Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Friday 31 May 2019

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái

Thủ phạm gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 là ai?

Cập nhật lúc 23:18, Thứ Tư, 26/10/2016 (GMT+7)
Gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết cho rằng chính Việt Minh là thủ phạm gây ra nạn đói năm 1945.
Trại Giáp Bát (Hà Nội) - nơi tập trung những nạn nhân đói năm 1945.
Trại Giáp Bát (Hà Nội) - nơi tập trung những nạn nhân đói năm 1945. Ảnh tư liệu
Có những bài viết cho rằng do Việt Minh lấy gạo để cung cấp cho quân đội Trung Hoa Dân quốc, cũng có ý kiến nói rằng do Việt Minh xúi người dân làm loạn nên việc cứu đói không thực hiện được(?). Trong một bài viết, tác giả Trần Gia Phụng ở Mỹ cho rằng: “Việt Minh còn là tòng phạm với Pháp và Nhật trong nạn đói này làm cho 2 triệu đồng bào bị chết” (?!)…
Ai là thủ phạm?
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp không những không bảo hộ được nhân dân Việt Nam như họ vẫn thường rêu rao mà còn từng bước đầu hàng và dần dần cấu kết với phát xít Nhật để đàn áp người Việt. Nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, vừa bị thực dân Pháp đàn áp, vừa bị phát xít Nhật hành hạ.
Từ khi đặt chân đến Đông Dương, phát xít Nhật thi hành hàng loạt chính sách đánh vào nền kinh tế: buộc thực dân Pháp phải ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương thực, giao nộp lúa, gạo cho Nhật hàng năm; cấm vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, đặc biệt là chính sách bắt dân nhổ lúa trồng đay lấy nguyên liệu phục vụ cho chiến tranh... đã đẩy nhân dân Việt Nam đến nạn đói thảm khốc năm 1945. Công trình nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của GS.Văn Tạo và GS.Furuta Moto (người Nhật) đã chỉ rõ: chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên.
Trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án và nhắc lại sự kiện bi thảm này: “…Từ đó dân ta chịu 2 tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói”. Bác sĩ Ngô Văn Quỹ trong một tham luận về nạn đói đã cho biết: “Cuối năm 1944, quân số của Nhật ở Bắc kỳ đã lên tới gần 100 ngàn người. Bắc kỳ lúc đó đã thiếu gạo, vì 3 trận bão tàn phá các tỉnh: Nam Định, Thái Bình, Hải Dương và Bắc Ninh, làm cho vụ mùa bị thất thâu, lại bị cái họa phải nhổ lúa để trồng cây công nghiệp cho Nhật, nay lại phải nuôi thêm 100 ngàn miệng ăn của quân đội Nhật”.
Ngoài các chính sách tô thuế, Nhật còn đưa ra “chương trình kinh tế chỉ huy” để thực hiện một cách triệt để chủ trương phát xít của mình. Bắt đầu từ ngày 6-5-1941, Nhật buộc Pháp ký một hiệp ước kinh tế yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hàng năm, năm sau cao hơn năm trước và có năm lên tới 1,2 triệu tấn như năm 1943. Năm 1944, mặc dù mất mùa nhưng Pháp vẫn phải cung cấp cho Nhật 900 ngàn tấn. Ngoài ra, Nhật còn cho Pháp xuất khẩu gạo sang các nhượng địa của Pháp ở Trung Quốc. Tham luận của bác sĩ Ngô Văn Quỹ cũng cho biết ngay trong năm 1945, tức lúc nạn đói lên đến đỉnh điểm, vậy mà theo các tài liệu chính thức của Pháp - Đông Dương đã thu hoạch được 2,7 triệu tấn thóc, trong khi ước tính nhu cầu của nhân dân chỉ là 1,6 triệu tấn; vậy là vẫn còn dư ra 1,1 triệu tấn. Và ông khẳng định: “Thừa thóc, thừa gạo mà để dân chết đói đến 2 triệu người, trước lịch sử, đây quả là một tội ác “trời không dung, đất không tha”.
Thu gom xác người dân bị chết đói trong nạn đói lịch sử 1944 - 1945.
Thu gom xác người dân bị chết đói trong nạn đói lịch sử 1944 - 1945. Ảnh tư liệu
Tác giả Yoshizawa Minami cũng cho biết: “Ông Kawai đảm nhiệm công việc giám sát chuyển gạo từ Nam ra Bắc qua tỉnh Nam Định, đồng thời là quản lý chung về gạo dự trữ, phân phối trong tỉnh, nói có những nơi vẫn còn gạo chất như núi trong kho quân đội (…). Ông đã thuyết phục cán bộ Đại sứ quán Nhật Bản mở kho phát gạo nhưng họ không nghe”. Còn nghiên cứu của GS. Văn Tạo cho biết Thống sứ Bắc kỳ chủ ý gây ra nạn đói này cho Việt Nam để thực hiện mục đích kép là chính trị và kinh tế. Mục đích chính trị là “hãm bớt nhiệt tình yêu nước” của nhân dân Việt Nam; mục đích kinh tế là để một vài công ty của Pháp, Nhật mua gạo giá rẻ và bán giá cắt cổ cũng như để dễ dàng tuyển mộ cu ly cho các đồn điền, hầm mỏ.
Ai cứu giúp người dân Việt Nam trong thảm cảnh này?
Xin thưa, không phải Pháp, chẳng phải Nhật, cũng chẳng phải triều đình hay Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập vào đầu năm 1945, mà chính là Việt Minh. Ngày 2-9-1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra mắt quốc dân đồng bào. Một ngày sau đó, ngày 3-9-1945, Chính phủ họp phiên đầu tiên. Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là cứu đói để vực dậy một dân tộc đã và đang trải qua nạn đói kinh hoàng. Trong phiên họp đầu tiên này, Chính phủ đã thống nhất với đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về 6 nội dung cấp bách phải thực hiện, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là phát động tăng gia sản xuất, mở các cuộc lạc quyên để chống nạn đói.
Một trong những việc làm đặc biệt có ý nghĩa của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa là tổ chức lạc quyên cứu đói để kịp thời dập tắt nạn đói. Với quan điểm “chống đói cũng như chống ngoại xâm”, cùng với quá trình khẩn cấp cứu đói, để đảm bảo giải quyết căn cơ và triệt để nạn đói, Chính phủ phát động toàn dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Phong trào tăng gia sản xuất diễn ra sôi nổi trong khắp cả nước, kể từ Chủ tịch Chính phủ đến mọi cán bộ cao cấp của Đảng ngoài giờ làm việc chính thức đều tham gia. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, phong trào tăng gia sản xuất đã thu được kết quả to lớn. Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục, nạn đói được đẩy lùi, đời sống của nhân dân, đặc biệt là nông dân dần ổn định. Chỉ trong 5 tháng từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946, sản lượng lương thực, chủ yếu là màu đạt tương đương 506 ngàn tấn lúa, đủ đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Đến hết năm 1946, nạn đói đã cơ bản đã được giải quyết.
Nhà sử học Lê Thành Khôi ở Pháp trong tác phẩm Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX viết về chính sách và việc làm của Chính phủ mới khi ấy để khắc phục nạn đói này: “Một nạn đói mới đang là mỗi đe dọa cận kề nhất… Nhà nước tung ra một chiến dịch toàn quốc với khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất” và “Không để hoang một tấc đất, một cánh tay nhàn rỗi”. Một nghị định được ban hành sẽ trao đất hoang cho tất cả những ai có thể khai thác. Nỗ lực của mọi người và sự thi đua yêu nước đã dựng lại các con đê, tăng gia sản xuất các hoa màu phụ: khoai lang, ngô, sắn, đậu nành; vụ gặt tháng 5 đảm bảo lương thực cho thời gian giáp hạt”.
Cụ Vũ Đình Hòe, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và Bộ Tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trong hồi ký của mình đã đưa vào phần phụ lục nội dung bài viết của tác giả Hoàng Văn Đức, Giám đốc Nha Nông chính Bắc kỳ với tựa đề “Hai thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Theo tác giả Hoàng Văn Đức, hai thắng lợi đó là Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 và chiến dịch chống nạn đói cuối năm 1945 đầu năm 1946 với những lời lẽ thật xúc động: “…Những người đó đã chiến thắng trên đồng ruộng. Động lực giải phóng của Mặt trận Việt Minh, dân tộc Việt Nam nắm vững chủ quyền của mình. Cách mạng đã thắng nạn đói”. Trong lễ kỷ niệm một năm độc lập Quốc khánh 2-9-1946, ông Võ Nguyên Giáp khi ấy đã tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ”.

No comments:

Post a Comment