Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 6 June 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 465

NGUYỄN VĂN NGOAN * TRẠI YÊN BÁI

Trại Yên Bái (5/1977-10/1977)

In PDF.

......

1.

Đoàn xe Molotova  rời ga tiếp tục lăn về Yên-Bái .Tù nhân đứng bám vào thành xe, cây cối bên đường vùn vụt qua,tưởng như đang trên đường hành quân,vào một vùng xa lạ, nón cối  súng trận  cầm tay. Một thời ngang dọc hào hùng, thân trai bốn bể làm nhà. Mong ngày thống nhất Nam Bắc . Chí cả không thành . Thua trận thành tù nhân bị đày ra phương Bắc. Như phượng hoàng gẫy cánh. Như Hổ " Nhớ Rừng " của Thế Lữ . Một bài thơ thời trung học tôi rất thích , nhưng không ngờ bài thơ  ứng vào đời tù cải tạo :

"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, 
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. 
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, 
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
........."

Như  Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái tới ngục thất Hoả Lò" : Trong chuyến  xe lửa bí mật chở tử tù Nguyễn Thái Học cùng các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng vào tháng  sáu năm 1930 từ Hỏa Lò tới Yên Bái .Tới ngày 17-6-1930 , Nguyễn thái Học cùng  mười hai liệt sĩ VNQDĐ bị hành quyết bằng máy chém đồng hô to "Việt Nam Vạn Tuế "Liệt sĩ Nguyễn Thái Học đã để lại cho hậu thế: "Không thành công cũng thành nhân".Xác những vị anh hùng  chôn gần ga xe lửa Yên Bái khoảng một cây số .
Để tưởng niệm các vị anh hùng .Tác giả Thiên Kim trong bài thơ "Tưởng Niệm Những Anh Hùng Yên Bái "với bốn câu thơ đầu :

Ngày mười bẩy tháng sáu năm ba mươi 
Một sáng tinh sương trời đất ngậm ngùi
Đoàn thanh niên tay xiềng chân xích
Tiến lên pháp trường bình tĩnh mỉm cười  
....
hay

"Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài
và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng
"Việt Nam muôn năm một đầu rơi rụng
Việt Nam muôn năm người kế tiếp tiến lên "
(Ngày tang Yên Bái-Sách giáo khoa tiểu học thời bấy giờ )
 
Lịch sử lại tái diễn , bốn mươi bảy năm sau , người lính thua trận bị dụ vào tù được Cộng Sản áp giải từ Long Khánh đến Sài Gòn rồi tới Yên Bái dài gần 2000Km .Từ nước uống tới  đồ ăn , vệ sinh quá tồi tệ....Rồi  đây họ được đối  xử như thế nào ? Vẫn chưa có câu trả lời. Đem vào rừng thủ tiêu hay có được cái chết rõ ràng , oanh liệt như các vị anh hùng Yên Bái 17-6-1930.Hay không thể  giết hàng loạt mà để họ chết dần chết mòn trong rừng sâu nước độc Yên Bái .....

2.

Đầu óc tôi  miên man về "Nhớ Rừng" về  các vị anh hùng Yên Bái, về thân phận của người tù.Làng mạc phố xá đìu hiu vụt lướt qua theo tiếng động cơ .bụi bay vào mắt, đưa tay lên dụi . Bổng nghe  tiếng kèn inh ỏi phía sau. Một đoàn xe chở tù khác đòi qua mặt, từ xe, từ xe một lướt qua, đưa mắt cố nhìn không thấy người quen nào cả. Thế rồi một chiếc xe chạy ngang xe tôi .Tôi reo mừng gọi to : Vũ trọng Khảo , Nguyễn Đỗ Tiến. ....Trên  xe bên kia Khảo và Tiến đưa mắt nhìn chưa kịp nhận dạng nhau , xe đã chạy qua rồi. Tôi chợt vui  bởi lẽ hơn bốn năm qua mới thấy mặt bạn . Biết  bạn mình còn sống , ở tù như mình .

Khoảng trưa , xe chạy cặp theo một dòng sông nước lờ đờ màu đỏ , không biết có phải là sông Hồng Hà hay một phụ lưu của sông Hồng. Lòng sông  không có ghe như miền Nam mà thấy xa xa như cái thúng lềnh bềnh trên mặt sông . Đoàn xe dừng lại  lần lượt qua bên kia sông . Nhìn mái nhà dân hai bên sông.Tôi nghĩ đến gia đình , đến  những người vợ tù , đến con tù  giờ này sinh sống ra sao? Cuộc sống mỏng manh ví như những cái thúng lênh đênh trên sông lỡ gặp cuồng lưu .Tôi chợt nhớ "Anh Phải Sống "trong tập chuyện ngắn của Khái Hưng-Nhất Linh : Chuyện tả một gia đình đông con quá nghèo vớt củi trên sông kiếm sống , xảy ra trên đê Yên Phụ vào môt buổi chiểu trên dòng  sông  nước chảy mạnh, mặt nước  mang theo rất nhiều củi, gỗ trên rừng . Hai vợ chồng đắn đo vì nguy hiểm, nhà thì  hết  gạo, cần củi thì mới vay được gạo...Chồng gạt  bảo vợ về trông con ...Một mình chồng chèo thuyền ra vớt củi .Vợ về nhà nghĩ ngợi quay trở lại năn nỉ xin đi cùng chồng . Có mệnh hệ nào thì cũng biết  bơi..

Chồng lái vợ bơi, ra tới giữa dòng sông đang chảy xiết , vớt nhiều củi bỏ lên thuyền, mừng rỡ, chưa kịp quay thuyền về, chiều bỗng đổ cơn mưa, nước mưa làm nặng thuyền, rồi lật. Vợ nói với chồng em đủ sức bơi. Được một lúc, sức khỏe vợ yếu. Nên chồng một tay xốc vợ, một tay bơi. Đến một lúc, chồng kiệt sức,kêu vơ bám lấy chồng . Chồng nguyện cùng  chết theo vợ . Âu yếm nhìn nhau...Vợ khẽ bảo :"  các con đang chờ . Anh Phải Sống "rồi  buông tay chìm xuống đáy sông,  để chồng đủ sức bơi vào bờ ...

Chồng đi tù cải tạo, không bản án, biết bao giờ trở về. Vợ ở nhà , chịu nhục nhằn , trăm nghìn cay đắng nuôi con . Vì con, vì chồng, vợ ráng mà sống nhen vợ ! Anh cũng thế. Phải sống mong ngày đoàn tụ. Dạy con biết phân biệt đúng sai, hòa nhịp cùng bước tiến của nhân loại  . Mong một ngày nhìn thấy chế độ độc đảng  không còn tồn tại. Mong một ngày dân Việt nhìn thấy sự bịp bợm, dối trá, lường gạt của Cộng Sản sau bao thập niên qua . Bừng con mắt dậy thấy bị đàn áp, bịt mắt , bịt tai , bịt miệng mất tự do , nghèo đói bịnh tật. Còn  người lính bị Cộng Sản bắt đi tù cải tạo . Dẫn ra một trang sử đắng cay , bi hùng . Một trong hai người nếu không chống đỡ nổi sự trù dập của Cộng Sản. Buông tay ... bởi:
 
"Nhà Ngụy ta ở, vợ Ngụy ta lấy, con Ngụy ta sai!" ( Câu nói sau năm 1975 của Nguyễn Hộ một Cộng Sản gộc nằm vùng.)
Hay chủ trương của Lê DuẩnTrong cuốn sách "365 ngày ở Việt nam " của nhóm công tác Liên Sô chỉ đạo  trang 83:

"Đồng Chí Tổng bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp hành trung ương đảng đã tiến hành ổn định nhanh chóng tình hình sau ngày 30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người lính chế độ Sài Gòn đã được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra trong một cuộc họp của bộ chính trị…”.
 
Tôi nghe cay đắng , xót xa trong lòng .

Qua sông đoàn xe chở tù tiến về dãy núi Hoàng Liên Sơn. Đường lên dốc mỗi lúc một quanh co. Những cánh rừng hiện ra hai bên đường, những vách núi , đồi  được  xẻ , phá ra làm đường trải nhựa có lẽ có từ thời Pháp thuộc vừa đủ cho chiếc xe . Đoàn tù đi qua rừng qua núi , những khẩu AK luôn  chỉa vào phía họ, nhất cử nhất động đều bị theo dõi. Dạy núi Hoàng Liên Sơn học trong giờ Địa lý chập chùng hiện ra xa xa . Ngọn Phan-xi-Păng  cao 3.143m không biết chỗ nào. Đoàn xe tù vẫn chạy, Tôi không biết thuộc địa phận nào ở tỉnh Yên Bái. Có người nói ở Yên Chấn , có người nói Nghĩa Lộ . Tất cả với tôi đều xa lạ chỉ có chữ Yên Bái là quen thuộc.Tôi cũng chẳng quan tâm đến , vì nếu có nghe rồi cũng quên. Biết ra sao ngày  sau.

Xe qua vài buông làng có lẽ của dân tộc Thái trắng. Ánh nắng chiều dịu xuống , xuyên qua nhành cây kẽ lá xanh tươi, gió thổi làm lay nhẹ lá rừng. Vài chiếc lá rơi là đà trên đất . Một vài con chim bị động vỗ cánh bay đi.Xe dừng lại ở giữa rừng. Suốt cả cuộc hành trình 2000Km khoảng 1200 người tù sao mà hiền hòa đến vậy .

Được lệnh xuống xe. Xếp hàng theo từng đội. Bạn tù lặng lẽ mang cái gia tài tù tội của mình xuống xe. Khuôn mặt mệt mỏi, dáng đi uể oải, nặng nề. Bốn năm ngày di chuyển trong điều kiện ăn uống yếu kém, thất thường. Giờ không biết chúng đưa mình đi chỗ nào, mà thả xuống giữa rừng.Thế rồi, từng đội theo cán bộ rẽ trái vào con đường mòn rộng chừng hai tới ba mét. Lôi thôi lếch thếch kéo nhau đi . Những cặp mắt tù mệt mỏi nhìn nhau. Có những người bạn quá yếu, đi không nổi . Phải nhờ bạn tù dìu đi. Bên cạnh tiếng hô hoán , dục dã, đôi khi mắng nhiếc làm náo động cả khu rừng. Không biết đi dược bao lâu , trước mặt tôi chắc là một trại tù. Có các lớp hàng rào cao khỏi đầu bằng vầu hay nứa. Cũng khó mà nhìn được vào trong .

Tranh Trần Thanh Châu

Đội tù của tôi vòng theo hàng rào đi tiếp vào sâu trong rừng núi .Tôi cảm thấy rợn người, tiếng cán bộ la ôi ối, thúc đám tù  đi cho nhanh. Ánh mặt trời sẽ dần tắt. Đời tôi cũng tắt theo hay sao. Chân tay , thể xác tôi đã mỏi  rời , trí óc tôi đặc sệt lại chỉ còn  làm theo lệnh bản năng . Bảo đi thì đi, bảo đứng thời  đứng....
 
Ngó nhau như bầy ma
Tâm sự nào cay đắng
Tâm tư nào thiết tha ?
Xin cho tôi -Tạ Tỵ (suối máu 1976 )

Xa xa, hiện ra một dãy nhà mờ mờ trong màn sương, tàng lá bóng cây, Gió lạnh, đời tù tội, đang rẽ theo một khúc quanh mới .

"Ở đây những núi cùng rừng
Trời nghiêng lũng thấp, nửa rừng mây che
Núi cao ngăn bước nẻo về
Rằng mê khép kín cơn mê cuối đời
Xa vắng quá bạn bè ơi !
Màu xanh khỏa lấp chân trời nhớ thương
Lỡ tay đánh mất thiên đường
Xác chìm Địa Ngục còn vương dáng hồng
Xin đừng đợi cũng đừng mong
Hận thù khép kín một vòng thời gian
Đầm đìa lệ, nến tuôn tràn
Đêm đêm hồn nhỏ băng ngàn về suôi ./."
Núi Rừng -Tạ Tỵ ( Yên Bái 1977)

3.

Đoàn tù lần lượt đi vào trại, xếp thành hàng đầy đủ đồ cá nhân , trước căn nhà bằng vầu nứa. Cán bộ đội nói :" Nhờ chính sách khoan hồng độ lượng của cách mạng tha tội chết cho các anh và tạo điều kiện cho các anh ra Bắc học tập cải tạo tiến bộ để sớm trở về với gia đình......và dặn dò , khộng được rời bỏ phòng giam đi linh tinh ....."

Sau khi tan hàng , đội chia  thành từng tổ theo thứ tự mà xếp chỗ nằm .Chỗ nằm bằng sàn nứa hai bên, chừa lối đi ở giữa. May mắn trong tổ của tôi có bạn TrầnThanh Châu  và Nguyễn Hữu Huế. Chúng tôi nằm liền nhau. Tôi ở giữa,hai bạn tôi hai bên. Vách nhà bằng nứa. Căn nhà dài năm gian thì phải (dài khoảng 20 m) Mái lợp cũng bằng nứa..Đòn tay bằng vầu cột có khi bằng vầu hay gỗ rừng. Căn nhà chưa được làm xong cần phải tu bổ.  Nằm sát bìa rừng phía sau là  nhà cầu bên cạnh đồi độ dốc khoảng 45 độ. Trong hàng rào còn vài cây nứa chưa đốn dài lêu khêu trong màn đêm . .Ăn xong phần bo bo. Tù lăn ra ngủ.

Sáng thức dậy theo tiếng kẻng. Lớp sương mờ giăng khắp rừng cây kẽ lá lúc tinh mơ, Hàng rào cạnh con dường mòn, bên trong là dòng suối trước cổng trại đã lô nhố tù cải tạo, xúc miệng chà răng bằng muối hay than, rửa mặt, tay chân, sau bao ngày không tắm giặt. Nước thật lạnh cùng tiếng chào hỏi , gặp nhau , tay bắt  mặt mừng. Vì bạn tù được "biên chế " toàn những tù nhân xa lạ từ những đội khác, trại khác .

Trại nằm thoai thoải cạnh con lạch dưới lòng thung lũng hai bên là rừng đồi cao. Con lạch này chạy tới trại tù ở bên ngoài. Ngoài hàng rào  có vài ruộng rau muống  nhà ở của cán bộ. Từ cổng trại  nhìn vào khoảng trống làm sân trại. Bên trái một nhà bếp và hai dãy nhà cho tù ở. Tôi  ở dãy sau cùng sát hàng rào chân đồi. .Bên phải chừng bốn dãy nhà . Đồn canh trước sau .
Buổi sáng ngày đầu tiên, trước lúc đi lao động . Cán bộ nhắc lại nội quy của trại . Lưu ý các trại viên :

-Nước suối rất lạnh ,trong, có thể độc hại. không được tắm lâu , nhiều có thể bị bịnh như sốt rét ....
-Khi vào rừng có nhiều rắn độc .Có một loại ong làm tổ dưới đất, Nếu đạp trúng  thì bị ong đốt mà chết.
-Vùng này có nhiều Quế . Nếu thấy sẽ không được lấy và không được chặt cây Bạch Đàn .

Ngày ngày tôi lên rừng đốn vầu (loại cây như cây Lồ Ô {Tre } ở miền Nam nhưng vỏ dày hơn , lóng dài cả thước cao từ mười lăm tới hai mươi mét, đường kính  từ một tấc tới  một tấc rưỡi ), đốn nứa ( Cây lứa giống cây vầu nhưng lóng dài hơn ,vỏ mỏng ) chặt dang (Loại cây như cây le ờ miền Nam  dùng chẻ lạt làm dây cột rất là dẻo , bền , tốt ), có bạn  lấy măng . Nhiều bạn tù chưa bao giờ biết cách chặt cây vầu, cây nứa, cây dang. Nên rất là cực nhọc, Có  khi bị  vàu , nứa đâm vào người. Chặt xong một cây vầu hay nứa một mình một cây vác cũng không muốn nổi. Đa số tìm khoảng trống tuông cây vầu từ chỗ chặt xuống chân đồi. Cây vầu lao xuống dốc rất nhanh . Vô phước bạn nào làm việc phía dưới trúng phài . Bị vầu đâm thì chỉ có chết .

Có bạn tù lấy ống nứa làm thành đồ đựng thức ăn hay trữ nước để sáng rửa mặt .

Hết thi đua này tới thi đua nọ , chỉ tiêu mỗi ngày một gia tăng, nước thỉ độc , ăn uống thì thiếu thốn. Sống cách biệt hẳn thế giới bên ngoài. Cơ thể tôi đã yếu giờ càng yếu thêm . Bệnh đường ruột chưa lành hẳn nay lại  tái phát . Tôi phải vào rừng tìm bất cứ loại lá cây có vị chát mà nhai. Bệnh phù thủng , bàn chân, đầu gối, mặt xưng ,ngón tay nhấn vào thịt lún sâu .Một tháng sưng phù hai lần . Lỗ tai có mủ ở tai trong,, đàm xanh...không thuốc thang gì cả. Những ngày mưa , nếu mưa lớn được nghỉ thì đỡ khổ , còn mưa nhỏ thì vẫn phải vào rừng làm việc. Nơi đây rừng núi âm u.  U tối như người tù cải tạo . Tôi nghĩ đến câu thơ người lính thú đời xưa khi còn học trung học :

...Chém (đốn ) tre, đẵn( chặt) gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những dang (8) cùng nứa, lấy ai bạn cùng
..........
Và người tù cải tạo hôm nay :  

"Nào những buổi, lên rừng chém nứa,
Đẵn gỗ về cất lán ,làm sàn.
Làm phênh, đập nứa ta đan,
Cắt tranh về lợp trang hoàng nhà ta."
Rời Rừng-Nguyễn Đình Lang (Giáng sinh 1977)

Lâu lâu, có được ngày nghỉ chủ nhật. Tôi mang quần áo rách ra vá . Kim làm bằng  dây đồng, chỉ bằng bao cát dành dụm từ Long Giao . Lẳng lặng từng mũi  kim sơi chỉ, đầu óc như gởi về phương trời xa xôi , nơi có cha mẹ, anh em , có bạn bè, có gia đình ...Mờ nhạt , mờ dần trong tận cùng của đớn  đau , trong tận  cùng uất  ức của  người thua cuộc. Mũi kim sợi chỉ có thể vá lại mảnh đời rách nát của riêng tôi .Nhưng với mệnh hệ của cả nước thì xa rồi vuột khỏi, vuột khỏi, mà bị áp đặt sẵn  những bàn tay lông lá ngoại bang..Tôi đi  giặt đồ, tôi đi tắm , tôi ngủ vùi.  Tôi đi tới đi lui, đói xanh cả mặt. Đói rụng rời cả tay chân. Đói không buồn nói  không còn cười , đói mờ con mắt , đói mờ lương tri...chờ rã ruột, chờ non tô bánh canh làm bằng bột mì . Hy vọng hão huyền với lòng khoan dung đô lượng của người thắng cuộc .
Rồi những đêm trăng thao thức không ngủ . Những đêm trời tối đen như mực , rừng núi  âm u. Tiếng côn trùng nỉ non ru canh thâu. Nhớ vợ thương con :

Trăng rừng lạnh lẽo cô đơn
Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe song
Nhớ con thương vợ não lòng
Chợ đời bạc bẽo long đong một mình.
Trăng đêm trên đất bắc XHCN-Đtá Nguyễn Huy Hùng (Yên bái 1976)

Hay những đêm nghe tiếng gió rít, cây rừng xao động. Mưa gió bão bùng, tiếng sấm  sét  nổ vang trời, âm ầm, phá tan màn đêm u tối, phá tan núi rừng Tây-Bắc , phá tan ...phá tan những u minh trói thúc đời tù tội, phá tan bầy quỉ đội lốt người....Thiếp đi ...mơ hồ về một buồi sáng bình minh, nghe tiếng chim kêu thanh thót, tiếng cười đùa, nhộn nhịp phố chợ đông vui .
Hay những buổi chiều Yên Bái, nắng nhạt nhòa , gió rừng nhè nhẹ, đâu đây tiếng chim kêu lạc bầy, khô khốc....Làm xao động nỗi lòng người tù cô đơn , bên dòng suối lờ đờ chảy, bật lên bài thương ca dĩ vãng một thời ;

"....Mưa rơi như rơi trong lòng ta, chiều thương nhớ quê xa
Người ơi từ nơi phương trời ấy, còn nhớ gì đến ta
Trong hòang hôn Yên Bái, bên dòng suối cô đơn
Ngồi đây ta đếm lại, bao kỷ niệm yệu thương.
Chiều Yên Bái- nhạc sĩ Phạm  Ni Tấn

Ngày  lại  ngày , tháng lại tháng. Tôi ở phương trời này nhớ  phương trời kia. U, ,u , mịch mịch như kẻ không hồn. Vòng xoáy ngục tù cuốn phăng tôi đi, làm rơi dần niềm hy vọng. Ngày ngày cuốc đất , xẻ núi  ban nền nhà. Đêm đêm ngồi  nghe kiểm thảo phê bình, bao chuyện xấu : nhỏ như hạt  bụi được phơi bày , tạo thành tích dâng cho đảng . Những giọt mồ hôi, nước mắt quyện vào nhau, rỉ thấm, bàn  tay phồng lên rồi chai đi làm thiêu rụi tất cả niềm ước mơ.

Ước mơ nào tôi đang mơ vào sáng nay. Khi Trần Thanh Châu cuốc vào đá non , đá bể ra , một thứ màu giống như màu chocolate.. Châu chỉ vào và nói : "Giờ mà có thỏi chocolate thì tuyệt quá" Tôi mỉm cười mà nước miếng tuôn ra ...thèm . Châu ít nói, nó cứ im ĩm suốt ngày, tuy nhỏ con mà sức bền. Có những ngày hai đứa phải khiêng vầu từ trong trại theo chỉ tiêu ra ngoài đường chất đống . Nghe đâu mang đi làm giấy. Những ngày trời  mưa đường rừng trơn trợt. Hai đứa khiêng vầu. Tôi cao nhồng đi phía trước Châu thấp người đi phía sau. Những khi leo dốc tôi lảo đảo, khi xuống dốc đường trơn  như xe không  trớn kéo Châu theo . Châu la làng .Vác  vầu chung với Châu tôi mới thấy Châu khỏe, bền thật chưa bao giờ thấy Châu than van...

Nhớ những ngày Nguyễn Hữu Huế bị ốm, mà còn phải đi lao động, về tới nhà là nó  nằm dài  ra .Thuốc men thì không. Anh em nghĩ rằng Huế bị cảm do chướng khí của núi rừng, cũng bắt gió đủ thứ mà vẫn không thuyên giảm. Người Huế cao và ốm  bây giờ lại càng ốm hơn. Tôi và Châu chỉ còn cách thay phiên nhau đấm bóp cho Huế để khơi lại mạch sống , tiềm năng còn lại trong cơ thể, vững tinh thần chống chọi bịnh tật mà vượt qua...Rối Huế cũng vượt qua cơn bịnh ngặt nghèo.

Trong người tôi mang nhiều mầm  bịnh , nên mỗi buổi sáng tôi ra ngoài trời tập lắc tay, hít thở không  khí trong lành, chào đón một ngày mới trong tù. Chuẩn bị cho mùa đông sắp đến. Nghe nói mùa đông lạnh lắm, không biết có đủ sức vượt qua hay không. Thế mà chiều nay,  trước đôi , cán bộ tập họp nói: " Có một số anh  luyện tập võ nghệ chờ cơ hội trốn trại". Tôi ngẫm ngĩỉ thấy có ai tập gì đâu ? sao vậy.? Ngày sau tôi ngưng tập chờ nguội đi rồi lại tập tiếp .

Những bữa cơm, bọn tôi ngồi xếp bằng trên sàn, trịnh trọng nhai từng miếng bánh canh, múc từng muỗng nước canh vào miệng, ôi sao ngon ngọt quá...Tôi có một cái tô lủng lỗ nhặt từ sông măng (tên con sông làm ranh giới Viêt nam và Cambodge vùng Bù Đốp ) Tới Long Giao lấy nhôm tán  kín lại , một cái chén do một người bạn gò cho có hàng trăm vết đập . Ấy thế mà nó theo tôi suốt cuộc đời tù tội .
Đời tù, quen dần với tiếng kẻng sáng tối, quen dần với những bữa ăn. Quen dần  với những đêm kiểm thảo, quen dần với những giờ "lên lớp". quen dần với những ngày lao động. Nhưng có một thứ làm cho người tù ghê tởm, đáng sơ: "Antena "

Ở tù thời nào mà không có. Đó là hạng người vì lợi ích của riêng mình. Báo cáo  hành vi  của bạn tù cho cai tù. Nhưng hành vi báo cáo này rất là kín đáo khó mà  kiểm chứng .Chỉ cần một hai người có hành vi này thì trong đội đó vô cùng khốn khổ vì ban ngày phải lao động cực khổ đêm phải ngồi cả hai tiếng đồng hồ  để nghe, từ ngày này qua ngày khác .Thật mệt với bọn này. Cuối cùng tù vẫn là tù.

Thế rồi một đêm trong tháng mười 1977. Trại tù chìm đắm trong màn sương, núi rừng  rền rã tiếng côn trùng .Ánh trăng bàng bạc soi ngàn cây ngọn cỏ . Từng cơn gió lạnh thổi vể  xuyên qua vách nứa, nghe đến rợn người. Trong láng có người ngủ say, có người thao thức nhớ vợ thương con. Bỗng tiếng  kẻng đâp dồn dập . Bộ đội ập tới đầy phòng ra  lịnh : Mang tất cả đồ dùng ra khám xét. Mọi người bừng dậy xếp mùng, mền, mang tất cả đồ dùng cá nhân ra sân, dưới ánh trăng mờ ảo. Với những đọn đèn pin sáng trưng của Bộ Đội.. Đồ đạc cá nhân được bầy ra trước mặt theo thứ tự từng hàng. Những gì cần dấu trong cuộc khám xét phải nghĩ ra cách dấu. Sau khi khám xét xong .Từng đội xếp hàng , nghe đọc tới tên mình thì ra  một hàng khác. Khi biên chế vừa xong  thì đoàn người di chuyển trong đêm, dưới họng súng dưới ngọn đèn pin theo đường rừng để ra con lộ chính .
Đời tù cải tạo, không bản án nào có ngày mai !

 

Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu !
Kim Vân Kiều -Nguyễn Du

Nguyễn văn Ngoan
 ngày 27-9-2016

BẢO CHÂU * CUỘC HÀNH QUYẾT

Buổi Chào Cờ Không Có Lá Quốc Kỳ Trước Một Cuộc Hành Quyết

12 Tháng Tư 20177:52 SA(Xem: 219)


Vào những năm đầu sau khi Việt cộng mới cướp miền Nam VN xong, các sĩ quan và công nhân viên chức từng phục vụ cho chính phủ VNCH đều bị đưa vào trại tập trung để bắt đi “học tập cải tạo” nhưng thực chất là đi tù lao động khổ sai. Một trong những trại tù là trại Hàm Tân ở tỉnh Bình Thuận. Trại này từng là căn cứ quân sự của lực lượng Quân Lực VNCH và ở giữa sân có cột cờ để mỗi khi trước lúc ra trận thì các chú lính chào quốc kỳ.

Thời gian này rất là khó khăn và những người tù chính trị vừa phải lao động rất cực nhọc và ăn khoai mỳ lát bữa đói thì nhiều và no thì hiếm hoi. Đời sống rất là khó khăn và khổ sở. Có nhiều người đã trốn tù và hình phạt khi bị bắt lại rất nặng là bị biệt giam và hai tay và hai chân bị cùm lại và sau đó là bị xử bắn để răn đe. Một trong những người tù từng trốn trại là một vị trung úy bộ binh mà tác giả kể lại cho tôi không nhớ tên. Vị trung úy bộ binh này vượt ngục và ông đã bị bắt lại. Sau khi đã bị biệt giam với tay chân bị cùm lại. Ông đã bị đưa ra nơi cột cờ để chuẩn bị xử bắn. Trong lúc này thì tất cả các tù nhân chính trị còn lại bị ra lệnh ở lại trong láng của mình vì bọn cai tù cộng sản sợ những người tù sẽ nổi loạn. Vị trung úy đang bị gông cùm và bắt quỳ gối chuẩn bị xử bắn thì bất ngờ ông la lớn lên rằng “Đừng có giết tôi. Để cho tôi hát chào lá quốc kỳ của tôi cái đã!” Và thế là ông vẫn đang trong tư thế quỳ gối dưới cột cờ không có lá quốc kỳ và hát vang bài hát quốc ca VNCH thật lớn cho anh em trong láng cùng nghe. Sau khi hát xong, ông nói “Tôi vĩnh việt lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ của đất nước tôi… tôi xin vĩnh biệt!” và bọn cai tù đã bắn ba phát súng kết liễu cuộc đời của ông.

nguoilinhvietnamconghoacamcovietnamconghoatrongngaytraotratubinh1973-7
Ảnh minh họa

Những người bạn tù của ông nằm trong láng ai cũng khóc và không bao giờ quên những giây phút đó. Một trong những nhân chứng là Dì Bê Thiên Nga với tên thật là Nguyễn Thị Bê hiện đang cư ngụ tại thành phố Boston, Massachusetts. Dì Nguyễn Thị Bê Biệt Đội Thiên Nga, 80 tuổi, phục vụ dưới quyền của Chuẩn Tướng Trang Sĩ Tấn tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thủ Đô nằm trên đường Trần Hưng Đạo trước năm 1975. Dì từng đi tù cộng sản ở trại tù Phan Đăng Lưu và dì đã bị biệt giam 6 tháng. Trại tù cuối cùng dì bị giải đến là trại Hàm Tân Z30D và dì đã ở tù cộng sản với tư cách tù nhân chính trị với tổng cộng là 13 năm tù. Dì từng ở tù chung với Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy Biệt Đội Thiên Nga phục vụ ở Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia dưới quyền của Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình có văn phòng trên đường Võ Tánh
trước năm 1975. Dì cũng từng ở tù chung với Bà Trung Tá Không Quân Nguyễn Thị Hạnh Nhân và Bà Nhân hiện đang là Hội Trưởng Hội HO và Thương Phế Binh VNCH cư ngụ tại CA. Ngày 1 tháng 1 năm 1988, dì Nguyễn Thị Bê đã được chính phủ Mỹ can thiệp mới được ra khỏi tù đày của cộng sản. Ngày 14 tháng 8 năm 1992, dì Bê cùng gia đình đã đến phi trường Logan Airport thuộc thành phố Boston và dì đã định cư từ đó đến nay. Trong suốt 24 năm qua, Dì Bê mà mọi người dân đều yêu mến dì và thường gọi dì là “Dì Bê” hay “Dì Bê Thiên Nga” bởi vì dì đã từng bị cộng sản VN tra tấn để khai thác thông tin tới mức gãy cổ và trong một thời gian dài khi qua Mỹ bà đã phải mang niềng cổ để điều trị. Dì Bê đã từng phải gánh mỗi ngày cả 200 đôi nước tưới cây trong tù vì vậy sức khỏe của dì không được tốt và thường xuyên đau nhức. Tuy vậy, từ khi bước chân đến Mỹ cho đến nay, dì Bê đã không bao giờ ngừng nghỉ trong bất cứ công tác chống Cộng nào cho dù xa xôi hay thức qua đêm để đồng hành cùng cộng đồng và các tổ chức đấu tranh chính trị.

Sở dĩ tôi nói hơi nhiều về Dì Bê Thiên Nga bởi vì tôi muốn quý độc giả có nhiều thông tin để kiểm chứng những gì tôi viết ra đây để mọi người cùng hiểu và chia xẻ. Cũng vì đã quá lâu nên Dì Bê không nhớ tên vị trung úy bộ binh đã hy sinh và chính dì là người đã kể lại với tôi câu chuyện này trong nước mắt. Cả hai dì cháu chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi khóc vì chúng tôi đồng cảm về ý nghĩa bảo vệ danh dự của lá cờ vàng và nhất là trong tình hình hiện nay với những màn hạ nhục cờ vàng hết trận này tới trận khác và hiện tại là vấn đề liên quan tới tên Việt cộng cái Mai Khôi tại Washington DC. Tuy tôi chưa bao giờ được vinh dự phục vụ dưới chế độ VNCH nhưng tôi có thể nhìn thấy được tất cả những gì Dì Bê kể cho tôi nghe và cảm nhận được cảm xúc của viên trung úy bộ binh với lòng yêu tha thiết lá cờ chính nghĩa của quốc gia VNCH. Ông đã hát vang như ông đã từng hát chào quốc kỳ trước khi xông pha trận mạc và lần hát này ông biết mình sẽ ra đi mãi mãi. Nhưng ông đã mãn nguyện vì được hát bài hát quốc ca tuy không có lá cờ vàng trên cột cờ… nhưng trong tâm khảm ông lúc nào cũng có lá cờ của quốc gia, của dân tộc. Ông đã mang lại niềm hy vọng và hạnh phúc trong lòng anh em, đồng đội của mình bằng cách hát lớn để mọi người cùng được nghe lại bài quốc ca của mình.

Sau hơn 24 năm ở Mỹ, nhưng Dì Bê vẫn không quên đồng đội của mình và những hình ảnh, lời nói kia vẫn cứ vang vọng trong tâm khảm của dì. Giờ đây những hình ảnh và lời nói kia lại truyền đạt đến tôi và tôi muốn chuyển tiếp đến tất cả quý độc giả có duyên đọc bài này. Để làm chi? Tôi có mơ ước rằng rồi ai ai cũng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của lá cờ vàng thiêng liêng như thế nào đối với vận mệnh của quốc gia, của dân tộc Việt và nếu mất nước thì chúng ta sẽ mất tất cả. Chúng ta còn lá cờ vàng là chúng ta còn niềm hy vọng và niềm tin vào một dân tộc Việt sống trong độc lập, tự do, dân chủ và hạnh phúc thật sự. Tôi mơ ước rằng ai ai khi nhìn thấy là cờ vàng cũng nhìn thấy sự hiện diện của hơn 250,000 anh hùng tử sĩ VNCH đã hy sinh cho quốc gia. Qua đó, họ sẽ tự giác thấy mình phải có tránh nhiệm ghé vai vào gánh vác giang sơn và đơn giản nhất là bảo vệ danh dự cho những người đã hy sinh cho chúng ta được sống. Tôi cũng hy vọng rằng sẽ có những người cũng cảm nhận được những gì tôi cảm nhận được và những hình ảnh, cảm xúc này sẽ chính là ngọn lửa trong lòng của mỗi người nung đốt lòng yêu tha nhân, yêu quê hương, yêu dân tộc thật sự để họ dám đứng lên, dám làm điều phải, dám hy sinh một chút gì đó hay là hy sinh tất cả để những người đi trước được yên tâm an nghỉ.

Chỉ có ngọn lửa lòng của mỗi con người chúng ta mới có thể cháy sáng lên làm ngọn đuốc dẫn đường cho mỗi chúng ta đi đến những quyết định đúng đắn, sáng suốt trong mọi tình huống, trường hợp. Tôi mong rằng ai ai cũng mang lá cờ vàng thân yêu trong tâm khảm của mình như viên trung úy bộ binh kia.

Tôi mong rằng ai ai cũng biết đặt lá cờ của quốc gia, của dân tộc ở vị trí trang trọng nhất và không bao giờ dời đổi nó đi bất cứ nơi nào vì bất cứ lý do gì.

New Hampshire, Thursday, January 12, 2017
Bảo Châu Kelley

SƠN TRUNG * CUỘC LUẬN KIẾM TRÊN NON TẢN


CUỘC LUẬN KIẾM TRÊN NON TẢN

SƠN TRUNG

 

Cứ ba năm một lần, vào ngày rằm tháng hai âm lịch, các bộ tộc ở miền núi xứ Bắc thường tập trung tại núi Tản viên để luận kiếm. Tại miền Bắc có khoảng 50 bộ tộc sinh sống như Thái , Thổ, Mán, Mường, Mèo, Nùng, Hmong, Tày, Dao, Lô Lô, PuPéo, Rơ-măm, Brâu, Pà Thẻn, La Hủ, Vân Kiều, Sán Dìu, Khơ Mú... . .Sự phân loại rất khó khăn và phức tạp. Ngay cả trong bộ lạc Thái còn có Thái Trắng, Thái Đỏ, Thái đen; giống Mán có Mán đồng tiền, Mán Hòa Bình; giống Tày Có, Tày Hay, Tày Men, Tày Mười, Tày Xang; giống Mường có Mường Thanh Hóa, Mường Hòa Bình. Trong các bộ lạc trên, Thái , Thổ, Mán, Mường, Mèo, Nùng, Hmong, Tày là tám bộ lạc nổi tiếng hơn cả, đuợc gọi là bát đại sắc tộc.Tất cả dân tộc miền núi này sống hoà hợp trong quốc gia Văn Lang, dưới sự lãnh đạo của vua Hùng. Chính các dân tộc miền núi đứng ra tổ chức cuộc luận kiếm và họ mời vua Hùng làm chủ tọa và làm trọng tài.


Võ nghệ thì có nhiều môn phái khác nhau nhưng trong thập bát ban võ nghệ, kiếm được coi là đứng đầu cho nên cuộc tranh tài của các đại cao thủ tại núi Tản đã lấy kiếm mà luận tài thử sức. Các bộ lạc đều được tham dự nhưng mỗi phái đoàn thường mang theo năm, mười người kể cả ngưởi tùy tùng.


Ngày luận kiếm đã đến. Trên một khoảnh đất rộng rãi trước đền thờ đức thánh Tản, người ta đã dựng một khán đài bằng gỗ lợp tranh để vua Hùng và các tộc trưởng các bộ lạc ngồi xem. Trước mặt khán đài là một đấu trường, là khoảnh sân cỏ rộng bằng một gian nhà, được vẽ một vòng tròn bằng vôi. Ở trước đấu trường, người ta làm một cái cổng tam quan kết bằng hoa và lá, xung quang cờ đuôi nheo bay phất phới. Trống điểm thùng thùng lúc khoan, lúc nhặt. Khi vua ngự đến, ban bát âm cử nhạc thánh thót. Các công chúa, các tiểu thư ngồi trên khán đài; còn các thiếu nữ người Mán, Mường, Mèo, Thái. . . mặc áo quần sặc sở tạo thành một bức tranh sống động ở xung quanh đấu trường. Các vệ binh phải cầm roi xua liên tiếp và nạt nộ ầm ĩ vì bọn thanh niên nam nữ xô đẩy nhau và đùa giỡn ở trước võ đài . Tiếng kêu gọi nhau ơi ới, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng chửi rủa nghe lanh lảnh là đặc thù của ngày lễ hội.


Theo lệ cũ, bát đại tù trưởng thay nhau chủ trì cuộc luận kiếm. Người đứng ra phụ trách việc tổ chức kỳ này là Nông Vạn Phúc, tù trưởng người Nùng. Trước khi tham dự cuộc luận kiếm, mỗi bộ lạc phải chọn một kiếm khách tài giỏi nhất, và một kiếm khách dự khuyết. Các kiếm khách các bộ lạc từng đôi thi tài, cuối cùng lấy ra tám đại cao thủ. Trước hết bốn cặp đấu với nhau, sau đó thành hai cặp đấu với nhau, và cuối cùng là một cặp đấu với nhau. Ai thắng sẽ trở thành đệ nhất cao thủ của Văn lang quốc.


Khởi đầu, có 30 đấu thủ bắt thăm đấu từng đôi một. Đợt hai còn bảy cặp đấu với nhau. Đợt ba còn bốn cặp đấu với nhau.
Khởi đầu đợt ba, Đèo Vân Long đấu với Uông Thanh Lâm. Sau khi bái tổ và cúi đầu chào nhau, cả hai liền trổ tài. Cả hai là tù trưởng, là thanh niên trai tráng khoẻ mạnh. Đèo Vân Long người Tày sử dụng song kiếm, tiến thoái nhịp nhàng và múa như vũ bão. Uông Thanh Lâm, người Thái trắng dùng trường kiếm, thủ nhiều hơn công. Cả hai đều đóng khố, ở trần trùng trục như hai con bò mộng. Đấu hơn nửa buổi không phân thắng bại. Ban tổ chức phải ra lệnh đình hoãn để hai bên nghỉ ngơi và dùng bữa trưa. Giờ mùi, hai bên tiếp tục lên võ đài. Uông Thanh Lâm thay đổi chiến thuật. Chàng tấn công như vũ bão khiến Đèo Thanh Long phải lùi bước. Vì bất cẩn, Đèo Thanh Long trợt chân té xuống. Trong nháy mắt, Uông Thanh Lâm kề kiếm vào cổ khiến Đèo Thanh Long phải đầu hàng.

Hiệp tiếp theo, Nông Xin Phát, người Nùng đấu với La Hiêu Xình người Thổ. Cả hai đều đóng khố, để đầu trần, đI chân đất. Cả hai dùng song kiếm. La Hiêu Xinh thuộc phái hầu kiếm, y nhảy tả sang hữu, rồi lăn lộn dưới đất chém vào hạ bộ của Nông Xìn Phát những nhát kiếm ác liệt khiến Nông Xìn Phát nhiều phen luống cuống. Cuối cùng La Hiêu Xinh nhảy từ trên cao xuống chém đứt tai Nông Xìn Phát và kết thúc trận đấu.

Trận tiếp theo nữa là Ra Com Xay người Mán đấu với Giàng A Sáo người Mường. Cả hai là tù trưởng già nua tóc bạc nhưng còn vẻ tiên phong đạo cốt. Ra Com Xay mặc áo cộc đỏ, quần cộc xanh, đầu trùm khăn lam. Giàng A Sáo thì đóng khố, đi chân đất. Sau khi chào hỏi nhau xong, cả hai rút kiếm và thủ thế. Sau vài khắc, cả hai vẫn ghìm kiếm và im lặng gườm nhau. Bỗng Ra Com Xay hét lên một tiếng và xông vào Giàng A Sáo . Cả đấu trường, người ta nghe một tiếng thét rùng rợn. Đồng thời người ta thấy cả hai người rời nhau ra và ngã xuống đất. Cả hai đã bị chém vào đầu. Cuộc đấu kết thúc bằng cái chết của hai tù trưởng kiêu hùng.

Trận cuối do Cầm Thanh Khao lão nhân người Hmong đấu với Lò Xây Xây đạo nhân người Mèo. Cầm Thanh Khao lão nhân mặc trường bào trắng , thắt lưng đỏ, đi chân đất còn Lò Xây Xây mặc áo ngắn màu xanh, quần đen, thắt lưng đen, đi hài tía. Sau khi bái tổ và chào hỏi nhau, cả hai tiến đánh như vũ bão. Sau một ngày trời bất phân thắng bại, cả hai được ban tổ chức cho nghỉ ngơi để hôm sau tái đấu. Khoảng giờ thìn hôm sau, cuộc đấu tiếp diễn. Cầm Thanh Khao vừa ôm bầu rượu vừa tấn công đối thủ trong khi Lò Xây Xây ung dung cầm quạt phe phẩy như đang dạo chơi trên bờ sông. Đến giờ ngọ, cả hai vẫn đồng cân sức. Mặt trời lên cao, không khí oi bức. Cầm Thanh Khao nâng bầu rượu lên uống một hớp như đang làm thơ trong một vườn hoa. Bỗng một thoáng, Cầm Thanh Khao nhảy chồm tới, miệng phun rượu vào mắt Lò Xây Xây đạo nhân, tay múa kiếm quyết chém ngang lưng đôi thủ . Cùng lúc này, Lò Xây Xây đạo nhân chỉ quạt về phía Cầm Thanh Khao lão nhân, người ta thấy năm sáu mũi kim từ quạt bay ra. Trong khi Cầm Thanh Khao lão nhân co rúm người và run bần bật thì Lò Xây Xây đạo nhân nhảy lùI ra sau ôm mặt nhăn nhó. Một bên trúng kim độc, một bên trúng rượu độc, ban tổ chức phải đem cả hai vào hậu trường cấp cứu. Sau đó ban tổ chức tuyên bố bãi bõ tư cách kiếm khách cả hai vì đã dùng hành vi ám toán đối thủ.


Chung kết là Uông Thanh Lâm đấu với La Hiêu Xình. Cuộc long tranh hổ đấu xảy ra hai ngày vẫn bất phân thắng bại. Ban tổ chức phải đưa ra ý kiến là tổ chức thi văn bổ túc.

Cuộc thi võ đã kết thúc, ngay chiều hôm đó, võ đài đã biến thành một quang cảnh mới. Ngay trước ngự tọa, người ta trải bốn năm chiếc chiếu cạp điều. Ở chiếu giữa là chỗ ngồi của hai đấu thủ, còn xung quanh là chiếu của các giám khảo. Trên các chiếu người ta bày hương trầm, hoa, rượu, trà, bánh trái và thuốc lào. La Hiểu Xinh bốc thăm ưu tiên nên có quyền ra câu hỏi trước:

-Trên thế gian, cái gì mạnh nhất?

Uông Thanh Lâm đáp:

-Thanh kiếm là mạnh nhất.

La Hiêu Xinh nói:

-Thanh kiếm không mạnh nhất. Nếu thanh kiếm trở nên oai hùng là do sức lực toàn thân, nhất là sức mạnh cánh tay, và trí óc con người. Thanh kiếm chỉ là một công cụ vô tri, vô năng, vô lực.

Uông Thanh Lâm chất vấn La Hiêu Xình:

-Tôi trả lời, ông bảo là sai. Vậy theo ông cái gí có sức mạnh nhất trên đời?

La Hiểu Xinh đáp:

-Theo tôi, tình yêu mạnh nhất trên đời.

Uông Thanh Lâm nói:

-Tình yêu là sức mạnh nhưng không phải là nhất. Tình yêu chưa chắc tạo được hạnh phúc vì bao nhiêu người yêu nhau mà vẫn bỏ nhau. Vả lại, tình yêu chỉ có sức mạnh trong trong khoảng 18-50 mà thôi. Hơn nữa một số không cần tình yêu đò là hạng chân tu và người bất lực hoặc bệnh hoạn.

Theo tôi, tiền bạc mạnh nhất vì ai cũng cần tiền. Đứa trẻ mới sanh cho chí người già sắp chết, người tu hành cho đến nhà từ thiện, ai cũng cần tiền. Mãnh lực đồng tiền rất lớn, nó làm cho con người bán danh dự, bỏ đạo đức, bán đất đai tổ tiên đã ngàn năm xây dựng. Kẻ lưu manh tham tiền đã đành mà nhà tu hành hoặc bậc trí thức cũng bất chấp liêm sỉ, chạy theo đồng tiền mà đổi trắng thay đen. Nhân dân ta có câu tục ngữ: “ Có tiền mua tiên cũng được”. Và ngày nay khắp nơi có bài ca chiến thắng:

Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà tiến thân,
Là cái cân công lý.
Tiền! Hết ý!



Ban tổ chức nhận định rằng về nan đề thứ nhất, cả hai ngang nhau. Đến lượt Uông Thanh Lâm ra đề:

-Ông có phải là người oai phong nhất không?

La Hiêu Xình đáp:

-Dưới vua, tôi là người oai phong nhất vì tôi là tù trưởng, có 500 mẫu ruộng, hai ngàn con bò, năm trăm con trâu, và ba trăm cô vợ trẻ đẹp.

Uông Thanh Lâm cười đáp:

-Vậy thì ông còn thua tôi. Tôi đây có 600 mẫu ruộng, năm ngàn con bò, năm ngàn con trâu và năm trăm cô vợ trẻ đẹp. Ngoài ra tôi có 80 đứa con, gồm 50 trai và 30 gái. Nhưng những cái đó chưa ăn thua gì, vì có tiền thì mua bao nhiêu vợ cũng được. Mà nhiều vợ thì lắm con Cổ nhân nói : “Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con”. cũng chỉ là chuyện thường thế gian Ông xem đây, những người hầu cận của tôi đây. Rất đặc sắc, rất đặc sắc, trong thế gian, ngoài vua ra, không ai bằng tôi! Trong khi bao nhiêu người khoái sưu tầm vàng ngọc, gấm vóc, tranh cổ, bình xưa, tôi đây chỉ thích sưu tập nhân tài trong thiên hạ.

La Hiêu Xình nói:

-Những điều ông nói là không thể kiểm soát được. Ông muốn nói bao nhiêu mà chả được. Làm sao biết ông có 600 mẫu ruộng, năm ngàn con bò, năm ngàn con trâu và năm trăm cô vợ trẻ đẹp? Còn mấy tên hầu cận của ông thì cũng giống mấy tên hầu cận của tôi, có khác gì đâu?

Uông Thanh Lâm nói:

-Ông lầm rồi! Mấy thằng đầy tớ của tôi rất chiến! Rất cừ! Tôi hiện nay có hàng ngàn đầy tớ, thuộc đủ hạng người, mà người nào cũng xuất chúng, Không một tên nô lệ nào trên thế gian lại có một lịch sử, một quá khứ oai hùng như chúng nó. Tất cả chúng nó có ba đặc tính chung:

-Thứ nhất, chúng nó trước đây tích cực chống tôi và dân tộc tôi. Nay chúng quay ra ca tụng tôi, cam tâm làm nô lệ cho tôi.

-Thứ hai, chúng nó là những người có danh vọng.

- Thứ ba, những nô bộc của tôi mang tính quốc tế và đa dạng. Trong nước, ngoài nước đều có người của tôi. Nước nào cũng có người của tôi. Chúng ở ngoại quốc nay về hẳn với tôi chầu chực hôm mai bên cạnh tôi. Cũng có kẻ sáu tháng ở với tôi, sáu tháng về thăm nhà bên đó. Cũng có kẻ nằm vùng ở nước ngoài. Đầy tớ của tôi rất đa dạng, nào là y sĩ, thầy kiện, học giả, văn sĩ, thi sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, giáo sĩ, hoà thượng, đạo sĩ, sinh viên, học sinh, giáo sư, tiến sĩ. . .

Trong đám đầy tớ của tôi, hai thằng A Tam và A Tứ đây vốn là người dân Miêu. Thằng A Tam, lúc nhỏ là lưu manh đệ nhất ở xứ Đoài, gặp thời loạn nhảy lên làm đại tướng, còn thằng A Tứ là đệ nhất đàng điếm và cũng là đệ nhất nhạc công của Miêu tộc, sáng tác cả trăm bản nhạc, được dân Miêu ca tụng là thánh tổ nhạc..

La Hiêu Xình nói:

-Ông đánh thắng rồi bắt chúng làm nô lệ, đó là chuyện thường xưa nay, chứ có gì lạ đâu mà ông khoe!

Uông Thanh Lâm cười mà rằng;

-Ông nói sai. Bậc đại nhân, đại nghĩa không bao giờ dùng bạo lực. Dùng vũ lực thì làm cho người miễn cưỡng tuân phục nhưng tâm bất phục. Phải làm sao mà chúng tâm phục, khẩu phục, phải bò đến trước mặt mình năn nỉ, van xin thì mới tỏ là bậc đại trượng phu, oai phong đệ nhất. Trường hợp của tôi rất đặc biệt cơ! Hai thằng này có quyền thế nên đã nhanh chân chạy sang xứ Cỏ Hoa trước khi Miêu tộc bị tôi xâm chiếm. Dân Miêu khốn khổ phải vượt biển, kẻ bị cướp biển, người bị cá ăn thịt , một số rất ít đến Cỏ Hoa và các nước ngoại quốc, còn hai tên này đi tàu bè rất ung dung và sống vênh vang ở xứ Cỏ Hoa. Tôi phải dùng mấy trăm lượng vàng và mất công thuê người dụ dỗ mấy năm trời chứ đâu có dễ. Hai thằng này thời trước cao ngạo lắm, nay thì rất ngoan, bảo chúng nó quỳ xuống làm chó sủa gâu gâu, chúng cũng nghe theo. Dù tốn mấy trăm lạng vàng, khi đi đó đi đây, có thằng mang giày cởi dép, có đứa đấm lưng, bóp chân, có đầy tớ hầu điếu đóm, có nô lệ bưng trà, rót rượu thì tôi rất là sung sướng, rất là oai phong! Các bậc vua chúa đi ra ngoài thường mang theo bọn vai u thịt bắp làm kẻ tả hữu, còn tôi, tôi là người trí tuệ đỉnh cao cho nên tôi dùng nô lệ cũng dùng thứ thượng hạng. Có như vậy mới quý hiếm và tăng giá trị mình. Tôi nay cho chúng sướng gấp mười ngày trước khi chúng làm quan ở Miêu tộc. Chúng nay đuợc ở nhà cao cửa rộng, rượu nồng dê béo, tiền xài hàng vạn, gái đẹp hằng trăm, dù tôi vác gậy đuổi chúng, chúng cũng không đi. Tôi cho chúng mọi thứ, tôi chẳng bắt chúng làm một công việc gì cả. Khi tôi đi đó đi đây,nhất là lúc tiếp các đại thần hay tiếp khách ngoại quốc, tôi chỉ cần chúng đứng khoanh tay hầu bên cạnh tôi là đủ.

Tôi rất yêu chúng nó vì chúng nó đem lại vinh dự và oai phong cho tôi. Mai sau khi tôi chết, tôi sẽ chôn hài cốt hai đứa bên cạnh để kiếp sau và sau nữa, chúng sẽ hầu hạ tôi. Và ở cổng lăng tôi, thay vì phải làm hai con chó đá. như cổ tục, tôi sẽ cho thợ đắp hình chúng nó theo dạng đầu người mình thú như con Sphinx bên Hy Lạp.. Ông có thấy dưới hoàng đế, tôi là người oai phong nhất không?

Nói xong, ông quay sang A Tam, A Tứ cười:

-Tao nói vậy có đúng không, chúng bay?

Cả hai tên nô bộc tuổi 70-80 cúi đầu khom lưng rất lễ phép và thưa :

-Dạ đúng, bẩm đại nhân!

Kết cuộc, ban tổ chức đồng ý chọn Uông Thanh Lâm làm đệ nhất kiếm khách nước Văn Lang. Vua Hùng thưởng cho Uông Thanh Lâm 500 lượng vàng, ban áo mão cân đai, và giữ lại kinh đô làm Cửu môn Đề đốc quản lĩnh quân đội trong kinh thành

KHUẤT ĐẨU * NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ

NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ
 
Thủa ấy, thế hệ chúng tôi thường ca cẩm đầu thai nhầm thế kỷ! Cái thế kỷ mà chúng tôi ngán ngẩm là thế kỷ hai mươi, với thế chiến thứ nhất, thế chiến thứ hai, rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh qui ước và cuộc nội chiến lê thê suốt hai mươi năm dài.
Kêu trong chán nản, trong hờn dỗi nhưng không tuyệt vọng. Vì còn kêu được kia mà. Chỉ có một chút tấm tức, sao không được sinh ra trong những thế kỷ yên bình. Có nghĩa rằng, dù thế nào chăng nữa, thì được sinh ra làm người vẫn hơn là không được sinh ra.

Khác hẳn với những đứa trẻ sinh ra trong tháng tư, bảy lăm, sau chúng tôi một thế hệ. Chúng không kêu mà hỏi: sinh chúng tôi ra làm gì?
Đó là những đứa trẻ mẹ mang đầy bụng, mẹ không thở ra hơi mà vẫn phải bết bát chạy.
Chạy từ cầu Ái Tử qua cầu Tràng Tiền. Rồi từ cầu Tràng Tiền lê lết trèo qua đèo Hải Vân. Rồi từ đèo Hải Vân qua đèo Mẹ Bồng Con. Sau cùng đến giữa trái tim thủ đô Sài Gòn, vẫn phải giẫm đạp lên nhau để xuống bến Bạch Đằng, hay chen lấn nhau đến nghẹt thở để chui vào phi cảng Tân Sơn Nhất. Một cuộc chạy Marathon dài nhất trong lịch sử.
Và rồi mẹ sinh. Không phải trong nhà thương Từ Dũ với sự giúp sức của các bác sĩ và cô đỡ mát tay để mẹ tròn con vuông.
Mà sinh, có thể là lúc đang chạy trối chết, con rớt trong quần mà mẹ không hay.
Cũng có thể là lúc mẹ mệt quá cái đôi chân này đang ngồi tựa lưng vào một bức tường lỗ chỗ dấu đạn. Rồi con lặng lẽ chui ra mà mẹ không cần phải rặn, đúng hơn là không còn hơi sức đâu mà rặn.
Có thể trong thùng xe chất cứng người, suýt nữa con bị người ta đạp cho nát bét.
Có thể trên con tàu mấp mé sắp chìm, người ta đang ném những xác chết và những người sắp chết xuống biển cho nhẹ bớt. (Cũng may họ không ném những người đàn bà chửa)
Có thể trong khoang trực thăng mà viên phi công bị đạn dưới đất bắn lên, xuyên qua ghế ngồi khiến anh ta đầm đìa máu, vẫn cố sức giữ cho máy bay khỏi rơi.
Có thể mọi lúc, mọi nơi, mọi giờ, mọi phút.
Ngay cả phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, khi tông tông Dương Văn Minh vừa nói xong mấy tiếng “đầu hàng không điều kiện”.
Mẹ sinh, không có cha bên cạnh.
Có thể cha đã chết trong chiến hào, có thể đang chiến đấu mà súng bị gãy, có thể bị thương, bị bắt, cũng có thể cởi bỏ quân phục lẫn lộn giữa đám thường dân đói khát trên quốc lộ số 1
Người ta đi biển có đôi
Còn tôi đi biển mồ côi một mình.
Mẹ sinh con ra chỉ mình ên, quạnh hiu lắm con ơi!
Mẹ sinh con ra, chính mẹ, cũng không biết để làm gì!
Không biết để làm gì nhưng vẫn muốn con được sống.
Giữa chốn đông người, mẹ vẫn cứ vạch áo ra cho con bú. Tuy chỉ uống nước lã cầm hơi, mẹ cũng hãy còn một ít máu. Những giọt máu hiếm hoi màu đỏ khi chảy qua miệng con vẫn thành màu trắng thơm tho.
Và kỳ diệu làm sao, con vẫn sống được.
Nghĩa là con vẫn thở trong khi khắp nơi đậm đặc mùi xác chết thối rữa, mùi khói, mùi xăng, mùi nhà cháy. Và con vẫn khóc được trong tiếng đại bác ì ầm, tiếng A.K cọc cọc, tiếng xe tăng rít trên mặt đường.
Con sống, nhưng sau cái phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, mẹ ngơ ngác không biết đang ở đâu, rồi sẽ đi về đâu giữa rừng cờ nửa xanh nửa đỏ.
Sau cùng, mẹ cũng hiểu ra rằng lịch sử đã sang trang. Không chỉ riêng mình mẹ mà nửa nước đều thấy xa lạ với chính thành phố, xóm làng của mình. Ngay cả con phố, căn nhà, mảnh vườn cũng không còn là của mình nữa.
Mẹ bị đuổi về quê làm xã viên hợp tác xã. Mẹ lội xuống ruộng, mặc dù rất sợ đỉa, để cấy, gặt. Đôi lúc mẹ trần vai để kéo cày thay trâu. Mẹ làm ra lúa ra khoai đầy kho đụn, nhưng mẹ và những người đội nón lá chỉ làm cho nón cối hưởng, nên con vẫn đói khát, bủng beo.
Mẹ bị hốt trong đêm quẳng lên rừng thiêng nước độc, gọi là kinh tế mới. Mẹ phải sống chung với rắn rít và cả cọp beo, khi ấy hãy còn nhiều lắm. Mẹ bẻ măng rừng, hái nấm ăn cho đỡ đói. Nhiều lần ăn phải nấm độc suýt chết. Cả con và mẹ đều bị sốt rét rừng, bụng ỏng da vàng khè.
Chịu hết xiết, mẹ cõng con trốn về thành phố. Mẹ vay mượn chút ít chạy chợ trên, lộn chợ dưới. Bị mắng là con buôn, bị quản lý thị trường rượt đuổi còn hơn mã tà. Một đôi lần bị cướp sạch cả vốn. Đến nổi, nói ra thật xấu hổ, chỉ còn cái vốn trời cho. Để làm lại cuộc đời mẹ đã thử theo bè bạn đi đứng đường. Nhưng mẹ gầy yếu teo tốp quá, chẳng ai thèm rớ tới.
Cũng may, lúc ấy cha con chẳng phải chết, chỉ bị bắt đi cải tạo, vừa được thả ra. Cha con còn thảm não hơn cả mẹ. Nhưng nhờ cái gọi là tình chồng nghĩa vợ, mẹ cha cũng gắng gượng mà sống để nuôi con. Cha đạp xe thồ, bán cà rem, mẹ lượm lon nhặt giấy vụn trong bãi rác.
Con được (hay bị) dạy thành cháu ngoan Bác Hồ.
Rồi con cũng học đến lớp 12.
Nhưng tới đó thì thôi, cánh cửa đại học đã đóng sầm trước mặt con.
Con bị ném vào đời không nghề nghiệp, không vốn liếng.
Con sống lây lất cho đến hôm nay.
Hôm nay, những đứa trẻ tháng tư năm ấy đã bốn mươi tuổi, cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc. Còn bi đát tội nghiệp hơn cả cha mẹ, chúng không có quá khứ để tiếc thương, không có tương lai để hướng tới, chỉ có cái hiện tại không sắc màu, không mùi vị, như một con số không chẳng biết để làm gì.
Trong gia đình, nhìn thấy mẹ cha co rúm, mòn cùn, tuy không nói ra, nhưng chúng thừa biết họ là những kẻ hèn. Ngoài xã hội, chúng chỉ đứng bên lề, nếu không muốn nói là đứng dưới đáy. Trong khi những đứa cùng năm sinh, tháng sinh nhưng ở nửa nước bên kia hay dưới cái dù lý lịch màu đỏ phía bên này đang được cơ cấu vào những chức vụ ngon ăn, sắp sửa đi làm đầy tớ cho những ông chủ kém may mắn nói trên.
Thế nên, đến chết vẫn còn nguyên câu hỏi: Sinh ra trong chết chóc, lớn lên trong đói khổ và suốt đời sống trong ô nhục, vậy sinh chúng tôi ra làm gì?!
Khuất Đẩu

Tuesday, April 25, 2017


CHÁNH MINH * BIỂN TRONG THƠ TRẦN HỒNG CHÂU

Biển trong thơ Trần Hồng Châu

Chánh Minh


Nói đến thi sĩ Trần Hồng Châu, có lẽ chỉ một số ít người đã từng đọc thơ ông mới biết ông là ai, nhưng khi nói đến Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hoạch, nguyên Khoa trưởng trường Đại học Văn khoa Sàigòn (1965-1969), chắc chắn không ít người biết đến ông, nhất là những sinh viên ở các Đại học Sàigòn, Huế, Đà Lạt và Học viện Quốc gia Hành chánh trước năm 1975. Nhà thơ Trần Hồng Châu chính là Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã từng giảng dạy các môn Văn chương Pháp, Văn chương Việt Nam và Luật Quốc tế tại các Đại học trên. Ngoài ra ông còn là Giáo sư thỉnh giảng về Văn chương, Văn hóa Việt Nam và Văn chương Pháp tại Southern Illinois University (Illinois, Hoa Kỳ) từ 1970 đến 1974.
Tôi tình cờ đọc được thơ ông trong Tuyển tập Trần Hồng Châu gồm thơ, tùy bút và tiểu luận về Văn học Nghệ thuật do Viện Việt-Học ấn hành năm 2004 tại Hoa Kỳ và đây cũng là lần đầu tôi đọc thơ của Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch hay thi sĩ Trần Hồng Châu. Thơ ông đủ các đề tài từ tình yêu thăng hoa, quê hương, đến triết lý về vũ trụ và cuộc đời rất sâu sắc, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thơ ông đã nói đến biển khá nhiều. Trong 116 bài thơ đăng trên Tuyển tập, có đến 16 bài nói về biển hay liên quan đến biển, tôi có cảm tưởng như ông là một người đi biển nhiều và yêu biển, bởi chính tôi đã từng chọn nghiệp biển và cũng yêu biển. Cho nên khi đọc được những bài thơ có dính dáng đến biển, tôi như bị cuốn hút bởi những lời thơ thật đẹp, lãng mạng và đầy tình người của ông. Từ sự đam mê đó tôi muốn tìm hiểu biển trong thơ Trần Hồng Châu, ngoài ra tôi không có ý phê bình thơ ông bởi vì đã có một số quý vị viết rồi như Giáo sư Trần Ngọc Ninh, Viện trưởng Viện Việt Học và nhà phê bình thơ văn Nguyễn Mạnh Trinh.
Trước hết chúng ta hãy nghe ông tự giới thiệu mình là con người yêu biển một cách khéo léo:
Lúc này đây anh biết em vẫn nhìn anh
xem có đúng con người trong tác phẩm hay không
con người yêu biển lớn
biển đa tình
……………..
(Biển Yêu Mê - Trần Hồng Châu)
 
Và rồi nhớ lại những vùng biển ông đã từng đến:
 
Copenhagen chìm trong mờ sương Bắc Hải
Copenhagen thủy nữ tuyệt vọng trong chờ mong
Tôi đi lang thang
Mắt hoàng tử hiên ngang
Đăm chiêu đời đen bạc
……………………….
Chiều hôm nay tôi lại bâng khuâng
Trở về hiện sinh Địa Trung Hải
Mùi cá biển bủa vây những khuôn mặt thuyền trưởng phiêu lãng
Và áo sương gió khoác lên mình bướm đêm
…………………………
Lòng Phi Châu nóng bỏng
Bến Hồng Hải biển xanh
Aden, đen trong nắng xế
Suez, mấy thuở ê chề!
……………………...
 
Tôi nương theo hướng mặt trời mọc
Về thăm Hương Cảng một chiều xưa
……………………………………..
Tôi nhớ
Nhớ ơi là nhớ
Núi đồi mông lung
Núi đồi chập chùng
Ôm ấp lòng bến cảng
Như một lẵng hoa bẩy màu ân ái
………………………………………
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Tôi đã ghé bến Hương Cảng một lần lâu lắm rồi, những câu thơ trên đã gợi nhớ trong tôi hình ảnh Hương Cảng thật rõ ràng như mới ngày nào. Nếu ông không thăm biển nhiều lần và yêu biển, thì làm sao có những lời thơ say đắm như:
 
…………………………….
Tôi ghì ôm biển vào lòng
Quên cả huyền diệu đêm trăng
Quên cả vàng úa thủy triều âm
Chào tái ngộ Phi Châu kỳ bí!
……………………………..
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
…………………….
Tôi mở rộng vòng tay
Ghì ôm biển vào lòng
Ngủ ngon đi nhé biển tuyệt vời!
Ngủ say giữa lòng vũ trụ
Trăng sao vằng vặc mịt mùng trăng sao
………………………………………………
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời - Trần Hồng Châu)
 
Theo bà quả phụ Nguyễn Khắc Hoạch, nhà thơ đã viếng thăm nhiều nơi thời còn là sinh viên du học tại Pháp (Đại học Sorbonne, Paris, Đại học Nancy, Nancy) và các nơi mà ông bà đã từng sánh vai đi qua đã để lại trong ông biết bao kỷ niệm:
 
…………………………
Ta nhặt từng sợi rong biển
Tóc thề trong chất lỏng xanh
Ta nhặt từng sợi kỷ niệm
Bềnh bồng trong tiềm thức biển sâu
…………………………………….
(Xuân Và Biển Thiếu Quê Hương - Trần Hồng Châu)
 
Dưới mắt nhà thơ Trần Hồng Châu, biển và sóng là một, không thể tách rời ra được. Do vậy nhà thơ đã nói đến sóng rất nhiều cũng như biển với cát trắng luôn luôn gắn bó mặn mà. Phải chăng đó cũng là tâm sự tác giả, cho nên mới “Ngàn năm xin vẹn giữ lời thề”?
 
Từ muôn kiếp sóng vẫn dạt dào tâm sự
Từ muôn kiếp sóng vẫn bạc đầu nhấp nhô
Cánh hải âu chập chờn có phân vân
Vầng trăng xưa có gọi hải triều âm?
Biển vẫn đêm đêm hò hẹn mình cát trắng
Nước tràn trề vào lòng cát đê mê
Mặn mà tình đôi lứa
Ngàn năm xin vẹn giữ lời thề!
……………………………..
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời - Trần Hồng Châu)
 
Khi nhà thơ một mình cô đơn nhớ đến người yêu ở cách xa gần nửa vòng trái đất đã có ý tưởng thật ngộ nghĩnh, lãng mạng là làm một cuộc hải hành xuyên qua các đại dương như một nhà hàng hải để cùng người thương hưởng những phút yêu đương nồng cháy:
 
Anh vươn mình băng qua lớp lớp đại dương bạc đầu để cuối đường hải hành cánh tay mở rộng ôm quanh vòng lưng trái đất , dìu thân em màu bạch ngọc vào lòng nồng cháy yêu đương
……………………………
(Một Mình . Một Mình - Trần Hồng Châu)
 
Có ai như thi sĩ Trần Hồng Châu nhớ con tàu đến nỗi phải đi xe qua cảng Nhà Rồng ở Khánh Hội để nhìn những con tàu, để nhớ thương những đại dương và bờ bến mà ông đã trải qua những phút giây hạnh phúc như ở chốn thiên đường:
 
Mùa mưa về nước dâng trên kênh Khánh Hội
Xe dẫn tôi qua cảng Nhà Rồng
Để nhìn những con tàu trôi lênh đênh
Để nhớ thương mãi
Những đại dương và thiên đường ngọt lịm
……………………………………………
(Xe Đi Ngang Dọc Mấy Mùa - Trần Hồng Châu)
 
Thật đúng và cũng thật thi vị khi nhà thơ xem mình là con tầu lênh đênh nay đây mai đó “về những chân trờ lộng gió…” hay con tầu cũng chính là hình ảnh cuộc đời mình “nhấp nhô, nổi trôi theo định mệnh…”:
 
Tôi là con tầu lênh đênh sóng vỗ
Lắc lư say theo nhịp hải hành
Về những thương cảng buồm thuyền như bướm lượn
Về những chân trời lộng gió biển mù khơi
Hay con tầu là tôi ngoài biển đời nhấp nhô
Nổi trôi theo định mệnh sợi chỉ bàn tay
………………………………………..
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Cái định mệnh nghiệt ngã đã đưa nhà thơ phải bị tù đày ở chính quê hương mình, chẳng khác chi “thân tầu chết đứng trong vũng nước tù…”:
 
Đêm nay chợt tỉnh giấc
Thế giới nào đây?
Thân tầu chết đứng
Trong vũng nước tù
Xiềng xích
Cửa đóng kín!
Mệt lả
Mình lở lói
Rêu xanh
…………
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Sau khi đọc thơ Trần Hồng Châu, tôi mới biết thêm ông đã bị đày đọa bởi cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, “đỉnh cao trí tuệ của loài người” (?) sau năm 1975, mặc dầu tiểu sử ông trong Tuyển Tập không hề ghi lại thời kỳ này (không biết đây là vô tình hay cố ý của Viện Việt Học khi cho in Tuyển Tập năm 2004, sau khi nhà thơ đã qua đời?). Chính lúc này ông càng khát khao yêu biển, yêu Tự do và hối hận đã “về ngòi” hay về lại Việt Nam sau những năm giảng dạy tại Southern Illinois University, Hoa Kỳ từ 1970 đến 1974:
 
Biển là mây gió
Biển là Tự do không bờ bến
Ôi đau xót từ biển về ngòi
Ôi ta có tội gì kiếp trước
Để hôm nay đánh mất cả thiên đường!
………………………………………
Ta ghì ôm biển vào lòng
Biển người tình bé bỏng
Ôi đau xót từ biển về ngòi
Ôi đau xót những thiên đường lỡ hẹn!
………………………………………
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Làm sao không đau xót được khi nhà thơ đã từng giang hồ khắp bốn biển, biển là tượng trưng của Tự do, là thiên đường, nhưng lại đi vào cõi chết chỉ vì thuơng bố và yêu quê hương. Ông nghèo đến nỗi không có tiền mua cho bố mình một chén rượu nhạt khi bố còn sống, bây giờ thì bố đã ra người thiên cổ. Thế nhưng ông vẫn tự an ủi mình một cách mỉa mai chua xót “…hậu vận bố con mình chẳng ra gì!”:
 
Bố nằm xuống đất rồi, càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
(một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
…………………………………………..
Trông bố ăn
rất ngon lành
củ khoai lang buổi sáng
con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
………………………………….
(Bố Nằm Xuống - Trần Hồng Châu)
 
Tình yêu quê hương của ông không bao giờ phai nhạt, càng nhìn biển ông càng nhớ thương quê hương.
…………
Nơi xa đó
Diện đối diện nửa vòng xích đạo
Có phải quê hương ta?
Bãi trước Bãi sau
Ngôi nhà tranh xiêu vẹo
Em bé thiếu dinh dưỡng
Người mỏng như sợi chỉ bàn tay
       
Vẫn biển một khối liền
Vẫn một gầm trời chung
Vẫn một em mây hồng lãng đãng
Mây cho ta nhắn gửi
Lời về thăm cố lý
…………………
(Xuân Và Biển Thiếu Quê Hương - Trần Hồng Châu)
 
Dù ở đâu, biển vẫn là một, vẫn là biển quê hương, bởi vì biển chỉ là “nối dài muôn trùng sóng”. Lòng đất mẹ luôn luôn là “ngọn lửa tiếp sức” cho kẻ xa quê hương mỗi khi ông nghĩ đến:
 
Biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hò khoan vẫn bắc cầu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ…
…………………………………….
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Như khi nhớ đến biển Đông, làm sao quên được hàng vạn thuyền nhân đã bị chôn vùi dưới lòng biển sâu khi vượt biên bằng thuyền, ông đành khóc cho biển, cho vạn linh hồn oan khiên :
 
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển Đông!
……………………….
dưới sâu vẫn vô vàn cánh tay
dằn dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiếp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc?
……………………..
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Ông dùng những từ ngữ thật tài tình để cho ta có thể hình dung một con sóng lớn kinh khủng, khi dâng lên cao như đỉnh Hy Mã Lạp Sơn và khi đập xuống sâu đến chín tầng địa ngục A Tỳ so với chiếc thuyền nhỏ bé mong manh của những người vượt biên chẳng khác gì một hạt cát trong sa mạc hay một giọt nước trong đại dương. Có lẽ những người đã từng đi biển mới cảm nhận được hết hình ảnh so sánh này:
 
…………..
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A Tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
……………………………………….
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Có ai nghĩ đến người thiếu nữ sống sót ngồi một mình với biển đêm trên đảo san hô, với bao nỗi sợ hãi nhưng vẫn phấn đấu để sống? Ông cho rằng người thiếu nữ đó thật can đảm và đáng được ông dựng tượng giữa muôn trùng sóng. Nhà thơ cảm thấy chúng ta có bổn phận phải “nói lên niềm đau dân tộc” và cho thế giới thấy quê hương chúng ta vẫn ngạo nghễ dầu dưới sự cai trị của một chủ nghĩa tàn bạo và phi nhân:
 
………………………………
người thiếu nữ trên đảo san hô
ta sẽ dựng tượng em
giữa muôn trùng sóng
hãy nói lên niềm đau dân tộc
hãy vẽ lên dáng đứng quê hương!
…………………………………
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Ông cầu mong sóng biển sẽ vỗ về và đưa oan hồn những người chết trên đường vượt biên, và cả những ván thuyền bị sóng đánh vỡ tan trôi giạt về cố hương:
 
Sóng hãy vỗ về
Mấy hồn người lạc lõng
Mấy ván thuyền đau buốt
Trôi giạt về bến xưa
……………………
(Xuân Và Biển Thiếu Quê Hương - Trần Hồng Châu)
 
Biển oan khiên, nhưng biển cũng tình tứ và thơ mộng. Em là biển và biển là em, anh với em như “hai cánh hoa thần thoại” bất diệt giữa lòng biển và giữa lòng người:
 
Em là biển trải rộng hiến dâng
Và cũng âm u mịt mùng với quá nhiều tuyến phòng ngự đa đoan
Biển là em, vui đấy rồi buồn đấy
Dịu dàng óng ả rồi phút chốc nổi cuồng phong
Sóng phập phòng như bé nhỏ trái tim em
Mắt em mộng mơ ngàn trùng biếc
Như chất biển lỏng đi về mù khơi
………………………………….
Đâu đây ánh thủy cung
Lung linh cành rong biển
Chúng ta vươn mình say
Hai cánh hoa thần thoại
Giữa lòng biển
Giữa lòng người mãi không già…
…………………………………….
(Buổi Chiều Đi Vào Lòng Biển - Trần Hồng Châu)
 
Màu xanh của biển là màu mắt em, hay màu xanh từ bầu trời cao phản chiếu vào mắt em?
 
Biển là mắt em xanh
Mắt em từ đỉnh trời cao xuống
Hay từ lòng biển dấy lên?
…………………………….
Làm sao có thể nhìn đáy mắt em
Trong võng mạc biển sâu màu trừu tượng
……………………………………………
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)
 
Nhưng rốt cuộc, trời và biển gom lại không đầy mắt em, có phải vì mắt em là cả vũ trụ trong đó?
………………………….
Tỉnh say anh lại thêm say
lênh đênh trời biển không đầy mắt em
………………………………………
(Sầu Đông Lá Úa - Trần Hồng Châu)
 
Chúng ta hãy nghe thi sĩ Trần Hồng Châu định nghĩa biển như thế nào?
 
Từ muôn kiếp sóng vẫn dạt dào tâm sự
Từ muôn kiếp sóng vẫn bạc đầu nhấp nhô
Biển là huynh đệ lòng người
Biển cũng có những bát ngát tư duy
Những ớn lạnh bắc cực và sôi nổi cuồng phong
Những vực thẳm tiềm thức
Những băng sơn và trầm thạch quanh co
Những lửng lơ hờn giận
Những lắng dịu ân cần
Như sớm chiều mưa nắng của tình yêu
Biển vươn lên mãi thủy triều dâng
Biển dâng cao nữa những sóng thần Hy Mã
Biển là hủy diệt và thể hiện triền miên
Biển nhập vũ hội trần gian
Nghiêng nghiêng chuyển mạch nước tràn gió mây
................................................................................
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)
 
Nói tóm lại, dưới cái nhìn thoải mái đầy lãng mạn nhưng thật sâu sắc của nhà thơ Trần Hồng Châu, không bị ràng buộc bởi những điều kiện nội tại hay ngoại tại, biển là tất cả: biển là tình huynh đệ, là bát ngát tư duy, là sôi nổi cuồng phong, biển là em vui đấy rồi buồn đấy, khi hờn giận khi ân cần v.v…, biển là sự hiện hữu vô cùng nhưng cũng thể hiện sự hủy diệt triền miên như nước và sóng vậy. Phải chăng đó là những cái làm cho nhà thơ yêu biển hơn cả những người đã một thời đi biển?
 
Tôi mở rộng vòng tay
Ghì ôm biển vào lòng
Ngủ ngon đi nhé biển tuyệt vời!
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)

 
CHÁNH MINH
Orange, CA 18-09-2009


Nguồn : http://phusaonline.free.fr/ButViet/TacGiaKhac/69_BientrongthoTHC.htm
 

No comments:

Post a Comment