Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 6 June 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 471

Monday, June 5, 2017


TUỆ CHƯƠNG * NGÀY TẾT ĐƯỢC THA

  


 NGÀY TẾT ĐƯỢC THA
TUỆ CHƯƠNG   

Trẻ Tạo hóa đành hanh quá ngán Chết đuối người trên cạn mà chơi!
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Mấy hôm nay trong trại anh em tù nhân bàn tán xôn xao vì sắp tới tết ta Tết đến, hoặc "Ba ngày lễ lớn", thế nào cũng có một số người được "tha ra khỏi trại cải tạo". ...
... Thời gian cải tạo, nhìn chung toàn bộ số người trong trại, ai ai cũng tròm trèm 5 năm rồi. Có lẽ đó cũng là một cái mốc án tù nào đấy để hy vọng được về. 
Người ta chỉ đoán vậy thôi chứ tù ở đây chẳng ai có án, chỉ là "tập trung cải tạo", "lao động tốt, học tập tốt" thì được thạ "Cách mạng" nói như thế là cách nói lửng lơ, chẳng ai biết thế nào là tốt; cứ không trốn trại, "an tâm học tập cải tạo", còn lao động tốt là cuốc đất làm rẫy hết mình, không "chây lười lao động", còn ngày về thì có "cách mạng lo". Toàn là những mỹ từ, hay nói cho đúng hơn là bánh vẽ, cứ thế mà chờ. Hễ tới các dịp lễ tết, "ba ngày nễ nớn" - tiếng thường nhại theo "cán bộ" Bắc kỳ - người ta lại hy vọng được thạ Cấp bậc càng nhỏ, trung sĩ, thượng sĩ, thiếu úy v.v... thì hy vọng nhiều hơn trung úy, đại úy. 
Nghĩ tới ngày về, Tăng đâm lọ Về đâu hè?!
Tăng vào "rờ sẹc" (recherche) hồi 18 tuổi, hồi đó là làm mật thám cho Tây, hay còn gọi là "Công an Liên Bang" mà "xếp xòng" là cò Xuân. Trình diện ông ta xong, nhận cây súng, Tăng lận vào lưng quần, phủ cái áo "sơ mi" cụt tay ra ngoài, cố làm sao cho nó hơi cộm một chút để "giựt le" chơi. Tăng cũng bắt chước "đàn anh", vào quán vịt quay ở Chợ Cũ, cố vói tay chỉ con vịt treo cao để lòi cây súng dắt bên hông, cho chú Ba thấy, chú sợ. 
Tăng nhởn nhơ sống, cưới vợ, bồ bịch, ly dị, rồi lại cưới, rồi ly dị, khi Tăng đã 40 tuổi, cưới vợ lần thứ ba, cô dâu chỉ mới 20. Đúng là "Khi anh hai mươi, em mới sinh ra đời..."" Từ "rờ sẹc", sau gọi là Công An, rồi Cảnh Sát Công An... Bao nhiêu lần đổi tên đổi họ như thế, cuối cùng, trước khi CS chiếm miền Nam, Tăng mang "loon" thiếu úy, nhân viên Phòng Tư Pháp một quận Cảnh Sát ở Saigon và sau ngày 30 tháng tư, trình diện, đóng tiền đi ở tù theo lệnh của "cách mạng". 
Khi Tăng vào trại cải tạo rồi, cửa nhà tan nát. Vợ Tăng lấy một "ông cán bộ", vai vế lắm, con gái Tăng cũng đi lấy chồng xa. Hai đứa con trai của hai bà vợ trước, nghe người ta nói là đã vượt biên cùng gia đình -tức là mẹ, bố ghẻ và con cái của họ. Nói là nghe nói, bởi vì từ khi ly dị với các bà ấy, Tăng chẳng bao giờ thăm hỏi mẹ con họ, chẳng bao giờ gởi cho chút tiền bạc cấp dưỡng... 
Đời Tăng, kể từ khi lớn lên, đi làm, chẳng bao giờ khổ. Vật giá Saigon hồi xưa rẻ lắm, đồng lương của Tăng dư xài. Khi vật giá lên, lương cũng lên. Khi mọi thứ leo thang quá, thì nhờ lâu năm, "sống lâu ra lão làng", nhờ kinh nghiệm trong ngành, Tăng qua làm phòng Tư Pháp, làm nhân viên thôi, nhưng nhân viên mới thật là khỏe. 'Đương đơn", ở đất Saigon này, từ hồi dân di cư vào đông, kinh tế phát triển nhiều, thì bao giờ cũng rất quen việc, trên dưới đâu đó ơn nghĩa đàng hoàng. 
Đùng một cái, Tăng đi ở tù, mọi sự sụp đổ hết. Bây giờ Tăng mới thấm thía câu nói của ông Thiệu: "Đất nước mất, mất tất cả". Ngày trước, nghe câu đó, Tăng cho là chỉ hù thiên hạ. Mấy chả nói chính trị, hơi đâu mà nghe, cái việc "mất đất nước", dễ không, làm sao có được! 
Dĩ nhiên Tăng đau khổ. Hai năm đầu trong trại cải tạo, Tăng ở chung với mấy ông "Đại úy Tuyên úy". Từ lâu, Tăng chẳng gần gũi với tôn giáo nên chẳng ưa gì mấy ông tuyên úy. Tăng cho rằng "mấy chả đi tu còn ưa đeo loon". Vậy thôi. Chùa, nhà thờ, Tăng có lai vãng, nhất là thời gian mấy năm "mấy ông tu hành làm chính trị" cũng chỉ vì công tác thượng cấp giao phó. Điều tra mấy ông tu hành này khi họ bị bắt, cũng như điều tra đám sinh viên biểu tình, Tăng thấy phiền, chẳng có "xơ múi" gì mà mấy chả thì ăn nói ngang phè, chướng tai. Thường thì Tăng tránh né, để thượng cấp giao cho người khác. 
Bây giờ, sống chung với mấy ông tuyên úy, nghe ông nói chuyện đạo, Tăng cũng thấy hay hay, nhất là sau khi "cửa nhà tan nát". Dù Tăng chẳng hiểu sâu sắc gì về kinh kệ, Tăng cũng thấm nhuần đôi chút "sắc sắc không không". Tăng thấy đời Tăng thôi thế cũng đủ rồi, chẳng mong gì thêm. Thật ra, Tăng hiểu có muốn thêm cũng chẳng được. Thời của mình, thế là qua rồi, bây giờ là thời của người tạ Người ta từ ngoài kia vô đây, cầm súng mấy chục năm rồi, tốn hao biết bao nhiêu xương máu, nay mới có được chừng ấy, sức mấy mà người ta chịu nhả miếng ăn ra mà hòng tranh giành với họ. CS, quanh thế giới, từ ngày họ có mặt đến giờ, chỉ có tới mà không có lùi. Chịu thua đi cho xong. Với lại, kinh nghiệm mấy chục năm trong nghề, Tăng thấy rõ, ai có quyền là người đó hơn. 
Quyền là cây súng trong tay. Ngày hôm trước, chưa vô "rờ sẹc", chẳng ai coi Tăng là cái gì. Vậy mà ngày hôm sau, nhận việc rồi, cây súng dắt vào lưng quần, thấy chỗ thắt lưng của Tăng cồm cộm, người ta đâm ra sợ Tăng. Đời là vậy đó.
Tự do, Dân chủ là cái quái quỉ gì đâu, giả hiệu cả!
Với lại cuộc sống trong Nam dễ dãi quá, cuộc sống Saigon cũng dễ dãi quá, đời Tăng cũng không có gì sóng gió, tới tháng thì lãnh lương, tới năm thì người ta "đè cổ ra" mà móc "loon", Tăng chẳng chạy chọt, xin xỏ.
Thậm chí việc vợ con, ưng thì lấy, chán vợ thì có bồ, vợ rầy rà thì ly dị cho khỏe. Cuộc đời cứ thế mà trôi đi, chẳng có gì vướng bận cả.. .


Bây giờ vào tù, Tăng mới thấy cái trăm ngàn khó khăn hiện ra, nhưng mà đời, như ông tuyên úy nói "sắc sắc không không". Cái có rồi sẽ mất, cái mất rồi sẽ có. Tăng, như mấy ông tuyên úy nhận xét khi Tăng tâm sự chuyện nhà với họ, đã có một đời nhởn nhơ sung sướng trong khi đất nước chịu cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn 30 năm, bao nhiêu người chết chóc khốn khổ, nay Tăng có chết, cũng là thường tình. Không trả trước thì trả sau. Vay trả trả vay. Mấy ông tu hành nói vậy mà hay.


Mới tháng trước đây, Trần Hứa Sơ, chung đội với Tăng, sáng sớm xuống nhà bếp xin nước sôi, buồn tình đâm đầu vào lò củi đang cháy rần rần, may người ta thấy kịp, kéo ra, đưa xuống trạm xá, cấp cứu, thành ra chỉ cháy mấy mảng tóc, chỗ cháy thành sẹo, không có tóc, trông như con chó vá. Ngu thiệt! Vợ bỏ đi vượt biên với bồ - bồ cũng là bạn thân của Sơ - thì cho chúng nó đi một duộc với nhau -quân lừa thầy phản bạn- quân trốn chúa lộn chồng- có gì mà tiếc để đến nổi phải đâm đầu vào lửa, mang cái đầu chó vá, ngu thiệt là ngu! Tăng rủa thầm. Năm ngoái, cũng thằng Lịch, nghe tín vợ bỏ, đang làm đội mộc, lấy đinh đóng vào đầu. Anh em người ta khiêng ngay vào trạm xá cứu chữa, cũng tai qua nạn khỏi.
Ngoài kia, ngoài hàng rào trại tù, là đời thường, là Tự do, Hạnh phúc... Người ta nghĩ thế. Và một điều gì đó xảy ra, bất như ý, có nghĩa là làm cho người ta cho rằng hạnh phúc đó không còn nữa, tự do đó không còn nữa, thì người ta đâm ra tuyệt vọng, rồi tự tử. 


Tăng thì chẳng có ý niệm gì xa xôi hơn thế, nhưng Tăng cho rằng, ngoài kia, ngoài hàng rào trại tù kia, Tăng chẳng có gì cả. Hạnh phúc đã không mà tự do cũng không. Hạnh phúc, như Tăng thấy trong đời y, căn bản là tiền, cũng như "Mác" nói, kinh tế là hạ tầng cơ sở vậy thôi. Còn tự do, không có tiền thì chỉ có tự tử hay tự do làm nô lệ cho người tạ Tiền, Tăng nghĩ là y đã hết thời.
Hết cây súng trong tay là hết tiền. Ngoài cái nghề y đã làm mấy chục năm, từ hồi còn trẻ, tháng tháng lãnh lương, lâu lâu có tư lợi, Tăng chẳng quen với bất cứ một nghề nào khác. Huống chi Tăng đã già, sức khỏe không còn. Thằng Chiêu, thằng Ngọ, thằng Nẫm... bao nhiêu thằng ở chung trại với Tăng, được tha hồi năm ngoái, năm kia, chỉ làm cho "đội ngũ dân biểu" (1) càng thêm đông mà thôi, chẳng anh nào làm nghề gì khác, có muốn làm cũng không làm được. 
Gia đình tan nát, vợ không còn, con không còn, cha mẹ không còn, không còn ai hết, hạnh phúc, tự do cũng không còn.
Vậy thì Tăng về làm gì?! Nghĩ tới ngày về, Tăng băn khoăn, lo lắng. Về? Về đâu? Về với ai? Ở nhà ai? Nếu một ngày kia, "cách mạng khoan hồng", cho Tăng thoát khỏi "tù trong" ra "tù ngoài" thì Tăng nhận cái lệnh tha để làm gì. Ra "tù ngoài", có nghĩa là Tăng phải tự lo lấy cái ăn, cái mặc mà Tăng thì đã quen với cuộc sống chính phủ lo cho Tăng hết rồi. Chưa bao giờ Tăng tính toán, lời lỗ mà thành ra tiền. Tăng không quen buôn bán bao giờ. Tăng chỉ quen tháng tháng lãnh lương. Bây giờ, nếu ra "tù ngoài" mọi thứ phải tự lo cho mình, Tăng thấy nhiều khó khăn. 
Hơn thế nữa, Tăng không nhà không cửa không vợ không con, không bà con bạn bè, nhất là bạn bè, Tăng thấy cô đơn. Dù sao ở đây cũng có bạn, người thân kẻ sơ, chuyện trò với nhau. Về Saigon, đông mấy triệu dân, cả tháng, chưa chắc gặp được ai quen để chuyện trò. Về? Về đâu? Nhà đâu? Ở với ai? Không lý Tăng chui sống ở gầm cầu. Ở đó, toàn là ăn mày và đám tội phạm, những thứ trước kia mỗi khi Tăng gọi lên điều tra thường run rẩy, sợ hãi trước mặt Tăng. Tăng về ở chung với họ sao?! Vậy thì về làm gì?! Tăng lo, nhưng để bụng, không nói với ai. Nếu "cách mạng" cho về mà không về, thế nào tụi nó cũng cười cho thúi đầu. Thế rồi Tăng có lệnh tha thiệt. 
Chiều hôm qua, đi lao động về, anh em đã xôn xao lắm. Mấy người quen với "cán bộ", được họ tiết lộ cho biết tên vài người đã có danh sách về. Tăng lại lo hơn. Chẳng ai để ý đến Tăng. Tăng không phải là "đối tượng" để anh em theo dõi kỳ này có tên Tăng hay không.
Tăng cũng chẳng nhờ cậy ai hỏi thăm giùm có tên hay không. Tăng sợ chuyện đó xảy ra cho Tăng thì Tăng còn hỏi thăm hỏi lom làm gì. Sáng nay, kẻng đánh tập trung ngoài sân trại để gọi đi lao động như thường lệ thì "thượng sĩ Thắng", "cán bộ giáo dục" cầm xấp giấy vào, xăm xăm đi thẳng vào chỗ phía trước mặt các đội tập trung. Thấy thế, anh em ồ lên một tiếng, biết là có lệnh tha, rồi chuyện vãn, gọi nhau ơi ới, xôn xao. Tăng ngồi im.


Khi "cán bộ" Thắng gọi tới tên Tăng, y uể oải đứng lên, buồn rầu quay gót vào "láng", treo "gô" (2) vào cột giường, lên chỗ nằm, nằm im, bất động.
Sau khi các đội đi hết rồi, "cán bộ" Lâm vào từng "láng" gọi các người đưọc tha tập trung ngoài sân để được đưa lên văn phòng "ban" lập thủ tục ra về. Tăng vẫn nằm im. 
Thấy Tăng, "cán bộ" Lâm gọi:
- "Anh Tăng, sao còn "lằm" đó, thay áo quần nhanh "nên" ra "nàm" việc với "ban"."
Tăng ngập ngừng:
- "Thưa... thưa cán bộ, tui... tui không muốn về, cán bộ cho tui ở lại đây."
"Cán bộ" Lâm chưng hững:
"Anh 'lói' gì kỳ thế. "Cách mạng" khoan hồng, cho anh về, sum họp với gia đình. Thế "nà" xung xướng "nắm", tại sao anh không về?!""
Thưa "cán bộ", tui còn ai nữa mà về. Gia đình tui chẳng còn ai nữa hết. Vợ tui đi lấy chồng, con tui đi lấy chồng, chẳng còn ai, chẳng còn nhà cửa chi hết, biết về đâu mà về." -Tăng cố gắng nói một hơi cho hết ý muốn nói. 
Cán bộ" Lâm xẳng giọng:
Đó "nà" chuyện của anh. Bây giờ "cách mạng khoan hồng" cho anh về "nà" anh phải về. Anh không thể cãi "nệnh" cách mạng được."
Tui không cãi lệnh. Nhưng mà "cách mạng khoan hồng" cho tui về thì "cách mạng" cũng nên xét hoàn cảnh tui mà "khoan hồng" cho tui ở lại. Đó là tình thiệt. Tui còn ai đâu mà về." Thôi, không "lói" "nôi" thôi. Tôi bận việc, đưa mấy anh kia "nên" "ban". Anh không về sẽ có biện pháp." -"Cán bộ" Lâm giận dữ.
Biện pháp gì?" -Tăng cũng nổi sùng- "Ở tù thì tui cũng đang ở tù đây rồi, chỉ chờ có đem bắn mà thôi. Bắn tui, càng khỏe, tui ưng chết quách cho rồi, cho xong nợ đời. Ở tù đây cũng chỉ là "tha tội chết, bắt tội sống thôi"." (3) 
Nghe Tăng nói liều, mấy ông già quét phòng cũng phì cười!
Mười phút sau, hai ba "cán bộ" cùng vào, đi ngay lại chỗ Tăng. Tăng ngồi dậy. "Cán bộ" Thắng vẻ quan trọng:
- "Thế "lào"? "Cách mạng khoan hồng" cho anh, anh từ chối hả? Anh không tuân "nệnh" "cách mạng" hả?"
-"Thưa "cán bộ" -Tăng từ tốn nói- "Tui không từ chối, tui không chống lệnh. Chẳng qua hoàn cảnh gia đình tui, sau khi tui đi cải tạo, đổi khác rồi, vợ tui lấy chồng rồi, con tui lấy chồng rồi, nhà cửa không còn, tui biết về đâu? Dzậy nên tui xin ở lại đây để... "phục vụ cách mạng".
"Cán bộ" Thắng xẳng giọng:
- "Chẳng ai cần anh. Các anh "nà" người phản "cách mạng", ở tù, "lay" được tha, thế "nà" khoan hồng "nắm" rồi đấy, không thì có mà "dũ tù", biết không? Thế mà con ngoan cố, chống "nệnh". Anh phải ra "ban" ngay, nhận giấy tờ mà về."
Tăng cố nhịn. Một lúc lâu, y nói:
- "Tui có theo "cách mạng" hồi nào đâu mà nói tui phản? Tui đã nói rồi, tui không về được, tui không có chỗ mà về, vợ tui lấy chồng rồi, chồng bả là "cán bộ" làm lớn. Tui về sao được? Tui về, ông "cán bộ" sợ tui giành vợ lui, ông bỏ tù tui. Vậy tui đừng về là hơn."


-Tăng cố lý luận.
- "Anh "lói" bậy. -"Cán bộ" Thắng nói- Ngày trước, anh có tiền, anh có quyền, anh ép buộc người ta "nấy" anh. Từ chối anh cũng không được. "Lay" nhờ "cách mạng", phụ "lữ" được giải phóng, thế "nà" tốt. Còn "cán bộ" "lào" mà "nấy" vợ anh, bỏ tù anh được. Tù anh "nà" chỉ có "cách mạng" mà thôi."
- "Cán bộ" là "cách mạng", "cách mạng" là "cán bộ" chớ còn ai vô đây. Tui hỏi, "cán bộ" vô đây, nói chuyện với tui, nhắm bộ không phải "cán bộ" là "cách mạng" sao?"
"Cán bộ" Thắng giận dữ:
-"Tôi không muốn anh "lói" nhiều. Yêu cầu anh về. "Lếu" anh không tuân "nệnh", chúng tôi có biện pháp.
Xong, họ đi ra. 
Trưa hôm đó, cả trại lại xôn xao về việc Tăng không chịu về. Thôi thì người ta bàn tán lung tung. Tăng ít khi chuyện trò với ai nên chẳng ai biết rõ hoàn cảnh của y để "tham mưu". Có điều, chuyển về trại này thế là gần 4 năm, chẳng bao giờ Tăng được gọi thăm nuôi. Tăng an phận với cái y có: Khoai, sắn, bobo, chủ nhật được chén cơm, lâu lâu gặp "ba ngày lễ lớn", "quốc khánh", Tết ta, có thêm chút thịt "ruồi tha" -ý anh em nói đùa miếng thịt nhỏ quá, ruồi có thể tha mất- Tăng âm thầm "cải thiện": nắm rau muống mọc hoang bên hồ, nắm rau trai dưới suối v.v... mỗi khi có dịp.
Với Tăng, Tăng hy vọng ngày nào đó, Tăng xuống đội "cấp dưỡng". "Giàu nhà kho, no nhà bếp". Ở đó suốt đời cũng chẳng sao. 
Chiều hôm đó, khi các đội lại đi lao động, "cán bộ" lại xuống làm việc với Tăng. Tử tế với Tăng thì Tăng tử tế, hung dữ với Tăng thì Tăng hung dữ lại. Mấy ông già quét phòng thấy vậy, cười với nhau:
- "Dân Nam bộ mà, dân Saigon mà. "Chơi" thì "chơi" với.
Chọc thằng chả nổi nóng, chả chưởi thề tùm lum, làm gì được nhau! Không lý không về mà cho vô "cát-xô"?" Tình trạng kéo dài được ba hôm. Tới buổi sáng ngày thứ ba, "cán bộ" Thắng dẫn theo mấy "cán bộ" bảo vệ xuống, ban đầu, ôn tồn với Tăng:
- "Nguyện vọng anh, "ban" đã trình về bộ "Lội vụ 2". Trên không bằng "nòng" cho anh ở "nại". Yêu cầu anh chuẩn bị về. Các anh kia, người ta về hết rồi."
- "Họ về kệ họ, ai có hoàn cảnh nấy, mắc mớ chi tui. 
Họ còn vợ còn con, họ không "hy sinh", còn tui, tui không còn ai, tui "hy sinh" được. Tui ở lại đây ngày nào là tui "phục vụ cách mạng" ngày nấy. Tui lao động mà, tui có "ngồi mát ăn bát vàng" đâu?"
- "Nhưng "cách mạng" không cần anh. "Cách mạng" biểu anh về, anh phải về, tức "nà" "phục vụ cách mạng" đấy."
Thượng sĩ Thắng cố nén tức.
- "Cán bộ" nói mắc cười không. Tui về, tui "phục vụ" tui chưa xong, có đâu "phục vụ cách mạng" được?" -Tăng cố cãi.
- "Anh không được ngoan cố. Thượng sĩ Thắng gằn giọng. Anh phải rời khỏi trại ngay."
Nói xong, Thượng sĩ Thắng ra hiệu cho hai "cán bộ bảo vệ". Hai người này đứng hai bên, xóc nách Tăng kéo đi.
Ban đầu Tăng cố trì lại, nhưng hai "cán bộ bảo vệ" xiết cánh tay Tăng đau quá, Tăng nổi sùng, la to:
- "Đ. Mẹ, làm gì dzữ dzậy?! Cứ thủng thẳng để tui đi, tay tui gần muốn lọi ra rồi nè!"


Một "cán bộ bảo vệ" nói gần như nạt Tăng:
- "Chửi thề hả? Vào "cát xô" đấy."
Tăng cũng chẳng sợ:
- "Vào thì vào, tui đâu có ngán. Giờ "cán bộ" muốn tui về hay muốn tui ở lại? "Cán bộ" muốn tống tui đi cho nhanh. Tui biết quá mà!"
Nói rồi, Tăng thờ thẩn đi giữa hai người công an. Thượng sĩ Thắng gọi người giữ phòng lục đồ đạc của Tăng, xách theo.

*


Tăng ôm cái bị bàng đựng quần áo ra chợ Gia Rây, với 30 đồng được trại phát, Tăng lên xe lam ra ngã ba ông Đồn. Tăng đứng tần ngần ở đó, tay cầm hơn 20 đồng còn lại, không biết đi hướng nào. Còn mấy ngày nữa là Tết rồi. Ngày thường còn chưa biết sống đâu, nói chi Tết. Y nhìn dọc theo quốc lộ, ra hướng Bắc, bỗng trong trí y hiện ra lờ mờ tấm ảnh mà y từng được coi nhiều lần trong trại cải tạo: Hình lăng "bác Hồ vĩ đại" có cờ đỏ cắm trên nóc cao.
Tăng thở dài, nhìn về hướng Nam, y thấy xa xa, có trụ sở xã hay gì đó, cũng có cây cờ đỏ đang bay lất phất. Tăng sực nhớ "đất nước thống nhất" đã mấy năm nay rồi, cờ xanh đỏ "mặt trận" ngày y đi "cải tạo" bị vứt vào góc tủ rồi, chỉ còn cờ đỏ sao vàng thôi. Tăng bỗng nghe sau lưng y, phía chân núi Chứa chan, tiếng còi tàu xe lửa hú lên dằng dặc một hồi dài. "Hay mình nằm dài trên đường xe lửa, xe chạy qua cái ào, thế là xong", Tăng nhủ thầm.
"Nhưng biết đâu tới khi tàu sắp chạy qua thì mình lại hốt hoảng nhãy ra khỏi đường rầy". Ý nghĩ đó làm Tăng buồn cười mà y cũng không thể cười được
Worcester, cuối thu Đinh Sửu.
tuệ chương
(Sự kiện là có thật, chi tiết do tác giả hư cấu).
Ghi chú:
(1) Đội ngũ dân biểu: Tiếng gọi đùa những người đạp xe xích lô, người "dân biểu" đạp đi đâu thì đi đó.
(2) "Gô": hộp đựng sữa Guigoz bằng nhôm, không sét, xài bền, "cải tạo" thường dùng để nấu, đựng thức ăn.
(3) Câu "cải tạo" mỉa mai mỗi khi nghe CS nói "khoan hồng"


LÊ THỊ HOÀNG ANH * XẾP VÀO KỶ NIỆM



XẾP VÀO KỶ NIỆM 
 LÊ THỊ HOÀNG ANH  

Thúy đang loay hoay xếp lại chồng sách báo ngổn ngang trên giường thì nàng nghe tiếng con trai gọi:
- Mẹ ơi! Con làm bài toán đố này không được, Mẹ chỉ cho con đi Mẹ! - Ừ, chờ Mẹ một chút. Cầm quyển vở của con lên tay, chỉ đọc thoáng qua, Thúy không khỏi cau mày khó chịu khi thấy lối tuyên truyền rẻ tiền của các cấp lãnh đạo ngay cả trong việc giáo dục trẻ con: " Trong một trận đánh, ngày đầu quân ta anh hùng giết được 4 tên lính Ngụy. Ngày thứ hai, giết thêm được 8 tên. Ngày thứ ba, giết được 2 tên. Vậy ba ngày đánh giặc, chiến sĩ ta diệt được bao nhiêu tên lính Ngụy cả thảy?". Thúy thừ người suy nghĩ. Bé Kiệt thấy Mẹ im lặng quá lâu, nó tựa đầu vào bắp vế Mẹ, hỏi khẽ: - Bộ khó quá, Mẹ cũng không làm được hả mẹ?

 Thúy cười buồn vì nàng cũng không biết phải giải thích thế nào với con. Từ biến động Bẩy Lăm, chồng đã theo gia đình di tản,Thúy và hai con còn kẹt lại, lòng Thúy đã nhen nhúm ý nghĩ táo bạo là sẽ tìm đường để dẫn hai con vượt biên; giờ đây thêm một vấn đề con của mình với một trí óc non nớt đang bị đầu độc bởi những tư tưởng hèn hạ thế này thì chuyện lìa bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn mà thôi! Nàng chỉ giúp con bằng cách bảo nó viết ngắn gọn:4 + 8 +2 = 14 và cố tình né đi chữ "Lính Ngụy" mà nàng biết chắc con mình khi nộp bài lên cho "giáo viên" chấm sẽ không đạt được điểm cao. Những đêm thức trắng, ngồi suy nghĩ đủ phương cách hầu kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt biên, cứ mỗi ngày nghe tên một người quen ra đi, có người thoát, có người bị bắt lại, có người thì chưa nghe tin gì cả, tức là coi như mất tích, Thúy như ngồi trên lửa. Phương cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ phí, ngày càng đi vào ngõ cụt!

 Vào một đêm thanh vắng, Thúy đang vặn nho nhỏ chiếc radio cassette để lén nghe những lời ca ngọt ngào của những ca sĩ đã thoát ra nước ngoài mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt máy, nhét vội cái "đài" xuống gầm giường. Tiếng gõ cửa lớn hơn. Nàng lên tiếng: - Ai đó? - Tui đây! Mở cửa cho tui "dô" rồi nói "chiện"! - Nhưng bà là ai? - Tui là A Múi! - A Múi là ai, tui đâu có quen! - Chời ơi! Mở cửa đi mà! Có tin dui! Thúy yên tâm, mở hé cửa ra nhìn. Một bà xẩm không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây mầu nâu, bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi: - Cô có phải là Lê Thị Thúy không? - Dạ, đúng! Mời bà vào nhà. Có gì không bà? - Có phải cô có hai thằng "con chai"? Thúy nghi ngờ: - Có gì nói lẹ lên, hỏi như điều tra, nghe ghê quá! - Mà có đúng hông đã? - Thì đúng! - Ờ, cô có người "dà" đưa "dàng" cho cô đây nè! À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi!

Thúy lặng người, bán tín, bán nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè dặt: - Thẻ chứng minh của tôi làm rồi mà công an phường chưa phát, chỉ có giấy tạm đây thôi. - Ờ thì giấy đó cũng được. Đưa cho tui coi có đúng tên thì tui mới giao "dàng" chớ! Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn, mặc dù lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm. - Không! Tôi không nhận đâu! vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi? - Chời ơi! "dàng" mà chê! Nè, ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà? Giọng của bà ta thay đổi tiếng Bà thay cho tiếng Cô, Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi hộp vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem.

Nàng không quên đưa ta chỉ hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như ngầm cho biết về gia đình của mình. - Đó! Hai thằng con của tôi! Bà xẩm rút trong cái bao vải lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới giao cho Thúy: - Nè, đếm cho đủ đi, mười tám cây tất cả! Thúy run run đón nhận, đặt xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên tiếng: - Mở "da" coi cho kỹ đi, tui đưa toàn "dàng" tốt không đó! Thúy lặng người một lúc mới đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà đưa cho Thúy quyển sổ và bảo Thúy: - Ký "dận" vô đây đi! - Viết gì bây giờ hả Dì? - Thì ký tên nói mình "dận" đủ mười tám cây!

Thúy răm rắp làm theo. Bà ta thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy mới hoảng hốt: - Mời Dì uống miếng nước rồi đi! Bà ta lắc đầu từ giã, vội vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình. Áp bao vàng vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai con dậy để nói cho chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình. Nàng thì thầm với chồng ở nơi xa xôi mịt mùng nào đó:" Bất chấp sống hay chết giữa biển khơi, em nhất định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe anh!" Cuối tháng ba 1979, Thúy theo lời chỉ điểm của một người bạn thân nàng móc mối được với một chuyến đi và tin chắc sẽ tới bến một cách an toàn - Đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà nước tổ chức.

Ngày hẹn giao nộp vàng, người anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy trang trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và để vài miếng cá kho nằm trên mặt cơm. Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có thể nàng chỉ cần một người nào đó thét lên một câu "Có gì khai thật đi" là nàng sẽ phun ra tất cả không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng cũng im lặng, không nói không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi nhà. Đêm cuối, nàng và hai con tá túc trong nhà người anh để sáng hôm sau ra đi cho được an toàn. Lòng Thúy buồn rười rượi, nàng cứ cầm tay cha già áp lên má mình mà nước mắt tuôn ra, không nói được một lời từ giã vì anh nàng đã dặn:" Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm cẩm nói lại với chòm xóm là chết cả lũ đó!" Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng trên đất Sài Gòn, nhưng Thúy không tài nào chợp mắt được.

Hai mắt nàng cứ mở thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn vào, Thúy nhoẻn miệng cười để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long lanh. Thúy tự dặn lòng: "Đến mỹ, bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này ". Ba năm anh đi "cải tạo" về, anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn không tìm được việc làm bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ! Tập trung tại một ngoi chùa Tàu tại Bạc Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ còn gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của đám người Hoa cùng cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước ngoài.

Thúy nghĩ chỉ tới khuya là sẽ được gọi lên xe, ra tầu vì tiền vàng đã đóng cho "chính phủ", ba mẹ con nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của nhà nước thì cầm chắc cái thắng trong tay! Thế mà... Đã bốn tuần trôi qua, tiền cầm theo đi đường của ba mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn Thúy thì ăn bánh mì không xịt xì dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa thiu thiu ngủ thì tiếng la hét ầm ầm cách mùng của ba mẹ con chừng một chiếc chiếu. Đèn bật lên. Một bà xẩm tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào mặt cậu ta bà la bài bài: - Ngộ lang ngủ mà mày dám mò ngộ hả? Một tay bị nắm quá chặt, tay kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói: - Cháu không phải mò bác đâu! Cháu hết tiền rồi định ăn cắp của bác để ăn chờ ngày đi thôi.

Chờ tầu lâu quá cháu hết tiền rồi! Nghe câu giải thích rõ ràng của cậu ta, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên: - Cái lồ chó lẻ! Lụng tới tao lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày! Tiếng cười xen lẫn tiếng thở dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng thanh niên sưng vù lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác không bật cười nổi. Nàng chạnh nghĩ đến mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết xoay sở làm sao? Căn phòng này, mỗi ngày bao nhiêu tấn kịch vui buồn diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ tầu cho biết là được công an báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ " nhà nước " phải tạm ngưng, chờ lệnh mới sẽ cho đi ngay.

Ai cũng hy vọng có tin ra đi đến một cách bất ngờ, nên không người nào dám rời khỏi ngôi chùa, chỉ ra tiệm mua vài món đồ dùng lặt vặt rồi lại về ngay điểm tập chung! Hôm sau, mặt cậu thanh niên sưng mọng lên, cậu vừa mượn được ít tiền của bà sư cô người Hoa để làm lộ phí về lại Sài Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc chắn tiền tầu chàng ta đóng đủ rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên mới yên chí mà cho mượn.

Nhưng định mệnh thật trớ trêu! Ngay đêm ấy đoàn người đi cùng chuyến với mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ đến chỗ mới sẵn sàng lên "con cá lớn ". Tất cả đều vui mừng nhưng không khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh ấy... Ba ngày vật lộn với tử thần vì biển động bất ngờ, mọi người chen chúc ngồi trong tầu, vừa đói, vừa khát...Những cơn sóng dữ...đập vào hông tầu khiến tầu bị nứt một đường nhỏ, nước từ từ chảy vào khiến cả tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau múc nước chuyền lên boong tàu đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh vang lên rì rầm trong hầm tầu nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tầu của Thúy cũng may mắn gặp được tầu của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo nhỏ vô danh.

Đêm đầu tiên kinh hoàng với những lính Mã Lai về việc chúng lục lọi tìm vàng và...tìm gái. Đêm thứ hai, cả hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng nề đến nghẹt cả thở khi những tiếng bước chân của lính Mã nghe xào xạo trong đêm. Bỗng một tiếng thét vang dội cả khu vực. Thì ra một cậu bé bị bò cạp...kẹp! Những ngày đói khát, những đêm hãi hùng khiến ai cũng lơ láo như là bị đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt, đêm thì lạnh buốt xương. Cuối cùng...một dịp tình cờ vì có người đói người đói quá. Trèo lêm trộm dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta đánh liều vẫy tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được tầu vượt biển của Thúy bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội. Chiều đó, một chiếc tầu của Hồng Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám lính Mã chúng mới chịu cho đoàn người khốn khổ rời đảo để vào đảo khác: đảo Pulau Bidong!

Đến đây rồi, mọt người lại trực diện với những kinh hoàng mới: Không có tiền để dựng lều thì không thể nào có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con núp tạm dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn vào những căn lều có giường, ghế đóng bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt lưng! Ngày cũng như đêm, đi đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo của ba mẹ con, đó là gia tài duy nhất của mẹ con Thúy! Đứa con trai lớn đột ngột hỏi mẹ: - Mẹ nói tới đây gặp ba mà sao con chẳng thấy ba? Thúy im lặng vì nàng cũng đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào?

Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam thì chồng nàng còn có địa chỉ nàng để nhờ người đem "quà" đến, Thúy chỉ biết mù mờ rằng chồng "ở Mỹ", không rõ ở đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt lên chờ câu trả lời, Thúy đành phải trả lời bừa đi cho xong: - Thì phải vài ba bữa nữa người ta mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con! Đứa con của Thúy đưa tay lên gãi đầu và càu nhàu: - Sao ai cũng có nhà mà mình không có nhà hả mẹ? Con không muốn ở đây, nắng quá hà! Nhìn tấm lưng trần đen đủi của hai đứa con ốm tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo: - Các con mặc áo vào để che nắng thì bớt nóng! Danh sách tầu của Thúy đã được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận. Lần đầu tiên cả tầu được phát lương thực.

Thúy vui thật sự khi nghe hai đứa con nói với nhau: - Bữa nay mẹ nói mình được ăn no! Đứng dưới cái nắng gay gắt của Mã Lai, hơi nước biển tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ nào, thêm chứng kiến chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần truồng ngớ ngẩn đi lang thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô lều mặc quần áo cho, vài giờ sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết anh ta vượt biển cùng gia đình, khi tàu ra khơi bị ngu phủ Thái Lan giở trò hải tặc xáp vào tàu anh và đàn bà, con gái trên tàu hầu như không thoát khỏi bàn tay hung bạo của chúng.

Trong số đó có vợ anh, có em gái anh! Anh đã chống lại và anh bị chúng ôm ném mạnh vào khoang tầu va đầu quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi thế! Vợ anh, em gái anh bị bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng với trẻ con, trong đó có đứa con nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ có hai người đàn bà xấu số, còn nhiều nữa! Người thanh niên này khi được cứu vớt (cùng với những người khác) thì trở nên...vô hồn, khi thì nhớ, nhớ mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và nước mắt ngập mặt! Anh ta có lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét om xòm! Anh điên rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh không biết mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng mình còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên "Bác Hồ" và hát bài quốc ca của nhạc sĩ Văn Cao " Thề phanh thây xác quân thù..." Qua tuần lễ sau, cũng trong lúc chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai thanh niên gầy gò đang dìu một cô bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau đớn.

Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười ba tuổi, trên đường vượt biển bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên nhau hãm hiếp. Vì cô còn quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng dao xẻ ra cho rộng hỏng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn theo từng bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời ra từng mảnh! Một buổi sáng, Thúy đang dùng sức để kéo hai đứa con lên con dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một ít sữa bột bồi dưỡng cho hai con. Bỗng một trong hai thằng bé hét toáng lên. Thúy hoảng hốt bế thốc nó đến trạm Y Tế.

Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì, thấy mẹ bế thằng anh thì cứ cắm đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, rồi lại lật bật ngồi dậy, đứng lên lảo đảo chạy theo như cái bóng...đến trạm Y Tế. Bác sĩ khám, mới biết: bệnh thòng ruột của nó bị tái phát. Đợi tin chồng từ hy vọng đến tuyệt vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi lá thư nhờ người mang đi khi họ rời đảo với địa chỉ ghi ở Pháp trên họ của người em chồng (cô ta có chồng là người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi ba, câu cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng đã viết trong đau đớn: " Nếu anh đã có gia đình cũng xin cho em biết để em định liệu đời em và hai con - Thúy." Bức thư này Thúy nhờ hội Hồng Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC 3750 dưới họ tên cấp bậc của chồng chớ không với cái địa chỉ tại Pháp. Lá thư viết trên giấy bạc của một gói thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ biển Bidong.

Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc dến nhận thêm một số người di dân gọi là "Hốt Rác" ( tiếng lóng có nghĩa là ai -không -có - thân - nhân, hai chữ hốt rác từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã giải thích nghe rất cảm động:" Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không phải là rác rến! ). Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số người vượt biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy mình chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái đoàn Úc gọi lên phỏng vấn. Chỉ hôm sau là có người tới đón số người nhập cư Úc. Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa (nàng có đi coi bói ở Việt Nam, bà thầy bói nói Thúy có số may, chao ôi!). Điều duy nhất lúc này nằm trong đầu Thúy là làm sao cho hai con lên được một lục địa văn minh, vào một bệnh viện xin chữa bệnh thòng ruột cho thằng con lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo hắt, tiều tụy, trông thương quá là thương.

Nhưng cái thư viết trên tờ giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó và trời ơi...chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc, loa phóng thanh vang dội tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín khẩn! Thúy đâm đầu chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín, mở ra đọc liền: " Em vẫn là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con. Anh sẽ làm thủ tục bảo lãnh gấp ".

Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ phái đoàn Mỹ và Úc, may mắn gặp một người Mỹ biết nói tiếng Việt, người đó chận Thúy lại, hỏi: "Bà cần gì? ". Thúy chìa tờ điện tín và nàng nói, nói thật nhiều, bao nhiêu uẩn khúc trong lòng nàng tuôn ra hết, không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có hiểu hay không... Không lâu sau đó, ba mẹ con Thúy đoàn tụ với chồng, với gia đình chồng thì đúng hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra là người em bà con bên chồng nàng không ở Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn qua Mỹ trước khi thư nàng từ đảo tị nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được phát hoàn, cũng đúng thôi vì phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn.

Đi về phía mặt trời mọc, nhiều khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người tài công chiếc tàu vượt biển đã nói: " Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi tới, tới đâu cũng được, càng xa Việt Nam Xã Hội Chủ NGhĩa càng tốt ". Chiếc tầu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi dòng nước và con sóng. Từ năm 1979 đến nay, 2002, Thúy nhớ lại, giật mình, tưởng mình vừa tỉnh một cơn mơ... Chuyến đi của Thúy có gian nan thật đó, nhưng cũng nhiều may mắm là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến khác, cái may thật ít, cái rủi thì nhiều. Mấy câu thơ của ai làm ra trong thời dân mình bỏ nước, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng:" Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con! "

 Ai cũng hiểu rằng nếu đến vùng đất tự do an lành thì con sẽ giử tiền về để đền ơn công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ, nếu chẳng may gặp phong ba bão táp giữa biển khơi thì xác con làm mồi cho cá. Là nếu bất hạnh hơn cả cái chết là bị công an biên phòng bắt được thì..."Má ơi! Con đang bị tù tội đây, má hãy bán....bán máu để nuôi con!" Những cuộc hành trình trên biển Đông là một niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng muốn quên đi để sống, hôm nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như muôn vàn mũi kim châm vào tim, và Thúy viết - một lần sau cuối rồi vĩnh viễn....và vĩnh viễn nàng xếp vào kỷ niệm. :::

 Lê Thị Hoàng Anh:::

VÕ PHƯỚC HIẾU * NỖI BUỒN HOÀI NIỆM



NỖI BUỒN HOÀI NIỆM

VÕ PHƯỚC HIẾU

Tôi vào năm thứ nhất trường Trung học Trương Vĩnh Ký thường gọi là trường Pétrus Ký, niên khóa đầu tiên khi trường được quân đội viễn chinh Pháp sang tái chiếm Đông Dương sau thế chiến thứ hai, giao hoàn lại chánh quyền Việt Nam. Đó là năm 1947 sau một thời gian trường ăn nhờ ở đậu nơi nhiều cơ sở giáo dục khác như trường Sư Phạm ở cạnh Sở Thú, trường Nữ Trung học Gia Long, chủng viện Mossard, trường Marie Curie…
Chính nơi trường Marie Curie nguy nga đồ sộ nầy, thấp thoáng đó đây nhiều khuôn mặt tây đầm oai vệ với quần áo thẳng thớm phẳng phiu, thằng nhỏ nhà quê là tôi chưa hoàn hồn khi đang ngơ ngác, chới với giữa đô thành tráng lệ, lại ngỡ ngàng âu lo lúc dự thi tuyển vào trường Pétrus Ký. Và cũng trong năm 1947 đó, trường mở lại chế độ nội trú sau nhiều năm gián đoạn vì thời cuộc và chiến tranh.
Một may mắn khác là tôi thuộc thành phần học sinh nội trú này. Chẳng qua nhờ ăn "dưa leo chấm nước cá kèo" nên theo chân "mấy anh học trò nghèo học buộc xi ê". Nhờ ông trời thương vì với lớp nghèo như tôi thi tuyển vào trường Pétrus Ký lúc bấy giờ mà trợt một keo thì cuộc đời kể như đi đứt. Nói theo ngôn ngữ dân gian chân quê của bà con tôi là kể như tôi sụm bà chè luôn. Lý do là tôi đâu còn cơ hội nào nữa để được dự thi lần thứ hai.
Chế độ tuyển chọn thời thực dân thịnh trị vô cùng khắc khe nghiệt ngã. Bao nhiêu nam nữ hiếu học cầu tiến thời đó đã mất hết tuổi thanh xuân mộng mơ của mình và đành chấp nhận định mệnh phải bỏ dở dang việc học hành để tiến thân khi dứt cấp sơ học.
Thực tình cũng nhờ tôi tốt số do nhờ ơn trên và hồng phúc dòng tộc hay sao mà tôi lại đậu có hạng trong kỳ thi tuyển khó khăn đó. Và tôi đương nhiên được ban giám đốc nhà trường chọn vào chế độ nội trú. Một thành quả tôi không hề dám ước mơ nhưng đã là sự thật. Một nỗi mừng không bút mực nào tả được đối với tôi lúc bấy giờ. Không như ở mẫu quốc này hiện nay, gia đình nào không có thu nhập cao, con cái đều được cấp học bổng do chánh sách nâng đỡ và khuyến khích học hành của chánh quyền. Cho dù kết quả của chúng nơi trường ốc có đạt như ý muốn hay không.
Mấy năm ở nội trú, tôi giữ rất nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm đầu đời này khó quên, không sao kể xiết. Chính nơi đây, tôi đã gặp "anh hùng tứ xứ", từ cuối mũi quê hương Bạc Liêu, Cà Mau quanh năm rì rào sóng vỗ đến Tây Ninh ngất nghểu Núi Bà huyền thoại, Biên Hòa bắp ngon bưởi ngọt... từ vùng biển mặn Gò Công, Mỹ Tho đến Hà Tiên với Đông Hồ ấn nguyệt, Thạch Động thôn vân v.v... trong Hà Tiên thập cảnh, Châu Đốc những ngày Vía Bà "ngựa xe như nước, áo quần như nêm"... Toàn là những tay hiếu học say mê cầu tiến.
Trường bãi bỏ hẳn chế độ nội trú khoảng năm 1951 sau đám tang Trần Văn Ơn được tổ chức trong khuôn viên nhà trường với thành phần nồng cốt là học sinh nội trú. Đây là một trong những đám tang lịch sử trọng thể hiếm có sau đám tang vĩ đại của chí sĩ Phan Châu Trinh thuở trước. Từ năm đó trở về sau, trường chỉ nhận duy nhứt học sinh ngoại trú mà thôi.
Gần năm mươi năm tuần tự tiếp nối, kẻ mất người còn, trải qua lắm biến cố biển dâu, đất nước đổi đời. Bao nhiêu bè bạn bằng hữu ngày xưa, nay dở sống dở chết nơi "xứ tù chung thân" Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bao nhiêu tri âm tri kỷ lưu đày nơi xứ lạ, ngậm đắng nuốt cay khắp năm châu, canh cánh trong lòng nỗi hờn ly hương mãi mãi quặn xoáy không nguôi. Tuy nhiên dù hoàn cảnh có oái oăm nghiệt ngã đến thế nào nhưng trong tâm tư tình cảm của chúng tôi vẫn in sâu, đậm nét câu đối chữ Hán do giáo sư Ưng Thiều viết và được khắc trên hai cột trụ đứng hoành tráng ở cổng chánh của trường:
«Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt
Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm».
Lật bật chúng tôi đã trang bị đầy đủ rương hòm để vào nhập học năm thứ nhứt, khởi sự cuộc sống tập đoàn với những sinh hoạt râm rấp theo một nội qui chặt chẽ. Chương trình học giao tiếp giữa hai bậc tiểu học và trung học nhằm giúp đám học sinh "ra ràng" còn non chèo chúng tôi làm quen với nề nếp, phương pháp và nhịp độ sinh hoạt mới của trường ốc. Do vậy, chưa có những gò bó, bức bách khắc khe như mấy năm sau này khi phải chuẩn bị trần thân khổ ải, thi cử trầy vi tróc vảy do chính sách giáo dục của thực dân Pháp.
Họ chủ trương hạn chế nhân tài bản địa vì sợ nguy cơ tiếp xúc nền tảng văn chương văn hóa phóng khoán cùng những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng, bác ái và tự do, dân chủ Tây Phương. Nhưng trong thực tế, họ đành chấp nhận thất bại chua cay. Dù họ có trăm mưu ngàn kế dùng những thủ đoạn và biện pháp độc tài độc đoán thất nhân tâm cách nào đi nữa vẫn không sao thoát khỏi nấm mồ ô nhục, nấm mồ phũ phàng chôn chính chế độ của họ sau thế chiến thứ hai.


Chúng tôi học tà tà. Hằng ngày, đa số chúng tôi mặc bộ đồ bà ba trắng phao được ủi xếp nếp. Giống như dáng vóc các anh công tử bột miệt vườn, chúng tôi đều mang guốc dông nhẹ hêu, lũ năm lũ ba kéo lẹp xẹp đến lớp học, qua dãy hành lang vừa dài hun húc, vừa khoản khoát, lúc nào cũng sạch sẽ lộng gió. Vài đứa thuộc hàng giàu có, con cái các địa chủ lục tỉnh khét tiếng, mang guốc lồng mức rắng chắc, nặng ì, mỗi bước đi nện mạnh xuống sàn gạch nghe lốp cốp lốp cốp như tiếng ngựa phi nơi đại đạo.

Bài vỡ đã ít. Tuy vậy, sáng nào chúng tôi cũng có lệ "ngồi ê tuýt" ôn lại bài học trong ngày hay chuẩn bị chu đáo sách vỡ hoặc dụng cụ cần thiết... trước khi đến lớp. Ngán nhứt là lúc "ngồi ê tuýt" bắt buộc vào buổi tối. Thì giờ quá dư giả, thừa mứa. Không biết phải làm gì. Chập chập chúng tôi cứ nhìn đồng hồ tay, thấy kim đồng hồ dường như ngừng chạy hẳn.
Thật chán phèo! Những lúc ấy, tôi thường hay nhớ lại những ngày tháng dài mài đủng quần ở ghế nhà trường tiểu học tại quận nhà. Nơi đây có quá nhiều thoải mái, tự do nên trong lòng tôi thoáng dậy vu vơ bao nhiêu tiếc nuối ngậm ngùi, phảng phất rất nhiều khuôn mặt bạn bè nối khố nay đã chia tay tản lạc, thằng góc biển, đứa chơn trời mù tăm.
Giờ đây, có đứa học hành xuôi chèo mát mái, đổ đạt thành danh thành tài. Chúng ăn nên làm ra, cuộc đời lên hương như diều gặp những ngày lộng gió, lúc nào cũng ăn trên ngồi trước. Thật tâm mừng cho chúng nó. Và chúng tôi cũng tự hào và hãnh diện chung cho tăm tiếng của nhà trường mẹ nữa.
Nhưng đại đa số còn lại, ngày ngày tất bật bon chen kiếm sống, chắt chiu từng đồng xu cắt bạc mà vẫn chưa yên thân yên phận. Nơi đây, tôi xin được chia xẻ nỗi niềm với những đồng môn bất hạnh này. Từng đứa từng tên cứ mãi ẩn hiện vấn vương trong tôi những lúc bâng quơ ngoái nhìn về dĩ vãng. Mới hay những hình ảnh mất đi bao giờ cũng dễ nhớ và đòng đọng dài lâu trong mỗi con người chúng ta.
Nghĩ đến ngày may mắn gặp lại đám trời đánh, tinh nghịch khuấy phá thuở thiếu thời này thật vô cùng mong manh mà nghe xao xuyến, buồn vô hạn. Đôi khi bên tai tôi lại văng vẳng lời của thầy tôi nơi trường tiểu học, dong dài về huyền sử của dân tộc, về định mệnh của người Việt nam qua truyện kể Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Hai ông bà đã chia tay nhau, mỗi người dẫn dắt năm mươi con theo hai ngả khác nhau. Hai ngả cách ngăn diệu vợi: rừng núi chập chùng và biển cả thẳm sâu. Những lúc đó, tôi trầm ngâm lặng thinh như cúi đầu chấp nhận định mệnh của chính mình!?
Ngồi không khơi khơi nơi phòng «ê tuýt», chúng tôi đâm ra buồn ngủ. Lại không được quyền ngủ. Chỉ còn nước tự cứu rổi lấy mình là ngủ gà ngủ gật một vài thoáng ngắn ngũi chờ tiếng chuông reo giải thoát cuối giờ. Vì đây là giờ học bắt buộc mà!
Các thầy giám thị rất dễ thương. Thầy Nguyễn Văn Tình, thầy Thân, thầy Xáng, thầy Trương Minh Ứng, thầy Hồ Văn Trị, thầy Nguyễn Gia Tốn, "papa" Lê Văn Khiêm v.v... thỉnh thoảng hò hét cầm chừng để áp đặt trật tự phòng ốc. Hoặc phân xử những vụ kiện cáo lặt vặt không đâu đâu giữa chúng tôi.

Những lúc này được nghe hai bên nguyên cáo và bị cáo cãi qua cãi lại theo kiểu móc họng, giành phần thắng về mình. Thêm mấy đứa nhân chứng lứng khứng, làm nhưn làm nhụy, nhập nhầy lải nhải trước sau bất nhứt, không ra hồn. Rồi những lời phán quyết hàng hai, huề cả làng, làm đẹp lòng tất cả của các thầy là dịp cứu tinh qua giờ giấc.
Có đêm, ông Motais de Narbonne, Tổng Giám thị người Pháp cuối cùng của trường, bách bộ hóng mát xa xa bên ngoài phòng học để nhắc nhở sự hiện diện dù chiếu lệ của ông. Lúc ấy, ông đã lụm khụm, đi đứng chậm chạp khó khăn, thêm móm xọm, sắp về hưu.
Càng về khuya càng buồn ngủ hơn. Hai mí mắt mỏng tanh, nhẹ bong cứ kéo xụp xuống nặng nề, dù chúng tôi cố nhướng cách mấy cũng không sao hé mắt được. Thỉnh thoảng, các thầy gõ thước cốp cốp rồi gọi từng tên cảnh cáo, nhắc nhở phải học bài làm bài hoặc khuyên đọc sách trao dồi kiến thức.
Lớp học lại trở nên im thin thít. Từng chập từng chập, chúng tôi nghe mấy con tắc kè sống lâu năm, to thân lớn xác, thường thập thò ở cửa chánh hướng vào "đọt toa", kêu lên những tiếng nặng nề ngắt khoảng, trầm buồn khôn tả. Những lúc ấy, tôi cảm thấy trong lòng mình dấy lên nỗi nhớ nhà nhớ quê, nhớ mái chùa xưa cong cong rong rêu, nhớ vòm me cổ thụ xum xuê, nhớ đình nhớ miễu um tùm rập rạp… Những nơi tôi từng nghe phát ra lạnh lùng tiếng những con tắc kè thân quen hằng đêm.
Ngồi học nhưng chúng tôi canh giờ. Tai lắng nghe bác lao công giè thân quen xách thùng nước trà Huế nóng đổ vào hũ da bò lớn kê bên ngoài, phía sau lớp. Thế là chúng tôi nối đuôi nhau, hết đứa này đến đứa khác, xin thầy giám thị trực đêm cho phép đi lấy nước uống. Nước trà nóng giúp tỉnh táo trở lại không mấy hồi như có phép tiên vậy.
Hơn nữa, ra được ngoài sân là một cơ hội ngàn vàng, trông chờ đỏ con mắt. Có gió mát trong lành thoang thoảng mơn trớn. Có sao trời lấp lánh nên thơ quyến rủ. Có trăng non lơ lửng đồng tình...
Tha hồ cho chúng tôi ở nán lại đấu chuyện tào lao, vội vàng hấp tấp. Khốn nỗi đôi lúc chúng tôi bị níu kéo nán lại. Vì có thằng dốt đặc cán mai cũng tập tành con cà con kê, dong dài vẽ viên những câu chuyện Chị Hằng Chú Cuội, dặm mắm thêm muối cho lâm ly lôi cuốn rồi cao hứng chúng nó lang bang vào cõi mơ hồ, nào chòm sao Đại Hùng Tiểu Hùng, nào sao vua Xử Nữ v.v... Làm như chúng nó sành sõi, thông hiểu rành rọt về khoa thiên văn địa lý vậy. Nhưng thực tình bây giờ nhớ lại lúc đó chúng nó xạo hết chỗ nói, nhưng xạo có căn cơ, gốc ngọn, nghe cũng bùi tai. Nhờ vậy chúng tôi vốn mù tịt nhưng được một cái là tỉnh táo trở lại.
Một số bạn khác lén trốn ở các dãy bàn chót để đánh cờ tướng, cờ chó, cờ ăn ừ chờ giờ. Việc này không thoát được đôi mắt rất tinh của các thầy. Nhưng các thầy cũng thương tình thông cảm, giả điếc giả mù làm ngơ. Miễn sao chúng tôi giữ yên lặng để đứa nào muốn học hành có đầy đủ điều kiện tối thiểu, sẽ không phàn nàn hay khiếu nại gởi thưa.
Nay các thầy chắc đã nằm xuống thảnh thơi toại nguyện nơi lòng đất mẹ ấm tình ruột thịt, tâm thần thanh thản vì đã làm tròn trách nhiệm một kiếp người. Vì lúc ấy các thầy cũng đã trọng tuổi, trừ thầy Nguyễn Gia Tốn hãy còn trẻ măng, chỉ lớn hơn chúng tôi chắc chưa tròn một kỷ.
Sau này, đến 30/04/1975, chúng tôi vẫn thường gặp thầy trên "chiếc xe mẫu" bốn bánh, do chính thầy vẽ kiểu và thực hiện, có lấp máy nổ. Thầy làm phương tiện di chuyển trong thành phố, trông không giống ai nhưng lúc nào cũng lôi kéo người tò mò, quến kẻ hiếu kỳ. Kể ra thầy rất có khiếu sáng chế, tiếc thay "sanh lầm thế kỷ" nên không gặp thời để cải tiến thêm và thương mãi hóa sáng kiến của mình. Các thầy không còn nữa nhưng hình ảnh các thầy vẫn đậm nét và sống mãi trong lòng tôi.
Nhưng kỷ niệm có ảnh hưởng lớn đối với tôi có lẽ là phong trào đọc tiểu thuyết ở nội trú. Gia đình tôi ở xa thành phố, không phải cuối tuần nào hay ngày lễ nào cũng về thăm nhà được. Tài chánh có giới hạn, chỉ dành cho những chi tiêu tối cần cho việc học hành thi cử. Phương tiện di chuyển thời ấy hãy còn nhiêu khê, phôi thai và quá đắt.
Vẫn những chiếc xe điện cũ kỹ nối liền Sài Gòn Chợ Lớn theo đại lộ Galliéni sau này là Trần Hưng Đạo và đường Marins tức Thủy Binh hay Đồng Khánh ở Chợ Lớn... Chúng vẫn giữ một nhịp độ bất di bất dịch từ năm này sang tháng nọ, cứ cà rịt cà tang với những tiếng chuông báo động leng keng leng keng, đêm đêm nẹt điện xèn xẹt sáng ngời, chớp tắt không nguôi.
Vẫn những chuyến xe lửa Mỹ Tho Sài Gòn đen ngòm, nặng nề, chạy bằng củi thay vì than đá do thời buổi nhiễu nhương khan hiếm nguyên liệu. Lắm khi lên dốc cầu Phú Lâm, chúng phải phải thụt tới thụt lui đôi lần ba lượt để lấy trớn từ xa. Có khi mãi tận Mũi Tàu, An Dưỡng Địa An Lạc, tức khoảng xa cảng Miền Tây bây giờ. Những lúc đó, lũ nhỏ chúng tôi tha hồ đánh đeo theo các toa xe, mặc tình đùa giỡn nói cười thỏa thích.
Thêm vào đó, còn cảnh tượng khách đi xe đông như kiến, bám đeo đầy các cửa lên xuống, cả trên mui xe rất nguy hiểm. Bỗng nhiên tôi lại nhớ hình ảnh bác gác cổng già nơi ga xe lửa Phú Lâm hấp tấp thổi mấy hơi còi dài để báo động trước khi bác cẩn thận kéo hai cổng tre sơn trắng đỏ đều khoản, xuống nhằm chận xe cộ và bộ hành qua lại.
Vẫn những chiếc xe thổ mộ lụp cụp leng keng, leng keng lụp cụp với mấy con ngựa có tuổi ốm nhôm, chạy đi chạy về không biết bao nhiêu lượt trong ngày. Chung qui các chuyến xe đã làm nên một thời đó đều bắt đầu và được đợi chờ ở hai bến ga xe lửa Sài Gòn và Chợ Lớn Mới, Chợ Lớn Cũ. Mấy chú ngựa uể oải lúc cuối đời này, phóng uế bừa bãi, rải rác ngay giữa lòng đường. Dù vậy, bà con vẫn quen mắt từ bao đời rồi nên chẳng có một phản ứng nào cả.
Vả lại, mỗi lần về thăm nhà do phương tiện di chuyển vốn trắc trở đã đành mà còn tốn kém lắm đối với hạng học sinh có tiêu chuẩn "dưa leo, cá kèo". Tiền cha mẹ cho bỏ túi mang theo không đáng giá là bao nhưng là cả một hy sinh lớn lao của một đời người.
Chồng làm quần quật trên đồng không mông quạnh, quanh năm thách thức gió mưa sương nắng. Vợ thì lam lũ ngày nắng ngày mưa, đội trên đầu hay gánh gồng oằn vai băng qua những cây cầu khỉ khập khểnh hay đường làng quanh co trơn ướt, nào là rau khoai, cây trái vườn nhà đem bán ở chợ xa.
Chúng tôi thường ở lại trường vào mỗi cuối tuần. Cả một vài tháng hay gặp lễ lớn mới có hy vọng về thăm nhà. Số học sinh nội trú bất hạnh này tương đối không đông mấy vì có những bạn may mắn tốt số hơn, nhờ kiếp trước khéo tu, lánh dữ làm lành sao đó nên bây giờ được bà con quen biết ở thành phố hay những vùng phụ cận bảo lãnh đi phép ngày thứ bảy hay chủ nhật. Sáng chúng đi trọn ngày, tối về trường trước giờ đóng cửa "đọt toa".
Thời gian rổi rảnh của chúng tôi trong hai ngày cuối tuần dài thăm thẳm, buồn thúi ruột thúi gan. Bạn bè ở lại trường thường quá ít nên quang cảnh thêm trống vắng hắt hiu. Tuy trời nắng tốt với màu xanh rộn rả thắm tươi mà sao cảnh vật đối với chúng tôi trông quá nhạt nhòa thểu não. Mới hay "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!" (Nguyễn Du).
Chép bài hộ các anh lớn, vốn tiện tặn từng giờ từng phút mài miệt chuẩn bị ngày đêm để thi "bắc on", "bắc đơ" riết cũng chán. Chúng tôi cứ lần lữa hứa cuội, cười trừ, khất tiều khất quảng kéo dài mãi khiến các anh tới lui thúc hối như đi đòi nợ ngày nợ tháng không bằng. Đôi khi các anh buông những lời chê trách cho rằng chúng tôi làm ăn chậm lụt như lục bình trôi, còn hơn ba ba lội biển.
Chúng tôi chỉ có cách đọc sách để tiêu khiển. Thường là tiểu thuyết Pháp hoặc Việt mới giết hết thì giờ. Dọc sách ở nội trú là một cái thú tuyệt vời. Nhứt là vào khoảng mười giờ ruỡi mười một giờ, chúng tôi vừa đọc sách vừa run đùi nhâm nhi loại cơm cháy chảo đụn. Các chú các bác phụ trách ẩm thực sâm soi vàng hườm, dòn rụm, còn tráng lên một lớp mỡ thịt heo kho tàu óng ánh, thêm lởm chởm hành hương xắt nhỏ, thơm ngon lạ lùng.
Sau này, rời trường lưu lạc khắp nẻo đường quê hương, lăn lóc bập bũm trong những hoàn cảnh trái ngược nhau, rồi đến hôm nay ly hương bất đắc dĩ, lặn hụp nơi xứ lạ quê người từ mấy mươi năm qua, tôi vẫn còn tiêng tiếc cái thuở “vàng son” của một đời người này. Vì chẳng cách nào tôi tìm lại được hương vị qua ư đặc thù xa xưa ấy nữa.
Sách Pháp không ngoài những tác giả chúng tôi mua ở nhà sách Khai Trí hoặc Văn Đàn ở Chợ Cũ Sài Gòn những khi đi phép hiếm hoi cuối tuần. Đại khái như các tác giả Alphonse Daudet, George Sand, René Chateaubriand, Alexandre Dumas, Victor Hugo, Hector Malot, Pierre Loti và... giáo sư Phạm Duy Khiêm với tác phẩm "Les Contes en Terre Sereine" mà các thầy dạy Pháp văn như thầy Phan Quốc Quân, thầy Lê Văn Phước, thầy Hồ Văn Kỳ Trân, thầy Nguyễn Văn Thơ, thầy Huỳnh Văn Hai, thầy Lê Chí Thiệp v.v... thường khuyến khích khuyên bảo chúng tôi cố tìm đọc.


Riêng tiểu thuyết Việt thì nhiều, nhiều lắm. Thị trường chữ nghĩa tiếng Mẹ đang phát triển mạnh mẽ và tràn ngập lúc bây giờ. Hầu như hằng tuần nào cũng đều có những tựa sách mới với kỹ thuật in ấn trình bày ngày càng cải tiến hấp dẫn. Dù sao, sách Việt cũng dễ đọc, dễ hiểu, không phải lôi thôi tra cứu tự điển, mất thì giờ và mất cả hứng thú.
Chúng tôi dành dụm, chầm khíu đồng lặn đồng mọc, hạn chế tối đa chi xài lặt vặt không cần thiết để có tiền mua sách. Mua được cuốn nào là chúng tôi trao đổi, chuyền tay nhau đọc. Đôi khi còn tranh giành đọc trước đọc sau như tôm tươi không bằng.

Lúc này, “toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến” nên phong trào yêu nước bừng lên mãnh liệt, sục sôi khắp mọi nơi. Các tầng lớp công dân trẻ già trai gái hạ quyết tâm hy sinh, chung một lòng kháng chiến chống Pháp xâm lăng sau thế chiến thứ hai. Từ thành phố chí đến thôn làng hẻo lánh đều vang dội những bước quân hành. Những bản hùng ca đánh động lương tâm của Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ thời cách mạng tháng Tám vẫn còn âm hưởng quẩn quanh đâu đây.
Chiều chiều, ở những giờ giải trí, các anh lớn tụ tập hòa đàn những bản Thanh Niên Hành Khúc, Việt Nam Mến Yêu, Lên Đường, An Phú Đông... lôi cuốn, quến lũ chúng tôi bu quanh rất đông đảo. Rồi động lòng sanh hứng, chúng tôi cùng nhảy vào tham gia nhưng chỉ biết vỗ ghế đập bàn ầm ầm theo nhịp hát hồn nhiên muốn vỡ cả lồng ngực.
Thời đó, ở Sài Gòn, hầu hết báo chí thống nhứt hằng ngày đồng thanh lên tiếng tỏ rõ lập trường dứt khoát chống lại nhựt báo phân ly Phục Hưng của nhà báo Hiền Sĩ, người chủ trương đòi Nam Kỳ tự trị theo đúng sách lược của thực dân. Và cây bút móc lò nổi tiếng lúc bấy giờ ký dưới bút hiệu Nam Quốc Cang, tức ký giả Nguyễn Văn Sinh, trong mục "Trớ Trêu", ví von đã kích không nương tay những tên thực dân giàu sụ. Bọn này cố bám níu quyền lợi mong manh còn sót lại. Đặc biệt là nhóm "Tam B" chọc trời khuấy nước: Béziat, Bazé và Bonvicini.
Trong khi đó, các văn nghệ sĩ ở thành hầu hết đều hướng nhìn về phía chiến khu hoặc có thiện cảm với kháng chiến. Những đề tài sáng tác của họ xoáy quanh giai đoạn lịch sử ấy nhằm khích động bấu nhiệt huyết tuổi trẻ và lương tri độc giả, thúc giục họ đứng lên "chống xâm lăng", đấu tranh giành độc lập, tự do, dân chủ cho nước nhà. Về sau nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Sâm gọi giai đoạn này là "Phong trào Văn chương Kháng chiến Nam Bộ".
Nhiều tựa tiểu thuyết đến nay vẫn in dấu sâu đậm trong trí nhớ tôi như Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, Nửa Bồ Xương Khô của Vũ Anh Khanh, Trên Đường Nhiệm Vụ, Những Tia Nắng Mới của Đặng Thị Thanh Phương, Kòn Trô, Sương Gió Biên Thùy của Lý Văn Sâm, Manh Áo Ngự Hàn, Người Chiến Binh Bạt Mệnh của Nguyễn Đạt Thịnh, Tình và Nghĩa Vụ, Lá Cờ Hồng Thập của Nhất Tâm, Bên Mồ, Hận Người Tử Sĩ của Hoàng Kim...
Ngao Châu dịch Đường Lên Cõi Bắc trong khi ký giả nhà văn Việt Quang đi xa hơn với Xin Đắp Mặt Tôi Mảnh Lụa Hồng. Lụa hồng ở đây có ý nghĩa gì? Chẳng qua là lá cờ đỏ của Cộng sản được tác giả tô vẽ phai nhạt bớt để qua mặt kiểm duyệt lúc bấy giờ.
Chưa kể những tác giả khác như Trần Thanh Mại (Ngô Vương Quyền), Dương Tử Giang (Duyên hay Nợ), Sơn Khanh (tức cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc trong chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ), Liên Chớp, Bùi Nam Tử, Võ Hòa Khanh, Tô Nguyệt Đình... Tôi nghĩ rằng một số anh em chúng tôi đã thực sự chịu ảnh hưởng của những tiểu thuyết đấu tranh này, hầu hết do nhà xuất bản Tân Việt in ấn và phát hành rộng rãi ở thành phố.
Vì chịu một phần ảnh hưởng ấy nên một số không nhỏ thanh niên nặng lòng yêu nước đã từ bỏ thành phố hoa lệ đi vào chiến khu với ước mơ trong sáng đem đến chiến thắng vinh quang nhanh chóng cho dân tộc, cho tổ quốc. Nhưng thảm thương thay, đa phần đều vỡ mộng, không tìm được lối thoát.
Một số nhắm mắt buông xuôi theo định mệnh để bảo toàn mạng sống rồi từng bước bị lôi cuốn vào guồng máy hận thù chém giết, đấu tranh giai cấp của cộng sản để thân bại danh liệt về sau. Một số khác kiên cường bất khuất với tâm niệm hướng thượng, vì quê hương dân tộc, vì tổ quốc trên hết nên bị Việt minh Cộng sản thanh toán, bức tử giữa lúc tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống yêu đời.
Trường hợp nhà văn tên tuổi Vũ Anh Khanh là một điển hình đến nay vẫn chưa phai nhòa trong ký ức tập thể của toàn dân Miền Nam. Anh đã vượt tuyến và bị bộ đội biên phòng bắn chết nơi sông Bến Hải, xác bị bọn chúng dập vùi đâu đó bên bờ sông?
Duy chỉ một số may mắn hơn, vượt thoát được gọng kềm quá ư khắc nghiệt và tàn nhẫn của cộng sản. Họ bất chấp hiểm nguy, quyết tâm trở về vùng đất tự do và bị chúng với ác tâm cố hữu gán cho hai chữ Việt gian nhục nhã chỉ vì không chấp nhận chủ trương và đường lối độc tài đảng trị của chúng.
Khoảng năm 1958/59, tôi có giữ một chức vụ nho nhỏ trong guồng máy chánh quyền Đệ Nhứt Cộng Hòa và có cơ hội hướng dẫn một phái đoàn nhân viên đi khảo sát Côn Đảo. Tôi lưu lại đây tròn một tháng vì thời bấy giờ mỗi tháng chỉ có một chuyến tàu duy nhứt xuất phát từ Bến Bạch Đằng để tiếp tế cho đảo. Lúc này Thiếu tá Bạch Văn Bốn làm tỉnh trưởng Côn Sơn.
Tôi được dịp thăm viếng hầu như tất cả các trại giam, cả khám biệt lập mà một thời báo chí thiên tả trong nước cũng như giới truyền thông quốc tế ác ý đồng thanh gọi là “chuồng cọp” với những mô tả thiếu khách quan. Tôi cũng có thăm khám tử hình và nơi đây tôi có gặp nhà văn nhà chánh trị Hồ Hữu Tường, ký giả Văn Lang Trần Văn Ân, chủ nhân sáng lập báo Đời Mới nổi tiếng một thời, rồi những đàn em của tướng lưu vong Bình Xuyên Lê Văn Viễn như Tư Cốc, Tiểu Lý Quảng, Chín F.M v.v...
Một nỗi buồn dấy lên trong tôi lúc đó khi trông thấy một số khuôn mặt bạn bè chung lớp hoặc biết mặt biết tên trong những năm chung sống vui vẻ dưới mái trường Pétrus Ký đang trong vòng lao lý nơi các trại giam khổ sai, ngày ngày đi đốn củi hoặc lao động nặng. Tôi suy nghĩ có thể một số nào đó vẫn còn trung thành với giấc mơ không tưởng của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Nhưng tuyệt đại đa số khó mà chọn lựa một lối thoát thân do sự kềm kẹp rúng ép của các chi bộ đảng nhà tù.
Thuở đó, chánh sách của chánh quyền Miền Nam là mở rộng vòng tay đón nhận những người phía bên kia thành tâm trở về với chính nghĩa quốc gia. Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn có tổ chức một khu riêng biệt cho những người hồi tâm hối cải này. Họ được tự do thoải mái, sống chung đụng nhau và nơi khu này tôi còn nhớ có cả quán xá bán đầy đủ cà phê, hủ tiếu, thuốc lá cùng những dụng cụ cần thiết v.v...
Có nhiều người ngày ngày được cho ra sinh hoạt ngoài phạm vi của khu và chỉ trở lại đây để ngủ đêm. Cho nên anh em tù nhân gọi khu này là “thiên đường” để đối lại với các trại khổ sai hay cấm cố là “địa ngục”. Chính nơi “địa ngục” này, biết bao thanh niên trong đó có không ít bè bạn đồng song của tôi đã vĩnh viễn từ giã cõi đời, mang xuống tuyền đài giấc mơ dang dở.
Trong giai đoạn đó, tôi có cơ may và cũng chắc do định mệnh sắp sẵng là rất say mê đọc các tác phẩm bất hủ về nông thôn đồng ruộng quê mùa của nhà văn đặc sệt Miền Nam, Phi Vân. Có lẽ do gốc gác tôi chân quê, sinh trưởng và lớn lên trên thửa ruộng vồng khoai, sông nước bát ngát, quanh năm bà con tôi cày sâu cuốc bẩm, gắn bó với lũy tre xóm làng nên dễ cảm thông và cảm nhận chăng?
Tác phẩm của Phi Vân không lớn lao đồ sộ, không như đối với các tiểu thuyết gia dấn thân đương thời. Ông chỉ trình làng suốt cuộc đời khá dài cầm bút của ông, dăm ba cuốn nhưng với ngần đó cũng đủ để tên tuổi ông sáng chói trên văn đàn bấy giờ.
Những cuốn Đồng Quê (Phóng sự), Tình Quê (Truyện dài), Cô Gái Quê (Truyện ngắn), Dân Quê (Truyện dài), trước đây tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Và lần nào cũng đầy hứng khởi say mê. Và càng say mê hứng khởi hơn từ những ngày sống ly hương, xa quê hương cội nguồn.
Tôi say mê thích thú đọc Phi Vân ở những giờ "ê tuýt" ban đêm đã đành mà ngay ở giờ giấc được tự do giải trí nữa. Đôi khi tôi quên lững tiếng chuông reo báo hiệu chuẩn bị đi ăn cơm chiều. Hoặc lúc lên "đọt toa", khi bốn bề đã yên lặng, tôi vẫn liên tục lén đọc nốt chương sách lở dở dưới ánh đèn xanh xao, mờ mờ ảo ảo, vừa đủ để phân biệt từng chữ một.
Phi Vân đã gợi trong lòng tôi cảnh đồng quê tươi đẹp rất đặc thù của Miền Nam thuở thanh bình xa xưa, thời "tiền cách mạng", qua những tập hợp phóng sự sống động trong Đồng Quê. Có thể nói trong các tác phẩm của ông, tôi tâm đắc nhất quyển này.
Tác giả đã dùng ngòi bút tài tình linh hoạt, quyến rủ lôi cuốn tôi qua những sinh hoạt quen thuộc của đời sống hằng ngày nơi thôn dã, chất chứa tình tự và tình yêu. Bao nhiêu phong tục tập quán, lề lối hành xử tình nghĩa cân phân giữa nhau, bao nhiêu tín ngưỡng hun hút một thời đã được ông mô tả nổi bậc qua hình ảnh chân quê rất dễ thương của những thầy pháp, thầy bùa, của các đám hỏi, lễ cưới...
Rồi nào là câu hát huê tình trên sông rạch rẻ nhánh chia dòng, điệu hò đối đáp bắt trả quyện nhau tuyệt vời qua khúc quanh thời đại mang đầy tính chất thơ mộng lãng mạn như ca tài tử với giọng ngân nga não nuột theo tiếng đờn ai oán réo rắc... Đến những hiện tượng đặc biệt của thời đại ông nay không còn nghe nhắc nhở nữa để nhạt nhòa trong dĩ vãng như trộm cướp trên sông rạch, như bối có tổ chức v.v...
Bàng bạc qua những dòng chữ, những trang giấy vừa mới rọc cạnh lướt dưới mắt hằng đêm trước khi ngủ, tôi hân hoan bắt gặp những bong hình ngày xưa, những sinh hoạt năm cũ. Tôi nghe tâm hồn lâng lâng xao xuyến, rộn rả ngập tràn một tình cảm luyến lưu trên nền xanh tinh anh dịu dàng, mênh mong bất tận của quê hương mình. Một quê hương ngàn đời tươi đẹp. Một quê hương muôn thuở diễm tuyệt mà tôi vừa đành lòng rời bỏ trong tiếc nuối nhớ thương, khi phải dặt chân đến ngôi trường Pétrus Ký, tiếng tăm vào bậc nhứt Miền Nam.
Đối với tôi, qua tác phẩm Đồng Quê, Phi Vân quả đã thành công vẽ lên một cách truyền thần bức tranh xã hội đất Nam Kỳ Lục Tỉnh trước biến cố lịch sử 1945: mùa thu sơn hà nguy biến. Một bức họa đầy màu sắc thắm tươi với những đường nét điêu luyện độc đáo ấy từ lâu đã tan biến trong hun húc của dĩ vãng.
Nhưng điều quan trọng hơn hết đối với cá nhân tôi là Phi Vân đã gieo trong tôi những khúc chiết thắm thiết, những kỳ bí thôi thúc, những âm vang ngân nga của tình yêu quê hương chơn chất, đậm đà bất diệt. Vì lẽ đó, tôi xin đặc biệt có đôi dòng hoài niệm mà cũng để tạ ơn người cho trọn tình và phải đạo của một độc giả trung thành và của một bạn vong niên sau này.
Vốn là người rặc nòi Miền Nam, sanh quán ở cuối mũi quê hương, vùng Bặc Liêu/Cà Mau, thừa hưởng một truyền thống xuề xòa dễ dãi, cởi mở thứ tha, sống dung dị giản đơn, quý khách, chuộng bạn bè, quấn quít cột chặt vào đồng ruộng đất nước Miền Nam nên khi phải chỉ trích đả phá một số hủ tục nào đó, Phi Vân đắn đo nâng niu ngòi bút. Ông cân phân từng chữ từng câu, bài xích rất nhẹ nhàng, vừa chọn lựa đủ lời đủ ý, không dư không thiếu, vừa cợt đùa dí dỏm dễ thương.
Chính cái tính xây dựng, chung sống hài hòa giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vạn vật, chính cái ý hướng trong sáng gieo rắt niềm vui thanh thản nơi những người chung quanh, khiến ông tin tưởng ở việc tốt điều lành trong tình yêu, trong việc xử thế có ta có người, biết mình biết người, có trước có sau. Do vậy, ông chọn dứt khoát một thái độ đứng đắn xuất phát từ tình yêu thương chân thật, mộc mạc tinh tuyền của người dân tiêu biểu vùng quê nghèo Miền Nam.
Ông có một vốn sống quá phong phú vì trong thời thanh xuân bay nhảy, tiếu ngạo giang hồ, đã từng lăn lóc nhiều ngõ ngách xóm thôn nơi vùng sông nước bạt ngàn của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, nhứt là ở vùng cuối mũi quê hương, nơi chôn nhau cắt rún của ông. Từ đó, những kỷ niệm sống động được lắng đọng, chắt chiu trong sâu thẳm của trí nhớ để được ông sàng lọc, chọn lựa kỹ lưỡng, đúc kết thành những cốt truyện quyến rủ lôi cuốn.
Ngay trong các tác phẩm kế tiếp như Tình Quê, Dân Quê sáng tác trong thời kỳ kháng chiến với nhu cầu tâm lý bức bách đánh động lương tâm và lương tri con người, vực dậy lòng yêu nước của mọi công dân có trách nhiệm, ông đắn đo đề cập những tình tiết, trạng huống mới cho phù hợp với trào lưu sôi động lúc bấy giờ nhưng vẫn trung thành với những réo gọi, câu thúc nội tâm của thuở ban đầu. Ông vẫn lấy bối cảnh thôn quê hữu tình của Miền Nam làm khung để những trạng huống tình tiết ấy được triển khai và diễn tiến chan chứa tình người.
Tôi có cảm tưởng như ông có sẵn trong huyết quản mình duyên tình thắm thiết với đất đai làng xóm, với bản quán xã thôn, với hương đồng vị đất thoang thoảng không ngưng trên quê hương ông. Tôi cũng có cảm tưởng như ông có nợ nần níu kéo trói buột, keo sơn gắn bó với thôn xa xóm gần, với ruộng rẫy kinh mương, với những người khuất mày khuất mặt mà vong linh lãng đãng quanh quẩn đó đây. Cái duyên tình và nợ nần đó đã được ông thăng hoa trong các tác phẩm bất hủ của ông vậy.
Khác với một số lớn cây viết đồng thời với ông trong thời kỳ dầu sôi lửa bỏng sau bao nhiêu thập niên dài bị đô hộ vừa tiếp cận cao trào quật khởi đấu tranh, đường lối sáng tác của ông không vượt ngoài những nét sâu đậm của cá tính Miền Nam. Những cá tính truyền thống nơi thôn quê căn đày kiếp đọa nhưng chân chất thật thà, thực tế như củ khoai hòn đất, như con cá con cua, không vọng tưởng mơ mơ hồ hồ xa vời, không mù quáng quá khích nông nổi.
Tôi vẫn tin rằng trong ý hướng, ông đả kích để xây dựng. Ông chỉ trích để hợp tác. Ông đề xuất góp ý để cuộc sống chung thêm hài hòa dễ chịu hơn.
Nếu như ông có đặt thành vấn đề về "sự chuyển mình" của nông dân trong thời kỳ bị điền chủ phú hào và giới chức quyền địa phương toa rập cậy thế, đàn áp bóc lột, bức bách những người thế cô ngắn cổ, ông cũng cố gắng bóp méo thành tròn, giảm thiểu những gốc cạnh dị biệt. Ông nuôi dưỡng ý hướng xóa lấp bớt lằn ranh ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giảm thiểu cái hố phân chia giữa chức dịch hội tề và người dân bình thường.
Tôi không biết mình có chủ quan trong nhận xét hay không? Nhưng công bằng mà nói, ông lấy sự rộng lượng bao dung, hỉ xả thứ tha làm khuôn vàng thước ngọc nhằm tạo cảm thông hiểu biết giữa nhau. Ông đề xướng cổ võ sự đoàn kết cần thiết trong tinh thần trong sáng có trách nhiệm, có tình thương, rốt ráo trong hai chữ "tình người".


Cái hay và cái nét đặc thù của Phi Vân theo tôi là ở chỗ đó.

Ở chỗ tiếp nối truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lấy tình nghĩa thủy chung, lấy cảm thông nhân hậu xóa bỏ tranh chấp hận thù giai cấp.
Ở chỗ ông không chủ trương cuồng tính loại trừ hoặc tận diệt một ai hay một giai từng nào trong xã hội trên cái chéo quê hương thơ mộng mỹ miều của ông. Nơi này tình nghĩa bà con, lâng bang lối xóm cột chặt vào nhau như cá với nước, không thể tách rời được. Cũng tại nơi này, ông ao ước mỗi người trên mảnh đất chung đụng hiền hòa ấy đều có một chỗ đứng trang trọng, xứng đáng. Mỗi người có bổn phận đồng hành, vui vẻ góp bàn tay cần cù lam lũ để tích cực đem mồ hôi công sức xây dựng hạnh phúc của tập thể, của cộng đồng.
Ở chỗ ông không thiển cận, không câu nệ, không hề hẹp hòi đào sâu thêm hố chia rẻ giữa nhau, làm suy yếu tiềm năng sản xuất, phục vụ cộng đồng, phục vụ nhân sinh. Ông tránh làm vấy bẩn màu xanh tươi thắm và dịu dàng của quê hương ông.
Nếu ông có đề cập đến "sự trổi dậy" tất nhiên của từng lớp người kham khổ bất hạnh, suốt đời bám đất bám làng, sống dung dị với chéo mạ vuông vườn để lập nghiệp tiến thân, nếu ông có đề cập đến những xung đột giữa chủ và tá điền nhưng vẫn không đến nổi quyết liệt phải loại trừ, khống chế, tận diệt nhau. Vì lẽ đó, sau ngày cộng sản hiếu chiến miền Bắc đã cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam bằng súng đạn hận thù, chúng đã không nương tay, từng phát biểu rất nghiêm khắc khi phê bình những tác phẩm một thời vang danh của Phi Vân.
Bọn “đỉnh cao trí tuệ” có “ba tăng” của đảng cho rằng tác giả Phi Vân đề cập "sự trổi dậy" đó của nông dân trong Liên Minh Công Nông, từng bị bốc lột tận xương tủy một cách đột phá, bọc phát. Việc mà cộng sản, vốn có manh tâm và ý đồ cướp công cướp của của người khác, không thể nào và không bao giờ chấp nhận và tha thứ được.
Vì tác giả không hề nói đến hoặc cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo "thần thánh", “bách chiến bách thắng” của Đảng Lao Động, thối thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lý do biện giải của chúng là trước đó, Đảng cộng sản đã được thành lập từ lâu (1930) và đã thực sự lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh trên toàn quốc (sic).
Theo họ, nơi Phi Vân có sự nhân nhượng trầm trọng. Ngòi bút của Phi Vân cố tình ngừng lại ở quan điểm “tạch tạch xè” cố hữu của tuổi thanh xuân chập choạng thiếu lãnh đạo. Tác giả thiếu hẳn lập trường giai cấp dứt khoát cùng chiến đấu tính cương trì.
Và sự đấu tranh trổi dậy của nông dân đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo tầm nhìn của Phi Vân thiếu hẳn tính chất hận thù thâm căn cố đế, thiếu hẳn thái độ sắt máu quyết liệt như của những năm đấu tố dã man cường hào ác bá, địa chủ phú nông trong chiến dịch cải cách ruộng đất dã man, đẫm máu và nước mắt ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tức thời kỳ chuẩn bị phát động chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tôi nghĩ điều này, tác giả không bao giờ và chẳng bao giờ nghĩ đến trong quá trình xây dựng và sáng tác. Lý do nó đi ngược lại cảm thức và nguyện vọng trong sáng của dân tộc. Nó đi ngược với lương tâm và sứ mạng cao cả của người cầm bút chân chính.
Phi Vân đã nhắc nhớ tình yêu thôn làng bất diệt để bám rễ ăn sâu vào tình cảm và tâm khảm tôi trải dài từ bao nhiêu thập niên qua. Quê hương ngàn đời dấu yêu. Quê hương bao dung chan chứa tình người. Quê hương trường tồn. Quê hương trên hết.
Một tình cờ đến với tôi. Vì tôi không hề ước mơ mà đã thành sự thật. Từ sự kính trọng và ngưỡng mộ thuở thiếu thời đối với tác giả, hai mươi mấy năm sau, tôi có dịp chủ trương một nhà
xuất bản nho nhỏ thuộc loại cò con, có tính cách thủ công gia đình, đẩy đưa tôi gặp tác giả tại tòa soạn nhật báo Cấp Tiến. Tờ báo của hai cố giáo sư khả kính Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy, cơ quan ngôn luận chánh thức của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Nơi này, ông làm việc phụ trách trang nhứt.
Trong giới truyền thông báo chí chuyên nghiệp ở Miền Nam tự do, ông được đồng nghiệp đánh giá là một trong hàng ký giả cao thủ thuộc lớp đàn anh già giặn kinh nghiệm. Ông có tài chọn tin và "đi tít" đập mạnh ngay vào nhãn quan của độc giả. Họ so sánh ông ngang hàng với những bậc làm báo vang danh đã làm nên một thời như: Nguyễn Kỳ Nam, Trần Tấn Quốc, Nguyễn Duy Hinh, Việt Quang, Nguyễn Kiên Giang... nếu chỉ kể những người cầm bút gốc gác Miền Nam như ông.
Nhật báo Cấp Tiến vốn thối thân của nhật báo Bình Minh của ông bầu vui tánh Võ Văn Ứng, bút hiệu Võ Bình Sơn, chủ nhân nhà hàng Nam Đô ở gốc đường Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Thái Học. Các bạn ghiền bóng tròn trước năm 1975 không thể nào quên được hình ảnh bệ vệ của vị Chủ Tịch Tổng Cuộc Bóng Tròn Nam Việt quý mến và hào sãng ấy trên khán đài danh dự, mỗi khi có những cuộc tranh tài quan trọng hay quốc tế ở sân cỏ Vườn Ông Thượng hay Vận động trường Cộng Hòa sau này.
Không dè lần gặp gỡ tình cờ đó lại là khởi điểm cho một đoạn đường dài hợp tác giữa hai anh em chúng tôi. Chính tôi đã mấy lần trang trọng in lại quyển Đồng Quê, một tác phẩm đạt nhiều cảm tình và thương mến của độc giả trong nước trước ngày Miền Nam bị bức tử. Vì sách được liên tiếp tái bản trước sau hơn mười lần nếu tôi không lầm.
Mấy năm trước đây, tôi có thấy tái bản ở Hoa Kỳ, bày bán khắp nơi ở hải ngoại. Và gần đây, do sự đòi hỏi và khát khao chánh đáng của độc giả trong nước luôn luôn hướng về căn cơ cội nguồn, cộng sản phải cho tái bản qua khuôn khổ bỏ túi.
Từ dạo đó, giữa tôi và Phi Vân có mối giao tình đậm đà kéo dài đến khi tôi vượt biên ngày 5 tháng 6 năm 1979. Và anh cũng đã từ trần vào những năm sôi động đó trong hoàn cảnh cực kỳ bi ai trầm thống.
Thuở ấy, cái thuở “ngăn sông cách chợ”, “thắt lưng buột bụng” đến xác xơ rã rời thể xác lẫn tinh thần, người dân bị khống chế trong những biện pháp hận thù giai cấp, nào là chiến dịch đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp, văn hóa đồi trụy, truy quét đưa đi kinh tế mới v.v... mọi di chuyển xê dịch đêm ngày bị kiểm soát, phép tắc khắc nghiệt đến nghẹt thở. Tôi được bạn bè cho biết khá muộn màng anh đi thăm người con vốn là sĩ quan chế độ cũ bị Việt cộng tập trung cải tạo. Vì chứng kiến tận mắt, thấy con mình tiều tụy đói trơ xương nơi trại tù man rợ chưa từng thấy trong lịch sử dựng nước và giữ nước, anh quá đỗi xúc động chán chường và qua đời không lâu sau đó.
Tôi đoán biết có lẽ do hậu quả nguy hại của chứng áp huyết cao mà anh đã mắc phải từ lâu lắm rồi. Vì trong đôi lần gặp gỡ nhau, anh có tâm tình với tôi: nhiều khi áp huyết lên quá cao, gia đình phải buột tay buột chân anh vào thành giường để anh nằm yên bất động. Tôi không dám tìm hiểu thêm lý do gì hay nguyên nhân nào đưa đến sự ra đi vĩnh viễn của anh để thêm ngậm ngùi đau đớn trong lòng. Dẫu sao, sự mất mát đáng tiếc này đã là sự thực rồi.
Hơn nữa, cũng vì lúc ấy tôi không còn tinh thần nào để tiếp thu và phán đoán những lời đồn đãi ấy. Tôi chỉ tha thiết mong muốn sau này bạn bè thân cận đã từng chứng kiến hay thân nhân anh sẽ làm sáng tỏ thêm. Nhưng tôi thiết nghĩ cho dù có làm sáng tỏ hay không, sự ra đi của anh trong thời điểm thương đau tột cùng ấy vẫn là một mất mát lớn lao không xóa lấp được của nền văn chương học thuật và của báo chí truyền thông Miền Nam. Do ở tuổi anh, anh vẫn còn thừa công sức và nhứt là tâm trí minh mẩn để dùng ngòi viết trân quý của mình tiếp tục phục vụ đồng bào, phục vụ nhân sinh.
Làm sao tôi quên được hình ảnh người anh lớn dễ thương dễ mến ấy. Làm sao những kỷ niệm giữa anh và tôi lại có thể nhạt nhòa nhanh chóng trong tâm khảm tôi được?
Sau ngày quốc nạn tháng Tư Đen, anh vẫn trung thành khắn khít với chiếc vespa ọp ẹp màu xanh dương nhạt để làm phương tiện di chuyển đó đây trong thành phố thay tên đổi đời, đã bắt đầu có những triệu chứng nghiệt ngã, trả thù tập thể. Anh thường hay đến thăm chúng tôi tâm tình về những đổi thay của trò đời đen bạc.
Mỗi lần đến nhà tôi, anh có thói quen hỏi vợ chồng tôi:
- Sao chị?
- Sao anh?
Chỉ đôi lời ngắn gọn rồi anh giữ im lặng một hồi lâu. Nhưng tôi nhìn nụ cười chua chát nơi gương mặt uể oải bơ phờ, không còn sức sống thuở nào, đoán biết không sai niềm thất vọng chua cay nơi anh, qua cuộc đổi đời tai hại quá trầm trọng này và nhứt là qua sự lo âu sâu lắng của cuộc sống tương lai.
Trong câu chuyện giữa nhau, thỉnh thoảng anh buông ra những tiếng thở dài cay đắng, những nức nở hoàn toàn bế tắc. Trái với những lần gặp gỡ trước thảm họa tháng Tư, những câu chuyện về văn chương chữ nghĩa, về thông tin báo chí, những toan tính về in ấn xuất bản, rồi những quan hệ giữa bạn bè kẻ mất người còn, không bao giờ được anh có can đảm đề cập đến nữa. Trong âm thầm mãi mãi gậm nhấm đay nghiếm và trong niềm đau uất hận riêng rẻ của mỗi người, chúng tôi mặc nhiên ý thức rằng cái quyền tự do sinh sống cho đáng mặt người, cái quyền tự do hội họp, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do báo chí... những thứ tự do trân quý ấy đã bị bọn độc tài độc đoán tước đoạt trong thể chế lãnh đạo xích hóa tư tưởng phục vụ chế độ.
Vô hình trung, chúng tôi xem như bị bắt buộc tự mình làm lễ an táng không kèn không trống nhằm tiễn đưa để chôn vùi từ đây tất cả các thứ tự do mà mình đã được thừa hưởng trong thể chế Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi xem như đã vĩnh viễn tiễn đưa nó dưới nấm mồ của độc quyền độc tôn xã hội chủ nghĩa.
Lúc này quán cơm bình dân thường được đồng bào gọi là quán cơm xã hội của vợ chồng anh ở đường Triệu Đà trong Chợ Lớn đã bị "dẹp tiệm" từ lâu. Quán cơm này do anh lập ra và giao cho chị hoàn toàn trông nom từ những năm tháng trước 1975. Mục đích duy nhất nhằm giúp giới nghèo khó ở Đô Thành, đa số là những phu xe xích lô, xe ba bánh cùng nhân công các hảng xưởng lân cận và ngay cả sinh viên lận đận có bữa cơm trưa và chiều với giá phải chăng, vừa với túi tiền của họ. Bây giờ tìm đâu mỗi ngày mấy bao chỉ xanh gạo khi chánh sách “ngăn sông cách chợ” của cộng sản được ban hành và được kiểm tra chặt chẽ ngặc nghèo.
Anh quá đổi thất vọng. Nhưng sự thất vọng của anh được nhân lên gấp bội khi anh cộng thêm cái quyền cầm bút chuyên nghiệp bị tước đoạt, bị cấm đoán trong khi anh hoài công xuôi ngược giữa lòng thành phố đổi họ thay tên, mong tìm một phương kế sinh nhai trong tiếng thở dài. Lúc này quả thật đời sống của anh vất vả lắm. Chứng bệnh áp huyết cao không được theo dỏi thuốc men thường xuyên và đầy đủ do phần tài chánh eo hẹp đã đành mà còn vì loại thuốc này đắc giá lại khan hiếm dần.
Một nỗi buồn nằng nặng ám ảnh tôi luôn. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 làm tiêu tan bao Nhiêu chương trình dự định mà chúng tôi ấp ủ cưu mang từ nhiều tháng trước và đang trên đà hoàn tất. Đó là bộ "Phi Vân Toàn Tập" gồm những tác phẩm chính vừa kể trên như Đồng Quê, Dân Quê, Tình Quê, Cô Gái Quê cùng một số bài viết chọn lọc như truyện ngắn, tùy bút, tạp ký, chuyện vừa v.v... mà ít người biết đến do tác giả ký dưới nhiều bút hiệu khác nhau.
Tôi đã chuẩn bị chu đáo xong một bản tiểu sử của anh Phi Vân khá đầy đủ và chính xác. Bản tiểu sử này đã được chính anh thận trọng duyệt kỹ lưỡng, thêm thắt bổ sung với những chi tiết về thân thế cũng như về sự nghiệp mà đến nay xem như chưa hề được công bố. Thêm vào đó còn có hình ảnh cá nhân qua nhiều thời kỳ và những ảnh lưu niệm gia đình phong phú. Nhưng tất cả đều bị thiêu hủy cùng chung số phận với nhiều bản thảo giá trị của các tác giả khác trong những chiến dịch đánh tư sản mại bản, kiểm kê tài sản và "chống văn hóa đồi trụy" dồn dập của cộng sản nơi thành Hồ.
Những bản thảo văn thơ và nghiên cứu giá trị của cụ Thuần Phong, của giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy, của nhà biên khảo sử học Nguyễn Văn Xuân, của các cụ Vương Hồng Sển, thi sĩ Quách Tấn xứ Trầm Hương, sử gia kiêm giáo sư thỉnh giảng ban Sử thuộc Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cụ Lê Thọ Xuân qua tác phẩm đồ sộ về địa danh Miền Nam, nhà văn Nguyễn Hiến Lê, học giả Bùi Đức Tịnh, giáo sư Nguyễn Văn Hầu của Viện Đại Học Hòa Hảo... đều chung số phận bị thiêu hủy phũ phàng trong cơn lốc của ngọn lửa bạo tàn hận thù giai cấp.
Tôi quên ghi chú thêm là anh Phi Vân còn là tác giả quyển "Nhà Quê Trong Khói Lửa" viết trong khi anh tham gia kháng chiến những năm đầu thời Nam Bộ chống xâm lăng. Theo anh kể thì quyển này đã được giải thưởng văn học ở chiến khu do ông Hoàng Xuân Nhị làm Chủ tịch Ban Chấm giải. Tuy nhiên từ dạo ấy đến nay, hơn nửa thế kỷ qua, tôi chưa từng thấy phổ biến tập sách này, ngay cả tựa sách, cho dù sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm.
Anh còn cho biết thêm anh cũng là tác giả hai tiểu thuyết dài đã được đăng hằng ngày trên các nhật báo ở Sài Gòn thuở anh vừa bước chân chập chững vào chốn văn chương báo chí. Nhưng anh cố công tìm kiếm mãi, chẳng bao giờ được mãn nguyện. Hoặc giả anh không toại nguyện lắm về những tiểu thuyết này so với các tập truyện đã được trình làng chăng?
Anh tên thật là Lâm Thế Nhơn, sanh năm 1917 tại Cà Mau thuộc tỉnh An Xuyên trong một gia đình trung lưu. Là nhà văn nhà báo chuyên nghiệp, anh cộng tác với nhiều tạp chí văn học và nhứt là nhựt báo quan trọng như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Thủ Đô Thời Báo, Bình Minh, Cấp Tiến... Anh mất tại Sài Gòn vào ngày 11 tháng 1 năm 1977 theo tài liệu của nhà biên khảo Nguyễn Thiên Thụ trong Văn Học Sử Việt Nam - Văn Học Hiện Đại, tập IV do Gia Hội xuất bản ở Canada năm 2006.
Có một sự trùng hợp lý thú về danh tánh giữa anh với một nhà văn nổi tiếng khác là Đoàn Thế Nhơn. Nhà văn này hiện định cư ở Mỹ. Anh Đoàn Thế Nhơn chẳng ai khác hơn là nhà văn lớn Võ Phiến, một cây đại thụ trong chốn văn chương chữ nghĩa trong nước trước đây và ở hải ngoại sau này.
Một sự ngẩu nhiên là hai nhà văn tên tuổi cùng tên thật là Thế Nhơn. Một người là Lâm Thế Nhơn lấy bút hiệu là Phi Vân tức "Mây Bay", đã ra đi về cõi vĩnh hằng. Một người là Đoàn Thế Nhơn với bút hiệu Võ Phiến, đảo ngược lại là "Viễn Phố" báo trước một giai đoạn lưu đày xa xôi cuối đời! Giống như trường hợp của lãnh tụ Bình Xuyên Lê Văn Viễn, vì mang tên Viễn nên bỏ thây nơi đất lạ quê người.
Nhớ Phi Vân, nếu tôi thiếu sót không nói thêm Phi Vân không phải là lý thuyết gia chỉ lối dẫn đường hay một nhà văn dấn thân xu thời thế. Anh không phải là một cây viết bị ràng buộc trong khuôn khổ gò bó theo một mẫu mực qui định. Anh không sáng tác theo đơn đặt hàng dưới sự chỉ đạo như những tác giả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Đồng Quê, Dân Quê... không có tham vọng dẫn dắt dư luận thế hệ mình phải làm gì và xã hội thời mình hướng về đâu theo một chủ thuyết cố đỉnh nào đó. Nếu anh có xu hướng cổ vũ một tập thể nhỏ bé nơi thôn làng quê mùa hẻo lánh trổi dậy chống lại những bất công áp bức đương nhiên phải có, dù ở bất cứ xã hội nào hay thời đại nào, tôi nghĩ đó chỉ là một phản ứng của lương tâm, một khắc khoải trong thời điểm nhất định mà thôi.
Vì anh không thể dửng dưng trước nghịch cảnh bất công. Vì anh không thể dưng dửng trước những thay đổi trong nước, đặc biệt là ở nông thôn xa xôi mà sức mạnh đồng tiền và quyền thế lấn át tất cả.
Anh chỉ là một họa sĩ phác vẽ bức tranh quê để qua màu sắc thắm tươi độc đáo, đường nét đậm đà quyến rủ, người xem có một ý niệm khá chính xác về xã hội thời đó. Anh cố gắng ghi lại một cách trung thực để lưu hậu thế khung cảnh quê hương nay không còn nữa, những tình tiết trạng huống về phong tục tập quán, về mê tín dị đoan, về hội hè đình đám, những cái đó qua ngôn ngữ đặc thù địa phương đất Nam Kỳ Lục Tỉnh đã mất húc trong dĩ vãng.
Đúng như anh viết trong lời tác giả tập sách Đồng Quê:
“Hình ảnh những nhân vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung – ngày nay đã mờ trong ký ức “Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: vẽ một bức tranh phong tục và tập quán.
“Thật là quá cao vọng !»
Nhưng tất cả những cái không còn đó, những cái mất mát đó phối hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo nên kho tàng văn chương Nam Kỳ Lục Tình vô giá. Nó giúp rất nhiều cho những nhà nghiên cứu về nhân chủng học và xã hội học Việt Nam về sau.
Nhắc nhớ, thăng hoa hồn đất, hồn người lãng đãng trong hồn thiêng sông núi, khơi dậy thời quá khứ xa xôi với ước mơ tìm về cảnh địa, thổ địa, tìm về sinh hoạt truyền thống dằng dặt ẩn hiện bao nhiêu phong tục tập quán xưa, tôi nghĩ Phi Vân không hề thụ động. Anh không ngừng lại ở hiện tại.
Trái lại, tác giả tích cực hướng ngòi bút mình thực sự trở về với căn cơ, gốc tích, cội nguồn. Tôi có thể nói một cách trang trọng là Phi Vân quả đã đóng góp và đã thành công làm sáng danh vùng đất chôn nhau cắt rún của anh. Anh đã tích cực giúp khám phá trở lại nhân diện và giá trị đích thực của nó, bàng bạc trong tinh anh tú chất của dòng giống Rồng Tiên muôn đời muôn thuở vậy.
Nền văn hóa nông thôn đồng ruộng bề ngoài tưởng như thô sơ tầm thường, không tinh không nhả. Nhưng những nhà quan sát nghiêm túc trên thế giới chú tâm nghiên cứu và phát hiện nhiều khía cạnh đa dạng, vừa sắc sảo tinh tuyền, vừa uyển khúc thâm sâu.
Những thánh truyện, truyện thần tiên, truyện hoang đường, truyền kỳ, chuyện đời xưa, chuyện giải buồn, chuyện châm biếm, những chuyện kể dân gian nói chung, gói ghém, hàm chứa những phong tục tập quán, những suy nghĩ, những ước vọng thiết tha của một nhóm người vào một thời điểm nhứt định nào đó v.v... Tất cả kết hợp nhau nhằm bảo tồn và phát huy ngày thêm phong phú ký ức và kỷ niệm tập thể của một vùng đất.
Trong chiều hướng đó, Phi Vân đến rất gần với nhận xét của thi sĩ Patrice de la Tour du Pin của Pháp. Ông sinh ở thủ đô Paris năm 1911, được giới văn gia thi sĩ biết tới qua bài thơ "Les Enfants de Septembre" ấn hành năm 1931 lúc vừa mới hai mươi mốt tuổi. Hai năm sau, ông in thi tập "La Quête de Joie" và sau thế chiến thứ hai, ông lại in tiếp tác phẩm "Une Somme De Poésie" (1946).
Chính trong bài "Dẫn Nhập" thi tập sau cùng này, ông có viết:
"Tous les pays qui n'ont pas de légende
"Seront condamnés à mourrir...".
Do ám ảnh này, nhiều nhà văn trên khắp thế giới đã suy tư gắn bó, cột chặt sự nghiệp văn chương của mình vào ký ức tập thể đó. Những trường hợp điển hình không sao kể xiết và được giới hậu sanh nhắc nhớ luôn.
Miền Nam, sau lớp các nhà văn một thời chói sáng trên văn đàn như cụ Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), nhà văn nhà báo Phi Vân Lâm Thế Nhơn, nhà chơi đồ cổ Vương Hồng Sển, nhà biên khảo đất Nam Kỳ Nguyễn Văn Hầu v.v... phải kể đến Sơn Nam Nguyễn Minh Tây, người đã có công đưa sông nước đồng quê Miền Nam lên đỉnh cao của nghệ thuật qua các tác phẩm nổi danh như Hương Rừng Cà Mau, Vọc Nước Giỡn Trăng, Tìm Hiểu Đất Hậu Giang, Văn Minh Miệt Vườn... và gần đây Một Mảnh Tình Riêng, đầy màu sắc địa phương, đặc thù về cảnh thổ và tình người.
Ngay ở Âu Mỹ và ngay ở thời đại tân tiến hiện tại, không thiếu gì tác giả đã giành cả một đời để ghi lại những gì đã mất nơi quê hương họ. Và đây chính là những công trình thầm lặng đóng góp vào bước tiến vững vàng trong sáng của mỗi quốc gia và của cả nhân loại.
**
Những giòng hoài niệm nào đều cũng như nhau, phảng phất chất chứa một nỗi buồn riêng. Đôi khi chỉ mình ta cảm nhận.
Nỗi buồn tưởng tiếc những người đã để lại nơi lòng mình bao nhiêu nghĩa tình, trong từng nỗi buồn vui do cuộc sống vô tình đẩy đưa tới tấp đến chóng mặt.
Nỗi buồn hồi nhớ để cố gắng vẽ lại trung thực chân dung những người đã trực tiếp tham gia đóng góp, chia xẻ với mình những thôi thúc cô đơn chán chường, những thăng trầm vinh nhục đã qua, hòa lẫn với nỗi trầm thống tận cùng và niềm hãnh diện tự hào chung của dân tộc.
Nỗi buồn bùi ngùi đứng trước thực tế phũ phàng của ngày hôm qua và của hiện tại, những khuôn mặt thân thương hay quen biết ít nhiều đã đi qua đời mình, kẻ trước người sau đều từ giã cuộc đời, từ giã cuộc chơi nhân thế để miên viễn đi vào vùng thiên thu siêu thoát. Như những tuyến sông lạch nước rải rác khắp đó đây đến những khúc quanh rẽ nhánh chia dòng bớt đi lưu lượng nguồn nước.
Tuổi trẻ của tôi mới đó với khung cảnh đầm ấm của ngôi trường Pétrus Ký nguy nga tráng lệ bậc nhứt Miền Nam, nơi có những dãy lầu nội trú hai tầng kiên cố thách thức gió sương, với những thầy cô hy sinh tận tụy, một lòng một dạ chăm lo dìu dắt thế hệ mới tấn lên của chúng tôi… những khung cảnh đầm ấm đó không mấy chốc bay vèo theo năm tháng.
Nay tóc muối tiêu, tuổi xế chiều, chân mỏi gối dùng, trong thầm lặng ngoái nhìn lại những chặn đường đã qua mà nghe lòng thêm xao xuyến nghẹn ngào. Lòng càng dằng dặt bao đắng cay tủi nhục liên tiếp bủa vây từng bước trong kiếp sống lưu vong.
Nếu trong đời, nhiều lúc đối diện với chính mình, tôi từng cám ơn Cha tôi đã ban cho tôi mảnh hình hài không thô không lịch nhưng tràn đầy sức sống và âm thầm mặc nhiên đã mớm thêm cho tôi ý nghĩa cuộc sống để hăm hở hy vọng chào đón tương lai.
Nếu tôi đã từng hoen tròng lặng lẽ cám ơn Mẹ tôi đã khổ cực cưu mang ban cho tôi hơi thở đầu đời và tiếp tục hy sinh, chắt chiu săn sóc, dưỡng nuôi tôi qua dòng sữa thương yêu trắng ngần, tinh tuyền thanh khiết.
Thì hôm nay, một mình lặng lẽ ngồi đối diện với chính mình dưới ngọn đèn bàn giấy không được sáng tỏ, tâm thần lắng đọng trong vắng vẻ quạnh hiu, tôi cũng xin cám ơn Trường xưa Thầy cũ, cám ơn bạn bè trang lức thuở tuổi hồn nhiên mộng mơ. Những tâm hồn trong trắng, cửa lòng luôn rộng mở này, đã tuần tự mang đến tôi bao nguồn vui tuổi trẻ, rộn rả tiếng cười yêu đời, từ ấy mãi đến bây giờ.
Tôi cũng xin cám ơn các văn nhân thi sĩ đã có dịp góp mặt trong cuộc sống và cuộc đời tôi để qua lời văn tim óc, qua ngôn ngữ của thi ca, qua lời hay ý đẹp đã vĩnh viễn cột chặt tâm hồn tôi vào dải đất Quê Hương mến yêu và duy nhứt này của tôi.
Tôi cũng xin đặc biệt cám ơn anh Phi Vân, người trước tiên giúp tôi thấm thía nét đẹp tuyệt vời của bản quán xóm làng, của nông thôn đồng ruộng, thơm nồng mùi rơm hương rạ. Anh cũng giúp tôi được dịp thấm đẫm tình cảm tinh ròng đối với nơi chôn nhau cắt rún cố thổ. Nơi mà mỗi con người tôi gặp gỡ lan man đâu đó trên bờ ao kinh rạch, bên liếp mía vồng khoai luống mì, ven đường mòn quanh co uốn éo tận chân trời xa thẳm... cứ vừa là lạ nhưng lại vừa quen quen. Tựa hồ như tôi đã năm lần bảy lượt đối diện chuyện trò, tựa hồ như tôi đã bao phen tâm tình thân mật trước đây lâu rồi.
Tôi lại trở về lặng lẽ, nhớ quê hương, lòng ray rứt trong cái khoảng trống không hiện tại của cuộc đời lưu lạc. Nhưng cũng may, niềm đau ray rứt ấy đôi khi mang đến tôi một chút an ủi vỗ về, thoáng ẩn thoáng hiện, đã có ma lực xoa dịu phần nào tâm tư tình cảm tôi.
Mới hay sự gắn bó với làng quê thôn xóm, bà con láng giềng, tha thiết với mỗi bến sông vàm nước, eo vịnh kinh mương, mỗi ánh nắng sớm chói chang lung linh huyền diệu, mỗi ngọn gió chiều hiu hiu se lạnh, từ chiếc lá khô úa vàng nằm im thin thít trên mặt nước ao bèo đến con cá lìm kìm thon thon nhỏ nhắn se sẽ ve vẫy đuôi làm chao động ngọn cỏ non, từ cây xoài cà lăm tróc gốc oằn nhánh say trái chua lè đến ngôi nhà từ đường xưa với nhiều thế hệ tiếp nối dóc tâm xây dựng, bất chợt tôi mang máng nhớ, tôi mang máng thấy đâu đây... phảng phất hồn đất, hồn người hòa cùng nhịp điệu của muôn tiếng reo vui của thiên nhiên, của lịch sử. Thật là linh diệu biết dường nào!
Nơi đây tôi xin ghi lại những vần thơ tôi viết cách đây hơn mười lăm năm nhưng nay trong hoàn cảnh hoài niệm nhớ nhung vẫn thấy thích hợp để tạm nói lên phần nào một chút ngậm ngùi thổn thức, một chút sắt son gắn bó đối với đất nước quê hương nơi xứ lạ quê người.
Lòng Vẫn Vương Mang
Không Xuân trang điểm xác pháo hồng,
Không mai vàng thắm trải non sông,
Không câu đối đỏ rồng phượng múa
Lòng vẫn vương mang nỗi nhớ nhung.
Không cau thiu ngủ cạnh sân đình
Không ngọn mưa rào đất nước xinh,
Không tiếng bịp kêu bờ bến vắng,
Lòng vẫn vương mang một khối tình.
Không cánh cò xa điểm trắng cành,
Không hàng dừa lửa ngắm sông xanh,
Không bóng thuyền câu soi trăng bạc
Lòng vẫn vương mang giấc mộng lành.
Không ga hoang vắng rít tàu chiều,
Không khói hoàng hôn mái tranh xiêu,
Không người viễn khách ôm trăng hận,
Lòng vẫn vương mang kiếp hẩm hiu.
Không áo thướt tha ngọn gió đùa,
Không cầu lắt lẻo bắt mương xưa,
Không bến quạnh hiu đò lỡ chuyến,
Lòng vẫn vương mang giọt lệ thừa.
Bềnh bồng biển Thái chiếc thuyền con,
Ly hương phiêu bạt mấy xuân tròn,
Kinh hoàng đeo đẳng đau trang sử,
Lòng vẫn vương mang chút sắt son.

                                                                                                                Võ Phước Hiếu

 

Trich 
VÕ PHƯƠC HIẾU-HIẾU ĐỆ * NGÀN SAO LẤP LÁNH

 

CHUYẾN ĐI MỸ

Chuyến đi Mỹ của ông Phúc làm giảm bớt sự lo lắng về Biển Đông




Tàu sân bay củ Hải quân Hoa Kỳ USS Carl Vinson.

Chuyến đi thăm Mỹ của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc không có tính đột phá, nhưng lại mở ra triển vọng hợp tác quốc phòng, giúp giảm bớt sự lo lắng về xung đột Biển Đông, một chuyên gia hàng đầu của Việt Nam cho biết.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, tại Tòa Bạch Ốc, ngày 31/5/2017.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, tại Tòa Bạch Ốc, ngày 31/5/2017.
Giáo sư Tương Lai nhận định về chuyến thăm Mỹ ba ngày của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc kết thúc ngày 31/5 như sau:
“Chuyến đi không có những thành công manh tính đột phá nhưng mở ra những triển vọng tương đối tốt đẹp.”
Chuyến đi không có những thành công manh tính đột phá nhưng mở ra những triển vọng tương đối tốt đẹp.
Theo ông Tương Lai, các triển vọng đó là tăng cường hợp tác quốc phòng song phương, như Mỹ quyết định chuyển giao tàu tuần tra cho Việt Nam, nhằm tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển, và đặc biệt “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ quan tâm tới việc tiếp nhận thêm trang thiết bị quốc phòng, bao gồm các tàu tuần tra cho lực lượng cảnh sát biển Việt Nam.”
“Trong tuyên bố chung nêu nhiều yếu tố cho thấy rõ mong muốn thúc đẩy mạnh mẽ hơn mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, đặc biệt quan hệ quốc phòng, quân sự theo chiều hướng Mỹ giúp Việt Nam nâng cao năng lực kiểm soát vùng biển của mình, còn Việt Nam thì sẵn sàng mua tàu tuần tra biển của Mỹ.”
Binh lính Việt Nam tại quần đảo Trường Sa
Binh lính Việt Nam tại quần đảo Trường Sa
Giáo sư Tương Lai cũng lưu ý một chi tiết quan trọng trong tuyên bố chung Việt – Mỹ: “Hai nhà lãnh đạo trao đổi về khả năng tàu sân bay Hoa Kỳ thăm cảng Việt Nam và các biện pháp tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các lực lượng hải quân hai nước.”
Tuyên bố “hợp tác hơn nữa giữa hải quân hai nước”, theo nhận định của ông Tương Lai, phần nào làm giảm đi nỗi lo lắng việc Hoa Kỳ có khả năng “đi đêm” với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, nơi cả Việt Nam và Trung Quốc đều có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.
“Ông Trump không chủ trương xoay trục sang châu Á như ông Obama, nhưng qua thông cáo chung giữa hai nước và qua thái độ đón tiếp ông Nguyễn Xuân Phúc một cách trọng thị, thân tình, thì tôi đánh giá rằng mối lo đối với tình hình Biển Đông, đối với âm mưu của Trung Quốc, đối với việc Mỹ có khả năng đi đêm với Trung Quốc phần nào giảm bớt.”
Mối lo đối với tình hình Biển Đông, đối với âm mưu của Trung Quốc, đối với việc Mỹ có khả năng đi đêm với Trung Quốc phần nào giảm bớt.
Một chi tiết nữa trong tuyên bố chung, mà theo ông Tương Lai, là rất đáng chú ý: “Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo tự do hàng hải, hàng không, và các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác; bày tỏ lo ngại về tác động bất ổn mà những hạn chế bất hợp pháp đối với tự do trên biển gây ra đối với hòa bình và thịnh vượng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.”
Ông Tương Lai nói rằng mặc dù bản tuyên bố chung “không điểm mặt chỉ tên Trung Quốc” trong tranh chấp Biển Đông, nhưng thể hiện rõ quan điểm của Mỹ:
Tuyên bố chung của hai bên không nói nhiều đến Biển Đông, nhưng nói nhiều đến vấn đề hợp tác quân sự. Quân đội Mỹ lưu trữ những thiết bị vật tư y tế trên lãnh thổ Việt Nam để có thể sử dụng ngay khi cần thiết. Nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do hàng hải, hàng không, và các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác. Tôi đặc biệt lưu ý việc hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh các bên cần kìm chế, không có các hành động có thể gây gia tăng căng thẳng, như việc quân sự hóa các cấu trúc có tranh chấp. Tuy không điểm mặt chỉ tên, nhưng ai cũng biết, đó là hành động ăn cướp của Trung Quốc, đang gây căng thẳng ở Biển Đông và xâm phạm quyền chủ quyền của Việt Nam và vi phạm luật pháp quốc tế.”
Đoàn các nhà lập pháp Hoa Kỳ do TNS John McCain dẫn đầu đến thăm tàu USS John McCain tại quân cảng Cam Ranh, Khánh Hòa, ngày 2/6/2017. (Ảnh Người Lao động)
Đoàn các nhà lập pháp Hoa Kỳ do TNS John McCain dẫn đầu đến thăm tàu USS John McCain tại quân cảng Cam Ranh, Khánh Hòa, ngày 2/6/2017. (Ảnh Người Lao động)
Ngoài ra, vị giáo sư 81 tuổi này còn cho rằng Mỹ thể hiện rõ quan điểm có trách nhiệm trong vấn đề Biển Đông:
“Khi mà bản tuyên bố nói rằng Tổng thống Trump nhấn mạnh việc Hoa Kỳ tiếp tục cho các tàu và máy bay di chuyển, hoạt động tại bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép – điều đó thể hiện rằng Mỹ có thái độ trách nhiệm đối với vấn đề Biển Đông, Mỹ không làm lơ trước những hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.”
Ông Nguyễn Xuân Phúc là nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên thăm Tòa Bạch Ốc kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức vào tháng Giêng. Đài truyền hình CNBC nói rằng Hà Nội có thể nổi lên như một nhân tố chủ chốt trong nỗ lực dài hạn của chính quyền Mỹ về Đông Nam Á, nhắm mục đích hóa giải ảnh hưởng của Bắc Kinh trong Biển Đông.
Trong một diễn biến liên quan, tại diễn đàn Đối thoại Shangri - La hàng năm ở Singapore vào ngày 3/6, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis nói việc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông làm suy yếu sự ổn định của khu vực và cáo buộc Trung Quốc coi thường lợi ích của các quốc gia khác và không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Trang Zing.vn cho biết Việt Nam không tham dự cấp bộ trưởng nên không phát biểu tại phiên toàn thể tại Đối thoại Shangri-La 2017.
Tuy nhiên, thứ trưởng Bộ Công an, Thượng tướng Bùi Văn Nam, đại diện Đoàn Việt Nam nêu quan điểm để giải quyết xung đột trên Biển Đông như sau: “Tại Đối thoại Shangri-La lần này, Việt Nam tiếp tục trao đổi với mọi đối tác có liên quan để thống nhất mọi vấn đề trên biển được giải quyết bằng luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích chủ quyền của nhau, giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Đồng thời, chúng ta cũng tạo sự tin cậy và tăng cường hợp tác, tránh hiểu lầm và cố gắng để các nước gần nhau hơn”.





No comments:

Post a Comment