có đông người di cư vào Nam , nên cô bảo thẳng thừng rồi chia tay . Anh biết trước nên chẳng bất ngờ , cũng chỉ buồn buồn 1 chút rồi thôi . .


Cô con gái đang ngồi với anh , anh gọi là vợ , người sắc tộc , có cái tên rất khó nhớ . Điều đặc biệt là cô khá đẹp . Cái đẹp man dại của 1 cô gái núi rừng có 1 ma lực hấp dẫn đến kỳ lạ . Chính vì điều này đã làm anh có thêm dũng khí để trốn khỏi đơn vị , thực hiện ý định hồi chánh , mà anh đã ấp ủ từ lúc bị chuyển vào miền Nam .


Tiểu đoàn đang ẩn quân ở vùng núi Cheo Reo , nhiều bộ đội bị sốt rét , nên anh cùng 1 người lính trong tổ Quân y tranh thủ đi vào rừng để tìm lá cây làm thuốc . Khi đến bờ 1 con suối nhỏ bên triền núi , anh bắt gặp 1 cô gái đang trồng khoai bên cái chòi tranh sơ sài trong hốc đá . Anh ngạc nhiên , sao lại có 1 người con gái dám sống lẻ loi giữa núi rừng quạnh vắng . Đến gần anh giật mình ngạc nhiên hơn , không tin vào đôi mắt của chính mình . Không thể giữa núi non hẻo lánh này lại có 1 cô con gái đẹp đến lạ lùng , 1 nét đẹp hoang dã , cuốn hút anh ngay từ cái nhìn đầu tiên . Da ngâm đen với đôi mắt thật to , chiếc mũi cao , đôi môi mọng đỏ . Cô khác hẳn với những cô gái Thượng mà anh đã gặp trong các vùng hành quân . Anh mơ hồ nhớ đến chuyện ngày xưa , khi còn bé , anh thường nghe mẹ kể về những cô tiên mắc phải lỗi lầm bị đoạ xuống trần gian . Người bạn lính đi theo anh cũng ngẩn ngơ trước điều bất ngờ kỳ lạ này . Cô gái chỉ nói 1 ít tiếng Việt , nhưng cũng đủ để hai người hiểu được . Cô bảo cô bị người trong buôn cho là ma , nhiều lần đòi giết cô , nên ông trưởng làng đày ra sống ở đây . Cha mẹ thỉnh thoảng được đến thăm , nhưng cô không được phép về buôn . Anh bực dọc cảm thấy có điều gì bất nhẫn . Sau khi được cô gái chỉ đường đến buôn , anh và người bạn lính tìm đến gặp ông trưởng làng để cố thuyết phục xin được thả cô ra , nhưng không những bị từ chối , mà ông trưởng làng còn cho biết là chờ đến mùa lũ , họ sẽ trói cô lại và bỏ trôi sông để cúng thánh thần , tránh tai hoạ cho buôn .


Sau khi về đơn vị , anh suy nghĩ bằng cách nào để cứu được cô con gái . Ý muốn đào ngũ để hồi chánh bao nhiêu lần lóe lên trong đầu , bây giờ càng thôi thúc anh thực hiện . Hai ngày sau , anh báo cáo riêng với tay Thủ Trưởng , xin đi lấy lá thuốc Anh đi 1 mình , thật sớm . Để tránh nghi ngờ , nhất là người bạn đồng chí Quân Y hôm trước , anh để lại balô , chỉ mang theo ít lương khô và khẩu súng K-54 phòng thân . Anh tìm đến giải cứu cô gái Thượng , kể lại cho cô nghe lời của ông trưởng làng , sẽ thả cô trôi sông . Cô gật đầu , mang theo cái gùi chứa ít bắp , khoai và hai cái bình chứa nước làm bằng vỏ trái bầu . . Anh dắt cô gái đi thật nhanh . Buổi chiều khi gặp con Sông Ba , hai người tiếp tục đi dọc theo bờ sông cho đến tối . Nghĩ đã hơn 1 ngày đường , đơn vị không thể nào đuổi theo , anh dừng lại và ẩn trốn trong 1 hốc đá an toàn . Ăn bắp khoai sống tạm , chờ tìm đường ra hồi chánh . Không ngờ 1 tuần sau thì bị đơn vị tôi bắt . Tin tức đơn vị Cộng quân do anh tù hồi chánh cung cấp được kịp thời báo cáo lên Quân Đoàn . Một lực lượng Biệt Động Quân đang hoạt đông trong khu vực Hàm Rồng được tung vào khu vực , nhưng địch quân đã di chuyển đi nơi khác mấy ngày trước ( Sau này được biết đơn vị này bị thiệt hại nặng nề bởi hoả lực Không Quân của ta oanh kích , khi bọn chúng bao vây tấn công 1 căn cứ tại Thuần Mẫn , do 1 đơn vị đia phương quân trú đóng ) .


Mấy hôm sau , khi sức khoẻ tạm hồi phục , vợ chồng anh được chuyển giao cho Ty Chiêu Hồi Tỉnh Bình Định . Qua nhiều lần nói chuyện , nhìn thấy ở anh có sự chân thành , nhất là việc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của anh bị thiệt hại nặng nề , bộ đội chết quá nhiều không kịp bổ sung quân số , chúng tôi thấy tội nghiệp cho người dân miền Bắc , nhất là những thanh thiếu niên bị cưỡng bách , tuyên truyền xẻ dọc Trường Sơn cứu nước , để rồi có biết bao người phải sinh Bắc tử Nam !


Ngày 24/04/1972 , Tân Cảnh thất thủ , khi BTL/SĐ22BB bị địch quân tràn ngập , vị Tư Lệnh liêm sĩ và khí phách đã cùng đồng đội chiến đấu tới giây phút cuối cùng , và vùi thây nơi chiến địa , Trung Đoàn 44 chúng tôi có lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Cù Hanh , Pleiku để được không vận lên Kontum . Chỉ sau 1 ngày đến Kontum , thay thế cho 1 Liên Đoàn Biệt Động Quân ở tuyến Tây Bắc , đơn vị tôi đã đánh 1 trận lẫy lừng , tiêu diệt cả 1 trung đoàn của Sư Đoàn 320 CS và 1 đại đội chiến xa T-54 , khi bọn chúng từ Tân Cảnh tràn xuống tấn công , trong ý đồ chiếm lấy Kontum . Chiến thắng này đã mở màn cho nhiều chiến thắng sau đó để giữ vững Kontum trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa . Và thành phố địa đầu Tam Biên này chỉ rơi vào tay CS , khi Quân Đoàn 2 có lệnh triệt thoái vào giữa tháng 03/1975 , tạo nên cuộc di tản đẫm máu kinh hoàng trên con đưởng tử lộ 7-B .


Đã hơn 36 năm , bất ngờ gặp lại anh giữa 1 nơi xa lạ . Chỉ mới nhắc lại 1 vài chi tiết bên bờ Sông Ba ở An Khê năm nào là anh nhớ ra tôi ngay . Tôi không dám vồn vã vì đang đo lường phản ứng của anh . Nhưng bất ngờ anh ôm chầm lấy tôi , gọi tên tôi trong nỗi vui mừng pha chút cảm động . Anh lễ phép xưng em với tôi , bảo là vợ chồng luôn nhớ đến tôi , nhớ anh bác sĩ quân y bạn tôi và nhớ mấy ngày đặc biệt ở căn cứ An Khê . Anh ca ngợi khả năng và lòng nhân đạo của những người lính VNCH . Anh bảo làm sao anh có thể quên được 1 kỷ niệm lớn lao đã làm thay đổi cả cuộc đời anh vả cả vợ anh . Anh khẩn khoản mời chúng tôi ở lại 1 vài ngày với gia đình anh . Tôi ra xe kể qua câu chuyện cho mấy người bạn . Ai cũng thích thú , nhất là muốn xem dung nhan của cô tiên nữ người Thượng bây giờ ra sao . Tôi vào báo cho anh biết là chúng tôi chỉ có thể ở chơi với vợ chồng anh đến sáng ngày mai , nhưng xin anh tìm giúp 1 hotel ở gần nhà để chúng tôi ngủ qua đêm , vì đông người quá , ngại làm phiền . Anh cười , bảo 1 đêm thì quá ít để anh có thể kể bao nhiêu chuyện về cuộc đời của vợ chồng anh . Anh gọi điện thoại về nhà báo tin cho vợ biết và vào xin boss nghỉ sớm để đưa chúng tôi về nhà . Anh cho biết đã đặt giùm khách sạn , nhưng muốn mời chúng tôi về nhà anh chơi , đến khi nào ngủ anh sẽ đưa ra khách sạn . Anh lái xe chạy trước và bảo chúng tôi cứ chạy theo anh . Đường lạ nhưng không nhiều xe lắm , bọn tôi ai cũng nôn nao , mong sớm đến nhà để nhìn dung nhan cô gái Thượng ngày xưa . Ngôi nhà khá đẹp nằm trong khu vườn rộng , trồng đủ các loại hoa . Điều đặc biệt là trước nhà có cả 1 khóm dã quỳ .Loại hoa màu vàng tôi thường thấy ở Vùng Pleiku , An Khê ngày trước . Khi chúng tôi vừa xuống xe , 1 người đàn bà mở cửa bước ra chấp hai tay trước ngực và cúi đầu chào . Anh chồng chưa kịp giới thiệu thì chúng tôi đã ồ lên . Chị cười thật tươi và đưa tay bắt từng người . Có lẽ đã nghe chồng kể qua về chuyện bất ngờ gặp lại tôi , nên chị nhìn từng người để cố nhận ra tôi . Và chị đã nhận ra khi tôi là người cuối cùng bắt tay chị . Điều làm tôi bất ngờ là chị chào hỏi bằng tiếng Việt rất sõi . Mấy người bạn và cả vợ tôi ai cũng trầm trồ trước nhan sắc của chị . Riêng tôi lại có 1 chút thất vọng . Đúng là với tuổi bây giờ , chị là 1 người đàn bà đẹp , nhưng là cái đẹp của 1 hoa hậu phu nhân , mang nét quí phái với chút phấn son . Không còn cái đẹp man dại núi rừng của cô ngày trước . Cái đẹp đặc biệt và hiếm hoi ấy dễ làm mê hoặc người ta hơn . Anh chị mời chúng tôi ra vườn sau , ngồi quanh cái bàn tròn dưới gốc 1 cây bơ phủ bóng . Chúng tôi phụ anh chị làm 1 bữa BBQ . Tôi bảo là hồi đó tên chị khó đọc quá , nên tôi không còn nhớ . Chị cười bảo là H’ Niê . Sợ không hiểu chị lấy 1 que cây viết xuống đất . Vừa viết chị vừa nói : Sau này ông xã em đặt tên cho em là H’ An Khê . Sang Mỹ lấy họ chồng , bây giờ em là An Khê Hồ . Nói xong , chị nhìn sang tôi cười : Cái chỗ An Khê mà các anh đã cứu vợ chồng em đấy !


Tôi đùa :
– Bọn tôi phải cám ơn chị . Sắc đẹp của chị đã giúp bọn tôi bớt đi 1 kẻ thù , và anh Bạch cũng phải mang ơn chị , vì nhờ chị mà anh mới quyết tâm thực hiện giấc mơ hồi chánh của mình , nếu không thì chắc đã trở thành liệt sĩ vô danh từ lâu rồi !


Suốt buổi chiều hôm ấy , anh ngồi kể say sưa cho chúng tôi nghe về cuộc đời của anh và đời sống của vợ chồng sau ngày hồi chánh :
– Em chỉ có 1 cô em gái . Mãi đến năm 1985 em mới liên lạc được và sau này đã bão lãnh sang Mỹ cùng với chồng và 1 đứa con trai . Bố mẹ em đã chết từ lâu , và vẫn cứ tưởng em là liệt sĩ . Sau ngày được chuyển về Bộ Chiệu Hồi , vợ chồng em đều được đối xử rất tốt và giúp đỡ tận tình . Đáng mừng và cảm động nhất là họ đã cố gắng bỏ nhiều công sức để tìm được bà cô ruột của em . Bà có hai người con trai đều là sĩ quan VNCH , một anh ở Biệt Động Quân , nghe nói đánh giặc có tiếng , tiếc là anh đã tử trận trong Tết Mậu Thân , hình như lúc mang hàm Trung Uý , và 1 anh là Thiếu Tá Hải Quân . Cũng nhờ anh này mà cả nhà và vợ chồng em mới được rời khỏi Sài gòn vào sáng sớm ngày 30/04/1975 . Năm 1974 vợ em sinh con trai đầu lòng , sang đây thì có thêm cô con gái . Hai cháu đều đã lập gia đình . Lúc trước gia đình em ở Philadelphia , nhưng từ khi vợ chồng thằng con trai nhận việc làm ở đây , bọn em chuyển lên đây sống gần các cháu .


Buổi chiều , cả vợ chồng cậu con trai và cô con gái chạy xe đến , mang theo mấy chai rượu đỏ và nhiều thức ăn dành cho buổi tối . Các cháu rất lễ phép , dễ thương , nói được tiếng Việt nhưng không giỏi lắm . Đặc biệt cô con gái , chắc nhờ thừa hưởng sắc đẹp của mẹ , nên rất xinh xắn . Nhìn đôi mắt của cháu tôi nhớ lại đôi mắt ngây dại của mẹ cháu ngày xưa , khi còn là cô gái Thượng hoang dã . Đôi măt to , đen láy , mang cả hình bóng núi rừng và mây trời cao nguyên thưở ấy . Điều làm chúng tôi bất ngờ và thích thú hơn . Cháu gái đang là 1 dược sĩ và cậu con trai là Thiếu Tá Bác Sĩ của 1 đơn vị trú đóng ở đây . Cô vợ người Mỹ cũng là 1 Bác Sĩ Quân Y cùng đơn vị . Bọn tôi nâng cốc ca ngợi anh chị và chúc mừng cho sự thành đạt của các cháu . Sáng hôm sau , hai vợ chồng đến khách sạn rất sớm , mời chúng tôi ăn điểm tâm trước khi chia tay . Khi tôi đến quày check out , người thu ngân của khách sạn cho biết có người đã thanh toán tiền phòng rồi . Tôi phàn nàn trách , anh cười , ôm vai tôi nói nhỏ : Biết trả bao nhiêu cho đủ so với tấm lòng và sự giúp đỡ của các anh . Cả vợ chồng ôm từng người chúng tôi và mong có ngày tái ngộ . Khi bắt tay từ giã anh , 1 người bạn của tôi hỏi đùa : Thế Hổ Trúc Bạch có gặp « giặc lái » John McCain chưa ? Anh cười , nói lớn : Em đã gặp ông trong 1 cuộc vận động bầu cử . Em bảo với ông là , tôi và gia đình sẽ bỏ phiếu cho ông , vì ông đã nói 1 câu rất đúng : Điều đáng buồn là trong cuộc chiến Việt Nam , kẻ man rợ đã thắng !


Anh chị lái xe hướng dẫn chúng tôi đi 1 đoạn đường . Đến ngã rẽ qua xa lộ , anh dừng lại , đưa tay ra cửa vẫy chào tiễn biệt . Chia tay vợ chồng anh , suốt cả đoạn đường dài , tôi miên man hồi tưởng về những ngày tháng cũ và hình dung lại từng khuôn mặt đồng đội bạn bè , 1 số đã chết tại các chiến trường khốc liệt An Khê Cheo Reo , Pleiku , Kontum , số còn lại sau những năm tháng tù đày nghiệt ngã , giờ đang lưu lạc bốn phương trời , mang theo những vết thương chưa thể lành được trong lòng . Đặc biệt , tôi nhớ tới Trần Công Lâm , người Đại Đội Trưởng Trinh Sát lừng danh , đã chỉ huy cuộc hành quân bên bờ Sông Ba ngày ấy . Lâm là bạn chí thân , cùng khoá Thủ Đức , cùng Trung Đội SVSQ , và nằm giường trên tôi , lúc còn ở quân trường . Hai thằng đã rủ nhau về cùng đơn vị . Lâm đã hy sinh vào cuối tháng 03/1973 trên đỉnh núi Ngok Wang , Kontum khi đang là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/44 . Và cuối cùng , tôi cũng nhớ đến đôi mắt đẹp man dại của cô gái Thượng , cùng hình ảnh người tù hồi chánh ở An Khê lúc trước , khi Lâm dẫn giải đến trực thăng giao lại cho tôi


                                                                             Phạm Tín An Ninh


THƯ CỦA PHU NHÂN TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG



Bài Viết của Phu Nhân Tướng Lê Văn Hưng gửi cho bà Đặng Thi Tuyết Mai và Nguyễn Cao Kỳ Duyên nhân dịp 30 tháng 4 / 2010
Tôi chuyển đến cô  bài viết này nhân dịp 30 tháng 4, 2010. Cô hãy đọc và xin cô chuyển đến ba cô,cựu Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ Phó TT VNCH như là một lời trần tình của một công dân VNCH gửi đến vị cựu Phó TT VNCH qua lời phát biểu của ông rằng: "Từ TT Nguyễn văn Thiệu trở xuống đều ham sống sợ chết". Nếu nhận được hồi âm của cô hay ba cô thì tốt quá. Vì không có địa chỉ email của ba cô, mong cô giúp tôi.
Cám ơn cô.
***                                    Inline image 2 Inline image 1
Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:
“Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”. Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào. Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử. Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau:
- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau:
- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”
Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi:
- “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân. Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi:
- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”
Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”
Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì... những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?
Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị TướngNguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng . Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.
Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sàigòn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:
- “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.
Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.
Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy.
Trong khi Sàigòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.
Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.
Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi:
- “Có đồng ý đem con lánh nạn không?”
Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?” Tôi đáp:
- “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu:
- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường...”.
Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:
- “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.
Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
- “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.
6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
- “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”.
Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng:
- “Em phải sống ở lại nuôi con”.
Tôi hoảng hốt:
- “Kìa mình, sao mình đổi ý?”
- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.
- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”.
- “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?”
Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc:
- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
- “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược
lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.
Tôi phát run lên hỏi:
- “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?”
Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
- “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:
- “Vâng, em xin nghe lời mình”.
Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục:
- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
- “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”
Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:
- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”.
Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói:
- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau.
Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
- “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”.
Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
- “Nghĩa trở lại với tôi”.
Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết.
Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
- “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?”
Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:
- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi bảo Giêng:
- “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.
Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
- “Alô, Alô, ai đây?”
- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng:
- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”
Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:
- “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”. Tôi lúng túng vài giây:
- “Ông đang điều động quân ngoài kia”.
- “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.
Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi:
- “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?” Nghĩa lúng túng:
- “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”
- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?”
- “Cẩn vui lòng chờ chút”.
Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:
- “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”
Cẩn đáp thật nhanh:
- “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”
- “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”.
- “Dạ, cám ơn chị”.
Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?
Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.
11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
- “Alô, chị Hưng!”
Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
- “Thưa Thiếu Tướng...”
Giọng Tướng Nam buồn bã u uất:
- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”.
Tôi vẫn nức nở:
- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”
- “Hưng đã nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá... thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”.
Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
- “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì... Đàng chị thế nào?”
- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.
- “Còn mấy chú đâu hết?”
- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”
- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”.
- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”.
- “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”
Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:
- “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”.
Người chép miệng thở dài:
- “Thôi chị Hưng ơi”.
Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”.
Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi:
- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”.
- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế.
Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.
7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện:
- Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.
Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia.
Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.
Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?
Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?.
Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn Sáu Chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.
Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình, thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho Tổ Quốc.
Phạm Thị Kim Hoàng
         

Saturday, April 29, 2017


NGUYỄN THI THÊM * 30-4





NGUYỄN THI THÊM * 30-4

Gia đình tôi cổ hũ và tôi là đứa con gái duy nhất nên bị ràng buộc trong tầm suy nghĩ của mẹ." Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trao mình" Cái ông Khổng tử ở tuốt bên Tàu vậy mà uy lực ổng thật to rộng. Một người phụ nữ ít học, quê mùa như má tôi lại thuộc nằm lòng mấy câu giáo điều đó . Thuộc để ép mình vào khuôn khổ cả một đời và truyền lại cho con gái.

Chúng tôi cùng dạy tư cho một trường trung học công giáo do cha đạo mở ra. Khi ấy anh đã là lính mang lon chuẩn úy. Có nghĩa là anh cũng thuộc lính mới tò te. Một sĩ quan mới ra trường còn mang nhiều món nợ áo cơm từ cha mẹ. Nơi anh được bổ nhiệm là một quận lỵ nằm giữa những vùng xôi đậu. Ban ngày là của Quốc Gia, ban đêm Việt Cộng về thăm dân. Họ nhận tiếp tế, tuyên truyền và rải truyền đơn.

Người dân như mang mặt nạ, không dám biểu lộ tình cảm của mình với lính Quốc Gia. Xung quanh hàng xóm không biết ai là bạn, ai là Việt Cộng nằm vùng. Cuộc sống bấp bênh trong những trận càn của lính và đêm sục xạo, gỏ cửa rình mò của phía bên kia. Ấp chiến lược sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết đã không còn hiệu lực. Một con đường vô hình đã mở ra cho sự phát triển của phe đối nghịch. Đưa đẩy người dân vô tội vào hai gọng kìm Quốc Gia và Việt Cộng..

Khi những người bạn đồng minh lần lượt đổ quân vào thôn xóm thì như giọt nước đã tràn ly. Người dân càng hoảng loạn không biết đâu là chính nghĩa. Những người Mỹ, người Đại Hàn, người Thái Lan súng ống rầm rộ khắp mọi ngõ ngách xóm làng. Người dân quê sợ sệt vì lần đầu tiên thấy người ngoại quốc lùng sục khắp nơi. Đó là cái mồi lửa thật tốt châm ngòi cho phía bên kia. Họ tuyên truyền trong dân chúng để kéo chính nghĩa về phía họ.


Tôi nói điều này ra có nhiều người sẽ phản đối. Nhưng đó là sự thật khi người dân không có được một sự giáo dục rõ ràng về phía chính phủ. Họ không hiểu thế nào là Thế Giới Tự Do và thế nào là Cộng Sản. Họ không hiểu tại sao người Mỹ có mặt ở nước mình.



Nhan nhản trên đường những người lính Mỹ say sưa. Những cô gái thôn quê bỗng chốc thay da đổi thịt. Từ ăn mặc đơn giản lại lòe loẹt chói mắt. Một số biến thành gái mãi dâm mua vui cho những người lính Mỹ đen, Mỹ trắng. Những người phụ nữ bỏ quên chồng con, diêm dúa trong những bộ quần áo mini ngắn ngủn, son phấn sặc sỡ đi làm sở Mỹ. Những áp phe buôn đồ Mỹ, bán đồ quân tiếp vụ Mỹ, quán rượu mọc ra như nấm. Những đứa bé con lai ra đời, những bào thai bị vất bên đường và thỉnh thoảng phát hiện xác con gái nằm chết trong bãi rác. Những tin xấu tràn về thôn xóm, những hình ảnh xa đọa lung lay xã hội.

Đau đớn là ở chỗ chính nghĩa bị hiểu lầm và kẻ gian ngoa đã giành chiến thắng. Những người học sinh trong bộ đồng phục tới lớp buổi sáng. Nhưng sẽ là một liên lạc liên báo cáo tin tức vào buổi tối cho phía bên kia. Những em học sinh mặt thì già nhưng giấy tờ nhỏ tuổi. Có em đã có vợ , có con nhưng vẫn mang giấy tờ giả đến trường để trốn lính. Những chị ngồi trên xe lam đi chợ nói nói cười cười. Những cô gái đẹp làm người tình hờ của lính. Họ là những người nằm vùng của phía bên kia. Nhiệm vụ hoạt động mật, báo tin tức, tiếp tế lương thực,thuốc men và tiếp nhận chỉ thị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Trong bộ ngực căng tròn của cô gái đẹp chứa đầy thuốc trụ sinh. Dưới lằn vải quần mỹ a đen mượt mà kia là những lớp nylon bó thật chặc vào đùi để tiếp tế. Trong gà mên cơm đem đi ăn một ngày, họ ém thật chặc cho 2, 3 người ăn. Sau giờ làm, họ để lại bên rừng cho người của mặt trận về lấy đem đi. Trong làng, đa số là phụ nữ. Nhưng những đứa bé không cha tiếp tục ra đời mà không ai đặt vấn đề.

Chiến tranh đã đẩy những người dân chơn chất thành những kẻ phản bội " Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản" Đừng trách họ, mà hãy trách nhà cầm quyền không bảo vệ được họ. Những người có nhiệm vụ tuyên truyền không dẫn giải cho dân hiểu được sự thật, đâu là bạn, đâu là thù. Những người làm công tác chiến tranh chính trị chỉ làm trên giấy tờ mà không đi vào cái gốc chính là người dân- những người dân quê an phận, hiền lành-


Trong khi đó kẻ gian rình mò trong bóng đêm. Những bộ mặt giả nhân nghĩa vừa tỉ tê dụ dỗ, vừa hù dọa khủng bố đã len lỏi vào từng gia đình Những tổ chức bí mật được thành hình, biến người dân thiệt thà thành tai mắt, những người đàn bà quê mùa thành những bà mẹ anh hùng.

Thành phố rộn rã tiếng cười, những bar rượu, những đêm vui thâu đêm suốt sáng. Thành phố không có chiến tranh cho nên thành phố đẹp, thành phố sang. Đất nước VN không phải chỉ là thành phố mà có cả thôn làng, núi, đồi, sông, biển. Thôn làng càng xa xôi nghèo nàn, Việt Cộng trà trộn càng nhiều, càng khó bảo vệ. Người dân không thương yêu gì CS nhưng sợ bị trả thù, sợ bị theo dõi, sợ bị nghi ngờ và bị giết oan. Tội nghiệp người dân, một cổ hai tròng. Dù đang sống dưới chế độ Cộng Hòa nhưng vẫn bị Mặt Trận khống chế hàng ngày, hàng đêm.

Gần gũi dân nhất là những người lính Địa Phương Quân. Họ đóng quân ngay trong làng, sống với dân và người họ sợ nhất lại chính là những người dân. Ai đã từng đi lính thì khắc biết điều tôi nói là sự thật. Chỉ một câu nói lỡ lời thì tin tức hành quân được bên kia nắm bắt. Và những chuyến phục kích kể như thất bại. hay bị đảo ngược thế cờ.


Người lính sống trong đường tơ kẻ tóc và người con gái chấp nhận lấy lính là chấp nhận mọi sự rủi may trong đời. Đám cưới đôi khi không dám tổ chức tại địa phương vì gia đình sợ bị theo dõi và trả thù. Thôn làng do chính phủ VNCH làm chủ mà người dân sợ Việt Cộng hơn Quốc Gia.


Đã trễ quá rồi khi nói đến điều này, nhưng tất cả chúng ta đều là nạn nhân của một cuộc lừa đảo. Bao nhiêu nhân mạng oan khiên đã chết một cách thảm thương cho cuộc chiến tương tàn. Bao nhiêu thanh niên của nước Mỹ giàu đẹp đã bỏ thây một cách oan uổng trên chiến trường VN. Vì sự sai lầm của cả hai phía. Tất cả tang thương đó đã đổ lên vai, lên đầu của thế hệ chúng tôi. Những người lính, những người vợ lính và những trẻ thơ vô tội.

42 năm qua rồi, nhưng mỗi khi tháng Tư Đen lại về tôi lại xoay cuồng trong suy nghĩ. Tôi khâm phục cái nhìn thật rõ ràng cốt lõi cuộc chiến VN của Tống Thống Ngô Đình Diệm. Ngài biết thật rõ ràng về Cộng Sản kể cả sách lược bảo vệ quốc gia. Ngài không muốn người Mỹ hay đồng minh đổ bộ vào Việt Nam. Ngài chỉ muốn đựợc tiếp tế vũ khí và ngân sách để bảo vệ và xây dựng đất nước. Ngài lập ra ấp chiến lược là để cắt đứt nguồn tiếp tế lương thực và thuốc men cho phía bên kia. Đồng thời xây dựng một lực lượng bảo vệ xóm làng từ người dân. Nhưng tiếc thay ngài đã bị giết chết. Chế độ Đệ nhị Cộng Hòa không xoay nỗi thế cờ chính trị. Mỹ bỏ rơi VN. Và sự thất trận đau thương xóa sổ VNCH trong ngày 30/4/75 lịch sử. Vận mạng đất nước nhược tiểu nằm trong tay của những đại cường. Một cuộc mua bán, sang nhượng chính trị. Đất nước ta là món hàng đưa lên bàn cân ngã giá. Kẻ thắng chẳng oai hùng, người thua đầy uất ức.

Bốn mươi hai năm qua rồi, nhắc lại thêm ngậm ngùi, đau đớn. Bao nhiêu mạng người đã bỏ thây trong cuộc chiến, trên con đường chạy loạn 30/4/1975. Bao nhiêu xác người tù CS bị bỏ thây trên rừng thiêng nước độc. Bao nhiêu xác người bị chết trên biển đông và trong bàn tay của hải tặc. Bao nhiêu? bao nhiêu? Một câu hỏi làm nghẹn lòng người Việt trên khắp năm châu.

Thoắt một cái đã 42 năm. những người có mặt và tham dự trong cuộc chiến ngày đó đều đã già. Những mái tóc bạc trắng hay hoa râm, những tâm hồn đầy những vết thẹo quá khứ và chiến tranh. Cố gắng xây dựng một thế hệ tiếp nối. Cố gắng sống tốt và làm sống lại một thuở hào hùng. Đôi chân đã yếu, cơ thể hao mòn. Những người cha, người ông đã tận lực mình vì hai chữ tự do. Họ thật đáng kính trọng và tự hào. Nhưng trong họ biết bao nhiêu đêm trăn trở, dằn vặt vì sức tàn, lực kiệt.


42 năm cho những người di tản. Mấy chục năm cho những người HO đang sống ở một nước khác quê hương mình. Sau 30/4 người sĩ quan VNCH bị tù đày nơi rừng thiêng nước độc. Không một bản án, không biết ngày về. Họ được thả ra với một thân thể suy nhược, một tâm hồn loang lỗ những thương đau. Trong họ mọi thứ đều đỗ vỡ, bi thương. Được thả từ nhà tù hẹp ra nhà tù lớn với vài chục đồng lộ phí và một túi hành trang nhẹ tênh. Nhưng họ lại mang quá nặng cái lý lịch đen "Ngụy Quân" đè bẹp cuộc đời và cả gia đình .Có người tìm lại được mái ấm gia đình. Có vợ, có con để dựa nương, bám víu. Có người không còn nhà cửa, vợ con thân thích.


Nếu không có chương trình HO không biết bây giờ cuộc sống của những người tù CS sẽ ra sao? Không có chương trình HO. Không có những người liều chết vượt biển tìm tự do. Chúng ta sẽ không có một thế hệ thứ hai thứ ba thành công trên đất nước Hoa kỳ hay trên thế giới. Chúng ta sẽ không bao giờ có một Little Sai Gon trên đất Mỹ. Chúng ta sẽ không thể hảnh diện giơ cao lá cờ vàng và hát Quốc ca. Chúng ta không có xe hoa diễn hành ngày tết Nguyên Đán, Chúng ta cũng không thể có những bảo tàng lịch sử "Quân lực VNCH". Không có tượng đài Đức Trần Hưng Đạo và cũng không thể có những nghị quyết "Vinh Danh cờ vàng" tại nhiều thành phố trên nước Mỹ, Úc, Canada.



Cám ơn Bà Hạnh Nhơn. Cám ơn nnhững ân nhân đã cứu vớt, đã mở con đường sống cho những người liều chết tìm tự do như chúng tôi.

42 năm, một thời gian quá nửa đời người. Những chứng nhân lịch sử rất nhiều người đã nằm xuống vì tuổi già, vì bệnh tật. Những văn nhân, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ nỗi danh cũng quá nửa đã ra đi. Một thế hệ VNCH lần lần đi vào quá khứ. Thế hệ tiếp nối lớn lên tại Mỹ, sinh ra tại Mỹ và chúng gia nhập vào dòng chính để làm một người Mỹ thực thụ.

Hôm tuần trước tôi đi dự một đám ma. Người chết là một bà bác 90 tuổi. Con cái, người thân quen đến viếng tang đa phần là người Việt, nói tiếng Việt. Nhưng quỳ dưới kia các cháu dâu rễ đa phần là người Mỹ. Bầy cháu cố cũng là những đứa bé Mỹ lai nói toàn tiếng Mỹ. Cả một đại gia đình nói chuyện với nhau bằng tiếng Mỹ. Người chết chắc hẳn sẽ buồn và không hiểu chúng đang nói chuyện gì. Người tham dự như tôi cũng xót xa cho ngay bản thân mình. Rồi thì cũng thế mà thôi hay sao?

Không? Chúng ta đã có những lớp dạy tiếng Việt. "Tiếng Việt còn, nước ta còn." Chúng ta không thể không hòa nhập nhưng không thể để mất nguồn cội. Những thế hệ VNCH thứ hai thứ ba đang học hỏi để hiểu lý do tại sao chúng có mặt nơi này. Các cháu đang làm sống lại dòng sử Việt. Các cháu giương cao lá cờ vàng và các cháu tự hào về nó.

Dù muốn dù khôngchúng ta cũng đã rời khỏi VN. Mọi việc của quê hương đất nước phải do người trong nước quyết định. Có thay đổi được vận mệnh, có bảo vệ VN khỏi bàn tay xâm lược của Tàu Cộng hay không là do người trong nước thực hiện. Chúng ta chỉ có thể ủng hộ tinh thần, tiếp tay đưa mọi việc ra dư luận quốc tế để làm áp lực.


Các bạn ơi! 42 năm rồi cho một cuộc chiến, cho một đời người.Con gái tôi sinh ra 3 tháng sau ngày mất nước. Bây giờ cháu đã 42 tuổi, là một phụ nữ trung niên, con cái đã vào Trung học. Người lính VNCH trẻ nhất cũng đã ngoài 60. Những người lính già bây giờ đều đã đi gần cuối cuộc đời. Sống nơi xứ người tuy đầy đủ vật chất nhưng vẫn là nỗi khắc khoải khôn nguôi cho những giấc mơ về một VN tự do dân chủ.

Tôi yêu quê hương VN tôi lắm. Tôi nhớ gia đình, họ hàng anh em và bạn bè tôi. Tôi nhớ từng con đường, từng góc vườn kỷ niệm của tuổi thơ và tuổi trẻ. Thú thật tôi sợ lắm. Sợ một ngày nào đó tôi trở về không nhận ra đất nước của mình. Tôi sợ Trung Cộng sẽ chiếm trọn Việt Nam. Người Việt mình sẽ bị làn sóng người Tàu tràn xuống tịcg thu nhà cửa, chiếm cứ ruộng vườn. Họ sẽ đày người Việt mình đi vào những nơi rừng núi hay đồng khô cỏ cháy. Họ sẽ xóa một nước VN như chính quyền hiện nay xóa sổ VNCH. Họ sẽ tàn bạo hơn, quyết liệt hơn, dã man hơn để đồng hóa chúng ta. Vì mộng bá chiếm VN ấp ủ mấy ngàn năm nay đã toại nguyện.


Một SàiGòn xưa đã mất. Một nền văn hóa nhân bản đã mất. Có thể rồi đây nước Việt Nam sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới . Chẳng ai còn nhớ đến bà Trưng, bà Triệu, Hưng Đạo Vương, vua Quang Trung....

Tôi có bi quan quá hay không? Xin nhường câu trả lời cho tất cả mọi người. Chỉ mong sẽ không bao giờ là sự thật. Chỉ mong được như vậy.

Xin các đấng tiền nhân, hương linh những anh hùng tử sĩ phò hộ cho nước Việt mình vượt qua cơn bão giông này.

42 năm đã quá đủ cho những thương đau.

Nguyễn thị Thêm
Tháng 4/2017

GS.LÊ ĐÌNH THÔNG * 78 NĂM ‘‘ĐÂY THÔN VĨ DẠ’’


78 NĂM ‘‘ĐÂY THÔN VĨ DẠ’’
GS.Lê Đình Thông


Tuổi đời của ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ cũng xấp xỉ 80. Theo Nguyễn Bá Tín, vào năm 1939, cô Hoàng Thị Kim Cúc gửi từ Huế cho Hàn Mặc Tử tấm hình nàng mặc áo lụa trắng, chụp ở thôn Vĩ. Nhà thơ đáp lễ bẳng bài thơ

‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’:


Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?


‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ làm theo thể thơ mới 7 chữ, gồm ba khổ. Khổ đầu hiệp vận gián cách, khổ 2 và 3 : gieo vần cuối câu đầu và cuối các câu chẵn. Cách bố cục khá chặt chẽ, giống như thơ Đường : Khổ 1 phá đề và thừa đề, khổ 2 : thực luận, khổ 3 : kết lại cả bài. Bài thơ được coi là một tuyệt tác của phong trào thơ mới.


Sau đây, chúng tôi ghi lại một số cảm nhận vụn vặt, riêng tư về bài thơ.

Trước khi nói về tác phẩm, thiết tưởng cũng nên nói khái quát về thơ. Poetry/poésie trong các ngôn ngữ tây phương do cổ ngữ hy lạp ποίησις hoặc động từ ποιεῖν đều có nghĩa là sáng tạo. ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ đổi mới không những về ngôn ngữ, mà còn vẽ nên bức tranh quê, điểm xuyết bằng nốt nhạc sầu. Với bài thơ này, Hàn Mặc Tử không chỉ là thi nhân mà còn là họa sĩ nữa. Nào ta cùng thưởng ngoạn bức tranh của Hàn Mặc Tử, trước khi trở về với cõi thơ.


Khổ 1 là bức tranh màu xanh, khiến ta liên tưởng bức họa Le Paysage Bleu của Marc Chagal. Màu xanh trong khổ đầu là toàn bích, vì có ‘‘nắng lên’’ từ biển Đông. Nhà danh họa Caspar David Friedrich (1774-1840), khuynh hướng hội họa lãng mạn, dùng chất liệu ‘‘nắng mới lên’’ (les rayons naissants du soleil) để thực hiện bức vẽ sơn dầu ‘‘Thiếu phụ Nắng sớm’’ (Femme au soleil du matin). Trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu phụ nắng sớm hóa thân Hoàng Cúc. Nắng sớm là ánh sáng tâm lý, nói lên niềm ước mong mới mẻ. Nắng sớm còn được thể hiện trong hội họa, bảng màu (palette) pha trộn màu phấn vương nhẹ. Nắng chuyển màu sắc sáng dần. Với câu 3, ta có thang màu lũy tiến (échelle de couleur progressive) như sau :


mướt → xanh → ngọc

Màu xanh ngọc bích là tuyệt phẩm của trời đất ban cho cõi nhân gian ở thôn Vĩ Dạ. Trong bức họa, Hàn Mặc Tử vẽ hàng cau theo chiều dọc. Bố cục họa phẩm còn cần thêm một chiều ngang. Vì vậy mới có câu thơ : lá trúc che ngang. Che ngang cho thấy người thiếu nữ e ấp, núp sau cành trúc, có khuôn mặt chữ điền. Đây cũng là một nét chấm phá mới, vì sau hai chiều dọc - ngang, còn cần thêm một hình vuông nữa. Theo quan niệm của người xưa, người con gái có khuôn mặt chữ điền thường đoan trang, thùy mị. Qua câu thơ, Hàn Mặc Tử muốn phác họa nét tinh anh (portrait moral). Khổ 3 có thêm vầng trăng là tuổi trăng tròn của thiếu nữ.


Khổ thơ thứ 2 không còn nắng lên, mà là màn đêm buông xuống ; gió và mây chia lìa hai lối khiến dòng nước buồn lây, hoa bắp lay động ngẩn ngơ. Bến sông Trăng (viết hoa) là bến ngự, niềm mong ước chở trăng hẳn là dang dở, chỉ hoài công dã tràng.


Trong khổ 3, bảng màu chuyển qua sắc trắng của tà áo. Nếu trong khổ 1, màu sắc là lũy tiến gồm 3 cấp độ, bảng màu của khổ 3 vẫn gồm 3 cấp độ, nhưng cứ nhạt dần đi :


Sương

Màu sương tuy đục nhưng còn thấy được. Đến làn khói bay đã là hư ảo. Sau cùng chỉ còn là đám bụi mờ.


Với bức họa chuyển cảnh từ nắng sớm đến đêm tàn, ta tạm khép lại mảng hội họa trong thơ Hàn Mặc Tử đế bước qua lãnh vực ngôn ngữ.


Trước hết là cơ cấu của bài thơ (structure du poème). Bài thơ gồm 3 khổ. Cơ cấu như sau :

(khổ 1) : thực → (khổ 2) : mộng → (khổ 3) : ảo


Ba khổ thơ là sự chuyển biến từ thực đến mộng, từ động đến tĩnh, từ ngoại cảnh đến nội tâm, được diễn tả bằng màu sắc, thanh âm, bằng ngôn ngữ và bằng cả các dấu chấm (ponctuation).

Về mặt hội họa, trong mỗi khổ thơ, thi nhân chọn cho mình ba thang màu (gamme de couleurs) khác nhau. Về cách chấm câu, ba khổ thơ là ba dấu hỏi :


- Khồ 1 (câu 1) : Sao anh không về thăm thôn Vĩ ?

- Khổ 2 (câu 4) : Có chở trăng về kịp tối nay ?

- Khổ 3 (câu 3) : Ai biết tình ai có đậm đà ?



Ta sẽ bàn cách sử dụng từ ngữ (champs lexicaux) của nhà thơ. Ở đây, có thể đặt chung một câu hỏi cho cả ba vế nói trên: thi nhân hỏi mà không phải là hỏi. Các câu hỏi chỉ nói lên sự trăn trở, khắc khoải của ‘‘khách đường xa’’.


- Câu hỏi trong khổ đầu : tuy vẫn biết thôn Vĩ là thiên thời (nắng mới lên), là địa lợi (vườn cau), có cả nhân hòa (mặt chữ điền), nhưng làm sao nhà thơ có thể bỏ trại phong để về thăm ?

- Vầng trăng trong khổ 2 là ảo ảnh, không khác gì vầng trăng Lý Bạch:

Rằng hay thì thật là hay,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.


- Cuối khổ 3 chỉ còn là nghi vấn. Trong khổ cuối, nhà thơ thổ lộ nỗi buồn đau, thất vọng. Musset cho rằng ‘‘Sự thất vọng chua cay nhất là bài ca đẹp tuyệt vời’’.

‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ còn là lưu thủy hành vân của cổ ca đất Thần Kinh. Bài thơ Art poétique của Verlaine mở đầu bằng đôi vần thơ nói lên nghệ thuật thi ca :


De la musique avant toute chose,
Et pour cela préfère l'Impair.


Đây Thôn Vĩ Dạ hội đủ hai yếu tố vừa kể. Cũng vì thơ vần lẻ, Đây Thôn Vĩ Dạ là bài thơ 7 chữ (lẻ), 3 khổ (lẻ).


Còn về nhạc tính (musicalité) thì sao ? Sau đây là mấy vần thơ, như những nốt nhạc, trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ :


- nắng / nắng :

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.


- gió / gió, mây / mây :

Gió theo lối gió, mây đường mây.


- lối / đường :

Gió theo lối gió mây đường mây.


- Trăng (viết hoa) / trăng :

Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó


Có chở trăng về kịp tối nay.


- Khách đường xa / khách đường xa :

Mơ khách đường xa khách đường xa


- ai / ai / ai :

Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó

Ai biết tình ai có đậm đà.



Về thể văn (style), nhà thơ sử dụng nhiều ẩn dụ (métaphore) : mây và gió chia lìa hai lối, dòng nước để chỉ sự vô thường, con thuyền là chữ tâm (心: ngoài ba chấm, phần còn lại giống như con thuyền), hoa bắp lay vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’, nhân ảnh nói lên kiếp sống phù du, ‘‘mờ mờ nhân ảnh’’.


Ngôn ngữ trong bài thơ đều rất quen thuộc. Đây cũng là dụng ý của nhà thơ, muốn diễn tả cái đẹp chỉ bằng nét hồn nhiên, giản dị. Trong 12 câu thơ, tác giả dùng chữ ‘‘anh’’ và chữ ‘‘em’’, mỗi chữ một lần. Câu thơ cuối bài, tác giả viết hai lần một chữ ai:


Ai (1) biết tình ai (2) có đậm đà ?


Thông thường, ai (1) là thiếu nữ, ai (2): thi nhân. Nhưng ai (1) cũng thể là người xem thơ, ai (2) là nhà thơ. Nếu thời gian của ý nghĩa nguyên thủy là hiện tại, thời gian của sự suy diễn sau này hướng về tương lai. Ai cũng biết ý tứ trong thơ Hàn Mặc Tử bóng bẩy mà thâm trầm, giản dị mà sâu thắm. Sự đậm đà của bài thơ gợi ý cho chúng tôi làm 5 bài thơ lấy ý từ lau sậy, vì thôn Vĩ Dạ là sự biến âm của Vi Dã Thôn. Hình thức của cả 5 bài là thơ mới 7 chữ. Cấu trúc vẫn gồm 3 khổ, mỗi bài khai triển ý nghĩa khác nhau của lau lách. Năm bài thơ nói lên sự ‘‘đậm đà’’ của người thơ, nét phong phú của ý thơ, thể hiện qua bài Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Năm bài thơ, như 5 biến điệu (variation) trong âm nhạc, như sau :


Paris, tiết Thanh minh Đinh dậu 2017

GS.Lê Đình Thông



Vi Dã Thôn (kỳ 1)
葦 野 村 (期 一)

Hồn Lau
葦魂







白居易

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.

Bạch Cư Dị

---

Hương giang soi bóng bờ lau lách
Thôn vắng thưa người cảnh tịch liêu
Hàng sậy đong đưa dường oán trách
Lau nghiêng bông trắng sậy tiêu điều.

Xuôi ngược dòng đời vẫn cuốn trôi
Lau soi hình bóng sậy bồi hồi
Sỏi trắng chìm sâu trong đáy nước
Mây chiều trôi dạt chốn xa xôi.

Thôn Vĩ (1) hàng cau vẫn mướt xanh
Lá trúc thôn đoài dáng mỏng manh
Câu hò mái đẩy xàng xê cống
Thuyền ngự xuôi dòng lướt sóng nhanh.

Thôn Vĩ làng thôn mái tóc mai (2)
Trinh nguyên tà áo phất phơ bay
Quang gánh đong đầy bao nỗi nhớ
Nhớ mãi cố nhân chẳng nhạt phai.

Paris, ngày 18/04/2017
GS.Lê Đình Thông
---
(1) Thôn Vĩ Dạ là biến âm của Vi Dã Thôn.
Vi (葦): cỏ lau. Dã (野): ngoại thành, cánh đồng.
(2) Tóc mai sợi ngắn sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài nghìn năm.
Ca dao

Vi Dã Thôn (kỳ 2)
葦 野 村 (期二 )

Trầm Tư
沈 思


L’homme n’est qu’un roseau, le plus faible de la
nature, mais c’est un roseau pensant.
Blaise Pascal


Lau nghiêng cành biếc bên thôn Vĩ
Ra dáng đăm chiêu nghĩ vẩn vơ
Nắng chiều óng ả đầy thi vị
Bên bờ sông vắng lặng như tờ.

Nhớ non nhớ nước vần thơ ngắn
Ngõ hẻm thôn làng cuộc biển dâu
Áo trắng năm xưa còn lận đận
Sỏi chìm đáy nước cũng sầu đau.

Lau lách thân mình quá mảnh mai
Bông lau là kiếp sống hình hài
Lau lách chấm mực bờ nước biếc
Niềm đau chôn dấu viết giùm ai.

Paris, cuối tháng Tư 2017
GS.Lê Đình Thông



Vi Dã Thôn (kỳ 3)
葦 野 村 (期 三)

Ngũ Âm
五音

Il y a de la musique dans le soupir du roseau ;
Il y a de la musique dans le bouillonnement du ruisseau ;
Il y a de la musique en toutes choses, si les hommes pouvaient l'entendre.
Lord Byron



Hương giang bến cũ bờ lau lách
Gió cuốn nghe như tiếng thở dài
Lưu thủy hành vân lời oán trách
Lau lách đìu hiu vắng gót hài.

Bờ lau mà tưởng khúc tiêu dao
Nghìn trùng nhung nhớ trúc lao xao
Ngón luyến song thanh làn gió mát
Cung thương nhịp gõ nhấn duyên trao

Dòng nước lặng thinh nghe tiếng than
Ngón vuốt đàn tranh lệ mấy hàng
Bờ lau lay lắt vi vu mãi
Sơn ca chim chíp lúc chiều tàn.

GS.Lê Đình Thông

Vi Dã Thôn (kỳ 4)
葦 野 村 ((期 四)

Quốc Sử
國 史

Le roseau plie, et ne romps pas.
Résisté sans courber le dos.
Jean de La Fontaine

威武不能屈, 此之谓大丈夫.
(Uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu)
Mạnh Tử


Nghiên bút cỏ lau chỉ một lòng
Cường quyền gieo bão tố cuồng phong
Lau lách đảo điên không gục ngã
Ngòi bút không cong vẫn thẳng băng.

Bờ ao lau mọc lách ven sông
Lau lách mọc trên nước với non
Bạo quyền cai trị không lâu nữa
Chỉ riêng non nước mới trường tồn.

Dưới nước trên trời chẳng có quan
Nét mực vàng son viết thẳng hàng
Trang sử hào hùng nòi giống Việt
Cả nước một lòng đuổi ngoại bang.

GS.Lê Đình Thông

Vi Dã Thôn (kỳ 5)
葦 野 村 (期 五)

Tâm Cảnh
心 境


Chênh chênh bóng ngả sầu lau lách,
Chiều ngái hương rừng, lối nhạt son.
Nguyễn Bính
---

Hồn thơ lận đận nơi cung Quế
Thôn Vĩ chiều hôm lạc lối về
Cau vắng trầu xanh sầu cúc huệ
Nắng sớm biển Đông có vẹn thề ?

Mây giăng núi Ngự gió Kim Long
Bờ lau hiu hắt liễu vời trông


Thuyền xuôi bến vắng qua Gia Hội
Có vớt trăng vàng dưới đáy sông ?

Mờ mịt sương mù áo trắng bay
Chập chờn hạc trắng cuối chân mây
Chợt nhớ thôn xưa là tâm cảnh
Bờ trúc xanh màu có đổi thay ?

Paris, ngày 20/04/2017
Lê Đình Thông


PHAN LẠC TIẾP * NGUYÊN SA - HÀ NỘI

NGUYÊN SA - HÀ NỘI
 PHAN LẠC TIẾP




Khi loạt bài viết về quê nhà sau 40 năm trở lại, tôi được nhiều người gọi tới thật bất ngờ. Một trong những sự bất ngờ đó là thi sĩ Nguyên Sa. Anh gọi lại và nói: “Xin phép anh cho tôi được in lại loạt bài của anh trên báo Dân Chúng của tôi...” Tất nhiên là tôi vui vẻ nhận lời ngay. Tôi nói: “Cảm ơn anh, đã gọi và ngỏ ý như thế. Đó là một niềm vui cho tôi. Hơn nữa, chính lúc này có nhiều báo tại nhiều nơi họ đang in lại mà chẳng ai “xin phép” tôi cả. Họ cũng chẳng gửi cho tôi một bản để làm duyên...” anh Nguyên Sa cười và tiếp: “Cái đó lạ. Mà hầu như lại là một cái lệ ở làng báo Việt Nam này. Cái lệ thật tệ...” Anh vẫn chỉ cười và tiếp: "Loạt bài của anh tôi thích quá. Tôi học tiếng Việt ở bên Tây, và lúc nhỏ cứ tưởng Tây nó mới hay. Nay đọc loạt bài của anh...” Từ đó, từ giữa năm 1994 đến nay, anh Nguyên Sa cứ lâu lâu lại gọi lại, cho biết những sinh hoạt, những tin tức về bè bạn, về văn học các nơi, và anh còn nói: “Tôi đau hoài khá nặng. Nhà tôi ở Irvine, trên đường anh đi lên Santa Ana, nên rất là mong mời anh chị ghé chơi để chúng ta có cơ hội nói nhiều hơn về quê cũ, về Sơn Tây, Hà Nội ...” Tôi đã nhận lời, và nghĩ “thì cứ từ từ, hôm nào rảnh rồi sẽ lên thăm anh Nguyên Sa ...” Lời hứa hãy bỏ đó, và thỉnh thoảng anh Nguyên Sa lại gọi tới. Qua những cuộc điện đàm, tôi được anh cho biết: “Năm 1947 thì phải, lúc tản cư khỏi Hà Nội, gia đình tôi chạy tạt về vùng Thạch Thất, quê anh đấy. Lâu quá không còn nhớ rõ. Tôi chỉ biết là có đi qua cống Đặng, qua con sông, rồi ở nhờ mấy làng ở chân núi.” Tôi lại cười và tiếp lời anh: “Cống Đặng thuộc làng Đặng Xá, làng của anh Tú Kếu – Trần Đức Uyển. Còn cái làng bên kia sông, ấy là các làng có cái tên thật hay là các làng Cần Kiệm, Phú Lễ, Phú Đa, Trúc Động, Hạ Lôi, ở quanh chân núi Câu Sơn, bên kia con sông Tích Giang ...”Tôi vừa nói đến đó thì anh Nguyên Sa vội ngắt lời: “Phải rồi, Trúc Động, tôi nhớ rồi ...

Làng đầy tre. Một thứ tre to, lá lớn...” Tôi tiếp lời anh: “Đó là loại tre mai, lá to như một con cá. Thân tre to và thẳng. Đó là quê của anh Dương Nghiễm Mậu – Phí Ích Nghiễm”. Anh lại cười và nói: "Lạ thế ra nơi đó có nhiều người nổi tiếng quá nhỉ ...” Tôi tiếp: “Vâng các anh ấy nổi tiếng chứ không phải tôi”. Anh cười. Tôi tiếp: “Hạ Lôi, như một số sử liệu mới được phát giác, chính là nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa của hai vị nữ anh hùng Bà Trưng – Bà Triệu”. Cứ như thế, qua lại và nêu thắc mắc, Khi tôi viết về Quang Dũng và nói đến chị Hồ Điệp, thì anh lại gọi và nói: "Thế ra anh biết anh Quang Dũng kỹ quá nhỉ. Kể như cùng quê với nhau. Từ làng anh, làng Nủa ra Phùng rất gần. Và chị Hồ Điệp nữa, người làng anh nhỉ.


Nói về chị Hồ Điệp, tôi muốn nói về quê ngoại của chị ấy và cũng là quê ngoại của chị Thái Hằng, Thái Thanh. Quê thật lắm tài... Đàn ông thì hát chèo thật hay. Đám chèo làng phải phục. Con gái thì hầu như tất cả đầu hát rất giỏi. Vì Hiệp là đất bãi, đất cát chỉ trồng mía và dâu, không thể cấy lúa được, nên đến mùa gặt, trai gái làng Hiệp (Hiệp Thượng và Hiệp Hạ) đến đất làng tôi cả làng quanh đấy để gặt thuê. Chính dân làng Hiệp trong các phiên gặt lúa ấy đã là đầu mối của các đêm hát ví tất là vui. Đó là những đêm trăng, lúc làm việc nhẹ, hoặc chờ một ngày nghỉ giữa hai ngày đi gặt, họ đã cất tiếng hát, hát đùa, hát đố các thanh niên nam nữ làng Nủa. Họ hát cho vui và còn để bày tỏ cái tài ứng đối rất văn vẻ của dân làng Hiệp. Tất nhiên thanh niên làng Nủa đâu có chịu lép. Con gà tức nhau tiếng gáy. Phải đối lại chứ. Vì thế có những đêm hát ví thật là khuya. Từ khi con trăng mới lộ ở đầu cây bưởi, cho đến khi con trăng sáng rực giữa trời, họ vẫn còn hát. Càng về đêm trăng càng như sáng hơn, tiếng hát của đôi bên hình như trong hơn. Các câu đố càng về khuya càng tức nên khó hơn và tình tứ hơn...


Tôi có nói chuyện này với anh Nguyên Sa, anh bảo: “Tiếc nhỉ. Tôi không có dịp sống ở nhà quê nhìn lúa như thế. Nhà quê thật là đẹp. Tôi đi Pháp sau khi tản cư về lại Hà Nội. Ở Pháp tôi học tiếng Việt...” Nỗi hối tiếc rất văn nghệ này của anh Nguyên Sa, tôi thông cảm được. Vì anh Nguyên Sa là con nhà giàu, rất giàu, được sinh ra giữa lúc nền cai trị của Pháp đang mạnh mẽ, muốn tiến thân các con nhà khá giả phải đi học trường Pháp. Nếu được gửi ra hải ngoại, hiểu là sang Pháp du học, là con đường chắc nhất. Học từ “chính gốc. Nói tiếng Tây như Tây..” Anh Nguyên Sa sinh vào đầu thập niên 30. Lúc nhỏ như anh cho biết là đi học trường Tây, rồi qua Tây. Nhà anh, lúc bé tôi có biết. Biết vì nhà anh rất đặc biệt, hầu như ai ở Hà Nội đều biết. Nhà anh không ở Hà Nội 36 phố phường như Hàng Đào, Hàng Vải, Hàng Đồng… ... Nhà anh ở khu phố Tây. Một khu phố bậc nhất. Tên phố ấy tiếng Pháp gọi là gì, tôi đã quên mất, nhưng tên Việt là Tràng Tiền. Nhà anh ở ngay căn đầu, ngay ngã 6, bắt đầu từ Nhà Hát Lớn nhìn ra. Phố ấy “chỉ có Tây nó ở”


Các nhà hàng lớn của Tây ở đây. Nhà anh có một cái bảng hiệu thật to, vẽ một người được xếp lại bằng cái bánh xe cao su. Vì các cụ thân sinh ra anh là một trong mấy người thành công nhất Hà Nội lúc ấy. Cửa hiệu đề Establishment Trần Văn Chi. Đại diện cho hãng bán vỏ lốp xe và các vật đụng bằng cao su của hãng Michelin. Với tôi lúc bé nhìn bảng hiệu ấy mà sợ. Cửa hiệu to hơn hiệu Tây. Người ra vào tấp nập, Ai cũng mặc áo Tây, cà vạt chỉnh tề. Và tất nhiên ở đấy không ai nói tiếng An Nam. Từ nhà anh hay Establishment Trần Văn Chi đi về tay mặt độ 300 thước đường rộng rợp bóng cây to, là viện Đại học Hà Nội, nơi độc nhất của toàn cõi Đông Dương sản xuất ra các quan đốc, các ông cử. Và gái Hà Nội nhìn vào đó mà có câu: “Phi cao đẳng bất thành phu phụ. Anh không học ở đây ra là em không lấy”. Vẫn từ nhà anh, băng qua khu công viên rộng lớn trước nhà Hát Lớn là tới Viện Bảo Tàng, sát bờ sông. Ở đó, bên cạnh Viện Bảo tàng là bãi cát ven sông Hồng đỏ ngầu mênh mông.


Trẻ con HÀ NỘI ra đó đá bóng và tắm sông. Có lẽ anh Nguyên Sa cũng đã ra đây chơi đùa hồi nhỏ, nên anh đã viết:


Sông Hồng, tuổi nhỏ, ngút đầu

Dường như động mạch đục ngầu phù sa.


Vẫn từ cửa hiệu của nhà anh đi về phía trái chưa đầy 200 thước, gặp trên Tây, là thấy góc bờ hồ Hoàn Kiếm. Chính ở góc bờ hồ này là nơi các cô gái làng Nhật Tân đem hoa bày bán. Hoa phần lớn là bán cho Tây. Khác với các chị bán hoa quảng gánh đi giao tận nhà. Các gói hoa nhỏ gói vào lá chuối xanh, buộc cói chiếu. Trong gói có mấy cái hoa cúc, hoa lan, hoa huệ. Các hoa này được ngâm nước cho tươi rồi bày lên đĩa đặt lên bàn thờ Phật. Cũng từ nơi nhà anh Nguyên Sa, băng qua đường là nơi Tây nó từ nơi xa đến. Khách sạn sang hạng nhất, có cái cửa kính cứ quay đều đều. Đó là khách sạn Métropole. Từ ngoài đường nhìn vào chỉ thấy Tây – Đầm đi lại. Thấp thoáng có các người bồi An Nam mặc áo Tây trắng là thẳng tấp đi đi, lại lại, sách các va li cho Tây từ xe vào trong khách sạn. Tiếp tục đi là đến nhà băng Đông Dương. Một lối lên vòng như cái cầu, bên cạnh đường xe lửa là một hàng cây dừa nhỏ mọc đều... Gớm! Tây quá là Tây ở cái khu nhà anh Trần Bích Lan - Nguyên Sa ở lúc trước năm 1954.


Nhưng điều mà tôi ghi nhớ và ân hận là việc này. Chính nơi hội tụ của 6 con đường trước cửa nhà Hát Lớn này là một nơi đã diễn ra một biến cố lịch sử. Biến cố ấy đã mở đầu cho một cuộc chiến tranh dài và đau khổ của người Việt chúng ta. Chính nơi này, nếu đứng trên gác nhà anh Nguyên Sa nhìn xuống thì rõ mồn một. Hôm 18 tháng 8 năm 1945, hầu như toàn thể công chức và sinh viên Hà Nội đã có cuộc biểu tình lớn tại đây để bày tỏ lòng trung thành và ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim trong việc yêu cầu Nhật trả lại độc lập cho người Việt. Cuộc biểu tình to lớn, đã không bị lính Nhật đàn áp như nỗi lo sợ của nhiều người, vì thế hôm sau 19 tháng 8 năm 1945 vẫn thành phần trên, và được rất đông đồng bào Hà Nội ủng hộ. Họ đã kéo về đây để biểu dương lực lượng. Nhưng trước biển người hiện diện, bỗng có sự rối loạn nhỏ tại diễn đàn. Có vài phát súng lục nổ. Và bỗng từ từ lầu 2 của Nhà Hát Lớn, một lá cờ đỏ sao vàng vĩ đại che kín suất cả khuôn cửa lớn của từng hai phủ xuống lầu một. Và trên diễn đàn bỗng náo nhiệt, và rồi sau là lời nói: "Đây là mặt trận Việt Minh..." Các lá cờ đỏ sao vàng cầm tay được phân phát lác đác và cả biển người thành ra cuộc nổi dậy của Việt Minh. Chính giáo sư trường Kỹ Nghệ Hà Nội, ông Nguyễn Văn Luân, người làng tôi, làng Nủa, là người đã xách cái va li đựng lá cờ ấy treo và thả xuống trước mặt tiền Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sai một li đi một dặm là ở chỗ này...


Điều này tôi chưa viết ra. Tôi định hôm nào như đã hứa, tôi sẽ lên thăm anh Nguyên Sa, tôi sẽ nói lại. Biết đâu, lúc ấy, cậu học trò 14 tuổi Trần Bích Lan, nếu đứng trên lầu nhà cậu, cậu đã thấy tất cả. Lịch sử nhờ đó sẽ được hé ra một phần. Tôi chắc là giữa chúng tôi, một thời đã ở Hà Nội, sẽ có nhiều điều nói với nhau. Đặc biệt là tháng 5 năm 1996, trong buổi ra mắt một cuốn sách Quê Nhà, 40 năm trở lại của tôi tại Philadelphia, khi gần tàn cuộc vui, tôi đi giữa các bàn để bắt tay mọi người, tôi có gặp một người. Đó là một cụ bà.


Cụ đã nắm bàn tay tôi và nói: “Ông ơi, tôi đọc các bài viết của ông mà nhớ hồi tản cư quá. Chính gia đình tôi đã tản cư về làng Nủa chợ của ông. Tôi đến đây để gặp ông và cám ơn về làng Nủa... Tôi là cô thằng LAN”. Tôi xúc động và lễ phép thưa: “Dạ Lan nào ạ?” Cụ cười đáp: “Tôi là cô thằng Lan, Trần Bích Lan đấy!” Tôi “à”, và thưa "Dạ, Giáo sư Trần Bích Lan”. Khi trở lại San Diego, tôi có gọi cho anh Nguyên Sa. Anh cười ‘Vâng cô tôi đấy”.


Tôi không có thì giờ để hỏi rõ cụ bà này là thân thích thế nào với anh Nguyên Sa. Tôi cũng chưa có dịp hỏi anh Nguyên Sa thêm về thời gian anh đã tản cư qua vùng quê tôi. Có thể anh đã ghé làng tôi trước khi qua sông vào vùng chân núi. Vì làng tôi có cái chợ rất to, vùng phụ cận phải qua đây mua bán. Để hôm nào tôi lên thăm anh. Và để làm quà cho anh, tôi đã nhờ đứa cháu tại Hà Nội chụp cho tôi tấm hình Nhà Hát Lớn Hà Nội. Căn nhà đồ sộ ấy, dù chẳng muốn, chắc hẳn đã in đậm trong trí nhớ của anh. Con chim sẽ đậu trên bậu cửa căn gác nhà anh, anh mở cửa ra, con chim bay đi, có thể chỉ một cái xuôi cánh, đã lại đậu ở cái hoa văn, dù rất Tây, Nhà Hát Lớn. Tôi cũng bảo đứa cháu chụp căn nhà anh, căn nhà đồ sộ, ba tầng, xưa là cơ sở kinh doanh của cụ Trần Văn Chi. Có lẽ từ căn nhà này, sau khi tản cư từ vùng Thạch Thất, Sơn Tây về Hà Nội, cậu học trò Trần Bích Lan, đã ở trong một các căn buồng đẹp đẽ này. Và khi cậu được cho đi Pháp học, xe hơi từ nhà đưa cậu ra phi trường Gia Lâm. Đi cho nhanh, dù nhà cậu, là đi đường bờ sông, qua Cột Đồng Hồ, rồi lên cầu Long Biên, qua Gia Lâm bên kia sông. Nhưng tôi nghĩ rằng, cậu Trần Bích Lan, sau này là Thi sĩ Nguyên Sa, sẽ đi con đường khác. Từ nhà, cậu sẽ cho xe rẽ trái, đi suốt chiều dài của phố Trường Tiền, rẽ mặt ở góc bờ hồ, chỗ bán hoa, đi qua Bưu Điện, Tòa Đốc Lý, rồi lại rẽ mặt vào Hàng Đào ngập đầy tơ lụa. Tiếp đến là Hàng Ngang đầy các hiệu tạp hóa, rồi tới qua Hàng Đường ngọt thơm mùi bánh.


Qua chợ Đồng Xuân, qua Hàng Giấy, đi dưới gầm cầu, rồi rẽ mặt ở Hàng Đậu. Bỏ cái nhà chứa nước rất to, trên ở đầu vườn hoa Hàng Đậu, ngang nơi tiếp giáp của đầu Hàng Than và phố Quan Thánh. Quan Thánh cái phố có hai dãy cây bàng cành đan che kín cả lòng đường. Lòng đường tuy không hẹp lắm, nhưng giữa đường có đường rầy xe lửa từ Hàng Giấy rẽ vào. Xe điện về đến đây ban tối chạy nhanh, lòng tàu rỗng không, kêu leng keng rồi mất hút về phía Thụy Khê. Con đường ven theo hồ Trúc Bạch mênh mông. Con đường gặp Cổ Ngư đầy gió mát giữa Trúc Bạch và Hồ Tây ... Xe của anh rẽ lên cầu Long Biên ở gần bến Nứa. Cái dốc cao. Cầu Long Biên cao lồng lộng gió bắc qua sông Hồng Hà đỏ quạnh phù sa. Từ trên cầu nhìn về tay phải là đường Bờ Sông, lối đi có Cột Đồng Hồ. Bên kia sông là bãi cát của huyện Gia Lâm, bao bọc bởi Hồng Hà một phía, một phía là con sông Đuống nổi tiếng qua thơ Hoàng Cầm.


Tới phi trường Gia Lâm, lên máy bay để vào Nam, Saigon, trước khi qua Pháp, tôi nghĩ thế, chắc cựu học trò tài hoa Trần Bích Lan không thể không nhìn qua cửa kính máy bay để nhìn Hà Nội ở phút giã từ. Máy bay đảo một vòng. Dưới cánh máy bay phía tay phải, trước khi lấy hướng Nam, là Hà Nội của anh nằm giữa những lằn cây xanh. Hồ Hoàn Kiếm xanh có hình một quả xoài. Hồ Thiền Quan hình thang và lỗ chỗ các nền màu xanh ngọc bích của các mảnh hồ khác... Máy bay lên cao. Hà Nội đã lấp sau làn mây trắng. Kể từ lúc ấy, sau khi tản cư về, tôi nghĩ sớm lắm cũng là năm 1948. Bây giờ là 1998, vừa tròn 50 tuổi. 50 năm bao nhiêu tang thương, đau khổ và 50 năm đó với cậu học trò Trần Bích Lan cũng đã trải qua bao chặng đường. Sinh viên du học, đi lại trên các con đường của Paris, của vườn Lục Xâm Bảo để, như nhà văn Pháp A.France, đã thấy lá vàng từng trận mưa trên vai các các pho tượng đá. Ở đây, anh đã đi chơi với Nga, để rồi có những lúc thấy


Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngáy ngủ trên tay anh
Như con cá ươn sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển.


Mối tình riêng ấy, những rung cảm đầu đời ấy đã làm cho Nguyên Sa thi sĩ lừng lẫy suốt mấy thập niên qua. Đồng thời với người thơ tình lạng mạn ấy, một giáo sư triết học khó có người sánh kịp. Năm 1960 anh đã là giáo sư Triết (hay trước nữa?) của trường Chu Văn An và các trường trung học khác. Học trò năm chót trước khi vào đại học, đa số học trò chỉ thua anh vài tuổi. Có nhiều người vì hoàn cảnh chiến tranh đi học lại, thì lớn tuổi hơn "Thầy Lan" khá xa, 5, 7 tuổi là thường. Cũng thời gian ấy, đất nước mỗi lúc mỗi thêm chìm ngập trong lửa đạn, oán thù, và kéo hút theo bao nhiêu là người trai của thời cuộc, trong đó có bao nhiêu người là học trò của anh. Họ có mặt khắp nơi từ binh chủng này, binh chủng khác. Và cả chính anh, giáo sư Trần Bích Lan cũng bị gọi vào quân đội. Đi sau, anh có trên vai một cái cúc vàng còn gắn Alfa, chuẩn úy và tòng sự tại Đại đội Chung sự. Ở đây anh đã gặp lại một số học trò cũ. Gặp họ anh phải giơ tay chào vì họ đi lính trước. Và họ lại cúi đầu “Thưa thầy”. Nhưng đau đớn hơn hết, chính ở nơi này, cái bến cuối cùng của cuộc sống anh phải nhìn, lạnh ngắt và nhiều khi chỉ là một bố poncho lụn vụn thịt xương. Các thi hài ung máu đó, giữa những vật vã đau đớn của thân nhân, của nến trắng, giải khăn xô dài ai đã là học trò của anh giáo sư Trần Bích Lan.


Rồi cuộc đời sập xuống, tháng 4 năm 1975 ào đến, lớp lớp người đã đổ xô ra biển, tìm mọi cách rời khỏi Việt Nam. Trong số đó có anh, Trần Bích Lan. Trần Bích Lan trơn tru và nhẵn tay. Người thơ, người của Triết học bây giờ “Thi sĩ qua Mỹ làm Thợ Điện”:


Ta vô dòng điện hai chiều
Xẹt ngang cũng đủ cháy vèo thịt da
Em nằm ngay chỗ điện ra
Chỗ đuôi con mắt đèn hoa muôn màu
Nghề thơ anh bỏ đã lâu...


“Nghề thơ anh bỏ đã lâu”, ấy là lúc đầu nghĩ thế. Sau anh trở lại với văn chương, với thơ. Những bài thơ của người xa xứ. Những bài thơ vướng vất nỗi đau chung. Những bài thơ nhớ bạn bè. Và nhiều hơn hết là những bài thơ chất chứa nỗi chia lìa, bịnh hoạn, của khung cảnh nhà thương:


Cửa biển vào đầy gian phòng
Từng giọt nước mặn chạy vòng tới tim
Ta mơ hồ thấy giọt quen
Giọt thơ tuổi trẻ, giọt em ngày nào.


Nỗi ám ảnh ấy đầy ắp trong thơ Nguyên Sa ở tập 3 “Ta đang đi kiếm chỗ nằm. Mưa rơi nặng hạt đúng tầm sân sau”. Có lúc như ôn lại cả một cuộc đời với bao tên tuổi, anh viết:


Em ơi ngựa đã qua đèo
Những tên cùng tuổi cho vèo lá bay


Vâng, thì bây giờ anh đã ra đi. Tất cả quả nhẹ nhàng như một chiếc lá. Nhưng qua những bài thơ anh để lại, tôi thấy có một sự khác biệt trong anh. Xưa anh viết những bài thơ tự do, như bài "Nga" (đã dẫn). Bây giờ anh như tìm lại cái vần điệu rất trữ tình, đầy Việt tính. Anh làm thơ lục bát rất nhiều, và bài nào cũng hay. Lời thơ nhẹ, hình ảnh đẹp và tình ý nồng nàn:


Con sông vẫn chưa có chồng
Sương hôm nay vẫn vậy, thích nằm quanh co
Ta cong mình xuống bãi xa
Con sông thấy lạnh bước qua nằm cùng.


Phải chăng một người lớn lên tại Hà Nội, thành phố bốn mùa thay đổi. Sau cái nắng oi ả của tháng hè, một cơn gió nhẹ đêm qua thổi về, Hà Nội đã se lạnh. Hồ Gươm, mặt hồ đã đầy sương phủ. Sông Hồng quằn quại phù sa, một buổi Đông về, đã lưng trời mây bạc ... Những cảnh trí ấy đã tiềm ẩn nơi con người tưởng đi tìm cái mới từ cõi xa đem về, nay đã trở lại với cái hồn nắng gió của quê cũ. Năm xưa, trong tập thơ đầu tay của anh, có một đoạn thô suôi, tôi cho là Nguyên Sa nhất nếu tôi nhớ không sai như thế này:


Tôi đến đây không ai mời
Khi đi cũng xin đừng ai giữ
Còn nhớ, có thương, có tạc tượng bằng đá trắng đồng đen
Xin đừng bày ở sân trường đại học
Mà bày đùm ở một góc công viên
Để những đêm rất khuya
Nhìn một trăng soi gương
Và những người yêu nhau tình tự.


Tôi yêu mấy câu này quá. Vừa có cái cao ngạo của một người thành công trẻ, vừa có cái chất lãng mạn của người còn đang yêu. Bài thơ ấy đã có mặt tại Sài Gòn có lẽ ở những năm cuối thập niên 50 thì phải. Vâng, giờ anh đã đi xa. Anh đi lặng lẽ. Kẻ thương tiếc anh ở bốn phương cũng lặng lẽ nhớ về. Tôi được tin anh mất trong xúc động nhưng không đột ngột, vì anh bị bệnh đã lâu. Ung thư cổ. Chỉ tiếc, tiếc lắm, tôi chưa có dịp như anh mời, và tôi đã hứa, là lên thăm anh một buổi. Tôi đã có một số ảnh của Hà Nội, trong đó có ảnh Nhà Hát Lớn, và đặc biệt tấm ảnh của chính ngôi nhà anh. Vậy mà tôi đã lỡ. Dù từ nhà tôi ở lên anh chỉ có một giờ xe. Tôi tiếc mà không thể giữ anh ở lại vì anh đã có nói rồi “Tôi đi cũng xin đừng ai giữ” Anh đi nhé. Hà Nội còn giữ hẳn ở giữa lòng anh. Sông Hồng đang giữa mùa nắng đỏ. .


Thôi xin vĩnh biệt Nguyên Sa


PHAN LẠC TIẾP

25/4/1998

(Những Người Tôi Đã Gặp)


THƯ CỦA MỘT VIỆT CỘNG


Sông Bến Hải trước 1975




Thư của một cựu “giải phóng quân”

Trong phần đầu thư, anh “cựu giải phóng quân” đã cho biết là anh ta đang tự giác “Ngụy Quân Hóa và Mỹ Cút Hóa” với lý do như sau:
“Ngụy-quân hóa vì cái gì của Ngụy tôi cũng thích, như nhạc Ngụy, sách Ngụy, nói chung là thượng vàng hạ cám gì của Ngụy đều… hiện đại. Mỹ-cút hóa là con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp ông Liên Xô để úp mặt vào đồng Đô “đế quốc” Mỹ…

“Mỹ-cút hóa vì con gái rượu của Thủ tướng Dũng thiếu gì con trai của các nhà lão thành Cách Mạng gạ gẫm cưa kéo mà cứ một hai “em chả, em chả”, cứ nằng nặc đòi lấy bằng được thằng con Ngụy đã cút theo Mỹ ngày Mỹ cút; Mỹ-cút hóa đến nỗi mấy đứa cháu tôi bây giờ mừng sinh nhật cũng hát bài Hép-Pi-Bớt-Đê (Happy Birth Day), hễ mở miệng là Ô Kê Ô Gà! Ra phố thì cứ đòi uống Cô Ca, ăn thì Mạc-Đá-Nồ (McDonald), Bơ-Gơ-Kinh (Burger King), Ken-Tơ-Ky-Phờ-Rai-Trích-Cần (Kentucky Fried Chicken)… con quan CS chỉ toàn muốn du học Mỹ Tư Bản….”

Sau đó anh CGPQ còn tỏ ra khâm phục và ca tụng quân dân miền Nam:
“Chả dấu gì Anh, sau khi thống nhất đất nước, tôi khoái Miền Nam của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh.
“…. nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy… Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng…”
Phần cuối thư anh kết luận:
“….nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi.”

Nhà báo Huy Đức, tác giả “Bên Thắng Cuộc”:


Trong phần “Mấy lời của Tác Giả” cuốn “Bên Thắng Cuộc” HĐ cho biết sau ngày 30-04-1975 qua hình ảnh xe đò Phi Long từ miền Nam chạy ra Bắc đã khiến HĐ nhận ra được rằng dường như ở miền Nam có mức sống văn minh, phong phú và đa dạng:
“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.”


“Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giời văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dầy, Thép Đã Tôi Thế Đấy. Những chiếc máy Akai, radio cassette, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.”


Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc:


Trong phần đầu bài “Cảm Tạ Miền Nam, PH viết:

“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”

PH cũng đã mô tả cuộc sống ở miền Bắc cộng sản vô cùng tồi tệ:

Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”


Trong phần cuối bài thơ, PH kết luận, ngày 30-04-1975 là ngày miền Nam đã giúp cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản:

“Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành danh.”


Trong một bài thơ khác “Tâm sự một đảng viên” PH cho biết sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì quá tin vào lời tuyên truyền của họ:

“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh
Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin
Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”
“Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng.”


Khi vào tới miền Nam, ông nhận ra rằng, đời sống của ngươi miền Nam hoàn toàn khác hẳn so với lời tuyên truyền của bác và đảng:

“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng
Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin
Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình
Trước thành phố tự do và nhân bản.”


Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của nhân dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt của bác Hồ và đảng Cộng, PH cảm thấy hổ thẹn với lương tâm và đã khóc:

“Trên đường về, đất trời như sụp đổ
Tôi thấy mình tội lỗi với Miền Nam
Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước.”



Tiến sĩ Lê Hiển Dương, nguyên hiệu trường Đại Học Đồng Tháp:

Vào ngày 30-04-1975, ông Dương còn là sinh viên của trường đại học sư phạm Vinh và sau đó ông được cho vào miền Nam với nhiệm vụ:
“…mang ‘ánh sáng’ văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tồi lầm than vì cứ liên miên bị Ngụy kềm Mỹ kẹp chứ đâu có học hành gì?”
Khi tới Thị trấn Cao Lãnh để nhận nhiệm sở, ông được cho ở tại khách sạn Thiên Lợi và đây là cảm nhận của ông khi sống trong khách sạn này:
“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh…”
“Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã…”



Miền Bắc trước 1975


Từ nhận thức về mức sống cách biệt giửa hai miền Nam và Bắc, cùng những sự việc đã liên tiếp xẩy ra ở miền Nam sau ngày 30-04-1975, đã buộc ông Dương suy nghĩ:
“Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng miền Nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…”

Châu Hiển Lý (bộ đội tập kết)

Trong bài “Cả Nước Đã Bị Lừa” ông Châu Hiển Lý đã nhận định vế “chiến thắng 30 tháng 04” của đảng cộng sản Việt Nam như sau:
“Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”


Phần cuối bài ông Lý viết:
“Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”


Sau cùng ông kết luận:

“Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.”


Nhà báo Trần Quang Thành


Trong “Hồi Ức 30/4 của người Việt tại Đông Âu.” TQT, cựu phóng viên đài phát thanh Tiếng Nói và Truyền Hình cộng sản Việt Nam:
“Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là chống Mỹ cứu nước nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới. Họ kích động tinh thần dân tộc của người dân miền Bắc là: miền Bắc là tiền đồn phía Đông Nam Á của phe Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực chất bây giờ chúng ta mới hiểu đây là một cuộc chiến của những người Cộng sản Việt Nam tay sai cho 2 nước Cộng sản là Nga sô và Trung Cộng để mà thực hiện ý thức hệ Cộng sản bành trướng trên toàn thế giới chứ không phải là một cuộc chiến tranh Vệ quốc như họ từng tuyền truyền là chống Mỹ xâm lược. Tôi thấy đó là một sự lừa dối và phản bội.»

Nhà văn Dương Thu Hương
Mới đây phóng viên Tường An, đài Á Châu Tự Do, đã có trao đổi với nhà văn Dương Thu Hương về hồi ức của bà về ngày 30-04-1975:
PVTA: Thưa bà, cách đây đã lâu, trong một bài viết, bà có nói ngày 30/4, vào đến miền Nam bà đã ngồi trên vỉa hè và khóc. Nhân đây bà có thể giải thích về những giọt nước mắt ngày 30/4, 40 năm về trước không ạ ?
Bà DTH: Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn. Họ (phía bên thua cuộc) có thể văn minh hơn về văn hoá nhưng họ kém về phương diện tổ chức quân sự.


Tóm lại qua cảm nghĩ và nhận thức của các nhân vật trên đây, người ta có thể có được những kết luận sau đây:
– Nhân dân miền Nam có tự do, dân chủ và no ấm.
– Nhân dân miền Bắc nghèo khó và phải kéo cày thay trâu và nhân phẩm ngang hàng với bèo dâu.
– Nhờ giải phóng miền Nam, nhân dân miền Bắc thấy được ánh sáng văn minh và trở về quốc gia dân tộc.
– Nhờ “giải phóng miền Nam” mà người dân miền Bắc biết về thế giới văn minh và hội nhập vào thế giới này.
– Đời sống của người dân miền Bắc vào thập niên 1970 thê thảm và lạc hậu đến nỗi người dân phải tranh giành nhau từng cục “phân bắc” để nộp cho hợp tác xã.
– Xã hội chủ nghĩa là một xã hội tồi tệ và được phơi bày rõ rệt qua sự nghèo khổ của nhân dân miền Bắc và là một thời đen tối nhất trong lịch xử Việt Nam.
– Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chỉ là cuộc chiến của những người cộng sản Việt Nam làm tay sai cho Nga Sô và Trung Quốc.
– Chế độ miền Bắc là một chế độ man rợ.
– Chế độ miền Nam là một chế độ văn minh.

Tóm lại, qua những kết luận trên đây thiết tưởng cũng tạm đủ cho người ta thấy rõ là, ngày 30-04-1975 không thể gọi là ngày miền Bắc cộng sản giải phóng miền Nam tự do được, mà phải gọi ngược lại là ngày miền Nam đã giải phóng miền Bắc ra khỏi sự kìm kẹp, giam hãm và đô hộ của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời cũng đã giúp nhân dân miền Bắc nhận ra được rằng, chế độ cộng sản là chế độ man rợ, chẳng những đã chọc thủng con ngươi của họ, mà còn đâm thủng luôn cả màng nhĩ của họ nữa, khiến họ không nghe được và không thấy được những xã hội văn minh và tiến bộ ở thế giới bên ngoài. Do đó, họ đang bị đảng Cộng Sản Việt Nam giam hãm, kìm kẹp và đọa đày trong một “nhà tù khổng lồ” song vẫn cứ tưởng là đang sống hạnh phúc tuyệt vời trong “thiên đường cộng sản văn minh nhất hành tinh”.

-


THÔNG ĐIỆP PHẬT ĐẢN 2641 (2017)


**************************************************************************************************************************************
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : pttpgqt@gmail.com
Web : http://www.pttpgqt.org - Facebook:
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 26-4-2017



Thông điệp Phật Đản 2641 – 2017 của Đức Đương kim Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ và Thông bạch Phật Đản của Viện trưởng Viện Hoá Đạo


PDF: https://tinyurl.com/kzro7js

PARIS, ngày 26.4.2017 (PTTPGQT) - Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Thông điệp Phật Đản 2641 (dương lịch 2017) của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, và Thông bạch Phật Đản của Viện trưởng Viện Hoá Đạo. Xin xem toàn văn hai văn kiện ấy sau đây :


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon
Phật lịch 2561
Số 19/TT/VTT






PHỤC HỒI ĐỜI SỐNG TÂM LINH VÀ ĐẠO HẠNH

THÔNG ĐIỆP PHẬT ĐẢN 2641 (2017)
của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật




Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ



Từ vô lượng kiếp, chư Phật vì tâm Đại Bi muốn cứu độ chúng sinh nên các Ngài từ bỏ cảnh giới vô thượng hỉ lạc mà giáng thế, để khai thị chân lý giác ngộ cho muôn loài trong lục đạo.

Nhìn từ quê hương chúng ta, ra đến thế giới ngày nay, các hệ tư tưởng hiếu chiến xung đột xâu xé, đe doạ diệt vong nhân loại. Các nạn chiến tranh, khủng bố, và độc tài trở thành căn bệnh kinh niên hãm hại người dân thấp cổ bé miệng. Nhớ lời Phật dạy, mà người Phật tử hiểu hơn ai hết, tham, sân, si là nguyên nhân và động lực thúc đẩy bản năng chiếm hữu gây thống khổ nhân thế.


Vì tham, sân, si, các nước lớn xâm lăng và thôn tính các nước nhỏ. Vì tham, sân, si, các chính quyền không biết “dân vi quý” nên bóc lột dân và đàn áp nhân quyền. Vì tham, sân, si, con người quên mất lời Phật dạy hoằng hoá độ sinh, nên biến mình thành kẻ cướp của cướp công người đồng đạo làm món lợi dưỡng cho riêng mình.

Tham, sân, si chính là tam độc gây thống khổ cho con người, thay vì cứu khổ cho mọi người.

Trước hoàn cảnh tham, sân, si hoành hành, thì bao lâu đạo Phật không được tự do truyền giáo ; chư tôn đức không được đem đạo cao đức trọng điều hành, tự quản Giáo hội ; Phật giáo đồ không được khuyến thỉnh tu học và hành trì Bồ tát đạo ; thì bấy lâu đức lý suy đồi, tệ nạn xã hội làm tiêu vong văn hiến, và tiêu diệt tinh thần cường tráng siêu linh của một dân tộc có Bốn nghìn năm tự cường tự chủ như nước Việt Nam ta.


Mỗi năm vào ngày Rằm tháng Tư âm lịch, hàng trăm triệu Phật giáo đồ trên toàn thế giới cung kính cử hành đại lễ Khánh đản Đức Thế Tôn, cốt tỏ lòng nhớ ơn Phật giáng trần, dẫn dắt chúng sinh lên đường Giác ngộ, thể nhập Phật tri kiến.


Những nghi thức đại lễ, dù hùng tráng đến đâu, vẫn chưa biểu tỏ hết lòng tri ân Ngày Phật thị hiện. Trái lại, lòng tri ân sâu xa của người con Phật vào giờ phút thiêng liêng này, phải là tấm lòng thiết tha nỗ lực phục hồi đời sống tâm linh và đạo hạnh, như con đê ngăn chặn sự cuồng bạo chiếm hữu, khiến xã hội và loài người ngày càng xuống hố điêu linh.


Phật giáo là tôn giáo của công phu hành trì. Giải thoát giác ngộ không là sự tích luỹ công đức hay tích tập năng lượng, mà là tiến trình phát bồ đề tâm quét sạch mọi phiền-não-chướng che mờ thực tại chân như.


Ở vào nghịch cảnh mà sức mạnh tâm linh bị âm mưu huỷ diệt, đời sống đạo hạnh khắp nơi bị lu mờ, thì Đại lễ Phật Đản phải là giờ phút quyết tâm tái tạo đời sống tâm linh và đạo hạnh, để cho Hai Nghìn Năm Đạo Phật Việt luôn là bức Cẩm nang cứu khổ trừ nguy cho nhân quần và đất nước.


Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi gửi lời trân trọng chúc quý liệt vị Trưởng lão, Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, cùng đồng bào Phật tử các giới, trong và ngoài nước, hãy đồng tâm nhất chí phát nguyện trước Phật Đài : Thực hiện công trình phục hồi đời sống tâm linh và đạo hạnh, làm nền tảng trường tồn cho Phật giáo và quê hương muôn thuở.


Cầu xin Đức Thế Tôn hộ trì cho tất cả chúng ta.

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Thanh Minh Thiền viện, Rằm tháng Tư
năm Đinh Dậu, 2017 - Phật Đản P.l. 2561
Đệ Ngũ Tăng Thống
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ


Thông bạch Phật Đản của Hoà thượng Thích Thanh Quang, Viện trưởng Viện Hoá Đạo :
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

VIỆN HOÁ ĐẠO
Tu Viện Long Quang, Phường Tứ Hạ, Thị Xã Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên – Huế
Phật lịch 2561
Số 05.17/VHĐ/VT/TB


THÔNG BẠCH
ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2561-2017
-----------------------------
VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT



Kính gởi :- Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni
- Hòa Thượng Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ
- Đồng Bào Phật Tử các giới trong và ngoài nước.


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT


Phụng hành Thông Điệp Phật Đản Phật Lịch 2561-2017 của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thay mặt Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo, tôi xin gởi đến Chư Liệt Vị niềm hân hoan vô tận : ngày Đại Lễ Kỷ Niệm 2641 năm Đức Thế Tôn thị hiện, đem Ánh Đạo Vàng gieo rắc toàn cõi Diêm Phù Đề, đưa Nhân Loại và Chúng Sanh vượt thoát ngục tù Tham Sân Si là căn nguyên của mọi tranh chấp, hận thù và đau khổ.


Yếu chỉ Thông Điệp Phật Đản Phật Lịch 2561 của Đức Đương Kim Tăng Thống bao hàm trong 9 chữ :


PHỤC HỒI ĐỜI SỐNG TÂM LINH VÀ ĐẠO HẠNH


Ngài dạy rằng :


« Mỗi năm vào ngày Rằm tháng Tư âm lịch, hàng trăm triệu Phật giáo đồ trên toàn thế giới cung kính cử hành đại lễ Khánh đản Đức Thế Tôn, cốt tỏ lòng nhớ ơn Phật giáng trần, dẫn dắt chúng sinh lên đường Giác ngộ, thể nhập Phật tri kiến.

« Những nghi thức đại lễ, dù hùng tráng đến đâu, vẫn chưa biểu tỏ hết lòng tri ân Ngày Phật thị hiện. Trái lại, lòng tri ân sâu xa của người con Phật vào giờ phút thiêng liêng này, phải là tấm lòng thiết tha nỗ lực phục hồi đời sống tâm linh và đạo hạnh, như con đê ngăn chặn sự cuồng bạo chiếm hữu, khiến xã hội và loài người ngày càng xuống hố điêu linh.


« Phật giáo là tôn giáo của công phu hành trì. Giải thoát giác ngộ không là sự tích luỹ công đức hay tích tập năng lượng, mà là tiến trình phát-bồ-đề-tâm quét sạch mọi phiền-não-chướng che mờ thực tại chân như.


« Ở vào nghịch cảnh mà sức mạnh tâm linh bị âm mưu huỷ diệt, đời sống đạo hạnh khắp nơi bị lu mờ, thì Đại lễ Phật Đản phải là sự quyết tâm tái tạo đời sống tâm linh và đạo hạnh, để cho Hai Nghìn Năm Đạo Phật Việt luôn là bức Cẩm nang cứu khổ trừ nguy cho nhân quần và đất nước ».


Để báo đền ân đức cao dày của Đức Từ Phụ qua tinh thần Bức Thông Điệp của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, Viện Hóa Đạo yêu cầu mọi cá nhân, đoàn thể trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thực hiện bảy điểm sau đây :


1/. Với bản thân : Hãy Thanh Tịnh thân tâm, nâng cao năng lượng tâm linh, hóa giải những bất an trong tam giới. Đồng thời Vô Úy trong hành động để góp phần đưa nhân loại, quốc gia, dân tộc ra khỏi chảo lửa âm ỷ của tranh chấp, cướp đoạt, và nô lệ.


2/. Với gia đình : Hãy Phật Hóa thân bằng quyến thuộc, thực hành chay tịnh, nhằm đền đáp ân đức cha mẹ, ân đức chúng sinh, ân đức Tam Bảo, tham gia các hoạt động xã hội để đền đáp ân đức Hồn Thiêng Sông Núi.

3/. Đối với các Đoàn thể Phật Tử : Hãy khơi dậy tinh thần Lục Độ trong cộng nghiệp qua các hình thức từ thiện xã hội, tu bát quan trai, tham dự các khóa lễ và tu học, đồng thời nâng cao ý thức thời đại : Phật Giáo là sự đối diện với xã hội chứ không quay lưng với xã hội, nhất là trước một xã hội độc tài toàn trị hiện nay.


4/. Đối với các Ban Đại Diện GHPGVNTN tại các Tỉnh, Thành, Quận, Huyện :


Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn đang đối mặt với sự khủng bố, áp bức của Nhà Cầm quyền Cọng Sản, phải ý thức rằng những chùa chiền, tháp miếu, những lễ hội Phật Giáo hoành tráng do nhà nước dựng lên chỉ mang tính cách mê tín, chỉ là lớp son phấn loè loẹt hòng che lấp chủ trương bất dung tôn giáo. Do đó chúng ta quyết bảo vệ truyền thống cố hữu dù phải hy sinh.


Viện Hóa Đạo yêu cầu các Ban Đại Diện tùy hoàn cảnh địa phương mà kiến tạo một mùa Phật Đản đầy đủ ý nghĩa, trang nghiêm, thanh tịnh để đồng bào nói chung và Phật Giáo Đồ nói riêng được chiêm bái và hành lễ dù trong điều kiện khắc nghiệt mà GHPGVNTN đã và đang đối mặt.


5/. Đối với Hội Đồng Điều Hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ, qua tinh thần Thông Cáo Báo Chí của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế : HƯỚNG VỀ NGÀY PHẬT ĐẢN phổ biến hôm 17.3.2017, Viện Hóa Đạo kính xin tán dương tinh thần Chư Tôn Túc và Toàn Thể Phật Tử Hải Ngoại và cầu nguyện một mùa Đản Sanh viên mãn nơi đất khách quê người.


6/. Lễ Tưởng Niệm Chư Anh Linh Thánh Tử Đạo sẽ được cử hành lúc 15 giờ ngày mồng 8 tháng tư Đinh Dậu (03.5.2017) tại Đài Kỷ Niệm Thánh Tử Đạo, thành phố Huế. Viện Hóa Đạo kính cung thỉnh Chư Tôn Đức và kính mời Phật Tử các giới tham dự để tưởng niệm Chư Thánh Tử Đạo đã hy hiến thân mình cho Dân Tộc quang phục và Đạo Pháp xương minh.


7/. Lễ Đài Chính sẽ được thiết trí tại Tu Viện Long Quang (trụ sở của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN) thuộc Phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Đại lễ chính thức sẽ cử hành lúc 07 giờ 30 sáng ngày Rằm Tháng Tư (10.5.2017). Trân trọng cung thỉnh Chư Tôn Đức cùng Phật tử các giới tùy duyên tham dự.


Hằng năm Mùa Phật Đản trở về trùng thời điểm Nhà cầm quyền Cọng Sản cưỡng chiếm Miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, ngày đen tối của lịch sử Dân Tộc khiến hằng triệu người phơi thây nơi rừng sâu núi thẳm cùng hàng triệu người chôn vùi dưới đáy đại dương khi Vượt Biển tìm tự do.


Vì vậy, qua Thông Bạch Phật Đản nầy, Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất xin kính cẩn trước lời gọi bi thiết của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Thích Huyền Quang gởi cho Đảng Cọng Sản Việt Nam năm 2000. Dù đã 17 năm qua, nhưng giá trị của lời gọi ấy vẫn là chân lý Sám Hối mà Đảng Cọng Sản cần thực hiện ngay trong ngày 30 tháng Tư để năng lượng Từ Bi giúp hóa giải mọi gian nguy cho Đất Nước, đem lại hạnh phúc cho Dân Tộc :


Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đã kêu gọi qua Thư gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước yêu cầu lấy Ngày 30 Tháng Tư làm « Ngày Sám hối và Chúc Sinh toàn quốc » bằng cách : « Hãy trả lại Linh Quyền cho người chết và Nhân Quyền cho người sống, đây là ý nghĩa của Lễ Chúc Sinh và Sám Hối. Xưa các vua chúa Tế Trời mỗi năm tại Đàn Nam Giao cầu cho Quốc Thái Dân An. Nay ở thời đại mới, Nhà Nước nên áp dụng Luật Pháp, bảo đảm các Quyền Tự Do căn bản về Dân Sự và Chính Trị cho mọi Công Dân như một cách tế thờ Người ».


Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kêu gọi Nhà Nước Cọng Sản hãy thực hiện « Lời Kêu Gọi Đảng Sám Hối » của Đức Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang, như một nghĩa vụ đối với Tổ Quốc và Nhân Dân trong quá trình 42 năm thống nhất đất nước nhưng không thống nhất được lòng người. Thống nhất lòng người là điều tất yếu đưa Đất Nước và Dân Tộc vượt thoát mọi cuộc xâm lăng và nô lệ.


NAM MÔ LÂM TỲ NI VIÊN VÔ ƯU THỌ HẠ
BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT


Tu viện Long Quang, Mùa Phật Đản
Phật lịch 2561, Đinh Dậu – 2017
Viện Trưởng Viện Hoá Đạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất(ấn ký)
Tỳ Kheo THÍCH THANH QUANG

Saturday, April 29, 2017


HẢI ÂU * ÉP ĐĂNG KÝ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ

Ép buộc người phụ nữ sắp chết đăng ký nghĩa vụ quân sự

Hải Âu (Danlambao) - Câu nói: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” được người đời truyền miệng trong thời kỳ chiến tranh. Điều đó thể hiện lòng yêu nước của người phụ nữ trước việc đất nước bị xâm chiếm bởi ngoại bang. Nhưng trớ trêu thay trong thời bình tại đất nước luôn tự hào là thiên đường xã hội chủ nghĩa lại có chuyện ép buộc người phụ nữ đi “quân dịch”. Chuyện tưởng như đùa ấy đã thật sự diễn ra tại phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Chị Nguyễn Ngọc Minh C, 35 tuổi, mang trong người căn bệnh hiểm nghèo, cân nặng chỉ còn khoảng 30kg. Bác sĩ đã cho về nhà sau thời gian điều trị tại bệnh viện và chuẩn đoán chị khó qua khỏi. Thế nhưng những kẻ cầm quyền tại Tp Mỹ Tho vẫn một mực buộc chị phải đăng ký nghĩa vụ quân sự.
Gia đình chị Minh C đã rất bức xúc khi cán bộ địa phương mang giấy đăng ký nghĩa vụ tới nhà chị vào ngày 27/4 và ép phải ký tên nhận: “đúng 7 giờ 30 ngày 28/4/2017 có mặt tại BCH quân sự phường 6 để đăng ký NVQS”. Mặc dù gia đình chị đã giải thích hiện chị đang bệnh nặng, không thể ngồi dậy.
Giải thích về trường hợp này, BCH Quân sự phường 6 cho biết: “Theo chủ trương của BCH Quân sự tỉnh và TP Mỹ Tho, năm nay, đối với nữ có chuyên môn kỹ thuật phải đăng ký vào ngành dự bị 2 theo Luật NVQS. Nhưng do không nắm được danh sách những người này, phường đã nhờ 'bên cung cầu lao động' hằng năm đối chiếu, cung cấp danh sách để phối hợp mời những phụ nữ trong độ tuổi từ 18 đến 40 có chuyên môn kỹ thuật đăng ký NVQS”. Cũng theo BCH Quân sự phường 6, thì “việc này do khu phố mời, mong chị C. thông cảm giùm. Nếu đi không được thì chúng tôi sẽ để vào danh sách không đủ điều kiện đưa vào danh sách quân dự bị. Lý do sức khỏe kém”.
Thông tin từ gia đình chị Nguyễn Ngọc Minh C cho biết: “chị đã qua đời vào lúc 10 giờ sáng ngày 28/4/2017”. Đó cũng là ngày mà BCH quân sự phường 6 Tp Mỹ Tho yêu cầu chị tới phường để đăng ký NVQS.
Không thể hình dung nổi những kẻ cầm quyền của cộng sản đảng nghĩ gì khi thực hiện “nhiệm vụ” này. Một hệ thống, ban bệ, cán bộ quân sự của phường 6 Tp Mỹ Tho sống bằng thuế của người dân để làm gì? Sao lại phải nhờ vả “bên cung cầu lao động” chọn một người phụ nữ ốm yếu chờ chết và bắt buộc đăng ký nghĩa vụ quân sự. Dẫu biết rằng tham gia quân sự là nghĩa vụ của mỗi người dân nhằm thể hiện trách nhiệm của mình đối với đất nước. Dù cho luật nghĩa vụ quân sự có qui định phụ nữ cũng phải thực hiện nghĩa vụ quân sự nhưng điều đó có thật sự cần thiết khi Việt Nam là một quốc gia độc lập và hòa bình.
Ép buộc một người phụ nữ chân yếu, tay mềm và đang thoi thóp trên giường bệnh phải tham gia trách nhiệm đối với tổ quốc, thử hỏi đất nước này đang trong tình trạng nguy hiểm đến thế sao? Có thật sự cần đến một người phụ nữ ốm nặng, chờ chết tham gia nghĩa vụ quân sự để bảo vệ đất nước không? Nếu cần vậy thì 4,5 triệu đảng viên cộng sản cùng hàng chục ngàn đoàn viên thanh niên cộng sản ngày ngày tiêu tốn hàng tỷ đồng để tiền thuế của dân để làm gì?
Những kẻ vẫy máu chung phần với cộng sản mang trên mình màu áo quân đội, thanh niên tình nguyện, công an nhân dân, cảnh sát cơ động luôn hùng hổ trấn áp người yêu nước trong các cuộc biểu tình phản đối Trung cộng bành trướng đang ở đâu, làm gì? Sao không thấy chúng thể hiện trách nhiệm đối với đất nước khi ngoại bang phương Bắc ngày một ngang ngược ngoài biển đông cũng như trên lãnh thổ Việt Nam.
Chế độ cộng sản đang thể hiện sự thối nát vô đối của mình trong quá trình cai trị dân tộc Việt Nam. Trước thái độ tàn ác với đồng bào, nhân dân trong nước nhưng luôn tỏ ra hèn nhát trước giặc Tàu ngoại bang, quan chức cộng sản đã và đang tạo ra sự căm phẫn trong tâm trạng của hàng triệu con dân nước Việt. Nếu một ngày đất nước xảy ra chiến tranh, có lẽ sẽ có những người phụ nữ tự nguyện đăng ký nghĩa vụ quân sự. Những người phụ nữ ấy sẽ cầm súng chưa hẳn là họ bảo vệ đất nước, nhưng chắc hẳn họ sẽ cầm súng chĩa thẳng vào bè lũ cộng sản bán nước hại dân để thể hiện trách nhiệm của một người phụ nữ đối với tổ quốc.
29/4/2017

HỒ CHÍ PHÈO * 30-4

Cảm nghĩ 30 tháng tư

Hồ Chí Phèo (Danlambao) - Sài Gòn đã mất tên mình sau ngày 30/4/1975. Cùng với cả nước, tất cả đã nhuộm màu đỏ của máu, của người cộng sản. Người Việt sẽ không bao giờ quên đi được ngày ấy, một biến cố thay đổi hẳn cuộc đời hàng triệu triệu người. Có hàng ngàn bức ảnh, hàng triệu câu chuyện về ngày ấy được xem, được viết, được nhớ lại...
Một trong nhiều người lính trong quân đội VNCH ở lại đến ngày cuối cùng... 
“Cấp bậc cuối cùng của tôi là Trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà. 
Ngày 28/4/1975 đơn vị tôi được đưa về đóng ở cầu Sài Gòn. 
Trước đó một tuần, cố vấn người Mỹ, cũng là người bạn thân, đề nghị đưa tôi và gia đình lên máy bay di tản sang Mỹ. Tôi đã nghĩ đến những người lính đã từng gắn bó bao nhiêu năm, đã sống chết bên nhau. Cấp bậc có khác nhưng cùng là con người, cũng có niềm vui, nỗi khổ cực giống nhau, tôi không thể dứt bỏ ra đi một mình để họ ở lại chiến đấu đơn độc. Mặc dù tôi biết rõ khi cộng sản chiếm hoàn toàn miền Nam, bọn chúng sẽ đối xử tôi và những người sỹ quan chỉ huy của quân đội miền Nam tự do, rất “đặc biệt”. 
Khoảng trưa sau khi cùng nghe diễn văn của ông Dương Văn Minh, tôi bắt tay từ giã các chiến hữu cùng đơn vị trong nước mắt, chúc nhau gặp may mắn. Đời lính như chúng tôi, bao nhiêu năm tháng vào sinh ra tử cho tổ quốc quyết sinh có khi nào được khóc? Về đến nhà nhìn lên bàn thờ, tôi nghẹn ngào: "Cuối cùng mình cũng hoàn thành nhiệm vụ của một người lính trong danh dự và trách nhiệm". Tôi và gia đình đều hiễu mình sẽ đối diện với tương lai đen tối trước mặt. 
Tôi trình diện đi học tập theo diện sỹ quan. Tôi gặp lại nhiều bạn bè cũ, họ đã cùng một ý nghĩ như tôi, có điều kiện ra đi nhưng vẫn chọn ở lại đến phút cuối cùng. Chúng tôi bị đưa ra trại tập trung phía Bắc lao động khổ sai, làm quen với đói rét, ốm yếu, bệnh hoạn... Nhiều người không vượt qua, đã nằm lại trong những nấm mồ đơn sơ ở một nơi hoang vắng. Qua hơn 10 năm khổ cực trong tù, tôi may mắn còn sống sót để có ngày đoàn tụ lại với vợ con. 
Gia đình tôi qua Mỹ theo diện HO năm 1996. Hiện tại các con tôi đều có việc làm, cuộc sống ổn định. Tôi và vợ sống chung với gia đình đứa con trai út. 
Mỗi năm, vào ngày 30/4 tôi nhìn lại những bức ảnh ngày tháng tư đen đó để hồi tưởng thảm cảnh những người chạy loạn tránh cộng sản từ miền Trung vào Nam. Những chiếc tàu động nghẹt người, những chuyến máy bay người ta chen nhau, xác người chết trên đường... Bàn tay tôi đã run, trí óc tôi vẫn minh mẫn, vẫn nhớ, vẫn vẽ đầy đủ cảnh bi ai nhưng hùng tráng của những người dân, người lính miền Nam đến những ngày cuối cùng 30/4/1975. 
Sau tháng tư đen ấy, người cộng sản quá huyênh hoang với chiến thắng, không có đủ trí khôn để học hỏi cách thức xây dựng đất nước sau chiến tranh. Họ đã bỏ qua rất nhiều cơ hội đưa đất nước trở nên phồn vinh. Đức, Nhật hai quốc gia bại trận, đất nước tan nát do bom đạn nhưng chỉ sau khoảng 20 năm, đất nước họ trở thành những cường quốc. 
Nhiều đêm tôi thao thức, trí óc miên man quay về dĩ vãng. Nghĩ đến bao nhiêu anh em đồng đội đã ngã xuống. Nghĩ đến đất nước, biển đảo đã và đang bị kẻ thù phương Bắc xâm lấn. Rồi để ứa nước mắt với câu hỏi quay quẩn trong đầu “Khi nào dân ta thực sự hạnh phúc?”
*
Một du kích từ một mật khu trong rừng... 
“Ngày 30/4/75 tui vui quá trời! Từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có ngày nào vui hơn! Năm 12 tuổi, đâu có học hành gì đâu, tôi theo cách mạng, vác súng, vác đạn cho các anh du kích. Từ đó tôi từ từ bò lên, liên lạc viên, rồi y tá, y sỹ... Nói thẳng nói thiệt, khi du kích bị thương, thằng nào gặp tôi cầm dao, kéo chuẩn bị mổ xẻ, đứa nào cũng sợ xanh mặt, tụi nó chỉ biết ứa nước mắt rồi đờ đẫn ra chấp nhận như số kiếp con ngựa bị gãy rời đôi chân để chạy. Trời, đi du kích mà mất khả năng di chuyển, mất khả năng chui rúc thì chỉ làm gánh nặng cho đơn vị, nên Bác và đảng đã ra chỉ thị đơn vị phải giải quyết “nhanh và gọn”. Tôi lúc nào cũng vượt chỉ tiêu “nhanh và gọn”, do đó du kích tôi đánh nhau chết thôi, quyết không để bị thương! 
Ngày được lệnh ra Rạch Giá tiếp quản thành phố, trong đơn vị, ai cũng mừng quá là mừng. Đang sống giống như chuột trong lổ cống tự nhiên có nhà cửa, giường nệm, chăn thơm, ăn nhậu thả giàn. Ôi chao, giống như lên thiên đường! 
Cũng từ ngày này, sự nghiệp tôi lên như diều gặp gió. Toàn chức vụ ngon ăn, chủ tịch tỉnh, bí thư tỉnh, phó thủ tướng, tổng giám đốc ngân hàng trung ương... Nghĩ lại tôi thấy thiệt mình có nhiều tài, lãnh vực nào mình cũng ngon lành. Học hành? Trời! Trên thế giới có thằng nào học nhanh bằng mình? Chỉ cần vài năm học chơi chơi là tôi có bằng cử nhân luật! 
Khi tôi làm thủ tướng, đảng thấy mình thanh liêm quá nên tôi được kiêm nhiệm trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng. Mấy đứa con tôi, tự tụi nó lo đi du học ở các nước Anh, Mỹ, rồi cũng tự tụi nó phấn đấu lên lãnh đạo chỗ này, chỗ kia. Tui nghèo đâu có tiền lo cho tụi nó, nó giàu sang là tụi nó do có giống di truyền từ tôi đó thôi! 
Bây giờ về làm “người tử tế”, nhưng chân rết trong đảng của tôi cũng còn vững lắm. Ngày 30 tháng tư năm nay, vui nhưng cũng lo. Chắc không sao, thằng cha già lo đập con ruồi còn chưa xong, đụng gì đế́n được con ếch. Con ếch là chú ông trời, mình ộp một tiếng, ai cũng im.”
*

Một người phụ nữ đã sinh ra, sống ở Sài Gòn...
“Ngày 30/4/1975 lần đầu tiên trong đời bác thấy bộ đội Bắc Việt, bác sợ quá chừng. Mặt mũi đứa nào cũng giống đứa nấy, nón cối, dép râu, súng ống lăm le trên tay. Vài ngày sau bác quen, không sợ, mà thấy tội nghiệp tụi nó. Nghèo nàn, khờ khạo, ngu quá trời, bồn cầu ngồi mà tụi nó nghĩ là chổ rửa tay, rửa mặt, hứng nước uống. Trời đất, ai mà tin! Dzậy mà có thiệt. Đi đâu tụi nó cũng lục tìm “cái đài”, nhiều cái củ rỉn, tụi nó cũng nâng niu. Tội nghiệp thiệt! Nhưng mấy ngày sau đó bác bắt đầu ghét. Đi đâu tụi nó cũng ca ngợi “Bác và Đảng”, lập đi lập lại giống như cái máy. Rồi mấy cha nội lãnh đạo đọc diễn văn, cũng lập lại y chang, cuối cùng mấy chả còn dơ tay hô khẩu hiệu “...muôn năm, muôn năm” và “...sống mãi, sống mãi”. Bà con mình phía dưới cũng phải dơ tay “...muốn nằm, muốn nằm”, rồi “...sống mái, sống mái”. Hổng làm theo, tụi nó đẩy cái rụp dô trại cải tạo, làm gì có toà án, luật lệ! 
Nhà bác chỉ có ổng, chồng của bác, đi học tập có mấy ngày nên cũng đở. Đến khi đánh tư sản mại bản, bác có cái sạp vải nhỏ síu ở chợ, tụi nó cũng đánh luôn. Luật rừng, luật rú, kêu ca ai nghe? Lạng quạng nó cho dô tù hay trại cải tạo. Nhiều người bị đánh tư sản, mất hết nhà cửa còn bị đẩy đi kinh tế mới. Đúng là tụi cướp dựt, cướp ban ngày ban mặt. Từ trên xuống dưới đều làm nghề ăn cướp như dzậy, sao đất nước khá lên được! Không còn gạo, người dân ai cũng ăn bo bo, khoai... thịt cá thì cấp theo tiêu chuẩn. Mà nước nghèo, dân đen lãnh chứ mấy thằng chóp bu ở trên cướp của người ta, chia chác nhau sống khoẻ re. 
Cảm giác từ sợ, tội nghiệp, ghét, căm thù để cuối cùng nhiều gia đình đã bất chấp nguy hiểm, vượt biên tìm đến bến bờ tự do. Gia đình bác có hai đứa con đi vượt biên. Một đứa chết trên biển vì hải tặc. Một đứa may mắn qua được Mỹ. Nhờ nó bảo lãnh, gia đình bác mới qua bên đây. Đời sống giờ cũng ổn. 
Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng tư, nhớ đến chuyện cũ ở Việt Nam, bác lại nổi da gà. Trời ơi, đất nước gì mà kỳ cục, sản sinh ra mấy thằng khùng khùng, điên điên chỉ vì chủ nghĩa tầm bậy tầm bạ gì đó. Miệng lúc nào cũng ba hoa, xã hội công bằng, mà tay chỉ lo cướp dựt của cải người dân để làm giàu riêng cho mình, cho gia đình mình. Bây giờ nó tiếp tục cướp đất, cướp tài nguyên của dân mình. Nghĩ tới nghĩ lui, đôi lúc bác ứa nước mắt, tức cái bọn lãnh đạo dối trá, thương người dân còn ở lại. Không biết bao giờ họ mới hưởng được tự do, hạnh phúc như gia đình bác bây giờ? 
*
Miền Bắc, chế độ độc tài đảng trị bọc người dân trong một cái vỏ kín của sự dối trá, mọi người tin miền Bắc đang “giải phóng” dân miền Nam nghèo đói... 
“Bác có đứa con nhập ngũ trước 30 tháng tư 75. Miền Bắc ai cũng nghe Bác và Đảng nói dân miền Nam bị Mỹ Ngụy bóc lột nên đói khổ lắm, nên mình phải “giải phóng” cho họ. Khi con nó theo bộ đội tiến vào Nam, Bác gói cẩn thận cho nó mấy cân đường mang theo,. Sau khi giải phóng được Sài Gòn, dặn dò nó ghé nhà ông anh Bác cứu đói, đưa quà. 
Tháng sau ngày giải phóng, con nó về phép thăm nhà. Nó mang về bao nhiêu thùng hàng. Tôi ngạc nhiên hỏi thăm: “Con đến thăm Bác Thắng, đưa quà cho bác ấy rồi phải không? Chắc gia đình bác nghèo đói lắm?”. Con tôi ôm bụng cười: “Ối giời ơi, nhà bác ấy to như cái lâu đài. Bác trai phải đi học tập. Chỉ gặp bác gái, bác đã mời con vào nhà. Ối giời ơi, vào nhà rộng rãi, cái ghế sao mà nó ngồi êm thế. Con đưa tay vào túi xách tính lấy quà để đưa, nhưng nhìn căn nhà sang trọng quá, con quá xấu hổ lại rút tay ra. Đây bác gái gửi biếu mẹ mấy xấp vải, còn bố cái đài”. 
Bác ngồi mân mê xấp vải hàng giờ, nó như nhung như lụa. Suốt cuộc đời sống ở miền Bắc, chưa bao giờ bác thấy những tấm vãi đẹp đẽ đến thế. Còn chồng bác chả lo ăn uống gì, suốt ngày ông ôm cái đài, nghe chán cất vào tủ khóa lại. Nghĩ một lát, ông lại mở tủ, lấy đài ra... Cứ thế... 
Thấy con đeo cái gì là lạ ở tay, bác hỏi. Nó vui vẻ khoe ngay: “Ngồi nhà Bác Thắng, con cứ nhìn chăm chú cái đồng hồ đeo tay của con bác. Cuối cùng anh ấy cười, tháo ra tặng con làm kỷ niệm, vì anh ấy có đến mấy cái. Đấy bố mẹ xem, đồng hồ không người lái của bọn tư bản. Đeo vào tay, cử động tay làm nó chạy chả cần lên dây cót gì cả!”. Hai bác chưa bao giờ nhìn thấy cái vật gì đẹp và tinh xảo như vậy, cứ nâng niu và nhìn. Con bác bật cười “Cho Bố mẹ mượn. Mai trả lại cho con”. 
Tối lên giường nằm, bác trai cứ đưa tay lên, ngắm cái đồng hồ không người lái. Bác sốt ruột: “Ông đeo thế, ngủ làm vỡ nó mất. Để tôi cất lên cạnh ảnh thờ của Bác Hồ”. Bác để cái đồng hồ trước ảnh Bác Hồ: “Cháu cho Bác mượn tạm. Đời Bác chắc chẳng bao giờ có cái đồng hồ này đâu. Mai Bác trả lại cho chúng cháu”. Thế mà chỉ lát sau, ông chồng bác lại lồm cồm đứng lên: “Bà vẽ chuyện. Bác đứng yên thế kia, chả chịu “lắc” gì cả, “nó”chết toi” mất!”. Thế ông ấy cứ loay hoay cái đồng hồ không người lái: “Tôi để gần giường. Thỉnh thoảng, bà cầm lên “lắc” phụ tôi. Đấy xem kim nó nhúc nhích kia kià. Quên không “lắc” nó lăn kềnh ra thì khốn!”. Hai bác cả đêm không ngủ được vì lo “lắc”, nhưng hai bác vui vẻ lắm! 
Mỗi năm có dịp nhớ lại ngày 30/4/1975, bác lại nhớ đến cái đồng hồ không người lái. Một kỷ niệm không thể quên vì nó là vật thật, một trong những cái thật, đã thật sự “giải phóng” cho bác thoát khỏi cái không gian mà mình đã sống trong bao năm, chỉ có sự dối trá, sự lừa gạt. 
*

Chiến dịch đánh “tư sản mại bản” là một sự kiện gắn chặt với ngày 30 tháng tư. Đỗ Mười, Uỷ viên bộ chính trị TUĐCSVN, được cử vào Sài Gòn chỉ đạo chiến dịch với sự tham gia đông đảo của công an, bộ đội, cán bộ, công nhân viên chức nhà nước... Không chỉ tầng lớp giàu có, những người trung lưu, hoặc tiểu thương ở các chợ cũng bị kiểm kê, tịch thu hàng hoá, nhà cưả... Một cuộc cướp của qui mô có lẽ chưa hề có trong lich sử cận đại của nhân loại. Từ một nơi xa xăm, người phụ nữ nói về những ngày ấy...
“Hai vợ chồng bác do cần cù, chịu khó, đã vươn lên từ sự nghèo khổ có một gia đình tương đối sung túc. Bác không quan tâm nhiều đến chính trị, chỉ chăm chỉ lo làm ăn, lo cho gia đình. Ngày 30/4/1975 bác hy vọng đất nước thống nhất, cùng là người Việt, tất cả cùng chung lưng xây dựng lại. Nhưng sau ngày tháng tư ấy, tất cả đều xụp đổ, mọi chuyện xẩy ra khác hẳn, ngoài sự tưởng tượng của con người. Bác trai phải dẫn con vào Sài Gòn sống, ở đó gần trung ương, quốc tế nó e dè hơn. Xa xôi tỉnh lẻ, bọn chúng bắt người, cướp của... không một ai kiện tụng được! Bác ở lại tỉnh, giữ nhà. Nhưng nhà bác thuộc diện bị đánh tư sản mại bản. 
Bọn chúng lục xét nhà bác. Chúng bỏ ngoài tai những lời van xin, cầu khẩn. Chúng hăm dọa, rồi vỗ về, niêm phong tất cả mọi thứ trong nhà chỉ trừ vài món lặt vặt để bác có thể khăn gói lên đường đi vùng kinh tế mới. Chúng rời nhà, quăng lại bên cạnh người đàn bà khốn khổ đang ngồi bệt trên nền nhà, đã khóc cạn cả nước mắt, tờ giấy ra quyết định tịch thu nhà cửa, tài sản do Ủy ban quân quản tỉnh ký. 
Bác vẫn ngồi, gục đầu trên giường. Trưa, chiều rồi tối, bác vẫn ngồi im lìm, không còn biết đến không gian, thời gian... Cuối cùng bác quyết định đứng dậy, nhìn quanh. Không! Không thể để bọn cướp ngang nhiên như thế! Bác phải đấu tranh ở lại căn nhà của bác. Không đi đâu cả! Trời đã khua. Bác thấy lạnh lắm. Bác lần bước đến căn hầm xây dưới nhà để gia đình trú ẩn khi cộng sản pháo kích vào tỉnh. Bác sẽ trốn xuống dưới đó. Bọn chúng sẽ không bao giờ tìm ra bác. Cửa hầm tối đen, bác vướng chân, té nhào xuống lăn người trên nền đá lạnh của căn hầm. Đau quặn cả người, nhưng bác cũng cố gắng gượng dậy. Phải gắng sức chống bọn cướp, chúng không dễ dàng lấy được nhà của bác! 
Vài ngày sau, bác nghe những tiếng động trên hầm. Bọn cướp đã dọn vào ở. Bọn chúng tươi cười, ăn mừng ồn ào. Nghe chúng nói chuyện, bác biết một thằng tướng cướp, được thuộc hạ cung kính gọi là “anh Ba”đã dọn vào ở, đang chờ đợi vợ con từ miền Bắc vào. 
Khuya, bọn bộ hạ đã rời nhà, thằng tướng cướp đã ngủ, bác rón rén rời hầm. Bác lẻn vào phòng ngủ thằng tướng cướp. Khuôn mặt thằng tướng cướp trong giấc ngủ vẫn đầy vẻ ranh mãnh, giảo quyệt, hơi thở lẫn mùi bia, rượu, thuốc lá. Bác đưa tay khẽ chạm vào mặt nó, lẩm bẩm: “Thằng khốn nạn! Thằng ăn cướp!”. Nó chỉ nháy nháy lỗ mũi, quay đầu sang hướng khác, vẫn ngáy đều. 
Bác nhẹ nhàng rời phòng, sang một phòng khác. Một phòng có chứa nhiều thùng hàng trên có hàng chữ viết “Gửi anh Ba”. Vài thùng hàng hàng đã tháo dỡ dang, những xấp vãi, những kem đáng răng, xà bông, những chén, đĩa... Tất cả đều mới. Bác giận điên người: “Thằng khốn nạn! Nó cướp của bao nhiêu người!”. Bác vô tình làm rơi vài món xuống đất. Có lẽ tiếng động đi lại và vật rơi làm thằng khốn nạn thức dậy. Bác vội trốn vào một chỗ, lén nhìn. Nó tỏ vẻ ngạc nhiên, càu nhàu, cầm vài thứ rơi rãi trên nền nhà, quăng lại trên bàn, rồi quay trở về phòng ngủ. Bác không để nó ngủ yên. Bác bắt đầu mở cửa cho gió lùa vào. Tiếng động làm thằng khốn nạn lại thức dậy, càu nhàu đóng cửa. Bác lại chạy tung mở cánh cửa khác, rồi bác nấp kín... Bác nhanh nhẹn chơi trò cút bắt với thằng khốn nạn suốt đêm. Bác vui quá, không thấy mệt gì cả. Mãi đến khi trời sáng, bác sợ nó dễ thấy được mình, bác mới tạm lánh xuống hầm. 
Sau vài đêm chơi trò cút bắt, thằng tướng cướp có vẻ mệt mỏi và hoang mang. Chung quanh mắt nó có quầng đen và hơi thở trở nên nặng nhọc. Trong khi bác cảm thấy khoẻ hơn, đi đứng manh bạo, tự tin hơn. Bác còn có thể đẩy nhẹ chén bát nó hớ hênh để gần mép bàn, làm nó vỡ tung trên nền nhà. 
Cứ như thế, một đêm mưa gió, bác đã mở tung được nhiều cánh cửa, mưa gió gào thét tràn vào. Thằng khốn nạn đã hoảng sợ! Bác chạy chung quanh nhà, bác cười. Bác chạy ra ngoài trong cơn mưa, trong ánh sáng thấp thoáng của tiếng sét, bác chỉ vào mặt thằng khốn nạn qua khung cửa sổ, bác cười. Tiếng cười của uất ức đến cùng cực, man dại hẳn đi... Rồi bác chạy vào nhà, chạy từ khung cửa mở toang này đến khung cửa mở toang khác. Nó dường như đã nhìn thấy, quay vòng nhìn theo bác. Bác không còn sợ, chỉ tay vào khuôn mặt tái nhợt kia và cười. Nó gục mặt, lê bước, trợt vào những mãnh vỡ trên nền nhà ướt sũng nước. Nó té nhào, đầu va vào cạnh bàn. Máu chảy quanh mắt nó, qua mũi, qua miệng rơi xuống... Bác đưa tay chỉ vào mặt nó. Kỳ lạ thay, ngón tay của bác như dài ra, chạm được vào trán của nó. Nó đưa tay như cố gắng đẩy ra. Trong mắt ngoài máu có lẽ còn cả nước mắt, ánh mắt thằng tướng cướp nhìn như đang van cầu sự tha thứ. Rồi nó đã bò như con thú đã bị mù, bò mãi, bò ra khỏi cửa nhà, cố gắng đứng lên, khập khểng chạy, rồi té, gượng đứng lê bước thấp cao, thấp thoáng biến vào màn đêm mưa gió. Bác đứng nhìn, tự nhiên những khổ đau, uất ức dâng lên, thoát ra bằng tiếng cười. Tiếng cười vang lên trong căn nhà hoang vắng. Ánh sáng cả căn nhà, căn nhà của bác, như chớp tắt theo. 
Thằng tướng cướp không trở lại. Chỉ còn bác một mình trong căn nhà. Căn nhà bác bị khoá cửa lại. 
Vài năm sau, phía trước nhà được mở cửa hàng bán thuốc tây. Cô bán hàng buổi chiều hàng ngày khoá cửa về nhà riêng. Có nhiều người khách đến mua hàng, tò mò: “Căn nhà rộng rãi, sao không có ai ở?”. Cô cúi đầu, trả lời nhẹ nhàng “Bà chủ cũ căn nhà bị đánh tư sản. Bà uất ức, treo cổ ngay trong nhà nên không ai dám ở”. 
Không, bác không chết. Dù thời gian qua, tóc bác nay đã bạc phơ như sương tuyết, da thịt bác như từ từ tan biến đi, lẫn vào không khí. Bác vẫn sống trên nền nhà cũ và những ngày 30 tháng tư bác vẫn nhớ lại cái ngày gọi là ngày “giải phóng”. 
*
Trở về hiện tại, những người trẻ sinh ra sau 30 tháng tư 1975 nghĩ gì về ngày ấy. Có lẽ muôn ngàn ý kiến. Có những ý kiến do tự cảm nhận, tự tìm hiểu, tự học hỏi. Có những ý kiến do sự giáo dục nhồi sọ ngay từ lúc còn nhỏ. Có ý kiến chủ quan, khách quan...

Một người trẻ sinh ra và lớn lên ở Mỹ... 
Ba má tôi vượt biên khoảng năm 1980 và được nước Mỹ cho định cư. Tôi không hiểu nhiều về chiến tranh Việt Nam, chỉ hiểu đại khái miền Bắc cộng sản được Liên Xô, Trung cộng hậu thuẩn, đưa quân qua đường mòn HCM tấn công quân đội chính quyền miền Nam được Mỹ, Úc, Nam Hàn... giúp đỡ. Tôi có xem nhiều hình về ngày 30/4 trên internet, nổi bật trên hết là hình những người dân chạy loạn từ Trung vào Nam. Họ được “giải phóng” nhưng lại bất chấp sinh mạng của mình chạy trốn sự “giải phóng” ấy. Tôi rưng rưng nước mắt. Tôi chỉ cho cô bạn gái người Mỹ. Cô ấy khóc “Tội nghiệp người miền Nam. Cũng là con người sao họ khổ quá!”. Sau 30 tháng tư, hàng triệu người bất chấp hiểm nguy, tiếp tục vượt biên. “Giải phóng” gì kỳ lạ quá, tôi không thể hiểu được? 
Một cô gái được nhồi sọ từ nhỏ, đang mong làm “cô dâu Trung quốc”, một mode đang dần thịnh hành... 
“Em yêu Bác và Đảng từ khi còn tấm bé. Em cũng yêu bác Mao. Nhờ bác Mao và Liên Xô nên Bác và Đảng mới có chiến thắng ngày 30 tháng tư. Trung quốc có đánh Việt nam năm 1979 nhưng mình có khi cũng hư lắm nên họ mới “thương cho roi cho vọt” thôi. Biển đảo người mình cứ đánh cá bừa bãi, hủy hoại môi trường thế nên Trung quốc nó chiếm để giữ gìn. Khi nào môi trường tốt họ trả cho VN ngay. Về chính trị, Trung quốc họ chả bao giờ chịu ngồi yên để VN thay đổi gây ảnh hưởng đến chế độ của họ. Đến đây em phải đi vì mắc hẹn với con bạn gặp các anh Trung quốc. Trai Trung quốc giàu có, khéo và chiều các em lắm. Chả bù các anh trai VN nghèo, không tiền bạc gì”. 
Một cô gái chỉ muốn yên thân học hành... 
“Em bắt đầu lên đại học. Cùng lứa tuổi, các em chỉ biết về ngày 30 tháng tư do đảng và đoàn nói cho biết. Ba má em cũng khuyên em phải nghe lời đảng, đừng đụng đến chính trị, nhạy cảm lắm, ảnh hưởng sự nghiệp sau này. Em sợ ba má em buồn, lỡ có gì ai lo cho ba má em, còn tương lai gia đình riêng của em sau này? Học ở Việt nam, ra trường muốn có việc làm phải có quan hệ, có phong thư, em cũng lo lắm. Em với nhiều đứa bạn rất mong ước đi học nước ngoài Mỹ, Anh, Canada, Úc... Học xong xin ở lại, bão lãnh gia đình...”. 
Một cô gái trẻ học trong trường, học ngoài xã hội... 
“Em ở tuổi hai mươi. Em đọc và tìm hiểu rất nhiều trên internet. 30 tháng tư 1975 là ngày thống nhất đất nước nhưng qua hơn 40 năm giữa người Việt còn rất nhiều chia rẽ, hận thù. Không thống nhất được lòng người với nhau thì thống nhất chỉ là cái vỏ bề ngoài, không mang lại sức mạnh của một quốc gia thống nhất thực sự, Trung quốc coi thường mình là chuyện đương nhiên. Như thế thà giữ như nam bắc Triều Tiên, hai miền có hai chế độ phát triển ngược nhau và Trung quốc có thái độ nể nang hơn so với VN”. 
Một bạn trẻ suy nghĩ nhiều về “thống nhất”... 
“Tôi nghe lãnh đạo cộng sản VN nói đến hoà hợp, hoà giải để thực sự thống nhất. Tôi nghĩ khó lắm khi nhiều người Việt sống ở nước ngoài, và nhiều người trong nước thích tư tưởng tự do, dân chủ. Người Việt trong nước thấy cùng là con người, sao người nước ngoài có nhân quyền, đất nước giàu có? Lãnh đạo Việt nam luôn bắt người dân phải phục tùng, ép buộc theo đường lối của họ, nhân quyền bị chà đạp... thì làm sao có hòa hợp. 
Một ông thủ tướng VN đã nói “Ngày 30 tháng tư triệu người vui, triệu người buồn”. Một câu nói bâng quơ không có giá trị thực tế gì cả. Tuy nhiên ông ta trong lúc bất chợt cũng thấy được một điều gì chứng tỏ ông ta có một ít nhân tính hơn các người lãnh đạo CS khác. 
***
30 tháng tư 1975 theo cộng sản là ngày giải phóng miền Nam, ngày thống nhất hai miền Nam Bắc. Không thể một người nghèo hơn, đi cướp giựt người giàu hơn rồi nói mình đi giải phóng cho họ. Kệch cỡm và trân tráo lắm. Thống nhất chỉ trên hình thức, lòng người sau bao năm vẫn chia rẽ, hận thù. Một bên giai cấp thống trị vẫn ôm lý thuyết Mác Lê, mục đích bảo vệ đảng, bảo vệ quyền lợi của mình. Một bên giai cấp bị trị đòi hỏi nhân quyền, công bằng trong xã hội. Người giai cấp bị trị chắc chắn phải đông hơn cái thiểu số giai cấp thống trị đang được hưởng đặc quyền, đặc lợi kia. Nhưng nhóm quần chúng đa số, ngoài lý do không vượt qua nỗi sợ hãi với bạo quyền. Một lý do cũng rất quan trọng là chưa có phối hợp gắn bó với nhau giữa các cá nhân trong giai cấp bị trị. Lech Walesa đã tạo sự kết dính những người cùng tư tưởng đấu tranh đã đưa đến sự thành công của Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan. Tương tự Mandela của cộng hòa Nam Phi, Aung San Suu Kyi của Miến Điện là những nhân tố kết hợp, tạo sức mạnh của sự đoàn kết đưa đấu tranh đến thành công. Khi chúng ta chưa đoàn kết để có tiếng nói chung, e rằng chúng ta sẽ tiếp tục ngậm ngùi khi ngày 30 tháng tư lại đến. 
29.04.2017


NS.TUẤN KHANH * HÂN HOAN TRONG SƯƠNG MÙ

Hân hoan trong sương mù

Ảnh của tuankhanh


Đại tiệc mở ra, đôi khi vì quá hân hoan mà người ta dễ quên đi những phần quan trọng đã có. Sự kiện Đồng Tâm, Mỹ Đức cũng vậy. Trên các trang báo và truyền hình, rất nhiều hình ảnh ghi lại lực lượng cảnh sát cơ động vui vẻ ra về sau những ngày bị nông dân bắt giữ, hoa chào mừng vị chủ tịch thành phố Hà Nội đến làng để thương thuyết... nhưng khó ai tìm thấy được một bức ảnh đúng thời gian của cụ Lê Đình Kình, 82 tuổi, từ lúc bị bắt giữ, cho đến khi vào bệnh viện, bị khởi tố, theo cáo trạng thị chúng của công an Hà Nội. Trong ngồn ngộn các thông tin của báo Nhà nước nói về về việc người dân Đồng Tâm hân hoan và biết ơn Đảng, Nhà nước khi được đoàn cán bộ về giải quyết sự việc, cũng như tâm nguyện thả hết những người đã tấn công vào làng bị bắt giữ, tôi lần mò tìm một hình ảnh của cụ Kình về ngày đáng nhớ này. Nhưng mọi thứ cứ mất hút, chỉ có vài thông tin mà ông chủ tịch Nguyễn Đức Chung đưa ra trước đó: cụ Kình phải vào bệnh viện để mổ vì bị các nhân viên an ninh làm cho chấn thương. Còn người nhà cụ Kình thì cho báo đài ngoại quốc biết rằng có khoảng 20 người canh giữ cụ trong tình trạng như vậy.
Tôi tự hỏi, không biết cụ Kình có nở nụ cười nào trong những ngày vui mà báo chí Nhà nước đưa tin về làng Hoành hay không. Cụ đang thế nào?
Báo chí Nhà nước lúc thì giống như một bầy trẻ con, thích ăn kẹo và thích vỗ tay, lúc thì cay nghiệt và độc ác với những cái nhìn cú vọ có chủ trương. Các bài viết, bình luận như cùng hẹn nhau co giật vô tri với các loại nhạc hiệu. Báo chí cách mạng vẫn thường hay lộng lẫy hai chiều: hoặc ngợi ca hết lời, hoặc đấu tố cay nghiệt đến vô nhân.
Lý ra thì cũng phải nên có một bài viết thăm hỏi và phỏng vấn cụ Kình về chuyện khủng hoảng tạm kết hôm nay, phải không? Bởi đơn giản không có cụ, thì giờ đây ruộng vườn của Đồng Tâm đã chằng chịt kẽm gai ngăn chận, dân làng Hoành cũng không còn bình yên trong cái nhìn quen thuộc công an địa phương: bất kỳ khác biệt nào cũng dễ dàng trở thành thù địch.
Trong một bức ảnh không có máu đổ, không có sự sắp đặt gượng gạo của truyền thông, tôi nhìn thấy Thượng tá Phạm Văn Trung, Trung đoàn phó Trung đoàn Cảnh sát cơ động vào làng đón người của mình. Anh chắp tay chào người dân với vẻ thành tâm đến xúc động. Bên cạnh là những người lính của anh, mà ai nấy đều có gương mặt thảnh thơi như vừa đi dự một trại hè. Tôi lại nhớ đến lời một người dân ở thôn Hoành trên radio, trong những ngày căng thẳng lịch sử ấy "dân không có ăn thì không sao, nhưng nhất định phải lo đủ suất ăn 30.000 đồng/ bữa cho mỗi người đang bị tạm giữ". Ôi, cực chẳng đã những người nông dân mới đứng dậy. Phải nhọc nhằn tâm can lắm thì những con người ít chữ ấy, luôn cắm mặt vào đất ấy, mới chọn cách thức phản kháng như cha ông mình từ ngàn năm trước.
Chưa thấy có bài báo nào phỏng vấn các nhân vật bị tạm giữ ở Đồng Tâm về những ngày họ mang giáp, cầm dùi cui hừng hực khí thế xông vào làng cho đến lúc thảnh thơi ra về, dĩ nhiên là với một nội dung phi tuyên truyền, để mọi người hiểu thêm về con người làng Hoành. Cũng không có bài báo nào phỏng vấn 15 người nông dân qua những ngày bị bắt, bị cưỡng bức ra khỏi làng của mình, mở đầu cho cuộc khủng hoảng. Có thể báo chí giờ đây quá trẻ con để có thể làm được những điều vừa sức như vậy, nhưng cũng có thể báo chí đã bị bóp nặn thành những đứa trẻ, chỉ thích ăn kẹo và hân hoan vui đùa trong cuộc sống mờ mờ sương mù.
Ông chủ tịch Chung đang trở thành ngôi sao sáng trong việc gỡ ngòi nổ ở Đồng Tâm. Nhưng ông Chung, rõ ràng, cũng chỉ là người may mắn nhận được sự ủng hộ và được gấp rút giao toàn quyền từ những nhân vật cấp cao, nhằm giải tỏa những vướng bận vỉa hè trước cánh cổng hội nghị trung ương 5, khóa 12 đang diễn ra đầy gây cấn cách điểm nóng chỉ có 30km. Ông Chung đã khéo léo làm tròn vai trò của mình nhưng ít có ai dám cam đoan là mọi thứ vẫn sẽ tốt đẹp trong thời gian tới. Nhất là khi trên mạng xã hội, trên các bài báo, vẫn còn những ngôn luận hậm hực và hườm sẳn cho một thái độ quay ngoắt về sau.
Tôi đọc thấy ngôn từ của nhà văn, nhân viên an ninh, những kẻ vô danh cực hữu… vẫn mắng nhiếc người nông dân. Từ ngôn ngữ đầy phân tích về luật đất đai cho đến lối mắng nhiếc hạ cấp nhất, các nòng súng dư luận chuẩn bị sẳn vẫn giương lên khắp mọi nơi. Họ gọi nông dân là tham, là quá đáng rồi đến đụ mẹ -cái lồn về hướng Đồng Tâm. Nhưng không ai trong đám người đó dám mở miệng đặt một câu hỏi giản đơn: vì sao đất dành cho chuyện quốc phòng lại giao cho một công ty bán điện thoại và lắp internet để làm ăn?
Trong một bài viết đầy vẻ hiểu biết trên facebook của một phụ nữ làm trong ngành an ninh, nói rằng nông dân Đồng Tâm đã tham lam muốn chiếm đất của nhà nước, tôi đọc được một lời bình luận đầy hớn hở của một chị người Bắc, rằng nên phổ biến thông tin này “để đồng bào miền Nam mở mắt”.  “Đồng bào miền Nam mở mắt” sẽ mãi là đề tài thú vị về ngày 30/4/1975 cho đến 42 năm sau, và chắc sẽ còn nhiều hơn, về sau nữa. Nhưng chuyện mở mắt, thì chắc là dân Đồng Tâm đã là những người tuyệt vời trong việc nhìn thấy điều cần phải làm, khi có bài học Thái Bình 1997, rồi 2007. Điều đáng thú vị cần phải nghiên cứu, là những nông dân này đã bảo vệ mình tốt đến mức quyết từ chối báo chí Nhà nước, hạn chế cung cấp thông tin cho cả phía nhận vai trò thương thuyết, và chỉ nhỏ giọt những gì cần nói cho truyền thông tự do trong và ngoài nước.
Chắc chắn trong chuyện “mở mắt”, không chỉ người dân Đồng Tâm, mà toàn thể người dân Việt Nam đều nhận ra rằng những biến cố hay oan khiên trên đất nước mình, trong thời chủ nghĩa cộng sản, đều có những bầy giòi bọ tham gia truyền thông dạo đầu hay tung hô cho những bữa tiệc tanh hôi. Thật dễ nhận dạng những giọng điệu như vậy, vốn sẳn sàng chà đạp con người và sự thật để chen chút liếm láp đuôi kẻ mạnh. Loại ký sinh chỉ thích tồn tại và hân hoan trong sương mù.
Cụ Kình chắc không muốn nhận mình là một ngôi sao hay là một anh hùng trong câu chuyện Đồng Tâm. Nhưng không có cụ, ắt hẳn đã không có một ánh sáng le lói nào dẫn đến đại cục hôm nay. Chắc cụ rồi cũng chỉ nhận mình là một người bình thường, một nông dân bình thường.
Quan nhất thời – dân vạn đại, ông bà xưa vẫn để lại lời khôn ngoan cho con cháu về sau như vậy. Nhưng giòi bọ bu bám cường quyền thì đời đời kiếp kiếp vẫn là giòi bọ dù luôn cố nhoi lên, giẫy đạp tranh chỗ của con người.

ĐINH YÊN THẢO * NHỮNG NGƯỜI SĂN ĐẠN

Những người săn đạn

Đinh Yên Thảo (Danlambao) - Ngày 28 Tháng Tư 1975. Ngược dòng với đoàn người thất thần trốn chạy cộng sản đổ về Sài Gòn, chiếc xe La Dalat chở Michel Laurent thuộc hãng thông tấn ảnh Pháp Gamma và Christian Hoche của tờ Le Figaro trực chỉ Quốc Lộ. Họ thuộc trong số vài ký giả phương Tây còn nán lại để tường trình về những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Chiếc xe dân sự lọt vào ổ phục kích của Việt Cộng tại Hố Nai và một loạt súng liên thanh dữ dội đã làm người phóng viên chiến trường tài ba và gan lì, từng đạt giải Pulitzer khi còn làm với AP, trở thành người ký giả phương Tây cuối cùng bị tử nạn tại Việt Nam. Không kể hàng triệu sinh mạng của các bên tham chiến cùng những thường dân vô tội, cuộc chiến Việt Nam đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm ký giả được xem là những tinh hoa, tài giỏi nhất mà các hãng thông tấn phương Tây gởi sang Việt Nam. Họ không được biết hay nhắc tới nhiều. Dù sự hy sinh của họ cũng xứng đáng một sự trân trọng để tưởng niệm. Đọc hồi ký "Mẹ Việt Nam ơi! Dân ta có tội tình gì" của ký giả Pierre Darcourt do cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa dịch, ông điểm lại khá nhiều ký giả tài ba đã từng thiệt mạng trên mảnh đất Việt Nam theo sau:
"Ngày 24 tháng 5, lúc 7 giờ sáng, 80 người ngoại quốc rời Miền Nam Việt Nam trên một chiếc phi cơ 4 máy, Illouchine 18 sơn xanh trắng của Liên Xô. Đó là những phóng viên nhiếp ảnh, những ký giả từ khắp nơi trên thế giới đã đến Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi thủ đô bị Bắc Việt chiếm cứ. Trong số nầy có gần 50 ký giả Pháp và một tướng lãnh Pháp đã về hưu bị trục xuất khỏi Việt Nam vì lý do “hai bàn tay của ông đã dính đầy máu của nhân dân Việt Nam”(!).
Trước khi được đi, các ký giả nầy đã bị quá nhiều phiền nhiễu về hành chánh mới được tờ chiếu khán xuất cảnh, sau đó phải nằm chờ đợi được ghi tên vào một chuyến bay kéo dài ngày này qua ngày khác… Trước khi lên phi cơ, tất cả đều phải qua một cuộc khám xét, một cuộc khám xét thật tỉ mỉ, thật lâu và rất là lạnh lùng. Các tay bộ đội nhờ một nữ tiếp viên hàng không làm thông dịch viên, đã bóc hết hành lý của họ. Có nhiều xấp thơ và phim ảnh bị tịch thu. Sau đó họ được đưa đến Vạn Tượng (Lào) và phải trả 120 đô la bằng tiền Mỹ hẳn hòi (gấp đôi giá bình thường) và được một chú “bộ đội” đội nón cối và các phi công Việt Nam đeo súng lục hộ tống.

Xuyên qua cửa kính, các ký giả nhìn Tân Sơn Nhứt lần cuối. Hình ảnh sau cùng mà họ cố mang theo từ Việt Nam là cảnh tượng của một phi trường bị tàn phá: nhà kho sập, phi cơ nằm phơi bụng, chiến xa bị cháy đen… Trong số những anh gan lì và đầy tình huynh đệ đi về Pháp chuyến nầy, vắng mặt một anh bạn rất thân: đó là anh Michel Laurent, bị một tràng liên thanh bắn hạ trong trận chiến ở Hố Nai.

Anh là một nhà báo cuối cùng chết ở Đông Dương. Chúng tôi vẫn còn hy vọng đến giây phút cuối cùng là anh sẽ còn sống để trở về. Nhưng bây giờ thì hết mong rồi. Chúng tôi không còn thấy bóng dáng mảnh khảnh, trẻ trung mãi của anh nữa, cũng như gương mặt thiên thần với mớ tóc lòa xòa và một điếu xì gà cắn chặt ở môi. Anh công tử có vẻ uể oải nhưng không lo lắng gì cả nầy thuộc nòi nhà nghề sáng giá. Có cả thảy 52 nhà báo đã chết ở Việt Nam từ năm 1945. 26 anh khác đã coi như mất tích ở Cam Bốt. Phần đông là các nhiếp ảnh viên, những tinh hoa trong nghề… Họ không tường thuật về chiến tranh, mà họ chuyển chiến trận thành hình ảnh, gay cấn, tàn bạo và lâm ly thống thiết. Những hình ảnh nầy các nhiếp ảnh viên thường thu nhặt trong tư thế đứng chụp những người sắp chết và họ thường chứng kiến được cử chỉ và cái nhìn lần cuối cùng của họ. Cho tới khi Thần Chết tức giận vì bị người ta thu hình quá gần, nên đã bắt họ chết luôn vì đã đến lượt của họ rồi… Và đùng một cái những người còn sống sót mới khám phá ra là luôn luôn những anh bị tử thương y như rằng là những người rất giỏi trong nghề. Người đầu tiên mà tôi thấy chết vào ngày 28 tháng chạp năm 1946 là một anh người Bỉ ốm yếu mà tôi quá xấu hổ vì không nhớ được tên, làm việc cho một Thông tấn xã Hoa Kỳ. Anh đến từ Nam Dương, một quốc gia chán chê vì chiến trận, nhưng những trận đánh trong đường phố tuy lẻ tẻ nhưng hung dữ đến dã man trong thành phố Hà Nội đã kích thích anh, như một cuộc đi săn kích thích con chó săn khỏe mạnh vậy. Anh đội một nón sắt quá rộng, đeo choàng chiếc máy ảnh Rolleiflex và một cây súng lục Webley to tướng ở ngang lưng. Anh ta rất là can đảm, can đảm hết nói! Anh ta chạy trên các mái nhà để đi tìm những anh chàng bắn sẻ. Một tay Việt Minh bắn tỉa phục kích đâu đó đã cho anh một phát vào giữa mặt và anh té lộn nhào rớt xuống đất từ trên cao 10 thước.
Còn nhiều người khác, rất nhiều người khác nữa như các anh Burrows, Huet, Shimimoto, Flynn, Arpin…, và cuối cùng là anh Michel Laurent, mình trúng đầy đạn tại một làng Công giáo di cư không đầy hai ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ. Từ anh ký giả nhỏ con người Bỉ đội nón sắt quá rộng bị bắn chết ở thủ đô Hà Nội đến anh Michel Laurent bị giết vì quá gan dạ tại gần một nhà thờ có treo cờ của Tòa Thánh Vatican, nơi mà các nhân dân tự vệ kháng cự đến viên đạn cuối cùng, coi như cuộc chiến ở Đông Dương đã qua rồi.

Các ký giả bị kẹt lại gần ba tuần lễ ở Sài Gòn, cựu thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, sau khi về đến Pháp đã viết lại và phổ biến tất cả những gì mà họ đã thấy và đã nghe. Bộ máy của chế độ Hà Nội đã được áp đặt thế nào. Cảnh khốn cùng của dân chúng Sài Gòn ra sao. Có những cô gái đã đề nghị trao hết gia tài sự nghiệp để chỉ được cưới và cùng đi ra ngoại quốc vối họ. Trẻ em thì được van xin cho làm con nuôi, dù là giả mạo. Lại còn dịch tự tử nữa. Rồi những tin đồn là có nhiều sự nổi dậy ở các tỉnh, hay thành lập “chiến khu” ở Miền Nam…
Khi tất cả các ký giả đã bị đưa đi hết rồi thì một cái lồng sắt chụp ngay xuống Miền Nam Việt Nam. Muốn có được tin tức, người ta không còn có cách nào khác hơn là phải nghe những bản tin chánh thức được loan đi sau khi bị kiểm duyệt cẩn thận. Phải đợi cho có người đi du lịch trong thời gian sắp tới. Rồi phối kiểm lại tin tức. Rồi phỏng vấn liên tục những người ngoại quốc, những linh mục hay một vài công chức Pháp khi họ hồi hương. Hay những người Hoa Kiều theo đường dây buôn lậu hay theo các tàu đánh cá đến được Thái Lan (họ phải trả trên 30 lượng vàng để được đưa đi). Từ từ, các tin tức đó giúp hé mở được bức màn tre đang bao chặt nước Việt Nam và nhờ vào những chứng cớ cùng những chi tiết sống, người ta mới có thể thiết lập lại được cả một mảng biến cố đã xảy ra trên đất nước này…”. (Hết trích)
Đoạn hồi ký của Pierre Darcourt không chỉ nhắc về Michel Laurent cùng những ký giả phương Tây đã nằm xuống vĩnh viễn khi đang làm nhiệm vụ tại Việt Nam, mà còn cho thấy thoáng qua, vai trò của truyền thông đã bị người cộng sản ngăn cản và bưng bít ra sao sau chiến tranh, một khi trục xuất hết các ký giả nước ngoài.
Trong 20 năm Mỹ can dự vào chiến tranh VN, hầu như tất cả những ký giả đến với Việt Nam là do tình nguyện, từ chính sự chọn lựa của mình, để rồi những hãng thông tấn nổi tiếng đã mất đi những ký giả xông xáo, tài ba và sống chết với nghề. Như ký giả Joe Galloway, người phóng viên chiến trường duy nhất theo chân và tường trinh trận đánh Ia Drang khốc liệt từng được dựng thành phim (We were soldiers), trong một lần trả lời phỏng vấn đã nói rằng, đó là cuộc chiến của thế hệ của họ và họ muốn chứng kiến, tường trình về nó. Họ muốn làm những người săn đạn. Săn những sự khốc liệt của chiến tranh, khói lửa. Như câu chuyện của ký giả Alexander D. Shimkin vậy.
Tốt nghiệp ngành lịch sử học, Alexander là một thanh niên hoạt động cho phong trào dân quyền và trở thành ký giả cho Newsweek, tường thuật về chiến tranh VN thay vì tiếp tục chương trình cao học do đại học Princeton cấp học bổng. Tháng 6 năm 1972, Alexander có mặt tại Trảng Bàng, nơi ký giả Nick Út chụp bức hình Phan Thị Kim Phúc bị bom napalm, thì đầu Tháng 7, Alexander lao vào vùng chiến sự An Lộc, nơi anh đã cứu một người lính VNCH bị thương ra khỏi vùng hỏa lực của Việt Cộng. Chỉ hơn 10 ngày sau, anh lại ra đến Quảng Trị, nơi đang diễn ra chiến sự ác liệt của quân lực VNCH đang chiếm lại cổ thành Quảng Trị. Quả lựu đạn của một tên Việt cộng đã chấm dứt cuộc đời của người ký giả 27 tuổi và thi thể anh tan biến vào cát bụi đâu đó tại vùng đất Quảng Trị xa xăm đối với gia đình anh. Trận tái chiếm cổ thành Quảng Trị còn cướp mất sinh mạng thêm ba ký giả khác, hai ký giả của đài truyền hình ABC và một ký giả UPI.
Vụ thiệt hại lớn nhất của truyền thông phương Tây phải kể đến vụ bốn ký giả bị tử nạn mất xác trong vùng núi đồi Hạ Lào, khi họ theo chân quân đội VNCH trong chiến dịch Lam Sơn vào năm 1971. Đó là những người mà ký giả Pierre Darcourt nhắc tên trong trích đoạn hồi ký bên trên. Larry Burrows, ký giả người Anh của Life Magazine, một trong những ký giả tường trình về chiến tranh VN lâu đời nhất và được xem là giỏi nhất, bắt đầu sang VN từ những năm 1962. Ông theo chân những người lính đến các trận đánh khét tiếng trong chiến sử, những tấm ảnh của ông chụp không chỉ là những tấm ảnh chiến trường riêng rẽ mà là những loạt ký sự ảnh có nội dung, chủ đề. Chiếc trực thăng chở ông cùng và Huet (AP), Kent Potter (UPI) và Keisaburo Shimamoto (Newsweek) cùng toán bảy sĩ quan, binh sĩ VNCH bị bắn hạ (trong số này cũng có một phóng viên quân đội người Việt mà chúng tôi không tìm ra tên), hơn 25 năm sau chiến tranh, người ta mới tìm ra được nơi máy bay này bị rơi, nhờ vào các mảnh máy bay và các phim 33 ly khai quật được. Di ảnh họ được trưng bày và tưởng niệm tại bảo tàng Newseum tại Washington DC. cùng với hàng ngàn phóng viên chiến trường đã “sinh nghề tử nghiệp” từ trước nay. 
Còn rất nhiều ký giả trẻ đã nằm xuống tại Việt Nam chẳng kể hết. Họ thách thức thần chết, cười ngạo với bom đạn. Để rồi, không phải cái chết của họ còn được nhớ đến muôn đời. Mà chính những tấm ảnh của họ là chứng nhân và được nhắc đến mãi mãi. Về những cuộc chiến thảm khốc của nhân loại.
29/4/2017

PHẠM ĐÌNH TRỌNG * 30-4

Ngày 30 Tháng Tư

Phạm Đình Trọng (Danlambao) - Từ mấy năm nay, cứ gần đến ngày 30 tháng tư tôi đều phải rời căn hộ dịu mát, thoáng đãng, từ đó phóng tầm mắt ôm được cả một khoảng rộng Sài Gòn bừng sáng những tòa tháp cao tầng như những tòa ánh sáng. Từ mấy năm nay, cứ đến gần ngày 30 tháng tư tôi lại phải rời bỏ nếp sinh hoạt ổn định hàng ngày rồi hấp tấp khăn gói lưu vong khỏi Sài Gòn. Từ nhiều năm nay cứ đến ngày 29, 30 tháng tư cả đám an ninh cộng sản lại đến bủa vây quanh nơi tôi ở. Tôi phải lưu vong mấy ngày đó để thoát khỏi sự giam hãm.
Những ngày cả Sài Gòn giăng cờ, kết hoa, rực rỡ đèn đuốc chào mừng ngày 30 tháng tư được những người cộng sản gọi là ngày giải phóng miền Nam thì an ninh cộng sản lại đến giam cầm tôi ngay giữa “Sài Gòn giải phóng”.
Vậy thực sự ngày 30 tháng tư, năm 1975 có phải là ngày nửa dải đất phía Nam của tổ quốc Việt Nam được giải phóng không?
Giải phóng đích thực, giải phóng có giá trị lớn lao, thiết thực nhất phải là giải phóng con người, giải phóng tư duy, giải phóng sự sáng tạo của con người và giải phóng sức phát triển của xã hội.
Ngày 30 tháng tư năm 1975 cả triệu người Việt Nam dù yêu nước cháy bỏng cũng phải bỏ nhà cửa, bỏ tài sản, bỏ cả mồ mả ông bà, bỏ nước ra đi trốn chạy những người nhân danh là người yêu nước nhưng chỉ biết có ý thức hệ cộng sản, trốn chạy những người mang chuyên chính vô sản sắt máu vay mượn từ nước ngoài về nô dịch cả dân tộc. Ngày 30 tháng tư năm 1975 mang đến mất mát uất hận lớn như vậy cho cả triệu người Việt Nam làm sao có thể gọi là ngày giải phóng!
Với biến cố 30 tháng tư năm 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam trở thành người tù trong những trại tập trung cải tạo, hàng triệu người thân của họ phải bỏ nhà cửa êm ấm, bỏ cuộc sống đầy đủ tiện nghi, lếch thếch đi lưu đày nơi đầu rừng cuối bãi hoang vu, khắc nghiệt với cái tên trá hình là đi xây dựng khu kinh tế mới.
Với biến cố 30 tháng tư năm 1975, nền công nghiệp non trẻ nhưng hiện đại, đầy sức sống và đang phát triển mạnh mẽ của miền Nam bị đánh sập. Những người chủ tài năng đã dựng nên cơ nghiệp cho gia đình, tạo ra nền công nghiệp tươi sáng cho đất nước phải giao nhà máy cho nhà nước cộng sản, giao tài sản mồ hôi nước mắt cho những cán bộ vô sản không có kiến thức kinh tế, không biết quản lí, điều hành sản xuất. Từ đó nhà máy hoạt động không hiệu quả, kinh doanh thua lỗ, sản xuất đình đốn, công nhân thất nghiệp. Sự dốt nát và vô trách nhiệm của những ông chủ vô sản đã tàn phá, xóa sổ cả một nền công nghiệp hiện đại đầy triển vọng rực rỡ của miền Nam.
Từ biến cố 30 tháng tư năm 1975, người kinh doanh lớn không được hoạt động. Chỉ còn những người buôn bán cò con, mua đầu chợ bán cuối chợ. Không còn kinh tế thị trường, chỉ còn nền kinh tế tự cấp tự túc từ thời mông muội xa xưa. Nghề thủ công và nghề làm ruộng cần sự cần cù, chịu thương chịu khó và sự sáng tạo cùng kinh nghiệm cá nhân thì hai nghề này phải vào hợp tác xã, chịu sự quản lí của cán bộ cộng sản quan liêu, tham nhũng và thành quả lao động bị mang chia đều, bình quân, làm cho người sản xuất không còn gắn bó với công việc, không còn cần đến sự cần cù, sáng tạo nữa. Miền Nam từ vựa lúa xuất khẩu gạo nay chính người làm ra hạt gạo cũng không có đủ gạo ăn. Người làm ra hạt gạo còn đói thì cả nước đương nhiên phải đói.
Từ biến cố 30 tháng tư năm 1975, con người miền Nam bị quản lí theo chế độ nô dịch, nền sản xuất miền Nam bị tàn phá và kìm hãm thì không thể coi ngày 30 tháng tư là ngày giải phóng miền Nam.
Ngày 30 tháng tư hàng năm, tôi cùng hàng ngàn người Việt Nam nói tiếng nói trung thực đòi tự do dân chủ, đòi những giá trị làm người đã bị bộ máy công cụ bạo lực nhà nước cộng sản Việt Nam đến bủa vây, giam cầm tại nhà thì ngày 30 tháng tư càng không thể là ngày giải phóng.
Ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối ư? Đất nước thống nhất trước hết phải thống nhất trong lòng người. Từ 30 tháng tư năm 1975, người Việt Nam bị chia rẽ đau đớn và sâu sắc nhất chưa từng có trong lịch sử hiển hách bốn ngàn năm dựng nước của dân tộc Việt Nam. 
Ngay cả thời Pháp đô hộ Việt Nam với chính sách chia để trị, Pháp chia đất nước Việt Nam thành ba kì với ba chế độ chính trị khác nhau thì người Việt Nam ở Bắc Kì và người Việt Nam ở Nam kì vẫn thương yêu đùm bọc nhau trong tình cảm đồng bào ruột thịt. Câu ca dao thương yêu của ông bà từ ngàn xưa để lại vẫn được cả người Bắc Kì lẫn người Nam Kì mang ra dạy bảo con cháu: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng. 
Từ khi đảng cộng sản Việt Nam ra đời, văn hóa yêu thương của ông bà để lại đã bị thay thế bằng văn hóa hận thù. Dân tộc Việt Nam yêu thương bị phân chia thành giai cấp đối kháng, phân chia thành trận tuyến ta - địch. Người dân bị đẩy vào cuộc đấu tranh giai cấp giả tạo mà đẫm máu và triền miên. Người dân nói tiếng nói yêu nước thương nòi mà động chạm đến tội của đảng cộng sản làm mất đất đai tổ tiên, động chạm đến tội của đảng cộng sản tước đoạt những giá trị làm người của người dân liền bị đảng cộng sản cầm quyền đẩy sang thế lực thù địch. 
Pháp đô hộ chia nước ta thành ba kì chỉ là vạch ranh giới trong không gian, chia địa lí hành chính trên giấy tờ. Đảng cộng sản chia dân tộc Việt Nam thành giai cấp đối kháng là chia rẽ trong lòng dân tộc, chia rẽ, li tán trong lòng người. Đặc biệt từ 30 tháng tư năm 1975 sự chia rẽ này càng độc ác, man rợ khi chuyên chính vô sản, hận thù giai cấp đã ào ạt, quyết liệt tước đoạt tự do, tước đoạt mạng sống của hàng triệu người dân miền Nam ở tầng lớp tinh hoa, những trí thức, những nhà chính trị, những quan chức nhà nước và sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Từ 30 tháng tư năm 1975, chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp đã làm cho người Việt hận thù người Việt sâu sắc, hàng triệu người Việt yêu nước thương nòi bị đẩy sang thế lực thù địch và hàng triệu người Việt yêu nước phải bỏ nước ra đi đã coi ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày quốc hận thì làm sao có thể coi ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày thống nhất lòng người.
Chia rẽ, li tán làm cho dân tộc Việt Nam suy yếu. Kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam là nhà cầm quyền bành trướng Đại Hán liền nhân cơ hội cướp hàng ngàn kilomet vuông đất biên cương của Việt Nam, cướp cả quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thì không thể coi ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối như sự khoa trương, lấp liếm của bộ máy tuyên truyền nhà nước cổng sản Việt Nam.
Ngày 30 tháng tư hàng năm những người cộng sản Việt Nam vui mừng vì ngày đó năm 1975 họ đã đánh thắng cả dân tộc Việt Nam, đã nô dịch được cả dân tộc Việt Nam, họ đã mang hận thù giai cấp đánh tan tác, li tán cả dân tộc Việt Nam. Còn những người Việt Nam chân chính phải nhận lấy nỗi buồn lịch sử, phải nhận lấy trách nhiệm lịch sử: Đấu tranh đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi nô dịch cộng sản và giành lại những mảnh đất thiêng liêng của tổ tiên người Việt đã bị mất mát, sang nhượng cho bành trướng Đại Hán dưới thời cộng sản. 
29.04.2017 

NGUYỄN THỊ TỪ HUY PHỎNG VẤN VŨ THƯ HIÊN (3)

Phỏng vấn Vũ Thư Hiên (phần 3)


Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH):
- Như vậy trong việc bổ nhiệm cán bộ sau năm 1946 ông Hồ không thực sự có quyền ?
Vũ Thư Hiên:
- Ông Hồ Chí Minh không còn bao nhiêu quyền lực như năm 1946, bắt đầu sớm hơn, nó ít dần từ năm 1947 kia, khi chính phủ rời Hà Nội lên Việt Bắc, theo cha tôi. Chủ tịch phủ thời kháng chiến đóng ở Thác Dẫng huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) hầu như rất ít công việc. Tôi có thời gian ở đấy, khoảng độ nửa năm. Tôi và anh Phạm Sĩ Liêm (sau làm phó chủ tịch Hà Nội) cùng làm việc ở đó như một thứ nhân viên văn phòng, làm cả việc chép sách kinh điển mác-xít, cả việc chạy công văn khi hai cậu liên lạc tên Bính và Phoóng, người Tầy, lên cơn sốt rét. Quan sát công việc của Chủ tịch phủ lúc bấy giờ tôi thấy nó giống một cái cơ quan hành chính rỗi việc. Các sắc lệnh do bên đảng quyết, các cán bộ chủ tịch phủ soạn văn bản, ông Hồ Chí Minh ký. Phủ chủ tịch không phải, không hề giống cơ quan chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp. Nói nó là đại bản doanh của chính phủ kháng chiến như người ta miêu tả là nói quá. Những quyết định quan trọng cho cuộc kháng chiến là ở những cuộc họp, chúng diễn ra không phải ở một nơi nhất định, chắc chắn không ở thác Dẫng. Chủ tịch phủ không phải là nơi điều khiển công việc điều hành đất nước. Tất cả các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến đóng trong một khu an toàn (gọi tắt là ATK) , có một trung đoàn bảo vệ, lấy bí danh là tiểu đội Thanh Sơn. Có thể nói sự xa cách về địa lý giữa các cơ quan cũng làm cho ông Hồ dần mất quyền quyết định trong mọi việc. Nơi ông Hồ ở là Núi Hồng cách thác Dẫng không xa. Ông thường chỉ ra thác Dẫng khi tiếp khách. Mọi cơ quan đều mang bí danh: Chủ tịch phủ là ban Kiểm tra 12, Bộ nội vụ là Tiểu đội 1. Bộ Thông tin Tuyên truyền là Ban canh nông xã Công bằng. Nha công an Việt Nam là Ông Cả Nhã hiệu Việt Yên. Các cơ quan đều ở cách nhau khá xa, gần nhất cũng năm bảy cây số đường rừng. Liên lạc giữa các cơ quan đều dùng người chạy công văn, không có điện thoại dây hoặc phương tiện khác. Ngay giữa chủ tịch phủ và nơi ông Hồ ở cũng liên lạc bằng công văn chạy bộ. Lúc bấy giờ Hồ Chí Minh không còn nhiều người ở bên cạnh như khi ở Hà Nội. Trong tình hình ấy vai trò của ông Trường Chinh khác trước rất nhiều. Vì sao? Vì tất cả các tỉnh uỷ, tức là hệ thống đảng, là do Trường Chinh nắm, mà nguyên tắc đảng lãnh đạo thì cả hệ thống hành chính đều tùy thuộc vào nó (đảng). Sự chỉ huy này không nằm ở chủ tịch phủ. Một thí dụ: Trung Quốc nhiều lần nhắc nhở, mà nhắc nhở ông Trường Chinh, chứ cũng không cần nhắc nhở ông Hồ Chí Minh, rằng để một người do đế quốc đào tạo làm Bộ trưởng Bộ công an là không được. Bên Trung Quốc không làm như thế. Ông Hồ có hỏi cha tôi nghĩ sao về việc thay ông Lê Giản bằng Trần Quốc Hoàn. Cha tôi trả lời : “Anh Hoàn ở tù cùng với tôi ở Sơn La. Người này không có học. Bộ này cần người có học”. Chuyện Trần Quốc Hoàn là người thế nào tôi có viết trong hồi ký “Đêm Giữa Ban Ngày”. Vì ăn cắp chữ chì có hàm lượng antimoine cao của nhà in IDEO để bán cho các lò đúc gang, Trần Quốc Hoàn bị bắt. Trong tù, Hoàn được mấy ông cộng sản thương tình khuyên là nên khai lấy chữ chì cho đoàn thể để in truyền đơn, thì sẽ được xem là tù chính trị, sẽ không bị đánh đập như tù hình sự. Thế là Trần Quốc Hoàn trở thành tù chính trị. Lúc đó Lê Đức Thọ cũng ở Sơn La. Lê Đức Thọ lấy em vợ của ông Đặng Châu Tuệ, một cán bộ cách mạng lão thành, bà này có một cửa hàng sách ở Nam Định, hằng tháng gửi cho chồng 5 piastres (năm đồng bạc Đông Dương), trong khi giá gạo chưa tới 2 piastres một tạ. Lê Đức Thọ chỉ cần thuê Trần Quốc Hoàn chừng 5 hào (50 centimes) là đủ để Trần Quốc Hoàn vui vẻ phục dịch Thọ mọi việc hàng ngày. Sau này người hầu mẫn cán được Lê Đức Thọ nhớ đến, đưa lên làm Bộ trưởng Bộ công an.
NTTH:
- Nhưng nếu nói là Hồ Chí Minh không có thực quyền thì công lao của ông Hồ đối với hai cuộc kháng chiến nằm ở đâu ?
VũThư Hiên:
- Nằm ở hình ảnh ông ấy, được ngành tuyên truyền dày công dựng nên. Ông được thánh hoá trong sự sùng bái, cứ như thể ông là người lãnh đạo trong mọi việc. Trong thực tế, công việc chỉ huy (tôi không muốn dùng chữ lãnh đạo với ý nghĩa người có được sự đồng thuận của nhân dân coi là người chỉ đường cho mình) nằm trong tay Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp, (về danh nghĩa thì có cả Phạm Văn Đồng, nhưng ông này chẳng quyết định việc gì), tiếp đến là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ. Căn cứ vào một bằng chứng duy nhất được nhiều người biết thì đến năm 1964 ông Hồ mới thực sự bị loại khỏi hệ thống quyền lực. Bằng chứng ấy là:trong một cuộc họp với cán bộ tuyên giáo ở Hưng Yên vào năm này, Tố Hữu đã nói: “Ông Cụ lẫn cẫn rồi. Bây giờ mọi việc do anh Ba và chúng tôi đảm nhiệm”. Mà Tố Hữu, uỷ viên Ban Bí thư trung ương đảng, có thể coi như người phát ngôn chính thức của ban lãnh đạo đảng.
NTTH:
-Vấn đề là tại sao bộ máy quyền lực phải tuyên truyền cho ông Hồ ? Tại sao trong kháng chiến chống Pháp ông Trường Chinh không làm một chiến dịch tuyên truyền hình ảnh của mình ?
Vũ Thư Hiên:
- Trường Chinh có muốn thế cũng không được. Trong đảng lúc ấy còn rất nhiều người tính về thâm niên cách mạng còn hơn Trường Chinh. Họ không dễ tán đồng một sự sùng bái như thế. Vào giai đoạn năm 45-46 ông Hồ đã là một ngôi sao sáng rồi, sáng đến mức không thể dập tắt được, để có thể thay thế bằng một ngôi sao khác. Ông Hồ được tuyên truyền rộng rãi như một người suốt đời tận tuỵ với dân tộc, không ham hố quyền lực cũng như danh vọng. Trường Chinh không thể nào sánh bằng. Người ta chỉ có thể tuyên truyền cho vai trò Trường Chinh bằng cách phát hành lẫn vào chân dung các lãnh tụ cộng sản quốc tế: Marx, Engels, Lenin, Stalin, với Hồ Chí Minh và Trường Chinh được treo ở vị trí thấp hơn. Những chân dung màu đẹp đẽ được in ở bên Tàu, bằng giấy tốt, được phát không cho dân chúng, được trang trọng treo ở các nhà bên trên cái gọi là ban thờ tổ quốc. Tôi cho rằng trong một bối cảnh như thế ông Hồ cũng chẳng cần đến quyền lực, nó chẳng để làm gì, một khi ông đã được đàn em bê lên bệ thờ, được mê mẩn trong khói hương với những bản tụng ca không lúc nào tắt tiếng ở bên dưới.
NTTH:
- Một câu hỏi ngoài lề: trong sinh hoạt, ông Hồ Chí Minh là người thế nào?
Vũ Thư Hiên:
Theo tôi biết, mà biết chắc, về chuyện ăn uống, ông là người rất giản dị, có thể dùng chữ “đạm bạc”. Trong kháng chiến chống Pháp, mọi thứ đều thiếu. Mọi người chiều ông, rất quan tâm bữa ăn cho ông, ông muốn ăn gì chẳng được, nhưng tôi biết, ông không hề đòi hỏi. Bữa ăn của ông thường chỉ có rau dưa, vài khúc cá kho mặn (người Nghệ mà). Người ta chiều ông đến nỗi khi nghe ông nói thèm cà Nghệ, thế là cà Nghệ được chuyển từ Nghệ An, qua bao nhiêu tỉnh, qua cả vùng địch chiếm, để mang tới Việt Bắc quả cà còn tươi nguyên. Đó là lòng dân, là chuyện có thật, chính tôi được ăn ké món cà muối xổi. Trong ông Hồ, theo tôi thấy, bằng mắt mình, có một anh nông dân thâm căn cố đế. Tôi nhớ những lần ông ra thác Dẫng, anh Phạm Sĩ Liêm khoe bí đỏ đậu nhiều lắm, thế là ông tức tốc ra vườn cùng anh Liêm kiếm cái lót dưới quả bí non để nó không bị thối, còn tôi thì có thể lợi dụng thời gian đó ung dung xoáy của ông vài điếu thuốc lá cho hai đứa. Phải rất nông dân thật thà mới nói thế này với ông bà Trần Duy Hưng: “Cô chú đông các cháu, hằng tháng cho các cháu lên ăn với tôi một vài bữa".  Lời kể của ông Trần Duy Nghĩa, con bác sĩ Trần Duy Hưng, cho tôi thấy thêm một lần chất nông dân của ông, khi đứa trẻ Trần Duy Nghĩa vô ý làm vãi vài hạt cơm trong bữa ăn với ông Hồ. “Cháu phải biết: cái này là của ngọc thực, nông dân phải làm lụng một nắng hai sương mới ra được hạt gạo, cháu nhặt lên mà ăn nhá!” – ông nhẹ nhàng bảo. Đức tính tiết kiệm của ông được nói đến nhiều, được ca ngợi nhiều, nó cũng là sự thật. Bên cạnh sự thật ấy có một sự thật khác. Ông Hồ không thể bỏ thói quen nghiện thuốc lá ngoại. Thuốc lá ngoại thời kháng chiến rất đắt, phải mua ở các chợ giáp ranh giữa vùng giải phóng và vùng tạm chiếm, tiền mua vài bao thuốc có thể nuôi sống một gia đình nông dân đông con một tháng. Ông nghiện thuốc lá Mỹ: Craven A, Phillips Morris, State Express 555, đôi khi là Camel, không bao giờ ông hút thuốc lá Pháp như Bastos, Melia, Cotab. Tôi không biết nếu người ta không chiều ông, lo thuốc lá Mỹ cho ông hút thì tình hình sẽ ra sao? Ông có hút thuốc sừng bò như bộ đội không? Người ta đã chiều, và tôi nghĩ chiều thế cũng phải thôi, ông dù sao cũng là chủ tịch một nước, mà ông không có đòi hỏi gì hơn. Tôi có đọc một hồi ký buồn cười khi thấy tác giả viết rằng người ta dùng một đại dội biệt động áp tải cả tạ thuốc lá từ Hà Nội ra cho ông Hồ hút. Cứ như thể ông ấy hút mỗi ngày vài tút, và thuốc lá dự trữ không bao giờ bị mốc. Còn chuyện khi về Hà Nội ông có đầu bếp riêng, ông thích ăn ngon, với những món ăn khó kiếm như gà Quảng Châu vv…, tôi không được biết, thời kỳ này tôi không còn có dịp gặp ông, được ăn cùng ông để biết bữa ăn của ông thế nào, nhưng tôi tin những bài viết ấy là thực. Cái gọi là tiêu chuẩn cho “lãnh tụ”. nó còn hơn suất “đặc táo” trong kháng chiến rất nhiều. Các ông “lãnh tụ” tự cho mình có quyền được hưởng những thứ mà dân thường không thể hình dung, là chuyện bình thường. Có hẳn một “Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương” lo toan đủ thứ cho các vị được sống sung sướng, sống hạnh phúc cơ mà. Cái gì ta không biết, ta có thể tưởng tượng.
 Có nhiều người cho rằng trong việc chuyển đổi thể chế từ độc tài cộng sản sang dân chủ phải bắt đầu từ việc giải thiêng hình tượng ông Hồ Chí Minh. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi cho rằng những cuộc đấu tranh nhằm vào những sai trái của thể chế hiện tại, đấu tranh từng điểm một, tiến lên từng bước một, đưa đấu tranh từ ngoài vào trong, khuyến khích đấu tranh từ trong ra ngoài, mới là cái quan trọng sẽ dẫn tới sự chuyển đổi mong muốn.
NTTH:
- Xin cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn này.

NS.TUẤN KHANH * GẢI DƯ LUẬN

Gãi dư luận

Ảnh của tuankhanh

Thông tin ông Đinh La Thăng đột ngột bị đề nghị kỷ luật và có thể bị mất chức bí thư Sài Gòn sau hội nghị trung ương 5, khóa 12 khiến không ít người quan tâm. Vì bởi, ông Thăng là một nhân vật rất ồn ào. Khi ông về nhậm chức tại Sài Gòn, rất nhiều trò trình diễn để lấy lòng người dân Sài Gòn đã diễn ra, bao gồm tổ chức hàng loạt tờ báo, truyền hình đăng nhanh các lời tuyên bố, liên tục hình ảnh hoạt động của ông… thậm chí còn có cả báo lên tiếng thề nguyện sẽ đồng hành cùng ông Thăng trong cuộc cầm quyền ở thành phố.
Nhớ lại những ngày như vậy, mọi thứ đầy rạo rực khởi đầu và cũng đầy bẽ bàng về sau. Tương tự như ông Đoàn Ngọc Hải khi thực hiện cuộc đập phá vỉa hè có đầy đủ bộ sậu đi theo ghi hình, quay video, ghi lại từng cuộc đối thoại như người đang dẫn đầu cho một cuộc cách mạng mới, thì ông Thăng cũng không khác gì với chuyện tổ chức chụp hình dọn cây, nói về Nobel y khoa Việt Nam và Hòn ngọc Viễn Đông.
Bài bản thì chỉ có một, hết sức quen thuộc. Nhưng phải nhìn nhận rằng những cách thức ấy đã day động không biết bao nhiêu tấm lòng con người Sài Gòn đang khao khát muốn nhìn thấy thành phố của mình, đời sống của mình được đổi thay. Chưa bao giờ trên các diễn đàn, người ta nhìn thấy nhiều như vậy các lời ca ngợi, đặt để niềm tin… Đám đông ủng hộ nhanh chóng trở thành một lực lượng quần chúng hết sức rầm rộ. Thậm chí, trên các trang mạng, những ai đặt nghi vấn về sau thường trở thành mục tiêu bị công kích, chửi rủa của những người ủng hộ.
Chỗ ngứa của đám đông đang khao khát trông ngóng cái mới, mệt mỏi chờ đợi những điều tích cực đã được phương thức truyền thông như vậy gãi đúng chổ. Một loại gãi dư luận.
Khi ông Thăng công bố số điện thoại để mọi người gọi vào góp ý, hiến kế. Rồi sau đó có cả email thì không ít người đã hồi hộp gọi, nhắn, gửi… Chưa có số thống kê nào cho thấy bao nhiêu người đã tìm đến thành công, và bao nhiêu vẫn mỏi mòn chờ đợi. Khi có tin ông Thăng bị đề nghị kỷ luật và dự báo sẽ ra đi khỏi vị trí, đã có người thú thật là từng tin những lời kêu gọi đó đến mức đã viết thư hiến kế, mà mọi thứ không hồi báo. Một cảm giác thật khó tả khi tôi đọc được những điều này, pha trộn sự cảm thông, rồi cả buồn chán lẫn đau lòng.
“Tôi nghĩ rằng việc làm bộ có dân chủ, đôi khi còn hiểm ác hơn cả một chế độ độc tài trắng trợn”, bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ tinh thần của người dân Miến Điện từng nói như vậy. (Sometimes I think that a parody of democracy could be more dangerous than a blatant dictatorship)
Không phải đây là lần đầu. Mà từ lâu, cả nước vẫn luôn bị các phong trào gây ngứa trên dư luận, ở mọi các phương diện văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội… rồi thỉnh thoảng vẫn có những đợt gãi dư luận như vậy. Có người tự hài lòng vì qua cơn ngứa, nhưng cũng có người sớm giật mình nhận ra mình tự cào cấu đến tóe máu từ các phong trào ấy. Cuộc sống trở nên điên cuồng với ngứa và gãi.
Trong câu chuyện của ông Thăng, các tờ báo từng tung hô ông ta, giờ đây chính là những tờ báo đăng sớm nhất các tin tức về kỷ luật, bao gồm phân tích về những sai phạm và thất thoát ngàn tỉ từ thời ông ta làm việc ở Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN). Mặc dù chính các tờ báo này đã từng phớt lờ các thông tin đưa được ra trên trang facebook của Osin Huy Đức, với tính dự báo. Các báo lại tiếp tục gãi dư luận, nhưng lần này trở mặt, chọn cách gãi vào cơn ngứa của dân chúng trước nạn tham nhũng của các quan .
Khi còn là Bộ trưởng Giáo dục, ông Nguyễn Thiện Nhân từng làm cả nước phát cuồng vì gãi đúng chỗ, khiến dư luận rầm rộ về một nền đại học, thi cử, bằng cấp… đầy tươi sáng. Nhưng rồi khi đại dịch đi qua, không ít người nhận ra đó chỉ là những trầy xướt trên đời mình, dở khóc dở cười.
Ông Nguyễn Tấn Dũng, khi còn là thủ tướng, cũng đã từng một người có tài gãi dư luận đến tuyệt vời khi khôn khéo đưa ra những câu nói như “tình hữu nghị viễn vông”, cũng như là người đầu tiên khi nhắc về lịch sử đã chính thức gọi chế độ miền Nam cũ bằng một cái tên đàng hoàng là Việt Nam Cộng Hòa. Có không ít người tin vào một tương lai hòa hợp, hòa giải từ một minh quân vừa xuất hiện. Nhưng cũng ít ai để ý rằng ông Dũng chính là người đổi tên Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa thành nghĩa trang Bình An, mà mục đích là nhằm tiện lợi và hợp thức hóa việc kiểm soát, lấn đất cũng như có thể giải tỏa trong tương lai mà không bị mắc kẹt với lịch sử.
Trong sự kiện 5 bài hát bị cấm cũng vậy. Dư luận ồn ào và ngứa ngáy suốt trong một thời gian dài. Cuối cùng khi thấy các quan chức cấp dưới của mình hoàn toàn đuối lý và lộ sự ngu dốt, các quan trên Bộ lập tức gãi dư luận bằng cách trả sự việc lại đời sống bình thường của nó, cũng như đẩy các đợt gãi đến mức không ít người thỏa thuê bằng việc cho đặt vấn đề rằng những người đưa ra lệnh cấm 5 bài hát liệu có khả năng làm việc hay không?
Gãi dư luận vẫn là phương thức của một nền truyền thông bị kiểm soát theo chỉ đạo và kiểm duyệt. Sự kiện khởi nghĩa ở Đồng Tâm cho thấy người nông dân cũng học được bài học rất lớn khi quyết từ chối đưa tin cho báo chí Nhà nước – tức có gây ngứa cũng không cho gãi, vì có cần gãi dư luận thì cũng phải chọn được mặt, gửi được đúng người.
Chỉ khi nào người dân nhận ra đất nước mình đang tràn ngập những cơn ngứa và gãi dư luận có chủ ý, nhằm điều khiển và mê muội tinh thần con người, mà đích đến mơ hồ và thiếu sự thật, thì lúc đó công dân mới không còn ở tư thế là những bệnh nhân.
Và nếu đất nước cứ bị vây hãm bởi những cơn ngứa, và chỉ được gãi bằng dư luận như một cách đối phó, và thực chất không có, thì tương lai phía trước chỉ toàn là những ổ bệnh vậy.

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

Saturday, April 29, 2017


SƠN TRUNG * NHỮNG VĂN THI SĨ VIỆT NAM KIỆT XUẤT TỪ THẾ KỶ XX





NHỮNG VĂN THI SĨ VIỆT NAM KIỆT XUẤT Ở THẾ KỶ XX 

SƠN TRUNG 


A.THI CA TIÊN TRI VẬN NƯỚC

1.TỨ THÁNH (Đầu thế kỷ XX)

Tiền nhân ta đã có cái nhìn xuyên suốt thế kỷ của thần thánh. Rõ rệt nhất là Tứ Thánh, một cậu bé 9 tuổi ở vùng Hòa Hảo vào đầu thế kỷ XX đã biết nói thơ về tương lai Việt Nam.

425. Thế gian chớ khá cỡi trâu
.Hai sừng nó nhọn nó đâu để mình.
Thương dân khuyên nhủ hết tình.
Mượn xác chín tuổi một mình ra thơ.


Người Việt Nam ta tin cậu bé đã được thánh thần nhập xác để cảnh báo cho nhân dân Việt Nam biết tai họa tương lai. Tứ Thánh cũng như Sư Vãi Bán Khoai và Nguyễn Văn Thới là bậc tiên tri của Bửu Sơn Kỳ Hương mà những lời truyền phán đã được xác nhận là đúng sau khi Việt Nam đã trải nghiệm với bọn "thằng ngốc làm vua"!(Sấm Trạng Trình của Bửu Sơn Kỳ Hương)

Ở đầu thế kỷ XX, Tứ Thánh đã biết cộng sản nổi lên
25. Chó thấy trời mọc phải tru.
Thảm thương chú cộng (3) công phu đợi chờ


Cộng sản Việt Nam lãnh nhiệm vụ một đội quân Lê dương , một lũ nô lệ cho Nga, Hoa (như Lê Duẩn đã thú nhận) gây chiến tranh Đông dương để mở đường cho Trung Cộng Nam tiến:

Phiên-bang, đảng Cộng đôi đàng,
Chiến tranh giành giựt xóm làng thác oan.

Tứ Thánh nói rõ tội phạm là một kẻ xưng danh "ái quốc"và giả dạng nhà khổ tu:

Tay chuông tay mỏ tu trì.
Tránh mưu ái- quốc tránh vì kế sâu.


-Kiến cơ nhi tác lập thân. 
Khuyên trong anh chị thôn lân xem chừng
.Phật rau xuống thế làm quan.
Súng đồng gươm giáo tưng bừng bồn phang.
355.Phật mà xuống thế làm quan.
Hại làng hại xóm dân gian khó nghèo.



Việt Cộng chiếm toàn thể Việt Nam, thay đổi, đảo lộn mọi sự . Đó là lúc Châu Đốc đổi thành An Giang:

Đổi chồng, đổi vợ, đổi con.
Đổi sông, đổi núi, đổi hòn Hà-Tiên.
Đổi Châu-Đốc, đổi Tịnh-Biên.
190. Thất- sơn lại đổi Hoa liên Nhà-Bàn.



Việt Cộng vỗ ngực xưng anh hùng nhưng với Tứ Thánh, Việt Cộng đã nhận lãnh chung cuộc thất bại vì mắc mưu người:

Thương công chú Cộng chan dầm,
Vào sanh ra tử lại lầm kế ai.


Sau loạn ly  là đến thời thịnh trị:

-Phật ra đời tại Thất sơn
-An Giang đổi lại Châu Đốc

Ngày sau có một không hai
450.Thất sơn duy nhất Như-Lai lập đời


455.An-giang sao (sau) lại đổi dời.
Đổi lên Châu-Đốc vậy thời mới yên.


2. NGUYỄN VĂN THỚI (1866-1927)


Ông Nguyễn-văn-Thới (tục gọi là ông Ba Thới) sanh năm Bính-dần (1866), đời vua Tự-Đức thứ 19. Quê-quán ở làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec. Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba bỗng nhiên phát đạo tâm, ông từ-giã gia-đình rồi thẳng lên vùng núi Sam, vô trại ruộng Thới-Sơn (cạnh Thất-Sơn) để tầm sư học đạo (a). Đâu đâu ông cũng nghe người đời ca tụng đạo-đức cao-siêu của ông Hai Trần-văn-Nhu. Ông bèn trở xuống Láng-linh để tìm cho tận mặt, và sau khi biết rõ được giáo lý, ông xin quy-y với ông Hai. Trở về nhà ăn Tết xong, mùa xuân năm Đinh-Mùi (1907), ông Ba dời cả gia-đình về Láng cất nhà gần chùa Bửu-Hương Tự. Ở đây, ông siêng-năng trau-giồi hạnh đạo, chất-phác làm ăn, được ông Hai coi là đại đệ-tử.

Vì có sự tị-hiềm của Nguyễn-văn-Phẩm nên chùa Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Lúc ấy tuy ông Ba thoát khỏi được, nhưng ông Hai thì phải xiêu-lạc khổ-sở còn con trưởng của ông là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.Thấy chùa Bửu-Hương Tự bị Pháp nghi-nan dò xét mãi, và liệu ở đấy không yên được nên vào khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.Tại đây, ông sang tác bộ Kim Cổ Kỳ Quan , gồm chín bổn viết trong khoảng từ 1907 đến 1926 :Kim Cổ.2- Giác Mê3- Cáo Thị 4- Vân Tiên7- Thừa Nhàn8- Tiền Giang9- Kiếng Tiên.

Đến năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), ông Ba tịch. Lúc ấy ông hưởng thọ vừa đúng 61 tuổi, sau khi đã để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo-đức lẫn văn-chương, và một tấm gương tiết-tháo kiên-trinh bất hoại.
Ông là bậc khải thánh, nhờ công phu tu tập thiền định nên nghe được lời Phật tổ, Phật Thầy mà ghi thành sách truyền hậu thế về thiên cơ. Tác giả là người được đức Phật giao cho sứ mạng truyền bá Phật pháp và cảnh tỉnh nhân loại:
Phật dạy tôi trước tỏ bày,
Bút thần ký tự để rày hậu lai.
(Kim Cổ Kỳ Quan , câu 634)

Tác giả nói nhiều lần rằng ông chỉ là người ngu dốt, tầm thường, được Phật cho phép ghi lại lời Phật dạy trong lúc hành thiền:
Phật cho nói việc cạn lời
Tôi nào có biết việc đời làm sao

(Thừa nhàn, 2301)
Ông có sứ mạng loan báo tai họa xảy đến để loài người thức tỉnh, đừng tham tiền bạc, danh lợi, đừng làm điều gian ác:
Phật cho kim bút đề câu
Giáo người thiện nghiệp đâu đâu hãn tường

(Thừa nhàn, 2595-96)


Ông Nguyễn Văn Thới là một nhà thơ, một Phật tử và cũng là một nhà tiên tri. Ông tiên đoán nhiều điều, chúng tôi chỉ trình bày một vài điều tiêu bỉểu.
Cũng như Tứ Thánh, Nguyễn Văn Thới vạch mặt Hồ Chí Minh giả dạng yêu nước, bình dân và khổ tu:
-Nhớ ngồi chiếu lác xưng bác xưng cô
Chẳng phải nam mô giấy chẳng thấy chư dưng
Bây giờ người xưng đam quí đạo
Ngỗ ngang nghịch bạo qui đạo học cho xuôi
Mặc kẻ tới lui mù đui con chuột
Học hành mới thuộc bạch tuột sa
o
.(Cáo thị, 424-429)


Ông Ba đã cho ta biết Hồ Chí Minh là một con cáo già. Tác giả đã dùng nhiều lần chữ " cáo" và hồ" chỉ Hồ Chí Minh và bọn cộng sản là bọn lưu manh, trộm cướp:
Tôi nay không phải Nhẩn-Hồ
Thọ tài oán trái làm đồ phi ân

(Thừa nhàn, 1769-1770)
Giận lũ cáo phá xóm làng.
(Kim cổ Kỳ Quan, c.349)
Nghỉ thôi nhiều nỗi cay co
Đêm khuya tuông lụy sầu lo việc đời
Mất mối trời tối rã rời
Lần lần nẻo tắc dò thời đường quanh
Cám phiền phận chị nỗi anh
Nhà trống không thức mà canh mất đồ
Mắc mưu chú Nhẫn chú Hồ ,

Từ khi Việt cộng chiếm miền Nam, chúng trở thành thực dân Bắc Kỳ. Nhân dân ta có câu ca dao:
Bắc kỳ cai trị Nam Kỳ
Chức gì cũng chiếm, món gì cũng vơ"
Khắp nơi dân miền Bắc vào cai trị, họ làm từ giám đốc, chủ tịch đến người quét rác. Cộng sản Bắc Việt đã thì hành chính sách thực dân tại miền Nam, ngay bọn Nam Kỳ tập kết, hồi kết cũng bị đá văng. Thành thử ông Ba dùng từ" Chúa Bắc Kỳ " rất đúng, rất hay.
Như đã nói ở trên, Bắc kỳ XHCN tự phụ đỉnh cao trí tuệ, văn chương, nghệ thuật cao siêu. Chúng  lăng xăng mồm năm miệng mười ( xuất tam thanh: năm ba giọng lưỡi) tuyên truyền khoác lác,kết tội văn chương miền Nam đồi trụy, còn văn chương của họ là tiến bộ văn minh. 

Trước lo chúa khổ Bắc Kỳ,
Sau lo Nam Việt bất tùy ngụy bang.
Văn chương Bắc địa hiển vang,
Nam Kỳ dốt nát gian nan chẳng lừa,
(Tiền giang, 203, cột17, câu 667)
         Nhưng dưới mắt ông Ba, văn chương cộng sản là đồ bỏ đi, đó là một thứ văn chương mất gôc, phá hoại văn hóa, đạo đức truyền thống:
Mắt đoái xem Bắc địa thương dà,
Văn chương chữ nghĩa sao mà không căn.
Xuất tam thinh mặc sức lăng xăng
(KT , 292, 47, câu 1890-92)

Sau 1975, dân XHCN miền Bắc cũng bỏ nước ra đi nhưng Bắc Nam khác nhau. Dân Nam vì ý thức hệ còn dân Bắc ra đi đa số là vì kinh tế, và đa số bọn họ là con cái cán bộ. Người Miền Nam nhất là Sàigon ( xứ Saigon) bỏ nước ra đi nhiều nhất. Họ bị cộng sản giết, bắt giam, đoạt tài sản và bỏ đói. Họ phải bỏ nước ra đi. Họ vượt biển trên những con thuyền mỏng manh và được các quốc gia thương tình cứu vớt ( các nước cảm thương vì thuyền nhân không nơi nương tựa). Nỗi khổ này, ông Ba đã thấy rõ:
Chín người đói có một người no
Gặp cơn bát loạn của kho chẳng còn
Thương đông đảo là xứ Sàigòn
Bể om việc trước hao mòn các nơi
Cũng như buồm ra biển chạy khơi
Cám thương các nước không nơi cậy nhờ
.

(KCKQ, 1916-1921)


Cộng sản xuất khẩu lao động, buôn người. .. Gái Việt Nam bị bán đi    lấy chồng    Đài Loan, Đại Hàn, đui què mẻ sứt cũng lấy miễn là thoát khỏi Việt Nam quang vinh, kể cả buôn son bán phấn ở Singapore, Thái Lan:
Trào nào kẻ oán, người ân gập ghình.
Người gái Nam Tây lấy lộng bình,
Một gái mười gã nước mình biết sao!
Chà và đống bạc trắng kim cao,
Gái Nam cũng lấy biết sao nỗi người!
Nước Chệt qua lấy hết tức cười,
Cành. . . tha thứ hỡi người nước Nam!
(KCKQ, 2473-78)

Sau khi Tây (Pháp Mỹ) về nước, Việt Nam hoàn toàn mất công lý và tự do vì Cộng sản chiếm nửa nước, và sau 1975, cộng sản chiếm toàn quốc.
Tây buồn cỡi ngựa về Tây.
Tòa án mất rồi chẳng ai hay.
Nam Việt đổi dời nay chi thế
(TG,tr. 263, cột 138, bài thơ 27)

Người Việt Nam ta vì lòng yêu nước mà chống Pháp nhưng mỉa mai thay thực dân Pháp còn tốt hơn người Việt Nam chúng ta, tốt gấp trăm lần cộng sản.Khi Pháp, Mỹ khỏi Việt Nam, chúng ta không có hòa bình mà trái lại phải chịu một ach thống trị mới, tàn bạo, dã man hơn thực dân  Pháp!
Theo tác giả, việc Pháp lui khỏi Việt Nam là do thiên định. Chúng ta đừng chửi mắng, kết tội thực dân. Và khi thực dân, đế  quốc về nước, ta  không   nên mừng vì Tây, Mỹ về    thì Viêt Nam đói khổ và    mât tư do  :

Ai dè là việc lạ kỳ,
Khi không Phật khiến Tây tùy quy Tây.
Tây về người cũng không hay,
Đừng sanh dạ dữ mắng Tây bây giờ!
(TG 212, 36, câu 1467-1471)
Càng thấy khổ ngày càng túm rụm,
Tây về Tây người khó bụm khu.
(KT 278, 19, câu , 740-41)


Sau cách mạng tháng mười Nga, cách mạng Nga truyền sang Trung Quốc. Việt Nam theo Nga, Tàu.
Ông Ba thấy ngay từ đầu Việt Nam phân hóa, kẻ theo Nga Tàu, người theo Pháp Mỹ:
Bầu Tây thêm vị bầu Tàu.
(TG, 231, 73, câu 3043)

Ông  Ba kết án Trung Cộng giúp Việt Cộng rồi xâm lược Việt Nam. Ông Ba Thới nhìn thấy sau khi ông chết, Việt Nam lại tôn Trung Quốc làm thầy , một ông thầy bất chánh khiến cho nhân dân và đất nước Việt Nam phải chịu bao khổ nạn từ Hồ Chí Minh cho đến sau này.

Líu lo nói chuyện Xiêm Lào,
An Nam đem dạ nghe Tàu bại gia
.. . . . .. . . . .. .. .
Cớ sao dạ bạc theo Tàu,
Minh sư bất chánh đạo nào mà ngay.

(Tiền giang, 202, cột 15, 611-616)

Ông ghét bọn Trung Quốc làm thầy cho bọn nô lệ Việt Nam:
Thương người biết đạo ra bài,
Ghét là thiệt ghét Tàu thầy An Nam.

(Tiền Giang tr.208, cột27, 1115-1116)

Bọn Trung Quốc đã quấy rối, xâm phạm Việt Nam:
Nên muôn dân kẻ dọc người ngang, Cũng vì bởi Tàu man quấy rối (KT, 278, 20)

Trước 1926, nghĩa là trước nửa thế kỷ, ông Nguyễn Văn Thới đã thấy bọn Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng phải theo Trung Quốc và Nga, tuân lệnh họ và chịu điều kiện của họ mà ký các văn tự bán nước. Họ che giấu sự thật. Hồ Chí Minh luôn miệng ca tụng " tình hữu nghĩ Việt Hoa / Vừa là đồng chí vừa là anh em", còn Mao và bọn La Quý Ba thì huyênh hoang" viện trợ vô điều kiện" ... Cộng sản Việt Nam cũng dối trá che đậy sự hèn hạ của chúng (Cây héo mà tươi thấy tươi mà héo) , luôn vỗ ngực đại thắng nhưng sau khi chiếm miền Nam (1975) thì bị Trung Quốc dạy một bài học (1979) , họ lo buồn vì phải trả nợ cho Trung Quốc. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã đem biển và biên cương (Nam Quan, Bản Giốc) dâng cho Tàu trừ nợ:
Cây héo mà tươi thấy tươi mà héo
Muốn ăn cho béo nợ kéo mà trừ biên thùy giỏi nữa.
(Cáo thị, 712-713)


Nay Trung Quốc gian manh xâm lược thế giới, Việt Nam tình hình nguy ngập. Trung cộng chiếm biển, lấn biên cương, khai thác Trung nguyên, và làm thủy điện ở thượng lưu sông Cửu Long. Tương lai miền Nam sẽ không còn phù sa, không còn nước ngọt, nói chung là tài nguyên khô cạn. Bọn lãnh đạo một số bối rối vò tơ, mắt như đui mù đậm đầu vào lửa, một số phải chìu luồn Trung quốc:

Thế vô quan xử tử thị oan
Thế thị Tàu man gian năm mối
Sanh cờ phản bối rối vò tơ
Bất kiến thiên cơ trơ trơ lý
Bất tri giáp tí ý giáp dần
Nói chuyện lần xần trần bịt nhỉ
Mong lòng tranh thủy nghỉ không xuôi
Có mắt như đui lui vào lửa
Dạ mong ngồi giủ lừa cháy trùng
.
(Cáo thị, 1800-1809)

Việc trong lục tỉnh hao mòn,
Nam bang khô cạn chìu lòn hết hơi.
(Kim Cổ audio 2B, 1083-84)
 



Trong Sấm Giảng Người Đời, Sư-Vãi Bán-Khoai vui mừng là khi thời-kỳ Thượng-Nguơn đã lập, nước Nam sẽ là một nước diễm-phúc nhứt trên quả địa-cầu:

 Nước Nam như thể cái lầu,
Ngày sau các nước đâu đâu phục tùng.

 Ông Ba thấy sau này Việt Nam trở thành một cường quốc:
Nước Nam như thể cái chùa
Ngày sau các nước bốn mùa bán buôn

(Vân Tiên 749-750)

Sư Vãi bán khoai đã tiên đoán:

Chừng nào núi Cấm quá (hóa) lầu,
Thời là bá-tánh đâu đâu thái-bình.


Ông nhắc đi nhắc lại hiện tượng này cho chúng-sanh để ý:

Chừng nào Bảy Núi thành vàng,
Thì là mới được thanh nhàn tấm thân.



Nhưng điều mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai vui mừng là khi thời-kỳ Thượng-Nguơn đã lập, nước Nam sẽ là một nước diễm-phúc nhứt trên quả địa-cầu.Sở-dĩ nước Nam được diễm-phúc là vì cơ Trời đã định cho nước Nam là cõi Trung-ương, nghĩa là trung tâm của nền văn minh Thượng-Nguơn sau này. Chính vì được cái diễm-phúc đó mà chư Phật,
chư Tiên đều lâm-phàm ở nước Nam:

Bấy lâu Phật ở xa ngàn,
Bây giờ Phật lại bước sang Nam trào.


Ông Nguyễn Văn Thới cũng tiên đoán như vậy:
Chừng nào Phật xuất An-Giang
Nhơn dân lục tỉnh thanh nhàn tấm thân
Bảo người niệm Phật cho cần
Việc đời đã tới hầu gần tới đây
(Giác Mê, 392-595)



B. VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM  CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI


Trong thời đại búa liềm, mỗi giai cấp đều có một khổ ách và một nhiệm vụ chống lại sự gian manh,cuớp bóc và tàn ác của Cộng sản.

Có thể nói các văn nghệ sĩ là giai cấp tiên phong trong công cuộc chống cộng kể từ đầu thế kỷ XX là lúc cộng sản trên thế giới chưa ra đời. Bởi vậy mà khởi đầu cuộc bạo loạn Nghê Tĩnh, Cộng sản đã kết tội trí thức nặng nhất, đứng đầu sổ hành quyết, nặng hơn tư sản, địa chủ bóc lột:

"Trí phú địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ!"

Ở đây, chúng tôi nêu lên hai hạng văn thi sĩ kiệt xuất ở hai lãnh vực Văn chương và Chính trị.
 
I. THỜI ĐẦU PHÁP XÂM LƯỢC

Khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, quan quân triều đình đã hết lòng chiến đấu. Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu đã nêu cao gương hy sinh cho Tổ Quốc. Bên cạnh quan quân, các sĩ phu Việt Nam đã đứng lên chống lại bọn cướp nước. Thủ khoa Huân, Trương Định,Nguyễn Trung Trực, Phan Tôn, Phan Liêm, Phan Đình Phùng... là những chiến sĩ anh dũng.

Bên cạnh những chiến sĩ anh dũng, ta thấy có những trí thức đã đốt sáng ngọn lửa đấu tranh. Ngọn lửa sáng nhất là ngọn lửa Nguyễn Đình Chiểu với các bài thơ và văn tế như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, (1861); Mười hai bài thơ và bài văn tế Tướng quân Trương Định (1864); Thơ điếu Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản ( 1867); Mười bài thơ điếu Ba Tri Đốc binh Phan Tòng (1868). Đó những áng văn chương tuyệt tác kết tinh từ máu và nước mắt của trí thức yêu nước căm giận quân cướp nước và xót thương những chiến sĩ đã hy sinh..

Những bài thơ của Phan Văn Trị , Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu bút chiến với Tôn Thọ Tường bán nước là những áng văn hay.

Tiếp theo là 10 bài Khuê phụ thán của Thượng Tân Thị thác lời bà Nguyễn phi thương nhớ vua Thành Thái cũng là một tuyệt tác.


II. VĂN CHƯƠNG ẢNH HƯỞNG ÂU MỸ TRƯƠC 1945


Khi Pháp đặt nền đô hộ tại Việt Nam, văn chương học thuật Pháp và Âu Mỹ đã ảnh hưởng đến thi ca và tiểu thuyết Việt Nam.

Về tiểu thuyết, ra thấy rõ cảnh trăm hoa đua nở.Hồ Biểu Chánh là một cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam.Tiếp theo Tự Lực Văn Đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, và một số văn sĩ ngoại hạng như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài đã được nhân dân quý mến.

Bên cạnh tiểu thuyết, thi ca cũng phát triển vô cùng với hàng hàng lớp lớp thi sĩ trứ danh như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, HồDzếnh, Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, Đoàn Phú Tứ, Hàn Mặc Tử, Bich Khê...

III. VĂN CHƯƠNG MIỀN BĂC CỘNG SẢN


Đến thời chiến tranh Đông Dương,trên bãi chiến trường đầy xương máu cũng nở những đóa hoa.

Bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan là một bông hoa quý mà cũng là một viên ngọc. Nó có cái đẹp


của tình yêu mà cũng có cái đẹp, cái dũng của thi nhân chống lại cường quyền. Những bài thơ của Trần Dần viết trong "Những ngày ấy bao nhiêu thương xót " là nước mắt tình yêu, là nỗi oán hận một chế độ đã bóp nát con tim yêu đương của tuổi trẻ! Nhân Văn Giai Phẩm là một kho tàng văn chương và cách mạng. Hoàng Cầm với Lá riêu bông, Phùng Quán với Trăng hoàng cung là những ẩn dụ rất đẹp với nghệ thuật tượng trưng về trò đời giả dối của một tập thể bạo quyền, và sự tan vỡ thảm thương của lòng tin về công bằng, hạnh phúc và tự do...Phùng Quán cũng như Phùng Cung có những bài thơ hiện thực của thân phận tù đày, của những văn nghệ sĩ bị rút phép thông công. Hoàng Cầm, Lê Đạt có những bài thơ tình và những bài thơ tù rất đặc sắc. Tiếp theo đó, ngọn lửa đấu tranh vẫn bốc cao với Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo.

IV.VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM TỰ DO 

Ở một mặt khác, một nơi bình an, mặc dầu có nhiều ma quỷ ẩn tuyên truyền, phá hoại, giật mìn,phá cầu, ném bom và lưu đạn,, ta thấy có Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Tất Nhiên, Bùi Giáng với những bài thơ như tơ lụa vàng óng.Trong thời này Tạp Chí Sáng Tạo, Đại Học, Tư Tưởng, Phổ Thông, Bách khoa ... là tiêu biểu cho tự do tư tưởng dù chưa phải là

 tuyệt đich.Thời này nổi bật nhất về tiểu thuyết là Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến,Nhã ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ...

Ở đây, chúng ta chú ý đến những nhân vật xuất săc nhất, tiêu biểu nhất.

1  TRẦN TRỌNG KIM (1883 –  1953)

Trần Trọng Kim là một học giả giỏi nhất Việt Nam và là một người quốc gia chân chính. Các tác phẩm Việt Nam Sử Lược, Nho Giáo là hai công trình rất có giá trị. Hồi ký "Một Cơn gió Bụi" cũng là một tác phẩm có giá trị lịch sử, và các nhận định của ông rất đầy đủ tỏ ra ông không những có oc nghiên cứu sâu sắc mà còn có cái nhìn chính trị tinh tế. Tóm lược ta thấy   quyển này có những   điểm chính    như sau:

-Quân Tưởng Giới Thạch  muốn làm tiền cộng sản chứ chẳng giúp gì cho phe quốc gia(tr.34)
-Trong chính phủ liê hiệp, Việt Minh mạnh nhất, ã hội đảng và Dân chủ đảng là những đảng phụ thuộc của Việt Minh và không ó thế lực gì. Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội tuy có thế ực là nhờ có quân đội Tàu bênh vực, nhưng  không có tính cách thống nhất và không có kỷ  luật chặt chẽ (tr.34)
- Việt cộng có   một siêu chính phủ   ở  đàng sau, gồm những ngừơi   sau:
Hà bá Cang, nhất danh là Quận Thọt, ngƣời Hưng  Yên Nguyễn LươngBằng, nhất danh
là Sao Ðỏ, ngƣời Hải Dương,    Bùi  Lâm, ngƣời Trung Bộ,Ðặng xuân Khu, người     làng Hành
Thiện, Nam Ðịnh,   Bùi công Trừng, ngƣời Quảng Bình, Trung bộ,  Pô   ngườiTrung Hoa
Tiêu Sung, nguòi Nhật (tr.36)
Ông nói rõ bản chất chủ nghĩa Marx và con người cộng sản mê muội , gian manh và tàn ác:
Cộng sản đảng, theo cách tổ chức và hành động của họ, là một thứ tôn giáo mới, giống
nhƣ các tôn giáo cũ cốt lấy sự mê tín mà tin, chứ không hoài nghi hay đi trệch ra ngoài. Song
các tôn giáo cũ nói có cõi trời, có thiên đƣờng là nơi cực lạc. Cộng sản giáo ngày nay thì hoàn
toàn duy vật, nghĩa là ngoài vật chất ra, không có sự tin tƣởng nào khác nữa, cho thiên đƣờng
không phải ở cõi trời mà chính ở cõi trần gian này. Ai tin theo đạo ấy là phải tin lý thuyết của
Các Mác và Lê Nin là tuyệt đối chân chính, đem áp dụng là đƣợc sung sƣớng đủ mọi đƣờng,
tức thực hiện đƣợc cảnh thiên đƣờng ở cõi đời. Còn về đƣờng tín ngƣỡng, thì đạo cộng sản là
đạo hoàn toàn duy vật, tất không ai thờ phụng thần thánh nào khác nữa, nhất thiết phải nghĩ
sùng bái những ngƣời nhƣ Các Mác, Lê Nin, Sử Ta Lin để thay những bậc thần thánh cũ đã bị
truất bỏ.
Ðã tin mê cái đạo ấy và đã coi lý thuyết ấy là chân lý tuyệt đối, thì ngoài cái lý thuyết
ấy ra, là tà giáo, là tả đạo. Ai không tin theo và phản đối những ngƣời đứng đầu đảng, tức là
những bậc giáo chủ, thì là ngƣời phản đạo, tất phải trừng trị rất nghiêm. Vì vậy mới có sự tàn
sát những ngƣời trong đảng cộng sản theo Trotsky, chủ Cộng Sản Ðệ Tứ Quốc Tế, là một chi
cộng sản phản đối Sử Ta Lin, chủ Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế.
Vậy những tín đồ cộng sản phải là những ngƣời cuồng tín và chỉ biết có đời sống vật
chất mà thôi, ngoài ra không có gì nữa. Sống có một đời rồi hết, nên ai nấy chỉ lo làm cho
mình đƣợc mọi điều thắng lợi, sá chi những điều phúc họa thiện ác.
Về đƣờng thực tế, các đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thƣờng đạo lý,
không biết có nhân nghĩa đạo đức nhƣ ngƣời ta vẫn tin tƣởng. Ngƣời cộng sản cho cái điều đó
là hủ tục của xã hội phong kiến thời xƣa, đặt ra để lừa dối dân chúng, nên họ tìm cách xóa bỏ
hết. Ai tin chỗ ấy là ngƣời sáng suốt, là ngƣời giác ngộ, ai không tin là ngƣời mờ tối, là ngƣời
mê muội. Vì có tƣ tƣởng nhƣ thế, cho nên cha con, anh em, bè bạn không có tình nghĩa gì cả,
chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa của cộng sản và phục tòng những ngƣời cầm quyền của đảng,
ngoại giả, giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau: Hễ ai làm những việc mà lợi cho đảng là ngƣời
giỏi, ngƣời tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ đều bỏ hết, bỏ đến tận cội rễ, để thành
lập xã hội mới. Cái xã hội mới ấy không tranh đấu cho quốc gia hay cho dân tộc. Dù có nói
tranh đấu cho quốc gia hay cho dân tộc nữa, cũng chỉ là cái phƣơng pháp dùng tạm thời trong
một cơ hội nào để cho đƣợc việc mà thôi, chứ mục đích cốt yếu là tranh đấu cho giai cấp vô
sản. Khi ở đâu sự tranh đấu cho giai cấp ấy đƣợc thắng lợi, thì cứ tranh đấu mãi để bảo vệ
quyền lợi của giai cấp ấy và xóa bỏ hết những cƣơng giới nƣớc nọ với nƣớc kia để thực hiện
một thế giới đại đồng, đặt dƣới quyền chỉ huy của giáo chủ cộng sản ở bên Nga. Vì vậy cho
nên bất kỳ nƣớc nào đã theo cộng sản là phải phục tùng mệnh lệnh bên Nga, còn nƣớc nào tuy
theo chế độ cộng sản, nhƣng còn muốn giữ tƣ tƣởng quốc gia nhƣ nƣớc Nam Phu Lạp Tƣ
(Yougoslavie) bên Ðông Âu là bị trục xuất ra ngoài Hội Nghị của các nƣớc cộng sản.
Cái phƣơng thuật của đảng cộng sản bên Nga không khéo chỗ ở ấy, tuy nói là bài trừ
đế quốc chủ nghĩa và tiêu diệt những chế đô độc tài áp chế đời xƣa, nhƣng lại áp dụng chế độ
độc tài áp chế hà khốc và tàn ác hơn thời xƣa, và gây ra một thứ đế quốc chủ nghĩa theo một
danh hiệu khác, để tự mình thống trị hết thiên hạ. Thành ra các nƣớc đã theo cộng sản đều
phải là những nƣớc phụ thuộc nƣớc Nga, cũng nhƣ bên Tàu ngày xƣa các nƣớc chƣ hầu phải
phục tùng mệnh lệnh thiên tử. Thì ra trong thế gian này chẳng có gì là mới lạ. So chế độ cộng
sản ở nƣớc Nga ngày nay có khác gì chế độ nhà Tần thời chiến quốc bên Tàu. Có khác là ở
những phƣơng tiện theo khoa học và những mánh khóe hiện thời mà thôi, còn thì cũng tàn
bạo gian trá nhƣ thế, và cũng dùng những quyền mƣu quỉ quyệt để thống trị hết cả các nƣớc.
Ðảng cộng sản đã có cái tổ chức rất đúng khoa học, đảng viên lại giữ kỷ luật rất nghiêm, rất
chịu khó làm việc và có tín lực rất mạnh. Ai theo đảng là đắm đuối vào chủ nghĩa của đảng,
có lâm nguy nan gì thì cho là một vinh hạnh đƣợc tuẫn tử vì đảng. Về sự hành động thì đảng
cộng sản chuyên dùng những thủ đoạn quỉ quyệt, nên tuy có thắng lợi mà những ngƣời trí
thức ít ngƣời theo. Cũng vì vậy mà họ bài trừ trí thức và chỉ ƣa dùng đàn bà, trẻ con và những
ngƣời lao động là hạng ngƣời dễ khuyến dụ, dễ lừa dối.
Ngƣời cộng sản, khi đã hành động, hay dùng đến chữ giải phóng. Theo việc làm của
họ, tôi vẫn chƣa hiểu rõ nghĩa hai chữ ấy. Có phải trƣớc kia có cái cũi giam ngƣời, bây giờ họ
đem cái cũi kiểu mới đến bên cạnh rồi bảo ngƣời ta chạy sang cái cũi mới ấy, thế gọi là giải
phóng không ? Nếu cái nghĩa giải phóng là thế, thì cũi cũ hay cũi mới cũng vẫn là cái cũi, chứ
có hơn gì ?
Cứ nhƣ ý tôi, thì giải phóng phải theo đúng cái lẽ công bằng, làm cho ngƣời ta đƣợc
ung dung thƣ thái, đƣợc hành động trong một cái khuôn khổ rộng rãi, ai nấy biết trọng quyền
lợi của mọi ngƣời theo pháp luật đã định, không bị đàn áp và lừa dối, không bị bắt bớ và giết
hại một cách ám muội, oan ức.
Ðàng này tôi thấy chế độ các nƣớc cộng sản giống nhau nhƣ in cái chế độ chuyên chế
thuở xƣa. Ngƣời nào nói xấu hay công kích những ngƣời cầm quyền của đảng là phải tội bị
đày, bị giết. Ai không sốt sắng theo mình thì bị tình nghi, phải chịu mọi điều phiền khổ. Nhân
dân trong nƣớc vẫn bị đàn áp lầm than khổ sở, riêng có một số ít ngƣời có địa vị to lớn là
đƣợc sung sƣớng. Nhƣ thế thì giải phóng ở đâu ? Giải phóng gì mà cả chính thể một nƣớc
phải nƣơng cậy ở những đội trinh thám để đi rình mò và tố cáo hết thảy mọi ngƣời. Hễ ai vô ý
nói lỡ một câu là bị tình nghi có khi bị bắt, bị đày v.v...thành ra nhân dân trong xã hội ấy lúc
nào cũng nơm nớp lo sợ, không biết ai là bạn là thù, mất hẳn sinh thú ở đời, thật trái với lời
nói thiên đƣờng ở cõi trần.
Trong những lời tuyên truyền của Việt Minh, thấy luôn luôn nói nào là hạnh phúc, nào
là tự do, bình đẳng, mà sự thật thì trái ngƣợc tất cả. Những lối họ dùng là nói dối, đánh lừa
cƣớp bóc, giết hại tàn phá, không kiêng dè gì cả, miễn làm cho ngƣời ta mắc lừa hay sợ mà
theo mình là đƣợc. Xem nhƣ lúc đầu Việt Minh tuyên truyền rầm rĩ lên rằng: ‘’Nƣớc Việt
Nam đã đƣợc các nƣớc Ðồng Minh cho hoàn toàn độc lập, và dân đƣợc tha hết các thứ thuế’’.
Thôi thì chỗ dân gian nghe nói thế chạy ùa ùa theo. Sau chẳng thấy độc lập đâu cả và dân lại
phải đóng góp nặng hơn trƣớc. Khi Việt Minh đã nắm quyền binh rồi, lại định các ngạch thuế,
có ngƣời hỏi họ: ‘’Sao trƣớc kia các ông bảo tha hết các thứ thuế rồi kia mà ?’’ Họ trả lời:
‘’Ấy trƣớc nói tha thuế, nhƣng bây giờ chính phủ cần có thuế để làm mọi việc’’. Nói thế thì
uy tín của chính phủ để đâu ?
Cái thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo ngƣợc, tàn nhẫn, giả dối, lừa đảo để
cho đƣợc việc trong một lúc. Ngay nhƣ họ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng nay nói là đoàn
kết, mai nói đoàn kết, nhƣng họ vẫn đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt lƣơng thực. Khi họ đánh
đƣợc thì giết phá, đánh không đƣợc thì lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá. Dân tình thấy
thế thật là ngao ngán chán nản, nhƣng chỉ ngấm ngầm trong bụng mà không dám nói ra. Nên
dân gian thƣờng có câu ‘’nói nhƣ Vẹm’’. Vẹm là do hai chữ Việt Minh viết tắt VM, đọc
nhanh mà thành ra.(tr.37-38)
So sánh với các yếu nhân chính trị quốc gia đương thời thì Trần Trọng Kim cao hơn Trần Văn Hương,  Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Ngọc Huy... một cái đầu! Còn nói về các nhà báo, triết gia, chính trị gia quốc gia  như   Hồ Hữu Tường, Đặng Văn Sung, Trần Tấn Quốc, Trần Chánh Thành   ...     không   ai  có được một góc kiến thức chính trị như ông và viết  rõ ràng và đầy đủ như ông!  Chính trị gia, văn gia như Hồ Hữu Tường tuyên bố ly khai cộng sản nhưng ông không nói vì sao, và đưa ra một nhận định về cộng sản. Toàn bộ công trình viết lách của ông nhạt nhẽo, vu vơ như đám lục bình nằm trên bờ sông cạn. Tệ hơn nữa, một số lãnh đạo lại âm thầm móc nối với Cộng sản!
  2. DOÃN QUỐC SỸ ,NGUYỄN MẠNH CÔN VÀ Ý THỨC HỆ


Trước 1954, dân Hòa Hảo căm thù Cộng sản nhưng  một số dân Nam tin Cộng sản. Đến 1954, dân Băc di cư vào Nam, dân Nam kỳ có người hỏi:Ngoài Bắc độc lập,tự do, các ông vào Nam làm gì? Đã thế, tại Sai gòn có hằng trăm ổ nhện Cộng sản như  là nhóm Chân    Trời Mới của Tam Ich,   Thiên

Giang  Thê Húc , Thiếu Sơn, Bách Việt, Hợp Phố...Có những kẻ hoạt động khác như Nguyễn Bính, Vũ Bằng, Vũ Anh Khanh, Vũ Hạnh...

 Khi nhóm Bắc di c ưvào Nam đã thổi lên một không khí mới. Nhóm này có Doãn Quốc Sĩ,  Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng  và những người khác,  đã cho ra  đời tạp chí Sáng Tậo, Hiện Đại rất  mới mẻ, lôi cuốn thanh niên , sinh viên học sinh và trí thức.. . Doãn Quốc Sỹ đã trở thành nhân vật chính yếu trong bộ môn tiểu thuyết thời đó, một loại tiểu thuyết ý thức hệ.  Trong khi các thanh niên cùng trang lứa ở miền Bắc tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, đốt sáng ngọn lửa đấu tranh dân chủ,  Doãn Quốc Sỹ vào Nam cũng  nâng cao ngọn lửa đấu tranh chống cộng sản. Những tác phẩm của Doãn Quốc Sĩ
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Khu Rừng Lau, một trường thiên tiểu thuyết gồm có: Ba Sinh Hương Lửa (1962), Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến (1964), Tình Yêu Thánh Hóa (1965), Những Ngả Sông (1966)...


Những tiểu thuyết của ông là chuyện thật của lịch sử Việt Nam, nói về CCRD, Cải tạo tư tưởng và những hành động phi nhân của cộng sản. Bên cạnh ông, Nguyễn Mạnh Côn, Võ Phiến đã xây dựng một chiến tuyến chống Cộng.  Những ngày tháng sau 1975, Doãn Quốc Sỹ  với Đi ! , 1982, Mình Lại Soi Mình, 1995); Người Vái Tứ Phương- 1995) và Nhã Ca với Hồi ký một người mất ngày tháng, Đường Tự Do Sài Gòn (2006).đã viết những  truyện ký độc đáo nói lên nỗi khổ của người dân khi Cộng sản chiếm miền Nam.



  
3.  XUÂN VŨ, KIM NHẬT, ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINHVÀ CHIÊN KHU D

Trong khi nhân dân miền Nam sống trong tự do và hưởng một5 nền văn nghệ bình thường nhưng Xuân Vũ, Kim Nhật đã đem lại cho chúng ta những cái nhìn rõ ràng về đường mòn Hồ Chí Minh và chiến khu D của Cộng sản.

 V. VĂN CHƯƠNG HẢI NGOẠI


Ra đến hải ngoại, cả một trời sao văn nghệ. Những nhật ký tù đày và vượt biên của Hà Thúc Sinh, TrầnTri Vũ, Phan Lạc Phúc, Hiếu Đệ, Đặng Phùng Quân..., nhật ký chiến tranh của Phan Nhật Nam, Xuân Vũ, Phan Lạc Tiếp... là những vết thương ngàn năm còn chảy máu.
Ở nơi xa xôi, những tâm hồn cô đơn xa xứ vẫn hoài niệm một thiên đường đã mất .
Nỗi buồn ly hương đó được thể hiện dưới bút ký của Võ Phước Hiếu, Hồ Trường An, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Sâm và thơ Thanh Nam, Trần Mộng Tú. ..Lúc này cũng có rất nhiều thi sĩ đã viết về vượt biên, tù đày như Mai Thảo, Hà Huyền Chi, Hoàng Phong Linh Thái Tú Hạp, Luân Hoán...Tất cả đã đóng góp công phu cho nền văn học hải ngoại.

Văn thi sĩ hải ngoại thì nhiều lắm. Chúng tôi xin nêu lên những nhân vật kiệt xuất.


1 NGUYỄN CHÍ THIỆN

Về thi ca, siêu việt nhất là Nguyễn Chí Thiện đã có những bài thơ như đục vào núi đá với những nét ngang tàng sắc sảo. Thơ Nguyễn Chí Thiện là tiếng thét căm thù và lời nguyền rũa:
Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻ
Thiên đường cụ hứa như thế kia a?

... (Chúng tôi sống, 1962)

Trong văn học Việt Nam, có ông và Phùng Quán là chửi thẳng vào Cộng sản bạo tàn:

Chính chúng nó
Phường cộng sản
Lái buôn binh lửa
Ôi ! Binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai

Bị lôi đi - đi hết ... ( gãi đất)



2. TRẦN HỒNG CHÂU
  
Các nhà thơ hải ngoại  mang trong mình hành trang tù đầy và vượt biên. Trong đó, Trần Hồng Châu nổi bật nhất vì ông đã nói đến nỗi đau khổ của nhân dân Việt Nam. Các thi sĩ đương thời cũng có những bức tranh xã hội nhưng là những bức tranh nhỏ treo trong thư phòng hay phòng khách, còn thơ của Trần Hồng Châu là một bức tranh lớn treo ở đại điện, vẽ toàn  cảnh dân Việt Nam đau khổ sau 1975 là một điều it thi sĩ quan tâm . Ông nói đến  Saigon với những dân kinh tế mới trở về nằm ngổn ngang:
Ngã Sáu Sài gòn có những bộ lạc về từ rừng sâu tiền sử
Từ kinh tế mới âu sầu mất hướng
Trại lưu đày dựng bên bờ đại lộ quê hương
Bên kim tự tháp rác rưởi trầm ngâm
Lửa hờn căm đốt sôi lòng nồi nhỏ
Sưởi ấm ruột gan rét cóng giữa trưa hè
Bằng những hạt cơm trừu tượng
Bằng vài lời hứa. . . thiên đường trần gian. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Tháng 4.. . Mưa Ngâu dầm dề)

Ông cũng nói đến những bệnh viện quá tải:
Không riêng Sài gòn mà toàn thể đất nuớc Việt Nam đều đau khổ:

Nội ngoại khoa với hằng hà sa số bệnh hoạn
Đau buồn, lở lói
Trong, ngoài trần gian
Trước, sau, hiện tại
Những bệnh căn đè nặng thập tự giá trên
vai con người trôi dạt trong thung lũng
nước mắt không hề vơi
Khoa da liễu vẫn còn ghi nhiều vết sẹo rằn ri
Trên da thịt người dân và đất nước thảm thương
(Nửa Khuya Giấy Trắng .Nhà thương )


Nhất là phụ nữ Việt Nam nổi trôi trên biển cả và thị trường quốc tế:
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển Đông!
……………………….
dưới sâu vẫn vô vàn cánh tay
dằn dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiếp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc?
……………………..
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
Ông đau xót nghĩ đến những phụ nữ đã nằm xuống biển sâu:
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non!
 
(Biển Oan khiên)

Ông tố cáo cộng sản buôn người với danh nghĩa ‘’xuất cảng lao động’’:

Tin AFP rao truyền khắp năm châu bốn biển
‘’Trong năm năm gần đây 5000 (hay 50,000?) con gái Việt Nam đã được bán buôn dưới nhiều hình thức’’
Những người con gái từng thấy trong ca dao
Trong thơ Nguyễn Bính chân quê
Trong thơ Hàn Mặc Tử chị ấy năm nay còn gánh
thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
50 năm trước đây, thời thực dân mấy đời
bánh đúc có xương
Họ còn được là cô dâu trinh trắng nón quai thao về
nhà những chàng trai quan họ quần chùng
áo dài nguyên nếp tình quê
5000 ngưồi con gái Việt Nam ấy, hôm nay sau cơn mê sảng ý thức hệ,
mà họ không hề tạo nên,
đã là món hàng tươi sống xuất khẩu


1. Về những phường dạ lạc Hồng Kông
2. Về những xóm yên hoa Ma Cao
3. Về đảo quốc Đài Loan xả xui bằng chữ ngàn vàng
4. Về vùng Lưỡng Quảng chiều mưa biên giới em đi về đâu?
5. Về niềm tủi nhục ngửa nghiêng Vọng Các thủ đô
ổ nhện suốt sáng thâu đêm. . . .

( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây. Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười?)
 
3. CAO TẦN, NGUYỄN  TẤT NHIÊN VÀ DÒNG THƠ LƯU ĐẦY

Người di tản mang nỗi nhục  vong quốc và nỗi buồn lưu đày. Trong tất cả những thi sĩ hải ngoại mang tâm trạng lưu đày , Cao Tần có một dáng điệu của một ngưoừi cuồng điên ,tuyệt vọng nhưng vẫn ngạo nghễ cười. Thơ ông mang một lúc hai tính chất bi hài:

Mai mốt anh trở về
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mày qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mày hay ông thượng đẳng cu li
Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan
Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động
Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to
Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng
Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ
Ông học được Mỹ đất trời bát ngát
Nhưng tình người nhỏ hơn que tăm
Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít
Còn hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm
Bài học lớn từ khi đến Mỹ
Là ngày đêm thương nước mênh mang
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng
Tháng 3-77

Cách đây mấy thế kỷ cũng có Đặng Dung với bài Thuật hoài  và gần đây có Nguyễn Bá Trác với bài Hồ trường là cùng một niềm dau vong quốc.


Bên cạnh ông còn có Nguyễn Tất Nhiên đã đem đời trai trẻ của ông viết thành bài lưu vong tuyệt vọng đĩnh sầu:
Ông buồn khổ vì phải sống khốn đốn nơi quê người:

em thì xa quá xa
làm sao nghe tiếng dội dồn
hơi thở người
vỗ theo từng nấc thang cây xưa rích
Paris
ta mỗi bữa lếch thếch leo
mút bảy tầng
sống - tóc cọ quẹt nóc nhà
sống - nơi đặc biệt
nơi dành riêng cho hạng ở đợ.

(Paris, khúc tháng chín)



. Ông đã viết về ông và tiên tri số mệnh của ông:

kẻ vượt biển đã tới bến mạnh lànhnhưng chết ngay khi đặt chân lên bờ đất
kẻ leo rào đã chụp được tự do
nhưng tức thời buông tay bổ ngửa

là ta
( Paris, khúc tháng chín)


Cuối cùng có lẽ buồn về chuyện tình, Nguyễn Tất Nhiên đã tự tử tại California. Đó là chuyện buồn của một người vượt biển, kết thúc bắng cái chết mà năm 1971 ông đã viết:

thế nào rồi em cũng bỏ tôi
như những hoàng hôn bỏ mặt trời!
. . . . . . .. . .
thế nào tôi cũng giết tôi
xin hận thù em suốt quãng đời!
. . . . . . . . .
như loài thiêu thân mê lửa ngọn
buổi yêu em, tôi hăng hái lìa trần!. . .

(Như những hoàng hôn bỏ mặt trời)


4. NHỮNG THI SĨ TỪ NON CAO TRỞ VỀ

Trước 1975, thơ Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, đã có sắc thái riêng và được người đọc chú
Nhưng sau 1975, những người từ núi cao rừng sâu sau bao năm trau dồi, tu luyện, đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Họ là những đạo sĩ đã thay da đổi thịt với nghệ thuật khác xưa.
Tô Thùy Yên là một gương mặt đau thương nhưng rạng rỡ nhất. Mười năm trong trại tù, Tô Thùy Yên  mới được thả về. Ông nói lên tâm trạng ông trên đường về:


Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
. . . . . . . . . .
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẫn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm ba
y.( Ta về)

Ông chấp nhận thực tại đắng cay của người thua thiệt:



Hề ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô
. . . . . . . . .
Hề ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày cho hết đời ta.

(Hề ta trở lại gian nhà cỏ)

-Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt săp vô dan
h.. .( Ta về)


Thanh Tâm Tuyền có những bút pháp mới khác với thời Sáng Tạo


Ngày xuân trên Đồng Mua

Tặng ND

Ô chào cô bé áo hồng
Chào cô buổi sáng đầu năm
Trên cánh đồng nhàm mắt ngày tháng
Đang lay thức rừng núi biên giới
. . . . . . . . . .
Cô đẹp tựa lời thơ cổ
Mặc áo xuân đuổi trâu cười hồn nhiên
Chào tạm biệt cô gái áo hồng
Cũng chào con trâu trắng thong dong
Ngày vơi nhẹ thênh trăng mọc sớm
Ngỡ nhạn lai hồng lạc cuối thôn
Trở về trại ngang qua vườn cam
Hoa rộ trắng thơm lừng đồng nội
Vẫn chập chờn sắc hồng trôi nổi
Ngọt ngào hương quyến luyến chiều tàn.


VI. VĂN CHƯƠNG GIÁC NGỘ

Cuối cùng, ta nhìn  về quốc nội. Hiện nay phong trào chống cộng ngày càng lớn mạnh. Mũi nhọn cách mạng này khởi từ Nhân Văn Giai Phẩm với Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt...Sau khi Đông Âu và Lieên Xô sụp đổ, thành trì cộng sản tại Trung Quoốc và Việt Nam cũng lung lay tận gốc khiến cho chúng đã từ bỏ Marx, Mao chỉ giữ lại
 quyền lực độc tài để cai trị nhân dân bằng bàn tay sắt. Từ đó 
bổng nổi lên một phong trào giác ngộ cách mạng rộng lớn. 
 
 Những Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Tô Vũ, Trần Đĩnh đã quay lưng với cờ búa liềm. Mãnh liệt hơn nữa, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Trần Xuân Bách đã lên tiếng phủ nhận Marx và từ bỏ đảng tich Cộng sản.

 Trong các ông cộng sản giác ngộ, quay về với nhân dân, ta thấy nổi bật nhất là Trần Đĩnh và Trần

Đức Thảo. Cái danh từ chống đế quốc và giải phóng của Mao là trò bịp để thúc đẩy Việt Nam hy sinh xương máu cho tham vọng bành trướng vể phương Nam của Mao Trạch Động. Ông lý luận rằng nếu chống đế quốc, và giải phóng quốc gia, dân tộc  sao ông không chống Mỹ giải phóng Đài Loan, HồngKong và Mao Cao mà lại xui trẻ Việt Nam ăn cứt gà?
 Trần Đĩnh đã cho ta thấy cận cảnh một lũ cộng sản dâm ô ở An toàn khu. Ông là người thứ nhất vạch rõ âm mưu của Mao gây chiến tranh để thủ lợi. Trong Đèn Cù, ông luôn nhắc đi nhắc lại câu nói của Mao:  “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ"  .
Triết gia Trần Đức Thảo cuối cùng cũng đã làm được một việc có ý nghĩa khi tâm sự với  Tri Vũ.
-Ông đã giải mã con  hồ ly chín đuôi Hồ Chí Minh.Ông nêu lên khuyết điểm và và cũng là sự dối trá của Hồ Chí Minh:
- Hồ Chí Minh phạm những sai lầm trầm trọng.
Đó là chọn chủ nghĩa xã hội của Marx để xây dựng chế độ, chọn chiến tranh xoá hiệp định hoà bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước, chọn Mao và đảng cộng sản Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí… (Ch.XII)

-Những mánh khoé gian manh của Hồ Chí Minh:
Chỉ vì muốn tự tạo ra huyền thoại của một lãnh tụ thần thánh, nên ”ông cụ” đã bị tai tiếng; vì đã phạm ba tội: một là mạo nhận minh là bậc chân nhân chỉ biết nói thật và làm thật, điều này không một nhà chính trị nào có thể giữ được. Hai là “ông cụ” đã tự coi minh là một thứ quân tử của thời phong kiến, chứ không phải là một chiến sĩ cách mạng vô sản thời hiện đại! Ba là muốn đội lôt một thánh nhận để nêu gương sống thanh cao khắc khổ như tu hành, đã biết hi sinh hạnh phúc gia đình! Những sự thận thánh hoá giả tạo đó là do tâm thức vẫn mang nặng ảnh hưởng của thời phong kiến, nó vừa lạc hậu, vừa dối trá. (Ch.XIII)

 -Hồ Chí Minh là một kịch sĩ :
Ông là một kịch sĩ đại tài, chuyên đóng vai bình dân giản dị với đôi dép râu và cái áo blouson khoác hờ. Đó là công phu luyện tập và diễn xuất của gánh hát Trung Hải chứ không phải là cẩu thả đâu. Trần Đức Thảo viết:
" Phải biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của bác Hồ là tác phẩm của một công trình nghệ thuật hóa trang cao độ, một công trình điểm tô, giàn dựng, để công kênh ông cụ lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc thần, bậc thánh, để dân chúng một lòng tin tưởng mà sùng bái. Ông cụ được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lý tưởng : cái gì có giá trị thì cũng phải là của bác Hồ, của cụ Hồ. Nào là « cháu ngoan bác Hồ », « cây vú sữa bác Hồ », « nhà sàn bác Hồ », cho tới « anh bộ đội cụ Hồ ». Từ đó đã biến thể ra thành cái nếp suy nghĩ rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị, thì cái đó phải là của bác, của đảng.[...].
Khi muốn nghiên cứu kỹ về “cụ Hồ”, cũng phải tìm hiểu tất cả những công việc bố trí của “guồng máy” bao trùm, liên quan tới một sinh hoạt đời sống công và tư, tuỳ thuộc tính tình, tuỳ cách xử sự trong gia đình… tới cả các biện pháp tổ chức phục vụ, bảo vệ “bác Hồ”. Phải thấy cách dàn dựng lên những giai thoại, tạo ra những khung cảnh huyền bí chung quanh ”bác Hồ”. Phải hít thở không khí tôn sùng, thờ kính, phục tùng lãnh tụ như thế, thì mới có thể tương đối hiểu phần nào cung cách hoạt động, ý hướng chính sách, giá trị của những chọn lựa của lãnh tụ. Tất cả phải là tạo cho quần chúng một niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ. Từ những quyết định lớn tới những việc nhỏ nhặt, tất cả đều mang dấu ấn nhũng phương pháp tâm lý tinh vi tôn sùng lãnh tụ. Chính vì sự sùng bái tuyệt đối này mà đã đưa tới những đánh giá không ăn khớp với thực tại đầy tiêu cực và tích cực của lịch sử. Vì khi khen quá, hay chê quá, thì phải chối bỏ cái phần tiêu cực, hoặc tích cực. Sự chối bỏ như thế thì không còn gì là sự thật lịch sử nữa, mà chỉ còn là… huyền thoại đã đượt thêu dệt theo hướng sùng bái. Dĩ nhiên khi đã thêu dệt huyền thoại thì không còn giá trị khoa học của nghiên cứu nữa. Lịch sử luôn luôn chứa đựng cả cái tốt lẫn cái xấu. Nói chỉ có tốt thôi, hoặc chỉ có xấu thôi thì không được. Mà khi muốn cân nhắc tỉ lệ tốt xấu, tức là phải xét vấn đề công, tội. Việc làm này dễ gây căng thẳng bi thảm. Vì dễ sa vào thái độ cực đoan! Cực đoan và sự thật không bao giờ đi đôi được với nhau.
- Cứ theo thực tại mà xét, thì “ông cụ” là một con người cực kỳ vị kỷ, mang mặc cảm tự tôn tuyệt đối. Từ cách mang đôi dép râu bình dân, từ cách để hở ra cái áo lót nâu đon sơ, thủng vài lỗ bên trong, tưd cách không cài hết khuy áo sơ-mi, tới cách khoác hở cái tấm nhựa bên ngoài, đó là những cách thức phô diễn đá được chọn lựa, cân nhắc rất kỹ. Những chi tiết ấy tạo ra một thứ vương bào siêu vật chất, đầy hào quang của cách mạng vô sản! Vương miện của “Người” chính là chiếc mũ “cát” vải có vẻ tầm thường, nghèo nàn. Nhưng nó biểu hiện tính khỉnh mạt, bất chấp thời trang quyền quý, quan cách, như thách thức cái lối ăn mặc sang trọng, hiện đại theo kiểu Tây phương. Phong cách ăn mặc như thế là sự phỉ báng những thứ áo gấm, áo thụng kiểu phong kiến. Lối ăn mặc cố ý tạo vẻ “bình dân” trong đám người chính trị, hoặc giữa dân chúng như vậy là một cách tự tôn rất cao siêu! Từ cách cầm điếu thuốc cháy dở, cách mỉm cười lạnh lùng, khinh bạc, cách nhìn thẳng vào mặt đối tượng như một thách thức, cách hỏi han đám đông kiểu bề trên chăm sóc bề dưới.,.. Tất cả những dáng điệu, cử chỉ trong mỗi tấm hình, trong từng bối cảnh, trong từng trường hợp… đều có cùng một mục đích: luôn luôn chứng tỏ vị thế thượng đỉnh của một vị lãnh tụ tối cao sáng ngời, phi thường! Tất cả chi tiết ngoại cảnh đều là những nét chấm phá đã được gạn lọc, đã được nghiên cứu, dàn dựng tỉ mỉ từ trước, để hình ảnh “Người” không bị chìm lẫn trong đám nhân loại tầm thường chung quanh! Đấy là vóc dáng của một thần tượng vượt trội, đứng trên một bệ đá uy quyền tột đỉnh trong lịch sử! “Người” không để hé lộ một một kẽ hở nào, để có thể bị coi thường một cách nhầm lẫn, không để một mưu toan tìm tòi khám phá nào có thể thẩm thấu vào những suy tư, vào những hậu ý, vào tư tưởng của “Người”! (Ch.XII)
Để đóng nắp quan tài Marx, Trần Đức Thảo viết:
Chính Marx là thủ phạm đã gây ra mọi sai lầm và tội ác! [....].Thủ phạm, kẻ gợi ý, kẻ chuyển lửa của niềm tin đấu tranh giai cấp cho các nhà lãnh đạo, trong: đó có cả Poi Pot, để đi vào con đường cuồng tín đến đẫm máu ấy chính là Marx! Lời tiên tri sẽ “xoá bỏ giai cấp” của Marx đã mê hoặc nhiều thế hệ. Và họ đã lao mình vào tội ác! Tại những nước đã có chính quyền vô sản triệt để “của giai cấp công nông” (Sự thực là của “đảng” cầm quyền, của nhà nước do đảng cộng sản nắm giữ), chính giai cấp công nông trung thực, tại các chế độ ấy đã bị bóc lột và đàn áp một cách vô tội vạ! Vì đã không còn được ai bảo vệ, nên giai cấp công nông đã ngậm ngùi, nguyền rủa Marx, coi Marx là một nhà tiên tri khốn nạn, đã lừa đảo, lấy cái khát vọng thế giới đại đồng không có bóc lột làm bả lừa dối công nông! (Ch.XIV)

Bên cạnh những cuộc biểu tình đòi nhà đất của dân oan , chống Trung Cộng xâm lược và phản đối Formosa, ta thấy rạng ngời ngôi sao  mới lên của tuổi trẻ. Họ là những văn nghệ sĩ, những trí thưc cho nên ngôn ngữ của họ hiền lành không sắt máu kiểu Tố Hữu. Họ là những triết gia đã nêu lên những thắc mắc, những vấn nạn lớn cho chúng ta và quân thù.  Cô giáo Trần Thị Lam  đã đạt câu hỏi:



Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…
Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay
(Đất nước mình ngộ quá phải không anh)

 Đồng hành với cô Trần Thị Lam và nhân dân Việt Nam, nhạc sĩ trẻ Việt Khang cũng đặt hai câu hỏi:"Anh là ai" và "Việt Nam Tôi Đâu" [?
Nhân tài nước ta rất  đông đảo. Từ đầu thế kỷ XX cho đến này, chúng ta đã có một kho tàng văn học, nghệ thuật phong phú. Tất cả những tác giả  trọng  chính nghĩa, yêu đất nước đã lên tiếng chống bọn phản quốc hại dân. Tinh thần cách mạng chống độc tài cộng sản nay ngày càng cao độ, sẽ dẫn đến một cuộc cách mạng tư do, dân chủ cho Việt Nam.
 

TẠP CHÍ VĂN HÓA VIỆT NAM 466

 SƠN TRUNG  
Chủ biên
s 466
Ngày 29  tháng 4 năm 2017

                                                    

No comments:

Post a Comment