Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 6 June 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 468

MAC VÂN TRANG * TẬP CẬN BÌNH

Ông Tập Cận Bình đang… diễn biến?

(Tôi vừa nhận được bài này từ nhà giáo Phạm Toàn, do Đạo diễn Trần Văn Thủy gửi cho. Nếu đúng vậy, mừng cho nhân dân TQ quá. Xin đưa lên để bà con theo dõi xem thực hư thế nào)?
Những chính sách mới của Chủ tịch Tập Cận Bình bắt đầu thi hành từ 18/6/2017
1. Từng bước tăng tỷ lệ chi ngân sách trên 50% dùng vào dân sinh, giảm chi tiêu hành chính xuống còn dưới 20%, khống chế nghiêm ngặt việc chi hành chính.
2. Thực hiện miến phí y tế và học phí toàn dân.
3. Khống chế vật giá, mạnh mẽ gia tăng thu nhập nhân dân và lương tối thiểu.
4. Giảm thuế cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng mức khởi điểm tính thuế thu nhập cá nhân lên 10.000 NDT.
5. Khai đao với độc quyền, loại bỏ mọi hình thức độc quyền, kể cả lĩnh vực vũ khí đạn dược.
6. Học tập Đông Âu, dân doanh hóa toàn bộ xí nghiệp QD, chia cổ phần cho toàn dân; đình chỉ kết toán ngoại hối bắt buộc, thực hiện gửi ngoại hối trong nhân dân.
7. Không nâng đỡ thị trường nhà đất, dù chỉ mảy may tơ hào; triệt để cải cách thị trường chứng khoán.
8. Bỏ hẳn sinh đẻ có kế hoạch, giải tán UBKHHGĐ.
9. Loại bỏ mọi đặc quyền cũng như chế độ cung cấp đặc biệt.
10. Trừ các cơ quan đầu não nhà nước, loại bỏ tất cả trạm gác tại các cơ quan đảng và chính phủ.
11. Bãi bỏ mọi cơ cấu mang tính chất đoàn văn công, giải tán tán tất cả nhân viên.
12. Ngừng tuyển công chức, tài giảm công chức hàng năm, mạnh tay đốn bỏ các cơ cấu na ná như cơ quan hành chánh nhưng không thuộc các ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, quân sự, ngưng đài thọ họ bằng ngân sách.
13. Vào thời điểm thích hợp, giảm cấp hành chánh từ 5 cấp xuống còn 3 cấp, tức trung ương, tỉnh, huyện (dưới cấp huyện bỏ hết, thực hiện chế độ nhân dân tự trị).
14. Tài sản quan chức công khai, nhân dân được phép kiểm tra trên mạng bất cứ lúc nào.
15. Tách bạch quốc khố và đảng khố, quốc khố thuộc nhà nước, đảng khố thuộc đảng.
16. Từng bước ngưng viện trợ nước ngoài, chi tiêu từng đồng cũng phải được nhân dân hoặc đại biểu nhân dân đồng ý.
17. Phúc lợi xã hội phải tuân thủ cùng 1 pháp quy, quan và dân như nhau, toàn dân bình đẳng.
18. Từng bước loại bỏ hết toàn bộ xe công, các quan chức phải đi làm bằng phương tiện giao thông công cộng hoặc tự lái xe. Muốn làm giàu thì đừng “làm quan”.
19. Xây dựng “Luật chống hủ bại”. Lập pháp quy định: dù tham ô 1 xu cũng có tội; nhận hối lộ phạm tôi, đưa hối lộ vô tôi.
20. Từng bước loại bỏ hạn chế ngôn luận, cho phép nhân dân tự do làm báo, tự do ăn nói. Chỉ khi nhân dân có quyền giám sát, hiện tượng tham ô hủ bại mới không nơi lẩn trốn.
21. Cho phép nông dân thành lập nông hội, cho phép công nhân thành lập công đoàn tự do, cho phép các ngành nghề thành lập tổ chức tương trợ và tự quản. Mao Chủ tịch từng nói: mọi quyền lực ở nông thôn thuộc về nông hội; Lưu Thiếu Kỳ từng nói: mọi quyền lực ở nhà máy thuộc về công đoàn. Đảng Cộng sản không quên những lới nói đó của Mao Chủ tịch và Lưu Thiếu Kỳ.
22. Khôi phục toàn diện truyền thống văn hóa của dân tộc Trung Hoa, khôi phục tín ngưỡng, hãy để cho linh hồn của mọi người TQ đều có nơi nơi nương tựa.
Chủ trương trên của ông Tập được thông qua trong hội nghị TW lần thứ 4 (Đại hội 18). Theo phân tích của học giả Singapore Trịnh Vĩnh Niên, ông Tập không chỉ lo cho 2 nhiệm kỳ của mình, còn lo cho 30 năm sau.

NGUYỄN VĂN NGHỆ * ĐẠI HỌC HUẾ

Kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Viện Đại Học Huế: Lại suy ngẫm về đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”


vienDHH
Tòa nhà Viện Đại học Huế trước 1975
Nguyễn Văn Nghệ
  -“ 55 năm theo dòng lịch sử (1957-2012)”
     Cách nay hơn năm năm vào ngày 11/02/2012 tôi có nhận của Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế  một Thư Ngỏ. Trong thư có viết: “ Ngày 19 và 20 tháng 4 năm 2012, cùng với trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, Khoa Lịch sử sẽ tổ chức kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Ngành/Khoa (1957-2012).
  Đây là dịp để các thế hệ thầy cô giáo, sinh viên, học viên Cao học, Nghiên cứu sinh đã từng làm việc, học tập về lại mái trường thân yêu gặp gỡ, ôn lại kỷ niệm, chia sẻ những tình cảm, thành công trong cuộc sống của mình và được nghe, được thấy sự thay đổi, trưởng thành của cán bộ, sinh viên hiện đang làm việc, học tập tại Khoa Lịch sử hôm nay
  Do bận công việc gia đình nên tôi không thể đến Huế tham dự được. Và sau đó vào ngày 11/05/2012 tôi nhận được hai cuốn sách từ Khoa Lịch sử “Kính biếu” gởi vào, trong đó có cuốn “ 55 năm theo dòng lịch sử (1957-2012)” của nhà xuất bản Thuận Hóa do Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế làm chủ biên.Cuốn sách dày 300 trang nhưng chỉ dành 3 trang nói về giai đoạn hình thành cho đến năm 1975. Sau khi đọc xong cuốn sách này, vào lúc 12h51’ ngày 16/05/2012 tôi đã gởi E-mail đến Khoa Lịch sử có nội dung như sau:
“ Kính gởi quý thầy cô Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế.
Em đã đọc xong hai cuốn sách mà Khoa đã gởi biếu. Riêng cuốn “55 năm theo dòng lịch sử(1957-2012)” cho em biết thêm nhiều tư liệu mà em chưa bao giờ biết. Nhưng khi đọc xong cuốn sách này em có chút buồn “theo dòng lịch sử”. Bởi vì “55 năm theo dòng lịch sử” chỉ nhắc đến cái ngọn mà quên mất đi cái gốc. Để “ôn cố tri tân” em giở cuốn “Bên giòng lịch sử” của linh mục Cao Văn Luận đọc từ trang 277- 301 để giải tỏa nỗi buồn. Xin quý thầy cô tha thứ cho đứa học trò cũ ăn nói bộc trực này.
   Chúc quý thầy cô luôn dồi dào sức khỏe!”.
  –“ 60 năm theo dòng lịch sử (1957-2017)”
 Năm 2017 Viện Đại học Huế kỷ niệm 60 năm thành lập Viện Đại học, nhưng mỗi trường lại tổ chức vào ngày khác nhau: Trường Đại học Sư phạm Huế ngày 19/03/2017; Trường Đại học Khoa học- Đại học Huế ngày 24/03/2017; trường Đại học Y Huế tổ chức lễ chính vào ngày 22 /04/2017… Trong Thư Ngỏ kính gửi : Các thế hệ thầy cô, cán bộ, học sinh, sinh viên, học viên Trường Đại học Khoa học- Đại học Huế có ghi: “Những thành quả đạt được hôm nay ngoài sự hợp tác giúp đỡ của các cơ quan, đơn vị, cá nhân,tổ chức trong và ngoài nước, là công lao đóng góp to lớn của các thế hệ thầy cô giáo, cán bộ và sinh viên của Trường Đại học Khoa học- Đại học Huế hiện đang ở trong nước, ngoài nước và kể cả những người đã vĩnh viễn không còn nữa”
Lần kỷ niệm này, tôi đã đến tham dự và đã được Khoa Lịch sử Trường Đại Học Khoa học Huế kính biếu một số sách, trong đó có cuốn “60 năm theo dòng lịch sử (1957-2017)”. Cuốn sách dày 219 trang. Nội dung cũng chỉ nhắc đến phần “ngọn” còn phần “gốc” chỉ nhắc sơ sài.
   Nếu hai cuốn “55 năm theo dòng lịch sử( 1957-2012)”và “ 60 năm theo dòng lịch sử (1957-2017)” do Khoa Văn hoặc một Khoa nào khác biên soạn thì tôi sẽ không buồn “theo dòng lịch sử”. Đằng này lại do Khoa Lịch sử biên soạn nên tôi mới buồn “theo dòng lịch sử”. Hai nhân vật quan trọng trong việc thành lập Viện Đại học Huế là Tổng thống Ngô Đình Diệm và linh mục Cao Văn Luậnnhưng  không hề được nhắc đến tên.
  • Bên giòng lịch sử (1948- 1965): Ông Diệm và văn hóa giáo dục.
Thế hệ trẻ trong nước chắc có nhiều người chưa bao giờ nghe, thấy và đọc cuốn “Bên giòng lịch sử” của linh mục Cao Văn Luận. Có đọc qua mới thấy công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và linh mục Cao Văn Luận trong buổi bình minh của việc thành lập Viện Đại học Huế.
    Theo linh mục Cao Văn Luận vào ngày mùng 3 Tết năm Đinh Dậu (1957) tại nhà từ đường của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở Huế, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã nói với linh mục Cao Văn Luận: “ Này cha, tôi thấy cần phải thành lập tại Huế một viện Đại học lớn, vì hai lý do chính. Thứ nhất là Huế từ trước đã là một trung tâm văn hóa của nước ta. Ở Huế đã có những truyền thống văn hóa sâu đậm, có những cơ sở văn hóa lâu đời, như trường Quốc tử giám, các cuộc thi cử Hán học. Dân miền Trung lại hiếu học mà nghèo, có bao nhiêu thanh niên ưu tú muốn lên Đại học mà không thể vào Sài Gòn học tiếp. Thứ hai là hiện nay dân chúng xôn xao đồn đại rằng chính phủ một ngày nào đó có thể bỏ Huế, vì hiện nay Huế không quan trọng lắm về phương diên chính trị, kinh tế. Vậy lập Viện Đại học Huế là chứng minh cách cụ thể với dân chúng, với quốc tế cũng như với bên kia rằng chính phủ nhất định bảo vệ Huế. Huế chỉ cách vĩ tuyến 17  khoảng 100 cây số, lập ở đây một Đại học lớn chẳng khác nào thách đố với bọn cộng sản. Nếu bây giờ tôi quyết định lập Đại học Huế, cha có bằng lòng giúp tôi không?”
Linh mục Cao Văn Luận đã trả lời: “Thưa cụ, nếu tôi có thể làm được việc gì để góp công vào việc thành lập một Đại học ở Huế, thì cụ có thể tin rằng tôi không ngần ngại chút nào”.
Tổng thống Ngô Đình Diệm thấy linh mục Cao Văn Luận nhận lời liền nói: “ Vậy thì ít hôm nữa tôi sẽ sai một phái đoàn ra đây gặp cha, để thảo luận và nghiên cứu các chi tiết cụ thể”
Và khoảng một tháng sau, một phái đoàn từ Sài Gòn ra Huế gặp linh mục Cao Văn Luận có các ông Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, Viện trưởng Đại học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình và những giáo sư chuyên viên khác.
Một cuộc họp được tổ chức tại Tòa Hành chánh tỉnh Thừa Thiên. Linh mục Cao Văn Luận trình bày trước cử tọa những lý do mà Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa ra và kèm theo những lý do thực tế của linh mục. Nhưng cuộc họp đã đi đến quyết định “là vì những hoàn cảnh đặc biệt những khó khăn trong ngành giáo dục, chưa nên làm việc vội vàng hấp tấp quá.Họ nói rằng ở Huế chỉ nên lập một chi nhánh của Viện Đại học Sài Gòn tùy thuộc hoàn cảnh vào viện Đại học Sài Gòn và Bộ Quốc gia Giáo dục. Như vậy Đại học Huế sẽ không thành một đơn vị độc lập mà chỉ là một số phân khoa đặt dưới quyền Viện Đại học Sài Gòn mà thôi” và linh mục Cao Văn Luận được cử làm đại diện cho ông Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình để tổ chức. Linh mục không đồng ý .“Nhưng đành khuất phục trước quyết định của đa số”.
Phái đoàn về Sài Gòn được mấy hôm thì có nghi định thành lập Đại học Huế, nhưng với các điều khoản đặt Đại học Huế lệ thuộc Viện Đại học Sài Gòn.
   Linh mục Cao Văn Luận đã ghi lại những khó khăn của Đại học Huế bị lệ thuộc Viện Đại học Sài Gòn: “ Sau hai tháng hoạt động mỗi ngày tôi thấy thêm nhiều khó khăn chỉ vì Huế thì xa Sài Gòn, tôi lại không có đủ thẩm quyền quyết định bất cứ việc gì mà phải phúc trình về Viện trưởng Đại học Sài Gòn, về Bộ Quốc gia Giáo dục, rồi lên ông Nhu, ông Diệm. Các thủ tục đó làm cho công việc chậm trễ, làm cả tôi và những người góp sức lúc đầu chán nản.Tôi vào Sài Gòn trình bày các khó khăn đó thẳng cho ông Diệm. Tôi nói với ông Diệm rằng ý kiến đầu của ông Diệm là muốn có một Đại học Huế độc lập, lớn quan trọng để thành một chứng minh và thách đố với thế giới và bên kia nếu cứ phải chạy quấn trong những thủ tục giấy tờ rắc rối, và những hành lang của giới giáo dục Sài Gòn, thì không thể đi đến kết quả tốt được. Tôi yêu cầu ông Diệm cho Đại học Huế quy chế riêng biệt và độc lập, và tôi có quyền quyết định mọi việc trong phạm vi ích lợi cho Đại học Huế. Tôi ngỏ ý nếu không được như vậy thì xin ông Diệm chọn người khác, và tôi nhận thấy không thể làm việc trong các điều kiện quá rắc rối như vậy được. Tôi không phải là người có thể đi vòng vo qua bao nhiêu hành lang các bộ sở được mãi”. Tổng thống Ngô Đình Diệm trả lời: “Cha yên tâm. Tôi đồng ý với cha về những điều đó, và sẽ có nghị định thành lập Viện Đại học Huế tự trị ngay cho cha, và tôi xin mời cha làm Viện trưởng đầu tiên Viện Đại học Huế”.
Sau khi linh mục Cao Văn Luận trở về Huế được ít hôm thì có nghị định thành lập Viện Đại học Huế cùng với sắc lệnh cử linh mục Cao Văn Luận làm Viện trưởng.
– Giới trí thức nhận xét công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Linh mục Cao Văn Luận
  Giáo sư Nguyễn Văn Hai nhận xét: “… Số là sau khi mới về Việt Nam nhậm chức, ông Ngô Đình Diệm ra Huế. Lẽ tất nhiên ông ấy cần một sự tiếp đón nồng hậu của dân Huế nói chung và của học sinh Huế nói riêng. Linh mục Cao Văn Luận lúc bấy giờ là giáo sư Triết tại trường. Ngài năn nỉ tôi tổ chức diễn hành tiếp đón. Tôi bàn với một số giáo sư, trưởng lớp và trưởng ban sinh hoạt của trường. Tất cả đồng ý đặt điều kiện là ông Diệm phải hứa sau này có quyền hành thời phải mở một Đại học tại Huế, để con em miền Trung nghèo có cơ hội cầu tiến.Lời yêu cầu cũng vừahợp ý ông Diệm.Saukhi được đoan chắc như vậy, chúng tôi mới mặc đồng phục trắng có thắt cà vạt xanh lơ mang biểu ngữ đòi mở Đại học Huế đi hàng lối chỉnh tề diễn hành chào đón. Sau đó Tổng thống Ngô Đình Diệm giữ lời hứa cho mở Đại học Huế mặc dầu có sự phản đối dữ dội của các vị khoa bảng ở Sài Gòn. Đại học Huế được thành lập, con em miền Trung có chỗ trau dồi chuyên môn và nhiều lớp sinh viên tốt nghiệp đãgóp công xây dựng nước Việt Nam”.
   Với giáo sư Nguyễn Văn Trường- từng là giáo sư Viện Đại học Huế khi mới thành lập và sau này hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng (tức Bộ trưởng) Giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa- đã nhận xét về Linh mục Cao Văn Luận: “ Với cha Luận, cái nhìn của tôi thuở ban sơ và bây giờ cũng khác đi nhiều. Cha là người linh mục độc nhất làm Viện trưởng một Viện Đại học công lập. Nếu giáo sư Nguyễn Quang Trình là ông Viện trưởng đầu tiên, có công hóa giải sự chống đối việc thành lập Viện Đại học Huế của một số khoa bảng Sài Gòn bấy giờ thì cha Luận là ông Viện trưởng đã xây dựng và hình thành những cơ sở chính yếu của Viện Đại học Huế: khởi đầu là trường Luật, Văn khoa, Khoa học, Sư phạm. Sau đó thêm trường Y. Tôi có lắm dị đồng với cha Viện trưởng của tôi, nhất là trong mấy niên học đầu. Dị đồng và mâu thuẫn ở cái nhìn cách hành xử”
  Linh mục Cao Văn Luận luôn ôm ấp Viện Đại học Huế có một ban giảng huấn giỏi giang: “ Cha Viện trưởng, vài năm trước khi thành lập Viện Đại học Huế, đã có kế hoạch trồng người. Cha gởi nhiều học trò giỏi đi du học. Muốn là giáo chủ ,khai đạo, phải có tông đồ. Nhưng tông đồ của cha, người đi thì có , người về không mấy ai”
    Do “người về không mấy ai” nên linh mục Cao Văn Luận “ phải tuyển các hộ pháp, thời quân, sứ giả của Cha ở nhiều nguồn khác nhau: tại chỗ, Sài Gòn, Pháp, Anh, Mỹ ,Đức , Bỉ…và đa số thì rất trẻ. Bên những bậc cha anh như cụ Nhu, cha Thích, bọn trẻ học hỏi và trưởng thành” (tuhoaitan.blogspot.com /2017/03/ky-niem-60-nam-thanh- lap-vien-ai-hoc-hue.html)
   – Giữa nói thật và không nói thật
Tại sao công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và linh mục Cao Văn Luận trong việc thành lập Viện Đại học Huế sờ sờ ra đó mà trongcác lần kỷ niệm thành lập Viện Đại học Huế, không một trường nào của Viện Đại học Huế nhắc đến tên của hai vị ấy dù chỉ một lần mà thôi!
Giảng viên Hà Văn Thịnh công tác tại Khoa lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế từ năm 1978 đến nay đã có lần trả lời bà Mạc Việt Hồng trên báo mạng Đàn Chim Việt trong bài viết “ Nhà sử học Hà Văn Thịnh nói về Hồ Chí Minh”: “Tôi nói thật với chị, lịch sử Việt Nam hiện đại chỉ có 30% sự thật, 70% giả dối. Đó là điều rất đau lòng. Ví dụ đánh nhau 30 năm với Pháp và Mỹ mà Việt nam không thua trận nào là không thể chấp nhận được…
Sự dối trá đó làm cho sinh viên không thích sử nữa. Thấy sử là bịp bợm, chán quá! Tôi đã viết trên báo Lao Động năm 2005, “ Lịch sử theo trang sách học trò”, tôi vạch rõ, dạy sử mà suốt ngày phải nói dối, điều đó đau lòng lắm. Ở Việt Nam hiện nay, rất nhiều trí thức ở vào hoàn cảnh nan giải giữa nói thật và không nói thật” (Dan Chim Viet online 19/05/2010).
Không biết chỉ riêng những đồng nghiệp trong Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế có đồng ý với nhận định của giảng viên Hà Văn Thịnh không? Tôi là sinh viên Khoa Lịch sử K.19 (1995-1999) của Trường Đại học Khoa học Huế, cũng từng là học trò của giảng viên Hà Văn Thịnh. Trong bốn năm đại học khi học đến Hiệp định Genève và Paris , tôi muốn đọc nguyên văn Hiệp định  bằng tiếng Việt mà thôi nhưng lục lọi khắp thư viện của Khoa cũng như của Viện Đại học Huế mà không thấy một văn bản nào cả! Những vị lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam luôn tự hào là đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, buộc chúng ngồi vào bàn hội nghị để ký Hiệp định nhưng không biết tại sao trong thư viện của Khoa Lịch sử cũng như thư viện của Viện Đại học Huế không có một văn bản Hiệp định nào để sinh viên nghiên cứu kỹ từng điều khoản trong Hiệp định? Còn nếu tìm tài liệu liên quan đến Cải cách ruộng đất hoặc vụ Nhân văn giai phẩm…thì nói theo ngôn ngữ dân gian đến “Tết Ma rốc” mới tìm thấy!Chắc là lãnh đạo đảng nghĩ rằng sinh viên chưa đủ trình độ nhận thức những tài liệu ấy cho nên chưa cho tiếp cận!
Những người làm công tác dạy bộ môn lịch sử có ngộ ra mình dạy điều giả dối như giảng viên Hà Văn Thịnh đã thố lộ không?Chắc là có người ngộ ra nhưng cũng có lắm người chưa ngộ ra.
Giảng viên Hà Văn Thịnh khẳng định: “Ở Việt Nam hiện nay, rất nhiều trí thức ở vào hoàn cảnh nan giải, giữa nói thật và không nói thật”. Đúng là nan giải thật, bởi vì “ đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị dày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu điển hình! Vì thế mà không thể nói thật. Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…” (Lời ông Hạ Đình Nguyên- Boxitvn online 27/09/2013).
    Cũng vì chén cơm manh áo nhiều người chấp nhận nói dối, cho nên sau khi về hưu, nhiều giáo viên thố lộ: “Tôi chỉ giảng dạy theo y như sách mà thôi. Sách viết sao tôi giảng vậy!”. Ngay cả giảng viên Hà Văn Thịnh cũng ở trong tình trạng nan giải khi trả lời phỏng vấn một cách ấp a ấp úng với bà Mạc Việt Hồng về điều IV- Hiến pháp: “ Cái đó thì…thực sự trả lời không được đâu, chị ạ. Nguyên tắc của nhà nước này, chế độ này, bắt dân phải nghe theo như vậy, nên tôi không thể chống lại điều IV- Hiến pháp được. Tôi là công dân của nhà nước này nên không thể chống lại Hiến pháp được. Có điều ai cũng muốn tự do dân chủ cả…”
Để hưởng bổng lộc và bảo toàn mạng sống nên nhiều người chấp nhận “nói dối cưỡng bức”. Trong bài viết “Tôi đi cải táng thầy tôi” của tác giả Phạm Tuân viết về việc cải táng học giả Phạm Quỳnh đăng trên Tễu- blog, có một độc giả nặc danh nhận xét về nhạc sĩ Phạm Tuyên , con trai học giả Phạm Quỳnh vào lúc 19:22 ngày 09/09/2015: “ Anh Phạm Tuyên đã phải chui vào vỏ ốc để tồn tại. Cũng như cụ nhà văn Nguyễn Tuân đã nói: “Tôi sống được là nhờ biết sợ!”.
“ Lịch sử, sự thật và sử học”                     
Khi còn là sinh viên, chúng tôi luôn được dạy bảo là chỉ có sử học Mác xít mới là khách quan mà thôi.
  Giáo sư Hà Văn Tấn nhận định về nền sử học mác xít: “Lịch sử là khách quan, sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức của chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau”  và “ các nhà sử học chúng ta thường tự coi là mác xít nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch cường điệu một cách phiến diện một mặt nào đó, lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm. Cũng chính vì vậy nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua”
    Giáo sư Hà Văn Tấn nhắc nhở các nhà sử học mác xít: “Đã là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng, lúc sai. Đó là chuyện thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp của người đó là rõ ràng, không thể chối cải. Nhà sử học Mác xít không thể chấp nhận một thái độ như vậy” https://nghiencuulichsu.c om/2013/08/28/lich-su-su-that- va-su-hoc
   Ông Phạm Cao Dương nhận định: “ Người ta có thể nói rằng nền sử học mác xít Việt Nam, phân biệt với nền sử học Việt Nam dù là ở miền Bắc trước năm 1975 và trên toàn quốc sau năm 1975, với những thành tích sửa đổi văn bản, ngụy tạo nhân vật, uốn cong các dữ kiện lịch sử, chắc chắn thay vì mở đường cho việc tìm hiểu lịch sử nước nhà sẽ làm cho các nhà sử học tương lai phải mệt mỏi lắm mới tìm ra được một số không nhỏ những sự thực…”   https://nghiencuulich su.com/2013/02/18/su-that-lich -su-va-cac-nha-su-hoc-mac-xit- viet-nam

     “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý của con người. Chúng ta đừng làm cho đạo lý ấy bị mai một mà phải làm cho nó ngày càng sáng ngời hơn!

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 10-5-2017


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 10-5-2017



Lễ Phật Đản 2641 tại Tu viện Long Quang, Huế — Nhằm ngăn chận tham gia Đại lễ Phật Đản : Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo và 2 Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Việt Nam bị công an bắt đi làm việc — Thư kêu gọi đóng góp tịnh tài của Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội Giáo hội tại Hoa Kỳ


PDF: https://tinyurl.com/kchj7nt


PARIS, ngày 10.5.2017 (PTTPGQT) - Viện Hoá Đạo vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Bản tường trình số 1 về Đại lễ Phật Đản do Viện Hoá Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) tổ chức tại Tu viện Long Quang, Huế.


Qua bản tường trình mới thấy rõ những ngăn cản, úc hiếp của Công an đối với một lễ nghi tôn giáo quan trọng có từ hàng nghìn năm trên đất nước Việt Nam : Đại lễ Phật Đản của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Đạo hữu Lê Công Cầu, Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo và hai Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Ngô Đức Tiến và Nguyễn Văn Đê bị công an triệu đi “làm việc”. Nói là “làm việc” nhưng kỳ thực là nhận chịu sự thoá mạ của công an đối với GHPGVNTN. Không chỉ thoá mạ mà còn bắt buộc người “làm việc” phải cam kết từ bỏ GHPGVNTN, cam kết không về Tu viện Long Quang tham gia Đại lễ Phật Đản. Dưới đây là toàn văn Bản tường trình số 1.



Đạo hữu Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ cũng vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Thư Kêu góp đóng góp tịnh tài cho những Phật sự cùa Giáo hội trong nước. Chúng tôi xin đăng tải thư ấy dưới đây.







GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

VIỆN HOÁ ĐẠO


Tu Viện Long Quang – Thị Xã Hương Trà - Tỉnh Thừa Thiên Huế

Phật lịch 2561

Số 06.17/ VHĐ/BT





ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN QUỐC NỘI
PHẬT LỊCH 2561-2017
(Bản Tin Số I)


Ngưỡng trình : - Đức Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN


Kính trình :
- Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
- Chư Tôn Đức Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN
- Hòa Thượng Chủ Tịch HĐĐH/GHPGVNTNHN/HK


Kính gởi :
- Ông Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam
- GS Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế.
- CS Giám Đốc Phòng Liên Lạc Phật Giáo Quốc Tế.
- Đồng bào Phật Tử trong và ngoài nước


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT


Ngưỡng Bạch Chư Tôn Đức,
Kính thưa liệt Quý Vị,


Mùa Phật Đản đã đến, ngày Đại Lễ Chính Thức đã gần kề, Bản Tin nầy ngoài việc tường trình Phật Sự lên Chư Tôn Đức và đồng bào Phật tử các giới, tôi xin trân trọng kính gởi đến Ông Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam, GS Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế và CS Giám Đốc Phòng Liên Lạc Quốc Tế với nỗi niềm sau :





Chư Tăng, Phật tử đưa 3 Vòng hoa đến Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo


I/. HAI HUYNH TRƯỞNG CAO CẤP GĐPT BỊ MỜI LÀM VIỆC :


Ngày 28.4.2017, Công An Huyện Phú Vang đã mời :


*Huynh Trưởng Cấp Dũng Ngô Đức Tiến, Ủy Viên Tổ Kiểm Ban Hướng Dẫn Trung ương Gia Đình Phật tử Việt Nam (GĐPTVN).


*Huynh Trưởng Cấp Tấn Nguyễn Văn Đê, Ủy Viên Nội Vụ Ban Hướng Dẫn Trung ương Gia Đình Phật tử Thừa Thiên.

đến Trụ Sở Công An huyện Phú Vang làm việc.


Vẫn nội dung cố hữu như những năm qua, mà công an thẩm vấn 2 anh là :

- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một tổ chức bất hợp pháp

- Các Ông tham gia GHPGVNTN là các Ông vi phạm luật pháp.

- Các Ông phải cam kết từ bỏ GHPGVNTN.

- Các Ông phải cam kết là không được đến Chùa Long Quang.





Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo cạnh Cầu Trường Tiền Huế



Hai Huynh Trưởng đã cương quyết giải thích GHPGVNTN là một tổ chức hợp pháp mà bằng chứng hiển nhiên là Đảng và Nhà Nước đã không có một văn kiện nào giải thể hay ngăn cấm chúng tôi sinh hoạt, cho nên việc khủng bố, ngăm cấm chúng tôi sinh hoạt là Nhà Nước đã vi phạm pháp luật chứ không phải chúng tôi vi phạm.


Phía Công An đã đưa ra một công văn xa xưa do Ông Ngô Hòa, nguyên Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Huế ký, nội dung ngăn cấm một buổi lễ của GHPGVNTN Tỉnh Thừa Thiên Huế (lâu quá tôi không còn nhớ rõ) để chứng minh là Nhà Nước đã có văn bản ngăn cấm cụ thể, buộc 2 Huynh Trưởng phải thi hành.


Hai Huynh Trưởng đã phản bác rằng GHPGVNTN là một Giáo Hội không những có tầm cở Quốc Gia mà cả Quốc Tế, vậy nên một ông Phó Chủ Tịch Thành Phố không đủ tư cách ra văn bản ngăn cấm, do đó đối với chúng tôi văn bản ấy chẳng có giá trị gì cả. Chúng tôi yêu cầu Nhà Nước muốn ngăn cấm hay giải thể thì hãy chính thức ra văn kiện rõ ràng trước Toàn Dân và Quốc Tế, nếu đúng với Hiến Pháp và các Công Ước Quốc Tế của LHQ về Tự Do Tôn Giáo chúng tôi sẽ thi hành.


Hai Huynh Trưởng đã cương quyết bảo vệ quan điểm của mình cho nên Công An trách hai Ông “lỳ” và ép buộc hai Huynh Trưởng phải viết cam kết.


Trước sự quyết liệt của Công An, hai Huynh Trưởng trả lời : Chúng tôi không viết cam kết, nếu các ông éo buộc, chúng tôi phát nguyện Tự Thiêu để bảo toàn Lý Tưởng của mình.


Buổi làm việc nầy có mục đích gì ? — Theo tôi, đây là một đòn phủ đầu, gây tâm lý hoang mang, lo sợ, e dè cho Phật Tử nói chung và Đoàn Viên GĐPT nói riêng để gián tiếp ngăn cản Phật Tử đến tham dự Đại Lễ Phật Đản PL 2561-2017 tại Lễ Đài Long Quang. Lý do khác, là 2 Huynh Trưởng Ngô Đức Tiến và Nguyễn Văn Đê là những Huynh Trưởng tiêu biểu của tỉnh Thừa Thiên, lại cư trú tại Huyện Phú Vang mà tiềm năng của GHPGVNTN tại Huyện Phú Vang là một trong những cơ sở lớn nhất trong toàn Tỉnh, nên họ nhắm đánh vào các cơ quan đầu não.





Chư Tăng Niêm hương Bạch Phật trước Đài Kỷ niệm



II/. TỔNG THƯ KÝ VIỆN HOÁ ĐẠO KIÊM VỤ TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VỤ, BỊ MỜI LÀM VIỆC :


Ngày 03.5.2017 (08.4.âm lịch) sau khi làm lễ đặt vòng hoa tại Đài Kỷ Niệm Thánh Tử Đạo xong, vừa về đến nhà lúc 7g tối thì tôi, Lê Công Cầu, nhận được giấy mời làm việc với Công An lúc 8g sáng ngày 4.5.2017.


Trong một ngày làm việc, Công An khai thác nội dung bản Tâm Thư Số 1 của tôi và Thông Bạch Phật Đản PL 2561-2017 do Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế phổ biến.


Thực tế mà nói, nội dung làm việc không có gì gay gắt lắm, tôi trình bày có tình, có lý và họ đã lắng nghe, cũng như tôi đã lắng nghe họ (tôi sẽ xin tường trình trong Tâm Thư Số 2 sắp tới vì bản tin nầy hơi dài).


Vậy mục đích chính của buổi làm việc nầy là gì ? Vì Tâm Thư Số 1 — Không ! Vì Thông Bạch Phật Đản — Không ! Việc mời tôi làm việc một cách cấp bách, chỉ trước Phật Đản một tuần lễ, sự việc nầy sẽ được loan truyền khắp Tỉnh Thừa Thiên Huế, ảnh hưởng không ít đến tâm lý hoang mang, lo sợ, e dè cho Đồng Bào Phật Tử, nhất là Đoàn Viên GĐPT, cho nên mục đích chính không gì khác hơn là gián tiếp ngăn cản Phật Tử đến tham dự Đại Lễ Phật Đản tại Tu Viện Long Quang, nơi đặt văn phòng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN như tôi đã trình bày về hai Huynh Trưởng nêu trên.

______________________


Lẽ ra tôi phải gởi Kháng Thư lên các cấp Chính Quyền, tuy nhiên qua kinh nghiệm tôi thấy Chính Quyền đã biểu lộ sự vô cảm và khinh thị đối với công dân nên tôi gởi nỗi niềm bị bức hiếp nầy đến Ông Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam, Gíao sư Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế và Cư sĩ Giám Đốc Phòng Liên Lạc Phật Giáo Quốc Tế, giúp lên tiếng bảo vệ anh em Huynh Trưởng chúng tôi, bảo vệ Gia Đình Phât Tử chúng tôi, bảo vệ Giáo Hội chúng tôi đã chịu đựng quá nhiều đau đớn trong quá trình phụng sự Đạo Pháp và Dân Tộc.



III/. LỄ KHAI KINH PHẬT ĐẢN VÀ ĐẶT VÒNG HOA TẠI ĐÀI KỶ NIỆM THÁNH TỬ ĐẠO, HUẾ.


Theo tinh thần Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2561-2017 do Hòa thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo ban hành, được Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế phổ biến ngày 26.4.2017, thời Khai Kinh Đại Lễ Phật Đản khai diễn lúc 8 giờ sáng ngày mồng 8 tháng 4 Đinh Dậu (03.5.2017) tại Tu Viện Long Quang nơi thiết trí Lễ Đài Chính của GHPGVNTN.


Buổi lễ đặt dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Thích Minh Quang, Chánh Văn Phòng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, Trú trì Tu viện Long Quang, phần nghi lễ do Chư Tăng bổn tự phụ trách với sự tham dự của Phật tử địa phương.




Các Huynh trưởng GĐPT đứng quanh Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo



Cũng theo tinh thần Thông Bạch, lễ đặt vòng hoa tại Đài Kỷ Niệm Thánh Tử Đạo gần cầu Trường Tiền khai diễn lúc 15g 30 cùng ngày.

Năm nay duyên lành, Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thanh Quang không bị chận đường như năm ngoái, Ngài đã cùng chư Tăng Ni, và các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn GĐPT Quảng Nam Đà Nẵng vượt chặng đường hơn 100 cây số, hiện diện tại nơi hành lễ rất sớm.


Tại đây, phái đoàn Chư Tăng Tu Viện Long Quang, đại diện Đạo Tràng Thập Thiện và Bồ Tát Giới, đại diện các đơn vị Gia Đinh Phật Tử Bắc Thừa Thiên từ các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, các đơn vị Tả Ngạn, Hữu Ngạn, Nội Thành Huế, đại diện các đơn vị phía Nam từ các huyện Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc đều có mặt, nhất là các đơn vị rất xa như Hải Nhuận, Lăng Cô, Nước Ngọt…

Đặc biệt có sự tham dự của Hòa Thượng Thích Toàn Lạc, trú trì Chùa Kim Quang, Huế, luôn đồng hành trong các hoạt động của Giáo Hội.


Lễ Tưởng Niệm Chư Thánh Tử Đạo trùng thời điểm với Festival Làng Nghề do Nhà Nước tổ chức, vì thế Đài Kỷ Niệm Thánh Tử Đạo nằm lọt trong khuôn viên trưng bày của lễ hội cho nên Chư Tăng và Phật Tử rất lo lắng sẽ gặp trở ngại. Tuy nhiên dù hiện trường còn ngổn ngang nhưng buổi lễ đã thành công viên mãn.


Đúng giờ hành lễ, 3 vòng hoa được đặt trước Đài Kỷ niệm, mang các giòng chữ :


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
HỘI ĐỒNG LƯỠNG VIỆN
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM


ĐẠO TRÀNG THẬP THIỆN VÀ BỒ TÁT
TU VIỆN LONG QUANG
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM


GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM



Các chị Huynh trưởng GĐPT nhiễu quanh Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo


Theo sau ba vòng hoa, là Hòa Thượng Viện Trưởng cùng Chư Tăng tiến vào Lễ Đài, sau Chư Tăng là đại diện Gia Đình Phật Tử và đại diện Đạo Tràng trang nghiêm cử hành lễ Tưởng Niệm.


Hòa Thượng Viện Trưởng niêm hương Bạch Phật và dâng lời tác bạch lên Chư Thánh Tử Đạo, tất cả đồng đảnh lễ tam bái, rồi Hòa Thượng Viện Trưởng cùng tất cả Phật Tử nhiễu ba vòng quanh Lễ Đài bày tỏ lòng tri ân và thương cảm với những người đã nằm xuống bên giòng sông Hương thơ mộng, bên cầu Trường Tiền lịch sử để mở đầu một giai đoạn hào hùng của Dân Tộc và Đạo Pháp.


Buổi lễ kết thúc lúc 16g, Chư Tăng và Phật Tử cung tiễn Hòa Thượng Viện Trưởng hồi trú xứ, các phái đoàn lưu luyến chia tay, hẹn gặp nhau tại Tu Viện Long Quang ngày Thế Tôn thị hiện. Lúc 8 giờ tối, tôi trở lại Đài Kỷ Niệm thì những băng rôn trên các vòng hoa đã bị “ai đó” tháo gở như các năm trước.


NAM MÔ LÂM TỲ NI VIÊN VÔ ƯU THỌ HẠ
BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT


Phật Lịch 2561 – Tu Viện Long Quang,
ngày 6 tháng 5 năm 2017
Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (đã ấn ký)NGUYÊN CHÁNH LÊ CÔNG CẦU


Thư kêu gọi đóng góp tịnh tài cho Lễ Huý nhật Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang


THƯ KÊU GỌI ĐÓNG GÓP TỊNH TÀI
TỔ CHỨC LỄ HUÝ NHẬT
ĐỨC CỐ ĐỆ TỨ TĂNG THỐNG THÍCH HUYỀN QUANG


KÍnh Bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni,
Kính Thưa Quý Đạo Hữu Đồng Hương Phật Tử,

Thấm thoát đã 9 năm trôi qua từ ngày Đức Đệ Tứ Tăng Thống xả bỏ báo thân (2008) rời xa tất cả chúng ta, sau 88 năm có mặt nơi cõi ta bà này. Nhất là 33 năm cuối đời bị tù tội, lưu đày, quản chế, rồi lâm trọng bệnh, vì Ngài cùng với Đức Đệ Ngũ Tăng Thống kiên cường, bất khuất bảo vệ tính pháp lý lịch sử của GHPGVNTN không để cho nhà đương quyền giải thể.
Năm nay, lễ húy nhật của Ngài được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 6 măm Đinh Dậu (tức 26 tháng 6 năm 2017) tại Tu viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Định.
Để tỏ lòng cung kính tưởng niệm và tri ân công đức sâu dày của bậc chân tu, vị lãnh đạo tối cao GHPGVNTN đã quên mình, dốc lòng hy sinh cho Đạo Pháp, cho Dân Tộc quyết mang lại Tự Do Tôn giáo, Dân Chủ ,và Độc Lập dân tộc cho quê hương. Phổ Chiếu xin hết lòng mời gọi Chư Tôn đức và đồng bào Phật tử các giới hãy nhín chút tịnh tài, cùng nhau chung sức đóng góp cho đại lễ Huý nhật Ngài được viên thành. Số tịnh tài này nhằm trang trải lễ huý nhật, đồng thời giúp đỡ phương tiện di chuyển cho hàng Giáo phẩm cùng một số Phái đoàn Gia Đình Phật tử ở xa về Tu viện Nguyên Thiều tham dự.

Biết rằng lễ Phật Đản chung của GHPGVNTN được tổ chức tại chùa LIÊN HOA, thành phố Houston và ngày Húy nhật của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống gần kề nhau, nhưng mỗi đại lễ mang một ý nghĩa quan trọng khác nhau, nhất là cho Phật sự của Giáo hội chúng ta ở quốc nội, mỗi năm chỉ có một lần.

Đây cũng là cơ hội để chúng ta biểu tỏ lòng biết ơn, và ghi tâm khắc cốt hình bóng của bậc cao Tăng thạc đức đã gìn giữ mạng mạch Chánh Pháp của GHPGVNTN trong thời đại điêu linh của đất nước : Ngài đã “Một Đời vì Đạo vì Dân”.

Phổ Chiếu kính xin bày tỏ trước, lòng tri ân đóng góp của Chư Tôn Đức Tăng Ni, và Quý Đạo Hữu Đồng Hương Phật Tử.

Mọi đóng góp tịnh tài, xin gửi về :


Đạo hữu Thanh Tâm Huỳnh Hồ Hương, Tổng Thủ quỹ GHPGVNTN-HN/HK
Chùa LIÊN HOA
6709 Howell-Sugar Land Road - Houston TX. 77083
Chi phiếu xin ghi tên người nhận là : GHPGVNTN – HNHKMemo (ghi chú tiền gửi) : Yểm trợ Húy nhật Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống


Nam Mô Bổn Sư THÍCH CA MÂU NI PHẬT.


P.l. 2561 - Houston, ngày 10 tháng 5 năm 2017
Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ Thiện Xã hội

JASON GIBBS * VIỆT NAM KIỂM DUYỆT NHẠC




Nhìn lại quá trình kiểm duyệt nhạc Việt qua năm tháng


Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955)Bản quyền hình ảnh Sỹ Ngọc /Văn Nghệ
Image caption "Thuần phong mỹ tục … Mỹ / Văn nghệ ướt của Mỹ." Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc vẽ (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955)

Chính phủ của các quốc gia có quyền kiểm duyệt các tác phẩm lưu hành và xuất bản. Như vậy thì khó bác bỏ việc Việt Nam có luật lệ cấm hay cho phép tác phẩm được phổ biến. Dư luận gần đây có nhiều tranh cãi về hành động của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn cho, rồi rút, rồi lại cho phép lưu hành 5 ca khúc của thời gọi là "Sài Gòn tạm chiếm."
Vấn đề chính là cách thẩm định nhạc không rõ ràng và nhất quán của cơ quan kiểm duyệt. Kết quả là một hệ thống kiểm duyệt có vẻ tùy tiện, song nhiều yếu tố trong quá khứ đã góp phần làm nên chế độ kiểm duyệt ở Việt Nam.
Công việc kiểm duyệt các tác phẩm là sự thừa kế của chế độ thực dân Pháp. Thực ra Pháp đã xây nên hệ thống truyền thông cho xứ Việt, họ kiểm soát hệ thống ấy cũng là đương nhiên. Luật pháp kiểm duyệt đối với quốc dân Pháp ở thuộc địa cũng thoải mái, tuy nhiên đối với người bản xứ quá chặt chẽ. Một tờ báo hay quyển sách viết bằng tiếng Pháp được in tự do hơn một tác phẩm quốc ngữ.
Nhưng nếu tác phẩm nào bằng tiếng Việt không chạm trực tiếp đến chính trị thì chắc cơ chế quản lý của Pháp cho phép lưu hành. Thí dụ trong những năm đầu 1940 có những bài ca ái quốc "thanh niên lịch sử" của nhóm Lưu Hữu Phước được Tổng hội Sinh viên của Trường Đại học Hà Nội được xuất bản.
Nước Pháp có toàn quyền ở Đông Dương, như thế thời thực dân các tác phẩm xuất bản không có thông tin về giấy phép. Đến năm 1946, Việt Nam độc lập bắt đầu thấy chữ "kiểm duyệt" (ghi tắt là k.d.) trên bìa sau của bản nhạc.

Từ Tập nhạc Thương Binh Ca HátBản quyền hình ảnh Thư viện Quốc gia
Image caption Tập nhạc Thương Binh Ca Hát (Bộ Thương Binh Cửu Binh xuất bản, 1948) trong thông tin in không có việc kiểm duyệt (nguồn tư liệu: Thư Việc Quốc Gia)
Thời kháng chiến chống Pháp, âm nhạc không được in ấn nhiều về số lượng và nếu được in là in thạch tại địa phương. Như vậy âm nhạc chủ yếu được phổ biến theo cách truyền miệng.
Lúc bấy giờ kiểm duyệt có nghĩa là tự kiềm chế mình trong hoàn cảnh của đời sống mới xã hội chủ nghĩa xây dựng con người mới. Một bài báo Văn Nghệ năm 1950 nhấn mạng rằng "nhạc sĩ phải gạt bỏ đầu óc cá nhân, lao mình vào đời sống của đại chúng, phải kiểm điểm lại tư tưởng, để gột tẩy sạch những tàn tích lãng mạn còn rơi rớt trong mỗi người."
Đa số các nhạc sĩ sáng tác vốn là dân thành phố có tính tiểu từ sản. Nếu xâm nhập vào thực tế cuộc sống của người nông dân nghèo họ sẽ nhận ra sự phù phiếm của đời sống cũ.
Những năm kháng chiến chưa có danh sách cấm-cho. Chính quyền Việt Nam mong rằng mỗi người sẽ vui lòng quay lưng với quá khứ chưa nghiêm túc của mình và tuân theo chính sách văn nghệ của chính quyền. Một thí dụ là lãnh đạo văn nghệ khuyên nhạc sĩ Phạm Duy phải "khai tử" bài hát "Bên cầu biên giới."
Để sống và thành công với kháng chiến thì các nhạc sĩ phải làm như vậy thôi. Nhưng Phạm Duy và một số nhạc sĩ khác bỏ về thành. Nhạc sĩ Tô Hải ở lại và kể về "các lớp 'chỉnh huấn'" là chỗ mà các tác giả bị bắt phải "kiểm điểm, phê bình và tự phê bình" chính mình và các tác phẩm của mình. Để tồn tại, ông phải cho rằng những tác phẩm trước của ông là "đồi trụy, tư sản, tiểu sư sản, thậm chí phản động."

Thuở đó các vùng dưới quyền kiểm soát Pháp như các thành phố Hà Nội, Huế và Sài Gòn đều có nhà xuất bản âm nhạc. Các ấn phẩm được in với hai chữ "k.d." với con số và ngày chứng minh rằng bài ca này được cấp phép lưu hành.
Một điều đương nhiên nữa là nhạc cách mạng không được xuất bản. Dù vậy cũng đã có nhiều bài ca tình ca đem từ vùng kháng chiến được phép in và rất phổ biến. Từ thời đó Việt Nam đã có hai thế giới âm nhạc hoàn toàn riêng biệt.
Khi đất nước Việt Nam bị chia cắt năm 1954 thì hai thế giới âm nhạc mới ấy có biên giới xác định. Ở phía Bắc vĩ tuyến 17 không có chính sách công khai cấm bài hát nào. Nhưng thực tế thì khác.
Tôi gặp một phụ nữ người Hà Nội hơn tám mươi tuổi kể rằng mẹ của bà bắt bà đốt các tờ nhạc trước 1954 của bà. Đây là thời cải tạo tư sản khi mà người giàu có bị nghi ngờ rồi vì vậy họ sợ dư luận và không dám cất giữ và hát loại âm nhạc mà mình yêu thích.
Ở ngoài Bắc lúc bấy giờ các ấn phẩm không cần in chữ "k.d." vì nhà nước có toàn quyền trên mọi phương tiện truyền thông. Dù vậy cũng có những chuyện tế nhị trong giới âm nhạc.
Có một phong trào bài trừ "nhạc vàng" nghĩa là nhạc tiểu tư sản, nhạc bị gọi là "ủy mị" vì thiếu tính chiến đấu. Những ca khúc như "Tình ca" của Hoàng Việt, "Bài ca hy vọng" của Văn Ký, "Tình ca người thủy thủ" của Hoàng Vân đều bị phê bình là quá trữ tình. Với những nhà quản lý khắt khe thì khoảng cách từ trữ tình đến ủy mị có lẽ cũng không xa lắm?
Nhưng có một vấn đề cấp bách hơn - đó chính là văn nghệ từ bên kia vĩ tuyến.
Một bài đăng trên báo Nhân Dân với đầu đề "Văn nghệ lai Mỹ, phản động và đồi bại" tỏ ra lo ngại về nhạc chiến tranh tâm lý từ bên kia ranh giới. Các bài ca miền Nam bị gọi là "quá ủy mị, ướt át, muốn nằm dài ra mà thở."

Bài báo này cũng khẳng định các bài hát miền Nam chỉ được viết nhờ bảo trợ của Mỹ "tung tiền 'com-măng'." Theo tuyên truyền của miền Bắc thì các bài hát này bị dân miền Nam tẩy chay.
Bài báo viết: "Hiện nay, đồng bào miền Nam càng căm ghét thứ văn nghệ phản động, đồi bại theo kiểu Mỹ đang tràn ngập ở miền Nam bao nhiêu, càng nhớ, càng yêu những bài thơ, câu hò, điệu múa trong thời kỳ kháng chiến bấy nhiêu".
Thị trường âm nhạc sầm uất nổi lên cùng thời ở miền Nam phủ nhận những lời xác nhận ấy.
Mặc dù những lời viết ở trên không phản ánh đúng sở thích âm nhạc của dân bên kia vĩ tuyến, nhưng ở đằng sau nó biểu lộ một điệp khúc thường xuyên của các quan chức văn hóa về ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai.
Đó là âm mưu phá hoại văn hóa và phong tục người Việt của nước Mỹ. Văn hóa Mỹ theo họ chỉ toàn là găngxtơ, cao bồi, đĩ điếm, là như bệnh dịch và người nào chạm vào nền văn hóa ấy sẽ bị lây bệnh. Các tác phẩm viết theo chế độ "Mỹ-ngụy" miền Nam bị coi như nguy hiểm.

Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955)Bản quyền hình ảnh Sỹ Ngọc /Văn Nghệ
Image caption "Thuần phong mỹ tục … Mỹ / Văn nghệ ướt của Mỹ." Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc vẽ (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955)
Với chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam các bài ca phải được kiểm duyệt, và các tác phẩm Cộng sản thì bị cấm. Thời Ngô Đình Diệm có những ca khúc bị coi như ướt át cũng không được lưu hành hay phải đổi lời ca.
Trong một bài phỏng vấn năm 1963, nhạc sĩ Minh Kỳ than vãn nhạc lúc bấy giờ bị "bế tắc." "Chúng tôi mà nói đến yêu đương một cách rõ ràng quá, hoặc lời lẽ có phần ướt át, thì cái kéo của ba Kiểm duyệt không tha!"
Một điều tất nhiên nữa là các ca khúc về đề tài người lính chiến được ưu tiên phổ biến trên các nguồn truyền thống của chính phủ. Như vậy nhạc làm vai trò tất yếu là tuyên truyền, nhưng nhạc sĩ cùng thời cũng thừa nhận: "tuyên truyền quá rõ dễ bị người nghe ít ưa."

Thông tin in và kiểm duyệt trong tập nhạc Ca Khúc Cho Ngày Mai (Sài Gòn: Quảng Hóa, 1970) của Phạm Duy.Bản quyền hình ảnh Sài Gòn/Quảng Hóa
Image caption Thông tin in và kiểm duyệt trong tập nhạc Ca Khúc Cho Ngày Mai (Sài Gòn: Quảng Hóa, 1970) của Phạm Duy.
Hai chế độ đều kiểm duyệt nhạc, nhưng cả hai bên đều không thực hành được việc đó một cách trọn vẹn. Ở miền Bắc nhiều người nghe trộm đài của Sài Gòn, BBC và VOA.
Phan Thắng Toán và Nguyễn Văn Lộc (tức Toán Xồm và Lộc Vàng) và một số người nữa bị tù vì tổ chức những buổi hát nhạc vàng với nhau (tức nhạc lãng mạn gọi theo lý thuyết của Mao Trạch Đông) và nhạc miền Nam, nhưng hành động này chỉ phản ánh một phong trào bí mật mà không thể biết được có bao nhiêu người nữa cũng như vậy.
Ở Hải Phòng và Hà Nội cùng thời cũng có nhiều thanh niên thích nghe và chơi nhạc rock Mỹ với nhau.
Mặt khác là ở miền Nam cũng có nhiều người nghe trộm Đài Tiếng Nói Việt Nam của Hà Nội. Cũng có những tác phẩm trái với quy định của nhà nước và không được cấp phép nhưng vẫn được phổ biến.
Các ca khúc đòi hòa bình của Trịnh Công Sơn không được cấp phép phổ biến. Mặc dù có lệnh cấm 33 vào ngày 2 tháng 8 năm 1969, các bài ca phản chiến của ông vẫn được xuất bản và thu băng (không xin giấp phép).
Có nhóm sinh viên Đà Lạt muốn hát lại những ca khúc kháng chiến chống Pháp vốn không được phép phổ biến ở miền Nam nhưng vẫn tự xuất bản tập nhạc Năm Xưa.

Từ tập nhạc Năm XưaBản quyền hình ảnh Đoàn Du Ca Đà Nẵng
Image caption Thông tin in (không kiểm duyệt) cho tập nhạc Năm Xưa (Đà Nẵng: Đoàn Du Ca Đà Nẵng, 1972).
Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn cũng thực hiện hai tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe. Đây là nhạc đấu tranh, chống chiến tranh và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Một điều dĩ nhiên là các nhạc phẩm này không xin và không được cấp phép lưu hành. Như vậy khi thực hiện tập nhạc này, nhóm sinh viên ghi là "phổ biến nội bộ Sinh viên Học sinh."
Sau khi nước Việt Nam thống nhất thì gần như toàn thể các nhạc phẩm tân nhạc của những nơi không nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đều bị cấm luôn.
Điều đó nghĩa là nó bao gồm các tác phẩm có nguồn gốc nhạc mới của Việt Nam của các tác giả như Đặng Thế Phong, Văn Cao, v.v. (mặc dù chưa chính thức bị cấm), các tình ca thời kháng chiến chống Pháp, và tất cả các ca khúc của thời Việt Nam Cộng Hòa, ngoài những ca khúc phong trào sinh viên đấu tranh được nhắc đến ở trên.

Bìa tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe: Chúng Ta Đã Đứng Dậy, tập 1 (Sài Gòn: Tổng Hội Sinh Viên Saigon, 1970).Bản quyền hình ảnh Tổng Hội Sinh Viên Saigon
Image caption Bìa tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe: Chúng Ta Đã Đứng Dậy, tập 1 (Sài Gòn: Tổng Hội Sinh Viên Saigon, 1970).
Thông tin in của tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi NgheBản quyền hình ảnh Tổng Hội Sinh Viên Saigon
Image caption Thông tin in của tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe
Ngay sau những biến cố năm 1975 vẫn còn nhiều bản nhạc không in thông tin kiểm duyệt. Nhưng từ đó cũng bắt đầu bản nhạc và tập nhạc với thông tin kiểm duyệt gọi là "giấy phép xuất bản."
Chẳng hạn tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng gồm ca khúc của những sinh viên miền Nam tham gia phong trào đấu tranh phải in thông tin cấp phép. Nhưng đến những năm 1990 vẫn có nhiều ấn phẩm nốt nhạc của các cơ quan nhà nước xuất bản mà không đề cập đến giấy phép.

Bìa tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng: Tuyển Tập Bài Hát Tự Biên Tự Diễn (Sài Gòn: Bộ Thông Tin Văn Hóa, Bộ Phận Văn Hóa Quần Chúng, 1976)Bản quyền hình ảnh Bộ Thông Tin Văn Hóa, Bộ Phận Văn Hóa Quần C
Image caption Bìa tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng: Tuyển Tập Bài Hát Tự Biên Tự Diễn (Sài Gòn: Bộ Thông Tin Văn Hóa, Bộ Phận Văn Hóa Quần Chúng, 1976).
Thông tin in của tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải PhóngBản quyền hình ảnh Bộ Thông Tin Văn Hóa, Bộ Phận Văn Hóa Quần C
Image caption Thông tin in của tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng
Từ năm 1975 ranh giới hệ thống kiểm duyệt nhạc Việt là trên toàn bộ nước Việt hình chữ S. Nhưng người Việt tỵ nạn ở rải rác khắp năm châu đã không còn chịu bất cứ sự kiểm duyệt nào.
Song người Việt ở lại miền Nam bị nghi ngờ rất nặng nề, nhất là những người từng làm cho nhà nước và trong giới quân sự. Sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức trích báo Sài Gòn Giải Phóng viết về cựu lính rằng: "Đế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành dã thú."
Những người sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa coi như bị nước Mỹ tẩy não. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết trên báo Thừa Thiện Huế cuối năm 1975 là "tất cả hệ thống những 'phương tiện văn hóa' nhằm đạt đến một hiệu quả tinh thần rất nguy hiểm: phổ biến tư tưởng phản động và gieo rắc nọc độc đồi trụy của bọn đế quốc và giai cấp tư sản."
Như vậy tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều bị cấm, tịch thu, thậm chí tiêu hủy. Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, chủ nhiệm Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam, kể cho tôi rằng tất cả hàng hóa của tiệm bị lấy đi hết. Nhưng mặt khác, lúc đó cũng có nhiều người lính miền Bắc đã cứu các văn hóa phẩm nguy hiểm của thị trường miền Nam và mang ra miền Bắc.
Thứ nào bị cấm thì trốn tránh trong bóng tối. Nhiều người bí mật giữ lại các bản nhạc và đĩa hát. Các quân nhân và công chức của chế độ cũ bị giam cũng lưu giữ âm nhạc trong trí nhớ không cải tạo của họ. Bị tách riêng, các tù nhân sống ở môi trường khác với đa số đồng bào họ. Họ hát và dạy các bài ca cấm cho người bảo vệ ở trại. Một số người bị giam cũng sáng tác bài hát mới để tâm sự với nhau.
Báo giới Việt Nam chê trách các "ấn phẩm đen" đang phổ biến. Tức là các tác phẩm chép tay, in rô-nê-o ngoài phạm vi của cơ chế kiểm duyệt.

Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2, một Bản quyền hình ảnh Others
Image caption Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2, một "ấn phẩm đen" (giai đoạn khoảng 1995).
Bài ca Bản quyền hình ảnh Others
Image caption Bài ca "Kẻ Ở Miền Xa" của Trúc Phương, ghi trong Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2.
Về việc xét lại các ca khúc xưa thì dân đi trước nhà nước. Từ năm 1986, Câu Lạc Bộ Âm Nhạc của Hội Liên Hiệp Thanh Niên ở Sài Gòn và Cung Thiếu Nhi ở Hà Nội từng giới thiệu các tác phẩm được gọi là nhạc tiền chiến, nghĩa là nhạc lãng mạn của những năm đầu tiên của nền tân nhạc.
Ngày 15 tháng 10 năm 1989, Cục Âm Nhạc Và Múa mới bắt đầu cấp phép cho các bài hát trước 1975 được phổ biến. Trong đợt đầu tiên này có các tác phẩm xưa của Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý, Nguyễn Xuân Khoát, Đoàn Chuẩn, v.v.
Phải đợi hai năm nữa, ngày 10 tháng 8 năm 1991, thì mới có một số tác phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa của các tác giả Thanh Sơn, Y Vân, Trần Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Hoàng Trọng, Minh Kỳ, v.v. được cấp phép phổ biến.
Mãi đến 16 tháng 1 năm 2003 một số bài ca của nhạc sĩ Việt ở hải ngoại được cấp phép lưu hành ở Việt Nam. Một số tác giả phải đợi lâu hơn - nhạc Phạm Duy mới bắt đầu được cấp phép hồi năm 2005, nhạc Lam Phương năm 2007 và nhạc Hoàng Thi Thơ năm 2008.
Mặc dù như vậy, Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn vẫn duyệt các nhạc phẩm của thời Việt Nam Cộng Hòa và của cộng đồng người Việt hải ngoại. Vấn đề là ở nội dung bài hát tùy thuộc các tác phẩm của miền Nam trước 1975 mà quần chúng ưa nghe nếu không chửi bới và không nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hình như trở ngại chính nằm ở hai chữ thôi. "Lính chiến" là cặp chữ cấm kỵ bị coi như đại diện cho những người lính của chế độ miền Nam bị coi như "lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ."
Cuộc chiến Việt-Mỹ đã xưa rồi, quan hệ ngoại giao hiện nay thành bình thường và hai nước có quan hệ hữu nghị. Song "lính chiến" của ngày xưa vẫn chưa được coi như bạn hữu chăng?
Một trong những bài hát từng bị tạm cấm lưu hành là "Cánh thiệp đầu xuân" của Minh Kỳ và Lê Dinh sáng tác năm 1962 trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Bài hát ấy cũng ra đời trong hoàn cảnh kiểm duyệt của thời chiến tranh.
Như được nhắc ở trên, chế độ kiểm duyệt thời Ngô Đình Diệm không cho hai tác giả Việt có các bài ca hoàn toàn như ý của họ. Hiện nay nhạc sĩ Lê Dinh cho thay thế lời "anh lính chiến" bằng "anh yêu dấu." Như thế lời ca mới này chỉ có nội dung tình yêu và nhớ nhung.
Phạm Duy mơ về 'một ngày như thế' - BBC Vietnamese - Việt Nam
'VN hai câu nói sau cùng khi lìa đời' - BBC Vietnamese - Diễn đàn
Bài ca "Rừng xưa"của Lam Phương sáng tác năm 1963 cũng được cho hát lại. Nhìn về lịch sử bài hát này thì dễ hiểu tại sao bài ca này từng bị cấm. Bài này không phải là một bài ca xuất sắc của tác giả và hai câu lời ca trong bài nghe cũng rất bình thường: "Đây ước mơ của miền Nam mến yêu. Tha thiết đến tin anh về bên mái gia đình tìm hạnh phúc ngày qua."
Hoàn cảnh lịch sử cho biết đây là người ở miền Nam thời chiến xin người tình đã tập kết ra Bắc về quê sống với gia đình và bỏ rơi cuộc kháng chiến.
Nhưng ngày hôm nay, hơn 50 năm sau, ai còn bận tâm đến chuyện chiêu hồi? Nếu cứ cấp phép thì chắc ít ai nhắc đến bài ca "Rừng xưa" vì bài ca không hợp hoàn cảnh đời sống người nghe hiện nay như nhiều ca khúc khác.
Phải chăng, các nhà quản lý cố nhắm mắt không nhận rằng hiện nay không còn như thời bao cấp khi Việt Nam chưa toàn cầu hóa? Từ khi có khả năng thu lại nhạc với các phương tiện như máy ghi âm và máy vi tính thì các nhạc phẩm bị cấm được lưu hành rất dễ dàng ở chợ đen. Hiện nay làm sao mà cấm nổi nhạc khi mà bất cứ ai cũng có thể lên mạng, có thể nghe bất cứ loại nhạc nào vào bất cứ lúc nào?
Dù thế chăng nữa, hình như thể loại nhạc đáng lo nhất vẫn là nhạc bolero Việt Nam. Bolero Việt là một khối âm nhạc lớn đã hơn 60 năm chinh phục được nhiều người Việt yêu nhạc. Suốt thời gian này, dù bị chê, dù bị cấm, nó không chết và trong khoảng mười năm qua được khôi phục nhiều.
Có phải khối nhạc này làm hại cho sự tiến triển của nhạc Việt hay làm cho trình độ nhạc bị hạ thấp? Tôi không nghĩ vậy. Nhất là vì trong thời gian này dư luận kết án các loại nhạc trẻ "gây sốc" hay "nhạc rác."

Có nhạc sĩ lý luận rằng "những ca khúc thế này ['nhạc rác'] đã kéo gu thẩm mỹ âm nhạc của khán giả ngày càng đi xuống." Bolero, một thời bị coi như "nhạc sến", nếu xem xét thì lại có nội dung lành mạnh và lịch thiệp. Nguồn nhạc này nghe rất xứng đáng và đáng quý so với nhạc thị trường hiện nay. Nhưng đại đa số ca khúc bolero còn bị cấm.
Thực ra việc người Việt nghe và hát một bài ca bolero nhắc đến người lính chiến là chuyện bình thường đang xảy ra trên khắp nước Việt từ sáng đến khuya. Kiểm duyệt việc ấy chỉ có kết quả là hạn chế việc biểu diễn các ca khúc ấy trên sân khấu hay trên làn sóng chính thức. Cấm, cho phép, cấm lại, và lại cho phép các nghệ sĩ hát những bài ca này chỉ làm cho dân nghĩ rằng các cơ quản kiểm duyệt làm việc một cách tùy tiện.
Nhưng việc cấm-cho phép đã có hiệu quả. Nếu cứ hát nhạc cấm có thể nhiều lần mà không bị làm sao, nhưng sẽ đến một lúc người hát sẽ bị phạt nặng để làm bài học cho tất cả mọi người khác. Tuy nhiên kết quả không phải là cấm nhạc ấy, hay làm giảm sự ưa chuộng của thính giả đối với nhạc ấy, mà là làm cho các nghệ sĩ và nhà tổ chức phải cẩn thận để tự kiểm duyệt mình và tự hạn chế sức sáng tạo của mình.
Theo tôi biết thì người Việt Nam sống theo phương châm độc lập, tự do, và hạnh phúc. Quyền nghe được nhạc mình ưa thích nằm ở trong ba điều lý tưởng ấy?
Thời chiến tranh thì việc cấm và hạn chế âm nhạc là rất hợp lý. Cấm những tác phẩm quá thô tục và gây loạn cũng có lý. Việc cấm các bài ca chỉ vì lý lịch đen thì tôi nghĩ là không nên. Nhưng điều đó là chuyện người dân và nhà nước Việt Nam phải giải quyết với nhau.
Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng tác âm nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết gửi BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, trong loạt bài về các gương mặt nhạc sĩ Việt

Monday, May 15, 2017


NGUYỄN TẤN ICH * VƯỢT THOÁT

Vượt thoát
Doc de nho lai nhung thang ngay trong "lao tu CS"

Thứ Tư, 10 tháng Tư năm 2013 04:06
Tác Giả: Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Tù chuyển trại trên những chiếc xe GMC bịt bùng, dù rất kín đáo, nhưng dân chúng hai bên quốc lộ vẫn phát hiện được đoàn xe chở tù. Nhìn qua khe hở của tấm bạt phủ xe, tù nhân nhìn thấy hai cụ gìa giậm chân la khóc, tay vẫy vẫy về hướng đoàn xe khiến cho anh em tù xúc động rơi nước mắt.
Vài chiếc honda rượt theo cố lượm những mảnh giấy nhắn tin của tù thả rơi đang cuộn bay trong bụi đường. Tù hy vọng những tờ giấy nhắn tin ấy sẽ đến tay thân nhân của họ ở tận các vùng Kinh tế mới xa xôi.
Nhà tù mới, nằm sâu trong khu rừng già. Trại được xây dựng kiên cố. Tường thành bằng gạch xi măng bọc quanh khu nhà giam. Tường cao trên hai mét, đầu tường cơi thêm ba đường dây kẽm gai. Phòng giam mái ngói, vách gạch, một cửa ra vào và bốn khung cửa sổ nhỏ. Sáu mươi tù nhân chen chúc trong một diện tích chưa đầy tám mươi mét vuông. Mỗi người có năm tấc bề ngang chia đều trên hai dãy sạp bằng thân cây nứa đập dập. Chính sách giam giữ tù chính trị không thời hạn lại đặt vào thành phần nguy hiểm của chế độ. 
Lối hành xử của công an là trút hận thù bằng những ngón đòn vô cùng tàn độc. Bản nội quy là sợi dây trói chặt tù không còn cựa quậy, khắc nghiệt hơn cả thời Bắc thuộc.Tù xây nhà giam để nhốt mình, lao động sản xuất đủ mọi ngành nghề để nuôi sống bản thân và nuôi cán bộ cả nước. Trong sản xuất, chúng buộc tù phải tăng chỉ tiêu tối đa. Ngược lại, tiêu chuẩn phần ăn hạ mức tối thiểu đến tàn nhẫn. Không cho tù ăn no. Những người từng ở tù qua bốn chế độ: Pháp, Nhật, Quốc gia và Cộng sản, đã so sánh và khẳng quyết rằng: Không có nhà tù nào vô nhân đạo bằng nhà tù Cộng sản. Ðói, lạnh, lao động khổ sai và đàn áp tinh thần là bốn biện pháp giết người tối độc. Ðức quốc xã tiêu diệt dân Do thái tại lò hỏa thiêu bằng hơi ngạt, Cộng Sản tiêu diệt tù chính trị bằng cách tiêu hao sinh lực lần mòn. Cái chết đến từ từ, kéo dài sự đau đớn triền miên. Không chết vì mất sức, bệnh tật trong trại giam,cũng chết vì bệnh nan y sau khi ra khỏi tù.
Một cái Tết thứ tư trong tù ngắn ngủi vô vị xói mòn niềm hi vọng được trở về với gia đình. Cái mốc thời gian ngồi tù mù mù tăm tăm! “Lao động tốt, cải tạo tiến bộ”là tiêu chuẩn để xét duyệt tha tù, chẳng khác gì bức tranh vẽ cánh đồng cỏ nhử trước mắt loài ngựa nức lòng đi tới. Qua Tết, trại bắt đầu khởi công xây chiếc cầu treo nối liền hai bờ sông Côn. Cầu dài gần trăm mét. Vật liệu phần lớn do tù tự chế và góp nhặt. Người đứng ra vẽ kiểu và thiết kế cây cầu là tù nhân Trần Xuân Lộc, một cựu sĩ quan Công binh đã từng tu nghiệp tại Hoa Kỳ. Sáu tháng ròng rã, Lộc miệt mài trong công việc. Anh phơi nắng dầm mưa, xông xáo từ nơi này đến nơi khác cùng với một toán tù được tuyển chọn gồm những tay chuyên môn thuộc các ngành liên hệ. Họ làm việc không ngơi nghỉ nhưng thích thú và tự hào. Niềm vui trong công tác này là Lộc được phục vụ cho người dân địa phương đã mong ước bao đời nay có một cây cầu để qua lại con sông trong mùa nước lũ. 
Cuối cùng, công trình hoàn tất mỹ mãn. Chiếc cầu treo trông khá đẹp mắt và nên thơ. Nổi bật trên hai môi cầu là bốn trụ vươn cao bằng những thanh sắt đường rầy xe lửa ghép đôi làm điểm tựa cho hai đường dây cáp bằng thép giăng qua sông. Từ xa, trông chiếc cầu duyên dáng như một cây đàn dây. Cầu đứng sừng sững, hiên ngang vượt qua dòng nước cuồn cuộn chảy. Ngày khánh thành có cả đại biểu cấp Quân khu và Tỉnh về tham dự cùng với đồng bào địa phương. Ban giám thị trại nhận bằng tuyên dương đã thực hiện thành công tốt đẹp công trình có phẩm chất cao. Người ta chẳng đá động gì đến công lao của người đứng ra lãnh trách nhiệm như một Công trình sư. Từ bản vẽ thiết kế đến điều hành đều do một tay Trần Xuân Lộc.
Trong buổi lễ, Lộc ngồi trong đám tù khổ sai với chiếc áo rách tả tơi. Chiếc áo mà anh vẫn mặc hàng ngày suốt thời gian xây dựng cây cầu dưới mưa nắng. Kẻ bất tài; cướp công được vinh danh cười rạng rỡ. Buồn thay cho thân phận Lộc, anh chỉ là một tù nhân! 
o 0 o

Thời tiết đã qua khỏi ngày Ðông chí. Cơn mưa dầm dứt hẳn. Bầu trời quang đãng. Những lọn mây trắng bắt đầu bay lơ lửng trên đỉnh rừng già. Mặt trời đi trốn suốt mùa Ðông cũng trở về mang ánh nắng vàng vọt rải đều trên đồi nương ngọn cỏ,. Nắng bị khuất phục bởi khối lạnh cắt da đang ngự trị trong miền thung lũng. Màu nắng trở nên yếu ớt xanh xao vàng vọt như màu da bệnh hoạn của đám tù đang phơi mình dưới ánh nắng đầu mùa.
Những khuôn mặt trắng bệch thũng nước và thân hình vẹo vọ với làn da nhăn nheo bày ra đầy đủ những góc cạnh, xương xẩu trên thân thể con người. Nhìn vào những bộ xương cách trí ấy, không một ai có thể ngờ rằng trước đấy không bao lâu, họ là những người trai cường tráng đầy sinh lực đã từng sống một thời oanh liệt.
Từ bốn ngày qua, đội 3 được điều động đi khai phá thung lũng Bảy Mẫu trồng khoai lang. Ðội phải xuất trại đầu tiên và nhập trại sau cùng. Ðường đến khu sản xuất mất gần hai giờ di chuyển. Cuốc và rựa được cột lại thành bó rồi phân công tù vác đi ở cuối hàng. Sáng nay, khí trời giá buốt, sương núi mờ mịt làm ướt sũng cây rừng.

Toán 1 phụ trách chặt cây và phát quang quanh khu vực. Họ phải mặc áo mưa trong lúc làm việc. Số người khác giẫy cỏ, cuốc đất, vun thành từng vồng cao rồi giâm những đoạn dây rau lang xuống đấy. Họ âm thầm làm việc như đám người máy không ngưng tay. Tiếng rựa chặt cây, tiếng cuốc bổ vào lòng đất tạo thành những âm thanh khô khốc, như nỗi chai cứng của tâm hồn người tù. Chốc chốc lời quở trách của quản giáo dội xuống đầu tù nhân làm việc lơi tay như ngọn roi quất vào tâm não làm tăng thêm cơn đói rã rời.

Cứ mỗi mười lăm phút điểm danh một lần. Theo thông lệ, anh đội trưởng tù là người số một, rồi người kế cận đếm số hai và cứ như thế cho đến anh cuối cùng. Cách thức kiểm tù này là một trong những khuôn mẫu tại các trại tập trung mà Cộng sản Liên Xô đã áp dụng sau cuộc cách mạng tháng Mười đẫm máu tại nước Nga. Không một tù nhân nào bỏ trốn mà không bị phát hiện kịp thời.
Thời gian chờ đợi tiếng còi nghỉ ăn trưa dài thê thảm. Những lát sắn luộc buổi sáng đã hết sạch trong bao tử tự bao giờ. Phần ăn trưa vẫn là chén cơm ghế sắn thêm một ít canh rau lang với muối và bột ngọt. Lượng thức ăn như thế, nào có đủ ca-lo-ri cho một cơ thể phải làm việc cật lực trong suốt tám tiếng đồng hồ, chưa kể thời giờ phải lội bộ lên dốc xuống đèo trên con đường đầy đất đá. Ngoài xã hội, Việt cộng áp dụng chính sách bần cùng hóa nhân dân. Thu tóm mọi nguồn tài sản về cho Ðảng. Ðời sống của cả nước chẳng khác gì một nhà tù. Mác ví tư bản là con đỉa hai vòi. Một vòi hút máu dân trong nước, vòi kia hút máu dân thuộc địa.


Trên thực tế, chế độ Cộng Sản như loài đỉa nhiều vòi. Mỗi cấp chính quyền, mỗi xí nghiệp quốc doanh là những vòi đỉa bu vào đồng bào ruột thịt hút đến giọt máu cuối cùng và vươn cái vòi “thuộc địa” để hút máu của dân tộc láng giềng bằng một hành động rất thâm độc cộng sản: “tinh thần quốc tế vô sản”! Âm mưu ấy bị thế giới chận đứng ngay trên xứ Chùa tháp nên chúng “co vòi” luôn.
Rồi giờ ăn cũng đến. Tiếng còi vừa thổi là cả đội gom cuốc rựa vào một nơi. Ðám tù được lệnh tập trung quanh khu vực có bóng cây. Họ ăn vội vã để dành chút thì giờ ít ỏi ngả lưng trên lá khô hay dựa vào gốc cây hầu lấy lại sức. Chẳng mấy chốc, giờ lao động buổi chiều lại bắt đầu, tù nhân được kiểm tra kỷ lưởng.


Lần này, cả đội đếm tới đếm lui vẫn thiếu bốn người. Sự hốt hoảng hiện rõ trên khuôn mặt tên quản giáo và ba công an võ trang. Hắn đích thân đếm từng người một rồi hét vào mặt anh đội trưởng tù: “Bốn thằng đó tên gì?” Thoạt nhìn, ai cũng biết ngay bốn anh vắng mặt là Ngọc, Huệ, Lộc và Hạp. Họ thuộc tổ 1 làm công tác chặt phát những cây dại trong khu đất trồng khoai.
Ðai úy Nguyễn Ngọc, nguyên là Ðai đội trưởng Ðịa phương quân thuộc tỉnh Tuyên Ðức ( Lâm Đồng). Nhà tù bây giờ là trại biệt kích thuộc lực lượng cũ của anh đồn trú ngày xưa, nơi xuất phát các cuộc hành quân đột kích vào mật khu VC. Do vậy Ngọc rất am tường địa thế trong vùng rừng núi Thượng Ðức nầy. Trương văn Huệ là sĩ quan trong phái đoàn Quân sự Bốn Bên Kiểm Soát Ðình Chiến Hiệp định Paris thông thạo Anh ngữ và tiếng Khờ me. Lê Hữu Hạp, trung úy phi công lái phản lực cơ được đào tạo tại Hoa kỳ. Hạp còn là một hướng đạo sinh vững vàng về mưu sinh thoát hiểm. Riêng Trần Xuân Lộc ai cũng biết con người đa dạng của anh, can đảm và xông xáo. Với thành phần ấy, bạn tù tin tưởng họ sẽ thành công trong cuộc trốn thoát.

Tên quản giáo đích thân kiểm tra lại dụng cụ lao động mới phát hiện thiếu bốn cây rựa. Hắn lập tức ra lệnh tên công an bảo vệ cấp tốc về trại báo. Ðội tù được lệnh ngồi gom lại một chỗ. Ba nòng súng chĩa thẳng vào đám tù với tư thế sẵn sàng nhả đạn. Nửa giờ sau, hai chiếc xe GMC chở đội công an vũ trang đến áp tải tù nhân về trại. Số còn lại cùng với hai con chó lùng sục chung quanh khu vực. Công an truy bắt tù vượt ngục từ thành phố cũng được điều động đến ngay. Chúng ïthiết lập các nút chặn trên tuyến đường chính, lục soát tất cả các loại xe di chuyển trên trục lộ.

Từng ngày trôi qua là từng ngày bạn tù hồi hộp, lo âu nhưng cũng không che giấu được niềm vui trên ánh mắt họ. Nói về toán trốn trại (*). Thừa lúc lộn xộn trong giờ ăn trưa, họ lủi vào rừng mang theo thức ăn và cây rựa giấu trong áo mưa. Giờ đầu tiên, họ luồn lách rất nhanh theo đúng kế hoạch đã tính toán. Sau thời gian nghỉ ăn trưa, đội tù mới được kiểm số trở lại trước khi làm việc.

Khi phát hiện, họ đã vượt ra khỏi vòng đai mà lực lượng truy bắt tù không thể bủa vây. Năm ngày dài băng rừng, toán vượt ngục đã đi được một quãng đường khá xa. Thức ăn khô mang theo chỉ còn đủ cho ba ngày nữa. Họ phải bẻ măng rừng, hái trái bòn bon ăn giặm. Ngày đi, đêm ngủ tại những hốc cây cổ thụ hay trong hang đá. Cuối cùng thức ăn đã cạn. Cơn đói hành hại suốt hai ngày khiến họ hết kiên nhẫn đành phải quyết định vào rẫy đào trộm sắn. Sắn chưa kịp nhổ lên, bất ngờ một tên du kích người thượng bắt gặp. Mặc dầu khai là dân đi rừng nhưng hắn vẫn áp giải họ về cơ quan của bản làng.


Trên đường đi, Ngọc bị trật quai dép lùi lại phía sau. Nhanh như chớp, anh trở sống rựa đập vào đầu tên du kích, cướp khẩu các-bin cùng cả toán chạy vào rừng. Ngọc không cố ý giết tên du kích, nhưng vì cú đánh khá nặng tay nên hai ngày sau hắn lên cơn động kinh rồi tắt thở. Người Thượng rất dễ tin nhưng cũng khó tha thứ. Cái chết của tên trai làng đã làm tăng thêm sức thuyết phục lòng trung thành của họ đối với chế độ hiện hữu. Cơn đói đã khiến cho toán trốn trại mỗi ngày mỗi chậm lại. Cần thức ăn để có sức tiếp tục băng rừng, thế nên buôc lòng họ phải tìm đến rẫy sắn.


Rút kinh nghiệm lần trước, lần nầy họ vào rẫy ban đêm. Toán trốn tù không ngờ cái chết của tên du kích đã khiến cho dân bản Thượng quyết tâm phục hận. Vừa đặt chân bên trong hàng rào là bị ngay những loạt đạn nả vào họ. Lê Hữu Hạp bị trúng đạn gãy chân, ba người còn lại tẩu thoát vào rừng. Chúng kéo Hạp về buôn Thượng và triệu tập dân trong bản Thượng chứng kiến cảnh xử tội kẻ thù. Với thân thể lõa lồ, Hạp bị cột căng hai tay hai chân vào bốn trụ đóng nơi sân cờ của cơ quan Xã, rồi cả đội du kích vừa hò reo vừa phóng những cây lồ ô vót nhọn vào thân thể Hạp như đâm một con trâu để tế thần.

Chúng giết Hạp để trả thù cho đồng đội. Sáng hôm sau, Ban Giám Thị trại tù cho người khiêng Hạp về đặt xác bên cổng trại ra vào kèm theo một tấm bảng ghi hàng chữ: “Tên Lê Hữu Hạp trốn trại bị cách mạng xử lý ” thay cho một lời cảnh cáo! Nhìn thi thể Hạp, không một ai khỏi ghê tởm cách giết người dã man đến thế.

Ðôi tròng mắt bị nát bấy bởi thanh lồ ô đâm suốt qua so nãọ. Ðôi mắt chỉ còn là hai lỗ thủng sâu máu đọng đen sì. Ôi, Lê Hữu Hạp, người phi công tài ba đã một thời ngang dọc trên bầu trời quê hương. Giờ đây anh chết thảm thương bởi những bàn tay man rợ nhất loài người. Công an đã xác định được tọa độ của toán vượt ngục. Chúng khoanh vùng dồn lực lượng vào một nơi. Toán tù kỳ vọng vào rau rừng, măng le sẽ nuôi sống họ một thời gian, chờ khi yên tĩnh sẽ lần mò xuống đồng bằng. Nhưng khốn thay, đồng bào Thượng bị đói quanh năm nên đã vét sạch, bứt sạch những gì có thể ăn được trên rừng già. Biết điểm đứng đã bị lộ nhưng phải có chút gì để ăn hầu đổi hướng đi. Họ bị khuất phục bởi cơn đói nên đành liều mạng trở lại rẫy sắn.


Ðúng ngày thứ mười sáu kể từ khi chạy trốn, toán vượt trại bị bao vây tại một đồi sắn. Trương văn Huệ mở đường máu bằng những loạt các-bin và thoát được vào rừng, Ngọc và Lộc đều bị bắt sống. Chúng nhốt hai người tại hai phòng kiên giam riêng biệt. Ba ngày sau, Ngọc bị giết trong cùm bằng phương cách rất thông dụng của công an giữ tù: Dùng thanh sắt đè vào cổ nạn nhân cho đến khi tắt thở. Cách giết người như thế thường lưỡi của người bị chết lè ra thật dài và đôi tròng mắt lồi ra ngoài hố mắt. Ngọc đã chết thê thảm như vậy bởi anh cương quyết không chịu khai một điều gì cả.


Ngay chiều hôm đó, một phái đoàn giới chức từ thành phố đến trại khám nghiệm tử thi, chụp hình. Phần kết luận trong bản phúc trình hẳn nhiên là: “Phạm nhân Nguyễn Ngọc đã cắn lưỡi tự tử”.Đây là hình thức che mắt của CS giết tù nhân trong các trại giam mà bọn công an thường xuyên áp dụng. Trần Xuân Lộc bị giải về Ty Công an để khai thác kẻ đồng mưu cung cấp thực phẩm, thuốc men và viết diễn tiến cuộc trốn trại. Lộc còn phải liệt kê các địa điểm mà đồng bạn anh đã ngủ đêm cùng những dự định cho những ngày sắp tới khi chưa bị bắt...


Sau mười ngày hỏi cung, Lộc được trả về trại để ra trước một phiên tòa cấp tỉnh mở ngay tại trại tù. Thành phần tham dự gồm ban giám thị, đội công an bảo vệ và gần ngàn tù nhân. Mở đầu phiên tòa, một đại diện của hội đồng xét xử đọc bản cáo trạng của bên công tố. Tiếp theo, tên Thư ký tòa đọc bản tường thuật của Lộc về diễn tiến cuộc trốn tù. Theo thứ tự lớp lang được sắp xếp làm nhiều màn, nhiều cảnh. Xen vào mỗi màn là cảnh một già làng sắc tộc thiểu số than khóc, kể lể về cái chết của tên du kích và yêu cầu tòa kết án tử hình bị cáo để đền mạng.


Phiên tòa xử án mà ta có cảm tưởng họ đang trình diễn một tuồng kịch với đám diễn viên vụng về. Sự lố bịch của phiên tòa là diễn xuất theo kiểu “tòa án nhân dân” xét xử theo nguyện vọng của nhân dân. Cái nguyện vọng nào có lợi cho đảng và tập đoàn cầm quyền là chúng tận dụng. Còn nguyện vọng nào bất lợi chúng dùng chuyên chính vô sản đàn áp. Đó là Pháp luật của đất nước nằm trong bàn tay bạo quyền. Phần kết thúc phiên tòa, tên chánh án tuyên bố: “ Phạm tù Trần Xuân Lộc được phép phát biểu ý kiến sau cùng”. Cả hội trường im phăng phắc, chờ đợi lời phát biểu của anh Trần Xuân Lộc. Lộc mặc aó quần tù màu xám nhạt, hai tay bị khóa còng số 8, hai chân mang xích sắt.

Anh đứng sau vành móng ngựa, đối diện với hội đồng xét xử có bốn công an võ trang trấn bốn góc. Khuôn mặt Lộc gầy rộc, hốc hác, nổi lên hai gò má nhô cao. Mái tóc hớt ngắn cùng với bộ râu quai nón của anh vừa mới cạo để lộ ra màu da trắng xanh. Anh quay mặt về hướng người tham dự, đưa ánh mắt nhìn bạn đồng tù rồi dõng dạc nói: “Thưa các ông, thưa các bạn, tôi bác bỏ hoàn toàn bản cáo trạng buộc tội tôi giết người, nhưng tôi không phủ nhận rằng tôi có tội. Vâng, tôi có tội với nhân dân miền Nam vì tôi chưa làm tròn trách nhiệm của người sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và...” Nói chưa hết câu, tên công an vũ trang đẩy vào miệng Lộc một báng súng. Máu miệng và mũi trào ra loang đầy cả ngực áo. Lộc ngã gục xuống nền nhà.


Nhiều tiếng lao xao trong đám tù nổi lên, tiếp theo là tiếng lách cách lên đạn “cảnh cáo”của đám vệ binh đang bủa vây xung quanh hội trường. Ðáng lẽ tòa dành mười phút để nghị án, nhưng với tình huống nầy chúng chẳng cần phải trình diễn tiếp vở tuồng. Tên chánh án vội vã mời mọi người đứng dậy và tuyên án “… Tử hình phạm tù Trần Xuân Lộc”! Không có một ai ngạc nhiên với cái án tử hình ấy.
Một phiên tòa xét xử tội đại hình mà chẳng có luật sư biện hộ và chẳng có nửa lời đối chất của bị cáo. Người ta thật sự đau xót cho thân phận con người sống trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, một chế độ dùng baọ lực đè bẹp công lý, một chính quyền dung dưỡng dối trá và hận thù. Chẳng đợi mười lăm ngày theo thủ tục kháng án hay xin ân giảm, mà ngay trong đêm hôm sau, chúng giết Lộc trên đồi sắn rồi chôn anh tại đó. Một tấm bia bằng gỗ xẻ mỏng được viết ngoằn ngoằn tên Trần Xuân Lộc bằng sơn.


Mùa mưa đến, nước trên đỉnh núi đẩy xuống san bằng luôn nấm mộ. Từ khi đó, nếu ai để ý trên ngôi mộ Lộc sẽ thấy từ từ xuất hiện những viên đá cuội, mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Rồi những năm tháng sau này nấm mộ Lộc trở thành đống đá vun cao. Lộc nằm đó, thân xác tiêu hủy theo thời gian nhưng gương can trường của người chiến sĩ miền Nam vẫn còn sáng ngời trong long mọi người. Bạn tù đã điếu tang anh bằng bài thơ truyền khẩu sau đây:
Anh vượt thoát khỏi gông cùm nghiệt ngã
Tìm tự do nơi đất Chúa vĩnh hằng,
Ðêm hiện về sáng lồng lộng ánh trăng
Anh ngạo nghễ giữa bầu trời xanh ngát
Trước họng súng thù cất cao tiếng hát
Ðể máu trào chuyển mạch vạn con tim.
Tiễn người đi cơn uất nghẹn im lìm
Trong bóng tối khóc thầm thương tiếc bạn
Anh chí cả ôm vầng dương chiếu rạng
Ta nhỏ nhoi như hạt bụi giữa đời
Người đi vào trang hùng sử, Lộc ơi! 


Về phần Trương Văn Huệ, sau khi thoát thân vào rừng, công an truy lùng khắp mọi nơi và tiếp tục phục kích các khu rẫy sắn nhưng chẳng có một kết quả nào. Các anh đã vượt thoát vĩnh viễn khỏi miền đất tù ngục nầy. Tự Do hay là chết? Các anh đã chọn cái chết để được Tự Do. Chúng tôi ở lại tiếp tục bị đày đọa với tháng ngày bất tận khổ đau, nhưng gương bất khuất của các anh là ngọn lửa luôn luôn sưởi ấm trong lòng chúng tôi.

Hãy ngừng tay, hỡi những ai có mưu đồ tiếp sức cho Cộng Sản Việt Nam. Ðừng vì quyền lợi riêng tư mà xúi giục tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại đem tài năng về nước phục vụ cho một chính quyền bá đạo đang kéo đất nước vào bóng tối mịt mùng.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích (*) dựa theo lời tường thuật của Trần Xuân Lộc trong bản thẩm cung.

NGUYỄN SĨ MINH * ƠN ĐỜI BIỂN RỘNG




Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
Ơn Đời Biển Rộng
Nguyễn Sĩ Minh

Tôi choàng mình thức giấc. 5 giờ sáng, 19 tháng 10, 1979. Căn phòng nhỏ vẫn còn tối mịt. Như cái tối tăm mù mịt đã theo tôi suốt 4 năm dài đại học. Những sách vở nặng tính giáo điều đến ngô nghê. Những đêm nội trú ngủ trong lời nhồi sọ chính trị từ loa phóng thanh. Những hôm bị gọi lên phòng Tổ Chức vì bị tố "không vững lập trường giai cấp". Và còn nhiều nữa...

Tôi đã đè nén bao căm hờn, để chuyển thành sinh lực. Học cho bằng được ngành cơ khí. Lắp đặt và sửa chữa bằng được máy tàu. Tôi đã nhìn vào biển rộng, và thề sẽ tạo dựng một cuộc đời mới. Tự do hay là chết. Đã mấy lần vượt biển không thành. Bị bắt, và bị kỷ luật tại trường. Hôm nay có lẽ là lần vượt biển cuối cùng, vì dấu tích đã quá nhiều trong sổ bìa đen. Nghĩ đến những điều xấu nhất có thể xảy ra, miên man nhớ đến những người thân yêu tôi sắp rời xa trong chuyến hải trình đơn độc, tôi trầm ngâm sắp xếp chuyện phải làm, rồi ứa nước mắt cương quyết đứng lên. Ngày đầu cho cuộc vượt biển đã điểm. Xếp vội một bộ quần áo, vài gói thuốc lá, vài viên thuốc cần thiết vào một ba lô rất nhỏ, tôi từ giã gia đình, ngồi ghế sau xe gắn máy của ba tôi, để trực chỉ về Hàng Xanh, Thị Nghè.


Những xe lam, xe đò chở khách về miền duyên hải đã chờ sẵn. Tôi bước vào quán điểm tâm, gặp gia đình người chú, và một người hướng dẫn vượt biển. 10 giờ xe lam bắt đầu chuyển bánh đi Vũng Tầu, xa dần bàn tay vẫy vẫy của ba tôi, xa dần Thị Nghè nơi ấp ủ bao năm tháng mối tình thơ mộng của một thời sinh viên. Chuyện tình thủa nọ bắt đầu bằng tia mắt trao nhau trong chân lấm tay bùn một ngày Chủ Nhật "lao động Xã Hội Chủ Nghĩa", rời bao buổi tối đèn sách bên nhau, bao cuối tuần hẹn hò.

Những dịu êm đến day dứt mở lại từ ký ức, theo cảnh bên đường hiện đến, rồi lùi vội về phía sau. Trùng trùng điệp điệp. Đến trưa, xe đi ngang một làng nhỏ trong tỉnh Bà Rịa. Người hướng dẫn vượt biên ra dấu xuống xe. Bẩy người bước theo, đi hàng một, giữ khoảng cách 5 m, cúi đầu để tránh tia nhìn của người địa phương, và không một lời nói chuyện. Ba bốn căn nhà lá đã sẵn sàng đón toán vượt biên. Tôi gia nhập vào một nhóm mười sáu người nằm ngồi la liệt trong một gian nhà. Mọi cửa được đóng kín. Trong bóng tối lờ mờ, người ta nhìn thoáng nhau trầm ngâm, yên lặng chờ đợi một bước ngoặt của cuộc đời. Thỉnh thoảng cơm nước được đem đến.

Những miếng nuốt vội, và những giờ chờ đợi dài dằng dặc. Đến 10 giờ đêm, người hướng dẫn bước nhẹ vào nhà, gọi khẽ: - Đến giờ ra ghe rồi. Mọi người chạy hàng một. Đêm nay không trăng, tối lắm. Người sau nắm lưng áo người trước mà đi. Tuyệt đối im lặng nghe bà con. Công an đồn này dữ lắm đó. Chúng đã bắt nhiều người, và đôi khi bắn nữa. Bắt đầu đi thôi. Người sau nắm áo người trước, tạo thành ba con rắn dài ngoằng, quằn quại thoăn thoắt xuyên qua những đồng cỏ và bùn lầy mênh mông, tiến về bờ sông. Một thằng em họ 7 tuổi nắm chặt áo tôi để chạy đằng sau. Thỉnh thoảng tôi lại gọi: - Bình! Còn chạy nổi không em? Bỗng dưng, tôi không nghe nó trả lời nữa. Quay lại thì một người khác đang nắm áo tôi. Rời hàng, tôi tất tả chạy ngược lại tìm nó. Hàng vẫn tiếp tục chạy về phía trước. Tôi điếng người quờ quạng tìm trong im lặng, không dám gọi lớn. Hàng mỗi lúc một cách xa. May quá, tôi nhìn thấy Bình đang lồm cồm bò lên từ một cái hố. Trời tối như mực.

Không nhìn thấy đoàn đâu nữa. Tôi kéo tay Bình cắm đầu chạy trối chết, đuổi theo tiếng thình thịch xa xa phía trước. Khi bắt kịp đoàn, thì đã đến bờ sông. Khoảng mười ghe nhỏ đang chờ sẵn. Người hướng dẫn hối: - Lên ghe nhanh lên. Hình như bị lộ rồi. Hồi nãy bà con chạy mạnh chân quá. Nhanh nhanh giùm bà con ơi. Chết hết cả đám bây giờ. Năm sáu người một ghe. Những ghe nhỏ tròng trành dữ dội, vì chở nặng và hành khách nhảy lên, hối hả rồ máy đuôi tôm, lao mình ra sông lớn. Văng vẳng từ bờ vọng đến tiếng quát tháo, như của công an tuần tra. Trong bóng tối dầy đặc, một ngọn đèn bão soi dật dờ con thuyền mẹ, đang chờ ở giữa dòng sông lớn. Đèn pin nhấp nháy tín hiệu nhận nhau giữa thuyền mẹ và 10 ghe con. Đến phiên ghe tôi cập, thuyền mẹ sừng sững hiện ra, cải biến từ thuyền đánh cá, độ 18x4m. Khoảng hơn 50 người lần lượt lên thuyền. Thuyền trưởng và phó, thợ máy đều còn rất trẻ. Biết chút ít về cơ khí, tôi bắt đầu phụ anh thợ máy chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài trên biển.

Gần 12 giờ khuya, khi dầu và lương thực đã chuyển lên đầy đủ, việc điểm danh hành khách đã xong, thuyền bắt đầu rẽ nước chạy nhẹ nhàng ra cửa biển. Dọc đường đi, thuyền lại nhấp nháy đèn ra hiệu để đón thêm ba tốp nữa. Tổng cộng số người là 81, sau này trở thành một cái tên nhắc nhở đến nhiều trong các tài liệu quốc tế. Một ghe khác, làm mồi, tiến ra, đi trước dò đường. Nếu bị công an chận, ghe chính đằng sau, sẽ lủi đường khác chạy trốn. Thuyền đang lướt nhẹ nhàng, bỗng "Rộp" thật lớn vang lên. Tài công chửi thề: - Thuyền mắc cạn rồi. Ghe nặng quá mà. Tầu tuần tra qua thì bỏ mạng cả đám. Từng đợt thanh niên nhảy xuống cho nhẹ ghe, và cố đẩy ra chỗ sâu. Hì hục cả nửa tiếng mới xong. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Ghe lại lướt sóng nhanh hơn, cố tiến gần hải phận quốc tế trước khi trời sáng. Mọi người phải chui rúc dưới khoang tầu để tránh tia mắt công an và các tầu bè qua lại. Khi ghe vào cửa biển, sóng bắt đầu nhồi mạnh. Hành khách bắt đầu ói mửa.

Đủ thứ mùi cuộn lẫn với khói máy và dầu làm tôi cũng choáng váng. 8 giờ sáng ngày 20 tháng 10, tôi bước lên boong thuyền. Sóng biển cao và đen ngòm. Hải phận quốc tế đây rồi. Tôi hít thật sâu không khí tự do sau hơn bốn năm dài xa cách. Một phấn chấn tuyệt vời không thể nào quên. Đến tối thì một trận bão kéo đến. Gió giật mạnh và sóng cao như những tòa nhà cao tầng dồn dập đổ tới. Con thuyền mong manh lao đao giữa biển khơi điên cuồng. Sóng bắt đầu đổ ập vào khoang ghe, cuốn bay la bàn, và một số lớn thùng uống nước. Tài công bắt đầu đánh hiệu SOS cầu cứ tầu bè ngoại quốc qua lại. Nhưng họ đều làm ngơ. Thuyền mấy lần xuýt lật úp. Biết tiến tới là dấn thân vào cõi chết, tài công quay hướng thuyền trở lại Việt Nam. Khi thuyền gần đến, gặp tàu sắt đi tuần tra. Công an bắt loa nói gì không rõ. Khi thuyền đến gần, có thể nhầm với thuyền ngoại quốc đến đánh cá lậu, họ bắt đầu bắn vào chúng tôi. Thuyền lại một lần nữa quay nhanh ra ngoài khơi. Máy được rồ hết ga để chạy khỏi đường đạn. Không thể tiến vào trận bão đêm qua, thuyền hướng về Nam chạy qua Thái Lan.

 Chạy được một lúc thì bỏ xa tầu công an. Máy nóng quá, anh thợ máy tắt đi cho nguội bớt và sửa chữa những hư hại trong cuộc chạy quá ga vừa rồi. Hai giờ sau, tài công đề máy để tiếp tục cuộc hành trình. Hỡi ơi, cả hai bình điện bị sóng bão ngập hôm qua, không làm việc nữa. Thế là thuyền lênh đênh trên biển. Những chiếc áo được cởi ra để làm buồm. La bàn đã bị sóng cuốn, phải dùng mặt trời để định hướng. Buồm quá thô sơ, không điều khiển được. Thuyền tiếp tục lênh đênh, không phương hướng. Thỉnh thoảng có vài tầu bè qua lại xa xa. Họ vẫn làm ngơ trước tín hiệu cầu cứu.

Nước uống đã gần cạn, mỗi người chỉ được thấm môi. Một số người đã phải uống nước tiểu của chính mình, rồi bắt đầu mê sảng la liệt trên thuyền. Những thanh niên còn sức thì luân phiên tát nước 24 giờ một ngày. Đã 20 ngày lênh đênh trên biển. Hy vọng sống tắt dần. Tiếng cầu kinh cứ rỗi bắt đầu vang lên. Mọi người ứa nước mắt tìm chỗ nằm thanh thản trên con thuyền, mong thuyền sẽ trở thành mộ phần cho cả nhóm. Tờ mờ sáng ngày 10 tháng 11, khi mọi người đang chờ chết, thì một tầu đánh cá từ từ tiến đến. Nhiều gười mừng quá đến khóc ròng. Tầu đánh cá Thái Lan. Sống rồi. Sống thật rồi. Thoát Cộng Sản rồi.

Thoát thật rồi. Tàu Thái tiếp tế nước uống, thức ăn, và cho mượn bình điện để đề máy. Máy lại nổ đều. Mọi người tháo nhẫn vàng, đồng hồ, dây chuyền tặng cho những người Thái đã cứu mình. Thuyền rẽ sóng nhắm hướng mặt trời lặn trực chỉ Thái Lan. Ba bốn tàu nữa cặp vào ghe. Bây giờ không phải những người Thái nhân hậu nữa, mà là hải tặc. Chúng tra khảo tiền bạc, và dúng kèm bẻ cả răng vàng của các cụ già. Những tiếng thét thất thanh và máu bắt đầu nhỏ xuống khoang thuyền. Nhiều người muốn chống cự, nhưng sợ bọn Thái sẽ húc tầu chết cả đoàn, như những chuyện đã từng xẩy ra. Đến hoàng hôn thì nước biển bắt đầu có rác, ghe đang tiến vào bờ.

 Cuộc vui chưa chọn vẹn, thì một tàu Thái không tìm được gì quí giá còn lại, kéo ghe vào đảo hoang xa xôi Koh Kra ở vùng đông nam Thái Lan, gần Mã Lai. Chúng đuổi đoàn lên đảo, để lấy máy và bánh lái của ghe. Ngày hôm sau, tàu hải quân và những đất nước tự do đã rộng vòng tay chào đón thuyền nhân, Cao Ủy Tị Nạn, Hội Y Sĩ Không Biên Giới, Hội Cứu Nguy Giúp Người Vượt Biển, những người hùng như ông Schweitzer, bà Thanh Thủy, vv... Xin tạ ơn người, ơn đời, ơn thuyền và biển rộng. San Jose, 14 tháng 2, 2003
 :::Nguyễn Sĩ Minh:::

KIM THANH * THUNG LŨNG NƯỚC MẮT

THUNG LŨNG NƯỚC MẮT
  
kim thanh                                                                            

 

Kính lạy Nữ Vương, Mẹ của lòng Nhân Ái

.............................. .............................. ...........

Chúng con, con cháu Eva bị đọa đày, kêu lên Mẹ lời than khóc
Gửi lên Mẹ tiếng thở dài, rên siết, tang tóc
Trong thung lũng nước mắt này...
(Kinh cầu Đức Mẹ Maria, từ thế kỷ XI)

1. Thung lũng nằm tít phía trong quốc lộ I, dưới chân một ngọn núi khá cao được gọi là Núi Sạn, cách thành phố Nha Trang khoảng bảy, tám cây số về hướng Bắc. Trái với tên gọi, Núi Sạn cây cối um tùm, leo lên mới thấy vài phiến đá to, lởm chởm, tuyệt nhiên không có viên sỏi, viên sạn nào, hiểu theo nghĩa đen, và đường vào núi cũng không quanh co, hiểm trở gì để phải liên tưởng đến “sạn đạo” của đất Ba Thục ngày xưa. 
 
Hồi nhỏ, vào những ngày nắng chói chang, tôi và các bạn thường đạp xe ra thung lũng để đá bóng, trên những bãi cỏ mượt êm, hoặc leo núi, cắm cờ, chơi trò trốn bắt. Rồi rủ nhau ra biển, bơi lội, sẩm tối mới về nhà. Những cánh đồng chung quanh biếc xanh một màu với thân lúa cao vút, cúi rạp, uốn khúc la đà, triền miên như sóng, mỗi lần có ngọn gió lùa qua. Thuở ấy, dân cư thưa thớt, rải rác vài xóm nhà tranh vách đất, đèn dầu leo lét. Nơi nào cũng gặp thiên nhiên tươi mát, chim chóc đua nhau hót vang, trái cây rừng phủ cành, như cam thảo, chùm bao, long nhãn, và sim tím, hái xuống ăn thỏa thuê. Và hàng thùy dương trên bãi Hòn Chồng, gần nhà tôi, nghiêng bóng lung linh trong ánh chiều tím ngát. Khung cảnh hoang dã, đầy thơ, tịch mịch, dễ gây hồn mộng mơ, lãng mạn, và cô liêu...

Nhưng rồi chiến tranh ùa đến, mịt mờ khói lửa. Tôi khoác áo chiến binh, xa Nha Trang, biền biệt, lê gót phong sương trên các nẻo sa trường Cao Nguyên. Chợt trở về, từ trại Vĩnh Phú, cuối 1983, sau tám năm tù khổ sai cải tạo tiếp theo ngày đại nạn của dân tộc, để ngậm ngùi thấy tất cả đã biến đổi, thương hải tang điền! Người từ miền Bắc, miền Trung đến lập nghiệp tại quê tôi, tấp nập, xô bồ, cất nhà chi chít, dọc ngang đủ kiểu, trên cả những nghĩa địa cũ, chiếm đất của người chết, lấn sâu vào tận chân 
 
Núi Sạn, dọc hai bên đường rầy xe lửa, ra đến bãi Dương, Hòn Chồng. Cây cối trên núi và hàng phi lao ven biển bị đốn gục. Ruộng vườn biến mất. Núi Sạn chỉ còn trơ sườn đá đen loang lổ, có vẻ thấp xuống –như phẩm giá con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa– ngang bằng một ngọn đồi trọc. Thung lũng trở thành một nghĩa địa mới, nằm bên một trại cùi tân trang cùng mang tên Núi Sạn. Cỏ cây không mọc nổi nữa. Đạp xe đi tìm, không thấy đâu sân đá bóng và những trái rừng ngày trước. Đau biết mấy, như nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan trước một Thăng Long Thành hoang phế: Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Trình diện phường khóm và đồn Công an khu vực xong, tôi được chỉ định về thung lũng Núi Sạn “công tác” tại một hợp tác xã dệt vải thô, thứ vải dùng để tẩm liệm, may áo tang, hoặc trải giường. Hợp tác xã là một căn nhà rộng, hai tầng, gần Tháp Bà, tịch thu của một thương gia chạy thoát năm 1975. Bên ngoài hợp tác xã là một cái chợ tên Chợ Bàu, sát quốc lộ, trước kia là một cái ao to ngập nước.
 
 Công việc của tôi khá đơn giản: buổi sáng quét sân xi măng, buổi chiều vào dọn phía trong, lau những khung dệt, sau khi hai mươi lăm cô thợ xong việc, sửa soạn ra về. Và mỗi cuối tháng, tôi và một nam công nhân, tên Võ Minh Thiện, đạp xe ba gác qua phố Nha Trang chở vải nộp cho các cơ quan, đại lý. Thiện phụ trách sửa chữa những khung dệt, tay nghề rất vững. Anh lịch sự với tôi, ưa giúp đỡ người khác, kín đáo, ít nói, lại càng ít nói về mình, dù đôi lần tôi đến bắt chuyện, như một bạn đồng nghiệp. Nhìn Thiện, tôi nhớ chắc anh là cựu SVSQ khóa 4 trường ĐH/CTCT/ĐL, nơi tôi đã từng phục vụ trong tư cách sĩ quan Văn hóa vụ, nhưng khi được hỏi Thiện chỉ cười cười, không chối, cũng không nhận, và lảng sang chuyện khác. Biết thế, tôi chẳng hỏi han gì nữa. Sau này, Thiện lấy một cô rất hiền, dễ thương, lớn tuổi nhất trong đám thợ dệt “choai choai”, và đám cưới của hai đồng nghiệp tất cả nhân viên hợp tác xã dệt đều đi dự.


Mỗi ngày, giữa hai công việc, để giết thời gian, tôi ra quán giải khát trước cổng, ngồi uống nước mía, hút thuốc, trầm ngâm ngắm nhìn người qua lại trong chợ. Điều này làm lão chủ nhiệm người Quảng Ngãi –trước 75 có thời làm công cho gia đình tôi– khó chịu, cằn nhằn hoài. Nhưng tôi bất cần, vì biết bọn công an bắt tôi đến hợp tác xã chỉ cốt nhờ người kiểm soát việc đi đứng của tôi thôi. Cũng như mỗi tuần một lần, bất thần sau nửa đêm bọn chúng nhảy tường, xông vào nhà, bắt mở cửa, lục lạo các phòng ngủ, kể cả phòng của hai em gái tôi, Bội Trân và Huyền Trân, xem tôi còn đó hay đã đi rồi. Chúng dư biết sớm muộn gì tôi cũng tìm đường vượt biên, nên ra sức canh, rất kỹ. Lão chủ nhiệm, một thứ anh hùng cách mạng 30 tháng 4, bảo hoàng hơn vua, không hiểu, nhất định bắt tôi “lao động tốt, chấp hành nghiêm chỉnh lệnh trên”.


Còn các cô thợ, hầu hết lớn lên sau 1975 như Huyền Trân, khi nghe nói tôi là sĩ quan “ngụy” cải tạo về, mới để ý liếc dòm tôi từ đầu đến chân, một cách chăm chú, nửa như thương cảm, nửa như tò mò muốn biết một ông “đại úy ngụy” chánh hiệu ra sao, có giống con giáp nào không. Sau đó, các cô tự động quét dọn sạch sẽ khu vực dệt, lau chùi những khung cửi, trước khi về, bớt việc cho tôi. Khi thân nhau hơn, trong giờ giải lao, vài cô chọc tôi, hỏi “chú có vợ chưa, để em giới thiệu bà dì út của em cho”, hoặc “khi nào đại úy đi vượt biên cho em theo với”. Tôi cười dễ dãi, nhưng không nói gì. Một bữa, thấy tôi thơ thẩn trong sân, một cô đến gần, nói nhỏ vào tai: “Em là Thanh, bạn thân của Huyền Trân, đi nhiều lần bị bể hoài. Khi nào có mánh, anh cho em biết với nhé!”. Tôi hoảng hốt, sợ bị gài bẫy, lắc đầu quầy quậy, lên lớp: “Không, tôi không đi đâu cả. Tôi sẽ ở lại với đất nước, đồng bào”.

Sáu tháng sau, một buổi trưa, tôi đang ngồi ở quán nước, lão chủ nhiệm sai người ra gọi vào. Lão yêu cầu tôi leo lên mái nhà, quét dọn rong rêu. Mái nhà cao chênh chếch, gần như thẳng đứng. Công việc khá nguy hiểm, rủi trợt chân té xuống, chết oan, dại gì! Dĩ nhiên, tôi kiếm cớ từ chối. Lão la lớn, sỉ vả tôi nào là “chây lười, chưa lao động cải tạo tốt”, nào là “phản động, cãi lệnh cấp trên”. Tôi cũng không vừa, to tiếng chửi lão là “đồ cách mạng dỏm”, “thứ ăn cháo đái bát”. 
 
Lão uất khí, gọi công an đến xin giải quyết. Tên công an phường họp tất cả lại, hỏi các nhân chứng. Đám đàn ông thanh niên không ai dám nói một lời bênh đỡ tôi. Võ Minh Thiện xanh mặt, nhìn tôi với vẻ ái ngại, lo lắng cho tôi. Còn các cô thì tranh nhau phát biểu, cho lão chủ nhiệm “phản ứng quá đáng”, “lạm dụng quyền hành”, “nhiệm vụ của người ta là quét sân mà bắt leo lên mái nhà, như vậy không đúng!” Nghe xong, tên công an không biết phân xử thế nào, chỉ bắt tôi làm tờ kiểm điểm, rồi bỏ đi. Tôi nhìn các cô, gật đầu, tỏ dấu biết ơn. Và nghiệm lại lời bàn của ông thầy tử vi trước kia: số tôi có sao Hồng Loan chiếu mệnh, nên thường gặp “nữ quới nhân phò hộ”.


2. Sau vụ này, tôi bị thuyên chuyển về trại cùi Núi Sạn. Nhiệm vụ như cũ, nghĩa là quét dọn vệ sinh, đổ rác. Mẹ tôi lo lắm, dặn tôi bớt ngang bướng. Kệ chúng nó, mẹ bảo, đất nước này đâu phải của mình nữa đâu. Ráng nhịn đi con, chờ ngày thuận tiện trốn đi. Nhà mình toàn “ngụy quân” là mục tiêu cho chúng nhắm. Lúc ấy, Nguyễn Kim Trọng, em kế tôi, cựu trung úy dạy Anh văn tại Võ Bị, đang bị truy lùng về “tội” vượt trại tù Đồng Trăn, về nhà được mẹ và anh em cưu mang, che chở, suốt ngày tự giam lỏng, đọc sách, ăn ngủ tại chỗ, trong căn gác hẹp –có một ô gỗ vuông ăn thông với mái nhà, khi biến động là gỡ ra, nhảy tót lên trần. 
 
Cũng may, trước đó không lâu, chúng đã trả lại nửa căn nhà bị tịch thu làm trụ sở phường. Mẹ sợ, nếu vì tôi mà công an “ghé thăm” thường xuyên thì rất nguy cho Trọng. Mẹ nói thế cũng oan cho tôi, vì hai cô con gái đẹp, độc thân, của mẹ cũng là nam châm cực mạnh hút đám thanh niên, và đặc biệt bọn công an phường và khu vực, không mời mà đến nườm nượp. Tuy nhiên, tôi hứa từ nay sẽ ngoan ngoãn, cho mẹ yên tâm. Để chuẩn bị công việc mới, tôi ra chợ trời mua một đôi găng tay, một khẩu trang, một bộ đồ lính cũ, và mấy chai cồn rửa tay.


Trại cùi, được dời về Núi Sạn từ một địa điểm khác, trước 1975, đã do các tu sĩ dòng Phan-xi-cô địa phương sáng lập và điều hành, như vậy về lý là một trại tư, nhưng nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý luôn, chẳng phải thương yêu gì đám bệnh nhân khốn khổ kia, nhưng cốt bỏ túi món tiền viện trợ béo bở của các hội từ thiện thế giới. Trại tương đối rộng rãi, ngăn nắp, còn khang trang hơn những trại tù cải tạo –nơi tôi đã bị giam nhiều năm. Ba dãy nhà mái tôn khá lớn, nằm song song, loang loáng ánh mặt trời. Một bệnh xá kiểu dã chiến để bác sĩ, y tá làm việc và bệnh nhân đến uống thuốc. Việc nấu nướng do hai chị bếp ở ngoài mướn vào đảm trách. Một dãy hố tiêu sát hàng rào kẽm gai, được đổ vôi trắng khử trùng chung quanh, nặc mùi diêm sinh, và những con ruồi xanh to bay vo ve, thấy ớn. Dọn vệ sinh hố tiêu và nhà ở do các bệnh nhân tự lo, đỡ cho tôi lắm. Tôi chỉ giữ


việc dọn dẹp bệnh xá, quét sân và đào lỗ để chôn rác, hoặc chôn người chết. Mỗi ngày đứng trước cái sân đất rộng thênh thang và những thùng phuy to ngập rác đặt ở bốn góc, thấy mà ngao ngán. Đồng nghiệp “thâm niên công vụ” của tôi là một ông già ốm tong teo, tên Mân, lụ khụ, răng chỉ còn vài chiếc, mà lần đầu mới gặp tôi nghĩ chắc chả làm được tích sự gì, có khi tôi phải cáng đáng công việc giùm ông. Nhưng rất may, ông còn khoẻ, quét dọn nhanh thoăn thoắt, thỉnh thoảng còn giúp ngược tôi. Cũng không cần găng tay, khẩu trang. Ông nói: “Tui tứ cố vô thân, lại già rồi mà cậu! Trước sau rồi cũng chết. Ở cái xã hội chó đẻ này bây giờ, chết sớm càng khỏe mà cậu. Ủa, cậu phạm tội gì mà bị phạt vô đây? Bộ ngụy cải tạo về hả? Còn tui, nhậu say ở quán, chửi chế độ, bị giam ba tháng, sau bị đày vô đây... Tổ sư chúng nó, bọn khốn kiếp. Chỉ giỏi ăn hiếp người cô thế.”


Đây cũng là lần đầu tôi giao tiếp gần gũi với bệnh nhân phong cùi. Cảm thấy ghê ghê trước những vết thương chảy máu mủ, những ngón tay, ngón chân co quắp, bị cụt, những cặp mắt mờ đục, có khi mù hẳn, những thân người tiều tụy, những bước đi thất thểu, xiêu vẹo. Ôi, những con cháu Eva bị đọa đày trong Thung Lũng Nước Mắt –cũng như tôi và dân miền Nam, ở một bối cảnh khác, rộng lớn, có khi bi đát hơn– hằng van xin Nữ Vương, Mẹ Maria Nhân Ái, mở lòng cứu độ, như lời kinh cầu mà cả nhà tôi vẫn đọc đêm đêm, từ thời ấu thơ.
 
 Phải mất một tháng, tôi mới quen dần. Trong số khoảng ba trăm bệnh nhân, có vài gia đình gồm cha mẹ và những đứa con nhỏ đủ lứa tuổi, đang được điều trị. Họ nhìn tôi một cách dửng dưng, như vô cảm. Còn tôi, lòng buồn bã, xót thương họ vô cùng, vì thấy đời mình đâu có gì khá hơn. Rồi bỗng dưng nhớ đến Hàn Mặc Tử và những vần thơ bi thiết:

Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút Mỗi lời thơ đều dính não cân ta.
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
(Rướm máu)


Tôi không biết trại trưởng là ai. Nhưng trại phó điều hành kiêm thông dịch viên giao tiếp với người ngoại quốc là một tu sĩ Phan-xi-cô, thầy Pierre, quen biết ba mẹ tôi ngày trước. Bác sĩ trưởng là Nguyễn Phúc Vĩnh Phương, vừa ra trường thì nước mất, chuyên về bệnh “da liễu” (dermatology), người hiền lành, dễ mến, gặp tôi chào hỏi tử tế. Một bác sĩ Pháp tuổi độ ba mươi, Jean-Luc de Neuville, thuộc tổ chức Médecins Sans Frontières (Y Sĩ Không Biên Giới), và một nữ y tá người Úc trẻ đẹp, Ann Mary, tình nguyện đến giúp đỡ. Tất cả nhiệt tình, chăm sóc bệnh nhân chu đáo.


Dưới mắt mọi người, tôi chỉ là một cái bóng trên sân đất, một công nhân vệ sinh giữa những công nhân khác. Một hôm, như thường lệ, tôi quét dọn xong bệnh xá, trước giờ phát thuốc, có bác sĩ de Neuville ngồi làm việc. Lần đầu, anh ngước nhìn tôi, nói cám ơn. Và cũng lần đầu, tôi thấy rõ mặt anh. Trắng trẻo, đẹp trai, vẻ tự mãn như tất cả những anh Tây có “máu xanh” (sang bleu, quý tộc) và chức phận. Tôi gật đầu, toan bước ra, thì anh gọi giật lại, nói thật chậm, kéo dài từng chữ, vừa nói vừa ra dấu tay:
- Tôi được Frère Pierre cho biết rằng trước kia anh là một quân nhân (Jean-Luc làm động tác bóp cò súng) của miền Nam. Một cựu sĩ quan mà phải quét nhà (anh ta làm động tác quét), tôi thấy không xứng đáng, vous... com...pre... nez... Anh hiểu chứ?


Tôi bật cười, rồi nghiêm trang bảo anh ta:
- Trước hết, bác sĩ có thể nói với tốc độ bình thường như khi nói với đồng hương của bác sĩ, và khỏi cần ra dấu tay. Tôi hiểu được. Thầy Pierre nói đúng: tôi là một cựu đại úy VNCH, và xin bác sĩ đừng ái ngại cho tôi, vì việc quét dọn tại trại cùi này không là gì cả so với những năm lao động khổ sai tôi đã phải trải qua sau khi chiến tranh chấm dứt. Một điều mà thầy Pierre, và dĩ nhiên bác sĩ nữa, không biết, và cực chẳng đã tôi phải nói ra, khi cần thiết thôi, là trước khi vào lính tôi đã học trường Pháp, có văn bằng Pháp, dạy trường Pháp Collège français ở đây, và được chính phủ Pháp cho đi tu nghiệp sư phạm tại Grenoble, quê hương của Stendhal, ba tháng hè năm 1965, chưa kịp đi thì bị gọi nhập ngũ...


Nghe tôi nói một hơi, với giọng chua chát, không vui, Jean-Luc có vẻ rất ngạc nhiên, mặt đỏ dần, đứng lên, đến bên tôi, bắt tay, và nói:
- Ồ, tôi thật không ngờ. Hân hạnh biết anh! Chỉ nghe anh nói một lần tôi tin anh ngay. Xin lỗi anh. Bây giờ chúng ta là bạn, nếu anh cho phép. Ở đây một mình, tôi cần một người bạn cùng nói một ngôn ngữ để tâm sự. Từ nay, chúng tôi sẽ không để anh quét dọn bệnh xá nữa. Chúng tôi sẽ nhờ le père Mân làm thay.


- Tại sao? Dù sao, tôi cũng cám ơn Jean-Luc.
Từ hôm đó, Jean-Luc lúc rỗi rảnh thường đi tìm gặp tôi bên những thùng rác, trên các băng gỗ dành cho nhân viên tạp dịch ngồi nghỉ mệt. Một cách nhanh chóng, chúng tôi trở thành thân đến độ tutoyer, “toa moa” với nhau.


Jean-Luc kể về mình và gia đình ở Lyon. Còn tôi, vì phản xạ tự nhiên sau những năm sống chung với Việt Cộng, chẳng dám hé môi nói điều gì về gia đình, hoặc chính trị, kể cả những khi Jean-Luc lên tiếng “tiếc thay cho một người có tài như anh mà không được chế độ mới trọng dụng”, hoặc “chất xám, tài nguyên của đất nước, đã bị phí phạm”. Tôi lắc đầu:


- Bọn họ chưa giết là may rồi, Jean-Luc. Tôi không bao giờ nuôi ảo tưởng về hạnh phúc, về thương yêu, về hận thù, về cuộc đời, về ý thức hệ này nọ. Đúng hơn, ảo tưởng đã mất. Illusions perdues, anh còn nhớ tác phẩm của Balzac? Giờ chỉ còn là thực tế phũ phàng và đôi mắt mở to để nhìn cho rõ. Tôi mong được yên thân ngày nào hay ngày nấy.


Và để đổi hướng câu chuyện, tôi hay bàn về văn chương, về Stendhal, Baudelaire –những tác giả tôi yêu mến. Jean-Luc thú thật không biết nhiều về văn học sử Pháp, chưa đọc hết Le Rouge et le Noir, tiểu thuyết nổi tiếng của Stendhal, và tuy Grenoble không xa Lyon bao nhiêu mà anh cũng chưa có dịp đến và chỉ biết Grenoble giáp giới với Thụy Sĩ, có rặng núi Grande-Chartreuse buổi sớm sương mờ vây phủ và con sông Isère, dài lắm, đi qua thành phố trước khi nhập vào sông Rhône –những điều anh đã học được trong lớp địa lý. Như tôi.

Một buổi trưa, tôi đang nghỉ giải lao trên băng gỗ, dưới một bóng cây to, thì bác sĩ Vĩnh Phương đi ngang qua. Thấy tôi, anh dừng lại, mỉm cười chào, ngồi xuống, rồi nói:
- Anh làm việc chắc mệt lắm hỉ? Tôi nghe thầy Pierre và bác sĩ de Neuville nói nhiều về anh, toàn là tốt. Thấy anh làm việc chăm chỉ, đường hoàng, tôi muốn kết bạn với anh, anh nghĩ sao?
Bị hỏi bất ngờ, tôi lúng túng, đúng hơn, ngờ vực, chưa biết trả lời sao, thì Phương tiếp:


- Anh đừng nghi ngại, tôi cũng thuộc thế hệ “ngụy”, rất nể phục và thương cảm những sĩ quan cải tạo trở về. Hơn nữa, tôi khoái thái độ bất cần đời và vẻ ngang tàng điếc không sợ súng của anh. Trước khi anh đến đây, tôi đã được báo cáo đầy đủ về vụ anh cự lão chủ nhiệm hợp tác xã dệt và nhận chỉ thị phải theo dõi anh sát nút, nhưng đời nào tôi làm cái chuyện khốn nạn đó, tôi là bác sĩ mà, đâu phải công an. Tôi thật sự...
Tôi gật đầu, bắt chặt tay anh. Phương vui lắm. Từ đó, anh thường mời tôi và Jean-Luc lên văn phòng anh uống cà-phê hoặc đạp xe ra các quán dọc theo quốc lộ ăn trưa –như tôi vẫn làm một mình hằng ngày.


Rồi một chiều thứ bảy, Phương mời chúng tôi và cô y tá Ann Mary đến dùng cơm, tại nhà ở tận Cầu Đá. Chúng tôi nói tiếng Anh, vì có Ann Mary. Cô cười, khen nịnh, nhưng thực ra là chê: “Nghe mấy ông, you guys, nói tiếng Anh biết là dân Tây liền, vì accent lạ lắm!” Phương giới thiệu vợ, hai con nhỏ, và đặc biệt, bà mẹ vợ và cô em út của vợ, tên Loan, từ Sài Gòn vừa ra Nha Trang thăm gia đình anh và tắm biển. Loan cùng tuổi hai mươi với Huyền Trân và các cô thợ ở hợp tác xã dệt. Tôi liếc nhanh, để kịp thấy một dáng mảnh mai, gương mặt đẹp, mái tóc dài bới gọn, tai đeo hai vòng khuyên lớn, vẻ thông minh, bặt thiệp. Nhưng tôi không để ý lắm, vì chê Loan còn con nít, và vì tâm hồn khi ấy nặng trĩu những ưu phiền và đầu óc chỉ nghĩ đến mỗi một chuyện: vượt biên. Còn Loan, trong bữa ăn, tò mò nhìn tôi, lịch sự coi tôi chỉ là một anh “ngụy” cải tạo về, không hơn không kém, và là người bạn mới của ông anh rể. Thế thôi.

3. Bội Trân đạp xe ra trại cùi tìm tôi bất ngờ, một buổi trưa nắng, trong lúc tôi và ông Mân đang hì hục khiêng thùng phuy đầy rác đổ vào hố. Thấy cảnh này, em chớp mắt, như muốn khóc. Có lẽ nhớ lại những lần theo mẹ ra thăm tôi ở Vĩnh Phú và thăm Kha, hôn phu của em, tại Thanh Hóa. Tôi tháo khẩu trang, găng tay, choàng vai em, nói nhỏ:
- Thì cũng giống như hồi anh còn ở trại Vĩnh Phú thôi. Tại đó, anh còn hốt phân nữa mà. Không sao đâu. Mà em ra đây có việc gì?
- Mẹ bảo em mang ra cho anh dĩa xôi lạp xưởng mẹ mới nấu để anh ăn trưa.
Ông Mân đứng bên nãy giờ, lên tiếng hỏi:
- Ai vậy cậu Hai? Bà xã hả?

Tôi quay lại:
- Ấy chết, tôi quên giới thiệu, xin lỗi bác Mân. Đây là Bội Trân, em gái của tôi.
Em gật đầu chào ông. Ông nhìn em, tấm tắc khen:
- Trời ơi, cô đẹp quá, giống cô đào xi-la-ma gì đó, có chồng con gì chưa cô?
Hai anh em nhìn nhau cười, không trả lời. Bội Trân ngỏ ý muốn đi xem trại. Tôi chia một nửa phần xôi cho ông Mân, và nhờ ông làm nốt công việc, rồi đến xin phép thầy Pierre. Chúng tôi vào các dãy nhà ở. Nơi nào Bội Trân cũng thăm hỏi bệnh nhân một cách ân cần, và mủi lòng, nước mắt lưng tròng, khi thấy những em bé ngồi thẫn thờ, buồn bã nhìn qua khung cửa sổ hẹp mảnh không gian xanh ngắt và bầy chim nhỏ đậu trên cành hót líu lo, như mời gọi. Rời nhà ở, chúng tôi tạt qua gian bếp trong giờ phát cơm. Thấy món ăn có cơm, khoai mì, cá khô, nước mắm và canh rau, tôi nói với Bội Trân: “Khá hơn nhiều so với các trại tù cải tạo của anh”. Rồi đến bệnh xá. Jean-Luc đang ngồi viết, thấy chúng


tôi bước vào, bật đứng dậy. Tôi giới thiệu: “Marie-Amélie, em gái tôi!”. Em giơ tay cho anh ta bắt, và nói liền bằng tiếng Pháp, một cách rất tự nhiên, khiến Jean-Luc sửng sốt, buột miệng, hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Như vậy cả nhà anh đều nói tiếng Pháp à?
- Không, mẹ tôi và những đứa em lớn lên trong chế độ này không biết nói tiếng Pháp.
Sau hôm đó, Bội Trân xin thầy Pierre cho vào trại cùi, tình nguyện phụ bếp, hai lần một tuần. Những ngày khác, em qua chợ Đầm phụ bán nước mía cho Huyền Trân. Mẹ tôi đồng ý ngay. Các con thương người thì Chúa sẽ thương các con, mẹ bảo. Em lãnh việc chia thức ăn, phát nước cho bệnh nhân. Sắc đẹp tự nhiên, cách ăn mặc đơn giản, cử chỉ dịu hiền, thái độ đoan trang của em đã chinh phục mọi người. Jean-Luc có vẻ cũng thích em lắm. Những ngày em đến, anh ta ghé nhà bếp, dù chỉ để nói bonjour, tu vas bien? và chuyện trời mưa trời nắng với em.

Một buổi chiều tan việc, trên đường về nhà, ngang nghĩa địa, Bội Trân dừng lại, dưới một tàn cây, chỉ tay vào phía trong, bảo tôi:
- Lệ Ngà đang nằm trong đó, chắc anh biết? Cũng tội. Hay là anh vào thăm mộ một chút.
Tôi lắc đầu. Thôi em, hãy để thời gian làm quên những si mê, đớn đau, và hờn tủi. Tình yêu dù thiết tha đến đâu một ngày rồi cũng trôi qua như nước chảy dưới cầu. Sous le pont Mirabeau. Thơ Apollinaire đó em. Buổi tối xa xưa nào, em nhớ không, nửa năm trước ngày nước mất nhà tan, em và Kha lên Đà Lạt thăm anh và Lệ Ngà. Kha vừa từ phi vụ ở Phù Cát trở về, chưa kịp thay đồ bay. Em mặc jupe xanh, áo màu hồng nhạt, đeo bông tai vàng lóng lánh của ngày đính hôn. Tụi mình vào quán L’Eau Vive của các nữ tu người Pháp thuộc Domaine de Marie, gọi món bouillabaisse mà em thích, bifteck và rượu Bordeaux, vừa ăn vừa chuyện trò khe khẽ dưới ánh đèn mờ ảo, giữa tiếng đàn dương cầm dặt dìu, nhè nhẹ của một ma-sơ. 
 
Thật là tuyệt diệu. Do Kha yêu cầu, Lệ Ngà xin phép lên đánh một bản. Bản Appassionata, sonate 23 của Beethoven đó, để tặng riêng anh, vì biết anh mê nó lắm. Anh mê nó, vì nghe nỗi khổ đau tột cùng, mà vẫn đằm thắm, của tình yêu nát tan đã chết theo mùa thu phai úa, trên đôi môi hững hờ, bởi những chia lìa, mất mát, và phản bội –dàn trải ngút ngàn qua suốt bản sonate, trên từng phím đàn thánh thót, đứt quãng, chìm xuống như từng giọt lệ ngân. Kha cắn môi, ngồi bất động, còn em thì nép vào ngực Kha, lắng nghe, nước mắt giàn giụa. Các thực khách ngừng ăn. Khi nốt nhạc cuối cùng dứt hẳn, tiếng vỗ tay vang lên, kéo dài, và Lệ Ngà trở lại bàn, đôi mắt long lanh ngấn lệ. Anh ôm siết Ngà vào lòng, hôn mái tóc đầy hương, như siết ôm hạnh phúc thật, mà mong manh, không cho bay đi. 
 
Anh nghĩ, một người nếu, như tụi mình, thực sự đã nghe sonate Appassionata một lần rồi sẽ không còn muốn oán thù ai nữa. Và anh đọc ở đâu đó, Lénine có nói rằng nếu cứ tiếp tục nghe bản nhạc này ông ta sẽ không hoàn thành nổi cuộc cách mạng vô sản. Lúc ấy, tụi mình còn trẻ, đời còn đẹp, mộng còn đầy. Anh yêu buổi tối ấy quá, cũng như anh yêu em, yêu Lệ Ngà, Kha, và mọi người. Rồi ngờ đâu, Kha và Lệ Ngà đều ra đi, vĩnh biệt cõi đời. Chỉ còn hai anh em mình, ở lại với bóng mờ của hạnh phúc phù du, và riêng anh, dư âm xót xa của Appassionata ngày cũ. Thôi em, hãy để Ngà ngủ yên và thời gian làm quên...

Thêm một đợt bệnh nhân bình phục được rời Thung Lũng Nước Mắt về với gia đình. Trên mặt và tay chân họ còn rất ít dấu vết của căn bệnh quái ác, dữ dằn. Mỗi người nhận một xắc tay màu xanh, quà của Liên Hiệp Quốc, một bộ quần áo mới, và các vật dụng khác. Từ nay, họ không còn sống cô lập, không lây cho ai nữa, vì các bác sĩ, sau khi thử máu, biết chắc vi trùng đã hoàn toàn bị tiêu diệt nhờ các loại thuốc viện trợ rất hữu hiệu. 
 
Nhưng, tôi thầm hỏi, còn những kẻ cùi hủi tâm hồn thì lấy thuốc gì chữa đây? Buổi tiễn đưa diễn ra đơn sơ, nhưng đậm tình người, trước sân bệnh xá, dưới sự chứng kiến của thầy Pierre, hai bác sĩ, các y tá. Có những vòng tay ôm cho người về, có những lời chúc lành cho bệnh nhân ở lại. Bội Trân và tôi nhìn theo và mừng cho họ. Từng người lần lượt ra cổng. Cuối cùng, còn lại một bé gái, khoảng tám tuổi, vẫn đứng yên, thút thít khóc. Bội Trân tiến nhanh đến hỏi em và được biết em tên Trang, mồ côi cha mẹ, không thân nhân, lúc lên ba đã bị ai đem bỏ trước cổng trại. Bé không biết về đâu. Một lúc sau, Bội Trân trở lại, nói với tôi:


- Em muốn nhận nuôi bé Trang, xin phép anh trước. Em sẽ nói với mẹ sau.
Rồi không chờ tôi trả lời, em đi thẳng đến chỗ thầy Pierre, bác sĩ de Neuville, và Vĩnh Phương, nói gì đó với họ mà tôi thấy ba người gật đầu lia lịa. Em lại đến bên bé Trang, vuốt tóc bé, xách giỏ đồ, nắm tay, dắt về phía tôi. Em hớn hở khoe:
- Thủ tục nhận nuôi rất đơn giản, đặc biệt cho em, nhờ thầy Pierre. Tí nữa em sẽ ký vài giấy tờ là xong.


Tôi nhìn kỹ bé Trang, mừng rỡ thấy bé mặt trắng hồng, tươi tắn, tay chân lành lặn, bình thường, không ai có thể ngờ bé đã phải ở trong Thung Lũng Nước Mắt đã năm năm. Jean-Luc, sau này, bảo tôi rằng bé Trang không nhiễm bệnh, vì theo y khoa bé thuộc loại người có kháng tố bẩm sinh chống lại phong cùi dù chung đụng với bệnh nhân. Đáng lẽ bé phải rời trại lâu rồi, nhưng các nhân viên hành chánh quên bẵng sự hiện diện và hồ sơ của bé, cho đến hôm ấy.


Bé Trang về ở với gia đình tôi, mẹ tôi vui lắm, hôn Bội Trân, và ôm bé Trang vào lòng.
Rồi, một đêm trăng sáng, Bội Trân kéo tôi ra ngồi trên ghế đá trong vườn nhà, dưới vòm lá bưởi, bên những chậu hoa ngát hương. Em nói:
- Em muốn tâm sự với anh về một chuyện riêng. Cách đây một tuần, Jean-Luc ngỏ lời yêu em và hứa nếu được lấy em, anh ta sẽ mang em ra khỏi vùng đất bất công này về một nơi có ánh sáng, có tình yêu muôn thuở, có tương lai rực rỡ hơn... Anh nghĩ thế nào?
Tôi cười, hỏi ngược:
- Chuyện tình cảm là tùy em quyết định, anh biết gì. Còn em thấy sao?
Em trả lời liền, như đã suy nghĩ lâu lắm:


- Jean-Luc có đầy đủ điều kiện để trở thành một người chồng lý tưởng cho các thiếu nữ, có cả em, mơ ước, một cơ hội bằng vàng cho những cô muốn thoát ra khỏi địa ngục này. Anh ta lại đẹp trai, tính tình phóng khoáng, dễ thương, có địa vị, con nhà danh giá. Anh ta chỉ thiếu một điều, đối với em, rất quan trọng: đó là kinh nghiệm khổ đau trong đời. Như anh, các anh Trọng, Hiệp, như Kha, như biết bao sĩ quan VNCH còn đang bị đọa đày trong các trại tù cải tạo mà em đã từng gặp trên đường đi thăm các anh. Như những bệnh nhân phong cùi mà mới đây em có dịp tiếp xúc. Một người, em nói chung thôi, sung sướng và thành công từ tấm bé, không biết đau khổ, sẽ khó thông cảm khổ đau của người khác, sẽ tự phụ, sẽ ích kỷ...


Tôi ngắt lời em:
- Nhưng Jean-Luc đã tình nguyện đến giúp trại...
- Đúng thế. Nhưng có thể vì trách nhiệm nghề nghiệp của một bác sĩ. Trong mắt anh ấy, em chưa đọc thấy tấm lòng xót thương, em muốn nói, compassion, bao la, tuyệt đối, như của giám mục Seitz ở Kon Tum, của linh mục Damien ở Polynésie, hay các nữ tu trại cùi Qui Hòa, mà em chỉ nghe nói đến, hoặc ít ra của thầy Pierre mà em biết rõ...


Ngập ngừng một lúc, em thở dài, tiếp:
- Hơn nữa, anh ấy đánh giá em hơi thấp. Đâu phải lấy anh ấy để mong thoát khỏi nơi này? Có khác gì tên công an trưởng khu vực năm nào đã năn nỉ nếu em yêu và lấy nó nó sẽ bảo lãnh các anh về hết.
Tôi gật gật đầu, im lặng nghe, rồi cười, nói:
- Tình yêu mà em đem mổ xẻ như thế thì còn gì là tình yêu?

Em cũng cười, và tiếp:
- Thì cũng chính vì vậy mới là không yêu, và hồn em mới mãi giá băng, từ khi em mất Kha. Kỷ niệm và hình bóng của Kha còn chất ngất trong em. Kha đã ở lại, vì em, và chết thảm trong tù. Em không thể yêu ai được nữa.
Tôi hỏi:
- Em sẽ nói sao với Jean-Luc?
- Một lần thôi, tế nhị, dứt khoát. Rồi em xin nghỉ, không đến trại nữa. Jean-Luc sẽ hiểu.
 
 4. Hơn hai mươi năm trôi qua, kể từ ngày đó. Trọng vượt biên trước tôi, đến Indonesia. Hiệp, một người em khác, cán bộ Trung Ương Tình Báo, lúc ấy còn trong tù Z30, và sau mười bốn năm, mới được thả và đến Mỹ theo diện HO. Đầu năm 1984, sau những chuyến đi hụt, bị lừa, bị bắt, cuối cùng tôi đến được Subic Bay, Philippines, từ Nha Trang, cùng với Bội Trân, trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ, vượt bao giông tố hãi hùng. Ba tháng trước đó, em và tôi đã ra Thanh Hóa, tìm đến trại cải tạo, đem hài cốt của Kha về chôn tại nghĩa trang Núi Sạn bên các ngôi mộ của gia đình tôi. 
 
Em cũng đã bàn giao bé Trang cho Huyền Trân. Đến đảo Phi, Bội Trân xin tôi cho em đi Pháp sống với người chị kế, Thể Trân, định cư tại Nanterre từ 1978. Một năm sau, em xin vào tu trong dòng kín Carmel ở Lisieux, quê hương của thánh nữ Thérèse, giữa tuổi thanh xuân, giã biệt thế gian và tháng ngày khổ nạn, để “tìm bình an cho tâm hồn và béatitude, hạnh phúc của Chúa ban”, như em nói với Mẹ Bề Trên, và để, tự dưng tôi nghĩ đến Lệ Ngà, bắt chước các mỹ nhân tự thuở xưa mãi mãi “bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”. Ngày em khấn dòng, anh em chúng tôi từ Mỹ đến dự lễ, ôm em, khóc cười, buồn vui lẫn lộn. Do tôi mời, bác sĩ de Neuville từ Lyon cũng đến, đặt những grosses bises (cái hôn tình bạn) trên đôi má em.


Jean-Luc vẫn còn độc thân. Ann Mary về nước, lấy một Việt Kiều Úc. Vĩnh Phương được đi tu nghiệp một năm tại Bordeaux, trở về làm bác sĩ bệnh viện Nha Trang. Các cô thợ dệt đều có chồng con, tay bồng tay bế. Cô Thanh, người đã một lần xin tôi chỉ “mánh” vượt biên, hiện làm chủ một tiệm ăn ở Orange County. Thầy Pierre và ông già Mân đã chết. Qua đặc san của Tổng Hội Cựu SVSQ/ĐH/CTCT/ĐL, tôi được biết NT4 Võ Minh Thiện cũng đã từ trần. Bé Trang nay là một thiếu nữ ba mươi tuổi, đẹp và hiền thục, giống như hai mẹ nuôi Bội Trân và Huyền Trân. Xưởng dệt đóng cửa. Thung Lũng Nước Mắt vẫn còn.

Còn Loan, cô em vợ của bác sĩ Vĩnh Phương? Năm 1992, Loan theo mẹ, cựu nhân viên sở Mỹ, định cư tại San José, do người anh đi trước bảo lãnh. Ở đó, Loan chơi thân với một cô em họ của tôi. Từ Cheney, Washington, nơi đang dạy học, tôi xuống San José nghỉ hè, và tình cờ, tại nhà cô em, được gặp lại Loan –mà mười năm trước tôi đã thầm chê là con nít. Rồi chạy trời không khỏi nắng, ba năm sau, “con nít” Loan trở thành vợ tôi và sau đó nữa là mẹ của hai đứa nhỏ. Như một kết thúc có hậu trong những truyện cổ tích. Hay đúng hơn, một định mệnh an bài, huyền diệu mà những ông thầy tử vi và bói toán trên cõi đời này bó tay, không đoán trước được.

Kính lạy Nữ Vương Maria, Mẹ của lòng Nhân Ái.
 Portland, viết lần đầu, Mùa Quốc Hận, 2008
 Gửi lại, Mùa Quốc Hận, 2017







ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA VÀ VĂN BÚT QUỐC TẾ




Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ


Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến nữ văn hữu Jennifer Clement, Chủ tịch Văn Bút Quốc Tế

và văn hữu Carles Torner, Giám đốc Điều Hành Văn Bút Quốc Tế.


Hoạt động của Trung tâm Văn Bút Tây Tạng Hải Ngoại.



Ngày 4 Tháng Năm 2017, tại Dharamsala Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thân mật tiếp kiến nữ văn hữu Jennifer Clement, Chủ tịch Văn Bút Quốc Tế và văn hữu Carles Torner, Giám đốc Điều Hành Văn Bút Quốc Tế. Vị lãnh đạo tinh thần và tôn giáo của dân tộc Tây Tạng vui mừng khi biết Văn Bút Quốc Tế liên tục ủng hộ các nhà văn Tây Tạng tị nạn ở hải ngoại. Đức Đạt Lai Lạt Ma xác định rằng bênh vực và bảo vệ dân tộc Tây Tạng hiển nhiên là vấn đề bênh vực và bảo vệ Nhân Quyền phổ biến trên toàn thế giới. Ngài nhấn mạnh về sự kiện đó bao hàm cả quyền chính trị bởi vì người Tây Tạng có quyền tự quản trên đất nước của mình.

Ngài bày tỏ mối quan tâm sâu xa về thảm họa chế độ Bắc Kinh hủy hoại môi trường, đất đai, thiên nhiên và các dòng sông. Ngài rất lo lắng vì các con sông lớn bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng nuôi sống hàng tỉ người khi chảy xuống các bình nguyên và đồng bằng. Đức Đạt Lai Lạt Ma ủng hộ cuộc vận động của Văn Bút Quốc Tế đặc biệt dành cho các nhà văn bị buộc phải lưu đày xa quê hương trong thời gian tới đây. Nhân dịp này, Ngài nhờ nữ văn hữu Jennifer Clement và văn hữu Carles Torner chuyển một thông điệp của Ngài đến cộng đồng Văn Bút Quốc Tế : thực hành một tâm thức hiếu hòa cho một thế giới đầy lòng trắc ẩn.


Được biết Chánh phủ của người Tây Tạng tị nạn cộng sản hoạt động với các cơ sở trung ương tại Dharamsala. Trung tâm Văn Bút các Nhà Văn Tây Tạng Hải Ngoại cũng đặt văn phòng tại thành phố Ấn Độ này. Phái đoàn cao cấp Văn Bút Quốc Tế đã được văn hữu Lhoudoup Paldang, chủ tịch và ban Chấp hành Trung tâm Văn Bút các Nhà Văn Tây Tạng Hải Ngoại hướng dẫn đi thăm các tổ chức Xã Hội Dân Sự Tây Tạng lưu vong. Những công tác do các văn hữu Tây Tạng đã thực hiện với lòng dũng cảm rất đáng được vinh danh.

Các bạn đó đã đưa ra khỏi nội địa Tây Tạng bị Trung cộng chiếm đóng được nhiều sách viết trong vòng bí mật vì bạo quyền nghiêm cấm. Rồi cho in những tác phẩm đó để phổ biến tại Ấn Độ. Anh em cầm bút Tây Tạng đã công bố một bản phúc trình về sự đàn áp quyền tự do phát biểu và diễn đạt quan điểm cùng với thảm kịch các nhà văn Tây Tạng bị cầm tù. Nhờ các tài liệu của Văn Bút Tây Tạng Hải Ngoại, chúng ta được biết nhiều hơn về tình cảnh cực kỳ bi thương đến phẫn nộ của người phụ nữ Tây Tạng dưới chế độ độc tài đế quốc đỏ.

Nhứt là thảm kịch phụ nữ Tây Tạng bị cưỡng hôn với đàn ông Trung cộng. Anh em văn hữu Tây Tạng chiến đấu không ngừng nghỉ từng ngày để bênh vực và bảo vệ ngôn ngữ Tây Tạng. Nữ văn hữu Jennifer Clément và văn hữu Carles Torner thay mặt Hiệp Hội Nhà Văn Thế Giới thật hãnh diện được đích thân tuyên dương thi ca, âm nhạc và ca vũ Tây Tạng. Cả hai văn hữu Văn Bút Quốc Tế cũng tham dự những hội nghị được tổ chức trong các tu viện, đền đài và các nữ chủng viện. Tại những cơ sở văn hóa và Phật giáo đó, Văn Bút Tây Tạng Hải Ngoại đang khai mở và phát triển nhiều chương trình dành cho thanh thiếu niên Tây Tạng tị nạn cộng sản.


Genève ngày 5 tháng Năm 2017

Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Ligue Vietnamienne des Droits de l'Homme en Suisse

Vietnamese League for Human Rights in Switzerland.


-------------------------------------------------------------

Nguồn tin, tài liệu: Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ và nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt, phó chủ tịch Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại (Ủy ban Bênh vực Nhà Văn bị cầm tù).



BS. TRẦN XUÂN NINH * ĂN CHAY




Ăn Chay


Bác sĩ Trần Xuân Ninh


Tại các nước kỹ nghệ phát triển, thịt cá là một phần quan trọng trong đồ ăn. Riêng tại Hoa Kỳ giàu có, thịt là món ăn chính trong bữa đối với nhiều người. Nhưng trong những thời gian gần đây, ăn chay đã trở thành một phong trào. Đồ chay chế biến đủ loại bày bán trong các tiệm thực phẩm sức khỏe (health food stores). Trong khung cảnh này, người ta ăn chay vì những lý do khác nhau: Bảo vệ môi sinh, chăm lo sức khỏe, thương yêu súc vật, lý do thời thượng, và cả vì lý do thương mại.

Khi có người ăn chay thì có người chế tạo đồ chay theo phương pháp kỹ nghệ đem bán. Và dĩ nhiên để gia tăng doanh số cũng như lợi tức thì người ta đề cao ích lợi của ăn chay nhằm gia tăng số người tiêu thụ đồ chay. Ở đây đề cập đến ăn chay như là một hiện tượng xã hội Âu Mỹ này, mà chỉ suy nghĩ về ăn chay trong Phật giáo, và dưới khía cạnh dinh dưỡng tổng quát.Ăn Chay Trong Đạo Phật:

Người Việt Nam thường cho rằng ăn chay là một yêu cầu tu tập của các tăng sĩ và các Phật tử. Các tăng sĩ phải ăn trường chay, tức là hoàn toàn không trong trường hợp nào được ăn thịt cá. Các tín đồ thì tùy tâm nguyện mà ăn chay một hay nhiều ngày trong tháng hoặc theo trường chay. Nói cho đúng thì yêu cầu ăn chay chỉ áp dụng với các tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa, truyền từ Trung Hoa sang, gọi là Phật giáo Bắc Tông, các tăng sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, hay Nam Tông, có truyền thống khất thực, thì không bắt buộc ăn chay, mà ăn các thực phẩm do quần chúng tùy duyên trao tặng.
Sự khác biệt này đã khiến một số nhà nghiên cứu tìm tòi sách vở để xem lời Phật dạy đối với vấn đề ăn chay ăn mặn ra sao, nhằm phân định phải trái. Những dẫn chứng dĩ nhiên là khác nhau tùy theo nguồn kinh sách và tùy theo định kiến cá nhân đối với ăn chay.


Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng Đức Phật không phải là người ăn chay, không đặt vấn đề chay mặn, và hàng tỳ kheo đi khất thực đón nhận, không phân biệt, thực phẩm dân chúng đóng góp cúng dường. Ngược lại ăn chay là một nhu cầu tu tập bắt buộc trong các kinh điển Phật giáo Đại thừa Trung Hoa. Vì thế, nhiều người cho rằng ăn chay là một nét đặc thù của Phật giáo Đại thừa. Thực sự thì ta nên biết rằng một số tu sĩ Nhật Bản thuộc Phật giáo Đại thừa cũng ăn thịt. Ngoài ra, một giáo phái Đại thừa Tây Tạng (áo đỏ) cũng ăn thịt. Ngay một số để tử Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc sang Mỹ thuyết giảng khi được hỏi về thực phẩm cũng không đặc vấn đề chay mặn. Trong sách "Quan Điểm Về An Chay của Đạo Phật" tác giả Tâm Diệu đã viết rằng "ăn chay không phải là nét đặc thù của Phật giáo Đại thừa nói chung và của Phật giáo Đại thừa Trung Hoa nói riêng". Tâm Diệu đã dẫn chứng một số tài liệu để khẳng định "ăn chay đã có trong thời kỳ Phật còn tại thế và được phát triển mạnh mẽ vào thời đại Asoka, vị hoàng đế Ấn Độ trị vì từ n ăm 274 đến năm 232 trước Thiên Chúa giáng sinh".

Tác giả Tâm Diệu vừa viện dẫn kinh sách, vừa lý luận dựa trên một số tài liệu khoa học và bài viết hiện đại về môi sinh để cổ võ việc ăn chay. Bài này không nhằm mục đích đó mà chỉ muốn đưa lên một số suy nghĩ về ăn chay, trên cơ sở hiểu biết cá nhân về đạo Phật cũng như về dinh dưỡng.

Các tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng sự giải thoát không do nơi ăn uống, mà do nơi thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý. Ăn chay mà thân khẩu không lành, ý chứa gươm đao, giới luật không giữ thì không lợi ích gì. Luận cứ này không khác gì mấy lối nghĩ của người bình dân "ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối". Cái lý luận bình dân này xét ra cũng hơi có tính bài bác ăn chay.

Ngược lại, theo Phật giáo Trung Hoa, ăn chay là một phần của việc thì hành giáo pháp. Triều đại nhà Lương (thế kỷ thứ 6 sau Thiên Chúa), nhà vua cấm thịt cá trong các yến tiệc hoàng cung, kêu gọi dân chúng ăn chay và cấm giết thú vật trong các nghi lễ Đạo giáo. Thời Minh (thế kỷ 16-17), hòa thượng Vân Thế Châu Hoằng là người cổ võ ăn chay mạnh mẽ, vì thế có người đã cho rằng ăn chay bắt đầu từ thời này. Bênh vực cho yêu cầu ăn chay trong việc hành trì đạo pháp, có nhiều luận cứ trong kinh sách Đại thừa, như Lăng Già, Lăng Nghiêm, Đại Bát Niết Bàn? Chủ yếu coi ăn chay là thi hành giới cấm sát sinh, và cũng là thực hành hạnh từ bi.

Ngoài ra, ăn chay cũng là để tránh ăn thịt lẫn nhau, trong đó có thể có người thân thích cật ruột của mình bị trầm luân theo luật luân hồi. Nếu nhận rằng giới cấm sát sinh và hạnh từ bi không chỉ áp dụng với người mà còn phải áp dụng với mọi loài từ con sâu cái kiến trở đi, thì ăn thịt sinh vật không thể nào biện giải được. Nếu tin tuyệt đối vào luân hồi, làm kiếp người hay kiếp thú vật hoàn toàn tùy duyên nghiệp nhân quả quyết định, thì rõ ràng ăn thịt động vật cũng là ăn thịt con người. Tuy nhiên cái lòng tin tuyệt đối này cũng như sự diễn dịch giáo lý của Phật có khác nhau, tùy theo văn hóa và trình độ phát triển của từng dân tộc cũng như tùy sự hiểu biết cá nhân.

Truyện kể lại rằng vào đời nhà Trần trong một bữa tiệc do hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm thết đãi có cả món chay lẫn món mặn, thì Tuệ Trung Thượng Sĩ, người sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, đã điềm nhiên ăn thịt cá. Thái hậu ngạc nhiên hỏi: "Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao được?" Ngài cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm Phật. Phật không cần làm anh". Tuệ Trung Sĩ là một bậc tu hành giác ngộ. Lời nói của Ngài không phải là lời kẻ tục tử đáp xằng. Việc ăn thịt cá của Ngài Tuệ Trung dĩ nhiên là trái hẳn kinh sách Đại thừa. Vậy thì sự thật ở đâu? Ăn chay là phải, hay ăn mặn là phải trong việc tu hành theo Phật pháp?

Câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ hàm ý cho thấy cái quan trọng của tâm tu và cái phá chấp trong phương tiện tu hành.

Thời nay, ta thấy có những trường hợp các bữa cơm chay trong chùa đầy rẫy các món như giò, chả, thịt kho, cá hấp, tôm xào? làm bằng đồ chay. Về vật chất, đúng rằng các món này thuần làm bằng rao đậu, không có cá thịt. Nhưng về tinh thần, cái ý thức ăn giò, chả, thịt kho, cá hấp? rõ ràng biểu lộ sự trói buộc vào trong những ý niệm quy ước nặng nề thân khẩu ý, không giúp ích chút nào cho sự tu trì. So với một tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, đón nhận tự nhiên mọi thực phẩm dân chúng cúng dường, không chú ý tìm cái ngon trong đó, coi ăn như một nhu cầu bình thường và tự nhiên để sống và tu hành, thì người ăn chay với các món cầu kỳ sửa soạn để phục vụ khẩu vị, sắc hương?, chưa chắc đã là người tiến gần hơn đến chỗ giác ngộ. Nói như vậy cũng không phải để bênh vực những kẻ cố tình khai thác cái ý "phá chấp", "cốt ở tâm tu" để mà sa đà ăn mặn, dối mình, gạt người.

Ăn Chay Và Dinh Dưỡng:


Ăn, khởi thủy vốn là một yêu cầu tự nhiên để sống còn, nhưng dần dần đã trở thành một cái dục thú lớn ở đời, và là một trong những động lực thúc đẩy con người vật lộn đấu tranh. Từ chỗ sống nhờ ăn, người ta trở thành khổ vì ăn. Khổ trong sự tìm kiếm đồ ăn đã đành, khổ còn vì ăn không đúng mà trở thành đau bệnh. Trong cái mạch suy nghĩ này, nếu giữ cho cái ăn không trở thành một ám ảnh, với những yêu cầu phức tạp thêm thắt quanh đó thì đã là một bước diệt dục. Người Mỹ có câu "you are what you eat", ý nói rằng thực phẩm ảnh hưởng nhiều vào con người. Một cách đơn giản, ăn đường mỡ béo bổ nhiều thì dễ mập phì, sinh bệnh tim mạch hay ung thư v.v? Câu này thường nêu lên bởi những nhà dinh dưỡng, mục đích là nhằm khuyên con người để ý về việc chọn đồ ăn tốt cho sức khỏe mà tránh những thức độc hại dầu ngon miệng, hợp khẩu vị.

Các cụ ta ngày xưa không nói như người Mỹ nhưng cũng có quan niệm rằng những giống vật ăn thịt thường là bạo tạo tợn, như hổ báo, còn các giống ăn cỏ thường là hiền lành như hươu nai trâu bò. Nền văn hóa của những giống dân du mục, sống bằng săn thú và thịt động vật cũng có những nét hung dữ năng nổ hơn là văn hóa của những giống người sống bằng nông phẩm trồng trọt. Đối với con người thì rượu nồng dê béo? thường được coi là những món ăn khích động thú tính con người. Và không lấy gì làm lạ là những người tham dục thường tìm đến nào là huyết chim sẻ, máu rắn hổ mang, thịt dê đực vân vân, chứ ít ai tìm ăn rau cỏ trái cây.

Tóm lại thức ăn ảnh hưởng quan trọng đến cơ thể và tinh thần con người. Sự quan trọng này của thực phẩm đã được trường phái dưỡng sinh Osawa gạo lức muối mè khai triển triệt để trong cách phòng bệnh cũng như chữa bệnh nan y, và được chú ý tại Việt Nam thập niên 60-70. Tuy nhiên, những luận lý chứng minh đưa ra của trường phái này đã trộn lẫn những dữ kiện khoa học Tây phương với những dữ kiện y lý và huyền bí Đông phương như ngũ hành sinh khắc, hàn nhiệt? gán cho các loại thực phẩm một cách tùy tiện. Vì thế người theo Osawa không chỉ dựa trên lý luận và tri thức mà còn phải có cả yếu tố lòng tin ở những phán truyền này.

Nhiều người, trong sự hăng say cổ võ ăn chay, đã đi tới chỗ khẳng định ăn chay tốt hơn và làm con người khỏe hơn ăn mặn (tức là ăn thịt cá?) Ngược lại, những người tin tưởng mù quáng vì không hiểu nhiều y học Tây phương lại cho rằng cá thịt? là những thực phẩm không thể thiếu để làm cho cơ thể khỏe mạnh. Thực sự vấn đề không đơn giản như thế. Có nhiều người Ấn Độ ăn chay từ nhỏ đến lớn mà vẫn khỏe mạnh không tật bệnh. Có nhiều người chỉ ăn thịt cá mà bệnh tật ốm đau đủ thứ. Nói chung, ăn mà không đúng cách thì bất kể chay mặn đều là không tốt. Riêng nói về ăn chay, thì có thể khẳng định rằng các thực phẩm chay đủ cung cấp cho người ta các yếu tố dinh dưỡng cơ bản cần thiết cho cơ thể, gồm chất bột, chất béo, chất đạm, chất sơ và các chất sinh tố cũng như muối khoáng. Ngày nay người ta đã phân biệt ra ba loại ăn chay.

Loại thứ nhất gồm các loại nông phẩm như rau, đậu, hạt, trái cây, trứng sữa và phó sản (như bơ, kem, phó mát?). Loại ăn chay thứ hai cũng gồm các thực phẩm như trên, trừ trứng. Loại thứ ba chỉ gồm có rau đậu trái cây mà không có trứng và sữa cùng các phó sản. Người Việt Nam trước đây, vì không phát triển chăn nuôi, ít có sữa và ít dùng sữa, và coi trứng là có đời sống, nên ăn chay thuộc loại thứ ba. Về phương diện khoa học, trứng chỉ là một tế bào trong một môi trường dinh dưỡng. Nếu có thụ tinh thì trứng mới trở thành một bào thai và phát triển thành sinh vật khi có nhiệt độ thuận lợi do ấp trứng thiên nhiên hay trong máy ấp. Một cách thực tế là gà nuôi kỹ nghệ để cho đẻ lấy trứng thì không có thụ tinh và trứng chỉ là một tế bào, như nhiều người tế bào khác loại ra hằng ngày.

Nói chung, lối ăn chay có trứng sữa không ngại thiếu dinh dưỡng nếu không biết đặc tính của từng loại thực phẩm để mà chọn lựa sử dụng theo những tỷ lệ thích hợp. Thực vậy, trong các loại đậu, đặc biệt là đậu nành thì có chất đạm, các hạt như hạt vừng (mè), hạt điều thì có nhiều chất béo? Nếu ăn chay nhà nghèo theo kiểu Việt Nam ngày xưa chủ yếu toàn rau mà thiếu đậu cùng các loại hạt và những phó sản (đậu phụ, dầu, sữa, đậu nành?) thì suy dinh dưỡng là chắc chắn. Ngược lại, người Việt tại Mỹ hiện nay, trong cách sửa soạn đồ chay thường rộng rãi sử dụng dầu, mè (vừng), đậu phụng, nước cốt dừa, đường v.v để cho các món ăn ngon lành, bùi béo. Do đó đã tạo nên một loại dinh dưỡng không thăng bằng, không tốt cho cơ thể. Lý do chỉ vì dùng chất béo và chất đường quá nhiều, là những thứ dễ sinh bệnh tim mạch và tiểu đường. Tóm tắt lại thì nếu biết rõ đặc chất dinh dưỡng của từng loại đồ chay để mà chọn lựa ăn chay một cách quân bình theo những hiểu biết khoa học, thì ăn chay có khả năng dinh dưỡng không khác gì ăn mặn, mà còn có những lợi điểm giúp con người trầm tĩnh xuống, thích hợp cho sự tu hành yên lắng của tâm hồn. Ăn Chay Và Tu Hành Phật Pháp:



Nếu cứ viện dẫn và diễn dịch kinh điển để nói rằng tu hành theo Phật giáo là phải hay không phải ăn chay thì cuộc luận bàn tìm đúng sai này sẽ không bao giờ chấm dứt. Bởi vì như trên đã nói, kinh điển khác nhau tùy theo nguồn gốc Đại thừa hay Nguyên thủy. Những luận cứ Đại thừa cũng như Nguyên thủy đều có những cái lý của chúng. Đạo Phật lại đã trải qua một thời kỳ trầm lắng gần ba thế kỷ sau khi Đức Phật viên tịch khiến cho sách vở cũng như những diễn truyền không tránh khỏi khác nhau. Vả lại những kỳ tập kết của các đệ tử trong khoản vài trăm năm sau khi Phật viên tịch để thảo luận về giới luật đã không có sự hoàn toàn thống nhất ý kiến.

Ở đây chỉ xin trình bày một cách nhìn thực tiễn về ăn chay, không mang tính cách trường phái, giáo điều. Như đã tóm lược ở trên, thực phẩm chay có đầy đủ các chất chính cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của con người (chất đạm, chất béo, chất bột, chất sơ, sinh tố và các khoáng chất). Cho nên ăn chay đúng cách không khác gì ăn mặn về khía cạnh dinh dưỡng. Ngoài ra nhìn chung thực phẩm chay còn có những ảnh hưởng tĩnh lặng lên phản ứng con người, ngược với những đồ ăn gốc động vật.

Đứng về phương diện khẩu vị, tất cả chỉ là thói quen. Nếu quen ăn nhiều mỡ và thịt cá thì không thể thích các đồ ăn chay nhiều chất bột chất sơ. Ngược lại, nếu không ăn thịt cá quen thì chỉ thấy ngon miệng với rau đậu. Con người vốn thuộc loại ăn tạp (omnivore), nghĩa là ăn đủ thứ, nếu bỗng nhiên chỉ ăn có một loại thực phẩm chay thì sẽ có khó khăn. Vượt qua khó khăn này chính là một nỗ lực tu hành, gạt bỏ những trói buộc của thân khẩu ý. Tuy nhiên, khi đã ăn chay mà còn bày vẽ vọng tưởng, nào là giò, chả, cá, thịt, thì tinh thần này lại làm cho con người bị trói buộc mà giảm mất ý nghĩa của sự chọn lựa ăn chay.

Nhìn ra như vậy người cư sĩ Phật giáo sẽ chọn được cho mình một thái độ thích hợp đối với vấn đề ăn chay trên con đường tìm đến thân tâm an lạc. Một cách dung dị và thực tế, có thể nói ăn chay là một phương tiện tu hành hữu ích./.


Lời nguời chuyển :


Cách đây mấy tháng, tôi đi đám ma của một người bạn cũ (thời ĐH Vạn Hạnh ở Sàigòn), Cô là đệ tữ của thầy HT. Tôi không biết Cô ăn chay trường từ hồi nào, nhưng cách đầy gần 4 năm, Cô qua Dallas, TX thăm 1 người bạn, thấy Cô ốm yếu, xanh xao, Cô bạn đưa Cô đến một BS về dinh dưỡng (nuitritionist), BS khám, thử máu, hẹn vài ngày sau đến gặp. BS hỏi về ăn uống, thì Cô cho biết Cô ăn chay. BS khuyên Cô đên thay đổi cách ăn uống, nếu không, Cô sẽ chết trong vòng hai năm. BS giaỉ thích : Cô ăn quá nhiều đậu nành (soy bean), máu của Cô bị nhiễm độc (quá nhiều độc tố từ đậu nành), không tốt cho sức khỏe của Cô. Trỡ lại Nam Cali, tôi không hiểu Cô có thay đổi cách ăn uống hay không, nhưng khi đi đám ma của Cô, gặp bạn cho biết, vài tuần cuối đời, Cô rất đau đớn, nằm ở nhà thương trên Long Beach, họ không thể rút máu của Cô từ mạch máu (tôi nghe kể lại) mà xẻ đùi của Cô để lấy máu, lọc đi, rồi truyền vào cơ thể trở lại, nên rất đau đớn. Tôi không chứng kiến việc này, mà chỉ đến thăm Cô lần cuối ở nhà quàn.


Tôi cũng có đọc một bài trên internet (khá lâu rồi) về đậu nành, nếu dùng vừa phải thì tốt, protein thay cho thịt cá, nhưng lạm dụng thì không tốt. Tôi thấy tất cả món ăn chay, đều làm từ đậu nành, khi đã nguyện ăn chay, thì tại sao phải ăn thức ăn giống ăn mặn ? (chà giò, bún bò Huế, giò, chả, thịt kho, cá kho.....tất cả những thứ này làm từ đậu nành. Khi đã nguyện "ăn chay" mà tại sao vẫn muốn ăn giống món mặn, tức là lòng chưa thanh tịnh, tại sao không không ăn uống bình thường (tốt cho sức khỏe) mà lòng thanh tịnh. Đạo Phật không bắt buộc ăn chay.


Tóm lại, tôi thấy "ăn chay" như là một phong trào (thời thượng), nhưng ít ai nghỉ tới lợi ích thiết thực của việc ăn chay. Tôi xin có mấy lời.

Bác sĩ Trần Xuân Ninh

PHẠM TRONG CHÁNH * CHUYỆN TÌNH PHẠM CÔNG THIỆN


Kể chuyện tình nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện
PHẠM TRONG CHÁNH
Kể chuyện tình nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện


[Đọc sách "Chuyện một người đàn bà.. năm con" của Lê Khắc Thanh Hoài].


Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?


Đâu là sự thật, đâu là huyền thoại ?


Được chị Lê Khắc Thanh Hoài tặng cho quyển tiểu thuyết đầu tiên của chị : Chuyện một người đàn bà năm con, tôi đọc say mê, với lối văn giản dị trong sáng tôi đọc một mạch, tôi không ngờ chị viết hay và hấp dẫn như thế về cuộc đời khổ đau gian truân của chị với một thi nhân, triết gia mà thời niên thiếu tôi đã từng say mê tác giả : Ý thức mới trong văn nghệ và triết học , Phạm Công Thiện.


Sách trang bìa hình tháp Eiffel Paris, nơi xảy ra câu chuyện và bức chân dung chị Lê Khắc Thanh Hoài ký tên Phạm Công Thiện vẽ, ngày anh tỏ tình cùng chị, chị không dấu tên người bạn đời. Người đàn bà có năm con cùng triết gia, nhà thơ Phạm Công Thiện (1941-2011) kể lại cuộc đời mình dẫn nhập bằng cuộc đối thoại với cháu ngoại, mừng sinh nhật bà, trao phong bì : một bài thơ bằng tiếng Pháp và lì xì : 10 Euro cho bà, vì thấy bà ngoại nghèo quá thật là dễ thương, ngộ nghĩnh và cảm động. Từ đó chị kể lại cuộc đời mình qua 13 năm sống chung. Thời gian mà anh sang Pháp năm 1970, từ bỏ áo nhà tu Thích Nguyên Tánh và sau năm 1985 anh sang Mỹ cư ngụ tại Los Angeles và qua đời tại Houston..


Tuổi học sinh Trung học, tôi say mê khi đọc Phạm Công Thiện, tôi biết về thơ Appolinaire, Rimbaud, Pierre Emmanuel..về các triết gia mới Tây Phương qua anh.


Bây giờ thì tôi viết về anh qua truyện kể của chị Thanh Hoài, nhìn anh qua những Vidéo các buổi nói chuyện của anh. Tôi muốn tìm hiểu cuộc đời Hiện tượng Phạm Công Thiện, một thời làm mưa làm gió tại Miền Nam những năm 1966-1970. Và dư âm những mưa gió ấy tại Hải ngoại từ 1970 đến năm 2011. Tôi muốn hiểu Phạm Công Thiện là ai ? anh là một thiên tài thần đồng, hay một một Trạng Quỳnh của một thời ?. Những kiến thức anh lấy từ đâu ? nguyên do gì anh đã mê hoặc cả một thế hệ tuổi trẻ miền Nam trong thời điểm đó. Đâu là sự thật của đời anh, đâu là huyền thoại do anh và mọi người thêu dệt. Những người Phạm Công Thiện quen biết tôi đều có dịp gặp gỡ : từ chùa Hải Đức Nha Trang, đến Paris, đến Viện Đại Học Vạn Hạnh : Họa sĩ Vĩnh Ấn, nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, nhà thơ Nhị Tay Ngàn đến Hoà thượng Minh Châu Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Thiền sư Nhất Hạnh, chị Thanh Hoài người bạn đời từng chung sống với anh 13 năm, và có 5 con với anh.


Chị Thanh Hoài sinh năm 1950 tại Huế, con một vị bác sĩ nổi tiếng tại Huế trong Phong Trào tranh đấu Phật Giáo miền Trung, năm 1963 từng bị tù dưới chế độ Ngô Đình. Năm 1969 chị học Triết học Đông Phương tại Viện Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1970 chị lên đường sang Bruxelles du học. Gặp và kết hôn với Phạm Công Thiện tại Paris. Chị Thanh Hoài còn là một nhạc sĩ đàn dương cầm, từng học Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế, tác giả nhiều CD, và hàng trăm nhạc phẩm.


Trước nhất Phạm Công Thiện là một nhà thơ : tập Ngày sinh của rắn in năm 1988, có những bài thơ đẹp, và lạ lùng :


VI : Tôi chấp chới/ đắng giọng/ giữa tháng ngày mơ mộng, nốt ruồi của hương/ hay nốt ruồi của rigvêda/ tôi mửa máu đen/ tôi mửa đêm paris/ tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng/ tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người/ cho quế hương nằm ở nhà thương điên trí nhớ/ mặt trời có thai/mặt trời có thai/ sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt.


VIII : Mười năm qua gió thổi đồi tây/ tôi long đong theo bóng chim gầy/ một sớm em về ru giấc ngủ/bông trời bay trắng cả rừng cây/ gió thổi đồi tây hay đồi đông/ hiu hắt quê hương bến cỏ hồng/trong mơ em vẫn còn bên cửa/ tôi đứng bên đồi mây trổ bông/gió thổi đồi thu qua đồi thông/mùa hạ ly hương nước ngược dòng/tôi đau trong tiếng gà xơ xác/một sớm bông hồng nở cửa đông.


Anh nổi tiếng thần đồng, 15 tuổi đã công tác viết bài cho tạp chí Bách Khoa, một tạp chí nổi tiếng giới trí thức miền Nam thời bấy giờ, anh thông thạo 5, 6 ngoại ngữ, một quyển sách anh được Nguyễn Hiến Lê giới thiệu. Nguyễn Hiến Lê là một học giả tự học viết khoảng 60 quyển sách từ sách : Tự học làm người, Rèn luyện nhân cách, đến Triết Học Trung Hoa. Một kiến thức đáng kính phục. Có lẽ Phạm Công Thiện đã học phương pháp tự học và làm việc của học giả Nguyễn Hiến Lê. Muốn học một ngôn ngữ, học bằng cách dịch quyển sách mình ưa thích, mỗi ngày đều đặn, chỉnh tề, ngồi vào bàn viết.. lúc đầu khó khăn, sau thành thói quen viết dễ dàng nhanh chóng. Tôi hiểu anh không nói ngoa, anh đã viết 20 quyển sách thời niên thiếu và đốt đi. Đó là cách tập luyện viết sách, đọc một quyển sách mình mô phỏng theo, viết một quyển tương tự, ban đầu mình chịu ảnh hưởng nhiều từ từ mình tạo ra một phong cách riêng, tiến đến một sáng tạo hoàn toàn.


Anh giỏi tiếng Pháp. Anh có tài dịch thơ lưu loát và quyến rũ. Anh đọc các triết gia Tây Phương và các Thiền sư Phật Giáo và diễn tả lại gọn gàng dễ hiểu. Anh đáp ứng được nhu cầu giới trẻ đương thời đang muốn mở ra tiếp xúc với Tây Phương, nhưng không đủ vốn liếng ngôn ngữ để đọc trực tiếp bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Kiến thức văn chương Tây Phương từ sau cuộc tiếp xúc với Văn chương lãng mạn thời Thơ Mới với Baudelaire, Edgar Poe... Các Triết gia Hiện Sinh, hiện đại như thế nào ? Anh đáp ứng được một nhu cầu muốn tìm hiểu của đương thời. Thuở còn học sinh Trung Học tại Phan Thiết, tôi và anh Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ, thường gặp nhau bàn về những điều Phạm Công Thiện viết. Trong không khí ngột ngạt của chiến tranh Việt Nam, thân phận thanh niên rồi sẽ đi lính, rồi sẽ chết trên chiến trường như bao bạn bè. Trong không khí thành thị miền Nam thời đó, thanh niên cần một lối thoát ra khỏi không gian tù túng, mơ ước một chân trời khác , đọc được Phạm Công Thiện hay Bùi Giáng tên tuổi các triết gia Hy Lạp, triết gia bên Tây tên tuổi nghe mù mờ, có người tóm lược giảng giải nên lấy làm thích thú. Lâu lâu lại khen chữ nghĩa, tâng bốc văn hóa Việt Nam, làm hừng chí tự ti dân tộc. Phạm Công Thiện nổi danh trên mảnh đất trống tư tưởng đó.


Phạm Công Thiện là một người quyến rũ, có sức thôi miên người đối thoại. Chị Thanh Hoài viết tr 167:


« Gặp Chàng là gặp người bằng xương bằng thịt, không phải là người trong văn chương tiểu thuyết. Chàng rất chân thật, không giả dối kệch cởm. Chàng phản ảnh đúng những gì Chàng viết. Thẳng thắn. Táo bạo. Nẩy lửa. Sức hút dữ dội. Quyến rũ lạ lùng. Người đối diện chỉ còn biết buông xuôi và.. trôi theo bấp bênh cùng Chàng !


Phải rồi ! Bấp bênh và.. vô định ! Tự dưng nàng linh cảm mãnh liệt điều đó. Đến với chàng là chấp nhận bấp bênh và vô định. Không chờ đợi, không đòi hỏi. Vô điều kiện. Là quăng bỏ quá khứ và tương lai. Là phiêu lưu không cần địa bàn định hướng. Chỉ có một chiếc kim chỉ nam là tấm lòng, là con tim, là sự thành thật. Đó mới là kho tàng vô giá. »


Thời tôi và chị Thanh Hoài đi du học, số nam sinh viên luôn luôn đông hơn nữ, tỷ lệ có thể đến 1/20. Được một cô sinh viên du học xinh đẹp mới qua là có ít nhất hàng tá chàng trai Việt chạy theo. Các gia đình thượng lưu trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ, gửi con gái đi du học với niềm hy vọng : nếu nó học không xong cũng hy vọng có được tấm chồng trí thức, bác sĩ, kỹ sư, tương lai bảo đảm. Con gái nếu không thành công, thì có con rể vinh hiển cũng được nơi nương tựa yên ổn. Chị Thanh Hoài đã từ chối bao kỹ sư, bác sĩ đến với chị để nghe tiếng gọi của trái tim yêu một thi sĩ, một triết gia, âu cũng là một sự lựa chọn cho cuộc đời gian truân của chị.


Phạm Công Thiện là ai ? anh được đào tạo từ đâu ? hay anh là một thiên tài, đã học từ bao nhiêu kiếp trước, nay sinh ra đã trở thành một triết gia không cần học ai ?


Theo tiểu sử anh sinh ra từ một gia đình theo đạo Công Giáo, anh theo học một trường tư thục Công giáo dạy bằng tiếng Pháp, anh được cha mẹ mướn người dạy kèm học tại tư gia, nhưng năm 1963, anh ra Nha Trang quen biết với nhà thơ Quách Tấn. Quách Tấn đưa anh đi thăm viếng chùa Hải Đức, nơi đây anh tập thiền và quy y thọ giới Sa Di pháp danh Nguyên Tánh với Thầy Trí Thủ, một vị cao tăng Phật Giáo.


Phạm Công Thiện không viết hồi ký nên không rõ anh có bằng Tú Tài II hay không, nhưng giỏi sinh ngữ như anh việc thi thí sinh tự do, lấy bằng Tú Tài toàn phần không phải là chuyện khó, rất nhiều học sinh học trường Pháp, thi thí sinh tự do lấy bằng Tú Tài II Ban Sinh Ngữ Văn Chương trường Việt thật dễ dàng. Học sinh trường Pháp thi môn Anh Văn, Pháp Văn kỳ thi Tú Tài Việt được 18, 20 dễ dàng, các môn Triết Học, Sử Địa chỉ cần học một lượt cũng được trung bình là kỳ thi qua trót lọt.Triết Học lại là môn anh Thiện ưa thích lại quen viết bằng tiếng Việt. Để có học bổng tại Viện Đại Học Yale, để đi du học Hoa Kỳ khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện phải có bằng Tú Tài Toàn Phần hạng Ưu hay Bình. Phạm Công Thiện xong B.A (Cử nhân)tại Yale, và chuyển sang Columbia, nơi thầy Nhất Hạnh từng học, thì anh bỏ học ra đời.


Trong quyển Hố Thẳm Tư Tưởng, Lá Bối, Sài Gòn Xuất bản 1968, trong bức thư cho Nhị Tay Ngàn, chương đầu Phạm Công Thiện viết :« Thời gian tao ở Hoa Kỳ, tao đã bỏ học, vì tao thấy những trường đại học tao học, như trường đại học Yale và Columbia, chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến những giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao. Qua Pháp ta đã sống nghèo đói thế nào, thì mày đã biết rõ rồi, những lúc tao nằm ngủ tại những vỉa hè Paris, vào những đêm đông đói lạnh, những lúc đói khổ như vậy, tao vẫn còn cảm thấy sung sướng hơn là ngồi nghe mấy thằng giáo sư trường đại học Yale hay Columbia giảng cho tao nghe về Aristote hay Hégel, và Heidegger hay Héraclite. »


« Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao cũng không thèm nghe nữa. Tao là học trò của tao, và chỉ có tao là thầy của tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không muốn ai làm thầy của tao. Còn các văn sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lập đi lập lại vô ý thức hay có ý thức, trí thức 15 xu, ái quốc nhân đạo 35 xu, triết lý tôn giáo 45 xu..


Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hégel hay Karl Marx. Không cần phải đọc Khổng Tử, Lão Tử. Không cần phải đọc Upanisads và Bhagavad Gita. Chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nội tại tiếng Việt Nam là bổng nhiên nhìn thấy tất cả đạo lý, triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sâu trong ba tiếng Việt đơn sơ như : Con, Cái, Chay, Cháy, Chày, Chảy, Chạy và còn bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta bỏ quên một cách ngu xuẩn.»


Phạm Công Thiện, sang Pháp, anh ghi danh ở Rennes, Bretagne, ở với người anh đã sang Pháp trước nhưng rồi không thuận với anh, ông lên Paris khoảng năm 1966. Lúc này tại Paris, Thầy Nhất Hạnh lập Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại, chi bộ Pháp do anh Võ Văn Ái làm Tổng Thư Ký, trụ sở tại Maison Alfort, ngoại ô Paris. Phạm Công Thiện thân thiết với anh Ái và cùng ở nơi này.


Năm 1966, Hòa Thượng Minh Châu đến Paris tìm người trợ giúp Viện Đại Học Vạn Hạnh. Gặp Phạm Công Thiện, thầy thuyết phục anh làm lễ xuất gia, thọ giới Tỳ Kheo cho anh, Đại Đức Thích Nguyên Tánh và đưa anh về Viện Đại Học Vạn Hạnh.


Phạm Công Thiện phụ trách Khoa Khoa Học Nhân Văn ; Sáng lập tạp chí Tư Tưởng, và soạn chương trình cho Viện Đại Học Vạn Hạnh.


Niên khoá 1968-1969 ; Thanh Hoài học môn Triết Đông với Thầy Nguyên Tánh.


Năm 1970 Thanh Hoài lên đường đi du học tại Bruxelles. Cũng năm này Phạm Công Thiện đi dự một Hội Nghị Phật Giáo cùng Hoà Thượng Minh Châu, anh xin ở lại ghi tên làm luận án Tiến Sĩ . Tại Paris, Thanh Hoài gặp lại Phạm Công Thiện tại nhà họa sĩ Vĩnh Ấn. Thanh Hoài quyết định bỏ Bruxelles sang Pháp chung sống cùng Phạm Công Thiện. Cuộc sống phiêu lưu đầy gian nan, sống với học bổng của anh trong 4 năm. Sau đó anh xin được một việc làm văn phòng Đại học Toulousse. Nhân có một chân phụ giảng trống anh làm đơn xin việc. Phạm Công Thiện được giáo sư hướng dẫn giới thiệu ‘ Sinh viên ưu tú xuất sắc hạng nhất, bốn năm cao học đã hoàn tất ‘ (tr 252). Điều này chứng tỏ Phạm Công Thiện đã xong văn bằng tốt nghiệp Ecole Pratique des Hautes Etudes (tương đương với Master) tại Sorbonne, và học xong một năm D. E. A. Diplôme Etudes Approfondies, (theo tổ chức đại học Pháp lúc đó, ngày nay đã đổi thành Master I, Master II và bỏ văn bằng Tiến sĩ Đệ Tam cấp và Tiến sĩ Quốc Gia, chỉ còn một văn bằng Tiến sĩ duy nhất). Anh làm việc này giao kèo gia hạn mỗi năm, chức vụ cuối cùng là Giảng sư (Maître de Conférence) tại Đại Học Toulousse II... Công việc tạm ổn định, chị Thanh Hoài sinh năm con, bốn cháu trai và một cô gái út, quần quật với bầy con : đưa rước đi học, ăn uống tắm rửa, bếp núp, chị còn làm việc ráp linh kiện cho hãng máy bay Airbus, nhưng Phạm Công Thiện lại rơi vào vòng nghiện rượu, sống cuộc sống đầy bè bạn quên mất chuyện gia đình.


« Và nơi ngôi biệt thự xinh xắn đó, nơi mà đáng lý ra chỉ có hương hoa và sắc màu của một vị ngọt là hạnh phúc, thì trớ trêu thay, nơi đây suốt bảy năm trời chỉ mang một vị đắng. Vị đắng của khổ đau. Vị chua chát của rượu… Chàng đã thỏa hiệp với con ma rượu.


« Anh không thấy gì hứng thú vì cứ phải lải nhải triết lý để kiếm tiền nuôi vợ con ». « Anh chỉ là chiếc bóng đằng sau bầy con. Điều này cũng làm anh đau khổ.. Lải nhải triết lý xong thì anh chỉ còn biết lè nhè . »

« Thì giờ của em dành cho con quá nhiều và em đã bỏ rơi anh.. Hay là em.. tránh né anh.. ? »

Tránh né anh vì em ghê sợ mùi rượu. Vậy anh hãy ngừng uống rượu..

Đúng là lẫn quẩn không lối thoát !


Bảy năm trời trôi qua trong cái vòng lẩn quẩn không lối thoát đó, nơi cái biệt thự màu hồng đó. Nàng thì vẫn cứ xoay mòng với bầy con năm đứa. Chàng thì cố gắng làm tròn công việc dạy học, cho dù nỗi chán chường mỗi ngày một chồng chất, nhưng bọn sinh viên vẫn ào ào tới càng ngày càng đông hơn, giới trí thức trong tỉnh lần lần nghe tiếng và bạn bè lũ lượt kéo đến càng nhiều hơn. Những buổi trà dư tửu hậu lại tiếp nối nhau. Khói thuốc vẫn mịt mù lan toả. Mùi rượu vẫn nồng nặc xông lên..


Cho đến cái ngày mà giọt nước đã tràn đầy ly thì cái vòng lẩn quẩn đó tự động ngừng quay. »

Một ngày Thanh Hoài bị suyển nặng, ho vì dị ứng phấn hoa, nhờ anh đi mua thuốc. Anh ra đường gặp bạn bè rủ đi ăn nhậu, quên mất chuyện thuốc cứu cấp cho vợ, sáng hôm sau mới về mang một hộp trứng, hỏi thuốc, anh quên mất.


« Sáng hôm ấy, vì quá mệt, Nàng đưa toa của bác sĩ nhờ Chàng ghé tiệm thuốc mua giùm Nàng. Mười lăm phút, hai mươi phút, ba mươi phút trôi qua, Nàng ngong ngóng Chàng về đưa thuốc cho đỡ nghẹt thở. Rồi một giờ, hai giờ, ba giờ trôi qua.. vẫn không thấy bóng Chàng. Nửa ngày trôi qua. Một đêm trôi qua. Nàng vẫn ngong ngóng. Nhưng vẫn không thấy bóng chàng đâu. Một đêm đã trôi thật quá dài, quá dài tưởng như bất tận. Không ngủ được vì ho, vì nghẹt thở. Nàng đã trải nghiệm cảm giác thế nào là kề cận cái chết. Nàng không đủ sức để tức giận, vì nàng nghĩ nếu chết trong sự tức tối, chỉ tự mình hại mình, sẽ không được đầu thai tốt, lại còn rơi vào đọa xứ nữa không chừng ! Chi bằng cứ thản nhiên, chấp nhận số phận và thanh thản niệm Phật. Đây là điều cần làm trong lúc này, chẳng phải là sự tức giận !


Nàng nhắm mắt chờ thần chết rước đi. Nhưng không, không được ! Nàng sực tỉnh ! Mà kia mình đã quên mất bầy con, mình chết thì chúng sẽ ra sao đây ? Mình có thể bỏ chúng để ‘ tiêu diêu ‘ nơi phương trời nào đó được chăng ? Từ bỏ cái thân thể bệnh hoạn khổ sở thì mình cũng hết nợ với thế gian này, nhẹ nhàng thanh thản cho mình, nhưng không thể chỉ nghĩ đến mình mà quên bầy con. Không được rồi, không đúng rồi.. Không mình phải sống, phải ngồi dậy, đứng thẳng và không còn nghẹt thở. Mình phải tự bảo vệ mình, không thể buông xuôi ! Mình nhớ đã từng được dạy dỗ ‘ thân người khó được ‘, phải bảo vệ nó cơ mà ! Không sát sanh, không hại vật, nhưng khi nguy cơ đến thì cũng phải biết tự bảo vệ để không mất mạng chứ ! Có thể nào chết dễ dàng như vậy được ? Không, ta phải sống !


Khi trời vừa tờ mờ sáng thì Nàng nghe tiếng cửa mở. Chỉ cần thấy dáng bộ xiêu vẹo, ngả nghiêng của Chàng là nàng thừa hiểu tất cả. Trông Chàng còn thê thảm hơn cả Nàng nữa ! Thôi thì chẳng còn gì để hỏi, để nói, để trách nữa. Chắc chắn là không có thuốc cho Nàng rồi.

Dù gì thì Nàng cũng đã quyết định rằng Nàng phải sống, Nàng phải thở, Nàng phải đứng thẳng dậy và đi tiếp.

Nhưng đoạn đường đi tiếp của Nàng chắc chắn là sẽ không đi cùng Chàng. Không vì tức giận hay oán trách, mà chỉ vì không còn giải pháp nào khác hơn.

Thế là Nàng lặng lẽ sắp đặt cuộc ra đi của Nàng. Rồi đến ngày hôm đó, không báo trước, không nói năng. Nàng âm thầm dắt bầy con ra khỏi ngôi biệt thự màu hồng . »


Thanh Hoài quyết định chia tay cùng anh, chị thu xếp cùng năm con ra đi. Phạm Công Thiện cũng mất việc đại học vì khế ước không được gia hạn và ghế giảng sư cũng không còn, anh được Hoà Thượng Mãn Giác mời sang dạy tại Viện Quốc Tế Phật Giáo, tai Los Angeles. Anh lại trở về cư ngụ tại chùa, tại nhà bạn bè.

Tại xã hội Pháp nuôi nấng năm con không phải là điều dễ dàng, thường mỗi gia đình chỉ dám có 2,3 con. Thanh Hoài vừa làm mẹ, vừa làm cha, khi dạy đàn dương cầm, khi làm quản gia và các công việc khác, nuôi năm con cho đến khi trưởng thành, thành người : Cậu trai đầu , tốt nghiệp École Normal Supérieur rue d’Ulm, Tiến sĩ Vật lý , giảng dạy Vật Lý Viện Đại Học Paris Orsay. Cậu thứ hai Tốt nghiệp Cao Đẳng Thương Mại tại Bordeaux, Giám Đốc Thương Mại, cậu thứ ba Tốt nghiệp trường Mỹ Thuật tại San José Hoa Kỳ, Họa sĩ, cậu thứ tư giống bố ở chỗ thích Triết Học và cô gái út Bác sĩ Nhi Khoa. Chị có đầy đàn cháu nội, cháu ngoại.


Phạm Công Thiện qua đời năm 2011 tại Houston, các con đều sang dự đám tang cha.

« Nhờ âm nhạc, qua âm nhạc, bà luôn luôn đi sát cạnh cuộc đời, ở trong cuộc đời, thăng hoa cuộc đời, biến những nỗi buồn thành niềm vui, những chán chường thành lạc quan yêu đời, cô đơn thành cảm thông chia sẽ. »


Đứa cháu ngoại đã hỏi chị :

-« Bà ơi ! Bà có giận ông ngoại không ?

- Bà chẳng hề giận !

- Thực ra, con cũng thấy thương ông ngoại làm sao ấy..

Cháu bà giỏi lắm, các cậu và mẹ con cũng thế, luôn yêu thương ông ngoại, không hề ghét bỏ hay trách móc.


- Mỗi lần gặp lại ông, con chỉ muốn ôm ông hôn và không cần phải nói nhiều.. Con biết ông không hề có ý làm khổ bà, vì chính ông là người khổ trước tiên nếu phải làm khổ ai…. Ông ngoại vẫn luôn bảo tụi con phải yêu thương bà hết mực, vì nhờ bà mà mẹ con, các cậu con nên người. Có điều.. ông vẫn nghĩ là bà còn giận ông !

- Con có nghĩ như vậy khi bà kể chuyện cho con ?

- Không, Con nghĩ bà vẫn còn yêu ông ngoại !

- Thực ư.. Chính bà cũng không biết ! »


Khép lại trang sách tôi ngẫm nghĩ. Tiếc là sách bằng tiếng Việt, nếu viết bằng tiếng Pháp, các cháu nội, cháu ngoại chị Thanh Hoài đọc được sẽ nghĩ rằng : ông bà mình thiếu thông tin cho nhau. Nếu ông đi đâu, điện thoại cho bà một tiếng, hay nếu có điện thoại di động, bà gọi ông nhắn ông đem thuốc về gấp thì sẽ không có chuyện gì xảy ra. Tiếc thay oan Quan Âm Thị Kính nằm ở chổ, thời ấy chưa có dao cạo râu : Thị Kính phải vác con dao phay to tướng cắt râu cho chồng. Bà giận ông : vì thời ấy chưa có điện thoại di động. Nếu không bà sẽ điều khiển từ xa, ông chồng triết gia lãng trí hay quên của mình.


Các cháu Việt Nam sinh ra tại Pháp xem xong vở tuồng Quan Âm Thị Kính thường tức tối và hỏi : Où est sa bouche ?. Cái miệng bà Thị Kính ở đâu ? Sao bà không nói ? Sao ông không nói ? Tiếc thay khi ông bà giận nhau các cháu chưa ra đời !


Khép lại đọc trang cuối bìa tập sách là lời Phạm Công Thiện viết khi gặp nhau lần cuối : « Ở nơi chốn hỗn loạn, ở nơi tận cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên những âm thanh của dịu dàng đầm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều Không Thể mà vẫn Có Thể. Hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể. »


Khép lại trang sách chuyện kể một cuộc tình, hai cuộc đời không trọn vẹn cùng nhau đến cuối đời. Nhưng lời kể chuyện trong trẻo, thanh thoát khiến cho chúng ta vẫn còn nghe vang lên một dư âm tiếng đàn dương cầm chị Thanh Hoài.


Xin giới thiệu tiểu thuyết “Chuyện một người đàn bà.. năm con » của Lê Khắc Thanh Hoài do nhà xuất bản Thời Đại xuất bản tại Hà Nội và Sài Gòn cùng đọc giả trong và ngoài nước. Qua câu chuyện một kinh nghiệm sống cuộc đời, chị đã vẽ ra một khung cảnh người Việt trên đất Pháp, nó cần thiết cho các bạn trẻ, cho phụ huynh khi con em lên đường du học. Truyện còn giúp ta hiểu hơn về Phạm Công Thiện một nhà thơ, một triết gia một thời danh tiếng tại miền Nam Việt Nam.


Paris 23-7-2016

















    • No comments:

      Post a Comment