Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 6 June 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 469

Wednesday, May 24, 2017



TRẦN NGỌC BÌNH * TÙ VƯỢT NGỤC

Truyện về người tù cải tạo vượt ngục

18 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 835)

-Bộ anh C. đau hay sao mà anh đi thay thế vậy kìa!

Tuy mới chỉ sống với chế độ “người dò xét người” có 3 năm thôi, nhưng anh đội phó quả là nhạy bén vì đã tạo được thói quen như người dân miền Bắc khi phải sống trong cái xã hội “đỉnh cao của sự người dò xét người” trong đó mỗi người dân trước khi nói điều gì đều phải trông trước trông sau xem có người thứ ba nào đó ở gần hay không vì sợ người thứ ba quá “tiến bộ” sẽ đi báo cáo mình thì phiền, nên khi thấy không ai ở gần bèn nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:
- C. trốn trại rồi.
Nghe đến đây, tự nhiên tôi mường tượng đến đôi cách chim tung trời tim đường đến tự do mà lòng thầm mơ ước mình cũng có dịp may như người bạn tù của mình nay đã vỗ cánh bay cao, bay xa tít về cuối chân trời, thoát ly được gông cùm xiềng xích nơi ngục tù tăm tối. Vì tự ngàn xưa và chắc chắn là cho đến ngàn sau thì cái chân lý rất đơn giản mà ai ai cũng phải công nhận là đúng, là không sai chạy dù một ly, đã được diễn tả trong câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày trong tù thì bằng cả ngàn năm ở ngoài).
Kể từ hôm đó, những anh em tù chúng tôi sau khi bị xúc động về việc này, có bàn ra tán vào thì cũng chỉ rỉ tai nhau rồi đâu lại vào đấy, lại lao động triền miên cho đến mệt lử, chiều về ăn chén cơm tù độn khoai, hay sắn hoặc cái “chuông xe đạp mỏng teng” (đây là chữ anh em dùng để chỉ chiếc bánh mì luộc) rồi lên “chuồng” cố dỗ giấc ngủ cho qua cơn đói để rồi sáng mai lại trở lại kiếp tù lao động khổ sai không án nên chẳng biết ngày nào “tung cách chim tìm về tổ ấm” để gặp lại những người thân trong gia đình để “cho bõ lúc sầu xa cách nhớ”.
Kiếp tù đầy cứ lặng lẽ trôi qua và lời của bản nhạc ngày xưa tự nhiên lại trở về trong ký ức trong đêm trường nỉ non tiếng côn trùng:
Ngày nào gặp nhau, yêu nhau rồi sống bên nhau
Những tưởng dài lâu như trăng như sao cho đến bạc đầu
Nào ngờ giờ đây ta ly tan giữa cơn lạc loài
Giữa chốn u mê đêm đêm một người nhớ thương một người
Phải chăng “giữa chốn u mê” mà tác giả muốn nói tới ở đây hay là đã “tiên tri” được đó là chốn lao tù, mà quả thật thế, chốn lao tù cho dù đã được ngụy trang là “Trại Cải Tạo” thì bản chất vẫn không thay đổi, đâu có đánh lừa được ai, ngay cả đến con nít cũng thắc mắc khi được mẹ cho biết là: “Ba đi học tập” thì bé đã hỏi lại mẹ: “Ủa, sao đi học lâu quá vậy, sao không về nhà?”. Vào thời kỳ đó và ngay cả cho đến bây giờ, dù cho ở “trong” hay “ngoài” thì chỉ khác nhau ở chỗ tù lớn hay tù nhỏ mà thôi. Chả thế mà ca sĩ kiêm nhạc sĩ TVT đã chẳng phát biểu khi vượt thoát đến được bến bờ tự do: “Ở trong nước cái cột đèn, nếu nó đi được, nó cũng đi.” để nói về tâm trạng của người dân Miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 75 đó sao.
Một thời gian sau đó, một cán bộ trong trại răn đe:
-Các anh đừng tưởng trốn trại mà không bị bắt lại là lầm to.
Thế nhưng sau lời răn đe đó, chúng tôi thấy anh C. vẫn là “bóng chim tăm cá” và ai ai trong đám anh em tù cũng cho là Trại chỉ hăm he để chúng tôi khỏi noi theo tấm gương vĩ đại của anh C. mà thôi chứ anh C. đã thật sự tung cánh về miền tự do rồi.
Nhưng, lại chữ “nhưng” quái ác vẫn thường trở lại làm tiêu tan giấc mộng đẹp trong đời sống bình thường của chúng tôi, riêng tôi cứ mở to mắt nhìn mà cứ tưởng như mình ngủ mê vì trong đám tù chúng tôi di chuyển về Trại Nam Hà vào cuối năm 78, hôm đó có anh C. bị “mợ Tám” khóa chặt một tay còn tay kia thì bị còng dính vào tay của một anh nữa, mà tôi không biết tên, anh này thì một cánh tay còn bị băng bột có lẽ bị gẫy hay sao đó, nghĩa là cứ hai người chung nhau một còng để mà hưởng cái hạnh phúc không độc lập mà cũng chẳng có tự do của người tù khốn khổ mỗi khi chuyển trại. Mãi về sau này, chúng tôi mới biết lý do sự chuyển trại là do Tàu sắp tấn công và xâm lăng Việt Nam như cha ông họ đã làm đối với dân tộc ta từ ngàn xưa vì đó là giấc mộng Đại Hán mà dân tộc họ luôn ấp ủ trong tâm khảm.
Trại tù nào cũng giống trại tù nào, khi đến trại mới lại “học tập” đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước, lại khai lý lịch và anh em chúng tôi không ai bảo ai, người nào cũng có một mẫu khai dự phòng nên lại lấy mẫu khai này rồi điền vào “ chỗ trống cho hợp nghĩa” thế là xong.
Một hôm, tại khu A ở trại tù Nam Hà, chúng tôi bị tập trung ra sân để nghe nói chuyện, người nói không xưng tên, chức vụ, đây vẫn là thói quen làm việc “ban đêm”, thói quen giấu diếm của những người làm những việc tự thấy là không chính trực mà thói quen này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, mà điển hình là khi họ ký hiệp ước dâng một phần “máu thịt” của mẹ Việt Nam cho kẻ thù truyền kiếp mà không dám công khai cho toàn dân biết và các thói quen này cũng đã nói lên cái bản chất coi thường, khinh rẻ người “chủ” của chế độ như Cộng Sản vẫn luôn luôn rêu rao để mị dân. Hắn ta chỉ nói là: Tàu xâm lăng Việt Nam và chúng ta đã bị thua đậm, thế thôi và nhấn mạnh, nếu cần, sẽ sử dụng khả năng sẵn có của “các anh” tức là của đám tù khốn khổ chúng tôi để “bảo vệ quê hương”. Cay đắng cho tụi tôi chưa, bị kết án đủ thứ tội nhưng không dám đưa chúng tôi ra xử công khai và giờ đây sau 4 năm tù thì được “người ta” cho biết là chúng tôi vẫn còn có một quê hương để mà bảo vệ.
Đọc đến đây chắc quý bạn đọc thân mến sẽ tự hỏi: “Ô hay cái ông này, chẳng thấy đâu là câu chuyện tù vượt trại gì hết, cứ thấy ông nói lòng nói vòng hoài à!”
Vâng, thưa quý vị, hình như càng lớn tuổi thì người ta càng tin vào thuyết định mệnh an bài mà ông Trời đã dành cho mỗi người:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Kiều.
Tôi, như trong câu Kiều nói trên, đã phải chịu “phong trần” từ năm 1979 là năm tôi biết được phần đầu của câu chuyện và mãi cho tới năm 1985 tức là 6 năm sau, khi có cái may mắn thoát chết vì bệnh phù thũng để rồi qua bao lần chuyển trại và có lẽ do định mệnh hay do ông Trời sắp xếp nên đã được nằm cạnh anh C. và mừng hết lớn, tôi không quên hỏi anh về câu chuyện trốn khỏi trại tù hồi đó.
Khi được hỏi, anh ra hiệu cho tôi ra khỏi buồng tù và sau đây là lời kể chuyện của anh.
Lúc ở trại Phong Quang, nơi đội Rau Xanh trồng rau thì lại gần lò gạch do tù hình sự đảm trách. Trong những lúc giải lao, thì tụi này thường hay ngồi cùng với mấy anh em tù hình sự, mới đầu thì hai bên còn giữ ý, sau một thời gian thì điếu thuốc qua, bi thuốc lào lại nên đã dần dần thu hẹp lại khoảng cách biệt và từ đó trong câu chuyện đã có sự thân mật dẫn đến sự trao đổi tâm tình.
Tù hình sự phần đông là những người nghèo khổ, giáo dục gia đình hầu như không nên đa số ăn nói lỗ mãng, mở miệng là các loại “ hỏa tiễn made in North Viet Nam” như đ...m..., đ....b... bay ra ầm ầm, làm choáng váng người nghe, phải nói như vậy là để thấy sự sa đọa về giáo dục, về con người của “xã hội chủ nghĩa Miền Bắc”; vì khi bị giam chung với tù hình sự Miền Nam ở Long Giao những anh em tù này tuy là hình sự nhưng tôi không bao giờ thấy các anh em này sử dụng các loại “hỏa tiễn” nói trên. Câu nói của họ khi tiếp xúc với chúng tôi luôn luôn tỏ ra có sự trân trọng và tỏ ra rất lễ độ, và mỗi lần trông thấy anh em chúng tôi ở phía xa xa là không ai bảo, họ đều chào to bằng câu là “Đại bàng gẫy cánh se sẻ cụt đuôi” và trong cung cách vẫn tỏ ra có sự thương mến tụi tôi tuy rằng chúng tôi là những người thất thế.
Các cán bộ Cộng Sản, khi thuyết giảng vẫn thường rêu rao là Miền Nam đồi trụy có tới 300,000 đĩ điếm và trộm cắp đầy rẫy, cứ làm như là trong thiên đường của Cộng Sản là thiên đường thật sự nên không có tù hình sự ! Thế thì các trại tù như Phong Quang, Nam Hà và còn biết bao nhiêu nữa ở Miền Bắc chắc là để nhốt muỗi hay sao đây!
Trong số các anh em tù hình sự đó, tôi để ý thấy một anh rất ít nói, nét mặt lúc nào cũng đăm chiêu, tư lự, lân la tôi làm quen, ngay từ lời nói đầu tiên, tôi giật mình vì nhận ra anh ấy là người Quãng Ngãi, cùng quê với tôi, và cứ mỗi ngày một chút dần dần hai chúng tôi hiểu nhau nhiều hơn và một khám phá nữa càng làm tôi giật mình hơn nữa, không những cùng tỉnh mà còn cùng làng nữa, vì khi nhắc đến những bậc vai vế trong làng thì cả anh ấy và tôi đều cùng biết rõ như là bàn tay có 5 ngón!
Cho đến một hôm, khi tình bạn đã đậm nét thì chúng tôi lại khám phá thêm ra là chúng tôi còn có họ hàng xa nữa. Đến đây thì, anh TTB, ta cứ gọi tắt là B. cho tiện, mới tiết lộ:
“Trung Quốc và Việt Nam không thuận, có muốn vượt trại không?”
Tôi hỏi lại B:
“Vượt trại thì được rồi nhưng còn gia đình B thì sao?”
Đến đây B. mới cho biết, trước khi bị tù, anh ta làm ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Đông Đức, mỗi khi có cuộc họp báo hay biến cố quan trọng nào ở Tây Bá Linh thì đều phải tham dự và viết báo cáo gởi về Việt Na. Đi cùng có 2 người nữa, và mỗi người đều có một khẩu súng lục với chỉ thị nếu ai định đào tị sang Thế Giới Tự Do thì khẩu súng sẽ làm nhiệm vụ của nó, nói nôm na là phải thanh toán, phải giết người vì người đó đã bị “nọc độc của chế độ tư bản” làm hư hỏng và lần nào cũng vậy, cả ba phải canh chừng lẫn nhau, dĩ nhiên trong 3 người thì B là chính còn 2 người kia là “cai tù” tuy rằng điều này không ai nói cho biết.
Cho đến một hôm, Tòa Đại Sứ nhận được công điện của Bộ Ngoại Giao trao tặng cho B. một huân chương vì những thành quả đạt được và triệu hồi B. về nước để nhận, dĩ nhiên Ông Đại Sứ rất mừng và cho làm tiệc tiễn hành một nhân viên xuất sắc dưới quyền khiến ông được thơm lây theo như phong tục của người Việt ta.
Khi về tới nơi, anh ta mới bật ngửa vì chỉ thấy Công An “dàn chào” cẩn thận không cho gặp mặt vợ con dù chỉ là 1 phút và đưa vào trại tù ngay lập tức với lý do trong những bài viết gởi về, “người ta” đã khám phá ra là B. đã manh nha những tư tưởng phản động, chỉ “manh nha” thôi, chứ không có bằng chứng gì là phạm tội đâu nhé mà đã bị kết án rồi, không cần tòa án xét xử dù cho chỉ có hình thức thôi, vì tòa án cũng là của Đảng mà.
Tới đây thì mình mới hiểu thật rõ câu “độc tài Đảng trị” ghê gớm như thế nào, vì nếu có cách gì mà Đảng “nắm” được không khí thì chắc chắn là Đảng sẽ chẳng ngại ngần gì mà không phân phối để nắm chặt thêm quyền thống trị hơn nữa như là Đảng đã từng làm với chế độ tem phiếu. Bị tù rồi, thì mới thấy ở nước ta trong chế độ Cộng Sản, dù đêm hay ngày thì người “chủ” chỉ thấy có ban đêm mà thôi mà là đêm không cùng, chừng nào mà cái chế độ tàn ác này còn tồn tại, trong khi đó thì “tớ” mới có cả ngày lẫn đêm để tìm tòi, suy nghĩ tùy nghi sử dụng bàn tay sinh sát của mình để làm tình làm tội và bóc lột “chủ”, xua “chủ” đi giải phóng miền Nam để chết thay cho “tớ”!
“Còn vợ của tôi ư, hiện nay bà ấy đang dạy học ở Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, thế nhưng bị kết tội như tôi, nhất là tội về “tư tưởng”, thì kể như tiêu tán đường rồi và mình nên kiếm chước “tẩu vi thượng sách” là hơn và cứ coi như mình hay vợ mình đã chết thì mình mới dễ dàng quyết định. Đây là dịp để mình thử thời vận như các cụ ta vẫn thường nói: “Được ăn cả, ngã về không”, vả lại, đời tôi kể như bỏ rồi!”
Kế đến anh nói một câu gở miệng:
“Đằng nào cũng chết, không chết trước thì cũng chết sau mà”.
Rồi như một thi sĩ chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, B. , tằng hắng lấy giọng rồi ngâm khe khẽ:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tới
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”
Như vậy, đối với B. thì đã xong, ngoài ra tôi còn rủ thêm được người bạn thân của tôi là Th. T/N. cùng tôi trốn trại nữa, N. là bạn thân của tôi từ hồi nào đến giờ. Là người trầm tĩnh, kín đáo, N. rất dè dặt từng lời nói do đó mới có thể bảo mật được kế hoạch trốn trại vì người Pháp đã chẳng có câu: “Sự bí mật của hai người là sự bí mật của tất cả mọi người” đó sao và đúng như sự đánh giá của tôi, N. quả thật đã không phụ sự kỳ vọng mà tôi tin tưởng nơi anh.
Việc nhín chút cơm, chút muối thì B. lo, cho đến ngày đã định, chúng tôi kiếm cớ vào rừng lấy củi về nấu nước cho anh em rồi dông một mạch. Vì tù đông nên mỗi đội khoảng từ 35 đến 40 người được cấp phát một đôi thùng để nấu nước uống phát cho anh em ngay tại hiện trường lao động, còn nhà bếp của Trại chỉ lo việc ẩm thực mà thôi.
Cứ ngày nghỉ đêm đi, vì nếu đi ban ngày dân thấy thì bị lộ, chẳng bao lâu thì đã đến con sông phân chia ranh giới hai nước vì trại tù Phong Quang chỉ cách Trung Quốc có 16 cây số đường chim bay mà thôi.
Tới được nơi đây thì cả ba đã quá mệt mỏi, nên sau khi thảo luận tất cả đều đồng ý là hãy nghỉ cho khỏe rồi lúc mát trời vào lúc xế chiều sẽ đốn chuối làm bè qua sông, tự do đã ở trong tầm tay chỉ với ra là nắm, là bắt được liền vì nhìn qua phía bờ bên kia chúng tôi đã thấy một vài người Hoa đang làm ruộng đầu đội nón rộng vành ờ phía xa xa, và đó là sơ sót thật là đáng trách khiến về sau này chúng tôi cứ ân hận mãi. Thật là không có cái dại nào giống cái dại nào, cơ hội đã đến lại để vuột mất, y chang cái túi khôn của người Tây Phương đã được diễn tả trong câu: “Thời gian và cơ hội không chờ đợi ai cả”.
Sau khi đã quyết định như vậy rồi, chúng tôi mỗi người tìm một bụi cây rồi chui và ngủ, và vì quá mệt mỏi nên cả ba đều ngủ quên đến khi nghe tiếng chó sủa thì lúc đó trời đã tối đen, B. vội lao mình xuống sông nhưng không kịp nữa rồi, một tràng AK vang lên trong đêm trường tịch mịch và tiếp theo đó là một tràng AK nữa khi Th.TN. lao mình tiếp theo cùng với B. Riêng phần tôi, một con chó berger Đức ở đâu gầm gừ lao tới mõm đớp chặt ống quần khiến tôi không cục cựa gì được, một tên Công An chĩa súng AK vào ngay mặt tôi, miệng quát lên:
“Động đậy ông bắn chết bây giờ.”
Sau đó là màn đòn thù liên tiếp giáng xuống, khỏi cần nói cũng biết là thê thảm đến như thế nào rồi, riêng B. vì đạn trúng tim nên chết tại chỗ, còn N. thì đạn trúng cánh tay phải nên bị gẫy tay. Khi về đến trạm Công An biên phòng lại một trận đòn thù còn thê thảm hơn thế nữa khi họ khám phá ra là chúng tôi là tù trốn trại chứ không phải là những người buôn lậu.
Cuộc trốn trại không thành công nhưng tôi vẫn tự hào là tôi và những người cùng tham gia đã giữ được bí mật đến phút chót, đã qua mặt được đám cai tù chỉ có một điều ân hận là không biết cái chết của anh B. có được thông báo cho gia đình anh ấy không, chắc chắn là nếu có, thì họ cũng giấu nhẹm lý do anh ấy bị chết, vì đó là bản chất của họ.
Tôi tự an ủi là phần tinh anh của con người không bao giờ chết, chả thế mà trong Kiều có câu:
“Thác là thể phách, còn là tinh anh.”
Và chắc chắn là anh B. khi qua bên kia thế giới vĩnh hằng anh đã không còn điều gì ân hận vì phần tinh anh của anh giúp anh biết được là anh đã chết và chết như một con người tự do.
Sao Nam Trần Ngọc Bình.

PHẠM TIẾN NAM * HÀNH TRÌNH GIAN NAN




Tự Do Hành Trình Gian Nan

Phạm Tiến Nam
Tôi tên Phạm Hùng, bút hiệu Phạm Tiến Nam (trở về nước Nam, hoài bão lớn nhất trong đời tôi ). Sinh quán Bắc Ninh, vào Nam khi đất nước bị chia cắt, bỏ nước ra đi đến bến bờ tự do năm 1080, sau nhiều lần bị tù tội. Đến năm 12 tuổi tôi vẫn còn bị mù chữ ( sinh năm 1941, đến tuổi đi học thì quê huogn chinh chiến! Theo gia đình chạy giặc đến gần biên giới Hoa Việt. Trước năm 1975 tôi là giám đốc ngân hàng, giảng sư đại học. Định cư tại quận Cam từ năm 1981 đến nay, làm nghề tự do, tự học lấy bằng Master Of Business Administration, và sau đó hoàn tất học vị tiến sĩ Quản Trị Hành Chánh ( Doctor Of Business Administration ) Suốt tuổi trẻ, mò cua bắt ốc, mù chữ, những kinh nghiệm tránh pháo rất già dặn, hai lần bỏ xứ ra đi, tôi nhấn mạnh trong vài dòng tiểu sử này như một thông điệp đến những người trẻ sau tôi. 
Đến hải phận rồi, anh “nái” đi. Người tài công, cũng là chủ tàu – một thuyền đánh cá chưa đầy 12m chiều dài, chòng chành, ọp ẹp – niềm hãnh diện của hắn: Ghe ba “đầu bạc” (máy mạnh, có khả năng đi xa ). Hắn lui ra sau, tôi ra hiệu bảo hắn tiếp tục lái, “lấy 23 độ tây nam”, tôi nói. Tôi rùng mình nghe rờn rợn luồn vào sau gáy, chạy dọc sống lưng! Lần đầu tiên trong đời điều khiển Con thuyền, gần trăm sinh mạng nương tựa vào tôi. Từ Phước Tỉnh, hắn vào Sài Gòn cưới vợ thành thị. Do người bạn tù vượt biên môi giới, tôi quen được hắn, tôi loè hắn nói không ngượng mồm, rằng tôi học giỏi, nói tiếng Anh giỏi, giỏi nghề đi biển, hắn chỉ lái tới hải phận, sau đó mình tôi “bao dàn”, tới Mã ngay chóc. 
Tôi cố thuyết phục hắn cho chuyến đi này, vì đã nhiều lần tanh bành tù tội, hắn tin tôi lắm, còn cho bớt nửa cây vàng nữa, mỗi đầu người hắn lấy 3 cây. Hắn mười mấy năm “đi chã” (đánh cá ngoài khơi ), kinh nghiệm dầy dạn, còn tôi vừa mới học lóm được vài điều sơ đẳng từ đứa cháu học trường Hàng Hải Thương Thuyền, cháu dặn: “ Cậu lấy 23 độ tây nam khi tới hải phận quốc tế để đến Mã nếu đi từ Vũng Tầu, biển mình sâu chừng 60 fathom, tháng tư tây có gió Monsoon (gió nồm), trời tháng ba bà già đi biển mà cậu!” Hành trang mang theo của tôi còn cuộn dây dài gần 60 sải, có một cục sắt nhỏ ở đầu dây để dò nông sâu đáy biển, một ít lương khô, sắm cái ống nhòm và hai viên hỏa pháo. Đi hơn một ngày đường, người tài công reo lên: “Đến rồi, đến rồi”. Sao mà mau thế, tôi không tin hỏi hắn: “ tàu em chạy mấy hải lý một giờ?”. 
Hắn nhăn nhó lắc đầu cười hềnh hệch. Tôi móc trong túi ra cuộn dây, thả xuống biển, hết cả cuộn dây mà có cột cục sắt vẫn chưa đụng đáy. Tôi la lên thuyền quay lại hướng cũ. Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chính hắn hớt ha hớt hải la to, bảo rằng thuyền đang đi ngang qua Côn Đảo, mọi người nằm rạp xuống. Mấy thanh niên vội giăng lưới lên, giả làm thuyền đi đánh cá. Phải vài tiếng sau, núi đồi Côn Đảo mới mờ dần trong tầm mắt. Giã từ quê hương yêu dấu! Lúc ở nhà tôi vò đầu suy tính, đi Thái Lan thì gần, nhưng sợ hải tặc, bọn chúng tàn ác, qua Phi hay Nam Dương, phải vượt đại dương, đi Mã, chọn lựa sau cùng. Bốn ngày đêm đã qua, mịt mờ bờ bến, chỉ toàn nước trời mênh mông. Dầu đã cạn cùng với lương khô và nước uống. Đàn bà, trẻ con, người già yếu, rũ rượi la liệt ngổn ngang nằm trên mạn thuyền, vài ngày nữa mà không đến là chết cả thuyền. 
Vì công an theo dõi ngặt ngèo, sơ hở một tí là bị tóm ngay, nhiều người phải mang dầu đi chôn. Riêng tôi dặn hắn lấy ruột tượng đựng lương khô, bỏ dầu vào bao nylon, quấn ngang người, tải từ từ lên ghe, ròng rã nhiều thàng trời mới mang được chừng năm ngày dầu. Biển lặng, có gió nồm thổi xuôi Nam. Xa xa có một con tàu, lấy ống nhòm ra chỉ thấy được một khoảng cách vài thước, bèn bắn pháo báo nguy, pháo xịt cả hai viên! Tàu lại gần hơn, mọi người vẫy tay khẩn nài. Những cánh tay rã rời buông xuống, tiếng kêu tuyệt vọng dâng lên, tàu hải tặc đụng vào mạn thuyền chúng tôi, mấy tên đen ngòm, tóc xoăn, mắt trắng dã, mặt như quỷ dữ man rợ rợn người, quấn loại sà rông sắp tụt, lâm râm van vái, có tên còn lần tràng hạt! Sau màn cầu nguyện, chúng la hét, sấn sổ nhẩy qua ghe chúng tôi, mã tấu, súng dài bắn loạn xạ. 
Chúng lùa trai tráng vào góc thuyền, phụ nữ người già lùa vào một nơi. Chung nắn, bóp, xé quần xé áo, lột cả nịt ngực quần lót ra xem! Tháo nhẫn dựt giây chuyền, bứt bông tai, miệng hét, tay nắn, chân đạp, đồng bọn đứng gác lăm le nổ đạn. Chúng dùng dao rạch các túi hành lý, lục lọi tung toé, chọn những thứ gì có giá bỏ vào những túi lớn chúng mang theo. Sau đó quay sang đánh đập, khảo tra đám trai tráng. Không ai dám chống, trẻ nhỏ cũng im thin thít, ai nấy im lặng chờ những nhát chém lạnh như thép phậm vào sau gáy. Bỗng có chiếc thương thuyền đang tiến lại gần, bọn hải tặc lơ láo vội rút đi. Thương thuyền lướt qua, nhiều người quỳ xuống van lậy, xì xụp kêu gào, tế như tế sao! 
Chiếc thương thuyền vẫn lặng lẽ rẽ sóng, để lại sau lưng nhiều lọn sóng cao, thuyền con chúng tôi như muốn lật nhào, tiếng khóc òa lên, vật vã kêu gào, thần chết chập chờn lởn vởn! Gần năm ngày đêm ròng rã, chỉ toàn mênh mông biển rộng, biển xanh liền với chân trời. Mây vàng đỏ ối nơi cuối chân trời, có bầy hải âu bay lượn, người tài công reo lên, nói rằng thuyền đã gần đến bờ, hắn bỏ tay lái để chỉ cho mọi người nhìn rác rến trôi lềnh bềnh trên mặt biển. Tôi lấy cuộn dây trong túi thả xuống nước, một nắm dây vẫn nằm trong lòng bàn tay, mà đầu dây đã chạm đến đáy biển. 
Tôi lẩm bẩm “ba mươi fathom, đến thật rồi!” Tôi cho thuyền chạy hướng chính tây để đâm vào bờ, gần nửa đêm nhìn bằng mắt thường cũng thấy đất liền, ánh đèn lập loè, tử thần đã đi qua! Khôgn cặp thẳng bờ, tôi cho thuyền xuôi nam song song bờ biển, lánh xa vùng Bắc Mã có du kích Mã Cộng. Dự định vào đến bờ phải gặp ngay các cơ quan thiện nguyện và giới truyền thông, lọt vào tay bọn lính biên phòng, trước khi truyền thông biết là đại họa: Thuyền bị đục thủng, hút cạn hết dầu, cho tàu chiến kéo thuyền tị nạn ra khơi, chặt đứt dây. Nhiều thuyền đầy ắp người, bị kéo ra giữa khơi mùa biển động, rồi sau đó chẳng ai nghe gì về những con thuyền bạc mệnh ấy!
 Trời đã sáng nhìn rõ mặt người, dầu cũng hết, tôi cho thuyền vào bờ, thuyền cặp bãi cát của thành phố nghỉ mát Kuantan một buổi sáng đầu tháng 6 năm 1980, bãi vắng hoe, thành phố còn thiu thiu ngủ. Mọi người chạy ùa lên bãi cát, gặp ngay anh Mỹ đen, tôi khẩn nài nhờ anh giúp. Một lát sau anh quay trở lại cười báo tin vui rằng anh đã gọi được nhiều nhà báo, báo với cả Liên Hiệp Quốc, anh còn cho một cây thuốc lá Mã Stuf, ân cần dặn dò và chúc may mắn. 
Tôi ngậm ngùi xiết chặt tay anh. Chiếc thuyền cưu mang chúng tôi đã chìm hẳn, nếu không thì tôi cũng phải đục thủng nó, mọi người yên lòng: thuyền đã chìm, đã gặp được nhiều nhà báo, bọn Mã không dám đẩy chúng ta ra lại ngoài khơi. Mãi quá trưa quân đội mới tới, bốn tên lính Mã quân phục xộc xệch, đi dép nhựa, đeo súng săn, tay cầm gậy dài, hỏi chúng tôi ai là người trưởng đoàn, đập vào đầu tôi mấy hèo dằn mặt! Không đau đòn, nhưng đau lòng, tủi phận. Sau này trên đường đi định cư Hoa Kỳ, tôi được ghé Hồng Kông để đổi máy bay, bọn chúng tôi rách rưới. Mấy tên cảnh sát phi trường dùng dùi cui xua đuổi, hăm dọa đánh đập những ai đi ra khỏi chỗ ngồi qui định. Ai đã đưa dân tộc Việt nam đến tình cảnh khổ nhục này?
 Pulau Bidong là một hoang đảo ở giữa đại dương, rộng vài cây số vương, lởm chởm núi đá, mấy chục ngàn người chen chúc, dựng lều ven vách núi chui rúc, lúc cao điểm gần 60 ngàn người. Trước ngày tôi đến đảo vài tháng, thế giới đã phải kêu lên rằng “ có phép mầu, bệnh dịch mới không xảy ra”. Ban ngày người ta chen nhau đi như buổi chợ phiên, bụi mù mắt, nắng cháy da, tiếng ồn ào như vỡ chợ. Có những vùng đất trống, phân người và nước tiểu lầy lội lên đến mắt cá, ruồi nhặng vù vù bay kín trời, mùi hôi thối nồng nặc, nắng trưa khắc nghiệt tăng độ nồng, cơn gió nóng thổi qua, đẩy dội ngược lại đằng sau, những ai hít phải sặc sụa cúi gập người xuống ôm ngực. Chuột từng bầy, to bằng bắp chân trẻ con, trụi lông, thân mình đỏ lòm lở lói, hai cục hạch to bằng hai viên sỏi, khệnh khạng di chuyển chậm chạp lền khên, nhìn thấy lần đầu nhiều người nôn mửa! Dọc theo con suối cạn, xác chuột nằm rải rác kín hai bên bờ, đi hứng nước tắm phải khéo lắm mới không dẫm phải xác chuột đã sưng vù. 
Hằng ngày nhiều thanh niên đi nhặt xác chuột bốn năm cần xế bự đầy vun tới bốn năm thanh niên lực lưỡng khiêng mới nổi. Trong trại, những băng đảng nổi lên cướp bóc, hãm hiếp, mãi sau nhờ lính Mã tăng viện mới dẹp được. Những tranh giành lều chiếu, nơi ở tiện nghi, rồi nào tham ô, những lạm với những đổi chác để mong sớm được rời đảo. Có chợ mọc lên buôn bán, hàng hóa lính Mỹ đem qua từ đất liền, tiệm ăn, quán cà phê mọc lên ven bãi cát. Những máy tàu cải chế thành máy phát điện, gạo tẻ và khí đá chế thành rượu để uống say mèm quên đời lưu vong. Thời gian tạm trú trên đảo thường thì trên dưới một năm, một năm cũng là dài đăng đẳng! Những cuộc tình vội vàng, chắp nối nở rộ. Lộng ngôn mới gọi đó là những cuộc tình, thật ra chỉ là những chung đụng thân xác, được vài ba tháng thì lại chia tay nhau, mỗi người đều có phận riêng.
 Thuốc ngừa thai được Liên Hiệp Quốc phát không rộng rãi. Thế nhưng vẫn có tiêng khóc chào đời, tiếng khóc dư thừa ngoài mong đợi. Chưa kể những thai nhi bị xóa đi dấu vết sau “những cuộc tình trên đảo”... Ở Bidong tôi làm việc trong phòng điều tra tội ác hải tặc, tôi thường phỏng vấn đồng bào tị nạn khắp nơi dạt vào đảo, xin kể ra đây những cảnh Kinh hoàng, tất cả là sự thật, vì trí tưởng tượng của loài người không thể nào có thể dựng lên, dù chỉ bằng phần nhỏ, những chuyện tôi sắp kể... Có thuyền trôi dạt, đáp vào bờ cát Bidong, thuyền gần trăm người, chết còn mươi mạng, chết vì đói, chết vì khát, bị hải tặc chém đầu ném xác xuống biển cho cá dữ rỉa thây. 
Có thuyền bị cháy nám, lờ đờ trôi gần đảo, con thuyền ma không còn ai cầm lái, thanh niên Bidong chèo ghe ra kéo thuyền vào bờ cát, thuyền còn lại mươi người thoi thóp, nằm la liệt trên mạn thuyền, xác người ngổn ngang bốc mùi, có những bé thơ chết hồn nhiên nằm ôm vú mẹ. Có bà mẹ được dìu xuống bến, vẫn ôm chặt đứa bé trong tay, bỗng òa lên khóc, đứa bé đã chết từ lâu, bà vật vã gào thét không ra tiếng khóc, bà vẫn mớm con bằng chính nước dãi của mình, bà vẫn lấy nước tiểu của con, vàng khè quánh đặc, để rửa kinh trong những ngày có tháng! Có mấy em gái khệnh khạng, áo quần tả tơi, bê bết vết máu đã khô đen, lờ đờ lảo đảo lên bờ trên cát, em chợt ngồi xuống ôm mặt thều thào gọi mẹ cah, em khóc không ra nước mắt. Lúc sau tỉnh lại, em gặp được mẹ được cha, được cả anh và cả thằng em trong đống xác người vừa mới được chuyển từ thuyền lên bãi cát, những cái xác tô hô nằm trên cát nắng thiêu người, không manh chiếc rách để liệm!
 Có mấy bé trai, vùng dậy sau khi được mớm sữa, bé chạy tung tăng đi tìm cha mẹ, những người từ tâm ôm em vào lòng dỗ dành bảo rằng em sẽ được gặp lại cha mẹ! Vài người sống xót chẳng hiểu vì sao mình hãy còn sống, nghẹn ngào kể lại chuyện đau buồn, hải tặc bắn xối xả vào thuyền, nhiều người đã bị chết ngay lúc đó, nhiếu người hốt hoảng nhảy xuống biển, mùa biển động cá dữ đói ăn, nghe mùi máu tanh kéo đến từng bầy, vẫy vùng giành nhau phanh thây xé xác, thịt xương, áo quần, ruôt gan lóng thòng, nổi lềnh bềnh trong vũng nước đỏ ngầu, chỉ trong khoảng khắc bầy cá dữ tha đi hết thịt xương, để lại đại dương một vùng nước đỏ ngòm. Bắn xong chúng nhẩy qua thuyền, chém loạn cuồng, mã tấu bửa xuống đầu, chẻ lên vai, phạm ngang lưng, đâm vào bụng, ruột lòi ra lóng thòng trắng hếu! Máu đỏ từng vòi phun tung toé. 
Tay chém, miệng gầm, áp đảo xong chúng bắt đầu cướp, lùa đàn bà con gái xuống khoang thuyền, những thân gái bị quăng quật, xé nát áo quần. Bọn chúng dành nhau những thân gái yếu đuối! Những xác thân trần truồng quì xuống van lậy, chúng vẫn cười đùa chẳng tha, nhiều cô nằm thoi thóp, chúng lấy dao chích máu, rạch đùi, cắt đầu nhũ hoa, đam vào hạ bộ cười hô hố. Trước khi bỏ đi còn mang theo vài người nhan sắc, đem bán cho những thanh lâu, hay đem đến một cái hải đảo hoang vu nơi có sào huyệt của bọn chúng, nhốt ở đó để thỉnh thoảng ghé vào hành hạ, chán chường thì đem đi bán, hoặc bỏ trôi trên biển, khi chúng cướp thêm được gái mới. 
Báo chí có loan tin, vài cô trốn được kể lại những chuyện thương tâm. Hải tặc thường đâm thủng thuyền, đốt phá, tạo kinh hoàng rồi cướp bóc, cướp tất cả giết nhiều người dù không chống cự, hiếp cả người già...Sau đó cho đánh đắm thuyền để phi tang, nhiều người may mắn dạt được vào bờ thác loạn thần kinh, ngập ngừng không trả lời câu hỏi rằng đã có ăn thịt người chết để sống không? Không chắc...vì trong cơn thoi thóp có người mớm cho ăn, cũng chả hiểu tại sao còn sống được! Có những thiếu phụ mất tất cả chồng con, ôm trong lòng cái thai oan nghiệt. Có những ông chồng còn lại một mình lầm lủi. 
Những em nhỏ côi cút nước mắt chưa khô không còn ược sống hồn nhiên, có những bé trai khôi ngô mắt sáng sống đời ám ảnh cảnh mẹ, cảnh chi  bị dày vò, có những em gái đẹp hiền dễ thương, sớm bị đọa đày sống đời buông thả. Ít có gia đình còn được đầy đủ, dọc đường mất mát. Hay lúc ra đi không thể đi chung phải phân tán nhỏ để lỡ có bề nào còn chỗ nương tựa. Bên cạnh những buông thả cuồng loạn, cũng còn những thủy chung,mực thước, đời sống đơn sơ đạm bạc, nhìn về tương lai. Bidong được chia ra làm nhiều nơi cư trú. Khu C có bãi cát vàng, nổi lên những quán cà phê, cuối bãi có ngọn núi trọc, nơi an nghỉ sau cùng của những người chưa tìm được tự do đã vội đi vào lòng đất, nơi đây cũng là nơi an nghỉ của những cái chết đau thương. Bidong trước ngày đóng cửa vĩnh viễn đã là nơi xẩy ra những cuộc biểu tình đẫm máu của những người bị cướp đi quyền tị nạn, có nhiều người đã tự mổ bụng mình hoặc tẩm dầu thiêu rụi xác thân cháy như ngọn đuốc tự do, quyết không trở lại quê hương ngục tù.
 Có nhiều trăm ngàn người đã bỏ xác trên biển đông, cũng có hàng trăm ngàn người đã chịu nhục nhằn, nhưng cả triệu người không chùn bước lũ lượt ra đi, triệu người muôn đời không phủ nhận quê hương, muôn đời hãnh diện tổ quốc, tự hào dân tộc. Chúng tôi chỉ phủ định chế độ nên chúng tôi ra đi, coi nhẹ nguy hiểm, khinh thường cái chết, lánh xa bạo quyền. Mảnh đất tạm dung sẽ đến nếu là hoang vu cằn cỗi, nếu là sa mạc buồn tênh, liệu có triệu người bất kể sinh mạng liều chết ra đi? Tự do chất chứa cái quyền được sống là người, nhân quyền ấp ủ cuộc sống no lành. Đường đi tới tự do gian nan, phủ đầy máu lệ, thịt xương vương vãi dọc đường. Những gì thuyền nhân Việt nam đã trải qua chưa một lần xảy ra trong nhiều nghìn năm lịch sử loài người. ::: Phạm Tiến Nam:::

NGUYỄN VĂN SÂM * TRƯỜNG PETRUS KY




Lycée Petrus Ky 1954
Nguyễn Văn Sâm

Vì theo gia đình di chuyển nhiều lần trong chiến cuộc, tôi học lớp Nhứt 4 (lớp 5) tại trường Tiểu học Trương Minh Ký niên khóa 1953-54 khi đã 13 tuổi. Trường tọa lạc ở góc đường Kitchener và Galliéni, nay là trường Nguyễn Thái Học cũng ở góc đó nhưng tên đường đã thay đổi:  Nguyễn Thái Học và Trần Hưng Đạo, Saigon.
Những ngày cuối năm, thầy Đại nói trong lớp vài ba lần: ‘Cả lớp nầy tao thấy không có đứa nào đậu vô trường Petrus Ký được hết, đứa nào đậu về đây tao thưởng, muốn gì được nấy!’ Là một trong ba đứa giỏi nhứt lớp lúc đó, nghe thầy nói thì nghe, không biết bạn bè cùng lớp thì sao, chứ tôi không có ý kiến gì. Ừ thi thì thi chứ biết làm gì khác hơn? Anh Thơm tôi đã đậu năm trước. Con đường đi đã sẵn thì phải đi thôi, cũng không biết là có trường nào khác dễ đậu hơn hay không vì nhà tôi chẳng có đàn ông để biết chuyện ngoài xã hội, bỏ thí hai anh em tôi cho trời đất, nghe ai xúi biểu gì thấy phải phải thì làm, may nhờ rủi chịu.
Khi có giấy báo danh tôi phải tự mình đi trước nhiều lần cho quen đường đề phòng trễ giờ ngày thi. Sáng sớm đi bộ từ nơi đương ở là cái quán nho nhỏ bán đồ bazaar của cô tôi ở góc đường Quai de Belgique (nay là Bến Chương Dương)  và Yersin, theo đường Yersin ra tới đường Galliéni. Năm đó có sự kiện đất nước bị chia hai và có sự người Bắc di cư vào Nam. Một số được cho tạm trú  tại trường Trương Minh Ký. Mặc dầu đi đâu, khi ngang trường cũ, ngó vô cảnh tượng nhộn nhịp, thế nào tôi cũng bước vô cửa nhìn ngó vì thấy những người mới tới lạ trong cách nói và giọng nói. Ngó chán thì thằng nhỏ  băng qua lộ đón xe autobus đi tới trạm Nancy xuống để quẹo mặt vô đường Nancy (nay là đường Nguyễn Văn Cừ) lội bộ tới trường.
Khoảng đường nầy, độ chừng hai cây số, với con trai tuổi 14 thì không xa lắm, đường rộng, hai bên đường có hàng cây dầu mát mẻ. Thỉnh thoảng có vài cái ao nho nhỏ. Có lần đi về trễ, mặt trời xuống thấp mau, tiếng ếch nhái hòa nhạc đã bắt đầu, khiến thằng bé bước dồn lẹ chưn hơn.
Nhớ là thi ba buổi: Luận văn, Câu hỏi thường thức và Toán. Mỗi môn có hệ số của nó, nhưng môn Toán có hệ số lớn nhứt.
Luận văn thì làm dễ dàng vì từ lúc biết chữ cho tới lúc đi thi tôi ngốn hết cả trăm quyển tiểu thuyết tiền chiến, Tự Lực Văn Đoàn và gần như thuộc lòng hầu hết các câu chuyện trong mấy bộ truyện Tàu của nhà xuất bản Tín Đức Thư Xã ở đường Sabourin (sau nầy là Tạ Thu Thâu) vì cái sạp của cô tôi có bán thơ truyện. Thêm nữa, trong khi học lớp Nhứt, tôi thuờng tới nhà thằng Trang mượn nhiều tiểu thuyết ở ngoài tiệm không có bán vì gia đình ba nó giàu, trước chiến tranh đã mua sách thẳng từ Hà Nội.
Câu hỏi thường thức và Sử ký Địa lý thì tôi trả lời theo cách của mình, viết câu văn của mình, theo lời thầy Đại dạy: ‘Tụi bây ráng học cho hiểu rồi theo đó mà viết, đừng học thuộc lòng mà trả lời theo sách. Giám khảo cả ngày đã chấm cả mấy trăm bài, chán tới bản họng nên cho điểm sàng sàng không lớn dầu mầy làm trúng một trăm phần trăm, gặp bài thằng nào viết đúng mà giọng văn riêng của nó thì hứng chí cho lớn điểm.’ Tôi cứ theo cái chỉ nam đó mà thực hiện, lại còn vẽ hình như đã làm trong các kỳ thi Lục Cá Nguyệt ở lớp mỗi khi bài cần hình vẽ con nầy con kia hoặc là hình dễ hơn nhưng có tính cách minh họa cho bài như hai cái thùng trong bình thông nhau, hay kiểu cất rượu để hơi rượu chạy qua lò so xoắn nhúng trong bồn nước lạnh…. Nhớ là hôm đó tôi có vẽ hình với sự hồi hộp giám khảo không coi đó là dấu hiệu để gian lận.
Bài Toán làm rồi kiểm tra ba bốn lần vẫn còn dư giờ, tôi ngồi ngó bâng quơ, liếc thấy thí sinh kế bên trả lời , nay kêu làđáp số, khác mình thì dò lại lần nữa, thấy mình đúng thì quyết định đưa bài cho giám thị với câu an ủi trong lòng. Nó trúng thì nó đậu, mình trúng thì mình đậu. Tuy nói vậy nhưng tôi tin tưởng là mình trúng vì đã dò đi dò lại nhiều lần, trước khi trao cho giám khảo còn đứng xớ rớ dò tới dò lui lần chót. Thường thì loại Toán miếng đất hình chữ nhựt bề dài… bề ngang… bốn góc có cắt ra bốn hình chữ nhựt nhỏ cho người khác. Còn lại thì rào, tiền rào mỗi thước là… Hỏi tốn bao nhiêu tiền hàng rào… Nếu cần thì thêm câu hỏi giá mua mỗi mét vuông là... thì tất cả phải mất bao nhiêu tiền. Kiểu nầy tôi vẽ hình ra cho lớn thì thấy rõ ràng. Một trong cái khó là phải làm toán nhơn với số lẻ, làm xong sau khi thử bằng số 9, còn phải làm lại lần nữa coi có giống không mới chắc ăn vì thử bằng số chín mau mà có thể sai.
Hơn sáu chục năm qua, không còn nhớ mấy bài thi tuyển năm đó thế nào, dầu sao cũng tương tợ như trong chương trình lớp Nhứt đã học.
Trường báo tin sẽ có kết quả ngày đó tháng đó, nhưng một tuần trước tôi nóng lòng đã đi tới trường cầu may coi có công bố kết quả chưa. Vậy mà đã có sớm. Thấy tên mình đậu thứ 119 trong số 400 học sinh được chọn, với sỉ số hơn bốn ngàn. Tôi mừng quá, khi xuống xe autobus thì chạy u liền về báo tin lung tung cho mọi người. Rồi cả tuần nầy mỗi ngày tôi đều lên trường coi cái bảng phong thần kia còn hay mất, sợ rằng người ta làm lộn gì đó, lấy vô sửa lại không có tên mình thì ‘chết cha’, hút gió không kêu. Thêm nữa, cũng sợ cái bảng đó không phải bảng kết quả.
May quá đâu vẫn còn đó. Chỉ có điều là nhiều tên có viết nguyên tử quẹt tới quẹt lui do ai đó thò viết vô lỗ lưới gạch dưới tên con em của mình.
Vậy mà tới ngày  chánh thức có kết quả, tôi cũng tới, chen lấn coi bảng như mọi người khác, cũng bị người lớn ép gần ngộp thở để vô cho được hàng trong cùng trình diện cái bảng. Nó nằm đó, giống y chang bao lần mình dò trước đây. Vậy là chắc ăn không còn lo sợ gì nữa.
Rồi cô tôi sắm cho quần Tây dài, giày sandale da do người thợ giày quen ngồi ở góc đường trước tiệm chụp hình Phong Lai gần cầu Ông Lãnh đóng theo ni chưn, dưới đế còn được tăng cường thêm miếng sắt, người thợ nói để cho gót da khỏi bị mòn. Giày mới đi nghe lộp bộp oai vệ như người lớn khi đi làm với nón nỉ, cặp da. Cô tôi nhắc đi hớt tóc. Cho tiền  mua cái đồng hồi cũ o lại của ông thợ sửa đồng hồ trước tiệm nước của chú ba tàu mập chuyên môn bận áo thun ba lỗ và quần xà lỏn lòi rún. Chưa tới ngày đi học nhưng được đeo đồng hồ lần đầu tiên tôi lâu lâu ngó xuống cườm tay mình ra điều hãnh diện.
Đi học trường nhỏ, học trò ăn bận lôi thôi… vô trường lớn, phải bận quần xanh áo trắng bỏ vô quần, chúng tôi thấy mình đã lớn. Lại còn có phù hiệu bằng sắt, lúc đó kêu là ensigne, đeo lên túi áo, tưởng chừng như con gái cùng lứa thế nào cũng ngó trầm trồ.
Tôi được xếp vô lớp Đệ Thất G, trong đó có trò Nguyễn Tuấn Anh đậu vô hạng nhứt. Nghe nói anh ta đậu hạng nhứt tôi nể quá, chắc là mình không theo kịp, phải cố gắng tối đa.  Học chung với nhiều bạn rất dễ mến như Châu Thành Tích, anh nầy học có một năm thôi, vậy mà sau nầy lớn lên gặp nhau ở CA, qua phôn, hai đứa nói chuyện xưa mệt nghỉ. Thằng Khâm rất dễ mến vì nói năng nhỏ nhẹ trong khi nó lớn con đen bóng vì tập tạ và chơi đá banh cả năm trước. Sau nầy Khâm làm thầy giáo, bị động viên sau Tết Mậu Thân rồi mất không lâu sau đó. Thằng Quách Văn Thành ngồi kế bên 2 năm liền, đã có vẻ người lớn trong khi đa phần chúng tôi còn tánh tình con nít. 
Tiếc là ra đời chỉ gặp lại có một lần ở tỉnh lẻ miền Tây rồi không bao giờ gặp lại nữa. Còn nhiều đứa nữa: Trí bớt, hiện ở CA, Trí Đinh làm luật sư ở Sàigòn, Lễ cây xăng sau nầy phát nguyện tu hành, Nam cao, Mẫn chị Hai, Hàn Minh Đức, Lê Cảnh Tuệ tất cả sau nầy cũng đều thành đạt, ra đời có chức vị nhưng không bị tai tiếng gì…… Sang năm thứ hai, lớp Đệ Lục G thì có đứa bạn, thằng Mai T. Tr., cái tên lạ lùng mà dễ nhớ, đã cùng học chung lớp ở trường Trương Minh Ký được tuyển vô lớp Đệ Lục. Bạn bè trước ở trường nhỏ, gặp nhau ở trường mới thiệt là hạnh ngộ. Chúng tôi gắn bó từ đó. Ra đời cùng làm nghề giáo ở Sàigòn, liên hệ với nhau thường, qua Mỹ gặp nhau lại, giao tình như ngày cũ.
Năm học bắt đầu với những vị thầy mà chức vụ kêu là Giáo Sư, mỗi Giáo Sư phụ trách một hay hai môn, tới giờ thì đi tới lớp mình phụ trách. Học trò thì ở nguyên trong lớp đợi sẵn. Điều nầy rất lạ đối với học trò  Tiểu học mới lên như tôi. Còn nhớ Anh Văn thầy Nguyễn Văn Thái cao, ốm đen, răng hô, nói nhiều, bắt học trò phiên âm quốc tế mệt nghỉ, nhờ vậy mà sau nầy tôi phiên âm quốc tế rất chì. Một lần tôi gặp ái nữ của thầy đang sanh sống ở Orange County, cũng mừng! 
Sử Địa Bà Dung mặt thiệt nghiêm, không thấy cười bao giờ, học trò sợ xanh mặt khi bà đưa cây viết trên cuốn sổ điểm danh rà rà kêu tên, đứa nào chỉ con sông từ cửa biển vô là lãnh trứng vịt lộn, nghe đâu sau nầy bà định cư ở Canada và qua đời bên đấy. Cô Sâm trẻ trung, vui tánh, dạy Việt Văn, học trò đứa nào cũng thích. Sau nầy khi ở Mỹ về, tôi thường ghé thăm cô, rất đau lòng khi thấy người cô thần tượng của mình, cuối đời bệnh hoạn. Toán Giáo Sư Nguyễn Thạch dạy năm đó rồi năm sau ra làm huấn luyện viên Thể Dục, Vạn Vật Giáo Sư Trần Huệ, người thầy hiền mà sau nầy trên đường đời tôi có duyên được gặp trong nhiều giai đoạn. Nhận xét là các Giáo Sư đều dạy tận tâm, nếu có khắt khe là vì tương lai và lợi ích của học sinh chớ không vì gì khác.
Năm đó, tôi bày đặt mua báo Ciné Monde và Ciné Revue để coi hình tài tử thì ít mà dò coi có cô đầm trẻ nào thì viết thơ chơi correspondent. Cuối cùng cũng liên lạc được 2 cô trong 2, 3 năm gì đó, tới giờ già đầu rồi mà vẫn còn nhớ tên các nàng tuy rằng quên tuột tỉnh thành của họ. Lần nào thầy giám thị Phấn đi xuống, tay chấp sau đít có cầm cái bao thơ thì tôi run run vì mừng biết rằng mình sẽ có thơ từ tuốt bên trời Tây xa lắc lơ. Thầy Phấn lần nào đưa thơ cũng nói: ‘Học không lo học, thơ với từ.’ Mười hai năm sau, khi về dạy lại ở trường cũ, tôi chào kính các thầy cô xưa của mình, khi nhắc với thầy Phấn về chuyện thơ từ của mình thì thầy cười: ‘Nhớ chứ sao không nhớ, lúc đó Giáo Sư là một trong hai ba học sinh có thơ từ bên Pháp qua thường xuyên.’ Ôi thời trẻ sao mà ngông nghênh, dám đưa tay lên tính ngắt sao trời! Nói theo bây giờ: Yếu mà đòi ra gió!

Năm đó 1955, tháng ba, có trận đụng độ giữa quân đội của chánh phủ và quân đội Bình Xuyên.  Một đơn vị Bình Xuyên có tên là Công An Xung Phong đóng trong trường từ lâu. Một đơn vị Nùng tấn công để đuổi họđi. Chúng tôi học trò các lớp nhỏđương giờ học thì súng nổ lốp bốp điếc tai. Đứa nào đứa nầy sợ xanh mặt nhưng vẫn ngồi yên chờ sự chỉ dẫn của Giáo sưđương dạy. Chúng tôi đương học giờ Pháp Văn với thầy Phạm Văn Thới. Thầy từ tốn ra lịnh cho tất cả nằm xuống đất. Tất cả lẹ làng làm y theo nhưng đứa nào cũng lén liếc lên coi thầy làm gì. Thầy Thới ung dung đi qua đi lại trong phòng, hút thuốc, thỉnh thoảng bước ra ngoài hành lang nghe ngóng khi súng đã êm êm trước khi dứt hẳn.
Chúng tôi chưa từng nghe tiếng súng quá gần, đứa nào cũng phục thầy. Thầy bình tĩnh, giữ lớp thiệt kỷ luật, không có đứa nào chạy lộn xộn, không đứa nào khóc la. Thầy luôn miệng trấn an: ‘Mấy toi nằm xuống là đạn không trúng đâu, có lính vô đây moi sẽ đuổi họ ra.’ Mà hình như lớp nào cũng vậy, êm re, không nhốn nháo dầu chưa thực tập để biết phải làm sao trong tình huống nầy.
Vậy mà ban Giám Đốc trường đã làm nhiệm vụ mình tuyệt vời. Ông Hiệu Trưởng Phạm Văn Còn yêu cầu viên Đại Úy có trách nhiệm tấn công lúc đó ngừng bắn để cho tất cả học sinh ra về.  Chúng tôi lục đục ra lấy xe đạp về, vẫn là theo kỷ luật như mọi ngày chớ không chạy giành trước giành sau chen lấn gì hết.
Hôm sau đi học lại, tôi còn nhớ một xác chết đầy máu nằm trên hành lang bên tay trái, học trò đứa nào đi ngang cũng né. Và tượng ông Petrus Ký bị một viên đạn bắn vô má bên tay mặt, chúng tôi sau nầy thường nhắc lại với nhau với vẻ buồn buồn: ‘Chiến tranh cho ông học giả của chúng mình một đồng tiền trên má!’
Năm đầu tiên Trung Học, tôi có nhiều ấn tượng tốt với sự ngưỡng mộ các Giáo sư của mình, hỏi các bạn trong các lớp khác cũng có cảm tưởng y chang như vậy. Quí thầy chăm lo việc học của chúng tôi và tạo được tình thương cũng như sự kính nể của học trò. Hơn sáu mươi năm qua, bạn bè thất lạc, mất còn, quí thầy cũng đi về miền miên viễn hầu hết, nhưng hình ảnh trong tâm trí tôi, và chắc chắn các bạn khác, cũng vậy, không phai.
Tại sao vậy? Tôi nghĩ đó là truyền thống lâu đời của ngôi trường danh tiếng, ngôi trường đến nay đã ngót nghét một thế kỷ, đào tạo được nhiều người tài nặng lòng giúp nước thương dân.  Mà cũng nhờ truyền thống tương quan thầy trò ngày xưa. Một tương quan bên nầy thương, bên kia kính mà ngày nay hình như đương bị xói mòn.

TỪ THỊ CẢNH * NHỮNG MÙA XUÂN ĐÃ QUA

Những mùa xuân đã qua

Từ thị Cảnh
 


      Những cơn gió lạnh bắt đầu thổi về miền Nam Cali báo hiệu những ngày đông đang về trên xứ người. Mùa đông ở đây không lạnh lắm nhưng cũng đủ làm cho người viễn xứ cảm dâng một nỗi buồn man mác. Có đi xa mới nhớ nhiều về xứ sở, có xa quê mới da diết mong một ngày về. Chắc họ cũng như tôi đang chạnh nhớ về những ngày đầu xuân ở quê nhà. Chiều nay, khi ánh nắng vàng dần tắt, lòng tôi chợt nhớ lắm những mùa xuân đã qua trong cuộc đời mình…
…Cuối thập niên 1950, Miền Nam đã được 5 năm sống trong thanh bình. Nhà nhà bình yên, cuộc sống sung túc, nông dân được mùa, người thương gia có nhiều lợi tức. Mùa xuân đến với chúng tôi trong hạnh phúc ấm no. Tôi nhớ biết bao về những ngày xuân trên quê hương Bình Dương. Ngày Tết cũng là ngày mà tất cả mọi người đều hân hoan đón mừng mùa xuân mới. Từ sau ngày 23 tháng chạp âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời thì mọi nhà dù sang hay hèn, từ thôn quê đến thành thị ai nấy đều chuẩn bị sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc trong nhà. Bàn thờ phải được dọn dẹp sạch sẽ với bộ lư đồng chùi bóng loáng và được chưng trên bàn thờ bên cạnh những bông hoa và mâm ngũ quả để chuẩn bị đón rước ông bà về ăn Tết với gia đình. Đối với những người có người thân đã qua đời, các mồ mả phải được dẫy cỏ, sơn lại cho sạch sẽ trước ngày 30 Tết. Chợ hoa Bình Dương được mở ra ở bờ sông Bạch Đằng với hằng trăm chậu hoa mai, cúc, thược dược cùng khoe sắc với rất nhiều loại hoa khác, đẹp không làm sao kể xiết. Ngoài ra còn có rất nhiều loại trái cây được bày bán khắp nơi. Đó là những trái dưa hấu rất ngon, những trái bưởi, trái cam, trái thơm từ miền Tây mang lên. Chợ Tết lúc nào cũng đông đúc người đi, xe cộ qua lại.
    Ở nhà tôi và nhà ông ngoại ở kế bên, nhà cửa được sơn mới. Những cây mai đã được lặt lá từ hôm rằm, tới ngày 30 đã tròn nụ xanh biếc và chắc chắn sẽ nở bung vào đúng sáng ngày mùng một. Mọi nhà đều cúng giao thừa để mừng năm mới. Lúc đó những tràng pháo Tết được đốt lên dòn dã để xua đuổi tà ma, đón mừng xuân mới. Trên bàn thờ có đầy đủ bông hoa, trái cây, bánh mứt để cúng ông bà. Sau đó người ta rủ nhau đến chùa, nhà thờ để hái lộc đầu năm, đem về đặt lên bàn thờ với lòng mong ước một năm mới bình an trong gia đình. Sáng mùng một, con cháu mặc áo mới, chúc Tết ông bà cha mẹ và nhận được những phong bao lì xì màu đỏ thắm...
    Lúc tôi còn nhỏ, cũng như những đứa trẻ trong xóm, chúng tôi đều mong Tết mau đến để được mặc quần áo mới, được nhận tiền lì xì từ ông bà, cha mẹ, và bà con họ hàng gần xa. Ngoài ra, Tết còn là lúc bọn trẻ chúng tôi được vui chơi, đánh bài... Vui nhất là chơi lắc bầu cua, cá, cọp. Vào buổi tối, cả nhà quây quần chơi đánh bài coi ai hên xui. Người lớn và con nít đều được tham gia. Tôi thích nhất là được đánh bài cào với ông bà, cha mẹ và các anh, chị, em. Đây là lúc chúng tôi cùng cười đùa vui vẻ và thắt chặt thêm tình thân trong gia đình. Dịp Tết còn là thời gian để thăm viếng và ăn những bữa cơm thân mật cùng họ hàng và bạn bè thân thuộc.
Năm ấy, tôi đang ở lứa tuổi 17, 18 là thời điểm thơ mộng nhứt của cuộc đời. Tôi có rất nhiều bạn trai lẫn gái. Các bạn rất quý mến tôi. Ngày mồng 3 Tết, bạn bè tụ họp. Chúng tôi cùng đến nhà thầy cô để chúc Tết. Sau đó, chúng tôi thăm viếng nhà của nhau và chúc những câu tốt lành trong  năm mới.
Những năm sau, tôi lớn khôn thêm và càng có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ trong việc dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa đồ đạc trong nhà như chuẩn bị lá chuối để gói bánh tét, bánh ít. Sau đó lại phải mua thịt, cá để chuẩn bị thết đãi bà con và bạn bè trong ba ngày Tết. Từ ngày 23 âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời, tôi phải phụ má của tôi bán quần áo ở chợ Thủ vì những ngày giáp Tết, bà con ở vùng quê mới có thời gian ra chợ mua sắm quần áo cho con của họ. Những ngày nầy, chợ Bình Dương thật đông đúc và mọi người tất bật mua sắm, chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền. Không khí những ngày cận Tết ở Bình Dương thật là nhộn nhịp, hân hoan.
Ngày xưa, những ngày cận Tết ở chợ Thủ sự buôn bán thật rộn rịp. Hoa trái từ thôn quê đem ra chợ rất nhiều. Củ cải, củ kiệu là những món truyền thống mà nhà nào cũng mua về để làm dưa. Hoa kiểng ở địa phương như vạn thọ, cúc, mồng gà được những phụ nữ gánh ra chợ bán. Nhiều người còn gánh vào các thôn xóm để bán tận tay người mua. Nhờ đó, chúng tôi mua được hàng giá rẻ mà họ cũng mau chóng bán được hàng.
Chợ đêm được mở ra để bán các loại thiệp chúc Tết, pháo, phong bao lì xì, các loại bánh mứt như mứt gừng, mứt bí, mứt mãng cầu, thèo lèo cứt chuột... Dưới bờ sông, những ghe thuyền cũng chở bông hoa, trái cây từ miền Tây lên bán nữa. Có ghe chở đầy những trái dưa hấu thật hấp dẫn. Tuy nhiên cuộc sống của những thương buôn nầy rất cực nhọc. Họ phải ăn ngủ ở dưới ghe cả tháng, tới chiều ba mươi, họ mới lui ghe về quê ăn Tết…
    Năm 1993, chúng tôi đi định cư ở nước ngoài. Những năm đầu tiên ở xứ người, phải lo bươn chải để kiếm sống. Trong khi đó, ngày Tết đến không có gì để chuẩn bị như ở quê nhà vì nếu không trùng ngày thứ bảy hoặc chủ nhật thì vợ chồng, con cái đều phải đi học, đi làm. Đối với chúng tôi lúc đó, Tết ở nước ngoài không có gì vui cả!. Chúng tôi tưởng rằng ngày Tết cổ truyền Việt Nam đã không còn đến trong cuộc sống của mình nữa!
    Sau nầy, nhờ số đông người Việt Nam về sống ở vùng Little Saigon, cho nên ngày Tết ở đây đã khởi sắc hơn lên. Những ngày gần Tết chợ búa cũng trang hoàng rực rỡ với bánh chưng, bánh tét, các loại mứt bánh truyền thống. Chợ hoa được mở ra ở trước cửa Phước Lộc Thọ bán đầy đủ mọi loại hoa mai, hoa đào, hoa cúc. Còn bánh mứt thì đủ thứ không thiếu một món nào. Thêm vào đó, con cái chúng tôi đã có việc làm ổn định, có đứa đã mua được nhà. Đứa con út đã tốt nghiệp đại học, sau đó lại có bằng Cao Học (Master) về công chánh. Từ đó, chúng tôi cũng cảm thấy bớt buồn, tuy rằng đối với tôi, Tết ở nước ngoài cũng không bao giờ bằng Tết ở quê hương ngày xưa .
    Năm 2007, sau hơn 14 năm xa xứ, tôi có dịp về quê thăm mẹ già và đón một cái Tết ở quê hương. Má tôi, mắt đã loà vì mong chờ con cái và giờ đây đã không còn thấy rõ nữa, nhưng tôi thấy trong lòng của bà một niềm hân hoan khi đón người con thân yêu trở về đoàn tụ. Năm đó, tôi có dịp đón xuân ở quê nhà. Tết ở Việt Nam những năm sau nầy tuy khá giả hơn và cũng có mai vàng, dưa hấu đỏ nhưng không làm cho tôi có cảm giác vui thích như thuở ấu thơ vì giờ đây anh em lưu lạc mỗi người mỗi nơi. Biết làm sao tìm được cảnh sum họp vui vẻ ngày xưa?.
    Ngày Tết là ngày họp mặt bà con, cô bác đến thăm viếng và chúc sức khoẻ lẫn nhau. Tết cũng là thời điểm để chúng ta có thêm một tuổi thọ. Tuy nhiên, chắc chỉ có các em nhỏ là thích Tết nhất vì đây là thời gian các em được vui chơi thoả thích, được mặc quần áo mới và nhận được tiền lì xì từ người lớn .
    Là những người xa quê hương, ngày Tết là ngày tôi vừa vui, vừa buồn. Tôi vui vì đã được thêm một tuổi thọ. Tôi buồn vì bây giờ phải ở xa quê hương, không có cơ hội được hưởng không khí vui vẻ của những ngày đầu năm với họ hàng thân thiết và bạn bè. Dù ở đâu đi nữa, ngày Tết cũng là ngày bắt đầu một năm mới. Thôi chúng ta hãy cùng nhau chào đón mùa xuân mới với những gì có được. Mong rằng một ngày nào đó, chúng ta lại được cùng nhau về lại quê hương để tận hưởng mùa xuân vui vầy, hạnh phúc. Trước khi kết thúc, kính chúc quý thầy cô và các bạn một năm mới nhiều sức khoẻ, vạn sự như ý ./.

LÂM QUANG KHẢI * SƠN ĐÔNG MÃI VÕ

Bình Dương xưa và coi hát thuật Sơn Đông
Lâm Quang Khải

Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu có đoàn Sơn Đông mãi võ về chợ Bình Dương mình, làm bà con và nhất là đám con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình Dương mình lúc đó thì họp chợ buôn bán buổi sáng, một hai giờ trưa là chợ ‘’giãn’’ từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.

Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát, và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa đánh lên:
“Thưa bà con cô bác”. Anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các ông già”. Anh hề lập lại thưa mấy ông già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa mấy bà già …”. Anh hề lập lại thưa mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các bác …, thưa các chú … , thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái …, thưa mấy … mấy em con nít ..”. Mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!

“Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. Trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung, tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! Đau cái cổ … lung tung, tung! Đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về xài …tung tung, tung! Không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!

Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau, tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.

Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “Bán tui hai gói”, “Tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên này hai gói” trống đánh lên... lung tung, tung! Nầy anh ba, “Bên kia một gói!” lung tung, tung! Nây anh năm, hoặc “Bên nây mua!”, “Bên kia mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lỗ tai quá!

Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); Đây chính là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại, chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.

Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.

Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lãi, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lãi mộng dừa” , kể lại bà con đừng có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em ( có bụng bư bự) cho uống thuốc xổ lãi “biểu diễn”. Các em biểu diễn viên, tuột quần ngồi…đưa cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lỗ đít mấy em ra một nùi lãi, lãi kim , lãi đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vỗ tay nhiệt liệt hoan hô.

Xong màn biểu diễn, tới cái màn đi xin tiền, chỗ này là chỗ vui nhất đây. Họ dẫn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái nón, đi xin tiền! Mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái có khoái coi màn đánh võ đâu.

Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù là hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi. Vì quá khoái và thương voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi cuốn gói ra đi .

Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nửa dòng sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hóc Môn mất khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.

Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.

Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.

Hoặc cái màn coi chớp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lỗ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’ như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.

Hát thựt xưn đông (Hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.

Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng , mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.

08.06.2015.


ĐỖ TRƯỜNG * TRẦN HOÀI THƯ

Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh hồn

Đỗ Trường (Danlambao) - Cuối tuần, có bác nhà thơ già đến thăm, ghé mắt vào bài đang viết về nhà văn Trần Hoài Thư của tôi, rồi gật gật, lắc lắc, bảo: Cái tựa, Người ngồi vá lại những linh hồn, thấy rờn rợn thế nào ấy. Vâng! Khi chưa đọc, chưa nghiên cứu Trần Hoài Thư, bác có cảm giác vậy thôi. Đọc rồi, bác sẽ thấy, một Trần Hoài Thư không chỉ đang ngồi vá lại linh hồn mình, đồng đội mình, mà còn đang nhặt nhạnh những linh hồn văn hóa Việt rách nát, vương vãi đâu đó, rồi cặm cụi khâu lại nữa kìa.
Nghe tôi trả lời, bác nhà thơ già gật gù, gật gù lẩm bẩm: Được, tôi sẽ tìm đọc, xem có thật vậy không?
Phải nói thẳng, Trần Hoài Thư không phải là một nhà văn, nhà thơ lớn, lừng lững tên tuổi trên văn đàn của Văn học miền Nam trước 1975, cũng như ở hải ngoại hiện nay. Nhưng ông là một trong những nhà văn tôi yêu mến nhất của nền văn học Việt Nam từ trước đến nay. Bởi, ngoài tài năng, thì nhân cách lòng quả cảm, dám hy sinh, đi đến tận cùng của sự đam mê, cũng đầy trách nhiệm với văn hóa, văn chương nước nhà như ông, không phải ai cũng làm được. Và có lẽ, nhiều người đọc, nghiên cứu ông đồng cảm với tôi về điều này (?).
Nhà văn Trần Hoài Thư tên thật là Trần Qúi Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Dường như, cái tên Qúi Sách này, đã vận thẳng vào cái nghiệp viết, và nâng niu gìn giữ từng trang sách, hồn thơ Việt của ông chăng? Truyện ngắn "Nước Mắt Tuổi Thơ" in trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn vào năm 1964 là chiếc thẻ thông hành đã đưa Trần Hoài Thư đến với làng văn. Sau khi tốt nghiệp ngành toán học, trường Đại học Sài Gòn, ông về giảng dạy trung học tại Tam Kỳ. Năm 1966 Trần Hoài Thư nhập ngũ khóa 24 Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Và gần mười năm trong quân ngũ, lúc là lính thám kích, khi là phóng viên chiến trường, dường như không lúc nào ông ngừng viết. Nhật ký chiến trường, hoặc những truyện ngắn, tản văn thời kỳ ấy, không chỉ có khói súng, mùi đạn bom quyện với máu thịt ông, đồng đội ông, mà còn thấm đẫm nước mắt của tình yêu, tình người. Sau 30-4-1975, Trần Hoài Thư bị tù cải tạo. Ra tù, năm 1980 ông vượt biển, hiện đang viết và làm chủ cơ sở xuất bản Thư Ấn Quán, cũng như Thư Quán Bản Thảo, một tạp chí văn học tại New Jersey Hoa Kỳ.
Có thể nói, thơ văn cũng như thân phận người lính Trần Hoài Thư gắn chặt với những biến cố thăng trầm của đất nước. Do vậy, cũng như những nhà văn cùng thời, cái sự nghiệt ngã ấy, đã ngắt thơ văn ông thành từng giai đoạn thật rõ ràng.
Tuy bước chân vào làng văn bằng văn xuôi, nhưng thơ đã đóng góp không nhỏ tạo nên một chân dung vạm vỡ Trần Hoài Thư. Với 14 tập truyện, cùng 8 tập thơ (?) đã xuất bản, minh chứng Trần Hoài Thư có sức viết dẻo dai, và khá cân đối. Với tôi Truyện Từ Văn và Truyện Trần Hoài Thư (rút từ các tập san) viết trước 1975, được in lại trong mấy năm gần đây, cùng với thơ, và tập truyện Ra Biển Gọi Thầm, Hành Trình Của Một Cổ Trắng là những tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp trong từng giai đoạn sáng tác của ông.
Khi đi sâu vào nghiên cứu, tôi nhận ra, ngoài tính chân thực, thì nghệ thuật miêu tả (diễn biến) nội tâm nhân vật là đặc điểm nổi bật nhất trong truyện của Trần Hoài Thư. Nghệ thuật này là một tài năng, tìm tòi liên tưởng chứ dứt khoát không phải do ông xuất thân từ nhà giáo, đã kinh qua những giáo trình tâm lý học. Bởi, cũng có nhiều nhà văn xuất thân từ nhà giáo, nhưng không có đặc điểm này.
Chiến tranh, dưới cái nhìn và ngòi bút nhân bản của nhà văn.
Nếu phải đưa ra một câu trả lời, với tôi Trần Hoài Thư, Phan Nhật Nam, Thế Uyên là những nhà văn hàng đầu viết về người lính của văn chương miền Nam ở thời điểm nóng bỏng nhất của cuộc chiến. Và cùng với Cao Xuân Huy và Phạm Tín An Ninh ở giai đoạn sau 1975 cho đến nay, nơi hải ngoại.
Có một điều đặc biệt, Trần Hoài Thư là một người lính chiến thực thụ và viết ngay nơi chiến trường. Hơn thế nữa, nhiều nhà phê bình đánh giá, nhận định ông là nhà văn quân đội. Nhưng đọc ông, cho tôi cảm giác, dường như có những lúc linh hồn ông đã tách ra khỏi cuộc chiến, rời bỏ chiếc áo nhà binh. Bởi, ngoài những người lính, còn có không ít truyện viết về tình yêu, về cái thuở học trò với những cuộc sống thường nhật, hay về cả những khi phản kháng đào ngũ, bỏ đơn vị nó hằn đậm trên trang viết của ông ở cái thời binh đao khói lửa ấy.
Có lẽ, ngay từ buổi ban đầu, Trần Hoài Thư chưa có ý thức rõ ràng về chiến tranh, với những lý tưởng cao đẹp nào đó. Cho nên, bước chân vào quân trường là nghĩa vụ bắt buộc đối với ông. Sự chán chường ấy, ta đã bắt gặp rất nhiều trên những trang viết của Trần Hoài Thư. Giai đoạn đó với ông, dù có đứng ở bên nào, góc độ nào thì cuộc chiến này cũng đều vô nghĩa. Do vậy, không chỉ ở truyện ngắn văn xuôi, mà ngay trong thơ ta thấy tương lai mịt mù với những lời thán ca đau đến nhức nhối lòng người:
"Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân

Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu" (Thế hệ chiến tranh)
Với cái nhãn quan như vậy, cho nên người lính Trần Hoài Thư luôn ước nguyện, hy vọng trở về quê hương, nơi có cuộc sống bình dị, và cũng thật yên bình: “…Anh nghĩ rồi đây chiến tranh sẽ chấm dứt. Miền Nam và miền Bắc sẽ sum họp. Mọi người sẽ ngồi lại và tha thứ lẫn nhau. Rồi em về Nha Trang. Anh cũng trở lại cùng Nha Trang. Anh sẽ xin dạy trở lại. Rồi anh sẽ xin cưới em…” (Nha Trang).
Và cái suy nghĩ đơn giản, vô tư ấy, ông đã trả giá bằng chính những năm tháng ngục tù, rồi buộc phải cùng với con thuyền lá tre kia lao ra biển cả.
Có thể nói, tính nhân đạo là đặc trưng nổi bật nhất, xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Trần Hoài Thư. Cái tình người, và sự cảm thông ấy không chỉ nằm trong tình đồng đội, tình đồng bào, mà nó còn là hơi ấm cho cả những người lính ở bên kia của chiến tuyến. Cái đặc tính này, gần đây dường như nó được tiếp nối một cách rất sâu sắc trong trang văn, truyện ngắn của đồng đội ông, nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Ngày Thanh Xuân, một truyện ngắn điển hình như vậy, được Trần Hoài Thư viết vào mùa xuân 1972. Chúng ta hãy đọc lại lời thoại của hai đoạn trích dưới đây giữa một tù binh bị thương miền Bắc với người lính miền Nam, khi ở ngoài chiến trường, cũng như lúc ở quân y viện. Để thấy rõ tài năng miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật, cũng như sự nhân đạo và sự cảm thông ngút trời ấy của Trần Hoài Thư: 
“Mong anh hiểu trách nhiệm và bổn phận của chúng tôi, những người lính khác trận tuyến với các anh. Anh hãy để chúng tôi săn sóc. Hy vọng một ngày hòa bình, anh sẽ trở về quê hương và tôi được dịp đáp tàu ra Bắc, như niềm mơ ước của tôi. Mời anh một điếu thuốc thơm, anh vui lòng chứ? Anh uống cà phê nhé. Cà phê tôi mang theo trong bi-đông…

Nếu tôi còn ở miền Bắc, có lẽ bây giờ tôi là đồng chí của anh. Chúng ta đều bị bắt buộc cầm súng. Chúng ta bị chủ nghĩa, ngoại bang, các thế lực quốc tế xô đẩy chúng ta vào hố thẳm của hận thù. Anh đồng ý với ý kiến của tôi không? - Phải, tôi đồng ý – Y thầm thì – Tôi đã hiểu rằng những người tuổi trẻ của Việt Nam là những đứa con tội nghiệp. Chúng ta lỡ sinh vào một thế kỷ bất hạnh nhất. Chúng ta được giao truyền lại một gia tài bi đát nhất…”
Không chỉ đối với những người còn sống, hay người tù binh tàn tật, mà lòng nhân đạo, và tình thương ấy đến với cả người lính đối phương vừa chết trận của Trần Hoài Thư. Và nếu văn là những lời sẻ chia, cảm thông, thì thơ ông như một tiếng ru cho linh hồn của đồng loại đã nằm xuống trong trận chiến này. Tôi đã đọc khá nhiều thơ của những người lính, thuộc cả hai chiến tuyến viết cho đồng đội nằm xuống. Từ đó có thể nói, Khi Chưa Có Mùa Thu là một trong những bài thơ hay nhất của người lính phía Bắc Trần Mạnh Hảo. Và vắt cơm nhòa nước suối, hay nhòa nước mắt để viếng (cúng) đồng đội của Trần Mạnh Hảo làm cho người đọc phải rưng rưng, xúc động: ”Vắt cơm nhòa nước suối/ Viếng bạn mình không ăn”. Nhưng đặc biệt, cao cả hơn thế nữa, người lính phương Nam Trần Hoài Thư đã tiễn đưa hồn người lính Bắc bằng những ly rượu nồng với những câu thơ đẹp và vô cùng lãng mạn, đọc lên ai cũng bùi ngùi, xót xa. Và tôi tin lúc đó, Trần Hoài Thư đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực xung quanh, mà chỉ còn trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của người nghệ sĩ, để viết nên bài thơ này. Tôi không dám nghĩ, đây là bài thơ độc nhất vô nhị, dù được viết trong lúc chiến tranh đang diễn ra ác liệt. Nhưng có lẽ, nó là bài thơ lạ lùng nhất đến nay tôi được đọc. Vâng! Và chính nó, bài thơ Một Ngày Không Hành Quân của Trần Hoài Thư đã làm cho những giọt nước mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này:
“…Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Hoàn toàn không có ý so sánh, nhưng như có một sợi dây liên cảm, bởi khi đọc truyện ngắn Chiến Tranh của Trần Hoài Thư, làm cho tôi nghĩ đến những người lính gian khổ chống phát xít trong tiểu thuyết, tập truyện: Họ Đã Chiến Đấu Vì Tổ Quốc, hay Số Phận Con Người… của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov. Trong cái không khí mịt mù khói lửa ấy, sự nguy hiểm, gian nan càng tăng lên, thì tình chiến hữu đồng đội của họ càng hòa quyện chặt vào nhau hơn. Và đứng trước thất bại cũng như cái chết, dường như đã cho Trần Hoài Thư nghị lực vượt qua tất cả để sống, để viết trả nợ đồng đội. Lời văn tự sự nhanh và mãnh liệt, với ngôn ngữ, câu thoại mang đậm tính điện ảnh, gần tâm lý độc giả Âu- Mỹ, Trần Hoài Thư đã cho ta thấy rõ điều đó:
“- Mày hãy nghe tao nói. Mày là nhà văn. Tao là độc giả của mày. Mày phải sống. Mày nghe rõ chưa. Mày phải sống để mà viết lại...

Rồi hắn gào lớn:

- Phải viết lại cảnh này. Thằng Trí, thằng Luông đang nằm cạnh tao đây cũng cần mày. Thằng Trí cõng tao, rồi chết vì tao... Mày hãy nói cho mọi người biết về những cái chết chó má như thế này. Chết mà không được bắn một viên đạn như thế này...

- Tư. Tao xin nghe mày. Tôi đau đớn nói.

- Tao dẫu sống cũng vô ích. Hai chân tao, ngực tao, ruột tao... Chỉ còn cái đầu tao là không trúng đạn... Rồi hắn la. Không, hắn mắng tôi.

- Sao lại không chịu chạy. Mày hèn à. Diều hâu mà hèn à…”
Chập chờn ký ức hiện về, cùng những tình tiết hiện thực đan xen, tạo nên hình ảnh so sánh ẩn dụ làm cho người đọc phải ám ảnh rờn rợn, xuyên suốt những tác phẩm của Trần Hoài Thư. Với thủ pháp nghệ thuật này, đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công, cũng như tên tuổi tác phẩm, tác giả Trần Hoài Thư. Nhiều thế hệ các nhà văn trẻ sau ông sử dụng khá thành công thủ pháp nghệ thuật này, đặc biệt cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh. Và Mắt Đêm là một truyện ngắn điển hình như vậy của Trần Hoài Thư. Tuy khoác áo lính, bước vào cuộc chiến là nghĩa vụ bắt buộc, nhưng Trần Hoài Thư luôn giữ vững quân kỷ của người trung đội trưởng, và trách nhiệm bảo vệ dân chúng, đồng bào được ông đặt lên hàng đầu. Đọc nó, không chỉ thấy được cái tình của người lính Việt Nam Cộng Hòa đối với người dân nơi chiến trường (dù biết họ có thể là nằm vùng, hay có quan hệ, che chở cho những người lính Bắc) mà Trần Hoài Thư còn đưa ta ngược về ký ức với hình ảnh tuổi thơ xa vời vợi của ông. Có thể nói, đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của Trần Hoài Thư được viết trong thời kỳ này:
“Thằng Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng rút chốt. Tôi gọi giựt: Khoan đã. Muốn chết hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng động trong hầm, bọn nó núp trong hầm, thiếu úy. Tôi nạt: Mà tưởng bắt bọn nó dễ dàng như vậy sao? Trung cầm trái lựu đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó rồi còn gì. Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân không thì? Tôi chỉ tay vào trái lựu đạn cay, sao mày không dùng thứ này?...

Tôi không thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những đôi mắt ngơ ngác sợ sệt đó. Mụ đàn bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục nhìn ra cánh đồng chói nắng… Tôi muốn nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi trốn dưới gầm giường. Đạn réo ngoài sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu, trên mùng, Mẹ tôi ở đó, trên sân nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn lính Tây tra hỏi. Vẫn những giọt nước mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm vang từ xa xôi vọng lại, từ một quê hương, một xóm làng đìu hiu.”
Vẫn những đêm ngủ rừng, hay trên gò mả giữa cánh đồng trắng trơn, hoặc xông vào những trận đánh kinh hồn, nhưng dường như giấc mơ, nỗi nhớ vẫn không thể thiếu trên mỗi chặng đường hành quân của Trần Hoài Thư. Tình yêu và cái thuở ban đầu ấy, như những cơn mưa đầu mùa tưới mát cho tâm hồn chai sạn của người lính chiến. Với tôi, trong các nhà văn quân đội VNCH (trực tiếp cầm súng) nơi chiến trường ác liệt, viết nhiều và hay nhất về tình yêu, và cái thuở học trò, chắc chắn phải là Trần Hoài Thư. Thật vậy, đọc truyện Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình của ông, cho tôi cảm giác như đang đọc một bài thơ. Một bài thơ tự sự đầy hình tượng về sự tiếc nuối một mối tình đầu của thuở hoa niên. Tuy nhiên ông bạn nhà thơ già của tôi, ghé mắt đọc, không cho là như vậy. Vì thế, khi ngồi viết những dòng chữ này, tôi chưa biết để Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình ở mục truyện ngắn, tùy bút, hay một trang thư…Nếu đây là một lá thư, thì có lẽ, đây lá thư tình hay nhất mà tôi đã được đọc. Và đọc nó, khẳng định thêm một lần nữa tài năng miêu tả tâm lý, nội tâm nhân vật của nhà văn Trần Hoài Thư:
“…Trên mái ngói đỏ của ngôi trường nữ trung học, có đôi chim bồ câu âu yếm tỉa lông cho nhau. Nhưng, riêng anh, cả lòng như một bến ga quạnh quẽ. Đứng bơ vơ, mà nghe trong gió có một cung đàn kỷ niệm. Cung đàn ấy, vọng từ một cõi nào xa xôi lắm, có vỉa hè Đồng Khánh, có cả rừng bướm trắng dập dìu, và có một kẻ tình si đang trồng chân như cây phượng vĩ già nua, nhìn theo một cánh bướm, qua sông vĩnh biệt…”
Trong văn học sử miền Nam có hai ông nhà văn vừa cầm súng vừa viết Phan Nhật Nam và Trần Hoài Thư, cùng chung cảnh cải tạo tù tội sau 1975, nhưng lại có văn phong khác hẳn nhau. Nếu văn Phan Nhật Nam sinh động, sắc sảo, thì văn Trần Hoài Thư trầm lắng, hình tượng. Phan Nhật Nam động thì Trần Hoài Thư tĩnh. Âu đó cũng là sự may mắn làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam.
Và Viễn Thám là một truyên ngắn hay, có lời văn đẹp, tĩnh lặng như vậy của Trần Hoài Thư. Đây là truyện ngắn làm cho người đọc ngạc nhiên, bất ngờ và gây ra nhiều tranh cãi. Nó mở ra tư tưởng cũng như nhân sinh quan của ông. Có lẽ, không riêng tôi, mà còn nhiều người đánh giá cao giá trị nội dung cũng như quan niệm, thay đối tượng thẩm mỹ trong chiến tranh của tác giả trong truyện ngắn này. Hơn thế nữa, nó không chỉ đẹp trong từ ngữ lời văn, mà trong cả tâm hồn và trong cái tình của người lính thám báo, nhà văn Trần Hoài Thư. Và nó khác hẳn hình ảnh người thám kích dã man, tàn bạo trong truyện của Bảo Ninh và Dương Thu Hương. Tôi nghĩ, Bảo Ninh, Dương Thu Hương viết Nỗi Buồn Chiến Tranh và Vô Đề vào những năm cuối thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, khi chưa bốc (hết) được ngôi mộ với con ma xó tuyên truyền bấy lâu ra khỏi linh hồn mình. Nếu những cuốn sách ấy được ra đời vào thời điểm ngày nay, có lẽ sẽ khác đi chăng? Đọc truyện này, có lẽ nhiều người phản bác, cho rằng Trần Hoài Thư hành động bằng cảm tính. Và bằng chứng dường như có những đoạn văn của ông bị xét duyệt cắt bỏ khi in ấn vào thời điểm ấy chăng? Ơ hay! Trần Hoài Thư mang trái tim nghệ sỹ vào chiến tranh cơ mà. Và trong chiến tranh dường như, những người nghệ sỹ cầm súng luôn có tâm hồn, suy nghĩ như vậy. Nhưng dám hành động, và viết thành lời như ông không phải ai cũng đủ dũng khí. Chúng ta đọc lại một đoạn trích trong Viễn Thám (tuy nhiên, có đoạn khi duyệt đã cắt bỏ?) để thấy rõ điều đó:
“Trung đội thám kích đang săn tin về một đơn vị Bắc quân mới xâm nhập vùng Trường sơn, đã không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát bên bờ suối. Quân thù đó nhưng người lính đã không bắn. "Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu (…) Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam…. Tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu"
Có thể nói, chất liệu trong văn thơ Trần Hoài Thư có được từ thực tế bản thân và đồng đội. Ông đã trải nó lên trang văn dưới nhãn quan của riêng mình. Tuy có cái nhìn bi quan về cuộc chiến, nhưng nó lại bật lên tính nhân đạo ngút trời trong từng trang viết của ông. 
Tính bi hài và những nỗi đau.
Có lẽ không ai nghĩ, một thư sinh với sức trói gà Trần Hoài Thư có sức phản kháng mãnh liệt đến vậy. Sự phản kháng ấy, không chỉ có trên trang văn, mà còn mãnh liệt hơn trước những bất công ở ngoài đời. Trần Hoài Thư tự động rời bỏ quân ngũ trước phi lý của số phận đã chứng minh cho điều đó. Và từ đó, cho ta thấy được tính khí khái trong con người ông. Chứ thành thật mà nói, một nhà văn dù có sống ở chế độ nào cũng vậy, cứ cúi mặt xuống viết dưới cái bóng của các đấng ngồi trên, thì không bao giờ có được những tác phẩm ra tấm ra miếng.
Ngay ngày đầu, Trần Hoài Thư đã nhận ra cái bất công và số phận hẩm hưu của những người lính nơi tiền đồn. Do vậy, những cay đắng, khắc khoải đó như nén chặt trong lòng văn nhân. Và rồi, một lúc nào đó, nó sẽ chảy ộc ra bằng văn, bằng thơ, trải dài trên trang giấy, đọc lên ai cũng phải xót xa:
“Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng
Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót
Nên khó lòng ấp vợ đẹp trong chăn…” (Lính tiền phương)
Vâng! Và người lính ấy chưa chết hẳn, nhưng trở về với đôi nạng gỗ trên tay. Đọc truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, ta không chỉ thấy được sự lên án, mỉa mai, mà còn thấy được sự tàn nhẫn của chiến tranh. Và hình ảnh người lính cụt chân ấy, cứ tưởng mình còn nguyên vẹn, nhảy phắt xuống giường, bị ngã úp mặt xuống đất, dường như đẩy tính bi hài, và nỗi đau lên gấp bội. Phải nói thẳng, miền Nam có nhiều nhà văn lớn và tài hoa, nhưng tài năng đưa hình ảnh, hình tượng vào trong văn nhiều và hay như Trần Hoài Thư quả thực không nhiều:
“Nửa đêm, cả lòng đêm bỗng dưng bị dội lên bởi những quả đạn rơi rất gần khu bệnh xá. Những tiếng la thất thanh. Pháo kích! Pháo kích! Tiếp sau là những bóng người vụt chạy ra hầm núp ngoài sân. Tên thương binh cụt chân, trong cơn bấn loạn tột độ ngỡ mình vẫn còn lành lặn như xưa, đã ào nhảy xuống giường. Sau đó, hắn mới biết được sự thật. Hắn ôm khúc đùi rên rỉ và nằm ngay dưới nền. Hắn không còn nhận ra cặp nạng nữa…”
Đọc và nghiên cứu tôi thấy rất có lý, khi nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh nhắc đến cái chất giản dị trong văn của Trần Hoài Thư. Thật vậy, ngoài cái giản dị trong sáng, văn thơ Trần Hoài Thư không hề đao to búa lớn. Chính những đặc điểm ấy, đã giúp tôi đọc hết tất cả những gì ông viết, khi bắt gặp, hoặc tìm thấy, dù bất kể đề tài, thể loại nào. Qủa thật, tôi rất sợ đọc những bài viết lên gân quá mức cần thiết khi viết về người lính Việt Nam Cộng Hòa của một số tác giả gần đây. Thường những bài này, tôi bỏ nửa chừng. Là người, kể cả người lính dù có lý tưởng gì gì đi chăng nữa, trước cái chết ai mà chẳng sợ. “Cái chết nhẹ tựa lông hồng” không phải ai, và hoàn cảnh nào cũng có thể dùng được. Ta đọc lại những câu thoại giữa hai người lính (là thày, trò cũ của nhau) cùng bị thương dưới đây,trong truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, để thấy cái day dứt, bi hài đi thẳng vào lòng người, tuy từ ngữ rất mộc mạc: 
“- Trời ơi, một người mang cặp kính nặng như thế mà họ vẫn không chịu buông tha sao thầy?

Minh cười:

- Họ nói là điếc thì không sợ súng, còn mang hai cặp mắt mới dễ bắn VC hơn.

- May mà em cụt một chân, nếu mù một con mắt họ vẫn bắt em đi ra đánh giặc trở lại.

- Thầy không buồn đâu. Bởi vì dù sao thầy là sĩ quan, là thiếu úy, thầy vẫn còn sướng hơn những người lính khác. Trung đội thầy có thằng mang đại liên, tên là Nga, Võ hồng Nga, to đen như Mỹ đen, nhưng bị cận thị nặng. Đi hành quân, nó không thấy đường, cứ nhằm chỗ VC mà tiến. Cuối cùng nó chết.

- Thầy biết không, bởi vì nó không cổ cánh….”
Chết hoặc trở thành tàn phế chưa phải là điều đáng sợ của người lính, mà cái đáng sợ nhất nhận lệnh, buộc phải thi hành của những người lãnh đạo quan liêu, và dốt nát. Đọc truyện Thế Hệ Chiến Tranh dường như cho ta một cảm giác, đây là một bản cáo trạng của nhà văn thì đúng hơn:
“Suốt cả một buổi trưa hai thằng chúng tôi mắc nạn không thể bò xuống đồi. Tư bị đạn trúng bã vai và chân. Còn tôi thì bị lựu đạn làm bể cả bắp đùi. Lúc này mạnh ai nấy thoát. Bởi ai cũng biết rằng nếu ở lại thì chết bởi những họng súng đang săn mồi từ cao điểm. Rõ ràng đây là một cuộc thí quân. Họ ra lệnh chúng tôi phải chiếm đồi với M16, và lựu đạn, trong khi địch ẩn núp trong những hang kiên cố, với lợi thế là thấy rõ chúng tôi, còn chúng tôi thì như những kẻ đui mù…”
Không dừng lại nơi chiến sự, Trần Hoài Thư tiếp tục chọc thẳng vào cái ung nhọt thượng tầng của xã hội. Khi ông đã nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng này. Nếu gần đây, ta đã đọc bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung tá, nhà văn Song Vũ, thì thấy được, những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Có thể nói, tuy miền Nam được tự do viết lách, nhưng ở vào thời điểm đó, Trần Hoài Thư viết thẳng tưng như thế này, quả thật cần lắm một sự dũng cảm. Và đoạn trích dưới đây, chứng minh cho ta thấy sự thối nát cũng như sự can trường của nhà văn:
“Trong khi bạn bè thầy, bạn bè em cứ tiếp tục bị chết, thì ở Sài Gòn người ta vẫn ăn chơi phè phỡn, đô la thuốc phiện và tran giành quyền lực bằng những thủ đoạn chính trị bẩn thỉu. Ngay tại nơi này, những đồn điền mênh mông, những khu rừng cấm mà bọn mình đem xương máu bảo vệ là tài sản của các tướng tá hay các lãnh tụ ở Sài Gòn. Chúng ta cứ chết, mặc nước mắt của người mẹ, người em, để những mệnh phụ phu nhân, những bà lớn nắm quyền mua quan bán chức. Họ đục khoét tiền viện trợ Mỹ, con cái họ được chạy đi du học để trốn tránh trách nhiệm.”
Nỗi đau, sự trớ trêu trên những trang viết Trần Hoài Thư không dừng lại một gia đình, một tỉnh thành, mà cho toàn dân tộc Việt. Có thể nói, từ ngày lập quốc đến nay chưa có trận chiến nào tang thương, thù hận bằng cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn vừa qua. Trần Hoài Thư chứng kiến những hiện thực bi hài trớ trêu ấy, và tái hiện vào những trang sách, nên đôi lúc tôi cứ nghĩ, ông không dừng lại ở nhà văn, mà còn như một nhà sử học vậy. Nếu truyện Người Anh Hàng Xóm, cuộc đối đầu nhau trên chiến trường giữa hai cha con đều là trung đoàn trưởng ở hai phía, thì truyện Về Làng là nỗi đau của một người lính Việt Nam Cộng Hòa trước người chú và chị ruột theo CS, bị chính đồng đội của mình bắn chết… Đây là hai câu chuyện điển hình nhất trong nỗi bất hạnh của dân tộc trên trang viết của ông. Và nó cứ ám ảnh đeo vào lòng người một sự day dứt, không thể dứt bỏ. 
Có một điều đặc biệt nữa, truyện nào của ông cũng mang một nỗi u hoài của sự chia ly, chết chóc với những cái kết bất ngờ bỏ ngỏ, buộc người đọc phải suy nghĩ. Nói Trần Hoài Thư là nhà văn của những nỗi đau, thì quả thật không ngoa tẹo nào.
Khi các nhà văn cùng thời thường khai thác đề tài ít va chạm với quyền lực, xã hội, hoặc viết về những trận đánh, chiến công oai hùng của người lính, thì Trần Hoài Thư đi vào bới móc cái bóng đen của chiến tranh, cũng như xã hội con người. Một đề tài khó nhằn, khó nuốt.
Nói cho cùng, xã hội, quân đội nào cũng vậy, đằng sau cái hào nhoáng đó, nó còn ẩn nấp bao thứ tồi tệ và bệnh hoạn khác. Và rất cần những nhà văn như Trần Hoài Thư bóc trần, rồi cắt bỏ.
Ba mươi tháng tư, và linh hồn rách nát.
Vậy là chiến tranh đã kết thúc, người lính thám kích Trần Hoài Thư không thể về Nha Trang cưới em, và trở về nghề dạy học của mình, như ước nguyện. Nam- Bắc thống nhất, nhưng không thể tha thứ cho nhau, và người lính thua trận ấy bước vào vòng lao lý. Bốn năm lưu đày ấy như bốn ngọn roi quất vào tâm hồn văn nhân. Cặp bộ đội đứng hát bên bờ suối năm xưa, nay đã thành người quản giáo. Tiếng hát ngày nào đổi thành lời rao giảng, để hành hạ nhau. Đói và rét làm cho người người lính, văn nhân mất đi cả lý trí. Mình là ai? Sinh vật hay con người? Có lẽ chỉ có trời mới biết. Sự phản ứng vô ý thức ấy của văn nhân buộc tôi tự hỏi: Nếu bây giờ trở lại hoàn cảnh năm xưa, người thám kích Trần Hoài Thư có bắn cặp bộ đội đang hát bên suối hay vẫn tha? Và trái tim văn nhân có còn sống vĩnh cửu? (như ở truyện Viễn Thám). Ta đọc lại đoạn trích trong truyện ngắn Ra Biển Gọi Thầm, để so sánh tư tưởng, ý thức, hành động trước và sau 30-4-1974 của nhà văn Trần Hoài Thư:
"Nó cũng thâm độc hơn bất cứ một sinh vật nào. Nó đái lên những con cá lóc cá trê nó câu được trước khi nạp phần cho cán bộ quản giáo. Nó thầm lén phạt đứt cọng mạ non thay vì làm cỏ. Nó chửi thề khi hắn ngồi nghe chính trị viên lên lớp. Nhưng nó lại chịu thua trước thiên nhiên. Bởi nước thì quá sâu, và chảy quá mạnh. Bởi bó tràm thì quá ngỗ nghịch, cứng đầu. Nó ngoi ngóp. Nó vùng vẫỵ Hai chân vừa đạp, hai tay vừa kéo. Mưa lạnh làm châu thân nó run như lên cơn sốt rét. Hàm răng nó đánh cầm cập. Nó lại đóị Cái đói ghê gớm. Cái đói tàn bạo quật ngã nó khiến nó cứ thở dốc, thở rống từng hồi từ lồng ngực ngỡ khô cạn. Nó lảo đảo. Nó đang ở bên trời. Nó hay là tôi. Và tôi hay là nó. Tôi cũng chẳng cần biết nữa…"
Với tôi, Ra Biển Gọi Thầm là truyện ngắn hay và cảm động nhất trong tập truyện cùng tên. Truyện này, Trần Hoài Thư viết khi ông đã vượt thoát sang Hoa Kỳ. Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng, chập chờn của ký ức, ông đã đưa người đọc trở về với những ngày tù tội, nơi có mối tình cao thượng tuyệt đẹp, nhưng cũng tuyệt vọng của mình. Tôi đã đọc khá nhiều truyện, ký của các tù nhân, cải tạo, nhưng đây là lần thứ hai đọc truyện viết về tình yêu trong thời gian tù của họ. Và trước đó, là truyện Nghỉ Hè Ở Mallorca của nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Dường như càng lớn tuổi, nhất là từ sau 1975 càng gian nan Trần Hoài Thư kiệm lời hơn, nên đi vào sự cô đọng, sâu lắng của thơ. Hơn bốn năm tù, với một linh hồn rách nát, đủ để cho ông nhìn lại. Dù nhận được lời mời vào hội văn thơ, nhưng ra đi là con đường duy nhất của ông. Và con thuyền lá tre chòng chành giữa biển khơi mênh mông bão tố ấy, chở ông đi tìm tự do, hay tìm về cõi chết? Đọc bài thơ Đêm Ra Biển của Trần Hoài Thư làm cho tôi phải rợn tóc gáy:
"…Đêm nước mặn mà ngọt ngào nỗi chết
Đêm quá dài mà ngắn chớp tử sinh
Đêm ơi đêm, một cõi u minh
Đêm bật khóc nhìn chúng tôi tự sát…"
Vậy là Trần Hoài Thư đã vượt qua được những chớp tử sinh. Đến được bến bờ tự do, nhưng ông cảm thấy mình bất hạnh hơn. Mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm luôn giằng xé văn nhân. Và từ đây, ông như con thuyền không lái, chòng chành hơn, bởi đã mất quê hương:
"Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương" (Đêm tiễn biệt Việt Nam)
Có thể nói, sau 1975 và từ khi định cư ở Hoa Kỳ, Trần Hoài Thư viết nhiều hơn. Ông viết cho mình, viết cho đồng đội, cho quê hương. Mỗi trang sách, bài thơ của ông như những đường kim sợi chỉ, vá lại linh hồn cho bao người đã bị rách nát trong chiến tranh, và trong những ngày trốn chạy lưu vong.
Tuy chưa phải là nhà văn lớn, nhưng Trần Hoài Thư là một trong những nhà văn điển hình nhất trong hai mươi năm nội chiến của nền Văn học Việt Nam.
Viết bài này, khi tài liệu thơ văn của Trần Hoài Thư, tôi có không nhiều, chủ yếu tìm đọc trên Internet, (và cũng chưa một lần gặp gỡ ông). Do vậy, không có hệ thống, có thể còn sai sót và chưa lột tả, đi hết cái tận cùng con người, cũng như thế giới mênh mông văn thơ Trần Hoài Thư. Nhưng đây như một lời tạ ơn của kẻ hậu bối, đến một nhà văn suốt đời hy sinh, tận tụy cho văn chương nước nhà.
Và hình ảnh Trần Hoài Thư, ngồi vá lại những linh hồn in đậm trong lòng, đã thôi thúc cho tôi viết bài này.
Leipzig ngày 22- 5-2017

Wednesday, May 24, 2017


VIỆT NAM HÔM NAY



Tệ nạn mua bán bằng cấp ở VN


Năm 2010, hai tác giả Pháp Philippe Papin và Laurent Passicousset có viết một cuốn sách (1) có tựa đề là "Vivre avec les Vietnamiens" (có nghĩa là "Sống với người Việt"). Phải công nhận là sau khi đọc qua những trang (dịch), tác giả rất am hiểu về người Việt, có khi còn am hiểu hơn các chính người Việt. Đọc những sách loại này không chỉ có hiệu quả biết người ngoài nghĩ gì về người Việt, mà nó còn giúp chúng chúng ta hiểu về chúng ta hơn. Tác giả dành ra một chương viết về nạn tham nhũng trong học thuật và giáo dục, cụ thể là chuyện mua bán bằng cấp. Đọc rất ... nhức nhối.

Ở Việt Nam, trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường thường dẫn về chuyện tham nhũng, kể cả chuyện mua chức và mua bằng cấp. Người ta nói cụ thể giá của mỗi loại bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ là bao nhiêu, thậm chí còn có khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Mấy người từ miền Nam thường trả giá cao hơn (vì mấy người nhận tiền nghĩ rằng dân miền Nam làm ra tiền nhiều hơn). Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện [nói theo tiếng Anh là] anecdote, chứ chẳng có chứng cứ có hệ thống nào cả. Mà, trớ trêu một điều là ở Việt Nam thì anecdote phần lớn lại là chuyện thật.

Trong trích đoạn dưới đây, Philippe Papin và Laurent Passicousset viết khá cụ thể về việc mua bán chức quyền ra sao. Người ta mua luôn cả chức đại biểu Quốc hội, và cũng có trả giá đàng hoàng. Một chức vụ trung bình ở Bộ Ngoại giao là 15000 EUR. Còn trang giáo dục thì hai tác giả này cho biết một chức vụ giáo viên trung học cấp tỉnh tốn khoảng 3000 EUR. Riêng cái giá một bằng tiến sĩ kinh tế là 12000 EUR (4000 cho người viết hay dịch mướn, 8000 cho ông thầy hướng dẫn luận án dỏm). Không thấy hai tác giả này nói trong các lĩnh vực khác như tướng tá trong quân đội có nạn mua bán hay không. Nhưng với "phong trào" này thì chắc việc mua bán chức quyền xảy ra ở khắp các ngành và các cấp (3).

Dĩ nhiên, không phải ai cũng mua bán bằng cấp; trong thực tế, tôi biết vẫn có những người học hành tử tế và họ không tham dự vào các thương vụ giáo dục. Nhưng trong một xã hội mà ngay cả cái đền thiêng giáo dục còn bị đồng tiền chi phối và biến thành một thương trường thì những người sống đàng hoàng cũng bị mang tiếng oan. Đúng như một bạn đọc hôm qua viết cho tôi "Trong thế giới người gù, thì người thẳng lưng bị coi là dị dạng."


====
(1) http://www.amazon.fr/Vivre-avec-vietnamiens-Laurent-Passicousset/dp/2809803358
Một số chương của cuốn sách được dịch sang tiếng Việt và đăng nhiều kì trên trang Ba Sàm:
(2) https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/09/340-s%E1%BB%91ng-v%E1%BB%9Bi-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-vi%E1%BB%87t-1/
(3) https://anhbasam.wordpress.com/2015/02/10/3371-bao-nguoi-cao-tuoi-ban-ve-thi-truong-sao-va-vach/
Trích từ https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/26/377-song-voi-nguoi-viet-5/
Các yếu tố làm tình hình thêm trầm trọng : phân quyền và mua quan bán chức
[...]
Hơn nữa, tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc tuyển chọn công chức : phải chi một khoản lớn mới có được một chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một số vị trí là hoàn toàn do mua bán. Điều này không phải bí mật Nhà nước : ở Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những bức biếm hoạ xuất sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc ghế ở tít trên cao một cầu thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.

Thông lệ này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức trách ban ra, tha hồ kể chi tiết các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống dưới. Các nhà chức trách không thể không hành động. Hồi mùa thu 2010, một đại biểu quốc hội đã đặt câu hỏi về vấn đề này (nếu không được cho phép thì ông đã không thể liều mạng như vậy). Ngay trước hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày sau, Bộ trưởng bộ Công Thương công khai chỉ trích căn bệnh mua quan bán chức đang “di căn”. Chính quyền chính thức công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.
Việc mua quan bán chức này không hẳn là mới. Nó tồn tại từ giữa thập niên 1990. Người ta biết chuyện ông bộ trưởng nọ vừa mới được bổ nhiệm đã phải đợi 6 tháng để có đủ tiền trả cho cái ghế của mình trước khi được ngồi vào đó. Gần đây hơn, năm 2007, một nữ chủ doanh nghiệp một thành phố lớn phía Bắc đã đề xuất chi 80 ngàn EUR để được một chân đại biểu quốc hội : ít quá, nếu so với những đề xuất khác, nên bà này đã bị loại từ vòng sơ tuyển do Mặt trận tổ quốc tổ chức, mà lọt qua vòng này thì coi như được bầu. Trái lại, năm 2009, cũng khoản tiền ấy đã đủ để mua chức phó giám đốc một doanh nghiệp lớn của Nhà nước mà chúng tôi tránh không nói tên. Năm 2010, nghe nói ngay cả Ban chấp hành trung ương Đảng cũng không thoát khỏi hiện tượng này…

Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức trở thành tiến sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế là 12 000 EUR : 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến sĩ tương lai (nếu cần thì dịch từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp đến mức nào : 8.000 EUR là ba năm dạy học của một giáo sư Việt Nam đổi lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100 000 EUR miễn thuế…

Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một lái xe đều phải trả những khoản tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng lộc, được thương lượng với giá 15 000 EUR, nếu là vị trí có thể được cử sang các sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều. Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến 800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh lỵ giá trung bình 3 000 EUR.

Chúng ta cùng lấy một thí dụ cụ thể : cô gái tên Phương chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm nay (2010), Phương 23 tuổi, tốt nghiệp marketing và tài chính tháng 6/2009. Cô mong tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều phúc lợi xã hội, được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ làm thoải mái hơn, và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng mộ : “có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1/2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16 000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đô la Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.

Khi cô kể chuyện gia đình cô bàn bạc quyết định chuyện mua chỗ làm như thế nào (vì bố mẹ cô mới là người trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu bỏ ra 16 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được ? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền không ?

Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết chính xác số tiền trong phong bì được chia chác như thế nào, dù đương nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất cao. Trái lại, chúng tôi biết đích xác một phó giám đốc chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc, nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu không thì mất hết. Nên thể nào cô cũng ngoan với các sếp, rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…


Dù sao, trong khu vực công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi vào vòng xoáy tham nhũng cho được ? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao tránh khỏi cám dỗ kiếm tiền bù lại số mình đã bỏ ra bằng cách tuyển cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao ? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm lại tiền một cách nhanh nhất ? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền ra khắp nơi, đến tất cả mọi người : vòng tròn đã khép kín.

Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền ; sau đó thành nếp rồi thì chuyển sang giai đoạn kiếm lời. Về chủ đề này, chúng tôi cảm thấy có một sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ, trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ : “Suy cho cùng thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần với giai đoạn sau khi ta sẽ thu lời.” Việc hoàn vốn trở thành bước đệm để đến với nạn hối lộ trên diện rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm trong hoàn cảnh này. Một tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ làm ở thành phố ; họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại căn hộ gia đình đã đầu tư cho.

Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày : thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển và hợp tác quốc tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc, hiểu rằng mình cần vượt qua bằng được thách thức này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết thúc xì-căng-đan biển thủ tiền lương đã kéo dài suốt bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế thu nhập đang được triển khai, có thể thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều có dán tờ tuyên truyền động viên các gia đình khai thuế. Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại cho nền kinh tế chính thống một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.

Comments:
Bạch Kim said...

Cũng hệt như tệ nạn cảnh sát giao thông đứng đường vòi vĩnh đút lót, chính quyền này rất sợ, và ghét, phải thừa nhận rằng chuyện mua bán bằng cấp, chức tước từ lâu đã thành nhan nhãn đến mức bình thường trong xã hội. Phản ứng hay thấy của họ mỗi lần lộ diện tiêu cực, là cho rằng nó chỉ xuất phát từ "một bộ phận nhỏ", rằng đa số còn lại đều rất tốt vv..., cứ thế cái xấu mặc sức tung hoành và ngày càng lây lan vì không được (thực ra là không dám) nhận diện lẫn trừng trị đích đáng. Thỉnh thoảng về quê ở một tỉnh lỵ đã được nâng cấp lên thành phố loại 1, ngồi uống cà phê đàn đúm cùng đám bạn học cũ giờ đã ổn định cuộc sống, nghe tụi nó khoe khoang huyên thuyên về quá khứ lẫn hiện tại mua quan bán chức mà tá hỏa: Mọi thứ được trình bày theo kiểu tự sướng một cách rất đàng hoàng, công khai, đầy hãnh diện, cứ như phải có tài lắm mới làm được những chuyện như vậy ! Ngoái sang bàn gần đó loáng thoáng cũng đang tán nhau những chuyện tương tự, cũng với những bộ mặt hả hê, đắc thắng, thản nhiên. Cả một thế hệ không chỉ biết dùng thủ đoạn để sống "tốt" mà cón đắc ý tán dương thủ đoạn ấy để rồi hệ lụy chắc chắn là hniều thế hệ kế tiếp sẽ noi theo, noi theo...

February 20, 2016 at 7:29 PM


Anonymous said...

Cảm ơn Bác Tuấn vì những dòng tâm sự đầy bức xúc Bác nói hộ thành văn giúp giới trẻ như chúng cháu. Không thể bịt tai, không thể nhắm mắt nên cảm thấy bất lực. Người nước ngoài cũng đã thấy rõ thực trạng của Việt Nam nhưng cũng có cái sự thực họ chưa biết là nếu anh không có chứng chỉ COCC: con ông cháu cha đấy ạ, thì anh cũng đừng mong dùng tiền để mua chức bán quyền. Đường dây đó nó tinh vi lắm ạ. Thật tiếc cho các bạn trẻ có tài nhưng không được trọng dụng chỉ vì lí lịch không đủ "tầm"

February 21, 2016 at 3:13 AM


Anonymous said...

Công nhận 1 điều là anh Tuấn này viết khỏe thật. Không hiểu viết thế này thì thời gian làm việc và suy nghĩ lúc nào?
Tất nhiên nhiều chuyện anh ta viết rất định kiến, thông tin sai. Tôi đã thử comment và anh không cho hiện, dù viết lịch sự. Thế nên cũng không hẳn là người trung thực.

Tôi viết đây cũng chỉ để cho anh Tuấn đọc thôu. Lời khuyên là:
Đừng lo dạy khôn thiên hạ mà quên dậy khôn chính bản thân mình.
TB: tôi đang ống ở nước ngoài nên không có chuyện vì tự ái mà phản biện anh.
Cũng biết là anh sẽ không cho hiện còm này. Hehe.

February 21, 2016 at 8:23 AM

Thanh truong said...
Chủ nghĩa Mác Lê nin khùng điên đã cho ra lò một thế hệ lùa dối ai được thì nghĩ đó là Thông minh,đó là xuất chúng,đến nỗi mua bằng cấp là lừa dối chinh bản thân mình ma khong biết,nghĩ mình giỏi hon người đi học thật sự! 

NGHỆ THUẬT VIỆT CỘNG BÂY GIỜ
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ CHỐNG VĂN HÓA ĐỒI TRỤY!

 
Đn rng H ly chín đuôi,
Các em ch đến góp vui thôi mà ...

My anh Kiến trúc mơ màng,
Thiết kế vào đúng "đim vàng" mi ngon ….
Mùa xuân là mùa sinh sôi,
Đ đám đc ra bi hi con trym (quên, tim …. he …he..)
Hi khóa toàn bn vi Thy,
Ngoáy mông khoe rn by hy lm nha ….
Giao ban là đ "trin khai"
Không phi là đ khoe tài ngoáy mông ….
Chúc mng bo dưỡng thành công
B sung "đin nước" đ không hao mòn ….
Đi tu thì cũng là người,
Ci thin đôi mt đ đi bt khô ….
Ông zi z chng làm mưa,
Mt công em ta lông (nách) tha sáng nay ….
Kh thân my anh máu dê
Dán mt vào cái "đê mê" … ngã ri
Văn hóa là phi bo tn,
Ch quên gi cái "tâm hn" ch em ...


Ngun hình nh: Sưu tm trên internet.

Thành Hồ của Việt Nam bị lún chìm ở mức báo động

 

Đỗ Hồng (Danlambao) lược dịch - Tin Hà Nội. – Một bản nghiên cứu hôm thứ ba 18/4 cho biết nạn đất lún tại thành Hồ đang diễn ra ở mức báo động.

Tân Hoa Xã trích dẫn kết quả nghiên cứu được loan báo bởi Bộ Tài Nguyên và Môi Trường của VN cùng Viện Đại Học Kỹ Thuật HCM, cho thấy nhiều khu vực trong 8 quận của thành phố đã bị lún chìm từ 5 tới 10 ly một năm.
Phụ Tá Giáo Sư Lê Văn Trung của Viện Đại học này nói rằng sau khi so sánh thống kê trong 25 năm, thành phố cho tới nay đã bị lún chìm khoảng 0,4 thước.
Ông cảnh cáo nếu vấn đề lún đất không được lưu ý tới, những khu vực bị lún chìm sẽ đối đầu với nạn lún đất trầm trọng, và một số khu vực thậm chí có thể bị chìm xuống nước biển.
Những lý do chính của nạn lún đất tại thành Hồ bao gồm việc khai thác quá mức về nước ngầm, việc thành thị hóa nhanh chóng và các hoạt động chuyên chở sôi nổi.
Tại những vùng đất thấp, nạn lún đất cùng mực nước biển dâng lên (trung bình khoảng 3 ly một năm do sự thay đổi khí hậu) sẽ lan rộng tới những khu vực bị ngập nước hiện tại và tạo ra những khu vực mới.
Tại những khu vực duyên hải, việc khai thác nước ngầm quá mức gây ra sự thâm nhập của nước muối một cách tổng quát sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới việc tăng trưởng của cây cối trong việc phát triển nông nghiệp đặc biệt và có thể chống đỡ được.
Theo Bộ Môi Trường, những vùng của Đồng Bằng Sông Cửu Long tại miền Nam VN cũng đã bị lún chìm.
24/5/2017

CUỘC ĐỐI ĐÁP GIỮA CÔ CAVE VÀ CÔNG AN

HoangsaParacels: Một cuộc đối thoại dí dỏm và sâu sắc. Câu chuyện cười ra nước mắt này được phổ biến rộng rãi cho dân chúng trong nước sẽ gây được một chuyển biến rất tốt về tư tưởng cho mọi người dân nhận rõ bộ mặt tay sai, bán nước của cộng sản Hà Nội.

Image may contain: 1 person, sitting

Một gái gọi bị bắt quả tang đang mây mưa với một người ngoại quốc trong một khách sạn ở Vũng Áng. Cô bị đưa về đồn công an và bị tra xét.

Sau đây là đoạn đối thoại giữa cô với công an....
Công an: Cô còn trẻ khỏe, xinh đẹp, sao không kiếm nghề gì mà làm lại đi bán dâm?
Cô gái: Đây cũng là một nghề mà anh.
Công an: Luật pháp nước ta không thừa nhận đây là một nghề.
Cô gái: Luật pháp do con người làm ra cả thôi. Thích cho nó là một nghề thì nó là một nghề. Ở nước khác đây là nghề hợp pháp, có bảng hiệu, có đóng thuế môn bài hẳn hoi.
Công an: Nhưng nước ta không thừa nhận đây là một nghề. Thôi, không nói chuyện đó nữa. Cô bán dâm bao lâu rồi?
Cô gái: Tôi không bán dâm, tôi chỉ làm tình với ông bạn Đài Loan của tôi thôi.
Công an: Cô có lấy tiền của ông khách Đài Loan đó không?
Cô gái: Sau khi làm tình ông ấy cho tôi tiền. Cho thì tôi nhận. Thế thôi.
Công an: Như vậy là cô đã bán dâm lấy tiền. Cô sẽ bị phạt hành chính và đưa vào trại phục hồi nhân phẩm.
Cô gái: Anh hỏi xong chưa?
Công an: Rồi.
Cô gái: Bây giờ tôi hỏi anh mấy câu. Ok?
Công an: Cô cứ hỏi.
Cô gái: Tại sao tôi cho ông bạn Đài Loan sử dụng cái mà tôi có thì mấy anh cho rằng tôi bán dâm và bắt tôi, trong khi chính quyền mấy anh cho Formosa sử dụng cái mà chính quyền mấy anh không có thì lại được?
Công an: Chính quyền cho Formosa sử dụng cái gì?
Cô gái: Đất đai, biển trời... Những thứ đó đâu phải của chính quyền mấy anh. Luật pháp ghi rõ “đất đai thuộc sở hữu của toàn dân”, đâu thuộc sở hữu của chính quyền mà chính quyền đem cho Formosa sử dụng.
Công an: Chính quyền cho Formosa thuê đất sử dụng có thời hạn.
Cô gái: Vậy tôi cũng cho ông khách Đài Loan đó thuê bướm sử dụng có thời hạn. Hai việc này đâu có khác chi nhau. Có khác là tôi cho thuê cái thuộc về sở hữu của tôi, còn chính quyền cho thuê cái không thuộc sở hữu của chính quyền. Khác nữa là thời hạn tôi cho thuê có vài tiếng đồng hồ, còn thời hạn chính quyền cho thuê kéo dài tới 70 năm. Đó là chưa kể tôi cho ông khách Đài Loan thuê bướm, lỡ có bề gì tôi chịu trận một mình. Còn chính quyền cho Formosa thuê đất, thuê biển, bây giờ Formosa gây ra ô nhiễm môi trường, cá chết, biển chết... thì dân tình lãnh đủ. Việc cho Formosa thuê đất, thuê biển... của chính quyền đã gây ra tác hại đủ đường, trong khi việc cho thuê bướm của tôi không làm hại đến ai, sao không đi bắt chính quyền mà lại bắt tôi và đòi tống tôi vô trại phục hồi nhân phẩm?

Đến đây thì công an đập bàn quát lớn: Im đi! Nhốt hết chính quyền vô trại thì trại mô mà chứa cho đủ hả?

Nguyễn Hiếu Sưu tầm
 

VIỆT NAM NHÀ SIÊU MỎNG
 
Image may contain: outdoor
 

 
Image may contain: outdoor
 
Image may contain: sky and outdoor
 
Image may contain: sky, cloud and outdoor
 
Image may contain: outdoor
 
Image may contain: outdoor
 
Image may contain: one or more people and outdoor
 

Image may contain: sky and outdoor
 
Image may contain: sky and outdoor
 


Wednesday, May 24, 2017


KINH ĐÔ THỊT CHÓ NHẬT TÂN

Nguyên nhân mất tích đầy bí ẩn của “Kinh đô thịt chó Nhật Tân”
Vài năm trước đây, hễ nhắc tới món thịt chó “quốc hồn quốc túy” ngon, bổ, rẻ là người dân Thủ đô lại nhớ ngay tới khu phố nổi tiếng Nhật Tân, nơi được mệnh danh là “kinh đô thịt chó” huy hoàng với 50 nhà hàng mọc lên san sát và hàng vạn thực khách từ khắp nơi đổ về tấp nập ăn nhậu suốt ngày đêm. Nhưng giờ đây, thương hiệu “thịt chó Nhật Tân” đã lùi vào dĩ vãng. Và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được vì sao phố thịt chó nổi tiếng ấy bỗng dưng lại biến mất một cách đầy bí ẩn như vậy? Trong hành trình đi tìm nguyên nhân mất tích bí ẩn này, chúng tôi đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng.
 

“KINH ĐÔ THỊT CHÓ” VANG BÓNG MỘT THỜI 

Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
 Ai dè, chừng nửa năm, khách đến nhà hàng đông nườm nượp. Người ta đồn rằng: dồi chó và mắm tôm Anh Tú là số 1. Dồi của Anh Tú thơm, vị đậm, ngon, chắc và giòn. Nhai đến đâu, vị ngọt ngọt, bùi bùi lan tỏa tới đó. Dồi nóng chấm mắm tôm ngon càng thêm phần đậm đà, ấn tượng. Nhiều thực khách sành ăn thì bảo: “Cày tơ bảy món Anh Tú, món nào chẳng ngon. Chứng cớ là vài chục con chó thịt ra, ngày nào chẳng hết veo. Tay nghề anh Tú quá siêu, nhất là quy trình gia giảm, tẩm ướp khiến món nào nổi vị món ấy. Món chả chín nục, giòn thơm. Món dựa mận ngọt, mềm, khi dùng đũa gắp tiết đọng thành tơ như níu miếng thịt nằm lại dưới bát. Thịt luộc ráo, không dai, mát. Món hấp thì nục mà không nhừ. Món xào lăn thơm ngào ngạt, nhai miếng thịt nghe sừn sựt. Và trên hết, nghệ thuật đỉnh nhất của quán chó Anh Tú là nghệ thuật “vừa miệng, vừa lòng” thực khách, kể cả khách khó tính”. 




Vài năm sau, từ mái lều gianh chật hẹp, quán thịt chó Anh Tú nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng rộng vài trăm mét vuông. Mỗi ngày, quán đón hàng ngàn thực khách. Anh Tú phải thuê tới 30 nhân viên, làm việc quần quật từ tờ mờ sáng đến tận khuya. Ai cũng nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ chảy vào túi Anh Tú mỗi ngày. Và thế là, như nấm mọc sau mưa, hàng loạt quán thịt chó khác mọc lên san sát dọc triền đê: Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang, Anh Vinh, Anh Kiên... Một số ông chủ ranh mãnh đã nhái thương hiệu Anh Tú như Anh Tú Xịn,
Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá... Trên đoạn đường dài chừng 1km mà mọc tới ngót 50 quán thịt chó biến phố Nhật Tân trở thành “kinh đô thịt chó”, “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội”. Quán thì lợp mái gianh bốn bề trống hoác. Quán thì lợp lá cọ, sàn gỗ, vách tre, treo rèm thoáng mát. Quán lợp ngói khang trang. Có quán trên mặt đê là lán nứa cho khách để xe, thụt xuống chân đê là ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh chứa hàng trăm thực khách. Quán nào cũng dành lấy cảnh quan bên trái là mặt nước Hồ Tây mênh mang, bên phải là bãi sông Hồng lồng lộng gió. Cảnh sắc vừa hữu tình, vừa đắc địa cho khách ẩm tửu nhậu với thịt cầy.



Chen chúc thế mà quán nào cũng nghìn nghịt khách. Ngày nào cũng tấp nập ồn ã từ 10h sáng đến nửa đêm. Vào những ngày cuối tháng hay mùa đông giá rét, nhiều nhà hàng không đủ chỗ ngồi. Xe máy, ô tô, xe lớn, xe bé biển số mang đủ ký hiệu các tỉnh xếp hàng dài dằng dặc dọc triền đê. Nhưng đông nhất có lẽ là quán Trần Mục. Ông chủ Trần Mục vốn là lái xe cho ngoại giao đoàn, bặt thiệp, quan biết rộng, được đi đây đó nhiều nên tinh thông thương trường.

Mỗi ngày, quán phục vụ chừng 600-1.000 khách nên giết mổ cả trăm con chó. 50 nhân viên lao động cật lực từ 4h sáng đến 11h đêm. Những ngày cuối tháng, quán chỉ nhận phục vụ khách quen, đặt trước. Nhiều hôm, chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi đau đầu nhức óc, bà chủ nhà hàng phải rút điện thoại ra để khỏi phải nghe. Đã từng có nhà kinh tế học nhẩm tính rằng: “Kinh đô thịt chó Nhật Tân” có chừng 50 quán. Trung bình mỗi quán giết thịt 30 con chó mỗi ngày. Trung bình mỗi con nặng 10kg. Như vậy, tính sơ sơ, mỗi ngày, 1.500 con chó được hóa kiếp tại đây.
Nghĩa là hàng ngày, cánh RTC (rượu thịt chó) đã xơi hết chừng 15 tấn thịt chó. Quá khủng khiếp. Phép tính ấy đã khiến nhiều nhà khuyển học hốt hoảng: cứ đà này, một ngày nào đó, giống khuyển sẽ tuyệt tự mất thôi. Nỗi lo sợ ấy quả là có lý. Nhưng những người yêu khuyển cũng chẳng phải lo lâu. Năm 2006, kinh đô thịt chó Nhật Tân đang sầm uất, nhộn nhịp, ăn nên làm ra là vậy, bỗng dưng, đóng cửa một loạt. Các nhà khuyển học mừng rú.

Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao? 


Quán thịt chó còn sót lại. 

CÓ PHẢI BỎ NGHỀ SÁT SINH VÌ SỢ BÁO OÁN? 

Theo sự giới thiệu của ông Lê Tiến Đ., cán bộ quận Hoàn Kiếm, chúng tôi tìm đến nhà ông H., thượng tá công an đã nghỉ hưu, người đã sống trên 40 năm ở làng Nhật Tân. Tôi hỏi: “Chú có biết vì sao các quán thịt chó Nhật Tân lại đồng loạt đóng cửa hết không?”. Ông H. bảo: “Trời ạ! Làm cái nghề giết chóc ghê rợn ấy thì làm sao mà có hậu được hả cháu? Mấy gia đình kinh doanh thịt chó không gặp chuyện nọ thì cũng vướng chuyện kia. Dù họ có nhiều tiền như nước thì cuối cùng cũng hết sạch thôi. Của thiên trả địa mà.
Cũng có nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng nhưng lục đục lắm, nát be nát bét, vợ chồng đánh lộn, con cái hư hỏng. Đó là chưa kể có những cái chết rùng rợn lắm”. Nói đoạn, ông H. giơ ngón tay nhẩm tính. Nhà anh T., người mở quán thịt chó đầu tiên ở Nhật Tân. Bốn anh em trai đều hành nghề giết mổ chó, đều vâm váp khỏe mạnh, vậy mà đều chết bất đắc kỳ tử khi tuổi đời mới trên dưới 50. Người thì chết gục trong phòng tắm. Người thì đi dự tiệc đám cưới hàng xóm, vừa bước ra đến cổng ngã lăn đùng xuống đất, chết tươi. Người thì đang ngồi nhậu thịt chó với mấy chiến hữu, vừa xúc miệng được vài ly rượu thì vục mặt xuống mâm bất tỉnh. Hay như gia đình ông M., chủ quán T.M nức tiếng nhất phố chó.

Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Để giải bớt nghiệp cho mình và gia đình, bà đi lễ rất nhiều nơi. Cúng lễ rất chu đáo, đốt vô số vàng mã, cầu siêu cho linh hồn loài chó. Cho đến năm 2005, sau một loạt hiểm họa dồn dập ập đến với bà: hai lần ngã gãy chân, gãy tay. Viêm xương khớp, đầu gối sưng to như chân trâu. Mỗi lúc trái gió trở giời là nhức buốt tận óc, bò lê bò càng, không thể đi lại được.

Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”. 

Số phận của gia đình ông S., chủ quán thịt chó A.X cũng chẳng hơn gì. Ông S. vốn là người làng Trung Hòa, trước kinh doanh cá sông, gà đồi. Thấy mấy nhà hàng thịt chó ở Nhật Tân làm ăn phát đạt, ông bèn đóng cửa nhà hàng ở Trung Hòa, lên Nhật Tân, thuê địa điểm, mở quán thịt chó A.X. Do có nhiều kinh nghiệm kinh doanh nhà hàng, lại cầu kỳ trong vấn đề chọn chó ngon (Ông chỉ mua chó dé, lông vàng, nặng trên dưới 10kg. Thịt loại chó này nạc, ngọt, mềm, thơm), vị thế quán lại đẹp nên quán thịt chó A.X. nhanh chóng thu hút thực khách. Quán quá đông, không đủ chỗ, ông S. bèn mở quán thứ hai cũng với thương hiệu đó. Đúng lúc công việc kinh doanh thịt chó phất lên như diều gặp gió thì bão tố bắt đầu giáng xuống gia đình ông.
Năm 2000, khi thò tay vào lồng tóm con chó lôi ra để đập chết làm thịt, cậu con trai độc nhất vô tình bị cắn vào tay. Vết cắn xước nhẹ nên cậu chẳng thèm để tâm. Bởi xưa nay, chuyện nhân viên giết mổ bị chó cắn ở phố chó Nhật Tân này thường như cơm bữa, có ai đi tiêm phòng đâu. Chừng một tháng sau, đang ngồi thui chó, cậu bỗng rùng mình kêu rét. Sợ nước, sợ lửa. Người lên cơn co giật, bọt sùi trắng hai mép. Gia đình đưa cậu đến Bệnh viện Sant Paul cấp cứu.

 Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.

 
 Phố thịt chó xưa. 

Thượng tá công an H. bảo: “Những chuyện báo oán như thế, ở làng chó Nhật Tân nhiều lắm. Kể cả ngày chẳng hết. Nhưng có hai chuyện rùng rợn nhất, ám ảnh nhất. Và có lẽ vì chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, các chủ quán thịt chó giật mình tỉnh ngộ sợ hãi mà không ai bảo ai, đồng loạt đóng cửa”. Ngừng lời, nhấp một ngụm trà, ông H. chậm rãi kể, giọng rờn rợn. Một đêm khuya nọ. Con phố yên tĩnh bảng lảng sương đêm, rả rích tiếng côn trùng bỗng dội lên tiếng kêu thét kinh hoàng của chị Kh. “Ối làng nước ơi. Chồng cháu giết người. Chồng cháu giết con rồi”. Mọi người hốt hoảng chạy đến căn nhà trọ của chị.

Một cảnh tượng kinh hoàng đập vào mắt. Trong ánh đèn điện vàng vọt mờ tỏ, trên chiếc giường cũ kỹ, hai đứa con gái chị Kh. nằm chồng lên nhau. Đầu vỡ toác. Máu lênh láng. Óc bắn tứ tung. Mắt mở thao láo. Anh chồng chị Kh., một tay giết chó siêu đẳng quê ở Nghệ An, chuyên giết mổ thuê cho các nhà hàng, đứng trân trân giữa nhà, mắt đỏ vằn, tay lăm lăm cầm cái vồ vẫn đập giết chó hàng ngày, máu vẫn còn nhơ nhớp. Cho đến lúc bị công an tra hỏi, anh vẫn khăng khăng quả quyết là mình vừa đập chết hai con chó để giết thịt chứ không giết hai cô con gái. 49 ngày sau, anh treo cổ tự tử. 

Chuyện nữa, ám ảnh hơn. Anh Ch. hành nghề giết mổ chó được gần 10 năm. Một ngày, ông bố của anh bị mắc bệnh lạ. Toàn thân da mẩn đỏ, sần sùi, đóng vẩy ốc, vẩy cá. Ông cụ kêu ngứa, gãi sồn sột suốt ngày đêm. Nhiều lúc ngứa quá, không chịu được, ông dùng lưỡi dao mà anh Ch. chuyên mổ chó, cào cho toạc da, bong vẩy, máu chảy đầm đìa. Đi khám bệnh viện da liễu, bác sĩ nói ông bị bệnh vảy nến rồi cấp thuốc. Thuốc uống, thuốc bôi đủ kiểu mà bệnh càng nặng hơn. Chuyển sang uống thuốc Nam bệnh cũng chẳng thuyên giảm.

 Da bong ra từng mảng. Trời nóng là nứt toác ra, máu mủ ri rỉ chảy. Tắm không được, mặc quần áo cũng không xong, suốt ngày phải quấn xô màn chống ruồi nhặng. Ông cụ đau đớn vô cùng. Thâu đêm suốt sáng kêu rên. Thịt da lở loét từng ngày. Cho đến khi chân tay trơ cả gân, xương, trông chẳng khác gì cái chân chó bị ninh nhừ. Ai trông cũng kinh khiếp. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy, không kịp chạy ra sân, nôn thốc nôn tháo tại phòng. Lúc đầu, ông còn đủ sức kêu. Sau, người kiệt quệ, chỉ rên. Tiếng rên yếu ớt nghe như tiếng chó bị chọc tiết lúc sắp chết. 

Một nhóm Phật tử phát tâm đến nhà Ch. lập đàn sám hối, giải nghiệp, cầu cho ông cụ ra đi thanh thản. Vợ Ch. cũng thành kính chắp tay tụng kinh cầu nguyện sám hối, hồi hướng công đức cho ông. Bỗng dưng chị lăn đùng ra ra đất. Mắt trợn ngược. Dớt dãi trào ra. Miệng tru lên những tiếng kêu ai oán, xót xa như tiếng chó sắp bị giết hại.


Bà trưởng nhóm Phật tử hộ niệm biết là cô con dâu bị vong hồn chó báo oán nhập vào, đã làm lễ khai khẩu cho chị. Con chó kể (nói qua vợ anh Ch.): Nó là con chó vện, bị anh Ch. giết hại lúc đang mang thai. Mặc dầu trước lúc bị làm thịt, bị nhốt trong lồng, nó đã cố đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp tay lạy anh Ch. nhưng anh vẫn tàn nhẫn túm cổ nó, lôi khỏi lồng, phang một vồ vào thẳng đầu nó khiến đàn con nó chết theo. Nó hận oán nên đã báo thù. Bố của anh Ch. phải chết trong đau đớn, khổ sở. 

Câu chuyện con chó báo oán ly kỳ, rùng rợn đã được một Phật tử quay phim lại, in thành đĩa, phát tán rộng rãi. Cuối phim, có đoạn một Phật tử nói: “Theo Phật giáo nguyên thủy, thế gian có 2 loại nhân. Một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện. Khi trồng nhân ác sẽ gặt quả ác. Nếu mình tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm thì tương lai sẽ thọ quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong các loại tội, tội nặng nhất là sát sinh. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được”. Ai xem cũng thấy sởn da gà. “Có thể, vì tin, vì nỗi sợ hãi vô hình liên quan đến nghiệp báo, sát sinh trong thuyết giáo nhà Phật mà mấy chục quán thịt chó Nhật Tân bỗng dưng biến mất chăng?”. Ông H. bảo.

GIẢI MÃ LÀNG THỊT CHÓ
KHÔNG AI DÁM GIẾT CHÓ
Nguyệt My (Phóng sự điều tra của Đài Truyền Hình Cáp VTC News

(VTC News) - Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa.

Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội) bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi. (Ảnh: Làng Cao Hạ)

Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về.

Người dân làng Cao Hạ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.

Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ.

Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa. Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.

Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.

Trong thời gian tìm hiểu về nghề giết mổ chó ở làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột…

Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.

Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ gặp vận rủi với nghề sát sinh. Mỗi năm, vào những ngày rằm, mùng 1, ngày lễ, bà đều chuẩn bị lễ lạt chu đáo rồi cúng tế hàng giờ ở chùa Cao Hạ.

Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ. Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình.

Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.

Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.

Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết.

Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ.

Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng.

12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.

Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ.

Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn giao thông khi ông đi giao thịt chó, đã cướp đi mạng sống của chồng bà.

Sau cái chết của chồng, người ta đồn là gặp vận rủi do làm nghề sát sinh, nên người thân trong gia đình đều khuyên bà nên bỏ nghề. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.

Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.

Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.

trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã.

Thầy Thủy bảo: Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.

Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn”.

Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Chính vì thế, người dân trong làng rất hoang mang, sợ hãi với công việc giết chó, dù họ là những chủ lò mổ.

Có một cái chết được dân làng kể nhiều, là cái chết của ông H. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông trở nên kỳ quái.

Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó.

Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Lát sau mới thấy ông chết bỏng trong nồi nước nhúng chó để vặt lông.

Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó.

Vì có tay nghề cao, nên kinh tế gia đình mỗi ngày thêm khấm khá. Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.

Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng.

Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm tiếc gì cả. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.

Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó dù chỉ là sự trùng hợp bình thường, là tai nạn nghề nghiệp, song khiến người dân Cao Hạ hoang mang, đồn đại suốt nhiều năm trời.

Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa. Để duy trì sự hoạt động của lò mổ họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp sát sinh đó cho những người làm thuê.

Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…

Nguyệt My
http://vtc.vn/394-371652/phong-su-kham-pha/giai-ma-lang-thit-cho-khong-ai-dam-giet-cho.htm


Tuesday, May 23, 2017


TRẦN TỪ MAI *THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG


THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”

Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
http://www.diendantheky.net/2016/10/giao-tinh-vong-nien-giua-vu-hoang.html

Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/quanvan-gioi-thieu-12-bai-tho-doc-lai-nguoi-xua-cua-thi-si-vu-hoang-chuong/



Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
http://www.diendantheky.net/2013/01/tran-huy-bich-mot-bai-tho-ngu-y-that.html

và trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more
Hôm nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.

Trước hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:

Đọc lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
Trần Đào

Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu



Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.

Vũ Hoàng Chương
(1976)

 Ý nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
 Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu. 



Đó là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
    隴西行                                    LŨNG TÂY HÀNH 
         誓掃匈奴不顧身                   Thệ tảo Hung nô bất cố thân
        五千貂錦喪胡塵                      Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
可憐無定河邊骨                      Khả liên Vô Định hà biên cốt
        猶是深閨夢裡人                      Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:

Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.


Đây là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ, người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp với hình bóng “chàng.”

“Lũng Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ mình khi đi đánh Hung Nô.

Bài thơ có thể tạm dịch như sau:

Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.

hay:

Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê phòng.

Bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.

Mười câu đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm chàng vẫn trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:

Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.

Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”

Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:

Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?

Trong trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về, ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”

Ông phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với mình một cách hăng say:

Riêng ai tóc mới buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.

ì kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được. Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi, hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):

Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.


Vậy cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào. Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:

Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.

Khi chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài (thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:

Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?


Bài thơ này được in trong tập Tân Thi (Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.

Đầu năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuâ
n bài thơ khai bút như sau:
                        Trường chinh mộng hậu tức phong yên
                        Thiên lý long câu, vạn lý thuyền
                        Hốt ngộ tiền thân: nhất yển thử
                        Ẩm hà mãn phúc, túy xuân thiên.

(Sau giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt       
Một con “thiên lý long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột       
Uống nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ Hoàng Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ là công cụ cho người ta ngồi lên và sử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên, lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng) trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản tiếng Việt của ông như sau:

                        Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
                        Tỉnh ra, ngựa đấy với thuyền đây
                        nhìn nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
                        vừa uống sông xuân một bụng đầy.
Bài thơ này sau được in lại trong tập Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại, sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
                        Giật mình đợt súng xa đưa
                        Niềm quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của Đông Hồ trong những câu:
                        Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
                        Nguyên đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại, đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày 30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi” chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc. Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ. Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân trong một giai đoạn lịch sử quan trọng khiến chúng không bị mai một.
Trần Từ Mai  
 

Wednesday, May 24, 2017


KINH ĐÔ THỊT CHÓ NHẬT TÂN

Nguyên nhân mất tích đầy bí ẩn của “Kinh đô thịt chó Nhật Tân”
Vài năm trước đây, hễ nhắc tới món thịt chó “quốc hồn quốc túy” ngon, bổ, rẻ là người dân Thủ đô lại nhớ ngay tới khu phố nổi tiếng Nhật Tân, nơi được mệnh danh là “kinh đô thịt chó” huy hoàng với 50 nhà hàng mọc lên san sát và hàng vạn thực khách từ khắp nơi đổ về tấp nập ăn nhậu suốt ngày đêm. Nhưng giờ đây, thương hiệu “thịt chó Nhật Tân” đã lùi vào dĩ vãng. Và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được vì sao phố thịt chó nổi tiếng ấy bỗng dưng lại biến mất một cách đầy bí ẩn như vậy? Trong hành trình đi tìm nguyên nhân mất tích bí ẩn này, chúng tôi đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng.
 

“KINH ĐÔ THỊT CHÓ” VANG BÓNG MỘT THỜI 

Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
 Ai dè, chừng nửa năm, khách đến nhà hàng đông nườm nượp. Người ta đồn rằng: dồi chó và mắm tôm Anh Tú là số 1. Dồi của Anh Tú thơm, vị đậm, ngon, chắc và giòn. Nhai đến đâu, vị ngọt ngọt, bùi bùi lan tỏa tới đó. Dồi nóng chấm mắm tôm ngon càng thêm phần đậm đà, ấn tượng. Nhiều thực khách sành ăn thì bảo: “Cày tơ bảy món Anh Tú, món nào chẳng ngon. Chứng cớ là vài chục con chó thịt ra, ngày nào chẳng hết veo. Tay nghề anh Tú quá siêu, nhất là quy trình gia giảm, tẩm ướp khiến món nào nổi vị món ấy. Món chả chín nục, giòn thơm. Món dựa mận ngọt, mềm, khi dùng đũa gắp tiết đọng thành tơ như níu miếng thịt nằm lại dưới bát. Thịt luộc ráo, không dai, mát. Món hấp thì nục mà không nhừ. Món xào lăn thơm ngào ngạt, nhai miếng thịt nghe sừn sựt. Và trên hết, nghệ thuật đỉnh nhất của quán chó Anh Tú là nghệ thuật “vừa miệng, vừa lòng” thực khách, kể cả khách khó tính”. 




Vài năm sau, từ mái lều gianh chật hẹp, quán thịt chó Anh Tú nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng rộng vài trăm mét vuông. Mỗi ngày, quán đón hàng ngàn thực khách. Anh Tú phải thuê tới 30 nhân viên, làm việc quần quật từ tờ mờ sáng đến tận khuya. Ai cũng nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ chảy vào túi Anh Tú mỗi ngày. Và thế là, như nấm mọc sau mưa, hàng loạt quán thịt chó khác mọc lên san sát dọc triền đê: Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang, Anh Vinh, Anh Kiên... Một số ông chủ ranh mãnh đã nhái thương hiệu Anh Tú như Anh Tú Xịn,
Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá... Trên đoạn đường dài chừng 1km mà mọc tới ngót 50 quán thịt chó biến phố Nhật Tân trở thành “kinh đô thịt chó”, “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội”. Quán thì lợp mái gianh bốn bề trống hoác. Quán thì lợp lá cọ, sàn gỗ, vách tre, treo rèm thoáng mát. Quán lợp ngói khang trang. Có quán trên mặt đê là lán nứa cho khách để xe, thụt xuống chân đê là ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh chứa hàng trăm thực khách. Quán nào cũng dành lấy cảnh quan bên trái là mặt nước Hồ Tây mênh mang, bên phải là bãi sông Hồng lồng lộng gió. Cảnh sắc vừa hữu tình, vừa đắc địa cho khách ẩm tửu nhậu với thịt cầy.



Chen chúc thế mà quán nào cũng nghìn nghịt khách. Ngày nào cũng tấp nập ồn ã từ 10h sáng đến nửa đêm. Vào những ngày cuối tháng hay mùa đông giá rét, nhiều nhà hàng không đủ chỗ ngồi. Xe máy, ô tô, xe lớn, xe bé biển số mang đủ ký hiệu các tỉnh xếp hàng dài dằng dặc dọc triền đê. Nhưng đông nhất có lẽ là quán Trần Mục. Ông chủ Trần Mục vốn là lái xe cho ngoại giao đoàn, bặt thiệp, quan biết rộng, được đi đây đó nhiều nên tinh thông thương trường.

Mỗi ngày, quán phục vụ chừng 600-1.000 khách nên giết mổ cả trăm con chó. 50 nhân viên lao động cật lực từ 4h sáng đến 11h đêm. Những ngày cuối tháng, quán chỉ nhận phục vụ khách quen, đặt trước. Nhiều hôm, chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi đau đầu nhức óc, bà chủ nhà hàng phải rút điện thoại ra để khỏi phải nghe. Đã từng có nhà kinh tế học nhẩm tính rằng: “Kinh đô thịt chó Nhật Tân” có chừng 50 quán. Trung bình mỗi quán giết thịt 30 con chó mỗi ngày. Trung bình mỗi con nặng 10kg. Như vậy, tính sơ sơ, mỗi ngày, 1.500 con chó được hóa kiếp tại đây.
Nghĩa là hàng ngày, cánh RTC (rượu thịt chó) đã xơi hết chừng 15 tấn thịt chó. Quá khủng khiếp. Phép tính ấy đã khiến nhiều nhà khuyển học hốt hoảng: cứ đà này, một ngày nào đó, giống khuyển sẽ tuyệt tự mất thôi. Nỗi lo sợ ấy quả là có lý. Nhưng những người yêu khuyển cũng chẳng phải lo lâu. Năm 2006, kinh đô thịt chó Nhật Tân đang sầm uất, nhộn nhịp, ăn nên làm ra là vậy, bỗng dưng, đóng cửa một loạt. Các nhà khuyển học mừng rú.

Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao? 


Quán thịt chó còn sót lại. 

CÓ PHẢI BỎ NGHỀ SÁT SINH VÌ SỢ BÁO OÁN? 

Theo sự giới thiệu của ông Lê Tiến Đ., cán bộ quận Hoàn Kiếm, chúng tôi tìm đến nhà ông H., thượng tá công an đã nghỉ hưu, người đã sống trên 40 năm ở làng Nhật Tân. Tôi hỏi: “Chú có biết vì sao các quán thịt chó Nhật Tân lại đồng loạt đóng cửa hết không?”. Ông H. bảo: “Trời ạ! Làm cái nghề giết chóc ghê rợn ấy thì làm sao mà có hậu được hả cháu? Mấy gia đình kinh doanh thịt chó không gặp chuyện nọ thì cũng vướng chuyện kia. Dù họ có nhiều tiền như nước thì cuối cùng cũng hết sạch thôi. Của thiên trả địa mà.
Cũng có nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng nhưng lục đục lắm, nát be nát bét, vợ chồng đánh lộn, con cái hư hỏng. Đó là chưa kể có những cái chết rùng rợn lắm”. Nói đoạn, ông H. giơ ngón tay nhẩm tính. Nhà anh T., người mở quán thịt chó đầu tiên ở Nhật Tân. Bốn anh em trai đều hành nghề giết mổ chó, đều vâm váp khỏe mạnh, vậy mà đều chết bất đắc kỳ tử khi tuổi đời mới trên dưới 50. Người thì chết gục trong phòng tắm. Người thì đi dự tiệc đám cưới hàng xóm, vừa bước ra đến cổng ngã lăn đùng xuống đất, chết tươi. Người thì đang ngồi nhậu thịt chó với mấy chiến hữu, vừa xúc miệng được vài ly rượu thì vục mặt xuống mâm bất tỉnh. Hay như gia đình ông M., chủ quán T.M nức tiếng nhất phố chó.

Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Để giải bớt nghiệp cho mình và gia đình, bà đi lễ rất nhiều nơi. Cúng lễ rất chu đáo, đốt vô số vàng mã, cầu siêu cho linh hồn loài chó. Cho đến năm 2005, sau một loạt hiểm họa dồn dập ập đến với bà: hai lần ngã gãy chân, gãy tay. Viêm xương khớp, đầu gối sưng to như chân trâu. Mỗi lúc trái gió trở giời là nhức buốt tận óc, bò lê bò càng, không thể đi lại được.

Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”. 

Số phận của gia đình ông S., chủ quán thịt chó A.X cũng chẳng hơn gì. Ông S. vốn là người làng Trung Hòa, trước kinh doanh cá sông, gà đồi. Thấy mấy nhà hàng thịt chó ở Nhật Tân làm ăn phát đạt, ông bèn đóng cửa nhà hàng ở Trung Hòa, lên Nhật Tân, thuê địa điểm, mở quán thịt chó A.X. Do có nhiều kinh nghiệm kinh doanh nhà hàng, lại cầu kỳ trong vấn đề chọn chó ngon (Ông chỉ mua chó dé, lông vàng, nặng trên dưới 10kg. Thịt loại chó này nạc, ngọt, mềm, thơm), vị thế quán lại đẹp nên quán thịt chó A.X. nhanh chóng thu hút thực khách. Quán quá đông, không đủ chỗ, ông S. bèn mở quán thứ hai cũng với thương hiệu đó. Đúng lúc công việc kinh doanh thịt chó phất lên như diều gặp gió thì bão tố bắt đầu giáng xuống gia đình ông.
Năm 2000, khi thò tay vào lồng tóm con chó lôi ra để đập chết làm thịt, cậu con trai độc nhất vô tình bị cắn vào tay. Vết cắn xước nhẹ nên cậu chẳng thèm để tâm. Bởi xưa nay, chuyện nhân viên giết mổ bị chó cắn ở phố chó Nhật Tân này thường như cơm bữa, có ai đi tiêm phòng đâu. Chừng một tháng sau, đang ngồi thui chó, cậu bỗng rùng mình kêu rét. Sợ nước, sợ lửa. Người lên cơn co giật, bọt sùi trắng hai mép. Gia đình đưa cậu đến Bệnh viện Sant Paul cấp cứu.

 Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.

 
 Phố thịt chó xưa. 

Thượng tá công an H. bảo: “Những chuyện báo oán như thế, ở làng chó Nhật Tân nhiều lắm. Kể cả ngày chẳng hết. Nhưng có hai chuyện rùng rợn nhất, ám ảnh nhất. Và có lẽ vì chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, các chủ quán thịt chó giật mình tỉnh ngộ sợ hãi mà không ai bảo ai, đồng loạt đóng cửa”. Ngừng lời, nhấp một ngụm trà, ông H. chậm rãi kể, giọng rờn rợn. Một đêm khuya nọ. Con phố yên tĩnh bảng lảng sương đêm, rả rích tiếng côn trùng bỗng dội lên tiếng kêu thét kinh hoàng của chị Kh. “Ối làng nước ơi. Chồng cháu giết người. Chồng cháu giết con rồi”. Mọi người hốt hoảng chạy đến căn nhà trọ của chị.

Một cảnh tượng kinh hoàng đập vào mắt. Trong ánh đèn điện vàng vọt mờ tỏ, trên chiếc giường cũ kỹ, hai đứa con gái chị Kh. nằm chồng lên nhau. Đầu vỡ toác. Máu lênh láng. Óc bắn tứ tung. Mắt mở thao láo. Anh chồng chị Kh., một tay giết chó siêu đẳng quê ở Nghệ An, chuyên giết mổ thuê cho các nhà hàng, đứng trân trân giữa nhà, mắt đỏ vằn, tay lăm lăm cầm cái vồ vẫn đập giết chó hàng ngày, máu vẫn còn nhơ nhớp. Cho đến lúc bị công an tra hỏi, anh vẫn khăng khăng quả quyết là mình vừa đập chết hai con chó để giết thịt chứ không giết hai cô con gái. 49 ngày sau, anh treo cổ tự tử. 

Chuyện nữa, ám ảnh hơn. Anh Ch. hành nghề giết mổ chó được gần 10 năm. Một ngày, ông bố của anh bị mắc bệnh lạ. Toàn thân da mẩn đỏ, sần sùi, đóng vẩy ốc, vẩy cá. Ông cụ kêu ngứa, gãi sồn sột suốt ngày đêm. Nhiều lúc ngứa quá, không chịu được, ông dùng lưỡi dao mà anh Ch. chuyên mổ chó, cào cho toạc da, bong vẩy, máu chảy đầm đìa. Đi khám bệnh viện da liễu, bác sĩ nói ông bị bệnh vảy nến rồi cấp thuốc. Thuốc uống, thuốc bôi đủ kiểu mà bệnh càng nặng hơn. Chuyển sang uống thuốc Nam bệnh cũng chẳng thuyên giảm.

 Da bong ra từng mảng. Trời nóng là nứt toác ra, máu mủ ri rỉ chảy. Tắm không được, mặc quần áo cũng không xong, suốt ngày phải quấn xô màn chống ruồi nhặng. Ông cụ đau đớn vô cùng. Thâu đêm suốt sáng kêu rên. Thịt da lở loét từng ngày. Cho đến khi chân tay trơ cả gân, xương, trông chẳng khác gì cái chân chó bị ninh nhừ. Ai trông cũng kinh khiếp. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy, không kịp chạy ra sân, nôn thốc nôn tháo tại phòng. Lúc đầu, ông còn đủ sức kêu. Sau, người kiệt quệ, chỉ rên. Tiếng rên yếu ớt nghe như tiếng chó bị chọc tiết lúc sắp chết. 

Một nhóm Phật tử phát tâm đến nhà Ch. lập đàn sám hối, giải nghiệp, cầu cho ông cụ ra đi thanh thản. Vợ Ch. cũng thành kính chắp tay tụng kinh cầu nguyện sám hối, hồi hướng công đức cho ông. Bỗng dưng chị lăn đùng ra ra đất. Mắt trợn ngược. Dớt dãi trào ra. Miệng tru lên những tiếng kêu ai oán, xót xa như tiếng chó sắp bị giết hại.


Bà trưởng nhóm Phật tử hộ niệm biết là cô con dâu bị vong hồn chó báo oán nhập vào, đã làm lễ khai khẩu cho chị. Con chó kể (nói qua vợ anh Ch.): Nó là con chó vện, bị anh Ch. giết hại lúc đang mang thai. Mặc dầu trước lúc bị làm thịt, bị nhốt trong lồng, nó đã cố đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp tay lạy anh Ch. nhưng anh vẫn tàn nhẫn túm cổ nó, lôi khỏi lồng, phang một vồ vào thẳng đầu nó khiến đàn con nó chết theo. Nó hận oán nên đã báo thù. Bố của anh Ch. phải chết trong đau đớn, khổ sở. 

Câu chuyện con chó báo oán ly kỳ, rùng rợn đã được một Phật tử quay phim lại, in thành đĩa, phát tán rộng rãi. Cuối phim, có đoạn một Phật tử nói: “Theo Phật giáo nguyên thủy, thế gian có 2 loại nhân. Một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện. Khi trồng nhân ác sẽ gặt quả ác. Nếu mình tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm thì tương lai sẽ thọ quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong các loại tội, tội nặng nhất là sát sinh. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được”. Ai xem cũng thấy sởn da gà. “Có thể, vì tin, vì nỗi sợ hãi vô hình liên quan đến nghiệp báo, sát sinh trong thuyết giáo nhà Phật mà mấy chục quán thịt chó Nhật Tân bỗng dưng biến mất chăng?”. Ông H. bảo.

GIẢI MÃ LÀNG THỊT CHÓ
KHÔNG AI DÁM GIẾT CHÓ
Nguyệt My (Phóng sự điều tra của Đài Truyền Hình Cáp VTC News

(VTC News) - Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa.

Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội) bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi. (Ảnh: Làng Cao Hạ)

Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về.

Người dân làng Cao Hạ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.

Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ.

Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa. Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.

Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.

Trong thời gian tìm hiểu về nghề giết mổ chó ở làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột…

Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.

Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ gặp vận rủi với nghề sát sinh. Mỗi năm, vào những ngày rằm, mùng 1, ngày lễ, bà đều chuẩn bị lễ lạt chu đáo rồi cúng tế hàng giờ ở chùa Cao Hạ.

Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ. Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình.

Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.

Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.

Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết.

Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ.

Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng.

12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.

Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ.

Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn giao thông khi ông đi giao thịt chó, đã cướp đi mạng sống của chồng bà.

Sau cái chết của chồng, người ta đồn là gặp vận rủi do làm nghề sát sinh, nên người thân trong gia đình đều khuyên bà nên bỏ nghề. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.

Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.

Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.

trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã.

Thầy Thủy bảo: Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.

Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn”.

Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Chính vì thế, người dân trong làng rất hoang mang, sợ hãi với công việc giết chó, dù họ là những chủ lò mổ.

Có một cái chết được dân làng kể nhiều, là cái chết của ông H. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông trở nên kỳ quái.

Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó.

Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Lát sau mới thấy ông chết bỏng trong nồi nước nhúng chó để vặt lông.

Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó.

Vì có tay nghề cao, nên kinh tế gia đình mỗi ngày thêm khấm khá. Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.

Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng.

Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm tiếc gì cả. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.

Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó dù chỉ là sự trùng hợp bình thường, là tai nạn nghề nghiệp, song khiến người dân Cao Hạ hoang mang, đồn đại suốt nhiều năm trời.

Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa. Để duy trì sự hoạt động của lò mổ họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp sát sinh đó cho những người làm thuê.

Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…

Nguyệt My
http://vtc.vn/394-371652/phong-su-kham-pha/giai-ma-lang-thit-cho-khong-ai-dam-giet-cho.htm


Tuesday, May 23, 2017


TRẦN TỪ MAI *THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG


THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”

Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
http://www.diendantheky.net/2016/10/giao-tinh-vong-nien-giua-vu-hoang.html

Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/quanvan-gioi-thieu-12-bai-tho-doc-lai-nguoi-xua-cua-thi-si-vu-hoang-chuong/



Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
http://www.diendantheky.net/2013/01/tran-huy-bich-mot-bai-tho-ngu-y-that.html

và trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more
Hôm nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.

Trước hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:

Đọc lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
Trần Đào

Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu



Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.

Vũ Hoàng Chương
(1976)

 Ý nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
 Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu. 



Đó là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
    隴西行                                    LŨNG TÂY HÀNH 
         誓掃匈奴不顧身                   Thệ tảo Hung nô bất cố thân
        五千貂錦喪胡塵                      Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
可憐無定河邊骨                      Khả liên Vô Định hà biên cốt
        猶是深閨夢裡人                      Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:

Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.


Đây là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ, người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp với hình bóng “chàng.”

“Lũng Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ mình khi đi đánh Hung Nô.

Bài thơ có thể tạm dịch như sau:

Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.

hay:

Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê phòng.

Bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.

Mười câu đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm chàng vẫn trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:

Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.

Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”

Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:

Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?

Trong trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về, ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”

Ông phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với mình một cách hăng say:

Riêng ai tóc mới buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.

ì kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được. Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi, hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):

Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.


Vậy cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào. Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:

Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.

Khi chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài (thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:

Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?


Bài thơ này được in trong tập Tân Thi (Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.

Đầu năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuâ
n bài thơ khai bút như sau:
                        Trường chinh mộng hậu tức phong yên
                        Thiên lý long câu, vạn lý thuyền
                        Hốt ngộ tiền thân: nhất yển thử
                        Ẩm hà mãn phúc, túy xuân thiên.

(Sau giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt       
Một con “thiên lý long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột       
Uống nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ Hoàng Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ là công cụ cho người ta ngồi lên và sử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên, lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng) trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản tiếng Việt của ông như sau:

                        Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
                        Tỉnh ra, ngựa đấy với thuyền đây
                        nhìn nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
                        vừa uống sông xuân một bụng đầy.
Bài thơ này sau được in lại trong tập Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại, sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
                        Giật mình đợt súng xa đưa
                        Niềm quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của Đông Hồ trong những câu:
                        Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
                        Nguyên đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại, đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày 30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi” chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc. Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ. Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân trong một giai đoạn lịch sử quan trọng khiến chúng không bị mai một.
Trần Từ Mai  

Wednesday, May 24, 2017


KINH ĐÔ THỊT CHÓ NHẬT TÂN

Nguyên nhân mất tích đầy bí ẩn của “Kinh đô thịt chó Nhật Tân”
Vài năm trước đây, hễ nhắc tới món thịt chó “quốc hồn quốc túy” ngon, bổ, rẻ là người dân Thủ đô lại nhớ ngay tới khu phố nổi tiếng Nhật Tân, nơi được mệnh danh là “kinh đô thịt chó” huy hoàng với 50 nhà hàng mọc lên san sát và hàng vạn thực khách từ khắp nơi đổ về tấp nập ăn nhậu suốt ngày đêm. Nhưng giờ đây, thương hiệu “thịt chó Nhật Tân” đã lùi vào dĩ vãng. Và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được vì sao phố thịt chó nổi tiếng ấy bỗng dưng lại biến mất một cách đầy bí ẩn như vậy? Trong hành trình đi tìm nguyên nhân mất tích bí ẩn này, chúng tôi đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng.
 

“KINH ĐÔ THỊT CHÓ” VANG BÓNG MỘT THỜI 

Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
 Ai dè, chừng nửa năm, khách đến nhà hàng đông nườm nượp. Người ta đồn rằng: dồi chó và mắm tôm Anh Tú là số 1. Dồi của Anh Tú thơm, vị đậm, ngon, chắc và giòn. Nhai đến đâu, vị ngọt ngọt, bùi bùi lan tỏa tới đó. Dồi nóng chấm mắm tôm ngon càng thêm phần đậm đà, ấn tượng. Nhiều thực khách sành ăn thì bảo: “Cày tơ bảy món Anh Tú, món nào chẳng ngon. Chứng cớ là vài chục con chó thịt ra, ngày nào chẳng hết veo. Tay nghề anh Tú quá siêu, nhất là quy trình gia giảm, tẩm ướp khiến món nào nổi vị món ấy. Món chả chín nục, giòn thơm. Món dựa mận ngọt, mềm, khi dùng đũa gắp tiết đọng thành tơ như níu miếng thịt nằm lại dưới bát. Thịt luộc ráo, không dai, mát. Món hấp thì nục mà không nhừ. Món xào lăn thơm ngào ngạt, nhai miếng thịt nghe sừn sựt. Và trên hết, nghệ thuật đỉnh nhất của quán chó Anh Tú là nghệ thuật “vừa miệng, vừa lòng” thực khách, kể cả khách khó tính”. 




Vài năm sau, từ mái lều gianh chật hẹp, quán thịt chó Anh Tú nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng rộng vài trăm mét vuông. Mỗi ngày, quán đón hàng ngàn thực khách. Anh Tú phải thuê tới 30 nhân viên, làm việc quần quật từ tờ mờ sáng đến tận khuya. Ai cũng nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ chảy vào túi Anh Tú mỗi ngày. Và thế là, như nấm mọc sau mưa, hàng loạt quán thịt chó khác mọc lên san sát dọc triền đê: Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang, Anh Vinh, Anh Kiên... Một số ông chủ ranh mãnh đã nhái thương hiệu Anh Tú như Anh Tú Xịn,
Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá... Trên đoạn đường dài chừng 1km mà mọc tới ngót 50 quán thịt chó biến phố Nhật Tân trở thành “kinh đô thịt chó”, “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội”. Quán thì lợp mái gianh bốn bề trống hoác. Quán thì lợp lá cọ, sàn gỗ, vách tre, treo rèm thoáng mát. Quán lợp ngói khang trang. Có quán trên mặt đê là lán nứa cho khách để xe, thụt xuống chân đê là ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh chứa hàng trăm thực khách. Quán nào cũng dành lấy cảnh quan bên trái là mặt nước Hồ Tây mênh mang, bên phải là bãi sông Hồng lồng lộng gió. Cảnh sắc vừa hữu tình, vừa đắc địa cho khách ẩm tửu nhậu với thịt cầy.



Chen chúc thế mà quán nào cũng nghìn nghịt khách. Ngày nào cũng tấp nập ồn ã từ 10h sáng đến nửa đêm. Vào những ngày cuối tháng hay mùa đông giá rét, nhiều nhà hàng không đủ chỗ ngồi. Xe máy, ô tô, xe lớn, xe bé biển số mang đủ ký hiệu các tỉnh xếp hàng dài dằng dặc dọc triền đê. Nhưng đông nhất có lẽ là quán Trần Mục. Ông chủ Trần Mục vốn là lái xe cho ngoại giao đoàn, bặt thiệp, quan biết rộng, được đi đây đó nhiều nên tinh thông thương trường.

Mỗi ngày, quán phục vụ chừng 600-1.000 khách nên giết mổ cả trăm con chó. 50 nhân viên lao động cật lực từ 4h sáng đến 11h đêm. Những ngày cuối tháng, quán chỉ nhận phục vụ khách quen, đặt trước. Nhiều hôm, chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi đau đầu nhức óc, bà chủ nhà hàng phải rút điện thoại ra để khỏi phải nghe. Đã từng có nhà kinh tế học nhẩm tính rằng: “Kinh đô thịt chó Nhật Tân” có chừng 50 quán. Trung bình mỗi quán giết thịt 30 con chó mỗi ngày. Trung bình mỗi con nặng 10kg. Như vậy, tính sơ sơ, mỗi ngày, 1.500 con chó được hóa kiếp tại đây.
Nghĩa là hàng ngày, cánh RTC (rượu thịt chó) đã xơi hết chừng 15 tấn thịt chó. Quá khủng khiếp. Phép tính ấy đã khiến nhiều nhà khuyển học hốt hoảng: cứ đà này, một ngày nào đó, giống khuyển sẽ tuyệt tự mất thôi. Nỗi lo sợ ấy quả là có lý. Nhưng những người yêu khuyển cũng chẳng phải lo lâu. Năm 2006, kinh đô thịt chó Nhật Tân đang sầm uất, nhộn nhịp, ăn nên làm ra là vậy, bỗng dưng, đóng cửa một loạt. Các nhà khuyển học mừng rú.

Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao? 


Quán thịt chó còn sót lại. 

CÓ PHẢI BỎ NGHỀ SÁT SINH VÌ SỢ BÁO OÁN? 

Theo sự giới thiệu của ông Lê Tiến Đ., cán bộ quận Hoàn Kiếm, chúng tôi tìm đến nhà ông H., thượng tá công an đã nghỉ hưu, người đã sống trên 40 năm ở làng Nhật Tân. Tôi hỏi: “Chú có biết vì sao các quán thịt chó Nhật Tân lại đồng loạt đóng cửa hết không?”. Ông H. bảo: “Trời ạ! Làm cái nghề giết chóc ghê rợn ấy thì làm sao mà có hậu được hả cháu? Mấy gia đình kinh doanh thịt chó không gặp chuyện nọ thì cũng vướng chuyện kia. Dù họ có nhiều tiền như nước thì cuối cùng cũng hết sạch thôi. Của thiên trả địa mà.
Cũng có nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng nhưng lục đục lắm, nát be nát bét, vợ chồng đánh lộn, con cái hư hỏng. Đó là chưa kể có những cái chết rùng rợn lắm”. Nói đoạn, ông H. giơ ngón tay nhẩm tính. Nhà anh T., người mở quán thịt chó đầu tiên ở Nhật Tân. Bốn anh em trai đều hành nghề giết mổ chó, đều vâm váp khỏe mạnh, vậy mà đều chết bất đắc kỳ tử khi tuổi đời mới trên dưới 50. Người thì chết gục trong phòng tắm. Người thì đi dự tiệc đám cưới hàng xóm, vừa bước ra đến cổng ngã lăn đùng xuống đất, chết tươi. Người thì đang ngồi nhậu thịt chó với mấy chiến hữu, vừa xúc miệng được vài ly rượu thì vục mặt xuống mâm bất tỉnh. Hay như gia đình ông M., chủ quán T.M nức tiếng nhất phố chó.

Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Để giải bớt nghiệp cho mình và gia đình, bà đi lễ rất nhiều nơi. Cúng lễ rất chu đáo, đốt vô số vàng mã, cầu siêu cho linh hồn loài chó. Cho đến năm 2005, sau một loạt hiểm họa dồn dập ập đến với bà: hai lần ngã gãy chân, gãy tay. Viêm xương khớp, đầu gối sưng to như chân trâu. Mỗi lúc trái gió trở giời là nhức buốt tận óc, bò lê bò càng, không thể đi lại được.

Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”. 

Số phận của gia đình ông S., chủ quán thịt chó A.X cũng chẳng hơn gì. Ông S. vốn là người làng Trung Hòa, trước kinh doanh cá sông, gà đồi. Thấy mấy nhà hàng thịt chó ở Nhật Tân làm ăn phát đạt, ông bèn đóng cửa nhà hàng ở Trung Hòa, lên Nhật Tân, thuê địa điểm, mở quán thịt chó A.X. Do có nhiều kinh nghiệm kinh doanh nhà hàng, lại cầu kỳ trong vấn đề chọn chó ngon (Ông chỉ mua chó dé, lông vàng, nặng trên dưới 10kg. Thịt loại chó này nạc, ngọt, mềm, thơm), vị thế quán lại đẹp nên quán thịt chó A.X. nhanh chóng thu hút thực khách. Quán quá đông, không đủ chỗ, ông S. bèn mở quán thứ hai cũng với thương hiệu đó. Đúng lúc công việc kinh doanh thịt chó phất lên như diều gặp gió thì bão tố bắt đầu giáng xuống gia đình ông.
Năm 2000, khi thò tay vào lồng tóm con chó lôi ra để đập chết làm thịt, cậu con trai độc nhất vô tình bị cắn vào tay. Vết cắn xước nhẹ nên cậu chẳng thèm để tâm. Bởi xưa nay, chuyện nhân viên giết mổ bị chó cắn ở phố chó Nhật Tân này thường như cơm bữa, có ai đi tiêm phòng đâu. Chừng một tháng sau, đang ngồi thui chó, cậu bỗng rùng mình kêu rét. Sợ nước, sợ lửa. Người lên cơn co giật, bọt sùi trắng hai mép. Gia đình đưa cậu đến Bệnh viện Sant Paul cấp cứu.

 Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.

 
 Phố thịt chó xưa. 

Thượng tá công an H. bảo: “Những chuyện báo oán như thế, ở làng chó Nhật Tân nhiều lắm. Kể cả ngày chẳng hết. Nhưng có hai chuyện rùng rợn nhất, ám ảnh nhất. Và có lẽ vì chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, các chủ quán thịt chó giật mình tỉnh ngộ sợ hãi mà không ai bảo ai, đồng loạt đóng cửa”. Ngừng lời, nhấp một ngụm trà, ông H. chậm rãi kể, giọng rờn rợn. Một đêm khuya nọ. Con phố yên tĩnh bảng lảng sương đêm, rả rích tiếng côn trùng bỗng dội lên tiếng kêu thét kinh hoàng của chị Kh. “Ối làng nước ơi. Chồng cháu giết người. Chồng cháu giết con rồi”. Mọi người hốt hoảng chạy đến căn nhà trọ của chị.

Một cảnh tượng kinh hoàng đập vào mắt. Trong ánh đèn điện vàng vọt mờ tỏ, trên chiếc giường cũ kỹ, hai đứa con gái chị Kh. nằm chồng lên nhau. Đầu vỡ toác. Máu lênh láng. Óc bắn tứ tung. Mắt mở thao láo. Anh chồng chị Kh., một tay giết chó siêu đẳng quê ở Nghệ An, chuyên giết mổ thuê cho các nhà hàng, đứng trân trân giữa nhà, mắt đỏ vằn, tay lăm lăm cầm cái vồ vẫn đập giết chó hàng ngày, máu vẫn còn nhơ nhớp. Cho đến lúc bị công an tra hỏi, anh vẫn khăng khăng quả quyết là mình vừa đập chết hai con chó để giết thịt chứ không giết hai cô con gái. 49 ngày sau, anh treo cổ tự tử. 

Chuyện nữa, ám ảnh hơn. Anh Ch. hành nghề giết mổ chó được gần 10 năm. Một ngày, ông bố của anh bị mắc bệnh lạ. Toàn thân da mẩn đỏ, sần sùi, đóng vẩy ốc, vẩy cá. Ông cụ kêu ngứa, gãi sồn sột suốt ngày đêm. Nhiều lúc ngứa quá, không chịu được, ông dùng lưỡi dao mà anh Ch. chuyên mổ chó, cào cho toạc da, bong vẩy, máu chảy đầm đìa. Đi khám bệnh viện da liễu, bác sĩ nói ông bị bệnh vảy nến rồi cấp thuốc. Thuốc uống, thuốc bôi đủ kiểu mà bệnh càng nặng hơn. Chuyển sang uống thuốc Nam bệnh cũng chẳng thuyên giảm.

 Da bong ra từng mảng. Trời nóng là nứt toác ra, máu mủ ri rỉ chảy. Tắm không được, mặc quần áo cũng không xong, suốt ngày phải quấn xô màn chống ruồi nhặng. Ông cụ đau đớn vô cùng. Thâu đêm suốt sáng kêu rên. Thịt da lở loét từng ngày. Cho đến khi chân tay trơ cả gân, xương, trông chẳng khác gì cái chân chó bị ninh nhừ. Ai trông cũng kinh khiếp. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy, không kịp chạy ra sân, nôn thốc nôn tháo tại phòng. Lúc đầu, ông còn đủ sức kêu. Sau, người kiệt quệ, chỉ rên. Tiếng rên yếu ớt nghe như tiếng chó bị chọc tiết lúc sắp chết. 

Một nhóm Phật tử phát tâm đến nhà Ch. lập đàn sám hối, giải nghiệp, cầu cho ông cụ ra đi thanh thản. Vợ Ch. cũng thành kính chắp tay tụng kinh cầu nguyện sám hối, hồi hướng công đức cho ông. Bỗng dưng chị lăn đùng ra ra đất. Mắt trợn ngược. Dớt dãi trào ra. Miệng tru lên những tiếng kêu ai oán, xót xa như tiếng chó sắp bị giết hại.


Bà trưởng nhóm Phật tử hộ niệm biết là cô con dâu bị vong hồn chó báo oán nhập vào, đã làm lễ khai khẩu cho chị. Con chó kể (nói qua vợ anh Ch.): Nó là con chó vện, bị anh Ch. giết hại lúc đang mang thai. Mặc dầu trước lúc bị làm thịt, bị nhốt trong lồng, nó đã cố đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp tay lạy anh Ch. nhưng anh vẫn tàn nhẫn túm cổ nó, lôi khỏi lồng, phang một vồ vào thẳng đầu nó khiến đàn con nó chết theo. Nó hận oán nên đã báo thù. Bố của anh Ch. phải chết trong đau đớn, khổ sở. 

Câu chuyện con chó báo oán ly kỳ, rùng rợn đã được một Phật tử quay phim lại, in thành đĩa, phát tán rộng rãi. Cuối phim, có đoạn một Phật tử nói: “Theo Phật giáo nguyên thủy, thế gian có 2 loại nhân. Một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện. Khi trồng nhân ác sẽ gặt quả ác. Nếu mình tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm thì tương lai sẽ thọ quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong các loại tội, tội nặng nhất là sát sinh. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được”. Ai xem cũng thấy sởn da gà. “Có thể, vì tin, vì nỗi sợ hãi vô hình liên quan đến nghiệp báo, sát sinh trong thuyết giáo nhà Phật mà mấy chục quán thịt chó Nhật Tân bỗng dưng biến mất chăng?”. Ông H. bảo.

GIẢI MÃ LÀNG THỊT CHÓ
KHÔNG AI DÁM GIẾT CHÓ
Nguyệt My (Phóng sự điều tra của Đài Truyền Hình Cáp VTC News

(VTC News) - Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa.

Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội) bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi. (Ảnh: Làng Cao Hạ)

Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về.

Người dân làng Cao Hạ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.

Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ.

Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa. Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.

Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.

Trong thời gian tìm hiểu về nghề giết mổ chó ở làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột…

Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.

Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ gặp vận rủi với nghề sát sinh. Mỗi năm, vào những ngày rằm, mùng 1, ngày lễ, bà đều chuẩn bị lễ lạt chu đáo rồi cúng tế hàng giờ ở chùa Cao Hạ.

Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ. Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình.

Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.

Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.

Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết.

Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ.

Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng.

12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.

Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ.

Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn giao thông khi ông đi giao thịt chó, đã cướp đi mạng sống của chồng bà.

Sau cái chết của chồng, người ta đồn là gặp vận rủi do làm nghề sát sinh, nên người thân trong gia đình đều khuyên bà nên bỏ nghề. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.

Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.

Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.

trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã.

Thầy Thủy bảo: Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.

Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn”.

Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Chính vì thế, người dân trong làng rất hoang mang, sợ hãi với công việc giết chó, dù họ là những chủ lò mổ.

Có một cái chết được dân làng kể nhiều, là cái chết của ông H. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông trở nên kỳ quái.

Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó.

Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Lát sau mới thấy ông chết bỏng trong nồi nước nhúng chó để vặt lông.

Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó.

Vì có tay nghề cao, nên kinh tế gia đình mỗi ngày thêm khấm khá. Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.

Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng.

Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm tiếc gì cả. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.

Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó dù chỉ là sự trùng hợp bình thường, là tai nạn nghề nghiệp, song khiến người dân Cao Hạ hoang mang, đồn đại suốt nhiều năm trời.

Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa. Để duy trì sự hoạt động của lò mổ họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp sát sinh đó cho những người làm thuê.

Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…

Nguyệt My
http://vtc.vn/394-371652/phong-su-kham-pha/giai-ma-lang-thit-cho-khong-ai-dam-giet-cho.htm


Tuesday, May 23, 2017


TRẦN TỪ MAI *THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG


THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”

Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
http://www.diendantheky.net/2016/10/giao-tinh-vong-nien-giua-vu-hoang.html

Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/quanvan-gioi-thieu-12-bai-tho-doc-lai-nguoi-xua-cua-thi-si-vu-hoang-chuong/



Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
http://www.diendantheky.net/2013/01/tran-huy-bich-mot-bai-tho-ngu-y-that.html

và trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more
Hôm nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.

Trước hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:

Đọc lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
Trần Đào

Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu



Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.

Vũ Hoàng Chương
(1976)

 Ý nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
 Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu. 



Đó là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
    隴西行                                    LŨNG TÂY HÀNH 
         誓掃匈奴不顧身                   Thệ tảo Hung nô bất cố thân
        五千貂錦喪胡塵                      Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
可憐無定河邊骨                      Khả liên Vô Định hà biên cốt
        猶是深閨夢裡人                      Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:

Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.


Đây là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ, người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp với hình bóng “chàng.”

“Lũng Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ mình khi đi đánh Hung Nô.

Bài thơ có thể tạm dịch như sau:

Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.

hay:

Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê phòng.

Bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.

Mười câu đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm chàng vẫn trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:

Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.

Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”

Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:

Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?

Trong trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về, ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”

Ông phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với mình một cách hăng say:

Riêng ai tóc mới buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.

ì kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được. Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi, hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):

Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.


Vậy cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào. Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:

Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.

Khi chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài (thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:

Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?


Bài thơ này được in trong tập Tân Thi (Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.

Đầu năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuâ
n bài thơ khai bút như sau:
                        Trường chinh mộng hậu tức phong yên
                        Thiên lý long câu, vạn lý thuyền
                        Hốt ngộ tiền thân: nhất yển thử
                        Ẩm hà mãn phúc, túy xuân thiên.

(Sau giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt       
Một con “thiên lý long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột       
Uống nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ Hoàng Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ là công cụ cho người ta ngồi lên và sử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên, lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng) trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản tiếng Việt của ông như sau:

                        Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
                        Tỉnh ra, ngựa đấy với thuyền đây
                        nhìn nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
                        vừa uống sông xuân một bụng đầy.
Bài thơ này sau được in lại trong tập Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại, sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
                        Giật mình đợt súng xa đưa
                        Niềm quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của Đông Hồ trong những câu:
                        Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
                        Nguyên đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại, đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày 30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi” chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc. Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ. Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân trong một giai đoạn lịch sử quan trọng khiến chúng không bị mai một.
Trần Từ Mai  
 

TRỌNG ĐẠT * NGUYÊN NHÂN XỤP ĐỔ VIỆT NAM CỘNG HÒA 1975


NGUYÊN NHÂN XỤP ĐỔ VIỆT NAM CỘNG HÒA 1975


Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm từ nửa đêm 19-12 -1946 khi Việt Minh tấn công quân Pháp tại Hà Nội chấm dứt vào ngày 30-4-1975 khi Sài Gòn thất thủ. Theo thống kê năm 1973 của Ngũ Giác Đài, người Mỹ tốn kém gần 300
Cho đến nay, nguyên nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn là một điều gây nhiều tranh cãi, ít ra là trên sách báo và trên những tài liệu dưới hình thức những hồi ức. Bài viết này của tác giả Trọng Đạt là một trong một số ít những bài viết rất công phu về điểm này. Phần dưới cùng của bài viết là danh sách những tài liệu tham khảo.
Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm từ nửa đêm 19-12 -1946 khi Việt Minh tấn công quân Pháp tại Hà Nội chấm dứt vào ngày 30-4-1975 khi Sài Gòn thất thủ. Theo thống kê năm 1973 của Ngũ Giác Đài, người Mỹ tốn kém gần 300 tỷ đô la từ giữa thập niên 60 tới ngày ký Hiệp định Paris, có khoảng 58 ngàn người chết, phía VNCH khoảng hơn 180 ngàn người tử thương, CSBV và VC mất hơn một triệu cán binh, dân chúng hai miền được ước lượng vào khoảng hơn một triệu người chết vì bom đạn.
Nói về những nguyên nhân khiến miền Nam mất về tay cs đã được biết bao người bàn tán tranh luận từ mấy chục năm qua cho tới nay người ta vẫn còn tranh cãi. Người Mỹ thì đổ lỗi cho VNCH như Tổng Thống Bush và Bộ Trưởng Quốc Phòng Rumfield cách đây mấy năm đã nói thua tại vì Quân Đội VNCH không chịu đánh ! Họ ý nói ta chỉ chờ Mỹ đánh dùm! Phía Việt Nam nhiều người kết án tại Mỹ tháo chạy bỏ rơi đồng minh.
Nhà nghiên cứu quân sự Nguyễn Đức Phương cho rằng phía Việt nam có ba nguyên nhân chính đưa tới sụp đổ:
– Ta thiếu một lãnh tụ có đủ khả năng
– Dân chúng miền Nam không tích cực yểm trợ công cuộc chiến đấu.
– Quân đội CSBV đã nhanh chóng khai thác thời cơ, lợi dụng các yếu điểm của QLVNCH.

Những nguyên nhân đưa tới sự mạng vong của VNCH thì chằng chịt nhiều vô kể, không có nguyên nhân nào là độc quyền chủ chốt, nhiều người quả quyết ta thua vì hết đạn, người Mỹ cúp quân viện, nhưng sự thực cũng không hẳn như vậy. Ông Nguyễn Đức Phương căn cứ theo tài liệu Mỹ cho biết sau 30-4-1975 CSBV đã tịch thu được của VNCH rất nhiều chiến lợi phẩm trị giá trên 5 tỷ đô la trong đó có 130 ngàn tấn đạn. Năm 1972 ta xử dụng mỗi tháng trên 60 ngàn tấn, sau tháng 7-1975 ta xử dụng tiết kiệm 18 ngàn tấn một tháng như vậy số đạn dược 130 ngàn tấn nếu không bị CS tịch thu ta có thể xử dụng được 5, 6 tháng.
Ở đây chúng tôi chỉ nêu một số điểm chính đi từ gần đến xa, trước hết xin nói về nguyên nhân gần, tiếng Pháp gọi cause immédiate.
– Nguyên nhân quân sự.
Nguyên nhân gần gũi nhất ai cũng biết là do sự sai lầm của ông Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nguyễn Văn Thiệu trong kế hoạch triệt thoái hai Quân khu 1 và 2 gây nên sự hỗn loạn dây chuyền sụp đổ hai vùng chiến thuật rồi đưa tới sụp đổ toàn bộ miền Nam. Kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris 28-1-1973 trong khi BV mở mang xa lộ Đông Trường Sơn, xử dụng 16 ngàn xe vận tải chuyển vận vũ khí đạn dược vào Nam chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công 1975 , chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không có một kế hoạch nào về chính trị, quân sự để chống lại âm mưu địch cưỡng chiếm miền Nam mà chỉ ngồi chờ giặc tới và hy vọng vào sự can thiệp của Không Lực Mỹ.

Tình báo yếu kém nên ông Thiệu đã khinh địch, đánh giá sai lực lượng địch cho rằng CSBV không đủ khả năng đánh vào các thành phố lớn, không đủ lực lượng để mở những trận tấn công lớn như năm 1972. Trước hết chúng tôi xin so sánh lực lượng hai bên vào năm 1975.

VNCH tổng cộng có hơn một triệu quân trong đó 40 % là bộ binh chính qui, 50% là địa phương quân, nghĩa quân còn lại là cảnh sát và Không quân, Hải quân.. .Vì ta tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác chiến có năm người yểm trợ như tiếp liệu, quân nhu, quân y, hành chánh tài chánh… cho nên trên thực tế lính nhà nghề chưa tới 200 ngàn người, thành phần không tác chiến (non combatant) chiếm khá nhiều, địa phương quân và nghĩa quân chỉ đủ sức cầm cự chờ lính BB của sư đoàn.
Chủ lực quân VNCH được bố trí tại 4 quân khu như sau:
Quân Khu 1: 3 sư đoàn BB cơ hữu của QK 1, 2, 3, và hai sư đoàn Tổng trừ bị TQLC và Dù, 4 Liên đoàn Biệt động quân, 410 đại bác, khoảng 450 xe tăng thiết giáp, hơn 90 máy bay chiến đấu
Quân Khu 2: 2 sư đoàn BB chủ lực 22 và 23 và 7 liên đoàn BĐQ, 380 đại bác, 477 xe tăng thiết giáp, máy bay chiến đấu 138 chiếc .
Quân Khu 3: 3 sư đoàn BB chủ lực 5, 18, 25 và 4 liên đoàn BĐQ, 376 khẩu pháo, 655 xe tăng, 250 máy bay chiến đấu.
Quân Khu 4: 3 sư đoàn BB 7, 9, 21 gồm 380 đại bác 493 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.
Về Pháo Binh ta có hơn 1,500 khẩu đại bác , hơn một nửa là súng 105 ly, chưa tới 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là súng 175 ly. Về xe tăng tổng cộng ta có khoảng 2,000 chiếc nhưng hơn một nửa là M113 và các loại thiết giáp xưa cũ, khoảng gần 40% là xe M41 và M48, trong đó chỉ có M48 là tương đương với T54 của địch.
M113
M41
M48

Vũ khí QĐVNCH trông cũng khá hùng hậu nhưng tình hình 1975 do hậu quả cắt giảm quân viện, nhiều máy bay, xe tăng, tầu chiến… thiếu cơ phận thay thế đã trở thành bất khiển dụng. Hoả lực giảm 60% so với năm 1972, đạn dược chỉ đủ đánh cho tới tháng 6 năm 1975. Vì phải trải quân giữ đất, toàn bộ 13 sư đoàn của ta và 15 liên đoàn BĐQ (tương đương với hơn 2 sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh, tính trung bình một tỉnh chỉ được hơn một trung đoàn bảo vệ trong khi CSBV có thể tập trung hơn 10 trung đoàn để đánh một tỉnh thí dụ như tại Ban Mê Thuột tháng 3-1975.
Lực lượng chính qui CSBV năm 1975 gồm có 4 quân đoàn và đoàn 232 (tương đương một quân đoàn).
Quân đoàn 1 có 3 sư đoàn (308, 312, 320B).
Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn (304, 324, 325).
Quân đoàn 3 có 3 sư đoàn (10, 316, 320)
Quân đoàn 4 có 3 sư đoàn (6, 7, 341).
Đoàn 232 có 3 sư đoàn BB (3, 5, 9) và sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng BV có 16 sư đoàn BB và đặc công, ngoài ra BV có khoảng 15 trung đoàn BB độc lập và đặc công tương đương với 4 hoặc 5 sư đoàn. Toàn bộ lực lượng chính qui BV năm 1975 vào khoảng 20 hay 21 sư đoàn BB.
Người ta ước lượng không chính xác BV đưa vào Nam khoảng trên 500 xe tăng và 500 đại bác. Về vũ khí đạn dược theo báo chí VC năm 1976 tiết lộ cho biết năm 1975 vũ khí đạn dược của chúng gấp 3 lần 1972, hư thực thì không rõ nhưng có điều chắc chắn năm 1975 BV đã được CS quốc tế viện trợ quân sự tối đa. Về số lượng xe tăng và pháo binh của ta nhiều gấp hai, ba lần đối phương nhưng về mặt phẩm vũ khí địch hơn ta. Xe tăng chỉ có M-48 tương đương với T-54 của BV, súng 155 và 105 ly tầm viễn xạ tối đa chỉ được 15 và 11 cây số trong khi súng 130 ly CSBV bắn xa 30 cây số. Năm 1972 Mỹ có viện trợ cho ta súng 175 ly bắn xa 28 km nhưng số lượng không nhiều lắm.
Đầu năm 1975 hơn 80% chủ lực quân CSBV đã có mặt tại miền Nam chúng chỉ để lại quân đoàn 1 tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Khoảng hơn 70 % chủ lực quân BV được tập trung vào QK1 và QK2 của ta. Tại QK2, BV để 5 sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn độc lập (tương đương một sư đoàn), toàn bộ khoảng 6 sư đoàn, tại QK1 của ta BV để 5 sư đoàn BB và hơn mười trung đoàn độc lập, toàn bộ vào khoảng hơn 8 sư đoàn
Chiến thuật chiến lược hai bên vẫn y như cũ, không khác gì thời chiến tranh Việt Pháp 1947-54 là mấy, ta vẫn theo chính sách đóng đồn cũ rích có từ thời ông Đờ lát 1950, trải quân giữ đất. VC vẫn chiến thuật chiến lược cũ công đồn đả viện, tiền pháo hậu xung, lấy thịt đè người. Cường độ chiến tranh gia tăng nhiều, trận Tổng công Kích Tết Mậu Thân năm 1968 CS đánh cấp tiểu đoàn trung đoàn, năm 1972 địch đánh cấp sư đoàn nay 1975 chúng tiến lên cấp quân đoàn, VC xả láng toàn bộ lực lượng vào ván bài chót.
So với năm 1972, tình hình bi đát hơn gấp bội phần vì đồng minh phản bội xé bỏ giấy tờ cam kết yểm trợ Không Quân khi bị VC tấn công, một mình VNCH phải gánh vác chiến trường với sự thiếu thốn trầm trọng về tiếp liệu, đạn dược.
Như trên ta thấy BV tung vào chiến trường miền Trung tất cả 14 sư đoàn trong khi ta chỉ có 7 sư đoàn và 11 liên đoàn BĐQ (tương đương hơn 2 sư đoàn), toàn bộ chủ lực quân ta (kể cả Biệt động quân) vào khoảng hơn 8 sư đoàn, ta phải trải quân giữ đất, địch tập trung quân nên mũi dùi tấn công rất mạnh. Theo Văn Tiến Dũng (trong Đại Thắng Mùa Xuân) Tướng Thiệu đã bố trí lực lượng sai ở chỗ mạnh hai đầu, có nghĩa ta để 5 sư đoàn tại QK1 và 3 sư đoàn tại QK3, QK3 được tăng cường nhiều máy bay chiến đấu và xe tăng. Như thế ta để yếu ở QK2, đó là nơi CS chủ trương tấn công mở đầu chiến dịch 1975.
Tại QK2 như trên ta thấy chủ lực quân VNCH là 2 sư đoàn và 7 Liên đoàn BĐQ, toàn bộ chỉ vào khoảng 3 sư đoàn trong khi CSBV tập trung tại đây tới 6 sư đoàn, vì ta bố trí sai lực lượng nên không đủ sức chống lại địch. Ngày 10-3 Cộng quân đem 3 sư đoàn tấn công chớp nhoáng chiếm Ban Mê Thuột, phần vì sai lầm của Tướng Phú, ông mắc lừa kế nghi binh của địch tưởng chúng đánh Pleiku, phần vì Bộ TTM và Tướng Thiệu đã bố trí sai lực lượng tại QKII nên ta không đủ lực lượng chống lại địch. Tại Ban Mê Thuột lực lượng ta chỉ có 2 tiểu đoàn BB và 3 liên đoàn địa phương quân không thể chống lại quân số địch khoảng 12 trung đoàn. Theo bút ký của Nguyễn Định, năm 1975, QĐVNCH Ban Mê Thuột chỉ vào khoảng 2000 kể cả Nghĩa Quân, Cảnh Sát..BMT như một thành phố bỏ hoang.
Ban Mê Thuột thất thủ đưa tới những hậu quả tai hại không thể lường trước được, ngày 11-3, một ngày sau khi VC vào Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp HĐ An ninh QG gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá an ninh QG. Tướng Thiệu cho biết trước tình hình khó khăn do cắt giảm quân viện, lãnh thổ phòng thủ quá rộng, áp lực địch nặng, ta chỉ đủ quân giữ QK3 và QK4 và một phần duyên hải QKII, QKI chỉ cần giữ Huế và Đà Nẵng. Ông sẽ thực hiện tái phối trí lực lượng, rút bỏ các tỉnh Cao Nguyên về giữ đồng bằng. Ngày 13-3 Hạ Viện Mỹ khối đa số Dân Chủ bỏ phiếu chống tăng viện cho VNCH 300 triệu Mỹ kim do Tổng thống Ford đệ trình.
Phần thì hốt hoảng vì mất Ban Mê Thuột, lại bị toá hoả tam tinh vì hạ Viện Mỹ bác bỏ quân viện, Tướng Thiệu bèn ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên hôm 14-3-1975 mặc dù Tướng Phú nài nỉ xin ở lại giữ đất. Cuộc triệt thoái bắt đầu từ ngày 16-3, chia làm 4 đoàn, mỗi ngày một đoàn xe, mỗi đoàn 250 chiếc, ngày đầu 16-3 thì êm xuôi nhờ yếu tố bất ngờ, ngày hôm sau dân chúng chạy ùa theo gây náo noạn cả lên , ngày 16-3 sư đoàn 320 VC được lệnh cấp tốc đuổi theo đến 18-3 thì bắt kịp. Hỗn loạn bắt đầu xẩy ra tại Phú Bổn, bọn lưu manh côn đồ đốt chợ, VC pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đám người di tản. Tối đến VC pháo thị xã, 70% xe tăng và đại bác dồn đống tại thị xã bị phá hủy gần hết, 40 xe tăng M41, M48 bị huỷ, Tướng Phú ra lệnh bỏ Phú Bổn, đoàn quân đi được 20 km thì VC tràn vào Phú túc, BĐQ chiếm lại Phú Túc, ra khỏi Phú Túc người ta tranh dành nhau lên trước hỗn loạn xẩy ra, bắn nhau dành đường đi, VC đưa các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê Thuột để đuổi theo truy kích, tới 26-3 trong số 1,200 ciếc xe chỉ có 300 cái mở đường máu về được Tuy hoà. Phạm Huấn gọi đây là một Hành Lang Máu.
Trong số 60 ngàn chủ lực quân chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ còn 900 người, 100 xe tăng chỉ còn 13 chiếc M113, toàn bộ vũ khí đạn dược trị giá 253 triệu phần lớn lọt vào tay VC, theo Đại Tướng Cao Văn Viên ít nhất 75% lực lượng chiếnđấu của Quân đoàn II bị tiêu diệt, đây là một cuộc hành quân phá sản kéo theo sự sụp đổ của cả Quân Khu.

Ngày 13-3 ông Thiệu lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Khu I đưa Sư đoàn Dù về Sài Gòn. Ngày 14-3 Tướng Trưởng về dinh Độc Lập họp Hội Đồng an ninh QG về kế hoạch tái phối trí, hôm sau Tướng Trưởng ra QKI họp nội bộ thi hành lệnh tái phối trí đưa sư đoàn Dù về Sài Gòn, ngày 17-3 TQLC ra Đà Nẵng thay Dù khiến dân chúng sợ hãi ùn ùn kéo nhau di tản trên Quốc lộ 1 về Đà nẵng.
Ngày 19-3 Tướng Trưởng về Sài Gòn trình bầy kế hoạch lui binh. Kế hoạch thứ nhất cho các đơn vị theo Quốc Lộ 1 từ Chu Lai về Đà Nẵng, kế hoạch thứ hai các lực lượng tập trung tại Huế và Chu Lai sau đó tầu Hải quân sẽ đưa về Đà Nẵng, trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là điểm tựa cuối cùng. Từ ngày 19-3 CSBV bắt đầu tấn công mạnh từ Bắc và Nam QKI theo thế gọng kìm. Ngày 20-3 đài Huế cho phát thanh hiệu triệu của Tổng thống tử thủ Huế. Chiều hôm ấy Tướng Thiệu đổi ý gửi công điện cho Tướng Trưởng không bó buộc phải giữ Huế, chỉ giữ Đà Nẵng. Ngày 24-3 Quảng Nam, Quảng Tín ở phía Nam QKI bị VC tấn công mạnh phải rút về Chu lai, tình hình QK chỉ trong một ngày rối loạn đến mức không thế kiểm soát được .
 Ngày 23-3 lệnh bỏ Huế được chính thức ban hành vì áp lực CS và binh sĩ ta rã ngũ, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước nên các đơn vị VNCH như rắn mất đầu đã tan hàng . Tại Nam QK1 sư đoàn 2 tại Chu lai được tầu đưa ra Cù Lao Ré nhưng chỉ được một nửa quân số. Các đơn vị VNCH từ Huế di tản về cửa Thuận An, Tư Hiền bị thiệt hại rất nặng, các đơn vị tập trung tại hai cửa biển đã làm mồi cho pháo binh địch, dân quân trúng pháo kích chết như rạ. Hỗn loạn diễn ra, tranh nhau lên tầu bắn giết nhau dã man, tình trạng hỗn loạn được coi là quá tồi tệ so với QK2.
Ngày 27-3 Cuộc phòng thủ Đà Nẵng trở nên vô hiệu vì hỗn loạn, dân tị nạn quá đông (hơn một triệu người), phố xá chật ních những người, hỗn loạn diễn ra dữ dội tranh nhau lên tầu, lên máy bay bắn giết nhau không còn quân kỷ y như xã hội thời thượng cổ. Ngày 28-3 xã ấp quanh Đà Nẵng lọt vào tay CSBV, 4 sư đoàn BV bao vây tấn công Đà Nẵng. Các sư đoàn 1 và 2, các đơn vị thiết giáp, pháo binh VNCH thiệt hại nặng trên đường di tản khiến cho cuộc phòng thủ Đà Nẵng không còn lực lượng nào ngoài sư đoàn 3 . Ngày 29-3 Tướng Trưởng xin lệnh bỏ Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nhì của VNCH coi như mất ngày 29-3. Trong vòng 10 ngày Quân Đoàn I gồm 3 sư đoàn BB và sư đoàn TQLC, Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh… coi như tan rã, VC chiếm được cả QK I mà không phải giao tranh dai dẳng.
Nguyên do chính của sự thất bại theo Nguyễn Đức Phương như sau: Ông Thiệu cho rút sư đoàn Dù khiến dân chúng hoang mang lo sợ di tản náo loạn cả lên, bỏ Cao Nguyên, QK2 rồi lại bỏ Huế làm cho tin đồn cắt đất loan truyền khiến dân chúng ồ ạt di tản. Binh sĩ rã ngũ tìm thân nhân, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước, cuộc lui binh hỗn độn không có kế hoạch, không có đơn vị nào đánh trì hoãn, đánh chận hậu. Ông Cao Văn Viên cho rằng thất bại do sự lúng túng của ta hơn là vì áp lực địch, nhiều sĩ quan cao cấp hèn nhát bỏ chạy trước khiến cho các đơn vị của ta rã ngũ dần dần, tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Vấn đề tị nạn của dân chúng đã làm đảo lộn mọi kế hoạch của Quân đoàn. Chúng ta cũng để ý thêm một yếu tố nữa: đài BBC tuyên truyền phá hoại đã đóng góp phần lớn vào sự thảm bại của cả 2 QK.
Qua kinh nghiệm các cuộc Tổng công kích trước đây như năm 1968, 1972 địch không đủ khả năng tấn công cả 4 Quân Khu cùng một lúc vì mũi dùi sẽ yếu dễ bị bẻ gẫy mà chúng chỉ tấn công vào 2 Quân Khu nhất là Vùng 1 và 2. Năm 1975 CSBV tung vào chiến trường miền Trung 14 sư đoàn (6 SĐ tại QK2 và 8 SĐ tại QK1), tính ra khoảng 70% chủ lực quân của chúng, mũi dùi tấn công rất mạnh, ta chỉ có 7 sư đoàn (22, 23, 1, 2, 3, TQLC, Dù) và 11 Liên đoàn BĐQ trải quân giữ đất, đã thế ông Thiệu lại cho rút sư đoàn Dù về Sài Gòn khiến cho tình hình càng bi đát hơn. Trong khi ấy Vùng 4 đã có trên 200 ngàn Địa Phương Quân (40% toàn bộ ĐPQ toàn quốc) lại để thêm 3 Sư đoàn BB giữ đất, tại đây áp lực địch nhẹ chúng chỉ có 6 trung đoàn, không có nhiều xe tăng đại bác có nhiệm vụ đánh cầm chân QĐVNCH, ta có thể rút bớt quân để tăng cường cho chiến trường miền Trung, chắc ông Thiệu cũng biết vậy nhưng ông không muốn đưa thêm quân tăng viện vì trong thâm tâm ông muốn bỏ miền Trung để giữ hai QK 3 và 4.
Cuối tháng 3-1975 QK I hoàn toàn lọt vào tay cộng quân, hai ngày sau QK2 cũng mất gần hết lãnh thổ chỉ còn Phan Rang và Phan Thiết. Ba sư đoàn 1, 3, 23 BB bị tan rã hoàn toàn, sư đoàn 2, 22, TQLC, các sư đoàn Không Quân, Lữ đoàn Dù, BĐQ.. bị thiệt hại từ 60 tới 70 % quân số , toàn bộ vũ khí đạn dược xe tăng đại bác của miền Trung coi như mất hết, theo Phạm Huấn:
“Tổng số phi cơ các loại bỏ lại khoảng 200 cùng với 900 đại bác và hơn 1,000 chiến xa”
Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 98.

Điều nguy hại nhất là phần lớn số vũ khí đạn dược ấy lại lọt vào tay CSBV, giáo vào tay giặc, miền Nam đưa dao cho người ta giết mình.
Văn Tiến Dũng viết trong Đại Thắng Mùa Xuân.
“Hậu cần vẫn bảo đảm, không những chỉ mới dùng hết một phần số lượng đạn dược đã dự tính trong kế hoạch mà lại còn lấy thêm được khá nhiều của địch” (Trang 117).
“Ta thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất và hậu cần quân ngụy…..(trang 136-137)
“…Vũ khí đạn dược tiêu hao không đáng kể. . . . . . . . Ta thu được của địch một khối lượng rất lớn vũ khí và đạn dược” (trang 137)
Cũng có nhiều người cho rằng ông Thiệu tháu cáy giả vờ thua chạy để lôi kéo Mỹ vào yểm trợ nên đã đưa tới sụp đổ nhanh chóng như vậy, ông đã đem đất nước non sông gấm vóc ra đánh bạc thì thật hết chỗ nói.

Sau khi hai QK1 và QK2 sụp đổ, giới lãnh đạo Sài Gòn chỉ còn mong manh hy vọng vào sự cứu trợ của Mỹ. CSBV hối hả chuyển vận vũ khí đại binh vào Nam để tấn công chiếm Sài Gòn trước mùa mưa thì ta không có một kế hoạch cụ thể nào để ngăn chận địch như phá cầu, oanh kích các đoàn xe, phục kích đánh công voa… mà chỉ ngồi chờ giặc. Vả lại cấp lãnh đạo, ông to bà lớn của ta chỉ lo kế hoạch “tẩu vi thượng sách” cho mình hơn là lo cho đất nước, cha chung không ai khóc. Tại Xuân Lộc, từ 9-4 cho tới 20-4- 1975 Sư đoàn 18 dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo đã anh dũng đẩy lui các cuộc tấn công vũ bão của VC trong hơn một tuần lễ nhưng cũng không cứu vãn nổi tình thế.
CS dốc toàn bộ lực lượng vào canh bạc cuối cùng, chúng đưa vào trận địa 20 sư đoàn BB, khoảng 280 ngàn người, cùng với 400 xe tăng, 400 đại bác, QĐVNCH gồm 6 sư đoàn chủ lực và Địa Phương Quân, Thiết Giáp.. tổng cộng 240 ngàn người nhưng lính nhà nghề chỉ có khoảng 60 ngàn. Nhân lực đã chênh lệch, ta lại lâm vào tình trạng hết đạn trong khi VC đầy đủ đạn dược. Năm tuyến phòng thủ của ta quanh SàiGòn gồm: Tuyến Củ Chi ở Tây Bắc, Tuyến Bình Dương phía Bắc, tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc, tuyến Vũng Tầu phía Đông, Tuyến Long An phía Nam.
Ngày 21-4 Ông Thiệu từ chức bàn giao cho ông Hương, ngày 24-3 hai ông Thiệu và Khiêm bỏ nước ra đi, tinh thần quân ta suy sụp. Ngày 26-4 Cộng quân bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài gòn, ngày 28-4 Đại tướng Dương Văn Minh lên thay thế ông Trần văn Hương, các phòng tuyến của ta sụp đổ dần dần trước các đợt tấn công pháo kích của địch. Ngày 30-4-1975 Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ.
Nhiều người kết án ông Thiệu cho lệnh rút bỏ Quân Khu II và I đã đưa tới sự sụp đổ toàn bộ VNCH. Ông Thiệu là nguyên nhân gần gây nên sự sụp đổ, nhưng nếu kết án ông ta là nguyên nhân duy nhất thì không đúng lắm, ở đây không phải để bênh vực cho ông Thiệu nhưng chúng ta không thể nói sai lịch sử. Giả thử ông Thiệu tăng cường lực lượng cho hai quân, đẩy lui được cuộc tổng tấn công của địch năm 1975, nhưng sau đó ta vẫn lâm vào tình trạng hết đạn, sẽ phải xin viện trợ khẩn cấp của Hoa Kỳ trong khi đảng Dân Chủ nắm đa số tại Quốc Hội. Họ chủ trương cắt hoàn toàn quân viện bỏ rơi miền Nam thì cũng chỉ có khoảng 30% hy vọng được tiếp viện trở lại.
Vì thế ngoài nguyên nhân quân sự nêu trên còn những nguyên nhân khác đóng góp vào sự sụp đổ miền Nam. Một nguyên nhân gần nữa vô cùng quan trọng ở đây là vấn đề cắt quân viện.
– Cắt quân viện
Theo Nguyễn Đức Phương vấn đề cắt quân viện đã manh nha từ đầu thập niên 1970.
“Hành quân Kampuchia năm 1970 đã tạo ra phản ứng chống đối dữ dội của Quốc Hội Mỹ vì họ cảm thấy bị ngành hành pháp che dấu sự thật. Tháng 6.1970, Thượng viện đã biểu quyết với đa số chấm dứt nghị quyết Vịnh Bắc Việt trao toàn quyền hành động cho Tổng Thống Mỹ từ năm 1964. Hai Thượng Nghị Sĩ John S. Cooper (đảng Cộng Hoà, tiểu bang Kentucky) và Frank F. Church (đảng Dân Chủ, tiểu bang Idaho) một thành viên của Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện đã đề nghị một tu chính án cắt tất cả phí tổn về quân sự của Mỹ tại Miên kể từ ngày 1.7.1970. Sau 7 tuần lễ tranh cãi, Thượng Viện Mỹ biểu quyết vào cuối tháng 6.1970 với 58 phiếu thuận và 37 phiếu chống. Tuy nhiên Hạ Viện đã bác bỏ tu chính án này. Tu chính án do đó được sửa đổi lại và được biểu quyết chấp thuận vào tháng 12. Theo đó Mỹ không được đưa quân tác chiến vào Lào và Thái Lan.
Lần đầu tiên Tổng Thống Mỹ với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội bị giới hạn quyền hành trong tình trạng chiến tranh. Một tu chính án khác do hai Thượng Nghị Sĩ George Mc Govern (đảng Dân Chủ, tiểu bang South Dakota) và Mark O.Hatfield (đảng Cộng hoà, tiểu bang Oregon) đã đề nghị rút tất cả quân đội Mỹ và cắt tất cả quân viện cho VNCH vào cuối năm 1971. Tuy nhiên Thượng Viện Mỹ đã bác bỏ hai lần (1970 và 1971) tu chính án này. Năm 1973, Quốc Hội Mỹ biểu quyết chấp thuận tu chính án do Frank Church và Thượng Nghị Sĩ Clifford (đảng Cộng Hoà) chấm dứt tất cả quân viện cho các nước Đông Dương.” Chiến Tranh Việt NamToàn Tập trang 510 Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự tại Đông Dương, ngày 1-7 Nixon miễn cưỡng ký thành luật áp dụng kể từ 15-8. Đến tháng 10-73 Quốc Hội lại thông qua dự luật Quyền Hạn Chiến Tranh (War powers Act) buộc Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Ý định phản bội của người bạn đồng minh đã bắt đầu lộ diện.
Khi người Mỹ mới đổ quân ồ ạt vào Việt Nam năm 1965 ngân sách năm ấy mới có 646 triệu đô la, năm sau 1966 tăng vọt lên gần 6 tỷ, đến 1967 tăng lên 20 tỷ, năm 1968 tăng lên 26 tỷ năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 1971 xuống còn 12 tỷ vì Mỹ đang rút quân. Năm 1972 họ rút gần hết chỉ còn 24,200 người khi ấy miền Nam phải một mình gánh vác chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm 1973 Quân viện là 2 tỷ 1, sang năm 1974 chỉ còn 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên cơ quân tuỳ viên quân sự DAO của Mỹ. VNCH chỉ nhận được một nửa số quân viện cần thiết.
Năm 1975 đảng Dân Chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ, họ chủ trương bỏ Đông Dương không cần biết hậu quả cũng như danh dự cho nước Mỹ. Về thế lực cũng như tài chính Dân chủ thua kém Cộng Hoà nên chỉ thừa cơ nước đục thả câu, lợi dụng sơ hở của Cộng Hòa để thọc gậy bánh xe. Họ thường o bế giới bình dân, da đen, Mễ miếc, cu li cu leo khố rách áo ôm, đám trốn lính, chống chiến tranh … để lấy lòng kiếm phiếu. Họ chớp đúng thời cơ khi phong trào phản chiến lên cao được dân chúng ủng hộ để nắm đa số tại Quốc Hội và thẳng tay bỏ rơi đồng minh không thương tiếc, cái mà ông Nguyễn Tiến Hưng gọi là “nhát gươm đao phủ”.
“Ngay sau đó, 13 tháng Ba, nhát gươm đao phủ đã hạ xuống: ban lãnh đạo Đảng Dân Chủ, cả Hạ Viện lẫn Thượng Viện (họ lại là thành phần quyết định trong Quốc Hội) bỏ phiếu với đại đa số : chống bất cứ viện trợ nào thêm cho Miền nam” Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 245.
Theo Đại Tướng Cao Văn Viên hậu quả của cắt giảm quân viện là không quân phải cho hớn 200 máy bay ngưng bay.. giảm giờ bay, huấn luyện 50%, số giờ bay thám thính 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%.. Hải quân cũng bị cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu xuồng các loại nằm ụ, các chiến cụ, quân dụng hư hỏng không được thay thế, chỉ có khoảng 33% được thay mà thôi. Tổng số đạn trong kho chỉ đủ dùng cho đến tháng 6-1975, thuốc men thiếu thốn, số tử vong lên cao khiến tinh thần binh sĩ xuống thấp.
Người Mỹ ký hiệp định Ba Lê để rút quân ra khỏi VN và lấy tù binh về không đếm xỉa gì tới sự tồn vong của miền Nam nước Việt. Sir R Thompson, chuyên viên về du kích chiến cho rằng miền Nam bị đe doạ chỉ vì để cứu nước Mỹ khỏi cảnh xâu xé nhau, miền Bắc bị buộc phải ngồi vào bàn hội nghị để cứu nước Mỹ. Ông M.Gauvin nguyên chủ tịch Ủy Hội Kiểm Soát Quốc tế tuyên bố ngày 4-4-1975 cho rằng miền Nam VN thất bại do quyết tâm bỏ rơi đồng minh của Mỹ nhiều hơn là do hết đạn.
“Còn về khả năng tồn tại, ông cho là ‘vẫn còn tùy thuộc vào số quân viện Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH’. ĐT Viên kết luận “Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu không nhận được quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu” Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 457.
Khi lập luận như trên người ta sẽ đạt thêm câu hỏi tại sao họ lại bỏ rơi VNCH? ông Nguyễn Tiến Hưng cho biết
“Tại sao Mỹ lại dứt khoát bỏ rơi Miền nam? Câu trả lời ngắn gọn là vì quyền lợi của Mỹ ở Việt nam đã không còn nữa” KĐMTC trang 455.
Ngoài những nguyên nhân gần nêu trên, lại những động cơ khác đã gây lên hoặc ảnh hưởng trực tiếp mà ta gọi là nguyên nhân xa, người Pháp gọi là cause lointaine.
Thuyết Domino không còn giá trị
Khoảng tháng 3 năm ngoái, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Laird dưới thời Tổng Thống Nixon cho biết Tổng Thống Ford năm 1975 đã bác bỏ thuyết Domino có từ 7-4-1954 dưới thời Tổng Thống Eisenhower, thuyết này cho rằng hễ mất một nước thì mất luôn nhiều quốc gia khác y như trong ván cờ Domino.
Các cấp lãnh đạo Hoa Kỳ đã sống qua thập niên 30 với những biến chuyển lịch sử trên thế giới và nhận thấy có những tương đồng với tình hình Đông Nam Á đương thời: Năm 1931 Nhật chiếm Mãn Châu đưa tới lấn chiếm Trung Hoa, Đông Dương, Mã lai..rồi dẫn tới trận Trân Châu Cảng. Đức chiếm Áo, Tiệp rồi Pháp, Bỉ và đưa tới chiến tranh Âu Châu. Nếu xâm lược không bị trừng trị nó sẽ lan rộng hơn lên theo kiểu tầm ăn dâu y như một căn bệnh do vi trùng đục khoét. Những biến chuyển lịch sử trên đây đã hình thành học thuyết Domino.
Tổng Thống Eisenhower là người đầu tiên đề xướng học thuyết Domino trong cuộc họp báo ngày 7-4-1954, trả lời phóng viên báo chí ông cho biết nếu mất Đông Dương thì dần dần sẽ mất Miến Điện, Thái lan, Mã Lai, Nam Dương…và rồi từ từ Đài Loan , Nhật, Phi Luật Tân, Úc , Tân Tây Lan cũng mất theo. Thuyết Dommino đã khiến Mỹ quyết tâm ngăn chận chính sách tầm ăn dâu, sau chiến tranh Triều Tiên, Mỹ thấy không thể hoà hoãn với Cộng Sản được.
Việt Nam được coi như một thí điểm để ngăn chận làn sóng đỏ, người Mỹ cho rằng nếu làm ngơ cho CS xâm lấn các nước lân bang thì dần dần năm châu bốn biển sẽ bị nhuộm đỏ, Hoa Kỳ tới lúc đó sẽ bị bao bọc bởi biển đỏ và họ sẽ phải xây một Vạn lý trường thành thứ hai để chống ngoại xâm. Người Mỹ chỉ đổ quân đổ của vào một cuộc chiến nào khi cảm thấy nền an ninh của đất nước họ bị đe dọa.
Ngay khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt gíup Việt Minh, tháng 10-1950 Mỹ đã đã vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm Mỹ chở tới Sài Gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, mới đầu quân viện Mỹ cho Pháp mới chỉ là 17% nhưng vài năm sau, chiến tranh bùng nổ dữ dội, quân viện tăng lên tới 74% .
Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Việt Nam để biến nơi đây thành tiền đồn chống Cộng tại Á Châu. Những năm 1963, 1964 CS tăng cường chiến tranh du kích hòng xâm lược miền Nam bằng bạo lực. Mỹ vội ồ ạt đổ quân vào miền Nam từ giữa năm 1965, tới cuối năm tổng số quân Mỹ tăng lên 184 ngàn người, năm sau 1966 tăng vọt lên 385 ngàn, năm 1967 lên 485 ngàn, năm 1968 lên 536 ngàn, đó là đỉnh cao của cuộc đổ quân. Tướng Wesmoreland cho rằng nếu Mỹ không đưa quân vào VN năm 1965 thì chỉ trong vòng 6 tháng là mất vì áp lực CS rất nặng. Sau Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, chính phủ Johnson bị dân chúng chỉ trích dữ dội vì sau mấy năm truy lùng và diệt địch mà vẫn không bình định được miền Nam. Giới lãnh đạo Mỹ bắt đầu chán ghét cuộc chiến tranh VN vì phong trào phản chiến từ 1965 đến nay ngày càng dữ dội, và nhất là họ thấy rằng hiểm hoạ CS đe doạ Đông Nam Á không còn nặng nề như trước.
BV trở thành quân tốt lợi hại cho CS Quốc tế, BV cũng bị CS Quốc tếthúc dục đánh tới cùng để làm suy yếu tiềm lực kinh tế, chính trị Đế Quốc, tuy nhiên hiểm họa CS tại Á Châu không còn trầm trọng như trước nữa vì nay Nga Tầu chống đối nhau ra mặt như kẻ thù. Đụng phải sức chống trả dữ dội của Thế giới Tự Do, CS Quốc tế cũng chùn bước vả lại việc cung cấp vũ khí cho đàn em BV họ cũng tốn kém rất nhiều, có tài liệu cho biết Trung Cộng viện trợ cho BV từ 1950 tới 1975 tốn kém 20 tỉ đô la (Việt Nguyên, Tổng Thống Nixon sang Tầu..). Thuyết Domino dần dần không còn ý nghĩa như từ 1955 cho tới những năm Mỹ mới đổ quân vào VN.
Năm 1969 Nixon nhậm chức Tổng Thống hứa hẹn với dân Mỹ sẽ rút quân về nước. Họ thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh từ 1969, 1970.. Quân đội Mỹ sẽ bàn giao trách nhiệm phòng thủ và bảo vệ miền Nam cho QĐVNCH. Thực hiện VN hoá chiến tranh là họ đã nghĩ đến việc bỏ VN cũng như Đông Dương vì thuyết Domino không còn đứng vững, mất VN cũng sẽ không ảnh hưởng gì tới các nước Đông Nam Á. Quyết định bỏ Đông Dương coi như đã bắt đầu thành hình, vấn đề còn lại là rút lui trong danh dự để khỏi bẽ mặt một siêu cường. Từ năm 1969 họ đã đi đêm với Trung Cộng để tìm cách rút quân ra khỏi VN, bỏ Đông Dương vì nó không còn đúng với ý nghĩa tiền đồn chống Cộng nữa.
Song song với VN hoá chiến tranh, họ tìm cách hoà hoãn với Trung Cộng, anh khổng lồ nghèo kiết xác này cũng tốn kém rất nhiều với cuộc chiến tranh VN và cũng muốn hoà với Mỹ. Ngày 21-2-1972, cái bắt tay lịch sử giữa Nixon và Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh đã thay đổi cả một kỷ nguyên. Điều mà người Mỹ ao ước bấy lâu nay đã thành sự thật, Đông Nam Á không còn bị đe doạ bởi chiến lược tầm ăn dâu của Trung cộng, thuyết Dommino đến lúc lỗi thời, không còn giá trị, bỏ Đông Dương coi như điều tất yếu.
Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972 BV đánh cấp sư đoàn với nhiều xe tăng đại bác rầm rộ. Mỹ muốn ta phải thắng, họ đã yểm trợ oanh tạc B52 tối đa và Hải pháo của hơn 20 tầu chiến để tạo thế mạnh trên bàn hội nghị tại cuộc Hoà đàm Ba Lê. Hiệp định Paris ký kết ngày28-1-1973 chỉ là mớ giấy lộn để Mỹ rút quân và lấy về 587 tù binh mặc dù họ thừa biết VNCH sẽ lãnh đủ.
Nguyễn Đức Phương trích dẫn lời Tướng Đính trong hồi ký của ông .
“Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính đã ghi lại nhận xét của ông Ngô Đình Nhu từ đầu thập niên 60 về chiến lược toàn cầu của Mỹ như sau: ‘Nếu tụi nó (Mỹ) nhảy vô để chiến thắng Cộng Sản như ở Triều Tiên, bất kể một cuộc can thiệp của Tầu hay… đệ tam thế chiến, thì mình cũng để cho tụi nó thử sức với Cộng sản xem sao, chứ ở đây mục đích của tụi nó là tìm một thế ‘sống chung nào đó’ với Cộng Sản, thì đánh để làm chi, rốt cuộc cũng chỉ như rứa? Con đường của Hoa Thịnh Đốn muốn đi tới là Bắc Kinh, mình chỉ là vật tế thần ‘cục kê’ của tụi nó’. Để rồi tướng Đính kết luận: ‘Nhận định đó đến thập niên 1970 đã trở thành sự thật và khi Nixon bắt tay được với Mao Trạch Đông, thì tiền đồn chống Cộng của VNCH đã hết ý nghĩa, và do đó Hoa Thịnh Đốn phải thu xếp để chấm dứt một cuộc chiến tranh không còn cần thiết mặc cho nền hoà bình này đã làm sỉ nhục tính cách siêu cường của Mỹ và đẩy miền Nam vào địa ngục của Cộng Sản Hà Nội” Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 635.
Nguyễn Đức Phương kết luận.
“Như vậy cả hai miền Nam, bắc Việt Nam đều không nhìn thấy được chính sách ngoại giao của Mỹ từ đầu thập niên 70 để tiếp tục cuộc chém giết. Mùa Hè năm 1972 không cần thiết phải là một mùa Hè rực lửa. Những trận đánh đẫm máu tại Cửa Việt, tại Sa Huỳnh đã hầu như vô nghĩa. Hiệp định Ba Lê chỉ là một biên lai để khách hành nhận lại tù binh và đoạn chiến. Số phận của VNCH đã được định đoạt từ lâu và cũng không phải tại chiến trường.” CTVNTT trang 635, 636.
Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng nói.
“ Kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Trung Quốc thì giá trị của Miền Nam để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’ đã không còn là bao nhiêu trong những tính toán của Mỹ về hơn thiệt (cost-benefits). Dần dần, Miền Nam đã hết vai trò một tiền đồn của thế giới Tự Do. Và như vậy, vấn đề còn lại đối với Mỹ thì chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít bị tổn hại về uy tín là được rồi” Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 456, 457.
Phong trào Phản Chiến ngày một lên cao cũng đã đóng vai trò then chốt đưa tới sụp đổ miền Nam ngoài thuyết Domino. Mặc dù là nguyên nhân xa, nhưng Phong trào có tính cách quyết định vì nó là động cơ thúc đẩy Quốc Hội bỏ phiếu cắt viện trợ quốc phòng cho miền Nam đưa tới sụp đổ trong chớp mắt
Phản Chiến.
Phong trào phát sinh từ năm 1965 ngay sau khi Tổng thống Johnson đổ quân vào Việt Nam giao chiến với Việt Cộng, hồi ấy khoảng 5,000 nhà khoa học phản đối chiến tranh hoá học khai quang. Ngày15-5-1966 khoảng 12 ngàn người biểu tình chống chính sách của Tổng Thống Johson tại Việt nam. Ngày 23-10-1967 có khoảng 30 ngàn người biểu tình trước Ngũ Giác Đài, họ trương biểu ngữ nói “Nhân danh nhân loại chúng tôi muốn nói chuyện với bọn người gây chiến”. Ngày 12-4-1969 tại Nữu Ước và 32 thành phố lớn biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, thời điểm này có 31 ngàn người lính Mỹ chết ở Việt Nam.
Giữa tháng 10-1969 khoảng 1,000 người biểu tình phản chiến tại Chicago, 5,000 người phản chiến tại New Jeersey bị giải tán bằng lựu đạn cay. Ngày 11-11-1969 phe ủng hộ chính phủ Nixon, cựu chiến binh Mỹ.. tổng cộng 10 ngàn người biểu tình tại Hoa Thịnh Đốn.
Ngày 15-11-1969 có tới 300 ngàn người chống chiến tranh tại Hoa Thịnh Đốn và các thành phố khác, Ba Lê có khoảng 20 ngàn người phản chiến. Ngày 4-5-1970 trong một cuộc biểu tình tại đại học Kent, Ohio 4 sinh viên phản chiến bị quân đội bắn chết, nhiều người khác bị thương khiến phong trào càng lên cao dữ dội
Người Mỹ nói, đất nước dân tộc đã bị phân hoá, a people divided. Thật vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hoá vì chiến tranh VN. Nhiều người cho rằng phản chiến do những cuộc biểu tình của sinh viên nhưng có lẽ quan trọng hơn là hai nguồn chống đối khác đó là những người nghèo và dân tộc thiểu số. Họ không được hoãn dịch vì lý do học vấn, dân da đen bị gọi nhập ngũ vì chính phủ cần nhân lực cho cuộc chiến tranh của Tổng thống Johnson khiến họ nghi ngờ chính phủ. Suốt thời kỳ chiến tranh VN, có 11 triệu người Mỹ đã phục vụ (luân phiên) cho ngành Quốc phòng, 2 triệu người đã (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đã trốn quân dịch, trong số này 200 ngàn bị buộc tội trốn quân dịch, 300 ngàn tìm cách xin hoãn dịch bị từ chối, 70 ngàn được hoãn dịch, khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người trốn sang Canada và 20 ngàn người trốn tại Mỹ hay ra ngoại quốc.
Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao.
Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên bố chống chiến tranh tháng 7-1965, ông ta tránh đề cập tới chiến tranh một thời gian nhưng cuối 1966 ông nản lòng khi thấy chiến tranh leo thang và phản chiến lan rộng tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và ủng hộ chính phủ đánh nhau vì bất đồng chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King dẫn đầu phong trào antiwar tại Chicago. Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ Riverside Church New York ông đã lớn tiếng chống đối chính sách chiến tranh của chính phủ, King vừa đòi nhân quyền vừa chống chiến tranh, ông bị ám sát năm 1968.
Ngay trong quân đội cũng có những người chống chiến tranh, năm 1967 có 6 cựu quân nhân thành lập một tổ chức lấy tên Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans against The War gọi tắt là VVAW). Họ lý luận rằng những người đã bị gọi nhập ngũ đưa sang Việt Nam tham chiến có quyền phản đối chiến tranh, năm 1970 VVAW có 600 hội viên, mấy năm sau tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức thuyết trình tại Detroit, 100 người cựu chiến binh dẫn chứng tội ác chiến tranh, từ 19-4 tới 23-4 -1971 họ biểu tình tại Washington D.C rồi cắm dùi tại công viên Potomac Park. Họ diễn hành cùng những bà mẹ có con là lính chết trận ở Việt Nam đến nghĩa trang Arlington National Cemetery. Những người này đã vận động Quốc Hội để sớm chấm dứt chiến tranh. Tình trạng đã đi đến chỗ thật bi đát khi những người này tìm cách trả lại huy chương cho Quốc Hội.
Chính phủ ban hành lệnh cấm cuộc cắm trại, lập hàng rào gỗ quanh điện Capitol, những người cựu chiến binh đã ném trả huy chương, trong số này có John Kerry, ứng cử viên Tổng Thống năm 2004. Họ tố cáo lính Mỹ khi hành quân vào các làmg mạc ở Việt Nam đã hãm hiếp, đốt làng, cắt tai, chặt đầu người dân .. y như quân Mông cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn. Họ nói đất nước ta đã tạo dựng con quái vật hung dữ, đó là đạo quân một triệu người, và những người lính chiến đã được chỉ dậy dùng bạo lực và chết chẳng có mục đích nào cả ( … and who are given the chance to die for the biggest nothing in history), chúng tôi cựu chiến binh trở về trong uất hận vì bị chính phủ Hoa Kỳ lạm dụng.
Năm 1970, Phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại trường Wespoint rằng chỉ có một thiểu số phóng đại những mặt xấu của bọn lưu manh côn đồ nhưng thực ra đa số chiến sĩ ta đã chiến đấu, chết tại những cánh đồng lúa Á Châu để bảo vệ tự do trong khi một thiểu số lợi dụng làm bay. Bọn phản chiến đã dùng điểm này để công kích nỗ lực của ta ở Việt Nam.
Những cựu chiến binh này nói người dân Mỹ đã bị chính phủ đánh lừa, ta không thể thắng được cuộc chiến này nếu cứ tiếp tục như vậy và phải rút bỏ Việt Nam, họ nói tình hình Việt Nam không có gì để đe dọa Hoa Kỳ, thuyết môi hở răng lạnh là sai (.. in our opinion and from our experience, there is nothing in South Vietnam which could happen that realistally threatens the United States Of America). Chúng tôi đòi hỏi ở Quốc Hội Hoa Kỳ nơi có thẩm quyền tạo dựng và duy trì quân đội, chúng tôi đến đây không phải để gặp Tổng Thống mà tin rằng Quốc Hội có thể thoả mãn ý nguyện người dân để đưa chúng ra rút khỏi VN (that we should be out of Vietnam now..)
Tình hình phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965 đến 1971 khiến cho chính phủ ngày một suy yếu, đất nước bị phân hoá, chính phủ vừa phải lo cuộc chiến tranh miền Nam vừa phải đối đầu với phong trào phản chiến.
Chúng ta có thể kết luận một cách giản dị phong trào phản chiến xuất phát từ tâm lý của anh nhà giầu sợ chết, dù được che đậy dưới hình thức nào cũng không thể dấu diếm được cái bản chất hèn nhát của anh nhà giầu. Đầu năm 1969 có vào khoảng 31 ngàn lính Mỹ tử thương tại Việt Nam, theo tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân mất gần 290 ngàn cán binh, cho tới cuối 1968 có vào khoảng từ 500 cho tới 600 ngàn Việt Cộng tử thương. Tính ra số tổn thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng 5% hoặc 10% so với số tử của VC nhưng địch không bao giờ có một lời than vãn, như thế ta thấy người Mỹ đã sai lầm khi tham gia cuộc chiến tranh với một kẻ thù nghèo đói, thằng nghèo đói không bao giờ sợ chết. Người Mỹ đã tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.
Người Mỹ thích làm anh hùng, họ rất thích những đề tài anh hùng hào hiệp, cuốn phim nổi tiếng của Nhật, Bẩy Người Hiệp Sĩ (Seven Samourais) quay năm 1954 đã được giới làm phim Mỹ vô cùng hâm mộ, họ bắt chước quay thành phim cao bồi miền Tây tới 4 lần vào những năm 1960, 1966, 1969, 1998. Nội dung phim ca ngợi tinh thần của bẩy người hiệp sĩ anh hùng giúp dân làng chống lại bọn cướp Người Mỹ rất thích những đề tài anh hùng hào kiệt, diệt gian trừ bạo như vậy, họ thích làm “yêng hùng” nhưng thật là khôi hài thay, “yêng hùng sợ chết”! Người Mỹ thích làm trùm thế giới nhưng lại sợ chết, thật là diễu hết chỗ nói!
Phản chiến đã tạo niềm tin cho CSBV, chúng chỉ chờ có thế. Vào những năm 1952, 1953 người dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh Đông Dương vừa chết người tốn của, trong suốt cuộc chiến tranh 1947-1954 đã có 19 chính phủ Pháp bị đánh đổ vì không giải quyết được cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào phản chiến để đối phương phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược “cố đấm ăn xôi” của VC đã từng thành công từ cuộc chiến tranh Việt Pháp nay chúng lại đem áp dụng vào cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Phong trào phản chiến đã là cơ hội bằng vàng cho đảng Dân Chủ hốt phiếu và rồi nắm đa số tại Quốc Hội. Chính họ đã hạ “Nhát gươm đao phủ” thanh toán miền Nam VN. Người Mỹ cũng đổ lỗi cho phía VN, nhiều người cũng cho nguyên nhân cả từ hai phía.


– Phía Việt Nam.
Các nhà chính trị, tướng lãnh, ký giả, các nhà nghiên cứu… như cựu đại sứ Bùi Diễm, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Hoàng Lạc, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương … đều cho rằng ta thiếu nhà lãnh đạo có khả năng để lèo lái con thuyền quốc gia, thậm chí có người nói đất nước đã được giao phó cho lãnh đạo tồi.
Thật vậy những năm đầu của chế độ Nguyễn Văn Thiệu, 1967, 1968, guồng máy tương đối còn có kỷ cương nhưng dần dần đi tới chỗ tham nhũng thối nát tồi tệ, nó đã phá hoại kinh tế vật chất và làm suy sụp tinh thần quân dân. Tham nhũng hối lộ có từ thời Tây nhưng dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu có thể nói đã tiến tới chỗ tột cùng của thối nát. Các chế độ, chính phủ Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Cao Kỳ… cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng người dân còn chấp nhận được, đến Nguyễn Văn Thiệu thì thật hết nước nói. Sau khi miền Trung thất thủ lọt vào tay Cộng quân, chúng tôi có nghe một ông công chức than thở “chế độ Thiệu đi theo vết xe đổ của Tưởng Giới thạch, các ông tỉnh trưởng chết gục trên đống vàng”!
Trong cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 trang 56, Phạm Huấn có nói.
“Theo dư luận, cái giá để mua chức Tỉnh trưởng qua đường giây bà Thiệu, bà Khiêm, thường thường từ 10 đến 20 triệu”
Tệ nạn mua quan bán tước ngày càng lộ liễu, những chức vụ, công việc hái ra tiền đều được mua bán trả giá cả sòng phẳng, ngoài ra quan chức phải nộp tiền hụi chết cho cấp trên theo hệ thống quân giai, Quận nộp cho Tỉnh, Tỉnh nộp cho Vùng, Vùng nộp cho Trung Ương. Nguyễn Đức Phương nói các hình thức tham nhũng tại miền Nam đã được nhóm nghiên cứu thuộc tổ hợp Rand xếp thành bốn loại chính: buôn lậu, hối lộ, mua quan bán tước và lính kiểng, lính ma.. Trong phim Vietnam History by television, ông giám đốc CIA khi trả lời phỏng vấn cho biết tham nhũng (corruption) đã phát triển quá độ tại miền Nam VN, chỗ nào cũng có, chính phủ Mỹ biết rõ như vậy và họ đã phải che dấu không cho báo chí biết sợ người ta làm um lên, nếu đến tai Quốc hội viện trợ sẽ bị cắt giảm.
Tại các tỉnh, viện trợ kinh tế, xã hội, bình định phát triển.. bị đục khoét trầm trọng, tiền viện trợ của Mỹ không được dùng vào mục tiêu kinh tế quân sự mà vào túi bọn quan lại tham ô. Tham nhũng bắt nguồn từ lòng tham vô đáy của con người hơn là vì thiếu thốn. Các quan chức có được căn nhà, cái xe hơi thì cũng được rồi, so với đời sống nhân dân như thế cũng là được quá ưu đãi. Nhưng kẻ tham ô không dừng chân ở đó, được voi tròi tiên, họ tậu rừng tậu ruộng, tậu đồn điền, mua dăm bẩy căn nhà nghỉ mát, cái ở Nha Trang, cái Đà Lạt, Vũng Tầu, chuyển ngân ra ngoại quốc… Tham nhũng như đã nói ở trên vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm suy yếu tinh thần người dân cũng như người lính chiến. Sau đây là tham nhũng dười con mắt người ngoại quốc.
Hậu quả của tình trạng tham nhũng này đã được một sĩ quan nhận xét.


‘ Tham nhũng luôn luôn tạo ra sự bất công trong xã hội. Tại Việt Nam, một nước đang trong thời chiến thì sự bất công trong xã hội lại càng rõ ràng hơn so với các nước khác. Tham nhũng đã tạo ra một thiểu số nắm giữ tất cả các quyền lực và tài nguyên, phần lớn giai cấp trung lưu và nông dân trở thành nghèo hơn và phải chịu hy sinh.Họ mới chính là người đóng thuế cho chính phủ, hối lộ cho cảnh sát, phải mua phân bón với giá cắt cổ để rồi phải bán gạo với giá rẻ do chính phủ ấn định, và cũng chính họ đã cho con cái đi chiến đấu và hy sinh cho đất nước trong khi các công chức cao cấp của chính phủ và những kẻ giầu có lại gửi con cái ra nước ngoài.Một bác sĩ quân y đã nói với tôi rằng ông đau lòng khi nhìn thấy những thương binh, các binh sĩ cụt chân tay nằm đầy tại quân y viện đều thuộc giai cấp bình dân, thuộc các gia đình nông dân, các thương binh này phải chịu đựng và hy sinh cho thiểu số tham nhũng thống trị. Chính phủ tuyên bố tìm cách chiếm lòng dân nhưng thực tế chỉ làm lớn hơn khoảng cách giữa giai cấp lãnh đạo và quần chúng.” Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập, trang 804, 805.
Hồi ấy trên báo chí đã có người lên án bất công xã hội tại miền Nam ngày càng trở lên ghê tởm, trong khi binh sĩ chết như rạ ngoài mặt trận thì tại các thành phố lớn, bọn nhà giầu mua xe hơi bóng lộn, xây nhà cao năm bẩy tầng lầu, ai nấy mặt vênh mày vác, khinh người rẻ của. Bọn con buôn hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi dùng tiền cho con cái đi du học ngoại quốc trong khi những kẻ xông pha mũi tên hòn đạn ngoài chiến trường phải chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Thực trạng xã hội đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần người chiến sĩ, họ phải hy sinh, chiến đấu cho một chế độ bất công thối nát.
Phạm Huấn có ý chê các Tướng lãnh Việt Nam không có sự ngay thẳng, tư cách như các Tướng lãnh ngoại quốc. Năm 1950 De Lattre Tướng 5 sao, Tư Lệnh Đông Dương nhưng vẫn để cho người con một, Bernard De Lattre đóng tại đền Non nước Ninh Bình. Mặc dù vua Bảo Đại đề nghị đưa Bernard về làm trong văn phòng Quốc Trưởng nhưng ông Tướng vẫn để con chiến đấu tại chiến trường và tử trận tháng 5-1951. Khi Mỹ bắt đầu ném bom Bắc Việt, Đô đốc Sharps, Tư Lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương đã để con trai ông, Thiếu Tá phi công Mac Cain tham gia oanh tạc và đã bị bắn rơi. “Trong khi đó, suốt cuộc chiến 21 năm sau cùng tại Việt Nam, chắc chắn không thể tìm thấy con một ông tướng nào chiến đấu ngoài mặt trận” Phạm Huấn, Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 133
“..con những ông Tướng khác thì cứ gần đến tuổi động viên đã bằng cách này, cách khác, được xuất ngoại du học. Chung qui chỉ có những sinh viên, học sinh con nhà nghèo và không thế lực, sẽ bị thi hành lệnh Tổng động viên một cách rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, vì không có tiền bạc để chạy chọt, chắc chắn không bao giờ họ được phục vụ tại ‘chỗ ngon, chỗ bở’ ở Sài Gòn hay hay các tỉnh” Phạm Huấn, Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 134, viết theo lời kể của Thiếu uý Phạm văn Trung, sư đoàn 18 BB.
Trần Phan Anh trong cuốn Trận Chiến Mùa Hè 1972 trang 155, 156 có nêu ra một vụ tham nhũng hối lộ động trời của các Tướng lãnh VNCH, chẳng biết hư thực ra sao.
“Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3-1972, tình báo VNCH báo cáo sự hiện diện của công trường 5 Bắc Việt tại căn cứ địa 712, gần thị trấn Snoul, Cam Bốt, khoảng 30 cây số Tây Bắc Quận lỵ Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13. Hai công trường 7, 9 được phát hiện tại vùng đồn điền cao su Dambe và Chup trên đất Cam Bốt, nơi đó là hai mục tiêu hành quân của Quân đoàn III thiết kế cho Đệ tam cá nguyệt 1971. Kế hoạch đã bị đình hoãn sau cuộc tử nạn của Trung Tướng Đỗ Cao trí, Tư lệïnh quân đoàn III QLVNCH.
Trung Tướng Đỗ Cao Trí đã bị thảm sát vì đã cùng Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang nhận hối lộ 30 triệu đô la do toà Đại sứ Nga tại Paris trao cho Quang để thả Trung Ương Cục và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chạy trối chết qua Cam Bốt sau khi bị liên quân Việt Mỹ bao vây tại vùng rừng Tây Ninh vì những cánh quân của Quân Đoàn III tiến quá nhanh, cục R chậm chân kẹt lại bị CIA phát hiện do việc họ đánh điện cầu cứu Hà Nội. MACV phối hợp Đệ II Quân Đoàn Tiền Phương Hoa Kỳ (US II Field Forces) cùng Quân đoàn 3 VNCH được tăng cường một Lữ đoàn Dù, Liên đoàn 5, 6 Biệt động Quân tung quân bao vây, Cục R chỉ còn một trung đoàn bảo vệ, cá nằm trong rọ chờ lên thớt. Khi Liên quân Việt Mỹ siết chặt vòng vây, Lữ đoàn Dù thọc mũi tấn công khuấy động, một Liên đoàn Biệt Động Quân lãnh nhiệm vụ án ngữ biên giới Cam Bốt thì bất ngờ nhận được lệnh Trung Tướng Đỗ Cao trí cho lệnh rút về chi khu Phước Thành, Tây Ninh nghỉ dưỡng quân thì tối hôm đó bị trung đoàn bảo vệ Cục R đánh úp để che chở cho toàn bộ Trung ương Cục hạy trối chết qua Cam Bốt về hướng đồn điền Snoul.
Sau đó CIA tức giận nghĩ rằng Đỗ Cao Trí là người của Cộng sản nên ra tay tiêu diệt, những chuyện này do chính Đặc sứ Komer (hàm Đại sứ) kể lại, ông Đặc Trách Bình Định phát triển MACV.”
Khởi đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh mục Trần Hữu Thanh Chủ Tịch Phong Trào Nhân Dân chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo trạng số 1 tố cáo ông Thiệu tham nhũng và yêu cầu từ chức. Tướng Thiệu bị tố tham nhũng nhiều vụ như nhà cửa, đất đai, đầu cơ phân bón, gạo miền Trung, buôn bán bạch phiến.. . phong trào lôi cuốn các nhóm khác như sinh viên, ký giả, chính khách.. Đầu tháng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng võ lực khiến ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng phái.
Người dân trong nước đã quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên người Mỹ phải chán nản hơn thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió lùa vào nhà trống, cựu đại sứ Bùi Diễm nói: “Một quốc hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi vì đã yểm trợ một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm và thối nát”
Nhà bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, ký giả… đều cho rằng đất nước đã được giao phó vào tay lãnh đạo tồi. Trần Việt Đại Hưng cũng như nhiều nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những nhà lãnh đạo mà chỉ là những anh cai thầu chiến tranh, hễ có tiền thì đánh, không tiền thì chạy. Trong tám, chín năm cầm quyền, ta không thấy chính phủ Thiệu có một kế hoạch gì về chính trị, kinh tế cũng như quân sự mà chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng ta đã hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ từ quốc phòng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…
Đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được học tập về đường lối, lý tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ là hình thức. Tổ chức hoạt động tuyên truyền của chính phủ rất yếu kém, không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân trong khi kẻ địch thường xuyên tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội để lái họ theo đường hướng chúng đã vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của ta không giáo dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công chức một lý tưởng Quốc gia, lý tưởng Tự Do Dân Chủ để quân dân ta có một tinh thần vững mạnh mà chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu thì đánh đấy.
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc chiến đấu.
“Cuộc chiến tranh quá dài đã khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán hoàn toàn việc bảo vệ đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên không thiết tha, đôi khi còn trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Tất cả những mục nát của chính quyến, thờ ơ của dân chúng và sự ung thối của xã hội miền nam đã cấu thành yếu tố tự hủy” CTVNTT, trang 806
Một điều không thể chối cãi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ khiến cho CS đã thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46.. các đảng phái Quốc Gia đã chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng thời cơ tuyên truyền lôi cuốn quần chúng để rồi cướp được chính quyền. Ông Ngô Đình Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ Tướng tiền nhiệm như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm, Bửu Lộc… ông Diệm là người có bản lãnh cao nhất, dám chơi bạo hất cẳng Pháp để đi theo Mỹ. Đụng chạm với Bảo Đại thân Pháp, tháng 4-1955, ông Diệm được triệu hồi sang Pháp để Quốc trưởng cất chức. Các đảng phái Quốc gia, nhân sĩ.. đều nhiệt tình ủng hộ Thủ Tướng Diệm, đả đảo và truất phế ông vua vong bản Bảo Đại. Năm 1956 ông Diệm Trưng Cầu Dân Ý lên làm Tổng Thống rồi từ từ xung đột với các đảng phái, nhân sĩ Quốc Gia. Những người Quốc Gia trước đây ủng hộ ông nay quay lại chống ông. Chính phủ cũng chống đối đàn áp những người đối lập ra mặt.ng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng võ lực khiến ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng phái.
Người dân trong nước đã quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên người Mỹ phải chán nản hơn thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió lùa vào nhà trống, cựu đại sứ Bùi Diễm nói: “Một quốc hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi vì đã yểm trợ một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm và thối nát”
Nhà bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, ký giả… đều cho rằng đất nước đã được giao phó vào tay lãnh đạo tồi. Trần Việt Đại Hưng cũng như nhiều nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những nhà lãnh đạo mà chỉ là những anh cai thầu chiến tranh, hễ có tiền thì đánh, không tiền thì chạy. Trong tám, chín năm cầm quyền, ta không thấy chính phủ Thiệu có một kế hoạch gì về chính trị, kinh tế cũng như quân sự mà chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng ta đã hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ từ quốc phòng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…
Đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được học tập về đường lối, lý tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ là hình thức. Tổ chức hoạt động tuyên truyền của chính phủ rất yếu kém, không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân trong khi kẻ địch thường xuyên tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội để lái họ theo đường hướng chúng đã vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của ta không giáo dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công chức một lý tưởng Quốc gia, lý tưởng Tự Do Dân Chủ để quân dân ta có một tinh thần vững mạnh mà chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu thì đánh đấy.
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc chiến đấu.
“Cuộc chiến tranh quá dài đã khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán hoàn toàn việc bảo vệ đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên không thiết tha, đôi khi còn trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Tất cả những mục nát của chính quyến, thờ ơ của dân chúng và sự ung thối của xã hội miền nam đã cấu thành yếu tố tự hủy” CTVNTT, trang 806
Một điều không thể chối cãi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ khiến cho CS đã thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46.. các đảng phái Quốc Gia đã chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng thời cơ tuyên truyền lôi cuốn quần chúng để rồi cướp được chính quyền. Ông Ngô Đình Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ Tướng tiền nhiệm như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm,
Sau ngày đảo chính 1-11-1963, miền Nam lại lâm vào tình trạng chia rẽ trầm trọng gấp bội lần hơn trước. Các Tôn giáo, Tướng lãnh tranh giành quyền hành biến miền Nam thành một đất nước vô chính phủ. Phật Giáo, Công giáo chia rẽ đả kích nhau trên báo chí, rồi lại có phe chủ trương chia rẽ Bắc Nam để hòng thủ lợi. Năm 1966 chính quyền quân nhân đã tạm ổn định được tình hình lại bị phong trào Phật Giáo miền Trung chống đối dữ dội, phong trào đã gây tình trạng sáo trộn nhiễu nhương khiến cho nhân tâm sao xuyến, kẻ thù thừa cơ len lỏi phá hoại cơ cấu Quốc Gia.
Cuối tháng 3-1966 Phó Tổng Thống Mỹ Humphreys tuyên bố với báo Newsweek, ông bi quan cho rằng chỉ có ông Trời mới lật được thế cờ ở Việt Nam là một xứ có quá nhiều chuyện rắc rối. Mỹ sẵn sàng xét lại đường lối và sẵn sàng thừa nhận một VN không liên kết. Mỹ có thể chấp nhận cuộc tuyển cử tự do dù Cộng Sản có thể thắng trong cuộc bầu cử đó. Như thế những cuộc biểu tình, chia rẽ nội bộ của ta đã bắt đầu khiến người Mỹ chán nản, chính chúng ta làm cho họ chán.
Cho đến gần giờ thứ hai mươi lăm, cuối 1974 và đầu 1975, những cuộc biểu tình chống chính phủ của Linh mục Trần Hữu Thanh, đảng phái, chính khách… khiến cho các binh sĩ ngoài tiền tuyến mất tinh thần chán nản và ảnh hưởng tai hại đến sự sống còn của đất nước.
Ngoài ra chúng ta không thể quên một yếu tố ngoại lai vô cùng quan trọng, ta phải đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm.
– Kẻ Thù dai dẳng.
Năm 1947 bị Pháp truy kích Việt Minh thua chạy rút vào các chiến khu, từ năm 1949, Mao thắng Tưởng nhuộm đỏ Trung Hoa, Viêït Minh được Trung cộng viện trợ vũ khí ồ ạt bắt đầu chuyển bại thành thắng. Những năm 1950, 1951, 1952 được Trung Cộng dậy cho lối đánh biển người, Việt Minh lấy thịt đè người tấn công quân Pháp dữ dội tại trận Vĩnh Yên 1950, sông Đáy, Yên Cư Hạ.. mặc dù các trận đánh thí quân đẩy thanh niên hết lớp này đến lớp khác vào họng súng địch mà không thành công gì mấy nhưng nó đã làm cho đối phương phải run sợ trước quyết tâm của một kẻ thù liều mạng. Ngay từ 1952 người dân Pháp đã quá chán ghét cuộc chiến tranh Đông Dương, chết người tốn của, không hy vọng gì thắng được kẻ thù. Đến năm 1953, 1954 họ chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh đến cùng cực, cho dù nếu không thua trận Điện Biên Phủ họ cũng tính chuyện rút quân về nước càng sớm càng tốt. Trong suốt cuộc chiến 1947-1954 đã có 19 chính phủ bị đổ vì không giải quyết được cuộc chiến tranh Đông Dương.
Người Mỹ đổ quân vào miền Nam giữa năm 1965 tưởng rằng với hoả lực hùng hậu có thể đè bẹp cuộc xâm lăng rẻ tiền của Việt Cộng trong năm, sáu tháng. Nhưng chiến tranh ngày càng leo thang, VC bị oanh kích, truy nã chết như rạ nhưng lạ thay, không có dấu hiệu gì cho thấy địch phải rút lui, từ bỏ ý định xâm lăng. Không những thế, VC vẫn gia tăng xâm nhập hết lớp này đến lớp khác, vẫn cái chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy thanh niên vào chỗ chết có từ thời Pháp thuộc. Năm 1967, 68, 69 người Mỹ thống kê cho biết VC bị giết lên tới sáu, bẩy trăm nghìn, trong khi ấy người Mỹ chỉ mới thiệt hại ba chục nghìn, VC vẫn gia tăng xâm nhập và rồi người Mỹ thất vọng, họ cho rằêng VC sẵn sàng chiến đấu dù phải hy sinh thêm một triệu nữa và số thiệt hại của Mỹ sẽ còn lên tới 100 hay 200 ngàn người…
Ngày 26-2-1968, khi Liên quân Việt Mỹ đã tái chiếm lại Huế trong trận Tết Mậu thân, đài VOA nói: “Hôm nay ngày 26-2 Huế đã được các lực lượng VNCH và Mỹ hành quân giải toả, chấm dứt một cuộc chiến tranh bẩn thỉu nhất kéo dài từ một tháng qua”
Người Mỹ gọi cuộc chiến tranh Việt Nam bẩn thỉu vì các chiến thuật chiến lược của địch tiểu nhân nhơ bẩn chưa từng bao giờ thấy. VC miệng nói hoà bình tay rình đánh trộm, lợi dụng ngày hưu chiến, ngày Tết để đánh. Chủ trương lấy cứu cánh biện minh phương tiện, VC dùng tất cả mọi thủ đoạn tiểu nhân bẩn thỉu miễn là thắng trận, lùa đàn bà trẻ em đi trước để làm bia đỡ đạn. Người Mỹ đã từng chiến đấu tại Âu Châu với quân Đức, Á Châu với quân Nhật, Trung Cộng nhưng chưa hề thấy một cuộc chiến tranh nào kỳ quái như tại VN. Họ phải đương đầu với một kẻ thù dai dẳng, cố đấm ăn xôi, thí quân liều mạng, kẻ thù có mặt khắp nơi ẩn hiện như ma, một cuộc chiến tranh không giới tuyến. Tất cả những chiến thuật chiến lược VC đều không đếm xỉa gì tới qui ước chiến tranh quốc tế, địch pháo kích vào các khu vực đông dân cư để gây náo loạn, không đếm xỉa gì tới sinh mạng đàn bà trẻ nít.
Ngoài ra thủ đoạn chính trị, ngoại giao VC cũng cố đấm ăn xôi y như tại chiến trường, chúng cũng dai dẳng, bẩn thỉu, ma mãnh lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Sau trận Mậu Thân người Mỹ quá chán ghét chiến tranh VN và tìm cách rút chân ra vì biết không thể thắng được kẻ thù liều mạng trong một cuộc chiến tranh bẩn thỉu như vậy. Trận Mậu Thân VC tuy bị thiệt hại nặng về nhân mạng nhưng chúng lại thắng lợi to lớn về chính trị, địch đã tạo được sự ghê tởm cho kẻ thù để họ phải chán nản bỏ cuộc. Sự lì lợm, cố đấm ăn xôi đã đạt được kết quả mong muốn, VC đã thành công trong cuộc chiến tranh Việt Pháp và lại áp dụng “chiến lược cố đấm ăn xôi” đẩy thanh niên vào chỗ chết khiến kẻ thù phải ghê tởm. Sau 1975 những người ở ngoài Bắc vào Sài Gòn nói “ Thằng nghèo đói nó không sợ chết”, đó là nguyên do đưa tới sự sai lầm của người Mỹ, họ đã đưa quân vào tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.
Trong phim Vietnam History By Television, Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn của một ký giả Tây phương: “Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới thắng lợi cuối cùng”. Nguyên văn “Nous continuerons à combattre jusqu’à la victoire finale..”. Sự thực thì Giáp không chiến đấu mà chỉ đẩy thanh niên vào chỗ chết.
Hoa Kỳ đưa quân vào VN đánh CS là đã đi vào vết xe đổ của người Pháp, cuối cùng đã phải đầu hàng chiến lược bẩn thỉu ghê tởm của kẻ địch. Khát máu như bọn thực dân Pháp còn phải bỏ chạy huống hồ Mỹ. Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, người Mỹ muốn ta phải thắng, họ yểm trợ B52 trải thảm cho QĐVNCH giành thắng lợi tại chiến trường để có ưu thế trên bàn hội nghị Paris hòng ký kết hiệp Định rút quân về nước. Cuối cùng kẻ địch lại thắng thêm một trận vĩ đại nữa qua chiến lược cố đấm ăn xôi.
Ngoài ra chúng ta cũng phải kể thêm những yếu tố phụ thuộc khác, trong khi ta bị địch tấn công tại tuyến đầu, đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến cho quân dân mất tinh thần hốt hoảng tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ địch. Đài BBC xuyên tạc sự thật ở nhiều chỗ, Quảng Đức di tản ngày 22-3, mấy ngày sau VC mới dám vào nhưng BBC cũng nói đã bị tràn ngập…
Những nguyên nhân chúng tôi đã nêu ở trên chỉ là tương đối, mặc dù những nay nhiều hồ sơ đã được giải mật nhưng cuộc chiến tranh vẫn còn nhiều bí ẩn. Trả lời phỏng vấn của Phạm Huấn, Tướng Toàn cho biết sau khi ném 2 quả bom CBU ngày 15-4-1975 tại Long Khánh, CSBV bị thiệt hại khoảng 10 ngàn người, ông xin lệnh cho ném thêm 5 quả nữa nhưng được trả lời người Mỹ chỉ cung cấp ngòi nổ cho 2 quả, họ chỉ cho ta ném 2 quả mà thôi. Như thế ta mới thấy đã có sự sắp đặt sẵn giữa các thế lực siêu cường vì nếu họ cho ta ngòi nổ 10 quả mà không cần viện trợ khẩn cấp, không cần đưa B52 sang trải thảm ta vẫn thừa sức đẩy lui VC ra khỏi miền Nam. Rõ ràng họ đã sắp đặt bỏ miền Nam chứ không phải vấn đề tốn kém, bởi vì bom đã để sẵn cả nhưng chỉ thiếu ngòi, cái ngòi chẳng đáng giá bao nhiêu.
Ngày 6-4-1969 Wesmoreland cựu Tư Lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam và Đô Đốc Sharps, Cựu Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ phúc trình dài 347 trang về chiến tranh Việt Nam trong 4 năm qua. Họ cho biết nếu Mỹ không đổ quân vào Miền Nam năm 1965 thì sẽ mất trong 6 tháng. Hai cựu Tư Lệnh này nhấn mạnh sự bó tay của Quân đội Mỹ trước chính sách hạn chế chiến tranh của Tổng thống Johnson không cho đánh qua Mên Lào. Ngày 27-1969 Đô Đốc Sharps đăng báo công kích Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara đã không cho oanh tạc phá hủy tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho ngăn xâm nhập nên các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu.
Những người hoạch định chiến lược Mỹ không phải là những nhà quân sự mà là các chính trị gia, họ họach định với thái độ do dự và lo sợ nên các kế hoạch công phá địch đã bị vô hiệu. Nhiều người cũng đặt giả thuyết cho rằng họ bị tư bản chi phối cố tình kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, giả thuyết đó dựa trên sự nghi ngờ người Mỹ giả vờ không đánh thắng được Việt Cộng để cù cưa kéo dài chiến tranh. Sự nghi ngờ này đã đưa tới những cuộc biểu tình chống chiến tranh tại Mỹ cũng như tại Việt Nam năm 1966 tại miền Trung mà hậu quả chỉ là có lợi cho CS. Cuối năm 1969, cựu Tư Lệnh Wesmoreland tại Mỹ nói nếu Mỹ tiếp tục oanh tạc thì đã thắng rồi, BV lợi dụng hoà đàm yêu cầu Mỹ ngưng oanh tạc hơn một năm nay để chuyển quân vào đánh tiếp. Ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng miền Nam sụp đổ vì đã quá phụ thuộc vào Mỹ từ Quốc phòng, kinh tế, giao thông, ăn, ở.. Ta cũng quá ỷ lại vào Mỹ, lúc nào cũng tin tưởng vào sự giúp đỡ của người bạn Đồng Minh .
Sự thực đây không phải là lần đầu tiên người Mỹ phản bội đồng minh , cái trò mua bán đổi chác, bỏ rơi đàn em đã có từ Thế Chiến Thứ hai cách đây đã hơn 60 năm. Tháng 4-1945 , Tướng Paton Mỹ đánh Đức Quốc Xã tiến quân đến sát biên thùy Tiệp Khắc sắp vào giải phóng họ thì được lệnh phải dừng lại ngay lập tức vì Tiệp đã được nhường cho Nga. Sau này những bí mật đã được tiết lộ, sở dĩ Mỹ nhường Đông Âu cho Nga vì họ có nhờ Nga phụ giúp một tay đánh quân Nhật tại Á Châu. Họ có cho nghiên cứu làm bom nguyên tử nhưng không hy vọng gì lắm.
Cuối năm 1944, mặt trận Âu châu đã gần kết thúc nhưng tại Á châu, Nhật vẫn còn hơn 5 triệu quân đóng rải rác tại các nước Đông Nam Á, họ lại chiến đấu dai dẳng không chịu đầu hàng. Người Mỹ trù tính phải đánh một năm rưỡi hoặc hai năm mới xong, sẽ phải tốn nhiều xương máu, sinh mạng của tư bản quí như vàng. Muốn tiết kiệm xương máu nhân dân chỉ còn cách đem Đông Âu ra đánh đổi và Staline nhận lời ngay vì sinh mạng dân Xã hội chủ nghĩa lại rẻ như bèo. Nhà văn Lỗ Ma Ni, Virgil Gheorghui trong cuốn truyện Les Sacrifíés du Danube đã diễn tả nỗi đau đớn uất hận của 150 triệu người Đông Âu tan gia bại sản đã bị Hoa Kỳ bán đứng cho CS để cứu vớt nền văn minh Tây Âu.
Cuối năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất Mãn Châu, ngày 7-10-1948 Hồng quân đại thắng ở Hoa Bắc, hai hôm sau Tưởng Giới thạch xin Mỹ viện trợ để cứu nguy tình thế quá hiểm nghèo nhưng không được đáp ứng. Đầu tháng 12-1948 Tưởng phu nhân bà Tống Mỹ Linh đích thân sang Mỹ cầu viện nhưng họ lờ đi. Mỹ bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc không thương tiếc vì trước đây họ giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật, Tưởng đã cầm chân được một số lớn quân Nhật, nay đế quốc Nhật tan tành thành tro bụi, Tưởng không còn là đồng minh cần thiết nữa. Hoa Kỳ bỏ rơi Trung Hoa mang lại hậu quả tai hại cho cả Á Châu, Trung Cộng nhuộm đỏ nước Tầu rồi trở thành mối đe dọa cho Hoa Kỳ, cho nền hoà bình thế giới và bây giờ vẫn còn đe dọa, cái giá mà Hoa kỳ phải trả cho sự bỏ rơi này muôn đời không bao giờ hết.
Và để rồi gần 30 năm sau, tháng Tư 1975 họ lại dở cái trò vắt chanh bỏ vỏ ấy tại Việt Nam.
Người Mỹ có được lợi lộc gì trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ toàn là thiệt hại, dĩ nhiên có . Trước mắt họ đã ngăn chận được cuộc chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung Cộng tại Á Châu, sự phản ứng quyết liệt đã khiến khối Cộng chùn bước. Mỹ đã bắt tay hoà hoãn được với Trung cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi sự đe dọa an ninh cho đất nước. Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ” cho biết Trung cộng đã viện trợ cho Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kim trong suốt cuộc chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan Anh nói trong Trận Chiến Mùa Hè năm 1972: “QVNCH đã cầm chân và tiêu diệt phần lớn năng lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào cuộc chiến tranh. Họ đã tạo thời giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh tế và củng cố hàng ngũ. Kết cuộc họ đã bị trói tay để đưa đến thảm trạng 30 tháng 4 năm 1975”
Người Mỹ nói họ thiệt hại 300 tỷ Mỹ kim, không phải rằng họ cho VN số tiền khổng lồ ấy mà nó là một chi phí tổng gộp bao gồm cả lương lính, nhân viên quốc phòng, cố vấn, công nhân chế tạo vũ khí, chi phí di chuyển .. những khoản tiền ấy lưu hành trong phạm vi kinh tế, lãnh thổ nước họ hơn là ra ngoại quốc. Nước Mỹ khóc lóc thảm thương cho 58 ngàn người lính của họ đã “ủm củ tỉ” tại VN nhưng họ không hề đoái thương tới hàng mấy triệu người Việt Nam và Đông Dương chết vì bị các thế lực siêu cường xúi cho người ta giết lẫn nhau. Người Mỹ không hề thương tiếc cho hàng mấy triệu người dân Miên vô tội bị Khmer đỏ tàn sát vì họ đã bỏ rơi Đồng Minh một cách tàn nhẫn.
Ông Nguyễn Tiến Hưng nói: “Hoa Kỳ bỏ Việt Nam vì quyền lợi của họ tại đây không còn nữa.”
Trọng Đạt

Advertisements

Monday, May 22, 2017


CHÈ XỨ BẮC



Chè xứ Bắ
 
Nói đến uống chè xanh, có vẻ như Hà Nội là thủ phủ của các loại quán nước chè trên đất Bắc, từ quán vỉa hè đến quán lưu động ở các bến xe. Chỉ cần một chiếc ấm tích có vỏ giữ ấm, một điếu cày, một chiếc làn đựng ly, tách, thuốc lá và vài chiếc ghế đẩu là xem như một quán nước chè đã hình thành. Bất kì nơi nào có người qua lại, sẽ có người uống nước chè. Và chè xanh, chè nụ vối, chè lá, chè móc câu Thái Nguyên là thức uống quen thuộc của xứ Bắc.

Ông Hiệp, cư dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, chia sẻ với VOA: “Uống chè để tạo ra một cảm giác sảng khoái. Không hẳn và cũng không phải là nghiện. Ví dụ như người miền trong thì thích uống cà phê, nhưng tôi thì uống cà phê lại không cảm thấy ngon.”

Thái Nguyên được xem là thủ phủ của cây chè trên đất Bắc, cũng giống như Tây Nguyên là thủ phủ của cây cà phê ở phía Nam. Nếu như thuở trước, cây chè trồng theo lối truyền thống, không dùng đến thuốc trừ sâu và phân bón hóa học, thì hiện tại, việc trồng cây chè đã thành một thứ kĩ nghệ mang dáng dấp Trung Quốc.



Hà Nội ngàn năm văn hiến thơm thảo hương chè xanh, huyền hoặc khói thuốc Lào. Thái Nguyên với rừng cọ, đồi chè là nơi cung cấp nguồn chè cho cả miền Bắc. Thời kinh tế bị cái bóng Trung Quốc đè nặng, người nông dân loay hoay trong câu hỏi "làm thế nào để nâng cao năng suất, để cạnh tranh với giá chè rẻ bèo đến từ phương Bắc". Cuối cùng, kĩ nghệ trồng chè bằng thuốc và phân hóa học đã thành sức mạnh của chè Thái Nguyên.

Bà Hải, nông dân trồng chè ở Thái Nguyên, cho biết: “Làm chè thì kể ra cũng sống được, nhưng vài năm trở lại đây thuốc sâu đắt quá, phân thì công nhận là không cao. Nhưng không biết phun đúng hay sai thuốc mà phải phun 4, 5 lần thì mới được một lứa chè.”


Trong mỗi ly chè sáng sớm của người Hà Nội, liệu có ly chè nào không trộn lẫn vị thuốc kích thích tăng trưởng và phân hóa học? Và các đồi chè được bơm thuốc, bón phân định kỳ, có đồi chè nào không bị nhiễm thuốc và phân Trung Quốc? Những câu hỏi ấy như vòng xoáy chết chậm của thời kỳ ‘Made in China’.
Liệu người Hà Nội còn giữ nét thanh lịch chè xanh, thuốc Lào, ân cần, nhẹ nhàng mỗi sớm mai bao lâu nữa, khi chè xanh đã mất dần hương núi rừng nước Nam nguyên sơ và tinh khiết?
 http://www.voatiengviet.com/a/che-xu-bac/3852606.html

HỒI KÝCỦA GS. NGUYỄN PHONG CHÂU



Mười Năm Y Khoa
Nguyễn Phong Châu

Cuối cùng tôi đã được thuyên chuyển về làm giảng nghiệm viên tại Khu Sinh Ngữ, Đại Học Y Khoa Saigon vào đầu năm 1974. Ngay từ năm 1972, tôi đã nghe nói Khu Sinh Ngữ sẽ tuyển giảng viên để thế chỗ các giảng viên Mỹ, nên tôi đã tính chuyện nạp đơn, nhưng không nhớ rõ tại sao lại thôi. Nhưng qua năm 1973, sau Hòa Đàm Ba Lê việc Việt Nam hóa chiến tranh được xúc tiến mạnh, tôi được biết trưởng khu người Mỹ sắp về nước và giảng viên Việt là Nguyễn Hữu Quảng sẽ chính thức lên thay thế và khu cần tuyển gấp giảng viên Anh văn.
Lúc đó đang dậy tại Trung học Nguyễn Du, tôi vội đem đơn vào cho ông Hiệu trưởng Nguyễn văn Ngọc duyệt chuyển. Ông Ngọc đã không đắn đo, phê chuẩn với hảo ý và nói, “Chắc anh còn nhớ lần anh nạp đơn xin học bổng Colombo Plan qua học bên Úc, tôi ký chuyển ngay tuy anh mới về trường chưa được một năm. Tôi không bao giờ làm khó đối với các giáo sư muốn được xếp giờ dậy thuận tiện để học thêm, và nhất là ngăn cản tiền đồ của họ. Tôi chúc anh lần này cũng được may mắn.” Tôi không bao giờ quên được vị hiệu trưởng ít nói, khắc khổ nhưng rất mực tử tế này. 30-4-75, sau khi bàn giao trường cho ban tiếp quản, ông đã xin ngưng công tác và và về sống đời tu hành cho tới khi mất. Khi tới dự đám tang ông, tôi còn nghe các bạn hàng ở khu Chợ Ông Tạ ca ngợi ông giáo đạo hạnh này.
Tôi cầm đơn lên nạp tại văn phòng Viện Trưởng Viện Đại Học Saigon ở đường Duy Tân, trước Hồ Con Rùa. Đơn nằm đó hết tháng này qua tháng khác mà không có tin tin tức gì cả và tôi cũng không để ý theo dõi nữa. Rồi một buổi chiều khi tôi đang ngồi nói chuyện với một người bạn thân là Nguyễn Viết Long dạy Anh văn tại Trung Tâm Thính Thị Anh Ngữ thuộc Đại Học Sư Phạm ở góc đường Cộng Hòa-Thành Thái thì ông giám đốc trung tâm chợt đi đâu về, nói với Long là Bs. Nguyễn Văn Thơ, Khoa trưởng Nha Khoa, sẽ là Xử lý Viện truởng, thay thế GS. Viện Trưởng Trần Văn Tấn bận công xuất. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, tôi bèn mượn điện thoại gọi cho ông cụ tôi.
Lúc đó ông cụ tôi là văn phòng trưởng Hội Hướng Đạo Việt Nam, trụ sở ở số 18 Bùi Chu, Saigon. Ông cụ vào hướng đạo ngay từ thời kỳ đầu của phong trào này ở Việt Nam và hoạt động cho tới khi mất. Hồi nhỏ tôi thường nghe ông cụ nói tới những tên như Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, và Trần Duy Hưng là người đã chủ tọa lễ tuyên hứa của ông cụ. Di cư vào Quảng trị, ông cụ lập Đạo Ái Tử và khi vào Saigon thì Hội Hướng Đạo giao cho ông cụ tôi lo văn phòng của hội. Tại đây ông cụ thường xuyên làm việc với các Trưởng hướng đạo kỳ cựu, trong đó có Trưởng Nguyễn Văn Thơ. Ông cụ đã nhờ Trưởng Thơ để ý tới việc tôi nạp đơn xin chuyển vế Y Khoa và chỉ mấy hôm sau tôi được báo cho biết là đơn của tôi và của một giáo sư khác là Nguyễn Đức Lâm đã được duyệt xét và chuyển với hảo ý qua Bộ Giáo Dục, xét theo nhu cầu của Khu Sinh Ngữ, Đại Học Y Khoa.
Tưởng mọi chuyện đã êm đẹp nhưng đợi cả tháng không thấy tin tức gì. Tôi liên lạc với Nguyễn Đức Lâm lúc đó cũng đang dậy cùng với tôi và Quảng ở Hội Việt Mỹ và cho biết sự vụ. Lâm cho biết có lẽ lại kẹt ở văn phòng tổng thư ký Bộ Giáo Dục, vì ông này cũng là người Nam rất kỳ thị Bắc Kỳ không thua gì ông Viện trưởng, mà không may cả tôi và Lâm tình cờ đều là Bắc kỳ di cư. Nhưng Lâm nghĩ ra ngay và nói có cơ thoát vì có một người bạn của Lâm là công cán ùy viên cho Thứ trưởng Bùi Xuân Bào. Lâm nhờ bạn nói với ông thứ trưởng và được ông sai nhân viên lấy đơn cho ông để duyệt xét và sau đó đã chấp thuận. Tôi vẫn nghĩ nếu buổi chiều hôm đó tôi không ghé Trung Tâm Thính Thị và sau đó không liên lạc với Lâm thì chuyện chúng tôi được về Y Khoa không biết đã ra sao.
Khu Ngoại Ngữ nằm trên lầu ba ngay phía trên văn phòng nhà trường, kế Khu Phẫu Thuật Thực Hành, trưởng khu là BS. Thái Minh Bạch với hai phụ tá là BS. Lã Hoàng Trung, một người anh họ xa của tôi, và Bs. Thành, mà tôi không hiểu tại sao anh Trung gọi là Thành Le. Các sinh viên thực tập mổ chó trong phòng lab của khu này. Tầng dưới là Khu Sinh Lý với GS.Trần Vĩ là trưởng khu, với hai phụ tá là Bs. Lê Sĩ Quang và một nữ bác sĩ khác mà tôi không nhớ tên. Trưởng Khu Ngoại Ngữ là Nguyễn Hữu Quảng, bạn cùng dạy với tôi ở Hội Việt Mỹ và tốt nghiệp từ Mỹ về. Quảng chính thức thay thế cố vấn Young mãn hạn về Mỹ. Nhân viên văn phòng có ông Thám, cô Hoa là thư ký và bà Lâm làm tạp dịch.
Trường Y Khoa được Viện Trợ Mỹ xây thời Đệ Nhất Cộng Hòa là một quần thể kiến trúc rất hiện đại, gồm haitoà nhà ba tầng nằm song song với nhau. Toà nhà nằm sát đường Hùng Vương với văn phòng trường và đại giảng đường ở tầng trệt, bên trên Khu Sinh Lý, Khu Phẫu Thuật Thực Hành và Khu Ngoại Ngữ. Tòa nhà thứ nhì nằm song song với đường Nguyễn Trãi, là trụ sở của Nha Khoa ở tầng trệt với văn phòng khoa, một phòng lab lớn với các ghế nha khoa và một giảng đường, Khu Vi Sinh và Bệnh Lý ở phía trên. Cũng từ tầng lầu hai của khu nhà này mà sinh viên y khoa Trần Quốc Chương, con trai Thẩm phán Trần Thúc Linh, đã bị xô rớt xuống đất chết. Chương đã có một thời bỏ ra mật khu Bình Dương nhưng sau đó trở lại vào thành. Nhờ ảnh hưởng của thân phụ Chương vẫn được đi học trở lại. Có người cho là Chương bị chính quyền thủ tiêu, nhưng đa số người tin là Chương bị VC thanh toán vì tội phản bội và rất có thể vì biết quá nhiều các hoạt động bí mật nội thành. 
Ai giết cũng vẫn chưa rõ, chỉ biết bà Trần Thúc Linh trong đám tang con đã gào lên, “Ối ông Hồ Chí Minh ơi, ối ông Thiệu ơi, sao lại giết con tôi?” Hai tòa nhà được nối với nhau bằng một hành lang dài, nằm kề một cafeteria là phòng ăn lớn cho sinh viên, phía trên là thư viện do một bác sĩ làm quản thủ. Một góc của cafeteria được ngăn riêng dành cho ban giảng huấn. Cafeteria được các ma soeur điều hành, cung cấp các bữa ăn sáng và trưa vừa bổ, vừa ngon vừa rẻ. Sau 30-4, các soeur còn duy trì được tình trạng tốt đẹp này một thời gian nhờ thực phẩm tồn kho, nên chúng tôi gọi đùa là “Trung tâm Bồi dưỡng Y khoa.”
Về Y Khoa, tôi thấy như lên thiên đàng. Khu Sinh Ngữ chỉ còn một người Mỹ là Evans có giờ mới tới dậy. Các đồng nghiệp Anh Văn thì đều là bạn cùng dậy với tôi ở Hội Việt Mỹ, Quảng, Lâm và chị Hiếu. Còn đối với các giáo sư bác sĩ thì chúng tôi như nước sông nước giếng, không ai đụng tới ai, nên không có áp lực đồng nghiệp. Chúng tôi chỉ dậy sinh viên các năm thứ nhất và thứ hai từ 1 giờ tới 2 giờ trưa khi các em đi thực tập buổi sáng ở các bệnh viện về, và buổi chiều từ 4 giờ tới 5 giờ sau khi các em học xong các mộn lý thuyết, khi đó các bác sĩ giáo sư ai nấy lo về phòng mạch tư của mình. Nếu có đi ngang qua gặp nhau, chúng tôi chào nhau rất lịch sự, nhưng tên tuổi nhau thì hầu như không biết, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
Là một bộ phân thuộc đaị học, chúng tôi chúng tôi được hưởng một cách cụ thể cái người ta gọi là quyền tự trị đại học. Về mặt chuyên môn, chúng tôi hoàn toàn độc lập. Nhà trường không bao giờ chi phối chúng tôi về bài vở và phương cách giảng dậy. Sếp Quảng đưa cho Lâm và tôi một số bài giảng cũ của các giảng viện soạn trước đó để có ý niệm phải soạn bài ra sao. Sách giáo khoa được coi là căn bản là cuốn Mastering Medical English do Lacowicz, một giảng viên Mỹ gốc Ba Lan soạn. Sách chủ yếu cung cấp các thuật ngữ y khoa gốc Latin và Hy Lạp đi kèm với các bài đọc liên quan tới các môn học như cơ thể học, vị tràng, tim mạch, sản phụ khoa và cuối cùng là môn với tên mới lạ đối với tôi là Nuclear Medicine. Sau mỗi bài đều có bài tập để kiểm tra tiếp thu của sinh viên. Nhà trưởng cũng để Khu Sinh Ngữ đầu niên học thu tiền sinh viên mỗi người hai trăm đồng, để mua giấy và mực quay ronéo bài học mà chúng tôi soạn riêng cho các lớp chúng tôi phụ trách phát cho sinh viên suốt năm. 
Tiền này giữ tại khu và không phải báo cáo chi thu cho nhà trường. Sáng sáng chúng tôi tới văn phòng đọc sách và soạn bài. Sách y khoa tham khảo thì khu có một số, và nếu cần gì thêm, chúng tôi xuống Thư viên nhà trường. Bs. Nguyên quản thủ thư viện tận tình giúp đỡ chúng tôi khi cần tìm tài liệu tham khảo, và chỉ cho chúng tôi kệ lưu trữ bộ từ điển y khoa Anh-Pháp-Việt, được chia cho nhiều bác sĩ soạn, coi như luận án tiến sĩ y khoa của mình.
Khu Sinh Ngữ gồm có một phòng chính làm văn phòng khu, một language lab có phòng cách âm với thiết bị luyện giọng. Sếp Quảng đặt bureau làm việc ở trong phòng này. Phòng lab rất ít khi được sử dụng, trừ phi có bác sĩ nào sắp xuất ngoại cần luyện nghe nói tiếng Anh, sẽ được Quảng giúp đỡ. Hai phòng này nhìn xuống sân trường phía bên trong. Đối diện qua một hành lang là ba phòng khác, cửa sổ nhìn ra phía đường Hùng Vương. Một phòng dành cho các giảng viên. Lâm, chị Hiếu và tôi mỗi người đều có một bureau ở đây. Hai phòng khác là phòng học, với hơn một chục ghế học, dành để dậy các nhóm nhỏ sinh viên. Và sau 30-4-75, các phòng này thường là phòng dậy các nhóm nhỏ sinh viên học Nga văn, vì đại đa số sinh viên chọn học Anh văn hay Pháp văn. Ngoài ra, đây cũng là phòng họp Bộ Môn hàng tháng khi Khu Sinh Ngữ được đổi thành Bộ Môn Ngoại Ngữ.
Y Khoa Saigon mỗi năm mở thi tuyển lấy 200 sinh viên vào năm thứ nhất. Ngoài hai bài thi chính Hóa học và Vạn vật, thí sinh còn thi nhiệm ý môn Anh văn hoặc Pháp văn có điểm thi hệ số một. Sau khi có kết quả, Khu Sinh Ngữ chuẩn bị cho thí sinh trúng tuyển thi xắp lớp, riêng môn Anh văn, tùy theo số điểm sinh viên được xếp học lớp A100 và A200. Chúng tôi chia nhau dậy các lớp cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai, mỗi lớp vài chục sinh viên. Ngoài ra chúng tôi còn phải dậy các sinh viên Nha Khoa, cách thức phân lớp cũng tương tự. Nếu lớp đông chúng tôi dậy ở hai đại giảng đường Y Khoa và Nha Khoa, lớp vắng có thể dậy tại các phòng giảng nhỏ hơn ở hai khu.
Sau khi đã ổn định giảng dậy với số giờ dậy không quá 10 giờ một tuần, chúng tôi có thể sắp xếp giờ dậy ở Hội Việt Mỹ, thường vào các buổi sáng, và buổi chiều sau giờ dậy đầu, chúng tôi ở lại văn phòng đọc sách và soạn bài dậy cho sinh viên của lớp mình, đợi giờ dậy sau vào lúc 4 giờ chiều. Như đã nói ở trên, Sếp Quảng không bao giờ kiểm soát bài soạn của chúng tôi cũng như bài tập kiểm tra sinh viên. Hôm nào không có giờ dậy sau, tôi và Lâm còn có cái thú phóng xe xuống Bưu Điện Saigon ăn bò bía. Bưu Dìện Saigon buổi sáng có bánh mì ở kiosk Hương Lan ngon đặc biệt, buổi chiều bò bía bán ở xe rong. Muốn đổi món thì tới ăn phá lấu ở góc Pasteur-Lê Lợi kế chùa Chà Và, sau đó ghé vào Viễn Đông làm ly nước mía vắt cam ngọt lịm.
Khu Sinh Ngữ như một ốc đảo trong tập thể Y Khoa với những hoạt động mà các bạn bác sĩ gọi là paramedical. Trước 30-4-75, nhóm giảng viên sinh ngữ và các bác sỹ giảng viên và giáo sư có những sinh hoạt và công việc không ăn nhằm gì tới nhau nên mối tương giao hầu như không có. Chúng tôi buổi trưa thường về nhà ăn cơm với gia đình, thay vì ghé vào cafeteria ăn trưa, nên gặp gỡ càng thưa thớt.
Ngoài các bạn trong khu, tôi lúc đầu chỉ có hai bạn thân ở trường, một là Bs. Lã Hoàng Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành hàng xóm, và Bs. Lê Sĩ Quang ở Khu Sinh Lý tầng dưới. Bs. Trung là anh họ xa của tôi, và nhỏ tuổi hơn tôi. Hồi tôi mới xuống dậy ở Mỹ Tho, có năm về Saigon coi thi Trung Học Phổ Thông, còn coi hộ điểm xem Trung có đỗ hay không. Thoáng cái khi về Saigon dậy ở Nguyễn Du thì biết Trung đã đang học Y Khoa chuyên về khoa nhi. Gặp lại Trung ở Y Khoa và lại ở khu kế bên nên hầu như ngày nào anh em cũng gặp nhau, và quen luôn với Bs. Thành làm việc cùng khu với Trung. Bs. Thành họ Lê, người Nam, rất vui tính, miệng lúc nào cũng tươi cười.
Bs. Lê Sĩ Quang vốn cùng học với tôi ở Quốc Học Huế từ Đệ Tam tới Đệ Nhất, nhưng Quang học Ban A và tôi học Ban C nên chỉ biết nhau chứ không quen thân. Sau khi đậu xong Tú Tái 2, chúng tôi đều vào học ở Saigon. Tôi thi đậu vào ĐHSP ban Anh Văn khóa 1958-1961, còn Quang vào học PCB ở Đại Học Khoa Học rồi vào Y Khoa Saigon. Chuyện tôi gặp lại Quang ở Saigon cũng khá bất ngờ. Số là khi tôi vào Saigon, anh tôi lúc đó đang học ở ĐH Khoa Học và sống ở Đại Học Xá Minh Mạng Chợ Lớn. Theo nguyên tắc thì đại học xá ưu tiên cho những sinh viên không có gia đình ở Saigon được vào ở và phải nạp đơn xin trước, nhưng “phép vua thua lệ làng”, buồng nào có chỗ trống, các sinh viên đang sống trong buồng đó nếu quen ai có thể hỏi những người kia để người mình quen được trám vào chỗ trống, rồi “hợp thức hóa sau”. Phòng anh tôi có một sinh viên Kiến Trúc, một sinh viên Cống Chánh Phú Thọ, và một người mới dọn ra. Tôi vào Saigon học là có chỗ ở ngay.
Tình trạng này đưa tới sự kiện là nhiều dẫy đa số sinh viên cư trú là người Nam, có các dẫy đa số là người Bắc và hai dẫy 6 và 8 đa số là người Trung. Việc đầu tiên là sau khi ổn định chỗ ở, tôi ra Ngã Bẩy chọn mua một chiếc xe đạp để hàng ngày sáng đạp tới ĐHSP trên Đường Cộng Hoà và chiều đạp tới Văn Khoa trên đường Nguyễn Trung Trực. Trưa về ăn cơm nhà bàn Đại Học Xá, vé tháng mỗi bữa $10, phở ĐHX ba đồng một tô do ông hàng phở Bắc kỳ di cư bê tới tận phòng vào sáng sớm. Với học bổng $1.500 một tháng, tôi sống sướng như vua.
Một buổi chiều vào khoảng giữa niên học đầu, một hôm tôi từ Câu Lạc Bộ trở về phòng ở dẫy 5 thì thấy Quang đang ngơ ngáo đi ở hàng hiên. Tôi hỏi Quang quen ai ở đây, thì Quang nói đâu có quen ai, đang cần chỗ ở nên vào đây thấy buồng nào có người là ghé vô hỏi xin có cho vào ở được không. Gặp tôi Quang mừng lắm và nhờ tôi hỏi giùm, vì ông bà cụ Quang hồi đó vẫn còn làm việc ở Quy Nhơn. Tôi nói cũng là ma mới, nhưng cứ vào phòng tôi ngồi chơi nói chuyện cho đã, đợi mấy anh lớn chiều vể nhờ là chắc ăn. Quả nhiên anh tôi lại có một người bạn ở dẫy 7, nói có người mới dọn ra và thu xếp với mấy bạn đồng phòng cho Quang vào trám chỗ.
Quang nhỏ loắt choắt, hay cười mà cười thì hai mắt tít lại. Tuy nhỏ người nhưng Quang học rất giỏi. Hồi học ở Quốc Học, lúc chúng tôi học Đệ Tam, nhà trường tổ chức thi chung cho tất cả các lớp cùng ban. Ban C chỉ có hai lớp, C1 và C2, hai ban A và B rất đông, tôi không nhớ rõ bao nhiêu lớp. Kết quả thi được công bố trong một lể chào cờ sáng Thứ Hai, và Lê Sĩ Quang được xuớng danh đứng đầu Ban A. Vào Saigon học, Quang học giỏi và mổ ếch rất khéo tay. Vào học Y Khoa Quang được GS. Trần Vỹ chú ý và về sau được về làm việc ở Khu Sinh Lý mà giáo sư là trưởng khu.
Sau Quang được đi Mỹ để lấy Ph.D. Tôi không hỏi Quang học mất bao lâu, nhưng biết trong thời gian này Quang gặp và lập gia đình với chị Minh Châu. Khi Quang học xong thì chị Minh Châu đang học dở dang
Masters về Anh Văn và lúc đó mới sanh con đầu lòng được ba tháng. Dù được đề nghị cho một việc làm và có thể ở lại luôn, nhưng Quang đã quyết định một mình bồng con trở về nước phục vụ, và sau đó chị Minh Châu cũng về sau khi tốt nghiệp và làm giảng viên Anh Văn tại Đại học Văn Khoa Saigon. Việc vợ chồng Quang có con đẻ ở Mỹ tuy gây đôi chút khó khăn cho hai vợ chồng một thời gian nhưng cũng đem lại cái may sau này.
Khi tôi về Khu Sinh Ngữ, chúng tôi rất mừng gặp lại nhau. Một buổi chiều Quang dẫn tôi vào chỗ làm việc của Quang và cười buồn bảo tôi, “Mày thấy không, bàn làm việc của tao được đặt trong warehouse và công việc chính của tao bây giờ là chăm lo tờ Tạp Chí Y Khoa cho trường.” Tôi tự hỏi nếu Quang vẫn chỉ là một học trò cưng của giáo sư trưởng khu, tốt nghiệp Đại học Y Khoa Saigon như vị nữ bác sĩ phụ tá trưởng khu lúc đó thay vì là một Ph.D thuộc “Lò Đào Tạo Mỹ” thì tình trạng có gì khác hay không. Tôi bảo Quang, “Mày đã một lòng nghĩ tới phục vụ đất nước, một mình bồng con mới đẻ về đây, rồi lại kéo cả vợ về thay vì có thể ở lại bên đó yên thân phì gia, thì hoàn cảnh bây giờ chỉ là chuyện nhỏ. Mày còn trẻ, ông thầy cũng đã già rồi, làm gì chả tới lúc mày có thể thăng tiến và biết đâu trám chỗ ông ấy. Không lẽ nhà trường không thấy được tình trạng này hay sao?” Quang chỉ yên lặng mỉm cười.
Một buổi chiều tối tôi ghé lại nhà Quang chơi đúng lúc Quang mới đi về. Quang hớn hở khoe mới tới nhà ông trưởng ban Anh Văn ở Văn Khoa chẩn đoán đúng bệnh viêm ruột thừa cấp tính cho con ông ta và đưa ngay vào bệnh viện mổ gấp. Quang có phòng mạch tư ở khu Đa Kao, phòng mạch rất ế ẩm. Có hôm tôi ghé vào chơi, ngó quanh mà buồn cho Quang. Quang nói bệnh nhân cảm sốt tới đây, bệnh không nặng nên Quang chỉ cho thuốc chống sốt trong khi bệnh nhân cứ đòi cho mua thuốc kháng sinh, có người còn kể ra tới hai ba thứ. Quang nhất định không chịu và hẹn tuần sau nếu không hết thi trở lại. Những bệnh nhân loại này không bao giờ trở lại nữa. Quang nói đành chịu, chả lẽ lại theo thời, kê toa theo đơn đặt hàng của bệnh nhân, để được tiếng là thầy thuốc mát tay và có đông khách. Ba tôi quản lý cho tiệm thuốc tây ở Quảng Trị, nói bệnh nhân bị viêm nhiễm được bác sĩ kê toa cho ba loại trụ sinh, cứ khen là bác sĩ giỏi, biết nhiều. Ông cụ cười nói, “Cho ba thứ đánh bao vây thằng Tây cũng chết, lọ là con vi trùng.”
Niên học đầu tiên trôi qua một cách êm ả và mọi chuyện đều tốt đẹp. Buổi dạy đầu tiên tôi không bao giờ quên được. Đại giảng đường rộng lớn, ánh sáng và thiết trí như một rạp ciné hiện đại. với những hàng ghế cong cong bao quanh một sân khấu. Hai bảng viết mầu xanh phía sau một bục giảng với một đèn nhỏ và một micro. Các hàng ghế học bên dưới đều được spotlight từ trên trần dọi xuống. Khi tôi bước lên bục giảng thì các sinh viên đã ngồi kín mấy hàng ghế đầu sát với sân khấu, yên lặng chờ đợi. Khác với dự kiến, tôi đã không hồi hộp khi đứng trước bục giảng với chiếc micro và ngọn đèn nhỏ dọi sáng cuốn Mastering Medical English. Sau phần tự giới thiệu và hỏi chuyện làm quen, tôi thoải mái bắt đầu bài giảng với sự tự tin vì đã được chuẩn bị kỹ. Sau giờ học, tôi đi xuống nói chuyện với các sinh viên đã nán lại hỏi tôi này nọ. Liên hệ giữa tôi và các em thật tốt đẹp cho tới khi tôi xin nghỉ dạy vào năm 1983.
Nửa năm đầu 1974 trôi qua thật nhanh, việc soạn bài giảng dậy đã vào nền nếp, giờ dậy tư ở ngoài cũng đã ổn định, Quảng, Lâm và tôi bắt đầu tính toán phải phải làm gì để hưởng thụ dịp nghỉ cuối tuần và nhất là cho mùa hè sắp tới. Khoảng hè 74 một hôm Quảng bảo tôi rằng GS. Nguyễn Ngọc Huy quyền Viện Trưởng Viện Đại Học cần tuyển một người gửi qua Mỹ học để khi trở về làm quản đốc các đại học xá ở Saigon. Quảng nói nếu tôi muốn thì sẽ đề cử và nếu mọi việc xuôi xẻ thì có thể đi Mỹ vào mấy tháng đầu năm 75. Tôi lưỡng lự vì mới về Y Khoa được vài tháng, chỉ thích dạy học và rất ngại làm việc hành chánh, nhất là thời gian đó tình hình chính trị rối ren, các sinh viên phản chiến và thân cộng không thiếu gì trong các đại học xá. Khi tôi cám ơn và từ chối, Quảng bảo như vậy cũng phải vì tôi đã dạy được gần nửa năm rồi, nếu cứ tiếp tục dạy được hai năm thì sẽ mở một kỳ thi chuyển ngạch có tính cách hình thức để tôi có đủ điều kiện chuyển từ giáo sư trung học đệ nhị cấp sang ngạch giảng viên đại học. Tôi còn nhớ bản danh sách Ban Giảng Huấn Đại Học Y Khoa với hơn 230 người, đứng đầu là Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, rồi giáo sư, giảng sư, giảng viên và tôi đứng cuối với ngạch trật giáo sư trung học đệ nhị cấp, dù là thượng hạng hạng tư!
Ngày tháng trôi qua thật thoải mái cho tới cuối năm khi chúng tôi được hưởng một mùa Giáng Sinh và sau đó là cái Tết Nguyên Đán cuối cùng tươi vui nhất ở nước nhà. Tại một bữa tiệc liên hoan ở một nhà hàng, Trưởng khu Quảng đã cho mọi người một bất ngờ thích thú khi anh đứng lên tươi cười trao cho mỗi người một phong bao lì xì ba ngàn đồng.
Nhưng rồi tình hình chiến sự mỗi lúc một sôi động và viễn ảnh của đất nước ngày càng mù mịt, khiến cái hào hứng lúc đầu bớt dần và cái thảng thốt lo âu tăng lên. Qua tới đầu năm 1975 thì đã thành lo sợ thực sự. Các
sinh viên đi học cũng có vẻ lơ là hơn, thường tụ năm túm ba nói chuyện thời sự. Rồi tiếp theo sau là dồn dập các tin xấu như ngày 14-3 Tổng Thống Thiệu ra lệnh di tản khỏi Ban Mê Thuật và toàn địa bàn Tây Nguyên để về giữ miền duyên hải Trung Phần, 19-3 Quảng Trị thất thủ, chiều 19-3 tướng Ngô Quang Trưởng lập phòng tuyến Mỹ Chánh với kế hoặch giữ Huế bằng mọi giá như ông đã thỏa thuận với Tướng Thiệu, nhưng tới 7:30 tối khi ông về Đà Nẵng thì nhận được công điện của Tướng Viên “Chỉ giữ Đà Nẵng mà thôi, đồng thời rút Lữ đoàn 1 Dù về SGN”, 25-3 Tướng Thiệu ra lệnh bỏ Chu Lai và Huế, trưa 28-3 Đà Nẵng bỏ ngỏ, và qua ngày hôm sau thì thì lọt vào tay địch, tối thì kéo theo Xuân Lộc bị tấn công hôm 9-4 và thất thủ sau 11 ngày oanh liệt chống cự, 20-4 bỏ Long Khánh rút về Biên Hòa lập phòng tuyến mới.
Trong thời gian này tôi vẫn tới trường dậy học mà tâm trí thì không còn tập trung được như trước nữa. Biết là chuyện xấu nhất sắp xẩy đến nhưng chẳng biết làm gì, cứ tới trường, ngồi nói chuyện thời sự với những ai có mặt ở văn phòng trước khi tới giờ dậy. Tôi còn nhớ một chiều khoảng tháng 3 khi tôi đang lững thững xách cặp đi ở hành lang sang Khoa Nha dạy thì gặp một bạn cũ từ thời ở Đại Học Xá Minh Mạng từ sân đi lên. Nguyễn Ôn Thảnh là dược sĩ khi đó đang làm việc ở Bệnh Viện Da Liễu đường Bà Huyện Thanh Quan. Thảnh hỏi tôi đang đi đâu đó và khi nghe tôi trả lời thì Thảnh cười và nói, “Giờ này người ta đang đôn đáo tìm đường chạy mà ông vẫn bình chân như vại à?” Tôi thực sự ngỡ ngàng vì chưa bao giờ tôi nghĩ tới chuyện này. 
Vả lại, tin đồn Miền Nam sẽ trung lập hình như từ Phan Thiết trở vào hầu như ai cũng nói tới và với tính cầu an, tôi thấy như vậy cũng được rồi. Tôi còn được ông anh của anh Trung là thiếu tá tình báo trấn an “Trung lập đến nơi rồi, việc gì mà lo.” Ông này cho biết những ngày cuối cùng hàng ngày báo cáo tình hình cho Tướng Dương Văn Minh và đêm 29-4 nằm núp đạn pháo kích trong Tổng Tham Mưu để hôm sau ngơ ngáo trở về nhà. Ông bị đưa ra Bắc học tập cải tạo nhiều năm và khi bị ung thư gần chết mới được thả về. Mấy tháng sau ông qua đời, lúc tôi được báo cho biết, tới nơi cầm tay ông còn ấm.
Tại Khu Sinh Ngữ tôi thấy ai đại khái cũng như tôi, khi vào làm việc vẫn làm như bình thường, nếu có lo âu hay có tính toán gì đó thì cũng chẳng có ai nói ra. Evans, giảng viên người Mỹ độc nhất vẫn còn dậy giờ hàng tuần vẫn ghé qua văn phòng khi có giờ dậy. Evans khá thân với tôi và Lâm. Tôi không biết Evans làm cho cơ quan nào của Mỹ, nhưng anh rất thích tìm hiểu và la cà tới các nơi ở Saigon. Anh kể cho tôi nghe về một bà đồng ở Xóm Chùa bên Gia Định. Anh ta nói tiếng Anh và tiếng Pháp của bà đồng này chỉ vừa đủ để trao đổi thông thường, nhưng khi đồng nhập thì bà ta là một người khác. Đặc biệt có một ông hoàng thân triều Nguyễn thường nhập vào bà, khi đó bà không nói giọng Nam nữa mà lại đặc Huế. Evans kể có lần hồn nhập là một một kỹ sư từng du học Paris, lúc đó bà đồng nói tiếng Pháp “đúng giọng Sorbonne.” Cái đền của bà này phải đi vào một hẻm nhỏ ở đường Trần Quang Khải, qua môt con lạch rồi mới tới.
Một chiều gần cuối Tháng 3, anh vào hỏi tôi có rảnh thì đi cùng anh tới kiếm bà đồng này để hỏi một chuyện. Tôi đi theo anh nhưng rất tiếc khi tới nơi thì cửa đóng then cài, nên tôi không được coi bà đồng đó trổ tài và chuyện anh ta muốn hỏi bà đồng là chuyện gì. Mấy tuần lễ sau đó, anh lại vào văn phòng ngồi nói chuyện với tôi và hỏi tôi nghĩ sao về tình hình Việt nam. Lúc đó tôi thấy tình hình coi như đã tuyệt vọng và nói với anh, “Thôi thì cái gì phải kết thúc thì cứ để cho nó kết thúc. Tuy chúng tôi là kẻ bị hy sinh, nhưng xét cho cùng thì ít nhất đất nước tôi cũng không còn chiến tranh nữa.” Anh yên lặng một lúc, rồi ngập ngừng mãi mới nói, “Tôi rất tiếc về chuyện này. Thế anh có dự định gì không?” Tôi nói chẳng biết tính toán gì cả, cứ để tới đâu hay tới đó. Lúc đó không hiểu sao tôi lại tếu, hỏi đùa anh, “Này Evans, anh không nghe tin VC về tới phi trường Biên Hòa rồi hay sao?” Anh hoảng hốt đứng lên hỏi có thật không, tôi vội vàng xin lỗi anh. Anh nán lại nói chuyện thêm với tôi một lúc nữa rồi mới bắt tay tôi thật chặt từ giã. Đó là lần cuối tôi gặp anh.
Sau khi qua được bên này, gặp một người quen cho biết Evans là CIA và căn nhà của anh thuê ở gần ngã ba Pasteur-Huỳnh Tịnh Của mấy ngày cuối Tháng 4 đầy người tới đợi để được bốc đi. Tôi không rõ đấy có phải là một địa điểm tập trung để di tản hay không, vì người này còn nói có người trong số đó trả ba ngàn Mỹ Kim cho Evans. Khi kẹt lại, tôi cứ tiếc tại sao chiều hôm đó không hỏi đại Evans có thể giúp gì cho tôi được không.
Giữa Tháng 4 thì tình hình đã bi đát lắm rồi. Tin nhân viên sở Mỹ hay ngân hàng Mỹ đã được lập danh sách cho di tản cùng gia đình làm ai cũng nao núng thêm. Tôi ngày nào cũng tới tới Hội Việt Mỹ để thăm dò xem có được cho di tản như những nhân viên thực thụ ở đây hay không. Nhân viên dậy giờ như chúng tôi cũng được lập danh sách cho di tản, nhưng một hôm có một nhân viên CIA cao cấp là Richardson tới gặp chúng tôi tại hội trường và nói thẳng rằng vì tình hình biến chuyển rất nhanh và số giáo sư dậy giờ quá đông nên chỉ có thể bảo đảm lo ưu tiên những nhân viên chính ngạch của Hội, còn chúng tôi thì tùy hoàn cảnh và điều kiện chophép. Tôi cũng đem hồ sơ được học bổng Colombo Plan và bằng tốt nghiệp Đại Học Sydney năm 1970 tớiTòa Đại Sứ Úc ở đường Phùng Khắc Khoan để cầu may xem sao, thì tại đây chỉ thấy một người hình như là nhân viên bảo vệ ra mở cổng và cho biết tòa đại sứ đã đóng cửa.
Hôm 28-4 tôi còn nhớ nhằm ngày Thứ hai khi tôi từ Hội Việt Mỹ về nhà vào buổi trưa thì nhận được điện tín của anh tôi ở Canada bảo tôi liên lạc ngay tới tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ – mà sau này mới biết đã nhờ được một người bạn làm việc cho Bộ Quốc Phòng Mỹ bảo lãnh gia đình tôi. Điện tín đó tới từ Thứ Bẩy, nhưng đến trưa Thứ Hai mới được giao cho chúng tôi. Ăn cơm trưa xong thì trời chợt mưa quá lớn và dòng dã hai tiếng đồng hố. Lúc tôi tới Tòa Tổng Lãnh Sự thì được hai Marines trẻ măng ra mở cửa. Họ mở cổng cho tôi vào phía trong và bảo tôi đứng đợi ở vọng gác rồi một người cầm điện tín của tôi đi vào văn phòng phía trong. Một lúc sau anh ta đi ra và nói đã coi danh sách gia đình tôi đủ bốn người và hỏi họ đâu. Tôi nói đang đợi ở nhà và sẽ về đón lại ngay. Anh ta bảo bây giờ đã 5 giờ chiều rồi, sao không về thu xếp rồi sáng sớm hôm sau vào sớm cũng được. Tôi lúc đó mừng muốn ngạt thở, thấy có lý bèn cám ơn rồi leo lên Honda vội chạy về nhà báo tin.
Khi còn đang trên đường về thì viên trung úy phi công nằm vùng thuộc không lực VNCH cướp phản lực cơ Ạ5 từ Phan Rang bay vào thả bom Phi trường Tân Sơn Nhứt, và lệnh thiết quân luật được loan báo. Đêm hôm đó và đêm hôm sau Phi trường bị pháo kích dữ dội. Sáng hôm sau tôi không còn nghĩ tới chuyện đưa vợ con tới Toà TLS Mỹ nữa và nằm riết ở nhà. Đêm 29, từ lầu 1 chung cư Nguyễn Thiện Thuật tôi nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt thấy máy bay lên xuống nườm nượp mà chảy nước mắt. Qua hôm 30 gần trưa thì nghe tin TT Dương Văn Minh ra lệnh buông súng. Thế là thực sự hết. Khu chung cư bỗng như ồn ào hơn. Nhin ra ngoài, thấy nhà nào có quần áo lính là đem ra liệng đầy đường. Tình trạng hoảng loạn thật dễ lây. Tôi có mấy bộ đồ lính cũ từ thời đi học 9 tuần ở Quang Trung cũng vội ném đi, thậm chí cả giấy chứng nhận dạy học Hội Việt Mỹ cấp cũng đem đốt. Rồi những người lính giải ngũ có gia đình ở khu tôi cũng lần lượt trở về, có người chỉ mặc áo thun và quần đùi. Có người dúi cho vợ con một cọc tiền rồi bỏ đi biệt tích.
Xế chiều, tôi lấy Honda chở con trai tôi tới nhà bố mẹ vợ để hỏi thăm tình hình. Khi chạy tới đường Cống Quỳnh thì chứng kiến một cảnh rùng rợn mà tôi phải bảo con trai tôi, lúc đó mới lên 10, quay mặt đi đừng nhìn. Ở bên này đường đối diện với trường Hưng Đạo, có hai thanh niên mặt trông dữ dằn như dân du đãng, tay đeo băng đỏ, một người cầm khẩu AR16 có lẽ nhặt được của một người lính giã ngũ nào vứt bỏ, người kia cầm một cái gậy. Ngay khi đó có một thanh niên khác từ trong hẻm đi ra, người này mặc thường phục, nhưng tóc ngắn và da đen đủi, nhìn biết ngay là dân nhà binh. Chắc là quen biết nên khi thấy hai thanh niên kia, người này hỏi, "Ê bồ, mạnh giỏi chớ?" Thanh niên cầm súng không lộ vẻ gì vui khi thấy người quen, mà hầm hầm quát, "Đồ lính Dù ác ôn, ai là bồ với mày?" Vừa nói, tay quay ngược báng súng giộng vào thái dương người đó hai cú thiệt mạnh. Nạn nhân ngã ngửa xuống nắp cống, hai chân giẫy như con cá mắc cạn. Bố con tôi và những người ở quanh đó mặt ai cúng tái đi. Tôi bảo con tôi quay nhìn hướng khác và vội vã phóng xe đi, không biết nạn nhân sống chết ra sao.
Khi tới nhà ông bà cụ nhà tôi, chưa kịp kể lại thì bà chị nhà tôi đã nói là trước đó ít phút có ba người đeo băng đỏ đi cùng với một công an tới kiếm ông anh cả bà xã tôi. Anh ấy là quản đốc các đại học xá ở Saigon, có nhà trong Đại Học Xá Minh Mạng, khu nhân viên. Anh đã cùng cảnh sát trưởng Quận 5 bố ráp Đaị Hóc Xá Minh Mạng, Chợ Lớn, bắt các phần tử thân cộng trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm. Sau lần đó, nhà anh thường xuyên bị ném đá vào ban đêm, và may mắn gia đình anh đã được bốc đi vào phút chót, nếu không chẳng biết số mạng sẽ ra sao vì thuộc "thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân."
Sáng 1-5 tôi vào lại Khu Sinh Ngữ. Cổng trường có bộ đội mặt còn non choẹt đứng gác. Qua văn phòng, thấy các nhân viên cũ vẫn còn đông, lác đác mấy cán bộ. Khu Sinh Ngữ chỉ chưa thấy Lâm, ai nấy mặt đều lo buồn. Khu Phẫu Thuật Thực Hành còn nguyên “quân số.” Khu Sinh Lý cả bác sĩ giáo sư trưởng khu và Quang đều không thấy xuất hiện. Phó Khoa trưởng Đào Hữu Anh cũng vậy.
 Sau ít ngày tôi đến thăm ông cụ Quang và được cho biết những ngày cuối Quang cũng đôn đáo và kiếm được một mối do một ông tướng nào đó tổ chức mua tầu nằm trực ở Long Hải. Nhưng Quang tình cớ gặp GS. Đào Hữu Anh và được ông cho biết ai có con sanh ở Mỹ có thể tới Toà Đại Sứ Mỹ cùng với khai sanh của con thì sẽ được cho di tản. Cả ông Anh và và Quang trong thời gian tu nghiệp ở Mỹ đều có sanh con tại đó. Ít lâu sau Sếp mới của tôi là Mỹ Điền hỏi tôi có phải ông Anh “ác ôn” lắm phải không. Tôi ngạc nhiên nói không biết và hỏi tại sao. Mỹ Điền nói hôm an ninh kiểm tra văn phòng thấy trong tủ sắt của ông Anh một khẩu AK 47. Tôi nói ông Anh đâu phải dân nhà binh. Có lẽ một học trò cũ nào đó là bác sĩ quân y tại một đơn vị tác chiến, được lính cho khẩu súng đó như một chiến lợi phẩm, đã mang về biếu thầy cũ thôi. Mỹ Điền không nói gì, chỉ gật gù, chẳng biết có tin hay không.
Người tiếp quản khu tôi là Nguyễn Mỹ Điền, người Nam, đã từng đi Pháp và Anh, sau năm 1954 đã về Bắc “giúp Cụ Hồ.” Ngoài ra, còn có Nguyễn Văn Niêm, cán bộ giảng Nga văn, làm giáo vụ bộ môn. Khu Sinh Ngữ được đổi tên thành Bộ Môn Ngoại Ngữ. Anh văn thì có chị Bích Ngọc, tốt nghiệp ĐHSP Hà nội, chồng là bác sĩ vào tiếp quản Bệnh Viện Da Liễu. Chị Ngọc nói chồng chị học PCB cùng thời với GS. Đào Hữu Anh. Gia đình chị không di cư, và là dân Hà Nội cũ nên rất dễ chịu, chúng tôi có liên hệ tốt với chi Ngọc. Chị Ngọc yêu cầu chỉ dậy các lớp Anh văn gồm bộ đội và sinh viên từ Bắc vào.
Trước 4-75, Đại học Y Khoa, Nha Khoa và Dược Khoa là ba trường riêng biệt. Dược Khoa ở gần trung tâm Saigon, còn Y Khoa và Nha Khoa thì nằm chung trong một campus ở phía đầu đường Hùng Vương Chợ Lớn, và chúng tôi phụ trách giảng dậy Anh Pháp văn Y Khoa cho sinh viên cả hai trường. Dược Khoa thì chỉ ký hợp đồng dậy giờ với hai giáo sư Anh Văn. Sau 30-4-75, ba trường gom làm một và gọi là Đại Học Nha Y Dược.
Một hôm Mỹ Điền bảo Quảng và tôi cùng qua trường Dược để xem hai giáo sư đó “đứng lớp” có đủ tiêu chuẩn để được đề nghị đưa vào “biên chế” hay không. Một vị là Hồ Liên Biện, một thời là giám đốc Nha Du Học và thời gian ngay trước 4-75 đó là giám đốc Nha Học Liệu, thường xuất hiện trên TV với chương trình Đố Vui Để Học. Khi chúng tôi bị gọi động viên đi học chín tuần ở Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, đêm ở trại nhập ngũ, viên trung sĩ điểm danh các khóa sinh, đã cố tình đọc tên Hồ Liên Biện thành Ho Liên Miên để mọi người được trận cười thỏa thích. Vị kia là Lê Anh Dũng, bạn dạy ở Hội Việt Mỹ với tôi. Sau khi coi hai giáo sư dạy xong, Mỹ Điền nói với tôi và Quảng rằng ông Dũng thì không có vấn đề gì, nhưng ông Biện sao nói tiếng Anh “cứ lua lua thế nào ấy.” Quảng không nói gì, còn tôi không hiểu rõ lắm 'nói lua lua' là làm sao, nhưng vẫn nói với Mỹ Điền rằng bây giờ có dạy sinh viên tiếng Anh để nói chuyện với Mỹ đâu, chỉ cần người có khả năng dạy các em đọc và hiểu Anh văn Y khoa là được rồi, mà chuyện này thì ông Biện có thừa khả năng. Từ đó về sau, Biện và Dũng hàng ngày tới Bộ Môn làm việc như chúng tôi, khi có giờ dậy mới trở qua Trường Dược.
Người tiếp thu Trường Y Khoa là Bs. Ngô Như Hòa, môt bác sĩ nhãn khoa. Nghe kể ông Hòa nguyên là một y sĩ đại úy quân đội Pháp. Trong một trận đánh ông bị bắt làm tù binh và đã theo Việt Minh. Ông là người gốc Nam vì khi vào Saigon ông đã xin được cấp ngôi biệt thự của một kỹ sư bà con người Nam khá nổi tiếng đã đi thoát. Vợ ông là một phụ nữ gốc thiểu số ở thượng du Bắc Việt mà gia đình đã di cư vào Nam, có cô em dậy Pháp văn ở trường Cao Đẳng Phú Thọ. Qua ông Hòa, tôi được nghe câu “Xin báo cáo đồng chí . . .” lần đầu tiên khi ông hướng dẫn một phái đoàn Bộ Y Tế tới thăm trường và ghé qua bộ môn. Ông Hòa có một người con trai là Ngô Như Bình. Ở Hà nội, Bình tới học toán tại nhà một ông cậu họ vợ tôi. Lúc Bình vào Saigon chơi, cậu tôi giới thiệu Bình với vợ chồng tôi. Vì ba Bình gốc lính Tây nên Bình phải tình nguyện đi thanh niên xung phong qua Lào một thời gian, lúc trở về mới thi vào được đại học và sau đó được qua Nga học Đại học Romanov ở Mascova chuyên về Việt học. Chính ông Ngô Như Hòa cũng phải xung phong đi B – vào tác chiến tại miền Nam – mới giúp ông và con được tin cậy và hưởng ân huệ.
Bình tới nhà tôi cầm theo một thư của cậu vợ tôi gửi vào. Chúng tôi nói chuyện rất hợp vì toàn chuyện bóng đá và thịt chó là hai món 'sở trường' của chúng tôi. Tôi còn đưa Bình và hai con tôi lúc đó mới 10 và 8 tuổi đi ăn thịt chó ở quán trên đường Lý Thái Tổ gần Phở Tầu Bay. Sau tôi đưa Bình tới bộ môn và Bình cũng dễ dàng làm quen với Quảng, chị Hiếu và chị giảng viên Pháp văn mà tôi đã quên tên. Chúng tôi đã hơn một lần rủ nhau đi nhậu tại một vài quán nhỏ nhưng nồi tiếng đồ ăn ngon, đặc biệt là một quán chuyên bán cá hấp trên bờ kênh trong Chợ Lớn. Bình còn đưa tôi lại nhà chơi và nói “bác Nhẫn đi thoát và mọi thứ trong nhà còn nguyên vẹn. Đặc biệt hầm rượu đầy ắp rượu tây rượu tầu.” Bình mời tôi uống một ly Mao Đài và cho tôi một bầu rượu Cao Lương. 
Bình hỏi tôi có biết Quan Vân Trường bị trúng tên độc được Hoa Đà chữa. Khi Hoa Đà rút mũi tên ra và nạo vét chỗ thịt bị nhiễm độc thì Vân Trường mặt không đổi sắc, ung dung ngồi tu rượu Cao Lương và sau đó dùng rượu đổ vào rửa vết thương trước khi băng bó. Một hôm tôi và Bình đang ngồi chuyện trò ở nhà Bình thì ông Hòa về. Chắc Bình đã nói với bố về chuyện cậu vợ tôi là thầy của Bình nên ông nói chuyện với tôi rất tự nhiên cởi mở, và ông bảo tôi nên nhớ câu nói tiếng Pháp này, “ Les communistes se haissent.” Tôi hiểu ý ông muốn nói là ở trường đừng bao giờ cho người khác biết, nhất là các cán bộ, là tôi quen với gia đình ông. Điều này tôi được thấy rõ nhất qua các cán bộ mới về dạy Nga Văn và trong các buổi họp bộ môn bình bầu tiên tiến sau này.
Trong một lần nói chuyện, Bình nói rõ ràng miền Nam giầu có hơn miền Bắc và như vậy thì giải quyết cách nào tốt nhất. Tôi nói thì cứ để miền Nam tiếp tục phát triển kinh tế vì đã có đà và cơ sở hạ tầng khá tốt. Bình đồng ý và nói rất sợ “chính sách cào bằng” lại được áp dụng. Và điều đáng sợ này đã xẩy ra với các đợt đánh tư sản và đổi tiền rồi vơ vét, dân chúng đói khổ, thậm chí đến độ mấy năm sau 'cái cột đèn mà có chân cũngphải vượt biên.' Ở Saigon gần một tháng Bình về lại Hà nội rồi sau đó đi Nga. Bình lấy vợ Nga và sau khi tốt nghiệp đã ở lại. Bình được qua học thêm tại Standford và làm phụ giảng môn Việt học. Trước khi trở về Nga, Bình đã nạp đơn xin qua dạy Harvard và sau đó đã được chấp thuận . Năm ngoái, đọc đâu dó trên Internet, thấy Bình là trưởng ban Việt Học Đại Học Harvard.

 Sau ngày giã đám, liên hệ giữa các nhân viên trong trường bỗng trở nên mật thiết hơn, vì cùng phận 'hàng thần lơ láo,' và không còn làm tư ở ngoài nữa nên đều tụ về trường, nhất là sau đó tất cả nhân viên giảng huấn đại học ở Saigon phải theo học khóa Chính trị Kinh tế Mác-Lênin kéo dài sáu tháng. Bình thường trường nào học tại trường đó, khi có cán bộ từ Bắc vào 'lên lớp' thì tụ tập tại hội trường Thống Nhất. Sau đó chúng tôi trường mình rồi chia ra thành nhiều tổ thảo luận đề tài mới được nghe trình bầy. Qua Bs. Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành, tôi quen thêm được nhiều bác sĩ trẻ khác cùng khóa với Trung hoặc trên một hai lớp, như Bs. Kiệt ở Khu Vi Sinh, Bs. Ngà ở Khu Bệnh Lý. Một dược sĩ có chồng là bác sĩ cùng làm việc ở Khu Vi Sinh còn kêu bọn tôi lại nhà ăn sôi sắn hành phi ngon đặc biệt.
Học tập chính trị thì ngoài chúng tôi, các cán bộ giảng viên trong trường cũng phải theo học luôn, và cuối khóa đều phải viết bài thu hoạch để đánh giá. Một hôm sau buổi thảo luận tổ, khi tôi cùng Trung và Kiệt đang đi về phía câu lạc bộ để kiếm nước uống thì GS. Nguyễn Ngọc Huy chặn lại hỏi, “Này mấy cậu, ông Nguyễn Đan Quế có phải là Cộng sản không mà ông nói về Marxisme ghê thế?” Ba chúng tôi có bạn là vợ chồng Nguyễn Quang Trù, giáo sư Việt văn, có trại ở Tân Quy Đông, gần Nhà Bè. Khi nghe bọn tôi kể lại chuyện ông Quế, Trù cười và nói tốt lắm. Sau chúng tôi mới biết là Trù và ông Quế ở cùng trong nhóm Phục Quốc và cùng bị bắt.
Sau 30-4, công việc của bọn tôi tại trường nhàn hơn trước rất nhiều. Vì không còn dành thì giờ dây tư nên chúng tôi có mặt ở trường suốt ngày, buổi trưa cũng không về nhà ăn cơm như trước mà xuống ăn ở cafeteria của ma soeur. Thời gian đầu lương thực còn nên bữa cơm vẫn chất lượng như cũ, vừa ngon vừa bổ vừa rẻ.


Điều làm chúng tôi ngạc nhiên nhất là những cán bộ và bác sĩ ngoài Bắc vào, khi ăn cơm đều lấy ra một gói nhỏ bột ngọt, xúc một thìa đổ vào canh hay nước lèo hủ tiếu. Họ nói cái này bổ óc, coi như thần dược. Họ còn cho biết ở ngoài Bắc nước mắm rất hiếm và mắc, nước chấm rau thường chỉ là nước lã và muối, nếu khấm khá hơn thì nguấy thêm một chút bột ngọt.
 Sau bao thập niên xa cách, cuối cùng bốn người gặp lại tại California

Các buổi lễ lạc ăn mừng chiến thắng được tổ chức nhiều hơn. Đa số chúng tôi chỉ giữ một thái độ vừa đủ, vả lại phải hát quốc ca và hô khẩu hiệu hoan hô chế độ và những người mới trước đó là thù địch thì thấy ngượng miệng vô cùng, nên chỉ nhép miệng theo. Tuy nhiên, cũng có một vài người tỏ ra rất nhiệt thành, “hồ hởi”, mà chẳng biết thực sự trong lòng họ ra sao. Chúng tôi đã liếc mắt nhìn nhau khi một cô thư ký trẻ lên hát bài “Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người” trong một buổi lễ. Cô này đã say sưa trình bầy, đám cán bộ ngồi hàng đầu vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Nhưng tới một mục sau thì “đám Ngụy” được dịp cười thích thú và nhớ mãi khi một nhân viên văn phòng lên đọc một bài thơ tự sáng tác chào mừng cách mạng thành công, trong đó có mấy câu tố cáo “tội ác Mỹ Ngụy”. 
Khi đọc tới đoạn tố Mỹ, không biết chữ trong thơ là gì nhưng ông đọc “Loài quỷ Đỏ...” khiến cả hội trường thoạt tiên không tin ở tai mình, nhưng ngay sau vỗ tay rầm rầm. Đám cán bộ không biết có nghe rõ không, chỉ lộ vẻ ngạc nhiên không biết tại sao, riêng tác giả thì mặt tái xanh, miệng còn tròn vo khi đọc chữ “đỏ” mãi không ngậm lại được. Về sau được biết câu thơ của ông bắt đầu là “Loài quỷ dữ...” nhưng vì – theo cách chúng tôi giải thích – đã bị Mỹ Ngụy thâm độc nhồi sọ quá dữ nên khi đọc tới quỷ thì tự động phải là Quỷ Đỏ. Một chuyện tương tự cũng đã xẩy ra với một người bạn của tôi dậy Toán ở Trung học Sương Nguyệt Anh. Khi đứng ra điều khiển lễ cháo cờ sáng Thứ Hai ở sân trường, anh hướng dẫn học sinh qua micro: “Chuẩn bị cháo quốc kỳ. Quốc ca: Này công dân ơi...” Vì chuyện này mà anh đã bị khốn đốn một thời gian.
Con số sinh viên tích cực tham gia các sinh hoạt ngoại khóa để phấn đấu vào đoàn tôi nghĩ không nhiều lắm, tuy tất cả các sinh viên ngoài việc học đều phải tham gia các hoạt động khác do các đoàn viên CS nòng cốt điều khiển trong các tổ. Có người tôi biết còn tỏ ra tích cực tối đa, như một cô em họ xa của tôi trong khi họp tổ thảo luận về đánh tư sản đã tố cha mẹ mình là gian thương và cho vay nặng lãi. Cô này về sau vào được đoàn rất sớm và lấy một đoàn viên nòng cốt khác. Thái độ và tính tình của một số sinh viên cũng thay đổi rất nhiều. Một nữ sinh viên của tôi trước 75 học hành và sắc đẹp bình thường, nhưng sau này thì rất nổi trong hoạt động đoàn. Là đoàn viên rất sớm, cô tạo nhiều sức ép trên các sinh viên khác, đặc biệt là cô o ép bắt bẻ ra mặt cô sinh viên em họ bạn tôi, xinh đẹp con nhà giầu, bố là chủ một tiệm giầy ở đường Pasteur gần góc Lê Thánh Tôn. 
Điều làm tôi nghĩ ngợi nhất là thái độ của cô. Trước cô rất vui vẻ lễ phép, nhưng bây giờ thì nghiêm lạnh, nụ cười thường thấy trước đây nay biến mất hẳn trên môi cô. Những khi ngang qua tôi, cô ta nhìn thẳng như không trông thấy. Nhưng một hôm vào ngày Lễ Hiến Chương Nhà Giáo, hình như 20-11, khi tình cờ thấy tôi ở hành lang, từ xa cô này đã đổi nét mặt, tươi cười hớn hở và khi tới gần đã cầm lấy tay tôi nói, “Thầy ơi, em thấy xúc động vô cùng khi nghĩ tới công ơn các thầy đối với chúng em.” Tôi thì không xúc động như cô, nhất là chỉ qua ngày hôm sau khi đi ngang qua tôi ở trước thư viện, cô mặt nghiêm, mắt nhìn thẳng, làm như không biết tôi là ai.
Còn về phía nhân viên, tôi chỉ được nghe kể một chuyện ở Khu Vi Sinh. Trong một buổi bộ môn, chị dược sĩ mà tôi đã nói ở trên đã tố Giáo sư cựu khoa trưởng kiêm trưởng khu khá nặng, ông chồng bác sĩ ngồi gần đó gục xuống ôm đầu, rên lên, “Trời ơi!” Tôi nghĩ chị dược sĩ này chỉ muốn chứng tỏ mình đã “tiến bộ, nắm bắt được tinh thần làm chủ tập thể, thành khẩn thể hiện qua quá trình phê và tự phê, ” chứ không có ý muốn hại ông thầy.
Vì có nhiều lễ được tổ chức tại trường để chào mừng cái nọ cái kia, các hội nghị chuyên đề trong đó các bác sĩ và dược sĩ đọc các bài tham luận liên quan tới y và dược, và nhất là khóa học tập Kinh tế Chính trị Mác-Lênin kéo dài sáu tháng với những buổi thảo luận tổ, giữa chúng tôi càng gần gũi thêm với các bác sĩ dược sĩ khác trong trường. Nhiều người còn nói riễu với chúng tôi về đám cán bộ và công an bảo vệ. Một buổi sáng sớm khi đi qua sân trường thì tôi gặp Bs.Kính chuyên về nhãn khoa. Ông đi sát vào tôi và nói, “Học hết khóa Chính trị Kinh tế Mác-Lênin, tôi chỉ thấy có một câu không sai. Cậu hãy nhìn kia kìa.” Theo ánh mắt của ông, tôi nhìn về phía tầng cấp lên hành lang vào thư viện thì thấy có hai ghế dài kê chéo hai đầu hướng vào nhau, bên trên ngồi kín các cán bộ và công an bảo vệ mặc áo vàng, và tất cả đều ngồi xổm. Ông nheo mắt cười và nói, “Dấu vết còn sót lại của quá trình Vượn Người lên Người Vượn.”
Trong một buổi lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo thay phiên nhau lên ca ngợi lãnh tụ đa tài, cả thơ văn của Bác cũng là nhất. BS. Nguyễn Đình Cát, giáo sư nhãn khoa nổi tiếng nhất thời đó, đứng lên phát biểu cảm tưởng rồi kết luận, “Về mặt y khoa, chỉ cần gom những kiến thức y học mà Bác viết rải rác trong các tác phẩm của mình đem ra dạy cho các sinh viên thì cũng không biết bao giờ mới hết.” Cả hội trường vỗ tay rần rần, mà đám Ngụy còn vỗ mạnh hơn đám cán bộ vì chẳng biết ông có đọc tác phẩm nào của ông Hồ không, mà nếu có đọc thì đâu tìm ra được các kiến thức y học để đem ra dạy cho các sinh viên. Mặt ông thật tỉnh và rất nghiêm túc, nhưng tôi vẫn cảm thấy cái thâm trong giọng Huế của ông bác sĩ này.
Những hội nghị báo cáo chuyên đề thường được tổ chức trọng thể với sự hiện diện của các giới chức Bộ Y Tế và ban lãnh đạo nhà trường. Các bài tham luận của các bác sĩ và dược sĩ được đánh giá cao. Có một chuyện tôi được nghe nhưng không rõ thực hư ra sao, cũng xin ghi lại ở đây. Một nữ dược sĩ mà tôi không nhớ tên thuộc Khu Sinh lý đã đọc một bài nghiên cứu rất công phu về củ nghệ và công dụng của nó trong y học, chủ yếu là đặc tính sát trùng. Khoảng hơn một năm sau tôi được nghe mấy bác sĩ trong trường kháo nhau là hầu như toàn bộ bài này đã được đăng trong một tạp chí y học ở Nga mà tác giả là một Viện Sĩ Nga, và kết luận rằng gián điệp ngoại quốc hoạt động trong mọi lãnh vực, chẳng riêng gì quân sự hay chính trị.
Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa được mời lên phát biểu kết thúc hội nghị. Lúc đó Chính Phủ Lâm Thời Giải Phóng Miền Nam thực tế không còn nữa, nhưng bà Hoa được mời lên nói như vẫn là Bộ trưởng Y Tế. Bà đánh giá cao các bài tham luận với giá trị cao về mặt khảo cứu và ngợi khen các bác sĩ dược sĩ cán bộ giảng thuộc chế độ cũ đã tích cực công tác và đóng góp giúp hội thành công. Bà kết thúc phần phát biểu với câu nói mà đến nay tôi vẫn còn nhớ nét mặt bà lúc đó, “Trong tim tôi luôn luôn có một Thủ đô Hà Nội và một Thủ đô Saigon.” Đám Ngụy chúng tôi sửng sốt nhìn nhau, và đã vỗ tay to vỗ lâu hơn cả Cách mạng!
Trong số cán bộ chúng tôi kỵ nhất là đám bảo vệ. Họ đều là công an thuộc thành phần bần cố nông, được huấn luyện ở trường công an. Đặc điểm là hầu như không bao giờ chúng tôi thấy nét mặt họ thoải mái, nói chi tới tươi cười. Nhìn ai thi như thể người ấy là thành phần khả nghi. Ngay cả đám bô đội cũng không ưa gì mấy anh công an này. Một hôm tôi nghe một anh công an tuổi ngoài 20 vai đeo AK nói chuyện với ông gác gian ở vọng gác tại cổng trường. Ông gác gian này là dân Bắc di cư, người lúc nào cũng đầy mùi rượu. Khi được trả lời là ông đã làm việc ở Trường Y này gần hai chục năm rồi, anh công an ngạc nhiên nói làm lâu thế này mà chưa được bố trí đi học y khoa để thành bác sĩ hay sao! Lần khác, khi thấy một bộ đội chạy xe gắn máy vào cổng chính thay vì phải qua công phụ như quy lệ thì đã quát chặn lại. Lúc anh bộ đội cự nự không chịu quay qua cửa phụ, anh công an mặt lạnh như tiền gỡ khẩu AK trên vai xuống, lên đạn xoành xoạch. Anh bộ đội đành phải làm theo lệnh.
Đám công an mặt vô cảm chỉ biết làm theo lệnh đã khiến cho Đính, giảng viên Pháp văn, một hôm nói đùa với tôi là bọn này được thụ thai trong ống nghiệm, một đám Frankenstein, và từ đó chúng tôi gọi họ là đám “ in vitro.” Tôi còn chứng kiến một trường hợp khác chứng tỏ đám công an chỉ làm theo lệnh của chỉ huy trực tiếp. Một buổi chiều Thứ bẩy vào phút chót tôi được một người nhường cho một vé xem đá bóng vòng loại giải vô địch quốc gia ở sân vận động Cộng Hòa, lúc đó đã đổi tên thành Thống Nhất. Vé khán đài A vào ở cổng chính, nhưng vì tôi đến trễ nên sau khi gửi được xe lúc tới được cửa thì cửa vừa đóng vì trận đấu đã bắt đầu. 
Tôi đưa vé và yêu cầu nhân viên soát vé giúp. Người này gõ cửa và viên công an hé cửa nhìn ra, nói giờ này không cho ai vào nữa. Ngay lúc đó có một cán bộ cao cấp đi tới với cả người hộ vệ nói chuyện với người soát vé. Người này lập tức đập cửa và tên công an lại hé cửa ngó ra. Khi được báo đây là đồng chí Khải, chủ tịch Ủy ban Nhân Dân thành phố -- và sau này là Thủ tướng -- thì tên công an nói đã có lệnh không cho ai vào sau khi trận đấu đã bắt đầu, rồi đóng xập cửa lại. Ông chủ tịch thành phố đứng ngó quanh một lúc rồi kéo vệ sĩ của mình ra xe đi về.
Khu Sinh Ngữ sinh hoạt vẫn bình thường, chỉ thiếu Nguyễn Đức Lâm đã đi thoát. Sau này tôi mới biết trước khi về học Đại Học Sư Phạm, Lâm đã có thời làm việc cho DAO, văn phòng tùy viên quân sự trực thuộc Bộ Quốc Phòng Mỹ có trụ sở ở trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Vào khoảng giữa Tháng 4-75, Lâm gặp một người trước cùng làm ở DAO cho biết cơ quan này cấp giấy chứng nhận cho các cựu nhân viên để có thể được đem đi một khi có lệnh di tản. Lần đầu khi Lâm tới phi trường thì bị quân cảnh loại ra vì trong hạn tuổi quân dịch không được phép lìa xứ. Qua hôm sau Lâm lại tới phi trường và may mắn lọt vào được và đi thoát.
Qua Bs. Trung bên |Khu Phẫu Thuật Thực Hành, tôi biết đưọc mấy môn thể thao và giải trí mà trước 1975 tôi không bao giờ nghĩ tới, phải nói cho ngay cũng chẳng có thời gian và tiền để theo đuổi. Thoạt tiên là môn chèo thuyền hai hay ba người và chèo périssoire ở Câu Lạc Bộ Dưới Nước Thanh Đa. Club này sau 1975 tôi mới biết tên. Bs. Thái Minh Bạch là hội viên Club này từ lâu, sau 75, ông kéo đệ tử Trung đi cùng, rồi Trung kéo tôi đi. Tại đây tôi có dịp chèo chung với GS. Phạm Biểu Tâm và ông Duyên Võ. Có khi ngồi cùng thuyền, có khi chèo song song bên nhau, chung quanh chỉ có trời mây nước, chúng tôi nói chuyện thoải mái không phải ngó trước ngó sau. Ông Duyên Võ là chủ tiệm may complet nổi tiếng Saigon. Ông đã từng được mời vào Dinh Độc Lập may complet cho Tổng Thống Diệm. Ông rất vui tính, hay kể truyện hài. Có lần ông nói đo quần cho Tổng thống phải đo rất kỹ, nên biết được những gì người ta đồn về Tổng thống là xạo. Ông còn kể cho chúng tôi nghe chuyện một ông bạn rất sợ bà vợ hay ghen. Sáng sáng chỉ mặc maillot và xà lỏn chạy quanh khu phố đúng nửa tiếng. Vậy mà sau khi ông bị đi học tập, có người bồng con tới trả cho bà vợ, nói là không còn tiền để lo cho đứa nhỏ.
GS. Tâm thì năm 1973 đã cắt 1/4 dạ dầy cho nhạc phụ tôi bị ung thư và nói ông cụ sống thêm tối đa là ba năm. Quả nhiên giữa năm 1976 ông cụ tôi mất. Một hôm khi Thầy Tâm và tôi chèo périssoire tới gần Xi-Măng Hà Tiên, nhìn lên nhà máy vắng hoe, thầy nói với tôi, “Mình đã không lầm khi quyết định di cư vào Nam năm 1954.” Một hôm khác khi tôi báo tin cho thầy biết là Bs. Lê Sĩ Quang sau khi đi thoát qua Mỹ, vừa mới trở thành giáo sư thực thụ tại một đại học thì bị ung thư dạ dầy và đã qua đời. Thầy nói, “Tội cho nó quá. Nếu nó còn ở đây, tôi bảo đảm nó còn sống thêm ít nhất vài năm nữa.” Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là hình ảnh Thầy Tâm trong một buổi họp ban lãnh đạo và các giảng viên toàn trường tại cafeteria. 
Hôm đó có cả đại diện Bộ Y Tế tới dự và nhà trường thông báo cho ban giảng huấn về kế hoạch tăng số sinh viên được nhận vào học năm thứ nhất Y khoa để có thể đào tạo gấp đủ số bác sĩ đưa về phục vụ tại tuyến huyện, và muốn biết ý kiến của mọi người. Chúng tôi đều biết việc hỏi ý này chỉ làm lấy lệ, vì tất cả đã được Đảng quyết định trước cả rồi. Thầy Tâm đã phản đối việc này, cho rằng nhà trường phải đào tạo ra những bác sĩ đúng nghĩa, không thua kém các bác sĩ đào tạo ở nước ngoài. Nếu cần nhiều và nhanh như thế thì Trường Y chỉ có thể đào tạo ra các y tá mà thôi, việc này xin để cho trường đào tạo cán sự y tế! Càng nói giọng Thầy Tâm càng thống thiết, ông ôm lấy micro như quằn quại và cuối cùng gục xuống đất. Mấy bác sĩ ngồi gần đó vội chạy lại đỡ ông lên và dỉu lên ghế ngồi. Buổi họp sau đó đã kết thúc trong bầu không khí tẻ nhạt, ai lấy yên lặng ra về.
Ngoài chuyện chèo thuyền, tôi còn theo anh Trung học đánh mạt chược. Giới tú bíp hầu như ai cũng biết chơi mạt chược, vì thời sinh viên phải trực bệnh viện, buổi tối rảnh chơi mạt chược là nhất. Khi tôi đã biết chơi khá thạo thì cũng là giai đoạn mà thiên hạ vượt biên rất nhiều, vào trường tuần nào cũng có người vượt biên. Vì sợ bạn bè một ngày nào đó sẽ ra đi hết nên tôi nhờ một học trò cũ trường Tầu mua hộ một bộ mạt chược, về dậy vợ và hai con chơi. Cả nhà tối rảnh ngồi chơi với nhau, và về sau nhà tôi rất vui vì là địa điểm họp mặt của mấy người bạn thân cùng mê mạt chược.
Cũng anh Trung đã gián tiếp đưa tôi tới môn tennis. Số là anh có bạn cùng lớp là Bs. Nguyễn Trọng Nghĩa, Y sĩ Trung Úy Thủy Quân Lục Chiến, sau hai năm học tập được thả về. Trung giới thiệu Nghĩa cho tôi và chúng tôi thân nhau ngay, nhất là sau này Nghĩa lại lấy Lư, sinh viên năm thứ hai Y Khoa của tôi khi tôi về dậy năm đầu. Em rể Nghĩa là một phó quận trưởng bị đi học tập. Một hôm Nghĩa đến nói với tôi nhà em rể còn mấy cây vợt và nhiều hộp bóng tennis chưa sài, nên rủ tôi đi học chơi tennis. Thế là chúng tôi lúc rảnh vào rượt banh trong chuồng cu ở Cercle Sportif cũ trên đường Hồng Thập Tự, đã đổi tên thành Câu Lạc Bộ Lao Động. Con trai đầu lòng của Nghĩa Lư là con nuôi của chúng tôi. Khoảng năm 1982 vợ chồng Nghĩa và con đi vượt biên, lúc đó Lư đã có thai được năm tháng. Trên đường đi bị hải tặc, tất cả chết hết trừ chủ tầu và vài người khác.
Chủ nhiệm Mỹ Điền lo việc hành chánh với Nguyễn Văn Niêm, giáo viên Nga văn, lo Giáo Vụ bộ môn, Quảng hầu như vẫn lo tổ chức công việc giảng dạy Anh văn. Nhưng vì suốt ngày ở bộ môn nên bọn tôi vẫn rảnh, tôi nghĩ ra cách chơi scrabble để giết thì giờ, cô Hoa làm thư ký ghi điểm. Ai thắng thì được một chầu cà phê, và dĩ nhiên cả cô Hoa nữa.
Một điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao giáo viên Nga văn được điều về bộ môn nhiều đến thế. Ngoài Niêm có thể đứng lớp, lần lượt có thêm Lê Thị Bước, người Nam tập kết, cô Lan có mẹ cũng là dân tập kết công tác tại Khoa Nha, và bà Nguyễn Thị Minh, người Bắc, có chồng là y sĩ đại tá tiếp thu Bệnh viện Cộng Hòa. Sau bà Minh cho tôi biết là lúc bà xin về Trường Y, chính Niêm đã lên tận Bộ Y Tế tìm cách chặn lại, nhưng không được. Tôi nghĩ rằng số giáo viên Nga văn được đào tạo nhiều, mà nhu cầu ở phía Nam tương đối ít vì tuyệt đại đa số sinh viên học sinh đều chọn học Anh văn hay Pháp văn. Ở Trường Y cũng vậy, số sinh viên học Nga văn rất ít, ngay cả các sinh viên bộ đội cũng chỉ thích Anh văn. Vì vậy mà giữa các cán bộ giảng dạy Nga văn luôn luôn có chuyện dìm nhau để làm nổi, mà bọn Ngụy tôi gọi đùa là “đấu tranh anh em gay gắt.”
Sau khi công việc giảng dậy và xắp xếp bộ môn đã “đi vào nền nếp” cứ vài tháng lại có buổi họp bộ môn để các giảng viên bình bầu tiên tiến. Đám Ngụy chúng tôi chẳng thích cái trò này, nhưng vẫn phải làm, Thường thì chúng tôi chỉ ngồi yên, bất đắc dĩ mới nói và chỉ nêu ra những ưu điểm của các đồng nghiệp. Nhưng có lần trong một phiên họp bình bầu cuối năm, các giảng viên Nga văn không biết vì lý do gì tố nhau rất dữ. Tôi thoạt đầu ngạc nhiên rồi sau thấy chán ghét khi họ giở sổ tay ra, đọc ngày này giờ này chị đã làm gì, nói gì, và người kia cũng “đáp lễ” y chang như vậy. Tôi chợt nhớ tới lời ông Ngô Như Hòa đã nói với tôi là “Những người cộng sản ghét nhau.” Buổi họp đã xong tôi vẫn còn ngồi lại trong phòng nghĩ ngợi. Mỹ Điền từ trên bàn chủ toạ đi xuống và kéo ghế ngồi xuống cạnh tôi khi mọi người đã ra khỏi phòng. Điền hỏi tôi nghĩ sao về lối sinh hoạt này. Tôi nói rằng quả thực tôi không quen với cách thức tố nhau như vậy, nhất là việc vào ghi sổ tay lời nói việc làm của một người nào đó để đợi một ngày dùng đến sau này. Mỹ Điền cười rồi nói với tôi, “Rồi anh cũng phải quen thôi, dù tôi nghĩ rằng anh sẽ không làm như vậy.”
Các sinh viên bộ đội phần lớn là do đơn vị chọn đưa đi học, nên nếu có qua kỳ thi thì cũng chỉ là hình thức. Yếu tố quan trọng là thành phần lý lịch chứ không phải học lực và có trình độ tốt nghiệp phổ thông không phải là nhiều. Do đó có nhiều em viết tiếng Việt còn chưa ra câu, khi viết tiếng Anh thì vì quen tiếng Việt độc âm, chữ một vần, khi viết tiếng Anh cũng viết một chữ rời ra thành hai hay ba phần tùy theo chữ đó có hai hay ba vần. Chẳng hạn như chữ “abdomen ” thì viết rời thành ab do men. Còn về kiến thức y khoa thì một hôm tôi ghé qua Khu Phẫu Thuật Thực Hành chơi, bác sĩ trưởng khu kể cho tôi nghe một sinh viên bộ đội có hỏi ông về “bệnh ung thư tiền liệt tuyến ở phụ nữ...,” rồi lấy ra một sấp bài kiểm tra, lật một bài trong đó có hai hình vẽ, một hình với một bình thông đáy có chứa nước với vạch ghi rõ mực nước, và hình thứ hai là hình thứ nhất lộn ngược, và nước vẫn nằm ở đáy bình dù bình đã lộn về phía trên. Trong một buổi lễ, một sinh viên bộ đội đoàn viên Thanh niện Công sản lên đọc diễn văn. Tới một đoạn em nhìn vào giấy rồi đọc lớn, “Đoàn viên Thanh niên Cộng sản là những người thừa...” Đám Ngụy ở dưới vỗ tay rần rần, có ai đó còn nói lớn “Hay!” Thì ra em này đọc tới chữ “thừa” thì hết hàng, kiếm mãi mới ra chữ tiếp theo. Cả câu là, “ Đoàn viên Cộng sản là những người thừa kế sự nghiệp Cách mạng của Đảng.”
Nhưng các sinh viên này nếu tôi đã có dậy qua thì chưa bao giờ làm tôi khó chịu, mà chỉ làm cho tôi thấy tội nghiệp. Có lần tôi đang dậy một lớp năm thứ hai thì đột nhiên có một em bị xỉu. Em gục xuống bàn học cá nhân, mặt xanh lét gần như mầu bộ đồng phục bộ đội của em. Còn đang lúng túng chưa biết phải làm gì thì chợt chị Ngọc đi qua phía ngoài. Thấy lớp nhốn nháo, chị bước vào, nhìn em bộ đội xong, chị bảo tôi cứ để em ở đó, chị đi lo cho. Ít phút sau chị từ bộ môn trở lại, với một tách nước trà nóng và một cái muỗng. Với sự trợ giúp của một sinh viên khác, chị múc từng thìa nước từ từ đổ vào miệnh em này. Và chỉ thoáng sau em mởmắt ra, ngồi thẳng lên được và cầm tách nước uống hết ngay. Chị Ngọc kéo tôi ra ngoài, tôi hỏi thuốc gì mà thần diệu vậy. Chỉ cười, nói nhỏ với tôi, “Nó đói đấy. Chuyện này ở ngoài Bắc tôi quen quá rồi. Cứ trà đường nóng là xong hết!”
Một hôm hết giờ học rồi mà một sinh viên bộ đội vẫn còn nán lại. Em tới gần tôi, nói với tôi là điểm bài kiểm của em không tốt và em không muốn như vậy. Tôi chưa biết phải nói gì với em thì em đã nói tiếp rằng em và một số bạn nữa ở tại Đại Học Xá Minh Mạng cũ. Sáng sáng các em đi thực tập tại các bệnh viện, trưa về trường ăn uống nghỉ ngơi để đợi học lý thuyết vào buổi chiều. Em nói là em thường xuyên đói, tối về học xá ăn uống xong là chỉ muốn đi ngủ ngay để lấy sức. Nếu cần thì chỉ học các bài lý thuyết y khoa, còn sinh ngữ thì ở lớp nghe nhớ được cái gì thì nhớ, chứ không thể học vào buổi tối được. Tôi thông cảm với em ngay, vì vào những năm phải ăn độn bo bo, tôi đã ăn no căng cả bụng mà vừa buông bát xuống là lại thấy hao háo, thèm ăn một cái gì. Tiêu chuẩn nửa ký thịt heo mỗi tháng thì làm sao cung cấp đủ chất đạm cho cơ thể cho cả gia đình. Nếu không “chà đồ nhôm” đem ra chợ trời bán và sau này lậu lâu có thùng quà từ ngọại quốc gửi về thì tôi cũng giống như các em thôi.



Ngoài các giảng viên Nga văn từ ngoài Bắc vào, Bộ môn Ngoại Ngữ cũng có thêm một số giảng viên Anh văn và Pháp văn mới, đa số là trẻ và có người còn là đoàn viên Thanh niên Cộng sản HCM. Chỉ có hai người dạy Pháp văn là đã lớn tuổi, môt là Trịnh Xuân Đính và một nữ giảng viên người Nam có chồng là bác sĩ phải đi học tập. Bà này ở trường nói chuyện anh anh em em rất thân mật với Khoa trưởng Ngô Như Hoà, và còn kể cho tôi nghe thỉnh thoảng ông Hòa còn ghé nhà chơi và nói chuyện với nhau toàn bằng tiếng Pháp, nên tôi đồ chừng có thể hai người có liên hệ họ hàng hoặc ông Hòa và chồng bà này ngày xưa là bạn học ở Y khoa. Bà này kể lại có lần dùng điện thoại của văn phòng bộ môn nói chuyện với một người quen là nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Pháp, dĩ nhiên là nói tiếng Pháp. Khi đang nói thì bị một người không biết từ đâu xen vào cắt ngang, nói, “Nói bằng tiếng Việt đi.” Sợ quá, bà vội vàng cúp máy. Về sau bà này cũng vượt biên nhưng không thoát, báo cáo về gửi về trường cho biết bà này khai phải vượt biên vì “bị ông cựu trưởng khu gây khó dễ.” Chi tiết này được chính Quảng kể lại với tôi.


Sếp Quảng tính thẳng, không biết có khiển trách gì bà giáo Pháp văn này hay không mà bị bà ta khai ra như vậy. Điều này khiến tôi nhớ tới một vụ mà tôi với cô Hoa, ông Thám cứ cười mãi, cho rằng Quảng còn 'ngây thơ' nữa. Số là một hôm cán bộ Lê Thị Bước, giảng viên Nga văn, vào bộ môn trễ, Quảng đã quên mình không còn là trưởng khu, nghiêm mặt nhắc nhở bà này. Chúng tôi đều ngạc nhiên, riêng bà Bước thì tím mặt lại, không nói gì cả. Nhưng chỉ nội trong tuần đó Quảng đã bị bà này tố cáo nhiều tội dưới văn phòng trường. Nhưng có lẽ hiểu rõ sự vụ và muốn cho quan hệ giữa mới và cũ bớt căng thẳng, họ đã làm ngơ.

Nhưng sau này qua đầu thập niên 1980, Quảng đã cảm thấy có điều gì bất ổn. Quảng được Biện lúc đó là phụ tá giáo vụ bộ môn gợi ý cho thêm phần dịch Anh Việt-Việt Anh trong bài thi ngoài phần trắc nghiệm. Đến khi chấm bài, Quảng sửa phần dịch bê bết và cho điểm thấp. Họp bộ môn, Mỹ Điền đã nêu vấn đề này ra và phê bình Quảng dậy quá sức sinh viên. Tất cả không ai nói gì, kể cả Quảng. Quảng sau nói với tôi không biết Biện có gài Quảng vào vụ này hay không. Và chuyện này cả văn phòng nhà trường cũng biết. Quảng kể cho tôi nghe có hôm một nhân viên văn phòng hỏi Quảng về chuyện dậy ' tiếng Mỹ ' cho sinh viên và đưa cho Quảng một tờ giấy với nhiều khoản để điền vào, trong đó có khoản “tự nguyện đi phục vụ tại bất cứ nơi nào được chỉ định.” Quảng lầy làm lạ nhưng không hiểu sao cũng điền vào hết. Hoang mang và chán nản, ít lâu sau Quảng nạp đơn xin nghỉ việc. Sau Quảng còn nói với tôi có lần Đính tìm tới nhà Quảng cho biết nếu muốn Quảng có thể xin dậy học trở lại, nhưng Quảng đã không làm.

Trịnh Xuân Đính vừa mới chuyển về bộ môn là chúng tôi đã rất thân với nhau vì tâm đầu ý hợp. Mãi về sau tôi mới biết nhờ có ông bác họ vợ làm lớn ở Bộ Y Tế giúp đỡ nên Đính mới được về đây. Đính trước đó là giáo sư Pháp Văn tốt nghiệp Đại Hoc Sư Phạm, có Cử Nhân Văn Chương Pháp từ Trường Văn Khoa Saigon, đã đậu xong Cao Học Luật và đang làm Luận Án Tiến Sĩ, đồng thời làm phụ giảng ở Luật. Sau 4-75, Trường Luật đóng cửa, chỉ còn mở Trường Kinh Tế nên Đính phải “đi tỉnh buôn than, gạo, đường trên chiếc xe solex hắn biến chế cho chạy bằng dầu lửa” nhưng không xong, hắn phải đi sửa xe gắn máy ở đầu đường một thời gian khá dài. Sau đó hắn ta may mắn được ông bác họ bên vợ cho về dạy Pháp văn ở Y Khoa, cũng là môt nơi tạm dung thân mà nhiều người khác có mơ ước cũng không được.

Buổi trưa ăn xong cơm ở cafeteria ma soeur còn sớm, tôi và Đính thường kéo nhau ra đường Nguyễn Trãi đi dài dài xuống tới Tổng Đốc Phương, ngắm hàng thiên hạ mang ra bán chợ trời. Còn nhớ có lần sau Tết Trung Thu, chúng tôi tình cờ thấy có có tiệm đem ra đường bầy bánh nướng bán không hết hồi Trung Thu giá thật rẻ. Hai đứa bèn mua một cái, chia nhau vừa đi vừa ăn. Ngon ơi là ngon.

Thời gian sau đã thấm cái đói, chúng tôi tìm ra được một nguồn chất đạm bất tận, vừa rẻ vừa bổ vừa được hoạt động chân tay. Đó là thịt chó. Nguyên Khu Phẫu Thuật Thực Hành có phòng lab để cho sinh viên thực tập mổ chó. Chó được gây mê để cho sinh viên mổ. Nhưng con chó này sau đó được khu bán kí lô thu về ít tiền cho quỹ của khu. Một hôm vào đầu năm 76, Bs.Trung qua rủ tôi chiều đi về sẽ mang theo một con chó tới nhà một người bạn để làm thịt, xem ăn thịt chó vào dịp Tết thì cả năm có “đen như mõm chó hay không.” Cô Lệ thư ký khu đã chọn một con chó béo khỏe cho chúng tôi và khi cân còn bớt cho hai ký lô trước khi tính tiền, rồi bỏ vào trong bao bố buộc lại đàng hoàng. 
Chiều chúng tôi xách chó xuống cầu thang, tới chân cầu thang ở hành lang trước đại giảng đường thì gặp mấy sinh viên vẫn chưa về còn đứng ở đó. Các em ngạc nhiên nhìn Trung xách bao bố, và khi thấy máu nhỏ giọt xuống sàn nhà thì cười và kếu lên, “Chó đây mà. Anh Trung bêu riếu chế độ đấy nhé!” Chúng tôi chỉ cười và Trung đưa tôi tới nhà một người bạn ở đường Hòa Hưng. Anh này là con một đại tá đã đi học tập ngoài Bắc. Lần đầu tiên làm thịt nguyên một con chó, chúng tôi đã thật lúng túng nhưng rất vui. Để thui chó, bạn tôi vào phòng lấy ra mấy cuốn truyện tiếng Anh xé ra từng tờ để đốt. Mãi tới 9 giờ tối chúng tôi mới được ăn và chỉ có hai món thịt luộc và chả nướng.



Chuyện này tôi đã quên, nhưng mấy năm sau khi đói quá tôi mới nhớ lại và hỏi Đính làm bếp có giỏi không và có biết làm thịt chó không. Đính nói “làm bếp là nghề tay phải của tao và làm thịt chó thì tao là số 1”. Thế là từ đó tôi xách đồ nghề theo “thầy đi làm thịt chó”. Lần đầu tiên tôi và Đính tới làm thịt chó ở nhà chị Ngọc. Chồng chị Ngọc là bác sĩ giám đốc Bệnh Viên Da Liễu nên được cấp một villa rất đẹp trên đường Hiền Vương gần Pasteur. Vì nhà lớn nên Bộ Y Tế còn cho Bs. Hậu , phu trách giáo vụ Trường Y và Vĩnh, một nhân viên Bộ Y tế nữa độc thân, ở ghép một từng. Vì không có chỗ “hành nghề” nên tôi và Đính rủ chị Ngọc “đánh đụng” với chúng tôi. Chị Ngọc đồng ý ngay và nói sẽ bảo mấy người kia phụ một tay nữa. Vì được chuẩn bị kỹ từ trước và có nhiều người phụ nên chúng tôi đã giải quyết con chó và hoàn tất đủ cảc món chó luộc, chó nướng chả, dồi chó, dựa mận, chỉ thiếu món tiết canh. Tối hôm đó chỉ có Đính, Bs. Hậu, Vĩnh và tôi nhậu, làm hết một chai nếp Lúa Mới đem từ Bắc vào. Vợ chồng chị Ngọc và hai con không đợi được, ăn trước từ sớm, lấy phần để hôm sau ăn. Khi rượu đã ngấm, con người thật của Bs. Hậu mới để lộ ra. Cái lạnh lùng xa cách hàng ngày ở cơ quan không còn nữa. Anh ta ăn uống nói chuyện tự nhiên cởi mở hơn hẳn bình thường. Nhưng đột nhiên anh trở nên ít nói, ngồi uống thêm liền hai chung nhỏ rồi bỏ vào nằm ở giường kê gần đó. Tôi để ý thấy anh cứ trằn trọc và lâu lâu lại thở dài sườn sượt. Đính cũng để ý thấy và sau nói với tôi là ở cơ quan cán bộ nào cũng đeo một cái mặt nạ.


Lần thứ nhì mà tôi và Đính đi làm thịt chó là khi Niêm rủ chúng tôi mua chung con chó và về làm ở nhà Niêm. Vợ chồng anh này được cấp căn nhà gia nhân ở một góc sau Bệnh viện Đồn Đất. Tôi và Đính làm xong thì chia thịt rồi ai về nhà người nấy. Niêm gốc nam Trung bộ, tập kết ra Bắc. Như các cán bộ khác, Niêm ít nói, rất dè dặt dối với đám Nga văn, còn hơn đối với chúng tôi.


Lần cuối cùng tôi và Đính mua một con chó về làm ở nhà tôi. Vì chỉ có một bếp dầu nhỏ nên đợi khá lâu mới có nồi nước sôi để cạo lông chó. Trong khi đang chuẩn bị các thứ khác ở trong bếp thì chợt nghe tiếng ăng ẳng nho nhỏ ở ngay sau lưng. Tôi đang ngồi xổm nhặt rau thơm, hoảng qua đứng vọt dậy. Liền lúc đó nghe tiếp được tiểng “ẳng” lớn hơn từ bao bố vang ra. Hóa ra là con chó chưa chết, có lẽ chỗ mổ nhỏ và sinh viên khâu kỹ nên con chó chưa chết. Khi thuốc mê mất dần hiệu lực, con cho tỉnh lại và kêu. Đính nói phải kết liễu con chó đi vì nếu để nó tỉnh lại hẳn thì không thể nào dội nước sôi để cạo lông được. Tôi vội vàng lấy cái chầy để gần đó đưa cho Đính. Chúng tôi chỉ làm mấy món chính như luộc, dồi và chả nướng. Đính nhường cho tôi cái đầu, bảo để nấu cháo “bồi dưỡng” cho hai đứa con nhỏ của tôi, và Đính còn nói óc chó bổ lắm. Tối hôm đó vợ tôi được một vố sợ nhớ đời khi cô ấy đi làm về trễ, lúc mở tủ lạnh ra lấy nước uống thì thấy cái đầu chó nhăn răng ra cười, sợ quá ngã ngồi bệt xuống đất. Từ đó về sau tôi không còn làm thịt chó ở nhà nữa.


Sau đợt giảng viên Nga Văn, mấy năm sau bộ môn còn nhận thêm bốn giảng viên trẻ một Anh văn là Phúc 1, ba Pháp văn là Sơn, Thanh Bình và Phúc 2. Sơn và Thanh Bình đều là đoàn viên Thanh niên Cộng Sản. Hai người này về sau gây cho Mỹ Điền nhiều bối rối và bực bội.


Khoảng năm 1978 trở đi khi các vụ vượt biên bán chính thức được tổ chứ ồ ạt thì Trường Y cũng bị ảnh hưởng. Trước đó thì các bác sĩ cũng bỏ đi lai rai, nhưng từ khi có vượt biên bán chính thức thì số bác sĩ đông hơn nhiều. Lý do là những người tổ chức phần lớn là người Hoa, mà đi bán chính thức thì bảo đảm không bị công an bắt. Chủ tầu thường kiếm bác sĩ cho đi miễn phí để lo chăm sóc sức khỏe cho thân nhân và giao thiệp với nhà cầm quyền nước tầu cập bến vì thông thạo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Cũng vì tham nên chủ tầu cùng nhà cầm quyên nhận tối đa số người xin đi. Buổi tối trước ngày khởi hành chủ tầu đã cho người vượt biên xuống ém kín khoang một tầu đậu ở Cát Lái, nhiều đến độ tầu không chịu nổi bị chìm. Số người không lên kịp chết rất nhiều, trong đó có vô địch quần vợt Nguyễn Văn Sĩ.


Trong những buổi họp bộ môn, Mỹ Điền thường đem chuyện những người từ ngoại quốc trở về giúp nước kể cho chúng tôi nghe và phê phán những người cứ tính chuyện bỏ đi. Ông hay nhắc tới một bà ở Bộ Môn Vi Sinh đã cùng chồng từ Canada tình nguyện về giúp nước. Ông nhấn mạnh cặp vợ chồng này mỗi người kiếm mấy ngàn dollar một tháng, nay trở về nước lãnh lương 90 đồng. Tôi còn nhớ bà này nhỏ con, trắng trẻo, hàng ngày đi xe máy PC tới trường. Sau lại biết thêm bà là cháu của Thứ trưởng Bộ Đại Học Hoàng Xuân Trường và khi về được bố trí về làm việc ngay ở trường tôi. Thế nào đi nữa thì quyết định về nước của bà này cũng rất đáng nể. Nhưng chỉ một năm sau tôi không thấy bà đi xe PC tới trường nữa, và ít lâu sau chúng tôi được biết vợ chồng bà này đã vượt biên, không những đi một mình mà còn kéo hết cả đại gia đình tới mấy chục người!


Chuyện này vẫn còn âm vang thì lại tiếp tới chuyên Thanh Bình. Là một giảng viên trẻ, đẹp, vui tính, và còn là một đoàn viên TNCS, cô là mẫu người mà Mỹ Điền rất tin tưởng. Mỷ Điền rất thích khi cô này chuyển câu đầu bài “Từ thành phố này Người đã ra đi ” sang tiếng Pháp và hát, “ De cette ville Il est parti.” Điền cười tít mắt và nói, “Đây chính là new blood.” Ý muốn nói bọn tôi là loại máu cũ, tạm sài mà thôi. Nhưng một hôm không thấy Bình vào dậy học, qua hôm sau thì có tin cô đã vượt biên. Điền kéo tôi và một hai người nữa theo địa chỉ tìm tới tận nhà cô Bình. Chúng tôi đứng trước của nhà cô đã bị niêm phong, mỗi người một ý nghĩ riêng, rồi lẳng lặng ra về.


Một bác sĩ khác đã vượt biên thành công, nhưng thời điểm vượt biên của ông không hiểu vô tình hay cố ý đã đặt nhà trường vào một tình huống bối rối và chúng tôi được nở từng khúc ruột. Bs. Ân chuyên về tiết niệu là học trò cưng của Giáo sư Ngô Gia Hy, cả hai làm việc tại Bệnh viện Bình Dân. Người ta nói GS. Hy là cháu của Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Đảng bộ Nam Kỳ. Bị Pháp bắt và đầy đi Côn Đảo cùng với Phạm Hùng năm 1933 và sau đó mất tích trong một chuyến vượt ngục vào đầu năm 1935. Tôi còn nhớ GS. Hy có vẻ thoải mái hơn các giáo sư và bác sĩ khác, và trong một lần nói chuyện với các sinh viên, ông chấm dứt bằng câu, “Các em hãy nhớ sau các em còn có tôi.” Tôi không hiểu ý ông muốn nói gì, mà lại nghĩ tới câu nói của Tổng thống Diệm, “Sau Hiến pháp còn có tôi.”


Hôm đó là buổi chót của một hội nghị báo cáo chuyên đề, Bs. Ân được chờ đợi lên trình bầy một đề tài về niệu khoa tại đại giảng đường vào hồi 2 giờ chiều với sự có mặt của đại diện Bộ Y tế, ban lãnh đạo trường, toàn thể cán bộ giảng và sinh viên. Đúng 2 giờ chúng tôi mới từ Bộ Môn đi xuống, tưởng đã trễ, nhưng tới cửa giảng đường nhìn lên bục giảng ở sân khấu vẫn trống trơn. Mọi người bắt đầu ngơ ngác, xì xào hỏi nhau. Đợi tới 2:30 thì một nhân viên lên lấy micro thông báo Bs. Ân bị bệnh bất ngờ không thể đến được. Đề tài sẽ được trình bầy vào một ngày khác. Ai nấy đều không tin, và quả thực hôm sau vào trường tôi được bác Thám báo tin nghe nói Bs. Ân đã vượt biên. Hiện nay Bs. Ân ở Montréal, Canada, rất tích cực hoạt động trong cộng đồng người Việt.


Sơn là đoàn viên trẻ, rất hoạt động, em trai Bs. Nguyễn Ngọc Phượng, y sĩ sản phụ khoa. Bà này có chồng cũng là một bác sĩ. Ông này đi Pháp tu nghiệp nhưng đã ở lại không về nước, bỏ cả vợ luôn. Bà Phương được chính quyền mới ưu đãi, cất nhắc lên làm giám đốc Bệnh viện Từ Dũ và liên tiếp đắc cử dân biểu Quốc Hội. Thời gian này ông Ngô Như Bình đã không còn là Khoa trưởng và đã xin nghỉ về mở phòng mạch tư ở Tân Định. Hiệu trưởng Trường Đại Học Nha Y Dược TpHCM là BS, Trung, một người Nam, nhưng người thực sự nắm quyền là bí thư đảng ủy Mười Năng, người Bắc, nắm giữ hiệu bộ.

Không rõ Mỹ Điền có vấn đề gì với hiệu bộ mà ông thường xuyên bị Sơn công kích, không phải với tư cách cá nhân mà với là đại diện đoàn trường. Cho tới khi tôi đã gần xin nghỉ để hoàn tất hồ sơ xuất ngoại năm 1983 thì Mỹ Điền tới khu làm việc thất thường. Hôm tôi chính thức nghỉ, bộ môn có tổ chức tiệc nhỏ tiễn tôi. Mỹ Điền không vào, nhưng viết mấy chữ từ biệt nhờ ông Thám đọc. Tôi còn nhớ ông Điền trước khi chúc tôi may mắn được xuất ngoại đoàn tụ với gia đình, đã nói lý do ông không tới dự “như một cách phản đối lề lối làm việc Mao-ít của ban lãnh đạo nhà trường.” Tôi chẳng hiểu Mao-ít với Mao-nhiều là sao, nhưng rõ ràng là hiệu bộ đã dùng Sơn để phá Mỹ Điền khiến ông này chán nản.



Mỹ Điền đối với Quảng và tôi rất lịch sự và tốt. Ngay từ lúc mới về nắm bộ môn, Mỹ Điền đã nhờ Quảng và tôi lo giúp về mặt chuyên môn. Vì Quảng ít nói và có vẻ xa cách nên Mỹ Điền thường chuyện trò với tôi nhiều hơn. Tôi được Mỹ Điển cho biết đã đi Pháp đi Anh trước khi về Bắc sau năm 1954. Mỹ Điền công tác ở cả bên Y tế lẫn Ngoại giao, có lẽ nhờ vốn liếng ngoại ngữ của mình. Mỹ Điền người Nam, tính tính cởi mở, dễ dãi với tất cả các giảng viên. Ngay mấy năm đầu Mỹ Điền đã mua được một thửa đất khá lớn ở ngay bên kia sông Thanh Đa. Khi Mỹ Điền mời một nhóm bọn tôi khoảng 5, 6 người trong đó tôi nhớ có Biện, Dũng, chị Chỉnh và chị Mỵ Khanh qua thăm trại thì đã thấy một ngôi nhà hoàn chỉnh khá đẹp xây bằng vật liệu nhẹ.

Khu đất đã có hàng rào, một phần đất dành cho căn nhà và vườn nhỏ bao quanh, hai phần còn lại đã được thuê người đào mương đắp vồn, nói để trồng cây nuôi cá. Mỹ Điền nói đây là kế hoạch quy điền sau này, tôi hỏi đùa không phải là phục viên hay sao. Bữa BBQ hôm đó thiệt vui, Mỹ Điền đem một chai đế quốc doanh ra mời, nói rất tiếc không có rượu tây. Mặt tôi hay đỏ, mới uống hai chung nhỏ đã đỏ ửng, chị Chỉnh bảo đừng uống nữa, rượu vào lời ra đó. Tôi tiện thể, mượn hơi rượu rỡn ngay, “Mình đánh đế quốc Pháp cũng thắng, đánh đế quốc Mỹ cũng thắng, chỉ thua có đế Quốc doanh.” Mọi người đều cười và Mỹ Điền là người cười to nhất.



Khi nhà trường tuyển thêm nhiều sinh viên vào học thì nhu cầu giảng viên Anh văn cũng tăng theo. Mỹ Điền hỏi tôi cho biết ý kiến về những người nạp đơn xin. Lần đầu tôi nói ngay chỉ có ý kiến về khả năng chuyên môn mà thôi, thì Mỹ Điền cười và nói ngay vấn đề chính trị thì “dưới nhà” họ lo, đâu đến lượt tôi, ý muốn nói Phòng Tổ chức ở dưới nhà. Thời gian này có nhiều giáo sư Anh văn thuộc Trường Sinh Ngữ Quân Đội hay một số nhân viên cao cấp cũ đã đi học tập trở về, nên bộ môn tôi đông hẳn lên. Tôi gặp lại các bạn cũ như Nguyễn Viết Long dậy Trung tâm Thính Thị Anh Ngữ và trước đó dậy ở Mỹ Tho với tôi từ đầu thập niên 60, Tô Cao Hoan bạn học từ thời ở Văn Khoa dậy ở Sinh Ngữ Quân Đội, Phước Tôn Tẫn – vì có tật ở chân -- và Phạm Văn Cung, giám đốc Innotech, và một vài người nữa mà tôi không còn nhớ tên. Phía nữ có chị Trần Thị Thức, vợ ông Đoàn Viết Hoạt. Cánh đàn ông chúng tôi sau giờ ăn trưa thường qua quán cà phê gốc me ở khu trại tạm cư kế bên ngồi nhâm nhi cà phê bí tất và nói đủ thứ chuyện trên đời.


Một hôm Nguyễn văn Niêm kéo tôi vào bureau, và khi tôi vừa ngồi xuống đối diên thì đột nhiên hỏi tôi tại sao không nói giống như các cán bộ khác, dùng các từ như “giản đơn, khẩn trương, hồ hởi …” vì muốn đề bạt tôi làm phụ tá giáo vụ bộ môn, lo giúp phần Anh văn. Chắc Niêm nghĩ nghe được như vậy tôi sẽ mừng lắm và nhận lời nên hỏi thẳng không rào đón gì cả. Niêm đã thoáng ngạc nhiên khi tôi trả lời ngay là tôi cám ơn nhưng không nhận lời đề nghị. Niêm hỏi tôi tại sao lại từ chối, tôi mỉm cười trả lời, “Lý do đơn giản là tôi chỉ thích dạy học, không thích công việc hành chính, điều khiển người khác, vì tôi nhiều khi không điều khiển được chính tôi. Vì lợi ích của sinh viên và của cả bộ môn, xin để tôi tiếp tục công tác giảng dạy thôi.” Niêm hỏi tiếp tôi, “Thế anh có đề nghị một người nào khác không?” Tôi nói ngay nếu cần một người có đầu óc tổ chức và thành thạo công việc hành chánh thì ở bộ môn có Biện là thích hợp nhất. Niêm cám ơn tôi và ít tuần sau Biện trở thành phụ tá của Niêm.


Tới khoảng năm 1979-80 thì tinh thần tôi xuống thật thấp vì những bạn bè thân quen nhất của tôi lần lượt vượt biên. Lã Hoàng Trung đi bán chính thức, rồi cô Liên Hoa thư ký bô môn có chồng tổ chức vượt biên, cả hai đều thoát. Mất anh Trung tôi thật hụt hẫng vì chúng tôi đi đâu cũng có nhau, các bạn bè mới thân thiết tôi có được hầu như đều qua anh Trung. Sau này liên lạc lại được với anh Trung, anh nói là lúc ở đảo chờ đi Mỹ thì gặp cô Hoa ở đó. Anh trách cô Hoa sao tổ chức vượt biên mà không cho tôi một vài chỗ, tôi không có cây thì qua được bên này sẽ trả sau. Cô Hoa nói chồng có chân trong tổ chức nhưng không có quyền quyết định. Sau này khi tôi sang được Canada, gia đình cô Hoa ở Montréal đã xuống Ottawa chơi với chúng tôi.


Thấy người ta đi thì tôi cũng muốn, nhưng tôi biết là mình rất nhát, thuộc nhóm mà thời đó gọi là “Trí thức 3 N,” nôm na là “nghèo, ngu, nhát.” Nghèo vì không có cây, ngu vì gần 30-4 người ta đôn đáo tìm đường chạy còn mình yên tâm đợi Trung lập, và nhát vì ngày 29 và 30-4 người ta chạy tứ tung, tới Tòa Đại Sứ Mỹ, ra Bến Bạch Đằng, qua Khánh Hội, tới Tân Cảng, thấy chỗ nào có tầu là chạy tới. Anh họ tôi là Lã Huy Qúy, người đầu tiên bơi qua sông Bến Hải năm 1955, và sau đó là nghệ sĩ Thanh Hùng, “ngâm sĩ” của Đài Phát Thanh Saigon, đều đi thoát hôm 30-4.

Anh Quý kể hôm 30-4 anh Thanh Hùng cõng con trên vai ở bến Bạch Đằng, vừa đi vừa khóc, vì nếu kẹt lại thì “chỉ có chết!” Vây mà anh đi thoát, trong khi tôi cố thủ trong nhà. Lắm lúc tôi nghĩ nếu sáng 29-4 tôi cứ đưa vợ con tới Toà TLS Mỹ với tờ điên tín bảo lãnh thì biết đâu đó. Nghĩ vậy thôi chứ nếu thực sự có cơ hội, chưa chắc tôi đã dám đi. Điều này có thể chứng minh được là một hôm bạn tôi là Đ Q Anh Thái đến nói với tôi là anh của chị Thức tổ chức vượt biên nhiêù lần thành công. Và đây là chuyến chót, cả Thái cũng đi, nếu muốn tôi được dành cho hai chỗ, qua bên đó trả tiền sau. Tôi nói để hỏi ý vợ tôi có để cho tôi đi trước với con trai lớn, còn vợ tôi và con gái ở lại chờ tôi nếu đi thoát sẽ bảo lãnh qua sau. Vợ tôi sợ lắm nhưng không có ý cản, nhưng tôi thì “rét” thực sự, ra nói với Thái rằng nếu đi thì đi cả bốn, cùng sống cùng chết với nhau, thay vì chia đôi. Thái đã dành hai chỗ đó cho cặp vợ chồng bạn chung của chúng tôi, và chuyến đó đã thành công.


Các giảng viên trong bộ môn cũng trước sau lần lượt ra đi. Chị Hiếu, có chồng là trung tá không quân còn đang đi học tập, đã đưa con đi trước. Tuần lễ trước khi đi, chị bảo tôi đến nhà và cho tôi bộ Bách khoa Từ điển Britannica. Chị không nói và tôi cũng không hỏi. Mấy ngày trước khi đi, chị thật căng thẳng, vào bộ môn buổi trưa nằm vật lên bureau, “thở hắt ra.” Đây là tiếng của chị dùng, chị nói với tôi, “Sao cứ thở hắt ra mãi thế này!”


Rồi đến lượt Long. Long phải đi hai lần mới thoát. Lần đầu đi đường thủy, ghe chết máy lênh đênh trên biển mấy ngày. Hết nước, may Long có chiếc bật lửa Dupont nên xé quần áo và gỗ vụn, đun nước biển sôi lên, lấy vải hứng hơi nước nhấm nhấm cho đỡ khát. Lúc bị bắt về, con trai út suýt chết vì mất nước, môi thâm xì, người đã lả đi, mắt nhìn chỉ thấy lòng trắng. Lần sau đi đường bộ qua Campuchia, đường đi gian khổ nhưng may mắn bình an vào được Thái Lan. Khi còn ở trại chờ qua Mỹ, vợ chồng Long có chụp ảnh gửi về cho vợ chồng tôi. Nhìn vợ chồng Long đứng mua hàng ở siêu thị mà buồn muốn khóc.


Tôi xin viết thêm về Long, phần vì thân quen quá lâu, phần vì đời Long có nhiều tình huống khiến ta phải nghĩ tới câu “Họa phúc khôn lường”. Long ra Sư Phạm Anh Văn sau tôi hai năm và cũng được bổ về dây ở Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, nơi tôi lúc đó đang dậy. Cũng như Đính, tôi chơi thân với Long ngay. Long nhỏ tuổi hơn tôi nhưng đã lập gia đình và mới có con đầu lòng. Buổi tối tôi thường ghé lại nhà Long ngồi nói chuyện và nghe nhạc. Năm 1964 khi tôi lập gia đình, vợ chồng tôi càng chơi thân với vợ chồng Long hơn. Long có ông anh đại tá trong quân đội, nhờ quen biết lo cho Long về Saigon, không phải dậy học mà làm ở Bộ Thanh Niên, rồi sau xin được về dậy tại Trung Tâm Thính Thí Anh Ngữ . Năm 1969 có lệnh tổng động viên, các giáo sư đệ nhị cấp chỉ học chín tuần căn bản quân sự ở Quang Trung rồi được cho về nhiệm sở cụ phục vụ với cấp bậc trung sĩ.

Lúc chúng tôi về lại trường thì Long xách ba lô lên Thủ Đức học tiếp để mãn khóa ra chuẩn úy. Ông anh Long nghĩ làm như vậy là tốt cho Long, không giống chúng tôi nếu có lệnh gọi đi lính lại thì còn phải học nữa hoặc có thể đi tác chiến ngay. Quả vậy, với thời gian Long lên lon thiếu úy và tới năm 75 thì đã là trung úy. Cũng vì là sĩ quan mà Long phải đi học tập cải tạo, trong khi bọn tôi yên thân. Nhớ hồi Long lên Thủ Đức, cuối tuần nào không được về phép, tôi lại lấy xe Honda 67 chở chị Long lên thăm Long. Và sau 4-75, khi Long phải đi học tập cải tạo, chị Long ở nhà sanh cháu út. Hôm đón chị Long từ nhà bảo sanh về, tôi kéo được cả hai ông bạn bác sĩ Trung và Kiệt đi hộ tống lên tận apartment ở lầu 5 building đường Nguyễn Cư Trinh.


Còn nhớ trưa 1-5-75 khi tôi đang ở trong nhà cầu ở chung cư Nguyễn Thiện Thuật đốt từng cuốn Playboy mà Long đã cho tôi vì sợ tội tàng trữ văn hóa Mỹ Nguỵ thì có ai gõ cửa. Vợ tôi ra mở cửa thì hóa ra vợ chồng Long. Chúng tôi ôm lấy nhau mà chẩy nước mắt. Tôi tưởng gia đình Long đã đi thoát vì trưa 28-4 vợ chồng Long ghé nhà tôi từ giã, nói rằng ông anh Long là trưởng ban tổ chức di tản chỉ lo được gia đình Long mà thôi. Long đưa cho tôi tờ giấy ủy quyền lĩnh lương tháng cuối dậy ở Hội Việt Mỹ, nói rằng nếu tôi lãnh được thì cứ sài, rồi hai vợ chồng lên xe Vespa nói về đón các con đi vào Tổng Tham Mưu đợi. Không đợi tôi hỏi, Long giải thích là chiều hôm đó Long được ông anh cho vào ở một villa ngay trước cây săng Esso đối diện cổng Tổng Tham Mưu mà chủ nhân đã di tản, cho an toàn.


Nhưng sau khi Tân Sơn Nhứt bị dội bom, rồi thiết quân luật và pháo kích, vợ chồng Long đợi hoài không thấy ai tới đón, qua ngày 30-4 thì tuyệt vọng và sợ, phải bỏ villa trở về nhà cũ. Tình cảm tôi lúc đó thật lẫn lộn, vừa buồn cho Long không đi thoát, vừa có chút mừng vì còn có bạn tưởng không biết bao giờ thấy nữa. Chị Lan vợ Long mở ví lấy ra đưa cho tôi hai lượng vàng, Long nói là biết bọn tôi lúc này cần tiền nên cứ giữ để phòng về sau. Tôi rất xúc động và nói sao cho nhiều thế và trả lại một cây. Long bảo bọn tao biết sức có thể cho được bao nhiêu, cứ giữ lấy đừng thắc mắc gì cả. Tôi còn ngờ nghệch nói bây giờ Việt Cộng đã vào đây, đâu còn dùng tới vàng. Long cười và nói, “Để tao đưa mày đi xem vàng có còn dùng tới hay không.” Long bảo chị Lan ở lại với nhà tôi rồi cùng tôi đi xuống lầu lấy xe Vespa chở tôi đi vào đường Nguyễn Tri Phương, ghé vào một tiệm cơm tây nhỏ trước trạm xăng đối diện với tiệm Mì Hải Ký, kêu hai đĩa bí-tết và hai chai 33. Long bảo ăn đi, mai mốt nếu còn tiền kiếm mấy món này cũng khó.


Ăn uống xong, Long bảo tôi đưa lại cho Long một cây vàng rồi lấy xe chở tôi tới một nhà cũng ở gần đó bán lấy tiền mặt. Nhân thấy có người ngồi bán mấy thùng sữa bột SMA trên lề đường, Long bảo tôi mua một thùng cho ông cụ bà xã tôi vì hồi đó ông cụ đang bị ung thư, thứ này vừa lành vừa bổ. Đoạn Long chạy xe về về hướng Hồng Thập Tự gần rạp Olympic, nới bầy bán nhiều thứ được dân chúng hôi của từ building trụ sở của cơ quan USAID. Long bảo tôi thích gì Long mua cho, tôi nói không, Long chọn mua một ghế xoay còn mới toanh nói để ngồi làm việc. Thùng sữa để dưới chân Long, tôi ôm chiếc ghế về nhà Long cất đi, rồi Long mới về nhà tôi để đón chị Lan về. Cây vàng còn lại tôi đã dùng ngay cuối năm đó cùng với sợi giây chuyền vàng y nặng một lượng nhà tôi đeo trong ngày cưới, để mua căn nhà đâu lưng với mặt tiền đối diện với tiệm phở Tầu Thủy đường Nguyễn Thiện Thuật. Mua được căn nhà là chuyện không bao giờ tôi nghĩ tới vì bình thường tôi không bao giờ có đủ khả năng.


Sau này khi thiên hạ vượt biên rất nhiều, tôi biết Long có thừa khả năng để đi nên tôi cứ thấp thỏm, không biết lúc nào Long sẽ đi. Sợ nếu quá thân lúc Long đi tôi sẽ bị sốc nặng, nên tôi âm thầm chuẩn bị tâm lý bằng cách gặp Long ít hơn. Điều này làm tôi đau lòng, nhất là vợ chồng Long cũng để ý thấy và than với bà xã tôi. Tới khi qua Canada và liên lạc lại được với Long, mãi tôi mới có dịp thuận tiện và tự nhiên để giải thích cho vợ chồng Long hiểu, lòng tôi mới tạm yên ổn được phần nào. Sau này khi đi thoát qua Thái Lan bằng đường bộ, Long viết thư về cho tôi bảo tôi cứ yên tâm mà sống, chạy vạy nhiều như Long tuy cuối cùng may mắn thành công, nhưng phải nếm đủ thứ gian khổ mà tôi không thể biết được như tù cải tạo, vượt biên đường thủy suýt chết vì đói khát và còn tù tội, rồi vượt biên đường bộ cũng rất gian nan.


Rồi chị Chỉnh và chị Mỵ Khanh cũng lần lượt vượt biên thoát. Người cuối cùng là Đính. Chuyện vượt biên của gia đình Đính cũng gian khổ, giống như Long nhưng không may bằng Long. Lần đầu Đính đi dường Biển và cả nhà bị bắt ở Gò Công. Vợ con được thả nhưng Đính bị tù gần một năm. Được thả về, Đính không trình diện ở Y Khoa nữa. Vì nhà đã bị tịch thu nên không có chỗ ở, Đính trốn chui trốn nhủi ngoài đường phố. Vì vậy mới chạy xích lô, tối đến táp vào gồc cây nào đó ngủ. Đêm nào nhớ vợ con thì liều về nhà bà già ở Thị Nghè thăm, sáng sớm lại ra đi.

Vậy mà có lần CA địa phương cũng biết tới xét, bà xã Đính phải chạy tiền mới được tha. Sau tên công an ăn tiền quen, cho Đính về miễn là nộp tiền cho hắn. Sau tình cờ có người quen giới thiệu cho đi đường bộ qua ngả Campuchia giá rẻ, chỉ mất hai cây vàng. Lần này chỉ có Đính và cháu Sơn 10 tuổi đi thôi, không hiểu Đính chỉ còn đủ cây cho hai bố con, hay là đi đường bộ rất nguy hiểm nên chỉ có hai người đàn ông đi. Trước khi đi, Đính có đến rủ tôi, nhưng tôi nói không dám đi, Đính chửi quá nhưng tôi chỉ ngồi cười. Vì đã dặn trước, nếu bị lộ thì mạnh ai người ấy chạy, nên khi bị lính CS rượt đuổi tán loạn, Đính chạy thoát và cháu Sơn bị bắt và đưa về lại Saigon. Tôi còn nhớ hồi đó báo SGGP (Saigon Giải Phóng) có loan tin chuyện này, với tít: “Người Tù Mười Tuổi Trẻ Tuổi Nhất Khám Chí Hòa.” Đính qua được Thái Lan rồi qua Mỹ. Về sau chị Đính còn đưa cháu Sơn lại nhà tôi để tôi kèm Anh văn và nhờ tôi giới thiệu với Côn, huấn luyện viên tennis ở CLB Lao Động, dạy cháu chơi quần vợt.


Còn ở lại như tôi và Lê Anh Dũng đều chỉ hy vọng được bảo lãnh ra đi trong an toàn, không sợ bị công an bắt, hải tặc cướp và bão biển nhận chìm. Vì biết tính mình nên về sau tôi không còn bị bận tâm về chuyện vượt biên nữa. Tôi chờ đợi anh tôi ở Canada gửi giấy bảo lãnh cho tôi. Tôi thoải mái làm việc, giờ rảnh tôi dành cho tennis và mạt chược. Nhờ đã được dậy tư trở lại nên cuộc sống của chúng tôi thật dễ chịu, Sáng sớm tôi đi học Tài Chi tuần ba lần, ba buổi kia chơi tennis, khi ở Câu Lạc Bộ Lao Động, khi ở Sân Thoại Ngọc Hầu, Gia Định. Các buổi tối chơi mạt chược với bạn hay vợ con, cuối tuần đi coi đá bóng. Tôi và Lê Anh Dũng thường đi nhậu bia hơi ở đường Trần Hoàng Quân, tối về đã thấm hơi rượu, đứng ở góc tối xế nhà xác Bệnh viện Hồng Bàng, thoải mái nhìn sao trên trời.


Tính tôi hay nói rỡn, tưởng ai cũng hề hề như mình rồi xong, nhưng không ngờ lại đưa tới một vụ làm cho đám Ngụy trong bộ môn một phen rúng động. Thấy Phúc Anh Văn rất hăng hái làm việc một hôm tôi đùa bảo Phúc, “Nếu cậu cứ phát huy tích cực mặt này, tôi sẽ đề nghị cho cậu vào thẳng Đảng, khỏi phải qua Đoàn.” Nói xong tôi và Phúc cùng cười, vì thực sự chỉ là câu nói đùa. Nhưng đúng là “Họa do khẩu xuất.” Mấy tuần sau một hôm Mỹ Điền gọi tôi vào bureau, bảo tôi ngồi xuống rồi nghiêm mặt nói, “Anh có biết câu anh nói trong bộ môn tưởng là đùa nhưng đối với “những người dưới nhà” là một Lèse majesté hay không? Vì biết tính anh từ lâu nên tôi bỏ qua, nếu 'dưới đó ' họ biết thì nhẹ là anh mất việc, mà nặng là đi học tập cải tạo mút mùa. Anh không cần biết ai đã báo cáo cho tôi chuyện này, chỉ cần anh hãy hết sức cẩn thận lời ăn tiếng nói.”


Ra khỏi phòng Mỹ Điền đầu óc tôi còn lùng bùng, không phải vì cái tội Khi Quân tầy đình kia, mà không hiểu tại sao giữa đám Ngụy với nhau lại cạn tầu ráo máng như vậy.Tôi quyết định phải hỏi cho ra lẽ. Hai hôm sau Phúc có giờ dậy, hết giờ tôi rủ Phúc xuống cafeteria uống nước và hỏi Phúc tại sao biết tôi nói đùa mà lại lớn chuyện ra như vậy. Phúc nói ngay là Phúc không báo cáo với Mỹ Điền chuyện này, rồi bảo tôi là lúc nghe nói, Phúc cũng nghĩ chỉ là nói đùa, nhưng về nhà cứ suy nghĩ đâm ra bán tín bán nghi chẳng biết tôi đùa hay thật, nên mới hỏi 'cấp trên trực tiếp' vì nghĩ là bạn tôi chắc hiểu rõ tôi hơn. Phúc cũng không dám nói tên người mà Phúc đã hỏi, nhưng qua cách nói tôi biết không phải là Niêm, và chỉ còn Biện.


Hôm sau tôi vào bộ môn sớm, qua văn phòng nói chuyện với ông Thám và Cô Hoa và kể cho hai người nghe chuyện này. Càng nói tôi càng thấy bực thêm và khi thấy Biện vào tôi làm như không biết, tiếp tục nói lớn hơn. Tôi nói những quân làm antenne chỉ điểm, ở trại học tập sẽ bị nhét c...t vào miệng và chùm mền đánh cho như tử. Về sau nghe cô Hoa kể lại, nói, “Lúc ông Châu nói như thế, thấy ông Biện mặt tái đi và lình qua phòng giáo sư”

Nhưng tới trưa, sau giờ ăn ở cafeteria, chúng tôi lại như thường lệ kéo nhau sang quán cà phê gốc me ở khu kế bên uống cà phê. Hôm đó tôi nhớ có tôi, Biện, Dũng, Thạch và Cung. Thạch mới đi học tâp về, trước dậy ở trương Sinh Ngữ Quân Đội. Phúc Anh văn trưa hôm đó ở lại bộ môn không đi. Ngồi uống cà phê xong lúc gần về, tôi nói với tất cả biết sự vụ và hỏi thẳng Biện có phải Biện đã báo cáo cho Mỹ Điền hay không. Tôi nói tôi muốn biết để khỏi nghi người nọ ngưòi kia, còn Biện nếu có nói thì cũng chỉ là làm nhiệm vụ của mình thôi. Ngồi yên cả phút đồng hồ, Biện nói ngắn gọn, “Tôi nói.” Thấy mọi người đều im lặng, tôi nói, “Được rồi. Thế là không còn gì để thắc mắc nữa và coi như không có gì xẩy ra.”



Lúc về lại trường, Biện đi nhanh về bộ môn trườc, bọn tôi lững thững đi sau.Thạch là người đầu tiên nói, “Thật không thể tin được.” Cung nói tiếng Anh, “It's against my principle,” Dũng có vẻ bị xúc động nhất, nói, “ Thế này thì biết tin vào ai. Chỉ còn môt nhóm với nhau mà bây giờ ra cơ sự này.” Thế rồi mọi chuyện cũng qua đi, không khác gì “một trận bão trong chén trà,” và tôi vẫn giữ thái độ với Biện như cũ, vì dù sao nói chuyện với Biện vẫn thoải mái hơn là mấy giảng viên Nga văn. Nhưng trong số bạn bè ở trường thì hơi khác. Một hôm thấy tôi và Biện nói chuyện với nhau ở sân trường trên đường lên văn phòng, Bs. Ngà ở Khu Bệnh Lý hỏi tôi sao còn chuyện trò với người như thế. Tôi nói chuyện đã qua rồi, vả lại ngày nào cũng gặp nhau, nếu không thèm nhìn nhau nữa thì còn làm cho tôi khó chịu hơn.


Trong một buổi họp mặt ở nhà Phúc Pháp văn, sao khi nhậu ngà ngà, ngồi uống cà phê, Phúc coi chỉ tay cho một người nhờ xem là có đường nào xuất ngoại được không. Biện ngồi kế bên cũng giơ tay cho Phúc coi hộ hậu vận. Phúc nhìn bàn tay rồi khen hậu vận rất đẹp, không thua gì thởi trước 75, có điều là ngay cả đối với bạn bè, nếu cần là “hạ thủ bất lưu tình.” Mọi người hơi ngỡ ngàng, nhìn nhau rồi nói lảng sang chuyện khác.


Một hôm tôi hết giờ dậy ra về thì khi ra cổng, thấy Đính ngồi trên xe xích lô. Đính ngoắc tôi lại và hỏi tại sao không nói cho biết chuyện Biện, nếu muốn “tao đập cho nó một trận.” Đính ở tù gần một năm mới được về vì tội vượt biên, sống ngoài lề đường với chiếc xích lô. Tôi đùa bảo Đính bỏ qua đi Tám, mày muốn lãnh thêm tôi đánh cán bộ giảng hay sao. Đoạn tôi nói với Đĩnh hãy bỏ qua đi, dù sao thì chuyện cũng đã rồi, nuôi lòng oán hận thì mình làm mệt mình trước mà thôi.


Nói sao làm vây, hàng ngày gặp nhau ở bộ môn, tôi đối xử với Biện bình thường như không có chuyện gì đã xẩy ra. chúng tôi buổi trưa vẫn ra quán cà phê gốc me ngồi nhâm nhi chuyện trò, lâu lâu còn đến nhà một học trò cũ của Biện nhậu hay tới những quán cà phê mới mở tại tư gia các gia đình ở khu Phú Thọ. Rồi tới mùa sầu riêng, Biện rủ bọn tôi về Long Thành thăm vườn của mẹ Biện, và chúng tôi được dịp ăn mít tố nữ chín cây, và đặc biệt sầu riêng không hột mà Biện nói chỉ có một cây độc nhất trong vườn, và chỉ dành cho người trong nhà và thân hữu. Sau này khi tôi đã nghỉ dậy ở Y Khoa, được tin bạn bè trong bộ môn báo bà cụ Biện đã mất, tôi đi theo các bạn tới phúng viếng và ân cần chia buồn. Khi Biện hoạt động ở Hội Trí Thức Yêu Nước phụ trách việc sắp xếp giờ dậy cho các giảng viên Anh văn, đã xếp giờ cho tôi dậy hai lớp vào buổi tối và tôi đã dậy tới khi đi Canada. Về chuyện này, Dũng có lần nói đùa với tôi, “Biện nó thấy có nợ với ông nên tìm cách trả đấy.”


Cuộc sống ngày càng dễ chịu hơn vì thỉnh thoảng tôi được ông anh ở Canada gửi cho thùng quà, cái gì cần dùng thì giữ lại, còn không đem ra chợ trời bán mà tôi gọi là “ tái sản xuất.” Các lớp dậy tư ở nhà hay tới nhà học trò ngày một nhiều hơn. Đám học trò trường Tầu cũ tự tổ chức nhóm rồi tới mời Duỳn Sáng ( NguyễnSinh) tới dậy, có nhóm tôi dậy hơn mười năm tới khi người tổ chức nhóm được đi Mỹ.



Quảng chơi tennis ở Cercle Sportif với chị Nga, vợ Lý Quý Chung, từ trước đó, sau biết tôi đã chơi tennis được liền kéo tôi vào nhóm và gìới thiệu với chị Nga. Lúc chị Nga cần người dậy Anh văn cho năm đứa con, Quảng không dậy nên giới thiệu tôi. Tôi dậy cả nhóm này nhiều năm. Ngoài dậy học, tôi còn thường xuyên chơi mạt chược với chị Nga cùng với Quảng và vài người khác, trong đó cả cả nhạc phụ chị Nga là Lý Quý Phát, cựu phó đô trường Saigon. Ông này Tầu lai, nên tôi không phải là đối thủ mạt chược của ông được. Chị Nga làm các món ăn Tây ta cực giỏi, nhờ chị tôi biết ăn sôi và chè sầu riêng, mà trước năm 1975, khi được học trò biếu sầu riêng tôi đều chuyển cho ông anh họ.



Khoảng năm 1977-78, các bạn anh Trung là những bác sĩ quân y bị kẹt lại đi học tập tục tục trở về, tôi lại có thêm môt số bạn mới, như Tiến Cò, Nghĩa, Thịnh, Thụ và em của Lâm là Lai học trên anh Trung một lớp. Tất cả những người này khi về đều được làm bác sĩ trưởng phòng y tế phường, ai cũng được cấp nhà riêng, hay ở chung tại trụ sở y tế phường và đều ở khu Chợ Lớn. Trừ Nghĩa không được may mắn, mấy người kia phòng mạch rất đông khách, ngoài giờ làm ở phường, thời gian còn lại khám bệnh ở nhà, sáng sớm và chiều tối phòng mạch đông như chẩn y viện.

 Chồng khám bệnh, vợ bán thuốc, tiền thu vào không kể xiết. Riêng Thịnh và Lai nổi tiếng nhất ở khu vực đường Tản Đà và Tạ Uyên quận 11, đến độ đã có câu “ Nhất Thịnh, nhì Lai.” Tiến vẫn ở lại và làm lớn ở Bệnh viện Nhi Đồng, ba người kia đều ra đi. Gia đình Nghĩa không bao giờ tới bến bờ, còn Thịnh và Lai được đi chính thức theo diện H.O. Qua ở San Jose. Tôi cũng dậy Anh văn cho hai con của Thịnh và ba con của Lai nhiều năm trời và vì quá thân nên bọn nhỏ đều gọi tôi là Sư Phụ và hai con của Thịnh goị tôi là Bố Châu. Thụ về ở khu Lý Trần Quán, làm bác sĩ ở phường, phòng mạch ở nhà không có nhiều khách như vùng Chợ Lớn.


Vì có ba lớp Anh văn 'nòng cốt' này và mấy lớp học trò Tầu nên tôi không còn lo gì nữa, tới khi nghỉ dậy ở Y Khoa để chờ xuất cảnh vẫn bình chân như vại. Các con của chị Nga, Thịnh và Lai đều rất thành công. Chị Nga hồi đầu một thời gian mở tiệm cơm tấm ngon nổi tiếng ở khu Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn, về sau mở một Restaurant Café Thanh Niên tại sân quần vợt ở góc Nguyễn văn Chiêm và Hai Bà Trưng đông khách. Vợ chồng tôi trước khi đi Canada có ghé lại tiệm để ăn và từ biệt chị Nga.


Bạn mới và bạn cũ cũng lần lượt ra đi. Kiệt và Nghĩa trước khi đi đều qua trại của Trù ở Tân Qui Đông tập bơi cho thạo và tắm nắng cho đen, để khi đi về vùng biển trông không khác người địa phương, đỡ bị lộ. Kiệt trước khi đi còn ghé tôi cho một lô quần short, nói là cho con trai tôi, đồ này từ cửa hàng của cô bạn gái. Kiệt đi hai lần mới thoát, lần đầu ghe chìm, gần chết thì được ghe chài cứu. Nghĩa thì nói chẳng có gì, cho tôi ít thuốc bổ và trụ sinh kèm theo cái ống nghe, bảo tôi nếu Nghĩa đi thoát thì tôi bán ống nghe đi hoặc cho ai cũng được. Sau này tôi đã đưa cho Thịnh. Thụ cũng đi thoát, chúng tôi chỉ được tin do cô em họ còn ở lại cho biết.


Người bạn Y Khoa ra đi sớm do vợ bảo lãnh là Bs. Ngà. Chị Ngà và con trai vượt biên được tầu Đan Mạch vớt nên qua định cư ở nước này. Ngà thường kể chuyện vợ con cho tôi nghe, nào hai mẹ con được cấp nhà hai phòng ngủ, con trai được luyện cả bóng đá là môn cháu ưa thích. Khi chị Ngà đã đủ điều kiện bảo lãnh chồng thì được cấp nhà mới lớn hơn. Thời gian này Ngà tới nhờ tôi dượt Anh văn để chuẩn bị đi. Ngà qua Đan Mạch rồi sau đó xin được qua Mỹ, ở San Jose. Năm 2012 tôi qua San Jose dự Class Reunion ĐHSP '61, đã có dịp gặp lại, ăn nhậu và chơi tennis với Ngà và Lai, em của Lâm. Cũng tại San Jose, tôi đã nhiều lần gặp lại Hoan. Quảng và Lâm cũng sống ở đây, và mỗi khi tôi qua Đính cũng từ San Francisco lái xe xuống. Ở vùng Orange County thì có Lê Anh Dũng và Nguyễn Viết Long. Tóm lại qua được Cali thì Nam hay Bắc đều được gặp bạn cũ dậy ở Y khoa, bên ly rượu nhắc chuyện xưa, chẳng còn gì vui thú cho bằng.



Sau nhiều thập niên xa cách, cuối cùng bốn đứa cũng có cơ may được gặp lại nhau tại Bắc California

Tuy đời sống không còn những lo lắng như trước, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn cảm thấy ở đây chỉ như tạm bợ. Chính tôi phải dạy học suốt tuần mới đủ ăn, khiến tôi đôi lúc thảng thốt không biết các con sau này chúng nó sống ra sao. Không có gan đi chui thì phải lo đường đi chính thức, nhất là sau khi con gái tôi, lúc đó mới lên tám, luyện tập thể dục dụng cụ tại Club Hippique cũ, được nữ huấn luyện viên từ Bắc vào tận tình hướng dẫn. Vì thấy cháu có năng khiếu nên cô này đã đề nghị cho cháu được đi tập huấn hai tháng hè ở ở Trung tâm Huấn Luyện Từ Sơn, Hà nội. Tôi phải lên Sở Thể Thao thành phố làm giấy tờ kèm theo giấy chứng nhận của công an phường. Nhưng cháu đã bị từ chối vì lý lịch Bắc Kỳ Di Cư của tôi.


Cuối năm 1978, anh tôi đã gửi cho tôi một giấy bảo lãnh. Nhưng vì hồi đó tôi chưa bị thôi thúc về chuyện ra đi và nhất là thấy trong tờ giấy chỉ có tên tôi nên tôi bỏ qua một bên. Tới đầu năm 1980, bạn thân của tôi và Dũng là Khôi, trước làm ở Nha Công Tác Quốc Tế thuộc Bộ Giáo Dục, được đi Canada theo diện đoàn tụ. Tôi bèn nhờ Khôi cầm thơ tay qua cho anh tôi nhắc tới chuyện bảo lãnh. Anh tôi bảo dùng giấy bảo lãnh đó đươc rồi và tôi làm theo, quả nhiên đơn được chấp thuận.


Yên tâm được phần nào, tôi tà tà dậy học, dành nhiều thì giờ hơn cho mạt chược và tennis. Vào chơi với nhóm chị Nga và Quảng, quần áo và giầy tennis phải phải nâng cấp vì trong nhóm nhiều người có thân nhân ở ngoại quốc gửi đồ xịn cho. Giầy mau hư nên hầu như ai cũng phải lót đế giầy bằng lốp xe hơi, thường là lót phía mũi và gót. Việc này có các thợ lành nghề lo, khâu và dán keo rất điệu nghệ, sài mãi mới mòn. Tôi còn đem cái bao vợt Wilson tới chỗ chuyên may túi xách, nhờ họ làm cho túi đeo vai đựng đồ nghề, phần ngoài may luôn túi đựng vợt này vào. Thế là tôi có túi đựng sách vở dậy học kèm theo cả chỗ đựng chiếc vợt Wilson 2000 cán ống nhôm, rất phổ biến thời đó.


Sở dĩ tôi làm túi này vì sau giờ dậy buổi trưa ở Y Khoa, tôi có thể phóng xe đi thẳng tới CLB Lao Động chơi tennis. Một hôm đang chơi ở sân Số 1 kề ngay hàng hiên lớn có kê bàn ăn uống giải khát, phía trên là ban-công một hội trường lớn. Khi tôi đang chơi thì trên hội trường có khóa họp cán bộ từ các nơi về dự. Tới giờ nghỉ, các cán bộ ra đứng ở ban công ngó xuống coi thiên hạ chơi tennis, từ sân Số 1 tới sân Số 4, rồi tới hồ bơi.

Tôi chợt nghe hai người nòi chuyện với nhau, một người như cố tình nói lớn để mấy người dưới sân có thể nghe được, “Tới bây giờ mà chúng nó vẫn còn chơi quần vợt được!” Từ đó tôi mới quyết định đem theo vợt tới trường xem họ khó chịu tới mức nào. Không biết các cán bộ có nghĩ gì về tôi hay không, chỉ thấy đám sinh viên gốc Ngụy có thiện cảm với tôi ra mặt. Một hôm dậy xong giờ cuối, tôi trở lại văn phòng soạn bài giảng. Lúc ra về đã gần sáu giờ. Lúc tới chỗ xuống cầu thang thì một nhóm sinh viên năm thứ hai vẫn còn ở đó sinh hoạt tổ. Một nữ sinh viên đang hát bài “Khúc hát Thanh Xuân”. Em này tôi cảm thấy rất Nguỵ, mặc áo trắng vải tuyn hở cổ rất rộng, đeo một cái thánh giá bạc thiệt lớn, đầy vẻ thách thức. Tôi dừng lại nghe em hát hết bài rồi mời đi tiếp. Các em giữ tôi lại và yêu cầu tôi hát một bài. Xúc động vì bài hát của em, lúc hát em mơ màng nhìn về một cõi xa xăm nào đó, tôi nói vì hát dở nên ngâm – đúng ra là đọc – một bài thơ cũ. Tôi nghĩ ngay tới bài Tiếng Hát Buổi Chiều Mùa Xuân của Thái Thủy mà tôi rất thích, đăng ở Sáng Tạo từ ngày tôi còn học ở Văn Khoa. Bài thơ dài nên chỉ ghi lại bốn câu đầu và bốn câu cuối:


Anh bỡ ngỡ trong chiều xuân nắng đẹp,
Người yêu nhau đầy đại lộ công viên.
Tiếng em hát đưa anh về quá khứ,
Những bước song hàng trên lối đi quen...

....

Mình không ngờ minh si mê đến thế,
Ba năm còn giữ trọn giấc mơ xưa.
Để chiều nay nghe tiếng hát em thơ,
Thấy môi mặn, ô hay mình vừa khóc!


Bài thơ về một cuộc tình lỡ, buồn và đẹp lung linh, sặc mùi tiểu tư sản. Cả nhóm sinh viên đều ngồi yên lặng, em lúc trước đó hát hai mắt rưng rưng lệ. Tôi cũng không ngờ mình xúc động đến như vậy, vội cười lớn nói, “Thôi, thầy về. Các em học tập tốt, lao động tốt nghe.”


Đơn xin xuất ngoại đã nộp rồi, việc quan trọng là phải tìm mối chạy mới nhanh được, quy luật muôn đời vẫn là “nhất thân, nhì thế, tam tài, tứ chế.” Thân và thế ngó quanh không thấy, thứ ba là tiền thì ít tôi còn lo được, nếu nhiều đành thua. Khoản thứ tư thì coi như chờ sung rụng. Vậy mà bỗng dưng tôi thấy có đường thoát. Một người bà con rất thân với gia đình bà xã tôi từ Bắc vào công tác, nói có bạn là công an làm ở Sở Ngoại Vụ lo về xuất cảnh, có thể nhờ giúp được. Một hôm bà này tới nói với vợ chồng tôi chỉ cần đưa cho bạn mình 3.000 đồng làm quà là được rồi. 
Tôi không còn nhớ nếu đổi ra vàng thì được bao nhiêu vào thời điểm 1980-81, nhưng lương tôi lúc đó là $60, sau được thêm $30 trợ cấp cho cán bộ khoa học. Sau khi bán vài món đồ, chúng tôi gom góp đủ số tiền và hí hửng chờ đợi vì nhờ được đúng tổ con chuồn chuồn. Mấy tuần sau người đó trở lại, nói cô chú chuẩn bị đi, một hai tháng nữa sẽ có xuất cảnh. Tôi mừng rơn và nghĩ phải thanh toán cái gì trước cho gọn nhà. Đầu tiên là tôi bán tủ sách, chỉ giữ lại mấy quyển thường dùng để dậy học. Đây là tù sách chọn lọc các sách giáo khoa Anh văn mà tôi đã mua từ thời học đại học cho tới khi đi dậy tính ra đã hơn hai muơi năm. Tôi gọi môt anh bạn quen bán sách ở chợ trời và anh này đề nghị $200, tôi bán ngay để giải quyết cho lẹ. Anh ấy bỏ sách đầy ba bao bố, xếp lên xích lô cao gần tới mặt người đạp xe.


Biết chuyện đi đứng của tôi có chiều hướng thuận lợi, Dũng bảo tôi đi coi bói xem sao. Dũng biết ông thầy bói Kim ở đường Võ Tánh, nổi tiếng về bói Dịch. Tôi theo Dũng tới nhà thầy bói Kim, xin coi một quẻ. Ông thầy đưa cho tôi mấy đồng tiền kẽm, tập trung ý nghĩ vào việc muốn biết, rồi thả mấy đồng tiền xuống bàn. Ông coi các mặt xấp ngửa, bấm đốt ngón tay tính toán, rồi phán một câu ngắn gọn nhưng dư lực làm tôi xìu như trái bong bóng hết hơi, “Theo quẻ này tôi không thấy có long có mã, nếu ông tính chuyện đi đứng thì tôi thấy không có đường nào đi cả!” Nhận $15 thù lao, ông thầy bảo tôi nếu dăm bẩy tháng chưa thấy gì thì trở lại xem có gì biến chuyển hay không. Ra về, tôi tuy thất vọng nhưng tự trấn an rằng biết đâu ông thầy chả bói sai trong khi mình nhờ được chỗ tin cẩn.


Mấy tháng sau Dũng lại đưa tôi tới một chỗ khác ở miệt Gia Định mà tôi chỉ còn nhớ nhà bà thầy bói ở trong một xóm, lối vào nhà qua một rặng tre. Bà thầy bói bài tây và xem cả chỉ tay, nhưng tôi thấy chỉ bói chung chung, không dứt khoát như thầy bói Kim. Tôi ra về, lo chuyện dậy học và chờ đợi thôi. Tôi dậy thêm mấy nhóm, và phải ra chợ trời chỗ người bạn mua lại mấy cuốn sách mà tôi đã bán cho anh ấy. Có điều mua có năm cuốn mà tôi đã phải trả gần bằng cả tủ sách mà trước đó mấy tháng tôi đã bán ra, vậy mà vẫn lấy làm mừng vì chưa bị ai mua mất.

Chờ đợi cả năm trời không thấy được gọi lên lấy xuất cảnh, mà người bà con bà xã đã ra lại ngoài Bắc, nên vợ chồng tôi bán tín bán nghi không biết mình có bị lừa hay không. Cho tới sau này khi được gọi lên bổ túc hồ sơ thì mới biết chắc mình đã bị lừa, vì theo thủ tục không thể có ngay xuất cảnh sau khi chỉ nộp đơn. Và tới nay chúng tôi vẫn không biết ai đã lừa, người bà con hay là người bạn bà này hay là cả hai!

Đến đầu năm 1983 khi tôi không còn mấy hy vọng nữa thì đột nhiên nhận được giấy báo bổ túc hồ sơ xuất cảnh. Chuyện nộp đơn xin xuất cảnh tôi chỉ nói bóng nói gió trong bộ môn, nhưng ai cũng biết chuyện là tôi đã tính đi. Một hôm chị Ngọc nói với tôi là có gặp ông Mười Năng, đảng ủy hiệu bộ, ông này nói với chị rằng tình hình này chắc ông Mỹ Điền sớm muộn sẽ không còn làm trưởng bộ môn nữa, và hỏi chị nghĩ sao về tôi. Chị Ngọc nói hình như tôi đã nạp đơn xin xuất cảnh đoàn tụ gia đình rồi. Mười Năng nói thế thì hỏng bét, phải tính lại chuyện khác thôi. Nghe chị Ngọc nói vậy, tôi bèn nói ngay là quả thực tôi sẽ xin nghỉ khi nhận được giấy báo bỏ túc hồ sơ, và nhắc lại chuyện Niêm đề nghị tôi làm phụ tá giáo vụ bộ môn nhưng tôi đã từ chối.


Tôi vào gập Mỹ Điền báo cho biết tôi sẽ nạp đơn xin nghỉ. Điền nói biết nếu có cơ hội là tôi cũng đi thôi và còn nói tôi là giảng viên cuối cùng trước 75 còn sót lại. Mỹ Điền lúc đó cũng có vẻ đã mệt mỏi và không còn tin tưởng gì nhiều sau khi những người mà ông ta coi là gương mẫu cho bọn tôi đã lần lượt trốn đi, và nhất là giữa ông và hiệu bộ có vấn đề. Ông chúc tôi may mắn và cám ơn tôi đã giúp đỡ ông nhiều từ lúc ông về làm chủ nhiệm bộ môn.

Hồi đó các giáo viên dậy trung học xin xuất ngoại khi được gọi bổ túc hồ sơ có thể xin khất với nhà trường cho tới khi nào nhận được giấy xuất cảnh mới chính thức nghỉ việc. Tôi không rõ các đại học khác thì sao, nhưng riêng Trường Y thì không chấp nhận chuyện này, nói rằng cán bộ giảng đào tạo cán bộ cho nhà nước, nên nếu đã tính bỏ đi thì phải nghỉ luôn, vì có ở lại thì cũng không công tác tốt được, nếu không nói là có ảnh hưởng tiêu cực đối với nhân viên khác, nhất là đối với sinh viên. Đơn xin nghỉ của tôi được chấp thuận ngay và tôi được trả ba tháng lương cuối, hình như lúc đó được 124 đồng một tháng.

Hơn một năm sau tới giữa năm 1984 tôi mới được giấy báo gọi lãnh giấy xuất cảnh. Dĩ nhiên sau vụ mất tiền lần trước, tôi không nghĩ tới chuyện tìm mối chạy chọt nữa. Tôi tà tà dậy học, mở thêm một hai lớp cho có thêm thu nhập, giờ rảnh ban ngày chơi tennis, buổi tối chơi mạt chược với bạn bè, chuyện đi đứng lúc nào tới thì tới. Chính nhờ tâm lý đã ổn định mà cuộc sống của tôi thật thoải mái. Tuy vậy, đợi ít lâu sốt ruột tôi cũng đi tìm thầy để hỏi xem sao. Lần này không phải là thầy bói chuyên nghiệp mà là hai thầy tài tử, đều là bạn tôi.


Bùi Thế San và Nguyễn Nhật Duật đều là giáo sư, một người dậy Vạn Vật, một người dậy Việt Văn. Sau 4-75 họ còn có thêm nghề tay trái là coi bói, San chuyên về bói Dịch và Duật xem tử vi. Nghề tay trái này giúp hai bạn tôi đỡ tốn tiền quà sáng rất nhiều, đôi khi tôi còn được ăn ké. Duật lấy ngày giờ sanh của tôi rồi bấm tử vi, phán rằng tôi chưa thấy có đường đi. San bảo tôi lấy lọ tăm, bốc ra một ít. Đếm xong rồi tính toán, San nói theo quẻ này thì tôi đáng lẽ đã phải lãnh xuất cảnh rồi, không hiểu sao bây giờ vẫn chưa có. Bán tín bán nghi, nhưng nghe San nói vẫn thấy an ủi hơn nhiều, và tôi yên tâm chờ đợi. Khi đã lãnh xuất cảnh, tôi thấy ngày tháng ký xuất cảnh trước hôm San coi bói cho tôi khoảng hai tháng. Tôi không nghĩ là San giỏi hơn Duật, mà tôi và San hợp với nhau hơn. Trước khi tôi bốc tăm, San bảo tôi phải tập trung vào điều mình muốn biết, tâm có động thì quẻ mới ứng.

Đợi đến đầu năm 1986 thì tôi được giấy gọi đi gặp phái đoàn Canada phỏng vấn. Vì bạn tôi là Khôi cũng đã có gia đình được đi trước đây nên tôi khá yên tâm sẽ được chấp thuận. Điều làm tôi lo nghĩ là vấn đề sức khỏe. Sợ nhất là vụ chụp hình phổi vì Canada xứ lạnh nên rất khó khăn cho những ai phổi có vấn đề, và đám chụp hình phổi ở bệnh viện Chợ Rẫy tìm đủ mọi cách để moi tiền. Kinh nghiệm những người đã đi trước cho biết là phải ăn uống tẩm bổ cho tốt để lên cân. Thế là phở nước béo với hột gà ăn hàng ngày. Họ còn nói tuần lễ trước khi đi khám sức khỏe phải uống nước dừa cho phổi trong. Sau này tôi bị cao Cholesterol chắc một phần cũng vì giai đoạn này.


Ngày phỏng vấn cả nhà ăn mặc chỉnh tề, riêng tôi mặc đồ lớn đeo cravate đàng hoàng, giấy tờ để trong chiếc cặp da còn rất láng. Vì anh tôi sống ở bên kia Sông Ottawa thuộc Quebec nên người phỏng vấn hỏi tôi nói được tiếng Pháp không. Tôi nói được nhưng không lưu loát vì ít sử dụng, xin được nói tiếng Anh. Cuộc phỏng vấn cả nhà kéo dài gần tiếng đồng hồ, nhân viên di trú hỏi tôi về nhiều vấn đề. Tôi mừng thầm trong bụng vì nghĩ rằng như vậy là xuôi xẻ, nhưng cuối cùng ông này đứng lên bắt tay tôi và cám ơn, nói rất tiếc là Canada hiện chỉ cần công nhân chuyên môn. Vợ chồng tôi choáng váng, lúc về nhà chân đi bước thấp bước cao.


Bị từ chối, tôi phải làm hai việc thật gấp: viết thư báo cho anh chị tôi biết tự sự và hỏi coi thể kiếm cho tôi một việc làm trước nào đó ở Canada hay không, nếu có được lúc tái phỏng vấn sẽ có nhiều cơ may được chấp thuận.


Mặt khác, tôi nộp một đơn xin chuyển cảnh qua Mỹ mà anh vợ tôi đứng ra bảo lãnh. Nếu được, bên nào cho đi trước thì tôi theo bên đó. Sau khi đơn xin chuyển cảnh qua Mỹ được chấp thuận, tôi liên lạc được với bà Bùi Thạnh, cựu Hiệu Trưởng Anh Văn Hội Việt Mỹ, xin cấp lại cho tôi giấy chứng nhận đã dậy ở Hội Việt Mỹ. Giấy cũ hôm 1-5-1975 trong cơn hốt hoảng tập thể, tôi đã đốt cùng với collection Playboy mấy chục số mà Nguyễn Viết Long đã mua dần cho tôi. Bà Thạnh đã rất sốt sắng viết giấy chứng nhận cho tôi với những nhận xét rất thuận lợi.

Ít lâu sau, anh chị tôi gửi về cho tôi giấy tờ chứng nhân đã xin cho tôi được làm superintendent cho một chúng cư gồm 22 đơn vị ở Laval, Quebec. Chị tôi nói công việc này dân Canada chính gốc ít làm vì vửa phải làm giấy tờ như sổ sách kế toán vừa phải làm việc chân tay như lo sửa điện và ống nước. Chị tôi cũng nói đã nhờ một người bạn Canada làm ở Immigration để ý tới trường hợp của tôi. Để chuẩn bị tôi cũng tới tiệm sửa đồ điện của một người bạn tuần hai buổi phụ giúp để cho quen với đồ điện, còn về ống nước thì thua vì không quen biết ai.


Tới giữa năm 1987 tôi được gọi đi phỏng vấn lần thứ hai. Lần đầu tôi cứ yên chí mọi chuyện sẽ tốt đẹp nên không nhờ San và Duật coi bói trước cho tôi. Bị một cú rồi như chim phải tên, nên tôi có ý nhờ xem trước để chuẩn bị tâm lý. Hai ngày trước khi đi phỏng vấn, San và Duật đến tôi. Duật nói lần trước có thể ngày giờ sanh của tôi không chính xác nên lần này Duật lấy tử vi của hai đứa con tôi, rồi chiếu vào tử vi của tôi, thì không thể sai được, vì ngày giờ sanh của hai con tôi nhất địng phải đúng 100%. Sau khi đối chiếu ba lá số tử vi của tôi và hai con, Duật nói lần này không thể xểnh nữa. Bà xã tôi ngồi cạnh, nhờ San bói dịch xem có đi được không, vì nếu bà xã tôi kẹt thì coi như bọn tôi kẹt theo luôn. San đưa cho bà xã tôi ba đồng tiền kẽm, bảo tập trung vào điều mình muốn biết rồi gieo tiền vào cái bát. San nhặt tiền lên, tính toán một lúc rồi nói theo quẻ này thì chưa thấy có đường đi. Chúng tôi đồng ý là cứ đợi hai hôm nữa sẽ biết.


Rút kinh nghiệm, lần này đi gặp phái đoàn bọn tôi ăn mặc vừa phải, sơ mi cravate cho đủ phép lịch sự thôi, chứ không lên khung như lần trước. Lúc gặp nhân viên phái đoàn, ông này lịch sự mời chúng tôi ngồi rồi mở hồ sơ ra coi. Ông nhìn tôi cười cười rồi hỏi có biết tại sao tôi được gọi đi phỏng vấn hay không. Ông tính nói gì nhưng lại thôi và bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi mà tôi đã được hỏi lần trước. Ngồi nói chuyện hơn nửa tiếng tôi bắt đầu thấy lo vì để ý thấy các gia đình được chấp thuận thường hoàn tất cuộc phỏng vấn quanh mười lăm phút, trong khi lần trước cuộc phỏng vấn tôi khéo dài gần một tiếng. Quả nhiên một lúc sau, ông này cám ơn tôi và nói việc làm giám thị cho một chung cư không thích hợp với tôi vì tôi chỉ chuyên về dậy học . Dù tôi có biết về sửa điện, nhưng nhìn bàn tay tôi cũng biết tôi không thể nào sánh được với những người từ Đông Âu, nếu chọn tôi thì bất công đối với những người đó. Đoạn ông nói với bằng cấp và kinh nghiệm dậy học của tôi, hay nhất là nhờ anh chị tôi xin cho dậy học ở một trường nào đó.

Ra về tôi tuy thất vọng nhưng không buồn và bẽ bàng như lần trước. Tôi có cảm tưởng phái đoàn đã đọc trước hồ sơ và và các gia đình đã được quyết định từ trước tùy theo các tiêu chuẩn và chính sách di trú lúc đó. Việc phỏng vấn chỉ là một thủ tục nhận diện những người được chấp thuận. Sau khi bị từ chối hai lần liền, tôi không còn hy vọng gì nhiều về việc được đi Canada nữa, và chỉ chờ đợi được phía Mỹ gọi thôi. Đột nhiên vào đầu năm 1988 tôi được giấy gọi đi khám sức khỏe để làm thủ tục đi Canada vì cả nhà tôi đã được chấp thuận mà không cần phỏng vấn lại. Sau tôi mới biết là đầu năm 1988 Bộ Di Trú Canada cho một số đông những gia đình đã bị từ chối được phép nhập cư Canada và khoảng thời gian này chỉ kéo dài bốn tháng.


Tới giai đoạn cuối là khám sức khỏe để xuất ngoại của tôi vẫn có vấn đề. Hình phổi của tôi bị ghi “Sẹo lao ở đỉnh phổi trái đã ổn định.” và tôi phải đợi tái khám. Tôi gặp Bs. Bạch Cúc làm việc ở khu khám sức khỏe xuất ngoại ở Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi chuyện. Bác sĩ Bạch Cúc ra trường cùng năm với anh Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành và chúng tôi thỉnh thoảng vẫn đi chèo thuyền với nhau ở Thanh Đa cùng với Bác sĩ Trưởng khu Thái Minh Bạch. Bác sĩ Cúc nói đã xem phim phổi của tôi và nói tôi không bị lao, nhưng họ đã phê như vậy là có y muốn mình phải chạy thôi. Bs. Cúc bảo tôi phải dùng hạ sách: cho tôi uống thuốc lao Rimifon trong một tuần lễ. BS.Cúc nói làm như vậy là bất đắc dĩ, nhưng tin chắc tôi qua Canada sẽ không bao giờ bị lao cả. Bác sĩ bảo tôi ăn uống tẩm bổ nghỉ ngơi cho tốt, muốn uống nước dừa “cho trong phổi” cũng được, hai tuần sau đi tái khám. Mọi chuyện còn lại để bác sĩ lo.

Cùng thời gian này tôi được giấy gọi gặp phái đoàn Mỹ và cuộc phỏng vấn đã êm xuôi như đi dạo công viên. Nhân viên phái đoàn coi qua hồ sơ của tôi, ngồi nói chuyện thêm khoảng mười phút rồi đứng lên bắt tay chúc mừng chúng tôi. Khi tôi ra về, mấy người ngồi đợi vào phỏng vấn hỏi chúng tôi sao ra nhanh vậy, chắc bị từ chối rồi phải không! Tôi mỉm cười không trả lời, muốn để họ nghĩ sao cũng được. Riêng tôi thì nghĩ nếu trước đó tôi không được Canada cho đi, chắc hẳn chúng tôi còn cảm thấy sung sướng hơn nhiều.

Kết quả khám sức khỏe đi Mỹ vẫn liên quan tới hình phổi của tôi, và lần này còn bị phê nặng hơn, “Lao đang thời kỳ tiến triển.” Được gọi tới Chợ Rẫy, tôi một lần nữa lại gặp may. Bác sĩ phụ trách hồ sơ sức khỏe của tôi là Bs. Thắng, một sinh viên cũ năm thứ hai mà tôi đã dậy năm 1973. Tôi không nhận ra học sinh cũ của mình, mà chính Bs. Thắng đã chào tôi và tự giới thiệu. Thắng nói tôi không bị lao gì cả và biết cách phê trong hồ sơ ra sao để tôi có thể được đi. Thắng nói thêm là về sức khỏe Mỹ không đòi hỏi khắt khe như Canada. Thắng bảo tôi cứ yên tâm ra về. 
Cám ơn Thắng xong, tôi chạy xe về thẳng nhà bố mẹ tôi báo tin. Mợ tôi cho biết Kim Khánh cũng vừa ra khỏi. Khánh là bác sĩ nha khoa, trưởng khoa Răng Hàm Mặt ở bệnh viện Chỡ Rẫy. Khánh là con gái đạo diễn Khương Mễ, người Nam tập kết ra Bắc. Khánh tốt nghiệp nha khoa Đại Học Hà Nội. Và lấy Thành, con trai anh họ mợ tôi. Mợ tôi có nói chuyện với Khánh về việc khám sức khỏe đi Mỹ của tôi đã gặp khó khăn, Khánh nói sẽ tới nhờ Bs. Lã Hỷ, y sĩ trưởng phụ trách việc khám sức khỏe người đi nước ngoài. Tôi cho bố mợ tôi biết chuyện đã được Bs. Thắng hứa giúp, mợ tôi bảo có thêm người giúp càng chắc ăn. Tôi về nhà thì cũng đúng lúc vợ tôi đi dậy Dưỡng Sinh về. Từ ngày tôi nghỉ vợ tôi cũng xin nghỉ dạy học luôn và chuyển qua dạy Dưỡng Sinh. Nghe biết chuyện, vợ tôi rất mừng và nói phải kiếm cái gì thật ngon ăn mừng cùng hai con.

Mấy hôm sau Khánh ghé nhà tôi cho tôi biết đã ngỏ lời nhờ Bs. Lã Hỷ và đã được nhận lời giúp. Khánh bảo tôi tối hôm đó tới nhà Bs. Hỷ để giới thiệu và cám ơn. Khánh nói chỉ đến người không vì Khánh cùng học và chơi thân với Bs. Hỷ ở Hà Nội như anh em. Tôi bảo Khánh để tôi biếu Bs. Hỷ một két bia Heineken như chỗ thân tình. Bs. Hỷ tiếp tôi rất niềm nở và Khánh giới thiệu tôi là anh họ chồng Khánh và là giảng viên ở Y Khoa cho tới năm 1983 mới nghỉ khi bổ túc hồ sơ xuất cảnh. Bs. Hỷ cười rồi nói đã coi hồ sơ của tôi và chẳng giúp được gì cả vì tất cả đều ghi là tốt, nên không dám nhận công. Tôi cũng cười và nói đây là chút quà làm quen, chứ không thể coi là trả công được. Bs. Hỷ nói tôi là anh họ Khánh thì cũng như anh em cả và để mừng gặp mặt khui ba lon cùng uống. Khi ra về, tôi cứ thắc mắc không biết Thắng đã phê gì vào hình chụp phổi của tôi.


Việc cuối cùng buộc tôi phải lựa chọn là vào đầu năm 1989 khi tôi được Sở Ngoại Vụ gọi lên lấy vé máy bay đi Canada thì tôi cũng được gọi đi làm thủ tục đăng ký chuyến bay đi Mỹ. Đã có vé đi Canada trong tay, nay tôi phải xem có nên đăng ký đi Mỹ hay không. Bình thường phải mất tối đa hai tháng sẽ có vé. Chúng tôi bèn làm một cuộc họp khẩn cấp đại gia đình và lấy ý kiến bạn bè, thì ai cũng khuyên là “Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng.” Hai tháng trời có thể có nhiều chuyện xẩy ra, nhất là trong chế dộ này cái gì làm được là phải làm ngay. Nhiều người được giấy xuất cảnh đã giấu tất cả mọi người để đề phòng bất chắc. Tuy hơi nghiêng về phía Mỹ nhưng chúng tôi quyết định đi Canada, sớm phút nào là ăn chắc phút đó. Đến nay chúng tôi thấy không ân hận chút nào về quyết định này.

Trước khi đi Canada, tôi bán chiếc Honda 67 được một cây vàng và ngôi nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật được hai cây. Nhà không thể sang nhượng cho ai khác, hoặc là giao cho chính phủ giữ hộ, bao giờ về sẽ trả lại, hoặc là bán đứt cho chính phủ. Dại gì “giao trứng cho ác,” chúng tôi quyết định bán, được đồng nào hay đồng đó. Sở Nhà Đất đã căn cứ vào giấy tờ mua nhà của tôi và trả cho tôi giá ăn cướp là hai cây vàng, quá thấp so với thời giá. Tôi tự an ủi là đã không mất tiền thuê nhà 14 năm trời. Về căn nhà này, người hàng xóm cũ kể lại là ngay buổi chiều ngày tôi đi, một thương phế binh đã bẻ khóa vào 'cắm dùi.' Sở nhà đất tới ' làm việc ' rồi thương lượng. Cuối cùng hóa giá căn nhà bán cho thương phế binh này với giá bốn cây. Hóa ra nhà nước làm kinh tế giỏi, đầu tư lời 100% trong vài ngày. Ông bà hàng xóm của tôi cuối năm đó mua lại căn nhà này với giá mười cây vàng. Xem ra ông thương phế binh còn giỏi hơn cả ông nhà nước.

Chúng tôi rời Saigon vào một ngày cuối Tháng 3. Lúc phi cơ bay vào không phận Thái Lan rồi chúng tôi mời cầm tay nhau, thở phào nhẹ nhõm, tuy còn lo ngại đôi chút là đi Hàng Không Việt Nam, nhỡ có chuyện gì không biết họ có ra lệnh cho phi cơ quay trở lại hay không. Ở lại trại chuyển tiếp hai ngày, chúng tôi đi máy bay KLM tới Amsterdam rồi bay tiếp qua Canada.

Phi cơ tới Vancouver thì chúng tôi làm thủ tục nhập cảnh rồi đổi qua Air Canada bay tiếp về Montréal, Anh chi tôi và vợ chồng cô em gái lên đón chúng tôi tối 29-3-1989 và đưa ngay về Ottawa tối hôm đó. Đến nay tính ra đã gần ba mươi năm chúng tôi chưa trở về lại Việt Nam lần nào. Có hai giấc mơ cứ ám ảnh tôi cho tới bây giờ: thỉnh thoảng tôi vẫn nằm mơ thấy bị mất chiếc Honda 67 -- gia tài của tôi -- và mơ thấy bị mất xuất cảnh, hoặc ra tới phi trường tìm mãi không biết để xuất cảnh ở đâu, hoặc về Việt Nam chơi nhưng bị mất cắp xuất cảnh không về lại Canada được. Vì mơ đi mơ lại nhiều lần nên trong những lần mơ sau, tôi còn tự nhủ đây chắc là thực chứ không phải là mơ nữa! Tỉnh dậy, mồ hôi lạnh đầy mình nhưng mừng vô kể.

Tuy bây giờ những giấc mơ này không còn thường như những năm mới qua nữa, nhưng tôi cảm nhận được những năm sau 4-75 đã ảnh hưởng tới tâm trí tôi như thế nào. Tình cờ tôi viết xong hồi ức này vào ngày cuối Tháng 4 sau hơn một tháng trời kể từ hồi sau Tết. Đã 42 năm trôi qua, sao cứ vào thời gian này là lòng lại buồn và nuối tiếc cái gì quý nhất đã mất vĩnh viễn. Ngày 30-4 năm nay lại mưa suốt ngày đêm kèm theo gió lạnh. Trời đất và lòng người cứ ảm đạm vào những ngày cuối Tháng 4 mãi hay sao?

Nguyễn Phong-Châu
Ottawa, 30-4-2017

Monday, May 22, 2017


HOWARD W.FRENCH * THỰC DÂN TRUNG CỘNG

Thực Dân Mới tại Châu Phi


“Lục địa thứ hai của Trung Hoa “

china africa

Câu chuyện mê hoặc nhưng đáng báo động về quá trình thực dân hóa kinh tế của Trung Quốc tại châu Phi
Nhà báo Howard W. French đi vòng quanh châu Phi để gặp gỡ với một số trong số một triệu người di cư Trung Quốc hiện đang sống và làm việc ở đó.
Chris Hartman, đăng trên Christian Science Monitor 08 tháng 8 năm 2014
Người dịch: Kevin Bùi
Trong biên niên sử của chủ nghĩa thực dân và bá quyền hiện đại, chỉ có một vài hiện tượng có tính mưu đồ như sự vận động hung hăng của Trung Quốc vào châu Phi, nơi mà, theo Howard W. French, là lục địa thứ hai của Trung Hoa với xấp xỉ một triệu người Hoa đã di cư sang cho tới nay. Trong cuốn sách mới quan trọng của mình, French dệt một tấm thảm phong phú các giai thoại, xen kẽ với rất nhiều cuộc phỏng vấn với những người di cư Trung Quốc và người châu Phi bản địa, cung cấp cho độc giả cái nhìn rất công bằng, đôi khi hài hước và thông cảm, nhưng luôn luôn theo sát mối quan hệ độc đáo này.
French, người trước đó đã viết về châu Phi cho The New York Times và The Washington Post và thông thạo tiếng Hoa, lưu ý một số động cơ khiến người Hoa di cư đến châu Phi: cơ hội kinh tế rộng lớn hơn, cải thiện chất lượng cuộc sống và tương đối ít lãnh đạo tham nhũng hơn. Chính phủ Trung Quốc dưới sự lãnh đạo Tập Cận Bình cũng khuyến khích sự di cư này, Tập hiểu rằng châu Phi đang thể hiện một cơ hội lớn cho sự phát triển và thị trường mới. Chính phủ Trung Quốc đồng thời cũng hiểu rõ rằng châu Phi đã phần lớn bị Phương Tây bỏ qua và do vậy đã chủ động trong việc khai thác khoảng trống để lại bởi phương Tây và Mỹ.
Châu Phi, theo quan điểm của French, hiện đã đạt được một sự ổn định chính trị tương đối, và có thể coi là có diện tích đất trồng trọt được lớn nhất trên thế giới và và nguồn cung cấp đặc biệt dồi dào các tài nguyên thiên nhiên – bao gồm đồng, vàng, kim cương và các khoáng sản khác – lục địa này cung cấp cho những người Trung Quốc các cơ hội kinh doanh mà không bao giờ tồn tại ở quốc gia quê hương mà họ tự cho là “tham nhũng”, “quá đông đúc” và “quá bị ô nhiễm”.
Đầu tư đáng kể từ chính phủ Trung Quốc đã giúp đỡ cácđại công ty quốc doanh đạt được một chỗ đứng trên vùng đất mới này; nhưng French nhấn mạnh rằng có rất nhiều việc định hình tương lai của Trung Quốc tại châu Phi đến từ những người chơi nhỏ bé hơn, những doanh nghiệp mà  theo cách riêng của mình, chính là những kiến trúc sư của mối quan hệ liên lục địa vừa chớm nở này.
Chắc chắn, đã có những đụng độ văn hóa, với việc châu Phi chỉ trích các đơn vị Trung Quốc đang khai thác các ngành công nghiệp địa phương và các nguồn tài nguyên thiên nhiên thường xuyên xảy ra. Rào cản ngôn ngữ và các cuộc đàm phán khó khăn với chính quyền địa phương cũng là những thách thức đáng kể cho những người khách châu Á. Tuy nhiên, cuốn sách của French có đầy các ví dụ về những người di cư Trung Quốc kiên cường, những người đã theo đuổi thành công cơ hội trong lĩnh vực mới này.
Một trong những cá nhân sống động mà French phỏng vấn là Hào Shengli, một người định cư ở Mozambique, người đã mua một vùng đất lớn để trồng thuốc lá và các cây trồng khác. Tính cách hướng ngoại của anh được tiết lộ thông qua ngôn ngữ ướp đậm những lời tục tĩu và những thành kiến ​​chủng tộc và tình dục. Từng trải qua nhiều thất bại kinh doanh ở Trung Quốc, Hào đại diện cho bản chất tinh khiết nhất của tâm lý “cao bồi”- một người theo chủ nghĩa cá nhân không dễ bị lừa và nhìn những người bản địa như một trở ngại phải vượt qua – mặc dù ông cũng dành những lời chỉ trích sắc nhọn cho chính phủ quê hương, mà ông cho rằng về cơ bản là tham nhũng, cũng như những người di cư Trung Quốc đồng hương, những người mà anh không nhất thiết phải tin tưởng.
Zambia là dừng chân tiếp theo của French – một trong những quốc gia sản xuất đồng hàng đầu của thế giới. Có vẻ như người ta đã lãng quên thực tế làTrung Quốc, chiếm 40% nhu cầu đồng thế giới, có các lợi ích hấp dẫn trong tương lai của Zambia. Theo ước tính của French, hiện nay có trên 100.000 người Trung Quốc định cư ở Zambia, là một trong những cộng đồng di dân lớn nhất của Trung Quốc ở châu Phi. Và đầu tư của Trung Quốc đã giúp nền kinh tế Zambia có nơi nương tựa và giúp hình thành một tầng lớp trung lưu châu Phi lên tới 300 triệu người, nhiều hơn so với Ấn Độ. Mặc dù vậy, Zambia đã trở thành điểm nóng cho nhiều cuộc tranh luận chính trị và bất ổn lao động của châu lục này về những người Trung Quốc mới tới.
Ở ngoại ô Lusaka, thủ đô Zambia, French gặp Hồ Renzhong, một chủ trang trại lợn và gia cầm. Anh sở hữu một “biệt thự trang trại” và trang trại của anh được trang bị với những trại giống gà “hiện đại một cách ấn tượng”. Anh đã chuyển từ tỉnh Giang Tây của Trung Quốc trong giữa những năm 1990 và tạo ra gia sản lớn bằng cách chăn nuôi gà và mua những khu đất lớn. Hồ khẳng định với French, “Mọi thứ đã bắt đầu phát triển thực sự nhanh chóng ở quê nhà và rất nhiều người cứ cố bảo tôi rằng tôi đã phạm sai lầm.Nhưng tôi chưa bao giờ thực sự nhìn lại. “
Yang Bohe điều hành một nhà máy chế biến đồng ở gần Ndola. Giống như Hào Shengli, ông đã phải chịu đựng sự đàn áp của Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc và cũng đang tìm kiếm một khởi đầu mới ở một vùng đất mới. Yang là một trong số hiếm hoi những người di cư Trung Quốc nói tiếng Anh, và buồn bã kể lại ông đã kết bạn với một giáo viên ở Thành Đô người, người tự mang lại rủi ro cho chính mình, đã đưa cho Yang ba trang của một quyển Kinh Thánh mỗi ngày để Yang học trước khi đốt đi.
Yang cuối cùng đã vay vốn và xây dựng một nhà máy luyện đồng tại Ndola, một thành công tuyệt vời; nhưng những lời đồn đại thì cứ lan rộng, và chỉ làm trầm trọng thêm lời phàn nàn phổ biến của người Zambia về người Hoa- rất ít thuê nhân công địa phương và cách ly mình khỏi dân bản xứ. Lặp đi lặp lại một định kiến ​​phổ biến, Yang khẳng định: “Họ rất giàu có về đấtđai. Và người Zambia có thân thể tốt.Vấn đề là họ không thể làm việc chăm chỉ. “Nhưng French cũng không kém phần ngạc nhiên khi ông hỏi Yang về những người Trung Quốc khác cùng ở Ndola. “Tôi không nói chuyện với người Trung Quốc khác ở đây,” ông nói vớiFrench.”Tôi chỉ quan tâm tới việc của mình.”
Các dự án công nghiệp và cộng đồng người Trung Quốc ở Lusaka, bao gồm một bệnh viện 159 giường và một sân vận động 45.000 chỗ ngồi mới, đã làm nhụt đi sự đối lập ở địa phương, nhưng bọt sủi dưới bề mặt là sự oán giận nóng bỏng của người Zambia về mức lương thấp, ngày làm việc 13 giờ và làm việc trong những điều kiện nguy hiểm mà họ tin rằng phải chịu trách nhiệm cho cái chết của rất nhiều người lao động. Người Trung Quốc thực thi một mức độ an toàn lao động nhất định; nhưng thường thì người lao động địa phương không cóđược sự bảo vệ từ hóa chất hay không khí độc hại mà nhà máy thải ra. Và để thêm dầu vào lửa, vi phạm nhân quyền của Trung Quốc ở các mỏ Collum và Chambisi của Zambia trong thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ trên thực tế đã bị bỏ qua bởi chính phủ Tổng thống Zambia Rupiah Banda, chính quyền mà dường như đã bị bán sạch cho Trung Quốc với sức mạnh kinh tế đáng kể  của họ. Đó là một chủ đề thường xuyên xuất hiện trong cuốn sách của French.
Ở Senegal, một trong những nền văn hóa thương mại sôi động nhất của châu Phi, cửa hàng Trung Quốc đã trở nên vô cùng phổ biến, và cũng như ở Zambia, đã dẫn đến một phản ứng dữ dội nhanh chóng từ người dân địa phương coi đây là sự “thuộc địa hóa” lĩnh vực bán lẻ của họ. Cuộc gặp gỡ tiếp theocủa Frenchvới Li Jicai, một chủ doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất thành công tại thủ đô Senegal Dakar. Tìm cách thâm nhập vào ngành thương mại mà trước đây chiếm lĩnh bởi dân Li-băng (Lebanese), Li cho biết anh đã phải nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử của khu vực.Anh nói vớiFrench, “Khi tôi đến lần đầu, tôi cảm nhận rằng thương mại rất kém phát triển.Tôi bán quần áo.Tôi bán giày dép.Tôi đã bán hàng hóa.Về cơ bản, tôi đã bán bất cứ điều gì tôi có thể.Đối với tôi, sự hiểu biết về châu Phi đã trở thành chuyện hiểu biết về kinh tế.Điều đó đã trở thànhthầy giáo của tôi.”Ghi nhận thành công của Li, những người khác nhanh chóng tham gia các cuộc di cư từ Hà Nam đến Dakar.
Trên đại lộLa Centenaire của Dakar, những quầy hàng của thương nhân Trung Quốc nằm xen kẽ với quầy hàng của những người Senegal đầy cảnh giác.French tán chuyện với một trong số những người di dân Hà Nam (TQ), Lưu, người nhanh chóng lên giọng về sự không hài lòng của anh đối với dân địa phương: “ Làm thế nào để họ có thể phát triển với cái kiểu giáo dục họ có ở đây? Hãy nhìn Trung Quốc mà xem.Chúng tôi đưa người vào không gian.Chúng tôi phát triển các công nghệ của mình.Chúng tôi phát minh ra các thứ và cạnh tranh với các nước giàu. Nhưng đám dân này, họ thuộc loại không thể dạy dỗ gì được… Vì họ sẽ chẳng học”.Nhưng đây cũng là một môi trường kinh tế khắc nghiệt đối với người Hoa, rất nhiều người đã phải buộc quay về quê hương sau khi thất bại về tài chính.Lưu than phiền về tình trạng tội phạm ở Dakar, gợi ý rằng người Hoa là mục tiêu chủ yếu. Ngoài ra, một số phụ nữ yếu đuối như Chen, người đã di cư sang Senegal trong tuyệt vọng, đã phải trải qua bị buôn bán tình dục.
Trên một chuyến bay sang Liberia, French gặp một người phụ nữ trẻ trung linh hoạt đến từ Quảng Đông, tên là Jin Hui. Người phụ nữ này “ bị kẹt chặt… với những quan sát văn hóa của cô về [Liberia], với một tràng dài như bản kinh cầu gồm những cái nhìn hạ cố về một bộ phận cư dân uể oải, bẩn thỉu, lười biếng của đất nước này. Đối với French, các quốc gia như Liberia và các láng giềng như Sierra Leone và Guinea, đã vướng vào cái gọi là “chiến tranh bẩn thỉu” của những năm ở thập kỷ ’90, ‘2000, minh họa các con đường khác nhau mà châu Phi có thể đi theo trong tương lai, và vai trò quan trọng mà Trung Quốc có thể đảm nhiệm ở lục địa này. Các quốc gia châu Phi với những nền dân chủ ổn định sẽ tận dụng mối quan hệ với Trung Quốc để giành được sự đầu tư và tăng trưởng kinh tế dựa trên nhu cầu mạnh mẽ của Trung Quốc về những mặt hàng xuất khẩu của họ. Nhưng mặt khác, các quốc gia với truyền thống độc tài và xung đột nội bộ có xu hướng bán nguồn khoáng sản dồi dào của họ cho Trung Quốc và không thể tận dụng được cơ hội kiếm lời ngoài những gì đào bới và bán được.Nói cách khác, nước nào đã đa dạng hóa nền kinh tế của mình sẽ thành công, nước nào không làm được vậy sẽ thất bại.
French dẫn lời của nhà văn Graham Greene, miêu tả Liberia với thương hiệu độc đáo “đầy hạt giống” lâu nay, theo French, giờ đây nhường chỗ cho sự khốn khổ. Liberia là một sáng tạo của Mỹ ở thế kỷ 19, và trong tâm trí French, là “điều gần đây nhất mà Mỹ đã từng làm cho một thuộc địa châu Phi”. Ông cho rằng dù với sự cần cù, nhiệt tình đáng kể và các doanh nghiệp của người Hoa nhập cư, không hề có sự tiến bộ nào ở Liberia cả.
Một trong những người French phỏng vấn ở Monrovia, một chủ khách sạn tên là Li Jiong, đón French trên chiếc xe Mercedes Benz đời mới và ngay lập tức bắt đầu câu chuyện về chính trị. “Người Mỹ mang rất nhiều tiền cho đất nước này, nhưng hoàn toàn bị lãng phí.Tiền đó không bao giờ tới được người dân.Trung Quốc học hỏi được từ điều đó”. Ông tiếp tục, “ chúng tôi chẳng cho tiền. Chúng tôi xây các thứ.Bằng cách đó, người dân có thể nhìn thấy các tác động.”Trở về khách sạn của Li, French không tìm thấy cái khăn tắm nào trong phòng, nhân viên sau đó đã mang khăn lại cho French và khẳng định “Chúng tôi thường không đưa khăn tắm vì phần lớn người Hoa đều tự mang khăn của mình.Họ không muốn dùng những cái khăn mà một người da đen có thể đã từng dùng qua”.
Li sau đó đánh bóng về khách sạn của mình cũng như viêc buôn bán cây iroko, hisnuli, hoặc những gì tự ứng dụng, và duyên phận của anh, [yuan fen], để làm giàu ở châu Phi: “Tôi có “yuan fan” vì tôi làm việc chăm chỉ. Đó là lý do tại sao tôi có nhà thế này, có xe và có các công việc kinh doanh khác. Không làm việc chăm chỉ, thì số mệnh chẳng nghĩa lý gì”.Anh sau đó tiếp tục đề tài về người Liberia.”Đám lãnh đạo ở đây chẳng hiểu biết chút gì về việc họ làm.Nếu không thì tại sao có tới 80% dân số thất nghiệp?Nếu không thì tại sao họ chẳng đủ nuôi sống mình?” Và tình cờ nghe được cuộc gọi giận dữ của French tới Kenya Airway về việc mất hành lý, Lí tiếp tục “ Người da đen không biết làm việc gì nên hồn… Truyền thống của họ được hình thành từ thời không có điện thoại cũng như đường cao tốc.Họ rất dễ dàng vứt bỏ những gì không khẩn cấp ra khỏi đầu óc”. Điều này dẫn tới nhận định của French về những người Hoa ông gặp ở Liberia: “Một số thì có những nhận xét thiếu hiểu biết về người châu Phi và hoàn cảnh của họ, và cả những ngây thơ trông thấy của người châu Phi. Cũng có kiểu lạc quan và tự tin đáng kinh ngạc,cả hai cách nghĩ đều có vẻ ngây thơ như nhau”.

Củng cố thêm cho những khuôn mẫu đánh giá của người Hoavề người Liberia là Tiến sĩ Đại, người điều hành một phòng khám y tế Trung Quốc ở ngoại ô Monrovia.Ông nói rằng ông không thuê người Liberia, vì họ”bẩn, lười biếng và hay ăn cắp.”Ông nói thêm, “Các bệnh nhân không thích họ.Ví dụ  đã có một người da trắng – một nhà ngoại giao Đức – trực tiếp cho tôi biết: “ Tôi tin vào khả năng của anh và sự sạch sẽ của anh, nhưng nếu có người da đen ở đay thì tôi sẽ không dùng phòng khám này”. Tôi chẳng làm gì được.Tôi không thể thay đổi cách nghĩ của người da trắng”. French tự nghĩ “Đây là một cách khá thông minh, dù không thuyết phục để xây dựng và tẩy rửa hình ảnh của mình một chút bằng cách dùng những người khác để thể hiện định kiến của mình”.
Khi đến thăm Conakry, Guinea, Frenchgặp phải các vấn đề về điện, ùn tắc giao thông và những đám đông cảnh sát quân sự, và những yếu tố này, trong số những điều khác, khiến French so sánh hợp đồng trị giá 5 tỷ USD, Trung Quốc đã cung cấp Guinea (cải thiện cơ sở hạ tầng để đổi lấy đặc quyền của Trung Quốc trongkhai thác quặng sắt, quặng bauxite và dầu khí) với lời đề nghị $6 tỉ đổi lấy 20 năm khai thác khoáng sản của Congo- cả hai đã từng trải qua chế độ độc tài và đại diện cho con đường xuống dốc mà French đã đề cập ở trên.
Amadou Dano Barry, bạn đồng hành ở Guinea củaFrench và là học giả ở Đại học Conakry, giải thích sự xông xáo của Trung Quốc ở nước này: “Nó được việc cho người Hoa ở châu lục này. Đó là bởi vì người châu Phi đã không làm chủ được quản lý.Các nhà lãnh đạo của chúng tôi biếngnhác và thái độ của họ là những thứ chi tiết thì quá phức tạp.”Đánh giá người Trung Quốc, Barry cho biết thêm,” Người Trung Quốc đến và họ muốn sắt của anh, bauxite của anh, dầu khí của anh. Đổi lại, họ sẽ cung cấp các dự án chìa khóa trao tay cho anh, những dự án mà họ cung cấp các vật liệu, công nghệ và cả nhân công, với tiền lương phần lớn không được thanh toán ở trong nước (Guinea) và không đóng góp gì cho nền kinh tế quốc gia sở tại. Trung Quốc từ lâu đã tài trợ các dự án như vậy ở các nước như Congo và Guinea bất kể nội tình đất nước đó ra sao, và điều này mang lại những lời chỉ trích đáng kể của phần còn lại của thế giới dành cho Trung Quốc.
Trong Freetown, Sierra Leone, cuộc nội chiến tàn phá đất nước; nhưng ngay sau khi người Nigeria đẩy lùi những phiến quân khỏi thành phố, doanh nhân Trung Quốc đã tới Freetown và đàm phán thành công mua lại  Bintumani, một khách sạn lớn đã bị hư hại nặng và bị cướp phá trong cuộc xung đột. Không lâu sau, họ hoàn toàn khôi phục khách sạn, và điều này là sự khởi đầu của sự hồi sinh của Freetown.Các công ty làm đường của Trung Quốc sau đó đã đến và giành được hợp đồng từ các công ty Ý và Senegal từng làm việc trước đó.
Hoạt động này, như French ghi nhận, báo trước chiến lược chặt cây mở đường của Trung Quốc: “Để kiểm soát và làm sống lại ngành công nghiệp khai thác mỏ đã bị tàn phá trước đây, với trữ lượng bao la gồm quặng sắt, rutil, titan và rất nhiều kim loại công nghiệp khác”. Các công ty Trung Quốc như Vật liệu đường sắt và sau đó là tập đoàn Sắt Thép Sơn Đông gần đây hợp tác với nhà công nghiệp Rumani Frank Timis, để giành được 25 ngàn km vuông đất có chứa quặng sắt với trữ lượng khoảng 1 tỷ tấn.
Trong lúc ở Freetown, French gặp Joseph Rahall, người đứng đầu một tổ chức phi chính phủ (NGO) tên gọi Phong cảnh Xanh (Green Scenery), tham gia vào quá trình xây dựng xã hội dân sự Sierra Leone. Rahall nhận xét: “Người Trung Quốc làm việc theo một cách rất đặc biệt. Họ thích thương thảo trực tiếp với tổng thống và thực hiện các cử chỉ ngoạn mục, và chỉ có vậy. Họ không tham gia bất kỳ thảo luận công khai nào, và họ cũng chẳng coi trọng vô số các tiêu chuẩn quốc tế, hoặc xã hội dân sự, hay các nguyên tắc dân chủ. Đó là tóm lược căn bản những thỏa thuận lớn của họ ở đất nước này- không chỉ quặng sắt, mà còn là dầu khí và gỗ”. Anh tiếp tục, “trong khi phương Tây chĩa ngón tay vào anh, bảo anh là đồ tham nhũng, thì người Trung Quốc lại đợi sẵn”. Cái này gọi là giải pháp “Trung Quốc thay thế”’ theo ý kiến của Rahall, anh sẽ bị “kẹt giữa ma quỷ[Phương Tây] và đại dương xanh”. Điều này, cùng với sự yếu kém của Sierra Leone trong việc đối phó với tình trạng tham nhũng địa phương, tạo ra các cơ hội kinh tế đặc biệt hấp dẫn với Trung Quốc, chẳng hạn như thỏa thuận Timis.
Xâm nhập kinh tế Trung Quốc vào Mali và Ghana cũng theo một mô hình tương tự. Faliry Boly, một nông dân và một đầu óc chính trị “sớm hiểu biết” ở Bamako, Mali, đã chứng kiến và nghiên cứu sự tham dự của Trung Quốc vào đất nước của anh từ khi chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa sụp đổ và hình thành nên một trong những chính quyền dân chủ đầu tiên trong khu vực. Anh nhớ lại cuộc họp với một đại diện của Đảng Cộng Sản Pháp vào cuối thập niên 90: “Ông ấy nói rằng người Trung Quốc đang trên đường đến, và họ rất dám làm, vì thế các anh phải cẩn thận. Tôi [Boly] bảo ông ấy rằng Trung Quốc cũng là những kẻ săn mồi giống hệt người Pháp trước đây.Sự khác biệt duy nhất là kẻ cắp Trung Quốc là kẻ cắp ngồi trong văn phòng.Sẽ mất một thời gian dài trước khi anh nhận ra cái gì đã xảy đến với anh.
Và nói chuyện với French, Boly nhấn mạnh thêm hình ảnh Trung Hoa: “Trung Quốc có các phương cách để tiến lên khác với Phương Tây. Họ giống như con trăn: lặng lẽ quan sát con mồi, chậm rãi chờ đợi. Theo cùng cách ấy, người Trung Quốc chờ đợi kết quả lâu dài.Họ chờ đợi kết quả tối đa.
Ghana là nước đầu tiên ở châu Phi cận Sahara giành độc lập từ Anh, năm 1957.Đây là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả vàng, ca cao và dầu, và có một hệ thống chính trị tương đối ổn định. Trung Quốc đề xuất  tài trợ bằng “hiện vật”, chi trả cho việc đại tu hệ thống cơ sở hạ tầng của Ghana để đổi lại một phần lợi nhuận dầu khí. Đây là một kiểu trao đổi, mà French khẳng định, sẽ tăng thêm khả năng Ghana bị thiệt thòi về dầu và các nguồn khoáng sản khác trong thời hạn lâu dài với Trung Quốc vì chốt giá thấp bất kể giá tăng sau này.
Trong khiFrench gặp gỡ với Edward Brown của Trung tâm Chuyển đổi kinh tế châu Phi (ACET), thì Tổng thống Ghana John Atta Mills trở về từ Bắc Kinh, đã ký ” một biên bản ghi nhớ” cho một gói vay của Trung Quốc $13tỷ USD mà ông nói sẽ “chuyển đổi nền kinh tế nước ta cũng như đời sống của nhân dân”. Đầu tư của Trung Quốc tại Ghana trải trên diện rộng, bao gồm cả đường ống truyền dẫn đưa khí thiên nhiên từ các mỏ ngoài khơi mới được khai thác ở phía tây của đất nước, các đập thủy điện,hệ thống cấp nước và các dự án điện khí hóa nông thôn. Sẽ có một nhà máy lọc nhôm có khả năng sản xuất hai triệu tấn nhôm mỗi năm, và những con đường sẽ được phục hồi và xây dựng mới.
Nhưng ngược lại, trong khi phỏng vấn vua Wuo của Ghana, French biết thêm rằng, có một khoản vay trị giá $622 triệu USD Trung Quốc cho Ghana vay để di dời ba làng người Ghana trước khi khởi công đập Akosombo. Kết quả là, French kết luận, “phù hợp với mô típchung ở châu Phi, phần lớn số tiền Trung Quốc cho vay đều quay về túi của các nhà thầu và cung cấp thiết bị Trung Quốc”. Nói ngắn gọn thì, các quốc gia chủ nhà như Ghana có rất ít lợi ích hữu hình từ những “tình thương” như vậy
Tiếp theo, French phỏng vấn French Kwadwo Tutu, một nhà kinh tế cấp cao tại Viện Kinh tế, một chuyên gia cố vấn Ghana, người đã tổng kết đánh giá của ông về sự tham dự của bên ngoài (bao gồm cả Trung Quốc) vào Ghana: “Nếu chúng tôi tiếp tục con đường này, sẽ chỉ là một là vấn đề thời gian trước khi những mỏ dầu mới phát hiện mà người ta đang ăn mừng sẽ cạn sạch, và con cháu chúng tôi chẳng được hưởng lợi gì”. French cũng quan sátthấy nhiều người Ghana than phiềncông khai về việc người Trung Quốc tham gia khai thác trái phép, chặt phá rừng và tàn phá đất đai bằng thủy ngân để khai thác vàng. Họ cũng phàn nàn về các sản phẩm chất lượng kém của Trung Quốc, cũng như xu hướng hối lộ và tham nhũng của người Hoa.
Dự án xây dựng lớn nhất của Trung Quốc ở Ghana là đập thủy điện Bui. Công ty Trung Quốc giám sát xây dựng đập này, Sinohydro, theo sát một kịch bản đã rèn giũa nhiều lần trong các thương vụ tương tự trước đó, hoàn toàn thiếu minh bạch về các giao dịch. Mặc dù hiện đang tham gia hơn 70 dự án đập thủy điện trên khắp Châu Phi, Sinohydro cung cấp rất ít thông tin công khai và giữ khoảng cách với các phương tiện truyền thông. Trong khi ở châu Phi, dù có yêu cầu từ các Đảng đối lập và các nhóm dân sự đòi hỏi chính quyền công bố chi tiết các dự án đó, thì thường xuyên là bạn vẫn sẽ nghe rất ít từ phía Trung Quốc.
Trong những chuyến đi của ông tới Tanzania, Mali, Namibia, Mozambique, bất cứ nơi nào, những giai thoại Frenchnghe được dường như theo một mẫu tương tự. Người tham gia có thể thay đổi, nhưng câu chuyện cứ lặp đi lặp lại. Trong cuộc họp với các tùy viên thương mại của Trung Quốc ở Mozambique, French được cho biết rằng trở ngại của đất nước này để nuôi chính nó là “văn hóa”. Tùy viên này cho biết thêm, “Người Trung Quốc có thể thực sự chi ku [chịu khổ]. … Tại Trung Quốc, chúng tôibảo rằng, nếu anh đang đói hoặc lạnh thì anh phải đi làm một cái gì đó. … người Trung Quốc đang hối hả làm việc, để kiếm tiền, để làm giàu. Nếu họ là nông dân, họ sẽ không bỏ phí ngày nào.Ở đây, mọi thứ không như thế.Người châu Phi thích nhảy múa.Đó là đặc sản của họ.Họ có thể nghèo, nhưng họ hạnh phúc”. Trong lúc tự nhủ về biết bao lần điệp khúc mệt mỏi này trong những chuyến đi của mình, French trầm ngâm, “Trung Quốc thực ra chẳng phá bỏ đi chủ nghĩa gia trưởng phương Tây mà họ luôn miệng chỉ trích, mà họ chỉ đơn giản thay thế nó bằng thứ chủ nghĩa của chính họ”. Người Trung Quốc không bao giờ coi người châu Phi một cách bình đẳng, mà chỉ như “con cháu” của họ, “ chỉ có khả năng chập chững bước đi với phần thưởng ngọt ngào và những lời dụ dỗ vốn dành cho trẻ con”.
Trong lời bạt của cuốn sách, French cân nhắc liệu sự năng nổ này của Trung Quốc ở châu Phi có tương tự như cách giải thích truyền thống về chủ nghĩa đế quốc hay không. Ông xác định rằng “Trung Quốc, luôn miệng bác bỏ tham vọng toàn cầu nào liên quan tới chủ nghĩa bá quyền, luôn cạnh tranh với ai đó về thứ gì đó- đó là sự ưu việt trên toàn cầu. Kích thước tổng thể của nhiều dự án của Trung Quốc ở châu Phi là sự nhắc nhở thế giới về tầm với, quyền lực, sự rộng lượng và lòng trắc ẩn của Trung Quốc”. Đồng thời, cũng giống như quyền lực một thời của Phương Tây ở châu Phi, sự chuyên tâm của Trung Quốc vào hệ thống cơ sở hạ tầng của Châu Phi là quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, nhưng cũng khiến cho Trung Quốc dễ dàng hơn trong việc vận chuyển tài nguyên ra khỏi các quốc gia ấy. Chẳng hạn, French để ý “Người Bồ Đào Nha hiểu được tiềm năng của một cộng đồng người [di cư] ở mảnh đất xa xôi nào đó trong việc xây xựng các mạng lưới thương mại thuận lợi, tăng cường ảnh hưởng chính trị, và thậm chí giảm bớt các vấn đề ở quê nhà, bằng cách trao cho các thành phần bên lề xã hội một cơ hội tìm kiếm sự giàu sang và chuộc lỗi.”
“Lục địa thứ hai của Trung Quốc” là một nghiên cứu vững chãi,sắc bén, đanh thép và thú vị về việc làm thế nàomà Trung Quốc, ở cả mức cá nhân lẫn tập thể, lại khôn ngoan và triệt để chủ nghĩa cơ hội trong việc vận dụng tối đa các mối quan hệ với các nước châu Phi nhằm mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn thế giới. Các dự án cơ sở hạ tầng mà Trung Quốc ký với các quốc gia châu Phi, dù rằng mang đến lợi ích tạm thời cho các nước chủ nhà, lại mang đến cho Trung Quốc sự giàu có chưa từng biết đến dưới dạng những tài nguyên thô. Họ cũng rải đường tới chủ nghĩa bá quyền trên lục địa ấy, thứ chủ nghĩa mà chính quyền Trung Quốc – bất kể việc họ luôn chối bỏ – đã đi theo.

Saturday, May 20, 2017


TRUYỆN TÌNH HOÀNG ĐẾ BOKASSA


Chuyện tình chấn động một thời của vị “Hoàng đế” Trung Phi tại Cù lao Phố Biên Hòa


Cuối năm 1972, không chỉ miền Nam Việt Nam mà hầu như cả thế giới đều biết đến câu chuyện của vị Tổng thống Cộng hòa Trung Phi tên Bokassa tìm được “giọt máu rơi”, kết quả của cuộc tình với người phụ nữ nghèo ở Cù lao Phố Biên Hòa khi ông sang tham chiến tại Việt Nam.


“Hoàng đế” Bokassa và người phụ nữ gánh nước Nguyện Thị Huệ.
 (Ảnh: caphecaumat.blogspot.com)

Người con gái Việt Nam lai da đen nghèo khổ, con rơi của ông lúc ấy 19 tuổi, tên Nguyễn Thị Martine theo họ mẹ, làm nghề khuân vác xi-măng từ năm 18 tuổi tại Nhà máy xi-măng Hà Tiên gần Thủ Đức. Đùng một cái, cô trở thành ái nữ của Tổng thống Bokassa, rồi khi vị tổng thống này tham quyền cố vị, xóa bỏ nền Cộng hòa, tự xưng mình là hoàng đế, cô trở thành một vị công chúa trong 3 năm ông tại vị.

Giờ đây, 43 năm đã trôi qua kể từ cái năm 1972 ấy, thế sự đổi dời, những người liên quan hầu như đã hóa thành người thiên cổ, kể cả “Hoàng đế” Bokassa. Riêng cô gái nghèo tức cô “công chúa” Martine Bokassa hiện nay ra sao, cô còn sống hay đã chết? Mới đây, tờ báo Le Figaro của Pháp đã tìm hiểu và đăng rõ chi tiết ngọn ngành, xin mời quý độc giả cùng theo dõi…
Tiểu sử của Bokassa
Bokassa tên đầy đủ là Jean Bedel Bokassa, sinh ngày 22/2/1921 tại làng Bobangui, nước Phi Châu Xích Đạo (Cộng Hòa Trung Phi ngày nay). Ông là con của nông dân nhưng mồ côi cha mẹ từ nhỏ và theo học tại trường do các tu viện Pháp tài trợ.

Khi Thế Chiến thứ II bùng nổ, nước Pháp bị Đức Quốc xã chiếm đóng, Bokassa gia nhập Lực lượng Nước Pháp Tự do và sang Việt Nam tham chiến năm 1950. Thời gian ở Việt Nam, Bokassa chung sống với cô Nguyễn Thị Huệ, sinh được một con gái, đặt tên theo họ mẹ là Nguyễn Thị Martine.
Mười năm sau, năm 1960, nước Phi Châu Xích đạo giành được độc lập từ tay người Pháp. Vị tổng thống đầu tiên của quốc gia này là David Dacko, ngưới có họ hàng xa với Bokassa, đổi tên nước thành Cộng hòa Trung Phi rồi mời Bokassa đang ở Pháp về nắm quyền chỉ huy quân đội.
Tháng 1/1966, với lực lượng quân sĩ trong tay, Bokassa đảo chính, lật đổ David Dacko, tự phong mình là “Thống chế tổng tư lệnh quân đội” và lên làm tổng thống, vẫn giữ tên nước là Cộng hòa Trung Phi.

Tổng thống Bokassa. (Ảnh: Risk.ru)

Năm 1976, 10 năm sau ngày đảo chính, Bokassa vốn rất độc tài, thừa thắng xông lên, muốn làm vua để được suốt đời cai trị xứ Trung Phi. Tháng 10 năm ấy, ông đổi tên nước thành Vương quốc Trung Phi và tự xưng Hoàng đế.

Hoàng Đế Bokassa trong buổi làm lễ lên ngôi. (Ảnh: Newsvo)


Lễ lên ngôi của ông rất lớn, cực kỳ tốn kém, trong khi dân chúng rất đói khổ. Trong 3 năm ông làm vua, dân chúng bất mãn, những cuộc biểu tình của sinh viên nổ ra, ông đàn áp đẫm máu, giết hại hàng trăm sinh viên mặc dầu dân số trong nước lúc ấy chỉ có 4,3 triệu người. Việc đó khiến chính phủ Pháp phải ủng hộ tổng thống cũ David Dacko đảo chính, lật đổ ngai vàng của ông.
Cuộc đảo chính thành công, ngày 20/9/1979, David Dacko lên làm tổng thống và lấy lại tên nước là Cộng hòa Trung Phi. “Hoàng đế” Bokassa phải bỏ chạy sang nước Cộng hòa Bờ Biển Ngà, rồi sau đó sang Pháp. Ông bị chính quyền mới của Tổng thống David Dacko kết án tử hình vắng mặt.

Năm 1986, Bokassa trở lại Cộng hòa Trung Phi với hy vọng được hợp tác với chế độ trong nước, nhưng ông bị đưa ra tòa xét xử về tội phản quốc, giết người, và bị kết án tù chung thân. Tuy nhiên, chỉ 6 năm sau, với sự can thiệp của chính phủ Pháp, ông được thả.
Những năm cuối đời, Bokassa sống ở Bangui, thủ đô của Cộng hòa Trung Phi. Ông chết ngày 3/11/1996 tại Bangui trong hoàn cảnh nghèo túng, không một đồng xu dính túi.

Chuyện tình anh lính lê dương

Nguyễn thị Huệ và Bokassa lúc còn trẻ. (Ảnh: caphecaumat.blogspot.com )


Jean Bedel Bokassa đi lính cho Pháp từ năm 18 tuổi, lúc nước Trung Phi còn là thuộc địa của Pháp. Bokassa đến Việt Nam vào năm 1953, lúc ấy ông 32 tuổi, mang danh trung sĩ nhất và đóng tại Chánh Hưng, Sài Gòn (quận 8 bây giờ). Có thời gian Bokassa được tăng cường về Biên Hòa làm nhiệm vụ gác cầu ở Cù Lao Phố (cầu Gành). Hồi đó, làng mạc xa xôi hẻo lánh, người dân rất sợ các toán quân “Tây đen”, phụ nữ không may gặp họ trên đường hành quân là coi như hết đời.

Nhưng những nơi đông đúc thì dân chúng không sợ đám lính đánh thuê này. Những ông lính “Tây đen” có nhiệm vụ canh gác cầu Gành tại Cù lao Phố không dám giở thói côn đồ mà ngược lại, có vẻ hiền từ. Bokassa là người hiền nhất trong số họ. Hồi đó, ở gần cầu Gành có một máy nước công cộng để dân chúng trong vùng đến hứng, gánh về dùng. Trong xóm gần cầu có cô gái nghèo tên là Nguyễn Thị Huệ, chuyên gánh nước thuê cho các gia đình, hết sức cực nhọc dù cô rất xinh xắn.

Sau giờ gác cầu, Bokassa thường la cà đến máy nước công cộng đó để tán tỉnh. Các phụ nữ khác thấy Bokassa tới thì trốn biệt không dám đến gần. Lúc đầu, cô Huệ cũng trốn, nhưng sau đó vì chén cơm manh áo, cô đành liều, cứ đến gánh nước. Anh lính lê dương không làm gì cả, đã vậy còn giúp cô hứng nước và tập tành nói tiếng Việt nghe rất tức cười.

Dần dà, những cử chỉ ngô nghê, vụng về của anh lính da đen làm cho cô Huệ có cảm tình. Rồi cô dạy cho Bokassa nói tiếng Việt. Cô không còn cảm thấy ngại ngùng mỗi khi đối diện với anh lính Phi châu này nữa. Lương của lính Pháp tương đối khá, Bokassa cũng biết cách lấy lòng phụ nữ, lúc thì anh mua tặng cô xấp vải, chiếc khăn, lúc thì chai dầu thơm, có khi anh còn cho cô cả tiền nữa. Hai bên dần dần yêu nhau…

Kết quả của mối tình Phi-Việt đó là cô Huệ mang thai. Ngày ấy con gái chửa hoang là một điều hết sức nhục nhã, nhất là lại có chửa với một anh lính da đen. Cha cô không chịu nổi lời đàm tiếu, đánh cô một trận rồi bỏ nhà ra đi. Mẹ cô nước mắt lưng tròng, phần thì thương con, phần cũng giận con. Bà nói: “Đấy, mày muốn tính sao thì tính, đi đâu thì đi, đừng làm cho tao thêm nhục…”.
Bokassa đưa người tình về Tân Thuận Đông, quận Nhà Bè, nơi đơn vị anh đóng quân gần cầu Tân Thuận. Anh thuê nhà cho người yêu ở. Hai người sống với nhau như vợ chồng.

Tình nghĩa đang mặn nồng thì đơn vị của Bokassa được lệnh về Pháp. Anh trao tất cả số tiền dành dụm được cho vợ và dặn ít nữa nếu sinh con trai thì đặt tên là Martin, nếu sinh con gái thì đặt tên là Martine, sau này nếu có dịp anh sẽ sang Việt Nam tìm hai mẹ con. Cô Huệ khóc hết nước mắt…

Tổng thống Bokassa tìm con

Năm 1972, Jean Bedel Bokassa, Tổng thống nước Cộng hòa Trung Phi, nhờ Bộ Ngoại giao Pháp tìm kiếm giùm đứa con rơi, kết quả của mối tình giữa ông thời đi lính Lê dương tham chiến tại Việt Nam với một cô gái ở Sài Gòn, mà bây giờ 19 năm đã trôi qua, vốn không biết tiếng Việt, ông không còn nhớ nhà cha mẹ cô ở đâu.

Những nhân viên thuộc Bộ Ngoại giao VNCH lúc ấy tìm kiếm không thấy mà cũng không có căn cứ gì để tìm kiếm. Cuối cùng, họ tìm được một cô gái cũng lai da đen và cũng 19 tuổi tên Baxi, con của bà Nguyễn Thị Thân ở Gia Định, giao cho Bộ Ngoại giao Pháp đưa sang Trung Phi. Tổng thống Bokassa tổ chức một tiệc mừng rất lớn để đón tiếp cô con gái.

Tin tức về việc Tổng thống Bokassa tìm được đứa con rơi được báo chí Sài Gòn đưa tin trang trọng. Ngay lập tức, có một người khách tới tòa soạn báo Trắng Đen xin gặp ông chủ nhiệm Việt Định Phương. Người khách tự giới thiệu là cậu ruột của cô gái lai da đen tên Nguyễn Thị Martine, đứa con đích thực của vị tổng thống Trung Phi. Ông chủ nhiệm Việt Định Phương liên phân công một dàn phóng viên hùng hậu vào cuộc điều tra.

Chủ nhiệm nhật báo Trắng Đen Việt Định Phương sau này trở thành cư sĩ ở ẩn. 
(Ảnh: caphecaumat.blogspot.com )

Cô “công chúabốc vác
Sau cuộc chia tay, cô Huệ sinh đứa con gái và đặt tên là Nguyễn Thị Martine theo họ mẹ. Hết tiền, lại có con nhỏ, cô quyết định bế con về sống với mẹ ở Cù lao Phố. Bà mẹ rất mừng vì bà vẫn thương con. Lúc này người cha cũng đã trở về từ lâu. Ông đã già, không còn khó tính như trước nhưng nhà quá nghèo nên không lấy gì giúp đỡ cho con được…
Thời gian này hoàn cảnh hai mẹ con cô Huệ hết sức khổ cực. Cuối cùng cô về chợ Nhỏ, Thủ Đức, sinh sống bằng nghề buôn bán rau cỏ lặt vặt.

Martine lớn lên. Mặc cảm về vấn đề “con lai”, nước da nhờ nhờ, cặp môi dầy, mái tóc xoăn tít… khác với mọi đứa trẻ khác khiến cô bé trở thành ít nói, không dám cởi mở với ai. Cô làm đủ thứ việc để phụ giúp mẹ. Nói chung, Martine là một đứa trẻ ngoan ngoãn.
Một hôm cuối năm 1972, trong khi đang làm công nhân vác xi-măng tại Nhà máy xi-măng Hà Tiên ở gần Thủ Đức, cậu của Martine đến tìm và nói: “Cháu xin phép về ngay có công chuyện. Có mấy ông nhà báo muốn gặp để hỏi gì đó. Mấy ổng định can thiệp cho cháu được gặp cha…”.

Tổng thống Bokassa nhận con

Hồ sơ, hình ảnh của bà Huệ và Martine được Bokassa xác nhận. Đại diện của tổng thống Trung Phi tới Sài Gòn để xúc tiến việc đưa Martine sang đất nước của cha.
Tổng thống Trung Phi tiếp phái đoàn đưa Martine như thượng khách. Ông rất vui mừng đón nhận Martine và bà Huệ. Martine ở lại làm công chúa. Bà Huệ trở về Việt Nam vì đã có chồng khác. Riêng cô Baxi thì được ông nhận làm con nuôi. Sau khi về nước, bà Huệ được Tổng thống Bokassa trợ cấp mỗi tháng 200.000 USD.

Công chúa Martine. (Ảnh: caphecaumat.blogspot.com )

Năm sau, 1973, Tổng thống Bokassa công bố mở hội kén rể, chọn chồng cho con gái ruột là Martine và con gái nuôi là Baxi. Kết quả, hai thanh niên được chọn là bác sĩ quân y Jean-Bruno Dévéavode làm chồng Martine, đại úy Fidel Obrou làm chồng Baxi. Sau đó, một đám cưới được tổ chức linh đình tại dinh thự quốc gia.


Đám cưới trọng thể của cả hai công chúa Baxi và Martine được diễn ra cùng ngày. (Ảnh: Las Vegas Báo)

Số phận của hai “công chúa” Trung Phi

Số phận của Baxi



Từ một đứa con lai thuộc một gia đình nghèo khó, Baxi được Tổng thống Bokassa nhận làm con nuôi rồi cũng trở thành một công chúa, sống trong cảnh giàu sang được một thời gian, sau đó số phận hết sức bi đát.
Năm 1976, chồng của Baxi là đại úy Fidel Obrou, chỉ huy trưởng đội quân bảo vệ hoàng cung nhưng lại âm mưu lật đổ Bokassa và bị Bokassa xử tử.
Ngày chồng chết cũng là ngày Baxi sinh một đứa con trai, nhưng hai tuần sau, đứa bé bị bác sĩ quân y Jean-Bruno Dévéavode chồng của Martine Bokassa giết chết theo lệnh của Bokassa, bằng cách chích một mũi thuốc độc.


Đúng một năm sau ngày chồng bị xử tử, Baxi được Bokassa cho phép trở về Việt Nam, nhưng vì có tiền mang theo nên cô bị hai thuộc hạ của Bokassa giết chết để cướp của và giấu thi thể ở một nơi nào đó trên đường ra phi trường. Cô hưởng vinh hoa phú quý được khoảng 7 năm.

Số phận của Martine Bokassa

Ngày 21/9/1979, Pháp giật dây cho David Dakco tổ chức lật đổ “Hoàng Đế Bokassa Đệ nhất” và buộc ông phải sống lưu vong tại quốc gia Bờ Biển Ngà. Chồng của Martine tức bác sĩ quân y Jean-Bruno Dévéavode bị David Dakco ra lệnh xử tử về tội đã “theo đuôi” Bokassa, giết chết con của “người anh hùng” chống Bokassa là đại úy Fidel Obrou, chồng của Baxi, và thuộc gia đình có nhiều tội ác.

Martine và 3 đứa con trốn thoát qua Pháp, sống trong lâu đài của họ là Hardricourt. Bà Huệ mẹ của Martine ở bên Việt Nam sau này được Martine bảo lãnh sang Pháp sống với con và các cháu.
Martine thấy cái họ Dévéavode của chồng “xui xẻo” quá nên xin đổi tên mới là Martine Kota. Hiện nay cô làm chủ hai nhà hàng rất lớn, một ở Paris và một ở đảo Corse do người con gái lớn đã lấy chồng ở đó trông coi.
Con trai của Martine tên là Jean-Barthélémy Dévéavode, sinh ngày 30/8/1974 tại Bangui, hiện đang sống tại Pháp.

Tấm hình hiếm hoi của Jean Barthélémy chở bà ngoại Nguyễn Thị Huệ đi phố. (Ảnh: caphecaumat.blogspot.com )

Cháu ngoại Jean Barthélémy Dévéavode cầm hình bà ngoại Nguyễn Thị Huệ (mẹ Martine) và ông ngoại vua Bokassa trên tay. (Ảnh: nigeldickinson.photoshel ter.com)

TẠ QUANG KHÔI * NỢ TÌNH




NỢ TÌNH


Truyện ngắn Tạ Quang Khôi

Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

( Kiều)


Hưng đi chợ mua trái cây về bầy bàn thờ theo lời yêu cầu của Ngọc. Hôm nay là giỗ mẹ Ngọc. Chàng chỉ mới biết chuyện giỗ chạp cách đây chừng nửa giờ. Giỗ mẹ Ngọc cũng có thể coi như giỗ mẹ vợ chàng, dù hai người chưa làm đám cưới chính thức, cũng chỉ mới hẹn tuần sau tới tòa án ký giấy hôn thú vì Ngọc đã có thai được hơn một tháng. Hai người đã chung sống ngót một năm trời. Thoạt tiên họ tính chỉ ở chung cho đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, không hề có ý định trở thành vợ chồng, sinh con đẻ cái, tạo dựng một gia đình. Rồi bất ngờ Ngọc có thai, dù nàng không bao giờ quên uống thuốc. Họ coi đó là một “tai nạn”. Khi đã là tai nạn, không ai có thể trách ai, đành chấp nhận. Để tỏ ra mình không cố ý có thai với “âm mưu” buộc Hưng phải cưới nàng làm vợ, Ngọc báo cho chàng biết nàng đã xin hẹn với bác sĩ để lấy cái thai ra. Hưng có vẻ hơi ngạc nhiên về quyết đinh của người yêu. Sau mấy phút suy nghĩ, chàng hói :


“Tại sao em định phá ?”

Ngọc thản nhiên đáp :

“Vì mình không cần...hay chưa cần.”


Hưng giữ im lặng, có vẻ đăm chiêu. Sau đó, cả hai cùng phải đi làm, mỗi người một sở nên không có dịp nói chuyện thêm về cái thai. Ba ngày liền, Hưng không đả động gì đến chuyện phá hay giữ. Vào giữa trưa ngày thứ tư, Hưng gọi điện thoại cho Ngọc để hỏi về buổi hẹn với bác sĩ vào ngày hôm sau. Rồi chàng nói bằng một giọng nửa như ra lệnh nửa như khuyên can :


“Em gọi cho bác sĩ, xin bỏ cái hẹn đó đi.”

Tuy ngạc nhiên và mừng, Ngọc vẫn khôn khéo hỏi lại :

“Bộ anh không thích bác sĩ này, đổi bác sĩ khác ?”

Giữ im lặng một lát, chàng nói như cầu khẩn :

“Xin em đừng phá cái thai....Đó là một điều thất đức.”

Ngọc cố nén một tiếng thở phào nhẹ nhõm, giữ im lặng. Đó cũng là ý muốn của nàng từ mấy ngày nay. Dù sao, cái thai cũng là hòn máu của Hưng, cũng là một mầm sống đang nảy nở trong bụng nàng. Có đêm, nàng thao thức, day dứt về chuyện hủy diệt mầm sống đó. Trong nàng, một cuộc dằng co giữa tình yêu và tình mẫu tử. Nàng đã yêu Hưng, yêu bằng tất cả mối chân tình. Nàng thầm công nhận chàng là một người đàn ông có nhiều đức tính. Chàng có tinh thần trách nhiệm, đã lo cho nàng rất đầy đủ, cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì cảm phục, nàng đã yêu chàng tha thiết, dù tuổi tác quá chênh lệch, chàng hơn nàng tới hai mươi lăm tuổi. Theo nhận xét chủ quan của nàng, chàng là người đàn ông hiếm có mà bất cứ người đàn bà nào trên cõi đời này cũng mơ ước. Chàng có nhiều tính tốt hơn tật xấu, không rượu chè, không cờ bạc. Bây giờ, vì cái thai mà bỏ Hưng, làm sao nàng không khắc khoải buồn khổ cho được. Nàng đã trằn trọc nhiều đêm mà không biết quyết định ra sao. Nay Hưng vừa cho biết ý chàng về cái thai, nàng mừng muốn phát khóc.
Thấy Ngọc không nói gì, Hưng rụt rè hỏi :

“Bộ em nhất định...phá sao ?”

Nàng vội đáp :

“Đâu có, em nghe lời anh mà. Ngay bây giờ em sẽ gọi văn phòng bác sĩ để xin bỏ cái hẹn ngày mai.”

Hưng vui vẻ :

“Vậy thì em gọi đi. Chiều nay về nhà mình sẽ nói chuyện thêm.”

Sau khi xin hủy cái hẹn với bác sĩ, Ngọc rất vui vì biết mình đã chọn đúng người. Trong giờ làm việc ở sở thỉnh thoảng nàng lại để tay lên bụng nghe ngóng. rồi nói khe khẽ :”Con của mẹ, thế là an tâm rồi. Không còn ai bắt mẹ phải xa con nữa.”
Buổi tối hôm đó, Hưng đưa Ngọc đi ăn tiệm. Hai người bàn tính chuyện tương lai, chuyện xây dựng hạnh phúc gia đình. Cả hai cùng quyết định không thử nghiệm xem đứa bé là trai hay gái. “Con nào cũng là con, Hưng nói, để bất ngờ mới thú.” Họ còn chọn ngày cùng xin nghỉ để tới tòa án làm hôn thú. Sau đó họ sẽ tổ chức một bữa tiệc nhỏ, chỉ mời một số bạn thật thân và một vài người trong họ ở cùng tiểu bang, để loan báo cuộc hôn nhân của hai người. Họ cũng có cả một chương trình tiết kiệm, để dành tiền lo cho đứa bé sắp ra đời. Họ biết rằng nuôi một đứa con ở Mỹ hết sức tốn kém và vất vả. Có nhiều bà mẹ đã phải tạm nghỉ việc sở để ở nhà chăm lo con cái khi sinh đến đứa thứ hai.


Sáng nay, thứ bảy, Hưng vừa ăn sáng xong, Ngọc báo tin :

“Hôm nay giỗ má em.”

Hưng nhìn quanh rồi hỏi :

“Ủa, giỗ má em hôm nay hả ? Sao em chưa làm gì hết ?”


“Đúng giỗ là thứ ba tuần tới. Em định ngày ấy lấy một ngày nghỉ bệnh để ở nhà làm giỗ. Sáng nay, em bỗng đổi ý vì muốn anh cũng giỗ má với em. Chỉ cúng sơ sài thôi, anh ạ. Em nhờ anh chạy ra chợ Mỹ mua ít trái cây bầy bàn thờ. Em sẽ nấu mấy món má em thích. Chiều nay mình cúng.”
Hưng đồng ý ngay. Chàng bỗng thấy vui vui. Đã từ lâu chàng bỏ ý định lấy vợ, thế mà bây giờ chàng không những đã có vợ, sắp có con, lại có cả một bà mẹ vợ để giỗ nữa. Kể cuộc đời cũng lắm bất ngờ, chẳng ai có thể đoán trước được việc gì.
Hồi trẻ, chàng đã quyết định cưới người yêu ngay sau khi có việc làm vì chỉ còn hai tháng nữa chàng tốt nghiệp đại học. Nhưng cuộc đổi đời vào cuối tháng 4 năm 1975 đã làm đảo lộn mọi dự tính của chàng. Mộng Thúy, người yêu của chàng, một cô hàng xóm xinh đẹp, phải theo mẹ và các em về quê ở Long Xuyên, sau khi cha nàng, một sĩ quan cấp tá bị cộng sản lừa gạt đưa vào nhà tù cải tạo. Cha chàng bị đánh tư sản, mất gần hết cơ nghiệp, buồn bã sinh bệnh mà qua đời. Từ ngày Mộng Thúy về quê, chàng không có một tin tức nào về nàng. Thật ra, chàng cũng không có thì giờ để nhớ thương người tình. Cuộc sống quay cuồng trước mặt, nỗi căm hận vì những hành động cướp bóc, xảo trá của cộng sản đã khiến chàng tạm quên đi mối tình của tuổi học trò. Khi đang lo săn sóc cha trong bệnh viện, chàng tình cờ gặp một cô bạn học cũ của Mộng Thúy và được tin nàng đã lấy chồng. Chàng nghe nhói trong tim vì bị bất ngờ, chàng tưởng như cả vũ trụ bỗng sụp đổ. Chàng tự hỏi tại sao nàng lại quên chàng nhanh như vậy.Nhưng chàng phải dẹp đau buồn để lo cho cha vì ông đang ở trong tình trạng hấp hối. Rồi nỗi đau mất cha đã tạm thời làm phai mờ hình ảnh Mộng Thúy trong tâm hồn chàng. Trước khi qua đời, cha chàng đã nhắc đi nhắc lại rằng chàng phải cố gắng trốn ra nước ngoài để tìm cách xây dựng lại cuộc sống cho gia đình.


Sau nhiều lần bị lừa mất khá nhiều tiền, chàng thành công trong một chuyến vượt biên bằng đường bể. Ghe của chàng đến được một hòn đảo nhỏ thuộc Nam Dương. Rồi, chàng được định cư ở Mỹ. Vì muốn nhanh chóng có việc làm để bảo lãnh gia đình, chàng đã học làm chuyên viên về ngành điện ở một trường đại học cộng đồng. Khi có việc làm vững chắc, chàng bảo lãnh mẹ và các em sang đoàn tụ. Các em chàng thích ứng nhanh chóng với cuộc sống mới, nên chỉ trong vòng hai năm chúng không cần đến sự giúp đõ của chàng nữa.Tự coi là mình đã làm tròn bổn phận với gia đình, đã giữ lời hứa với cha, bây giờ chàng có quyền nghĩ đến bản thân mình, đến cuộc sống riêng tư của mình. Chàng cũng biết mình đã già đi nhiều. Vào dịp đó chàng tìm được một việc làm tốt hơn và lương cao hơn ở một tiểu bang khác. Trước khi di chuyển, chàng mời mẹ đi cùng nhưng bà từ chối, chỉ muốn ở chung với đứa con gái út vừa tốt nghiệp đại học. Đến địa phương mới, chàng nghĩ tới việc xây dựng một gia đình. Nhưng chàng đã trải qua vài cuộc tình mà không đi đến một kết quả mong muốn nào. Một phần vì chàng đã lớn tuổi nên cũng hơi khó tính. Phần khác, hình ảnh người tình đầu tiên lại hiện rõ hơn trong tâm tưởng chàng. Việc Mộng Thúy đột ngột lấy chồng làm chàng thắc mắc và nghi ngờ lòng chung thủy của đàn bà. Cũng có khi chàng lại nghĩ rằng phải có một uẩn khúc nào đó trong việc hôn nhân của nàng vì hôm chia tay nàng đã hứa sẽ tìm cách trở lại Saigon với chàng. 
Chàng tính sẽ có một ngày về Việt Nam, xuống Long Xuyên tìm nàng để hỏi cho rõ thực hư. Nếu không có cuộc đổi đời ngót ba chục năm trước, chàng và Mộng Thúy đã trở thành vợ chồng và con cái của hai người chắc cũng trưởng thành cả rồi. Bây giờ thì quá trễ để nghĩ đến chuyện vợ con, vì theo thời gian chàng đã thành một người luống tuổi, trên dưới năm mươi. Chàng không còn tha thiết với việc lập gia đình nữa. Chàng rất sợ cái cảnh “cha già con cọc”, lúc nhắm mắt xuôi tay không an tâm vì bầy con nhỏ. Sau khi đã có nhiều kinh nghiệm với cuộc đời bất trắc, nay chàng chỉ muốn sống tạm bợ với bất cứ người đàn bà nào chấp nhận quan điểm của chàng. Không ràng buộc, không trách nhiệm. Hôm nay có thể rất quyến luyến nhau, nhưng ngày mai lại sẵn sàng chia tay, mỗi người đi một ngả, không hứa hẹn gì ở tương lai. Chàng vẫn biết đó là một cuộc sống vô trách nhiệm, nhưng thà như vậy còn hơn là quàng vào cổ những bổn phận mà mình không hề muốn.


Khoảng hơn một năm trước đây Hưng gặp Ngọc trong một buổi dạ vũ ở nhà một người bạn. Lúc đó, Ngọc đang kiếm việc sau khi học xong mấy khóa Anh văn thực hành. Tự nhiên chàng có cảm tình với cô gái mới quen này. Cô không phải là người đẹp, nhan sắc chỉ ở mức trung bình Chàng hứa sẽ cố gắng giúp cô. Vì tuổi tác chênh lệch, họ xưng hô “chú cháu” với nhau.
Nhờ quen biết rộng, Hưng đã giới thiệu cho Ngọc một việc làm tốt và lương cao. Từ đó, hai người thân nhau hơn, rồi từ chú cháu họ đổi thành anh em. Vào một ngày đẹp trời và với sự đồng ý của Hưng, Ngọc dọn tới ở chung với chàng. Dù không có giao ước bằng giấy tờ hay bằng lời nói, nhưng hai người đều thầm hiểu rằng cuộc sống chung này chỉ tạm bợ. Chính vì thế, họ không cần tìm hiểu nhau sâu xa. Nhưng sự chung đụng hàng ngày đã khiến Ngọc dần dần có cảm tình, rồi yêu Hưng tha thiết. Trong khi đó Hưng cũng bắt đầu có nhiều quyến luyến với cô gái còn quá trẻ so với tuổi chàng. Hưng mến Ngọc vì nàng ngoan ngoãn và hiền lành. Đó là những đức tính khó kiếm thấy ở một phụ nữ Việt Nam đã sống lâu năm trên đất Mỹ.


Mua xong trái cây, Hưng giúp người yêu thiết lập tạm một bàn thờ trong phòngkhách. Chàng úp hai cái ly nhỏ bằng thủy tinh để cắm nến, một ly khác lớn hơn, đổ gạo lưng chừng để cắm nhang. Phía sau hai cây nến là hai đĩa trái cây chàng vừa mua.

Ngọc ngắm bàn thờ lung linh ánh nến và khói nhang tỏa nghi ngút tỏ vẻ hài lòng, hôn nhẹ lên má người yêu, khen :


“Chồng em...đảm đang quá !”

Rồi nàng chỉ vào khoảng trống sau “bát” nhang, nói :

“Chỗ này em để hình má. Bây giờ em đi lấy hình đây.”

Chàng nói đùa :

“Nếu em không tìm thấy hình má, anh cho em mượn hình của anh.”.

Nàng liền nghiêm mặt, tát nhẹ vào má chàng, trách :

“Em không thích anh giỡn như vậy đâu. Anh còn phải sống lâu, vì em, vì con nữa”


Thấy công việc của mình đã xong xuôi, Hưng ngả lưng trên một cái ghế nệm dài để nghỉ ngơi. Ngọc vào phòng ngủ lấy một bức hình đã có khung sẵn, rồi khoe :
“Anh nè, anh có thấy má em đẹp không ?”
Hưng ngồi nhỏm lên để xem hình. Nhưng bỗng như có một luồng điện chạy qua người chàng. Chàng chết điếng, cảm thấy choáng váng, tim đập mạnh một cách bất thường, không sao thốt nên lời ! Bức hình trước mặt chàng rõ ràng là hìnhï của Mộng Thúy. Chính nàng đã tặng chàng bức hình này sau khi mới chụp, gần ba chục năm trước, nhưng chỉ là cỡ nhỏ bằng bàn tay. Bây giờ chàng mới chợt nhớ tên của Ngọc cũng có chữ Mộng ở trước, Mộng Ngọc !


Thấy Hưng không nói gì, Ngọc vô tình không nhận ra vẻ bối rối, hốt hoảng của chàng, hỏi :

“Bộ anh không thấy má em đẹp sao ?”

Chàng cố lấy lại bình tĩnh, gượng đáp :

“Ờ ờ...Má đẹp...Má đẹp thiệt... ”

Ngọc cười :

“Em thua má xa, ai cũng nói vậy.”


Ngọc đặt hình mẹ lên bàn thờ, rồi vào bếp tiếp tục nấu nướng. Hưng lại nằm xuống, nhưng không còn bình tĩnh như trước nữa, lòng rối hơn tơ vò. Chàng đã gặp nhiều chuyện bất ngờ trong đời, nhưng chưa bao giờ lại bị bất ngờ như lần này, vì nó không những đã làm chàng xao xuyến mà còn khiến lòng chàng tê tái đến đau đớn. Quả thật chàng không hề thấy Ngọc có nét nào giống mẹ, khó mà tưởng tượng nàng là con đẻ của Mộng Thúy. Phải chăng nàng giống cha nhiều hơn ?


Thấy Ngọc vẫn lúi húi ở trong bếp, Hưng lại ngồi dậy, đến trước bàn thờ ngắm lại hình Mộng Thúy. Sau màn khói của nhang và ánh nến chập chờn, Mộng Thúy trông đẹp môt cách huyền ảo. Chưa bao giờ chàng nghĩ Mộng Thúy đã ra người thiên cổ. Mà cũng không bao giờ chàng có thể ngờ chàng là con rể của chính người yêu cũ.
Bây giờ mình phải tính sao đây ? Hưng thầm tự hỏi. Nói cho Ngọc biết sự thật, rồi hai người chia tay ? Nếu làm vậy, chàng cũng chẳng giải quyết được điều gì. Chàng cảm thấy càng bế tắc, rắc rối hơn. Dù chưa kịp làm hôn thú, dù chưa chính thức giới thiệu với bạn bè, họ hàng, hai người đã là vợ chồng từ lâu. Còn đứa nhỏ sắp ra đời thì sao ? Chàng không thể để cho con mình thành đứa trẻ mồ côi khi cả bố lẫn mẹ đều còn sống. Chỉ có một con đường duy nhất là phải tiến tới và dấu kín chuyện tình ngày xưa, dù chàng vẫn biết dưới ánh sáng mặt trời không có bí mật nào không bị phanh phui. Chẳng sớm thì muộn Ngọc cũng sẽ biết sự thật phũ phàng này. Dù sao chàng và Ngọc cũng không thể xa nhau được nữa. Số mệnh đã kết hợp hai người, không còn gì có thể tách rời họ được. Kiểm điểm lại những ngày yêu Mộng Thúy, chàng không có gì để phải áy náy, hối hận. Đó là mối tình đầu trong trắng và thơ mộng của tuổi học trò. Chàng và Thúy chưa đi quá trớn, cùng lắm chàng chỉ nắm tay hoặc vuốt má nàng thôi.


Trên bàn thờ, Mộng Thúy vẫn nở nụ cười quyến rũ như ngày nào hai người còn yêu nhau. Nàng vẫn đẹp một cách thùy mị, đoan trang. Nhìn hình nàng, chàng nghe lòng bồi hồi thương cảm. Chàng biết chàng vẫn còn yêu nàng tha thiết. Chàng đưa tay vuốt nhẹ lên mặt kính của hình, tưởng nhớ ngày xưa đã từng vuốt má Mộng Thúy. Chợt có tiếng Ngọc gọi từ trong bếp :


“Anh à, anh có vô ăn trưa với em không ?”

Giọng nũng nịu của Ngọc kéo chàng về thực tế. Chàng chậm chạp bước vào bếp, ngồi đối diện với người yêu nhỏ bé bên một cái bàn ăn vuông. Ngọc đã làm cho Hưng một ổ bánh mì kẹp thịt với đồ chua và một ly cà phê đá. Đó là những món chàng vẫn thích ăn vào buổi trưa. Chính những săn sóc nhỏ nhặt này của Ngọc đã chinh phục được lòng yêu thương của chàng.


Hưng ăn chậm chạp và có vẻ đăm chiêu. Thấy chàng im lặng như đang có điều suy nghĩ, Ngọc không dám nói chuyện nhiều, lặng lẽ ăn ổ bánh của mình.

Khi đã uống cạn ly cà phê đá, Hưng mới ngước nhìn Ngọc, hỏi :

“Má em mất lâu chưa ? Lúc ấy em bao nhiêu tuổi ? “

Ngọc buồn buồn đáp :

“Em có được gặp má bao giờ đâu. Khi em đã lớn, ngoại bịnh nặng, sắp chết mới kể lại cho em nghe. Sau khi sanh em được một tháng, má tự tử. Ngoại nuôi em...”

“Còn ba em đâu ?”

Ngọc thở dài :


“Em cũng không biết. Mấy lần em hỏi, ngoại không trả lời...Mãi đến sau khi ngoại mất, dì em mới cho biết ba là một cán bộ tập kết đã có vợ con ở ngoài Bắc...Sau khi má tự tử, ổng bỏ ra Hà Nội mất tiêu luôn.”

“Vậy bà ngoại cũng mất rồi ? Còn ông ngoại em ?”


“Các dì nói ông ngoại chết đói trong một trại giam ở ngoài Bắc lâu lắm rồi. Em chỉ biết mặt ông và má qua hình ảnh thôi,”
Nghe chuyện Ngọc, Hưng buồn bã cúi mặt suy nghĩ. Chàng đoán ra cái chết oan ức của Mộng Thúy. Nàng bị ép phải lấy một tên cán bộ cộng sản tập kết mới trở về. Sau khi sinh Ngọc, nàng tự tử. Một niềm hối hận xâm chiếm lòng chàng. Từ lâu chàng đã nghi oan lòng chung thủy của người yêu. Trong khi Mộng Thúy chịu bao đau khổ, cay đắng, chàng không hề biết để giúp đỡ. Không những thế, chàng còn hờn giận, trách móc nàng. Lẽ ra, hồi đó, sau tang lễ của cha, chàng phải xuống ngay Long Xuyên để tìm hiểu sự tình. Chỉ mới nghe đồn nàng lấy chồng, chàng đã vội vã tin ngay. Biết đâu khi gặp nàng, chàng lại chả có thể an ủi, tìm cách cứu nàng ra khỏi cuộc sống đầy đọa và để cùng xây dựng lại tương lai, hạnh phúc ?


Hưng không mê tín đi đoan, cũng không tin những chuyện huyền bí hoang đường, nhưng chàng không sao giải thích được sự tình cờ kỳ lạ này. Phải chăng có sự xếp đặt nào đó và ở đâu đó ? Chàng thầm tự hứa với lòng mình, với vong hồn người đã chết một cách tức tủi, là từ nay chàng có bổn phận và trách nhiệm phải lo cho Ngọc, cho mẹ con nàng.
Hưng ngước nhìn lên, gặp đôi mắt buồn rười rượi của Ngọc. Chàng bỗng nghe lòng tràn ngập yêu thương. Chàng bước đến bên Ngọc, cúi xuống hôn lên trán nàng. Ngọc liền ghì lấy chàng, nũng nịu hỏi :
“Anh có thương em không ?”
Chàng không đáp. Đôi mắt chàng bỗng nhòa đi. Thoáng trong một giây, chàng không hiểu chàng đang ôm ai trong vòng tay...


TQK

TS. PHAN VĂN SONG * TÂN TỔNG THỐNG PHÁP



2017-05-19 :

Gương sáng dân chủ : Khi dân Pháp DÁM phá lệ (bài 2)
Tân Tổng Thống Pháp Gốc Phái Tả Xã Hội
DÁM Giao Chức Thủ Tướng Cho Phái Hữu


Phan Văn Song


Suốt cả buổi sáng ngày thứ hai 15 tháng 05, năm 2017, chúng tôi ngồi chờ Tân Tổng Thống Pháp quốc Emmanuel Macron tuyên bố bổ nhiệm Thủ Tướng. Từ một tuần nay nguồn dư luận, do rỉ tai ? hay rò rỉ ? hay « tin bong bóng để hỏi ý dư luận » ? đã nói nhiều đến tên ông Édouard Philippe, một nhơn vật chánh trị ít được dân chúng Pháp biết đến. Dân biểu, Thị trưởng một đô thị to, thành phố Le Havre, một hải cảng miền Bắc nước Pháp, Édouard Philippe cũng là một tay hào hoa tài giỏi, học giỏi, tuy nhà chánh trị nhưng đấy văn chương thơ phú, cũng như ông Tân Tổng Thống. 
 
Cũng như ông Tân Tổng Thống, cùng tốt nghiệp Đốc sự Hành Chánh Pháp-ENA École Nationale d’Administration, củng là tốt nghiệp Viện Khoa học Chánh Trị - Institut des Études Politiques, gọi chung là Sciences Po (người viết chúng tôi hãnh diện xin phép ăn có, tự xưng thuộc vào đám đàn anh, nhận làm đồng môn cùng với các Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, nguyễn Văn Bông, hay … Quốc Trưởng Bảo Đại…), ông còn viết văn, mê điện ảnh -cinéma và amateur đánh Boxe - quyền Anh…Ông thuở nhỏ, làm đệ tử Michel Rocard, ông Thầy phái Tả Cấp Tiến, lớn lên sau khi ra trường lại gia nhập phái hữu, phụ tá ông Alain Juppé phái hữu Ôn hòa Cấp Tiến xây dựng Đảng UMP – Union des Mouvements Patriotiques Tập họp các Phong Trào Yêu Nước để ủng hộ cựu Tổng Thống Chirac trên đường tiến vào Cung Điện Élysée. Nói tóm lại, ông là con người con người biết thời, biết thế ! Sống theo thời, ăn theo thế !


Tổng Thống Macon là tay chịu chơi, đã và đang và sẽ phá lệ ; Đảng Cộng Hòa Tiến Bước – La République En Marche của ông sẽ luôn luôn là một Đảng Mở. Sẽ mở, vừa cho hướng Tả phái Xã Hội, vừa cho Hữu phái khối Công Hòa, vừa với các người ở phái Trung. Trái với suy nghĩ truyền thống của phái Trung, hể là Trung Dung, là phải Ở Giữa, không Tả không Hữu. Hôm nay, khi đang viết bài nầy, chúng tôi mong (qua những tin rò rỉ, những bong bóng) rằng tân nội các sẽ phải theo tỷ lệ thuận lẽ phải, hạp lòng dân ? Hay vừa lòng ý muốn, và tuyên bố của tân Vương Emmanuel Macron ? Là một sự hòa hợp của ba sắc thái : ba cân bằng : Nam-Nữ, cân bằng chuyên viên chánh trị - và người của xã hội dân sự, và cân bằng tư tưởng ba phái Tả-Hữu-Trung (rất nặng gánh do lãnh đạo lịch sử truyền thống Bayrou đã ủng hộ Emmanuel Macron từ ngay lúc vừa phất cờ lập Đảng). Bài toán lắm khó khăn, nhưng hy vọng tài nghệ hai anh vừa Đốc sự, vừa Sciences-Po, trẻ tuổi (Macron 39, Philippe 46) khắc phục được !

Nhưng cái mới mẽ của Emmanuel Macron để chiếm chánh quyền, và đưa một sắc thái PHÁ LỆ - Transgessif là sẽ sử dụng những chuyên viên làm việc ở Xã hội Dân Sự không chuyên nghiệp Chánh trị : những giáo sư đại học, những chuyên viên ngân hàng, xí nghiệp, những doanh nhơn, … biết thế nào là thị trường, biết thế nào là xí nghiệp, là dịch vụ, và quan trọng biết cái quý, cái quan trọng là KHÁCH HÀNG – le client và Luật le client est ROI - khách hàng là VUA của ngành kinh thương, và luật Cung Cầu !

Thật vậy ! Vẫn biết Dân Chủ là cần thiết ! Một quốc gia như Việt Nam ngày nay phải đi tìm Dân Chủ, vì có Dân Chủ là có tất cả yếu tố để thực hiện một chánh quyền lành mạnh, một cơ cấu quản trị tốt ? Thế nhưng những khủng hoảng hiện nay tại các nền dân chủ tiên tiến chứng minh cho chúng ta thấy cần phải có một nền dân chủ tham dự (une démocratie participative)


Trong những bài viết qua chúng tôi thường đề cập đến Con người và Môi trường song hành với Đạo Đức là những yếu tố khả dĩ Phát triển và Quản lý tốt một quốc gia tiên tiến
Hiến pháp chỉ là một bản văn, tuy cần thiết nhưng vẫn chưa đủ (nécessaire et non suffisant) bảo đảm cho những Tự do thật sự và một nền Dân chủ thực hữu của quốc gia. Rất nhiều chế độ độc tài trên thế giới vẫn dùng bản Hiến pháp làm chiêu bài để vay mượn danh nghĩa chánh thống cũng như tánh cách hợp pháp.

Ngày nay, ngay tại các quốc gia tiên tiến, nơi có những Tự do căn bản được áp dụng, nhưng phần lớn việc điều hành quyền lực từ các cơ quan hành chánh hay pháp lý vẫn gợi cho những người quan tâm đến tình trạng nhơn quyền và Dân chủ không ít nghi ngờ, khiến phải suy nghĩ và e ngại.

1.- Một “thị trường chánh trị”.-

Cái nguy hiểm ngày nay, là do sự bành trướng của một hiện tượng được gọi là “thị trường Chánh trị”. Định nghĩa này được nhóm “public choices”, một nhóm các nhà nghiên cứu, kinh tế gia, chánh trị gia hay xã hội học Âu-Mỹ, theo dõi những cách thức xử thế, quyết định từ các vị lãnh đạo công cộng của quốc gia (nhà cầm quyền, các vị lãnh đạo các nhóm chánh trị, các vị dân cử và các công chức). Những quyết định ấy thường khi thiếu sự chính xác, không trung thực, bởi lẽ, thay vì các quyết định phải được thoát thai từ kết quả trao đổi giữa hai nhóm người, của hai đối tác, đúng theo luật “cung - cầu”, theo luật “kinh tế thị trường”, thì ngày nay, những quyết định ấy lại là những mặc cả, đã làm mất những “thông tin chính xác, trung thực”, dẫn đến “cái chung chung”, thiếu hẵn phần “trách nhiệm”.

“Thị trường chánh trị” là thị trường của những ứng cử viên với các đại diện dân, một bên, và đối với (versus) cử tri đoàn, một bên.
Trên thị trường này, ứng cử viên và các dân cử nắm quyền chủ động. Cũng như một anh nhà buôn, họ để nghị những “món hàng công cộng” (công viên, trường học, giảm tô thuế, ủng hộ Dân chủ ở VN …) hay những “món hàng chánh trị” (những người mới nhập cư dễ dàng nhập lấy quốc tịch để xử dụng lá phiếu lấy những quyết định cho địa phương, làng xã, nơi mình sanh hoạt và cư ngụ … đổi lấy lá phiếu của người đi bầu của cử tri gốc Việt, gốc Hispanic ở Mỹ, gốc Á-rạp ở Pháp…
Và người nào đề nghị nhiều, hứa hẹn nhiều, thì kẻ ấy có cơ may lượm nhiều lá phiếu.

Xin lấy vài thí dụ : các nhà làm chánh trị hứa sẽ bảo vệ con người, tài sản và quyền lợi con người. Nhưng có ai nói đến bảo vệ bằng cách nào, tổn phí là bao nhiêu ? Khi cần lá phiếu, các ứng cử viên thường có những lời hứa với chương trình thực hiện (sẽ) rất dài. Và cùng trong một lúc đó, các người đi bầu, người cử tri, người dân thường, cũng họp nhau lại thảo những đòi hỏi dài, xin thêm phương tiện hổ trợ, tiền bạc, nhơn danh “phúc lợi công cộng” (intérêt général), nhưng thật sự, đó chỉ là những đòi hỏi rất hạn hẹp có tính cách địa phương và đặc biệt

Và cuối cùng, mọi người cùng ngóng cổ chờ quyết định của Nhà nước, vì sự mặc cả, giữa những người muốn “giảm tiền thuế ”, và những nhóm muốn xin “thêm tiền, để thực hiện những đặc lợi và đặc quyền”, hai nhóm này đều là công dân, và cả hai đòi hỏi đều có lý cả. Vậy phải làm thế nào ? Chúng ta thường thấy, theo thông lệ, những nhóm đứng ra đòi hỏi thường là những “nhóm có tổ chức”, biết xuống đường đấu tranh, biết la hét để đòi hỏi. Còn nhóm người bị đóng thuế, như tất cả chúng ta, thường thụ động, im lặng, tuy có rên rỉ đấy, nhưng vẫn phải trả thuế đều đều. Khối thiểu số ồn ào sẽ lấn ép khối đa số thầm lặng.

Những nhà làm chánh trị ở các quốc gia tiên tiến xử dụng cái mâu thuẫn ấy để kiếm phiếu, sẵn sàng hứa thực hiện tất cả những yêu cầu, hứa sẽ giảm các loại thuế, tạo một không khí an lành và gợi cho người dân cảm tưởng là có một “ai đó” sẽ hào phóng chi tiền. Giáo sư trường luật Aix –Marseille Frédéric Martiat từng mô tả hiện tượng ấy vào năm 1968 : “Nhà Nước là cái ảo tưởng xã hội (une fiction sociale) trong con người mà lúc nào cũng mong được sống bám vào những kẻ khác” (L’Etat est une fiction sociale à travers laquelle chacun s’efforce de vivre aux dépens de tous les autres). Và Nhà Nước Bảo Hộ ra đời. (Et l’Etat Providence naquit).

2.- Khủng hoảng của Nhà Nước .-

Vì mọi chuyện đều phải do Nhà nước giải quyết, chúng ta đã đâm đầu vào một cuộc khủng hoảng kinh khủng. Cuộc khủng hoảng nầy đang diễn ra tại các nước tiên tiến.
Mong bài nghiên cứu này đóng góp được những suy nghĩ để các nước chậm tiến như Việtnam, ngày mai không vấp phải.
Khủng hoảng đầu tiên, là khủng hoảng chánh trị : nếu Nhà Nước là tất cả, các nhà cầm quyền và các nhà làm chánh trị là tất cả, thì “tất cả đó” đều đứng trên Pháp luật (Việt Nam ngày nay, Đảng Cộng sản và Nhà Nước là một, ĐCS đứng trên Pháp luật)

Khủng hoảng thứ hai, là những giá trị Đạo đức xã hội hoàn toàn bị xáo trộn. Những thành công đều được đánh giá trên kết quả, mà không cần biết kết quả đó có được là do xảo quyệt, do bè phái, do tham nhũng. Những giá trị thật sự về Đạo đức con người, về giá trị học hành, về hiểu biết, về tri thức đều không được nhìn nhận. (Việt nam ngày nay?)

Khủng hoảng thứ ba, là kinh tế, của công bị tham nhũng đục khoét, lãng phí, quản lý tồi, dĩ nhiên mất hiệu năng sản xuất, cộng thêm Pháp luật bị chà đạp, sưu cao, thuế nặng ... là nguyên nhân đưa đến trì trệ kinh tế. Rồi nạn thất nghiệp gia tăng, mức tiêu thụ giảm lần, tạo nên cái vòng lẩn quẩn, người nghèo vì thất nghiệp càng nghèo thêm, khiến quỹ xã hội thâm hụt nặng, bởi không đủ thương vụ, nghiệp vụ đóng góp.

Khủng hoảng thứ tư, là Pháp lý, Nhà Nước không còn đóng vai trò quản lý, và trọng tài những tương quan thương mại hoặc xã hội. Vì Luật pháp bị xâm phạm, bị cưởng hiếp, không còn được tôn trọng, nên những nhà chánh trị lương lẹo với những dân cử để tham nhũng hay ngồi xổm lên pháp lý, rồi ... trẻ con các khu nghèo kéo nhau đi “đốt xe” để ... giải trí. (Ở Pháp vừa qua).

3.- Sự chuyển tiếp phải qua trung gian các xã hội dân sự.-

Con đường phân chia biên giới giữa quyền lực của giới cầm quyền và xã hội phải được nới rộng.
Để sanh tồn, quyền lực của công lực phải được giảm bớt, những “công hữu” phải được tư hữu hóa. Quản lý những sở hữu hay công nghiệp quốc gia không còn là nghiệp vụ của Nhà nước nữa. Những xã hội dân sự, dần dần nắm quyền quản lý để thay thế. Quản lý khai thác, phân phối tài nguyên quốc gia phải được tư hữu hóa.

Quản lý những sở hữu hay tài nguyên có tánh cách thương mại rất dễ dàng cho các xã hội dân sự. Sản xuất xe hơi, quản lý khí đốt, điện lực, chuyên chở, truyền thông, các tư nhơn và các xã hội dân sự biết làm và còn làm giỏi hơn Nhà nước.

Về những phần hành “dịch vụ công cộng” (Services publics) vẫn là phận sự của Nhà Nước, vì là Công Bộc, như Tổ chức Giáo dục, Tổ chức Y tế, Tổ chức Hưu Trí, Tổ chức Thể Thao, Tổ chức Văn hóa … đành rằng khó khăn, nhưng nếu biết chuyển hướng khéo và quản lý khéo vẫn có thể chuyển dần cho Tư nhơn.

Nhưng, vẫn còn những bộ phận hoàn toàn không thể chuyển nhượng cho thế giới thương mại, như những “tổ chức dịch vụ xã hội tương tế”, hay “dịch vụ phân phối tương trợ”, gọi chung là “dịch vụ xã hội ” (Sercices sociaux) chủ yếu đối với những gia đình nghèo khổ, giúp đỡ người tàn tật, nghiệp vụ cứu thương, cứu hỏa, bảo vệ con trẻ, tổ chức phòng ngừa du đảng, tệ nạn hút sách … Nếu Nhà Nước không làm thì ai đứng ra làm ? Bảo vệ môi sinh, môi trường, Nhà Nước có thể làm luật, nhưng ai kiểm soát ?

Chúng ta có thể trả lời : hãy để cho những “Xã hội dân sự cộng đồng” (des sociétés civiles communautaires). “Xã hội dân sự cộng đồng” là những Hiệp hội, hội đoàn có ý kiến trên một vấn đề đặc biệt: Hội gia đình, Hội bảo vệ các người già, Hội bảo vệ phụ nữ chống tệ nạn bị hành hung, Hội bảo vệ trẻ con … Nhà nước và các Tư doanh không thể lo được. Những hội đoàn ấy tạo sự kiểm soát và đi dần đến quản lý.

Định nghĩa những hội đoàn ấy là “Tương trợ”, “Tự nguyện”, “ Bất vụ lợi”, “Hội tương tế ”
(Solidarité, volontariat, bénévolat, partage, mutualité).
Dĩ nhiên xã hội không thể đòi hỏi những “quý tánh ” ấy. Xã hội phải có những khu vực thương doanh (đa số) và phải có những kiểm soát chế tài pháp lý (càng ít càng tốt).

Chúng tôi nghĩ rằng con người, tức là những công dân và những đoàn thể công dân có thể thay thế Nhà nước điều hành tốt xã hội.

Tạm Kết :

Bài học Phá Lệ của Tân Tổng Thống còn dài dài. Hôm nay chỉ là những ngày đầu của Vương Triều Macron. Chiều qua sau khi bổ nhiệm Thủ Tướng, Ông bay qua Đức để o bế Bà Hoàng Angela Merkel. Cuộc tình mới Pháp-Đức bắt đầu, nồng thắm, đấy hứa hẹn : nào sẽ tổ chức lại một Liên Âu hữa hiệu hơn : một quy trình làm việc mới, nào một lô cải tổ sẽ, và sẽ…và sẽ. Hứa hẹn, hứa hẹn và hứa hẹn ! Lời hứa chỉ đúng với người cả tin – La promesse ne vaut à celui qui croit thôi !


Hôm nay, thứ sáu 19 tháng 5, nội các đã được thành lập. Ba sắc thái đòi hỏi của Tổng thống đã được một phần nào trả lời… Ngon lành tương lai sẽ trả lời. Hôm nay, như thông điệp ngắn của tân Thủ tướng gởi cho toàn bộ nội các sau khi thông báo nội các xong : « Au travail ! » - Bắt tay vào việc đi !

(còn tiếp)

Hồi Nhơn Sơn, tháng năm nhiều thay đổi.
Phan Văn Song
 

No comments:

Post a Comment